Wednesday, November 11, 2009

NƯỚC MẮT MỘT THỜI 10

**

NƯỚC MẮT MỘT THỜI (10)
(Tiểu thuyết của Nguyễn Khoa Đăng)

35.

Cũng cái năm Mùi, động tác đầu tiên mà Đội Khoảnh ra tay với gia đình tôi là tịch biên tài sản được tiến hành vào giữa một đêm rét thấu xương.
Lúc ấy, có lẽ cũng đã đến 12 giờ, gió bấc thổi như ngựa hý ngoài trời và chúng tôi đang ngủ ngon lành trong những tấm chăn bông thì bỗng giật mình vì có tiếng hét to như súng nổ ngoài sân. Mọi người vùng trở dậy, sợ run lên. Lúng túng mãi tôi mới bật được que diêm để thắp sáng ngọn đèn dầu. Và nhờ ánh sáng heo hắt của nó, chúng tôi đỡ cảm thấy sợ hơn. Cũng tại con Đốm bị tiêu diệt sớm, nếu không, nó đã báo thức sớm và chúng tôi đỡ bị hốt hoảng thế này.
- Mẹ con nhà Lân ! Dậy ngay, dậy ngay…
Tôi lập cập mở cửa bước ra. Đã thấy trước nhà, trên mảnh sân gạch không lấy gì làm rộng lắm, đèn đuốc phừng phừng,rực sáng cả một khoảng trời. Đã thấy đầy chật một sân toàn người là người, đen sì, chập chờn như những âm binh.
Chân tay tôi run lên cầm cập. Hai hàm răng cũng thế. Cứ dập vào nhau liên hồi. Biết thế là hèn nhưng tôi không làm sao kìm hãm để chúng khỏi va vào nhau được. Tôi nhìn sang mẹ tôi và em tôi cũng đều thấy thế cả. Vì phải nhận một cái rét đột ngột hay vì sợ hãi?
- Cả nhà chúng mày đứng im nghe lệnh của Đội đây !
Đội Khoảnh hắng dặng rồi lên tiếng:
-Hôm nay, ta và những đại diện của giai cấp nông dân xóm này đến đây để tiến hành kê biên tài sản của các người, chuẩn bị số liệu cho việc tịch thu, tịch biên hoặc trưng mua theo chính sách mà Đội sẽ tiến hành nay mai. Để bảo đảm trật tự cho công việc kê biên, ta dề nghị toàn bộ gia đình các ngươi, tập trung, đứng gọn vào chỗ góc sân kia, không ai được đi lại lăng xăng. Kẻ nào mất trật tự du kích sẽ gô cổ lại, nghe chưa?
Thấy chúng tôi đồng loạt đứng im như tượng gỗ, Đội Khoảnh quát lên lần nữa:
-Các người điếc cả rồi hay sao mà nghe ta hỏi lại không trả lời? Ta hỏi lại: các người đã nghe rõ chưa?
-Thưa rõ ạ !
Hình như chỉ có một mình mẹ tôi trả lời. Vậy mà Đội Khoảnh cũng cho qua. Rồi ông ta nói tiếp:
-Còn việc này nữa, nhân đây ta cũng nói luôn. Những phần của nổi như nhà cửa, nồi niêu…Đội và ông bà nông dân sẽ tự kê biên, không cần các người khai báo. Chỉ yêu cầu các người khai báo phần của chìm như vàng bạc tiền nong…Nếu các người không khai, Đội và ông bà nông dân phát hiện ra, các người không những bị tịch thu tài sản mà còn bị xử tội nữa. Các người nghe rõ không?
-Rõ ạ !
Lần này thì cả nhà tôi đồng thanh lên tiếng.
-Vậy thì nào, các đồng chí đâu, vào việc.
Đội Khoảnh vừa dứt lời, cả đoàn người đi theo ông ta lập tức rầm rập bước lên các bậc hè gạch tiến sâu vào trong nhà. Chiếc bàn học thường ngày của tôi, đám thanh niên khiêng ra đặt giữa sân cho cái gọi là tổ “thư ký” làm nơi ghi chép biên bản. Đèn đuốc sáng bừng soi rọi khắp nơi. Những người làm công việc kiểm kê đi đến đâu gặp cái gì liền xướng to lên tên cái ấy. Không khí trong nhà ồn ã, rộn ràng như một cuộc đánh cờ người.
-Ba cái giường…
Người trong nhà nói to.
-Ba cái giừơng. Ghi đi!
Người bên ngoài nhắc lại.
-Hai cái màn. Khăn nhung hai chiếc, đẹp quá chúng mày ơi. Anh Khoảnh ơi, cho em đội thử nhé.
-Khăn nhung còn mới, ghi nhanh nhanh lên, sao cứ như sên bò vậy?
Trong nhà ngoài sân đối đáp nhau rền vang. Anh đuốc đến đâu, âm thanh đến đó.
-Một con bò đực đã thiến.
-Ba con gà. Thịt một con nấu cháo đi anh Đội ơi.
-Im cái mồm đi !
Đám thư ký nổi điên lên. Từ đó liên tiếp chỉ còn nghe thấy những con số.
Trong khi cả đám vui như hội thì gia đình tôi, cứ phải đứng nghiêm như chào cờ ở một góc sân, hai hàm răng va vào nhau cầm cập.
Từ trong buồng, có người chạy ra, ghé tai thầm thì với Đội Khoảnh điều gì đó, tôi nghe không rõ, chỉ thấy, đang đứng oai phong giữa sân, ông ta hốt hoảng chạy vào nhà rồi lại chạy trở ra. Mặt hầm hầm tức giận, ông ta chỉ tay thẳng vào vào mặt mẹ tôi:
-Chúng mày gian trá. Giấu tiền vào trong hòm quần áo mà không khai báo.
Tôi nghe thấy thế thì sợ run lên mà mẹ tôi vẫn điềm tĩnh như không. Bà xăm xăm bước vào nhà rồi nói thật to :
-Đâu, tiền đâu? Tôi giấu ở đâu?
Từ trong cái hòm gỗ vẫn dùng để đựng mấy chiếc quần áo rách của gia đình tôi một cái gói nhỏ bọc vải cũ được mở ra.
-Không tiền thì là cái gì đây?
Mẹ tôi cũng chẳng vừa, bà hỏi vặn lại:
- Thì đúng là tiền rồi nhưng nó là tiền gì mới được chứ? Thưa các ông, các bà. Đây là số tiền mà người em gái tôi trên Việt Hùng mới gửi xuống cho để tôi đong mấy bơ gạo. Cả nhà tôi mấy hôm nay toàn ăn khoai lang luộc xót ruột lắm rồi! Với lại tôi để nó trong hòm của nhà tôi chứ có cất giấu vụng trộm gì đâu?
- Vậy sao khi Đội hỏi nhà mày lại không khai?
Mẹ tôi đốp lại:
-Khai, để các ông các bà tịch thu…để ngày mai chúng tôi đói nhăn răng ra à ?
Đội Khoảnh vội vã ra oai, phụ hoạ:
-A, con mụ địa chủ này ngoan cố quá nhỉ ! Vậy thì chúng tao lập biên bản tịch thu số tiền này.
Thế là lại một lần nữa, mẹ tôi phải run run, loay hoay mãi với chiếc quản bút mới ký xong được chữ “Hợi”, tên tục của bà, to như con gà mái vào tờ biên bản “phạm pháp quả tang” mà lần này người viết văn bản đó vẫn cứ là tôi.
Khoảng mười hai giờ đêm, cuộc khám xét hoàn thành. Toàn bộ tài sản của nhà tôi, thượng vàng hạ cám đều được ghi đầy đủ vào hai tờ giấy xé từ vở học sinh. Đội Khoảnh đọc to lại một lần cho cả gia đình tôi nghe trước khi bắt mẹ tôi ký xác nhận.
Trước khi rút, Đội Khoảnh lại bắt cả nhà tôi đứng gọn vào góc sân để nghe ông ta huấn thị:
Từ nay toàn bộ những gì đã kê biên, gia đình không có quyền di chuyển đi nơi khác. Trái lệnh sẽ bị xử lý theo pháp luật hiện hành.
Cả nhà tôi lại một lần nữa phải cúi đầu dạ ran. Tưỡng thế là xong, ai ngờ trước khi ra về, ông ta khòeo thêm một câu nữa:
- Ông bà nông dân đang cần sức kéo, vì thế Đội quyết định trưng thu trước thời hạn con bò nhà các người đang nuôi.
Họ bắt con bò. Tôi bàng hoàng. Vậy là từ nay con bò sẽ vĩnh viễn không còn ở trong nhà tôi nữa. Nó sẽ thuộc về người khác. Người khác sẽ cày bừa nó. Người khác sẽ đánh đập, hành hạ nó. Không thể như thế được. Không thể như thế được. Tôi chạy ù xuống chuồng bò. Con bò của tôi đang nằm, nhẩn nha nhai lại. Tôi đặt tay lên trán nó. Nó dụi dụi cái sừng vào bàn tay tôi. Nước mắt tôi chỉ chực ứa ra. Chợt có tiếng quát: “Đứa nào làm gì trong chuồng bò kia”. Tôi chạy ra đứng giữa vùng ánh đuốc bập bùng. Thằng Kền nắm lấy cổ áo tôi mà lắc:
-Định làm gì với con bò, bỏ thuốc độc giết nó phải không?
Tôi không thèm trảlời. Lão Kền biết như thế là tôi khinh bỉ lão nên ngay lập tức lão vừa chửi tôi: “ A, thằng địa chủ con này hỗn nhỉ !” vừa “bốp bốp”, táng vào mặt tôi hai cú tát trời giáng. Rồi lão chạy biến đi. Tôi đứng lại. Om mặt, ức vì nhục.
Con bò được giắt đi cuối cùng. Ba thanh niên trai tráng. Một cầm đuốc soi đường. Còn lại, kẻ gò lưng kéo dây thừng như muốn giựt đứt mũi bò, kẻ đi sau dùng roi đánh liên tục vào mông nó. Con bò vẫn cứ ì ra. Nó không muốn và không chịu rời khỏi nhà tôi. Tôi nhìn theo con bò mà muốn đứt từng khúc ruột.
Con bò ra đi. Và giá nó đi hẳn để không bao giờ chúng tôi gặp lại nữa thì nỗi đau xót còn có cơ hội nguôi ngoai. Đằng này không. Tôi còn phải gặp lại nó không chỉ một mà tới hai lần và lần nào nó cũng đóng dấu chín vào lòng tôi một ấn tượng khó quên.
Lần thứ nhất xảy ra vào giữa một trưa nắng. Tôi đi trên đường, còn nó thì đang oằn lưng kéo cày ở một thửa ruộng ven đường. Lão Kền đang điều khiển, đúng hơn đang đánh nó. Hôm ấy, nếu không nhờ vào cái đốm trắng to bằng bàn tay vẫn ngự trị trên đỉnh đầu nó, chắc tôi khó lòng nhận ra, vì nó bây giờ chỉ còn là một mớ da bọc xương, dày đặc những mụn lở loét và thâm tím những lằn roi. Từ hôm rời khỏi nhà tôi đến giờ, con bò trở thành tài sản chung của cả cái xóm Quyết Thắng. Điều gì sẽ xảy ra trong cảnh “cha chung không ai khóc” này, hẳn mọi người đã rõ. Người ta đùn đẩy, chửi bới rồi đánh đập nhau vì chuyện cắt cỏ cho nó ăn và rồi lại chửi bới nhau về việc tranh giành bắt nó đi cày cho riêng mình. Trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết. Trong trường hợp này lại là người với người đánh nhau trâu bò chết. Toàn bộ hậu quả nó phải gánh chịu hết.
Nắng đã tròn bóng, lão Kền vẫn chưa chịu cho nó nghỉ, vẫn cứ tới tấp quật lên người nó hết roi này đến roi khác. Tôi đứng lại nhìn, lòng xót như xát muối. Không biết con bò do nhìn thấy tôi hoặc cảm thấy một cái gì thân quen đâu đây mà nó cứ đứng ì ra như thế kia làm cơn điên của lão Kền càng như lửa đổ thêm dầu. Thế là lão lại đánh, thậm chí đánh dã man hơn. Đánh xong, mệt quá, lão nghỉ. Nghỉ xong lại đánh. Con bò hết quay đầu sang trái lại sang phải mà vẫn không tránh nổi những trận mưa roi. Cuối cùng, nó quỵ xuống giữa luống cày, mắt trợn ngược lên, hai bên mép trào bọt trắng xoá. Lão Kền vẫn không chịu ngừng tay. Tôi không chịu nổi cảnh ấy. Thế là, một bước bằng ba bước, tôi nhảy thẳng đến trước mặt lão Kền:
-Ong không được hành hạ nó !
Tôi giằng chiếc roi tre tội ác ra khỏi tay lão. Mặt lão vốn đã đỏ bây giờ càng đỏ hơn. Hai con mắt dữ như mắt long thần vằn lên từng tia máu đo,lão thét, giọng run run :
-A, thằng địa chủ con này gớm nhỉ ! Ai bảo con bò này là của nhà mày?
Lão kêu to, cầu cứu:
-Bọn địa chủ đến cướp lại tài sản, bà con ơi.
Tiếng lão vang ra khắp cánh đồng. Những người làm đồng vội bỏ cuốc, bỏ cày chạy lại. Thấy họ đằng đằng sát khí, sợ quá, tôi cắm đầu chạy thẳng một mạch về nhà.
Đó là lần thứ nhất tôi gặp lại con bò.
Lần thứ hai, trong một trường hợp khác. Là trường hợp ngược lại. Chuyện này tôi sẽ kể sau.

36.

Vậy là toàn bộ gia sản nhà tôi, từ căn nhà gỗ lim 7 gian thuộc loại của hiếm trong làng, cái bếp ngói cũ kỹ nhem nhuốc, bồ hóng bám vào tường như keo thuốc phiện đến vườn chè, ao cá, cái chổi, cái nồi, con gà, con lợn… tất tất đều đã bị Đội kê biên. Vậy là từ nay cho đến khi nó được trưng thu, trưng mua hay tịch thu, chúng tôi chỉ có quyền trông coi chứ không được quyền sử dụng, cầm bán.
Gặp trường hợp này, chắc chắn không thể không có những người ứng xử theo cách “không được ăn thì đạp đổ” hoặc gian lận, lươn lẹo nhằm vớt vát lại chút ít tài sản vốn là của mình, do mình làm ra.
Nhưng với gia đình tôi không biết có phải do ngu ngốc mà chúng tôi không làm được điều ấy. Tôi không muốn tự mình lý giải điều này, chỉ muốn kể ra đây hai trong rất nhiều mẩu chuyện tương tự.
Đó là một hôm, nhân thấy đám trẻ con trong làng cất vó được rất nhiều tép, có đứa bán tép mua được cả cân gạo, mẹ tôi bảo chúng tôi tự làm lấy vó mà cất. Nhưng muốn có vó thì phải có vải màn. Kiếm đâu ra thứ của hiếm đó bây giờ? Nhà tôi có hai cỗ màn cũ thì đã bị kê biên cả hai rồi. Tài sản này, theo quy định của Đội, chúng tôi chỉ có quyền được dùng để tránh muỗi khi ngủ chứ không được đem làm bất cứ một việc gì khác. Chả lẽ cứ chịu cảnh “thịt treo mèo nhịn đói”, tôi bàn với mẹ tôi, đem hai cỗ màn đã kê biên, tháo bớt vải đi, biến chiếc màn đôi thành màn cá nhân, để vừa không lo Đội bắt lỗi (vì về con số, chúng tôi vẫn còn nguyên “2” chiếc màn) vừa lấy ra được mấy mét vải mà khâu vó. Mẹ tôi lúc đầu còn phản đối, sau thấy không còn cách nào khác nên đã đồng ý. Thế là, chúng tôi đã có 8 chiếc vó tôm để cất. Buổi xuất quân đầu tiên đã đem về một thắng lợi lớn: bán tép xong tôi đến cửa hàng lương thực mua về được 2 cân gạo. Bữa trưa và bữa tối hôm ấy, chúng tôi đã được một bữa cơm no . Nhưng rồi đêm ấy nằm nghĩ lại tôi thấy tôi giá không làm việc ấy thì hơn. Vì tuy là tài sản của mình nhưng dù sao mình vẫn phạm vào tội ăn gian nói dối. Hôm sau, cứ nghĩ đến điều đó là tôi lại tự ngượng với tôi. Tôi không dám đem vó ra ao cất tép nữa. Cả nhà tôi lại đói.
Đó còn là một đêm khuya khoắt, trăng sáng vằng vặc, nằm mãi không ngủ được vì chập tối chỉ toàn ăn khoai lang luộc suông, nóng ruột lắm. Tôi bàn với mẹ tôi, ra mảnh vuờn chè sau nhà bẻ lấy một nắm cành ngông để sáng sớm mai, lẻn lên chợ tỉnh, bán kiếm ít tiền đong gạo. Mẹ tôi chần chừ một lát rồi gật đầu. Chắc bà thướng chúng tôi đang tuổi ăn tuổi lớn mà ít khi được một bữa cơm no.
Hai mẹ con tôi, người trước kẻ sau lặng lẽ ra vườn. Mẹ tôi đi về phía cuối. Còn tôi ra phía bờ ao. Lúc này đang là tiết xuân, cả vườn chè xanh tươi mơn mởn. Dưới ánh trăng, lá nào lá ấy bóng nhẫy cứ như vừa ngậm nước, như đang phát sáng. Tôi đã tìm được một cây chè khá tốt, cành lá xum xuê. Nhẩm tính với cây này, tôi có bẻ đi cả chục cành thì cũng chẳng thấm tháp gì và cũng chẳng ai có thể phát hiện được.
Nghĩ thế, tôi mạnh dạn hẳn lên. Tôi quyết định hành động. Vậy mà lạ thay, khi tôi vừa vin xuống được một cành, đang định thẳng tay bẻ nó thì lại vội vã buông ra. Cành chè thoát nạn bật ngược lên cao, sương đêm rơi xuống rào rào. Tôi thấy thương cây quá. Dù gì nó cũng là một cơ thể sống. Là máu thịt, tình cảm của chúng tôi. Là nước mắt của mẹ tôi mỗi khi cây chè bị sâu cắn. Là mồ hôi của tôi, của bố tôi khi cách đây mấy hôm giữa trưa nước nóng như sôi, chúng tôi còn phải đằm mình xuống ao gánh lên từng gầu bùn để bón cho từng gốc.
Tôi thở phào nhẹ nhõm vì vừa thoát khỏi một tội ác . Đúng lúc ấy, tôi nhìn lại đã thấy mẹ tôi từ phía cuối vườn đang lặng lẽ đi lại chỗ tôi. Vừa đi bà vừa giơ tay nâng những cành chè thấp la đà lên trên đầu rồi khom người chui qua. Hình như mẹ tôi không muốn làm đau một chiếc lá.
Vừa nhìn thấy tôi mẹ tôi lào thào hỏi ngay:
- Bẻ được cành nào chưa?
Tôi lắc đầu. Gương mặt đầy ánh trăng của mẹ tôi sáng lên. Mẹ tôi khẽ reo lên:
- May quá, bu cứ lo anh…Thôi con ơi, thương lắm, tội lắm, cành chè kia nào khác gì cánh tay người, bẻ gãy nó, tội chết .
Hai mẹ con tôi cùng trở vào nhà. Và cùng vui. Lâu rồi mới lại có được một niềm vui như thế.

No comments: