VĂN CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
đã sửa chữa tháng 5 - 2010
sưu tập
VĂN CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
đã sửa chửa tháng 5-2010
copyright © 2009 by GIA HOI Publisher
MỤC LỤC
Tập I, II: Tổng luận.
Tập III:Tục ngữ, Ca dao
Tập IV. Truyện hài XHCN
2. CẦU HỒN BÁC HỒ
3. CUỘC ĐỜI CÁCH MẠNG CỦA BÁC HỒ
4.ANH EM NHÀ TÔN THẤT
5. THI VĂT SỮA
6.KẺ THÙ CỦA XHCN
7. ĐỨA CON ÚT
8. THEO ĐỨC THÁNH TRẦN
9.CẦU HỒN
10. THẢO LUẬN TRIẾT HỌC MÁC LÊ
12. NGÔI NHÀ NĂM TẦNG
13. LỊCH SỰ XHCN
14. BANG GIAO MỸ VIỆT
15. TIÊU CHUẨN GẠO
16. ĐỔI MỚI NGÔN NGỮ
17.BẦU TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG
18. NGỬI MÙI VĂN CHƯƠNG.
19. RADIO YEREVAN.
20. DI CHÚC CỦA BÁC.
"Trước lạ sau quen, đừng ái ngại". Cũng có khi chúng tôi gặp nhau trong đám giỗ, hoạc buồn mà đến thăm nhau rồi gặp thêm một số bạn mới. Người kể chuyện này, kẻ thuật chuyện kia, trong đó có thơ, vè và truyện hài về XHCN.
Cũng như bên Nga, bên Đức, tại Việt Nam nhiều người bị tù vì ghi chép truyện XHCN. Tôi cũng như họ, thích sưu tầm truyên dân gian, nhưng tôi nhớ nằm lòng, không dám chép ra giấy. Năm 1995, tôi định cư tại Canada. Tôi bèn viết tiếp bộ Văn Học Sử của tôi, đến năm 2006 thì xong, tổng cộng 30 năm, tôi đã viết xong bộ Văn Học Sử của tôi, gồm:
-Văn Học Cổ Điển 3 tập
-Văn Học Quốc Ngữ 3 tập
-Văn Học Hiện Đại 4 tập.
Năm 2006, tôi xuất bản bộ Văn Học Hiện Đại dày 2.200 trang. Trong tập I, tôi viết về Văn học bình dân hiện đại, gồm những thơ, ca, tục ngữ và truyện tiếu lâm ra đời từ 1945 cho đến nay, thu thập hơn 100 truyện ngắn về XHCN Việt Nam.
Tôi tưởng mình đã làm xong và cất gánh. Nhưng khi chuyện trò cùng các bằng hữu hoặc đọc sách báo thì thấy rằng văn chương truyền khẩu Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển với tốc độ rất nhanh. Tôi đã thu thập thành bộ "Những Con Cáo Đỏ" là những truyện về Người và Vật đã xuất bản dưới dạng" E BOOK". Sau một thời gian sưu tầm nữa, tôi quyết định tách hai. Những truyện thuộc về loài vật thì tập trung vào bộ" Những Con Cáo Đỏ". Còn những truyện ngắn khác thì lập thành một quyển riêng, nhan đề là "VĂN CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU VIỆT NAM HIỆN ĐẠI."
Bộ này gồm 999 truyện ngắn và một số tục ngữ, ca dao mới.
Văn chương truyền khẩu nước ta phản ánh những biến thiên của lịch sử Việt Nam. Nhân dân ta còn tiếp tục sáng tác văn chương truyền khẩu thì chúng ta có nhiệm vụ ghi chép và bảo tồn hình thái văn chương này.
NGUỒN GỐC
Văn học quần chúng, hay văn học nhân dân tức văn học đại chúng là một nền văn học do quần chúng nhân dân sáng tạo. Quần chúng gồm người trí thức và nhân dân lao động không tên tuổi đã sáng tạo nên ca dao, tục ngữ mới và các truyện trào phúng, mang tính hiện đại và tranh đấu.
Tự ngày xưa, chúng ta đã có văn chương truyền khẩu. Văn chương truyền khẩu Việt Nam có một sức sống mãnh liệt. Văn chương truyền khẩu còn được gọi là văn chương bình dân vì nó xuất phát trong lòng đại chúng, không ai biết tên tuổi tác giả, nhưng được dân chúng hưởng ứng trong việc sáng tác và truyền bá.
"-Trí , phú, địa, hào, Đào tận gốc, Trốc tận rễ"
-Tháp Mười đẹp nhất bông sen,
Việt Nam đẹp nhất là tên bác Hồ
Loại này không thể xếp là văn chương truyền khẩu, bởi vì nó là tác phẩm tuyên truyền của đảng cộng sản được in trong sách giáo khoa, trong các tài liệu tuyên truyền và bắt dân chúng phải tung hô, phải hát ca, phải đọc. Loại này không thuộc văn chương bình dân vì không do dân sáng tác, và dân ca hát, truyền tụng, mà đó là công trình của những cán bộ tuyên truyền mà không được dân chúng hưởng ứng.
Trong quyển Tục Ngữ Ca Dao Dân Ca Việt Nam , Vũ Ngọc Phan đã sai lầm khi xếp loại này vào ca dao, tục ngữ. Loại văn chương truyền khẩu chính thống là loại văn chương hiện nay được dân chúng bí mật sáng tác, bí mật đọc cho nhau nghe, chưa được ghi chép đầy đủ, chưa được sưu tầm và quảng bá sâu rộng trong lòng đại chúng. Chỉ một số rất ít thỉnh thoảng xuất hiện trong tiểu thuyết, báo chí. Văn chương truyền khẩu lưu truyền khắp Việt Nam nhưng thịnh phát tại miền Bắc. Ít nhất, hiện nay, mỗi người dân cũng nghe qua được một hai câu ca hoặc truyện khôi hài hiện đại, và một vài tác giả đã ghi chép một số câu, một số bài. Việc sưu tầm loại văn chương này cũng là mồ hôi và nước mắt vì nhiều người tại Việt Nam đã bị tù. vì việc sưu tầm văn chương truyền khẩu hiện đại.
Văn chương truyền khẩu hiện đại có lẽ hình thành từ 1945 qua các chặng đường lịch sử 1954, 1975 và hiện nay nó càng phát huy mạnh mẽ. Rất nhiều ca dao, tục ngữ và truyện hài không cho một vài dấu vết nào về thời gian sáng tạo. Tuy nhiên ở một vài câu, một vài truyện, chúng ta có thể thấy rõ hoặc có thể suy đoán được. Những sự thật lịch sử đã trở thành chất liệu cho văn chương truyền khẩu Việt Nam hiện đại. Hầu hết nội dung của văn chương truyền khẩu là sự kiện lịch sử đã và đang xảy ra trong chế độ cộng sản.
Lúc Việt Minh lên, khoảng 1945, quần chúng đã làm thơ, soạn truyện công kích chế độ. Để chế riễu chủ trương nam nữ bình quyền của cộng sản, người ta hóm hỉnh truyền câu ca dao:
-Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
Đàn ông nằm dưới , đàn bà nằm trên.
Sở thích của các anh "vẹm" ( Việt Minh) lúc bấy giờ là hàng ngoại ở trong khu tề và thành phố bị chiếm đóng:
-"Đồng hồ Wyler
Viết máy Parker
Nằm giường tre
Lãy vợ 'tạch tạch sè'
Đi xe đạp 'course'
Chính bề ngoài thanh nhã của các cán bộ đã làm cho bao thiếu nữ say mê, cho nên lúc bấy giờ quần chúng có lời khuyên các cô thôn nữ nhẹ dạ:
Ham chi xắc cốt, đồng hồ,
Mai họ về quê họ, họ để ba lô lại cho mình.>
Trong những năm 1953, cộng sản đã phát động giảm tô giảm tức và cải cách ruộng đất tại nhiều nơi. Đội cải cách có nhiều quyền hành, họ muốn bắt, muốn giết ai tùy thích. Do đó có câu:
"Nhất đội, nhì trời!"
Sau cải cách ruộng đất là đi vào hợp tác. Tình trạng sản xuất sút giảm vì không ai chịu làm việc:
"Xã hội chủ nghĩa, mười người khiêng một cọng rơm".
Ai cũng không tích cực làm việc vì làm việc chỉ có lợi cho cộng sản gộc:
Một người làm việc bằng ba,
Để cho cán bộ mua nhà sắm xe. . . .
Trong kháng chiến chống Mỹ, Hà Nội đã thiêu rụi bao triệu thanh niên trên đường mòn Hồ Chí Minh. Thiếu niên 15, 16 tuổi và phụ nữ phải đi lính. Người ta lợi dụng khẩu hiệu nam nữ bình đẳng dể bắt phụ nữ phục vụ chiến trường. Người phụ nữ từ đây phải sống cuộc đời sương gió:
Trai công binh như khỉ leo cây,
Gái bộ đội như giường bệnh viện.
Năm 1975, cộng sản vào miền Nam, dân chúng bỏ nước vượt biên:
Muôn điều cũng bởi vua Hùng
Sinh ra một lũ nửa khùng nửa điên.
Đứa khôn thì đã vượt biên,
Những đứa còn lại chẳng điên thì khùng.
Ngoài bắc thiếu hàng hóa, dân chúng và cán bộ ngoài Bắc đổ xô vào nam mua hàng về:
-Vội vàng vào vơ vét, vội vàng về.
-Miền nam nhận họ,
miền bắc nhận hàng."
Khoảng 1980, dân chúng đói khổ, cộng sản đánh bóng vai trò Phạm Tuân để cho người ta quên đói. Quần chúng Bắc Nam đều mai mỉa:
Mày lên vũ trụ làm gì hỡi Tuân?
Xe đạp không khóa bỏ ngay Bờ Hồ.
Quan thống chế đặt vòng xoắn."
II. ĐỜI SỐNG THỰC
VÀO HTX
Sau cải cách ruộng đất, cả nước ''đi lên'' hợp tác. Người ta vận động nông dân góp ruộng, góp tài sản làm của chung. Trước hết, Đảng kêu gọi đem trâu bò vào hợp tác, một số nông dân ngần ngại không chịu. Riêng Tư Ròm hăng hái giơ tay biểu quyết. Hôm sau, hội nghị lại kêu gọi đem gà vịt vào hợp tác.
VÈ GIÁO DỤC
Trong suốt nhiều năm, Bộ Giáo dục đặt dưới quyền Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên. Phụ tá cho ông, còn có ba Thứ trưởng: Võ Thuần Nho, Hồ Trúc và Lê Liêm.Các vị “thâm nho” trong cánh nhà giáo khoái rỉ tai nhau hai câu vè chế giễu bốn vị thủ trưởng già nua, bất tài của mình:
-Vườn ta Huyên cỗi, Nho già,
Phất phơ khóm Trúc, la đà cành Lê.
Tới khi nổ ra vụ Võ Thuần Nho giở trò lem nhem để con trai mình trốn nghĩa vụ quân sự, hai câu vè trên liền được sửa lại:
-Vườn ta Huyên cỗi, Nho tà,
Phất phơ khóm Trúc, la đà cành Lê
IV. VAY MƯỢN:
Văn chương truyền khẩu hiện đại tự nó trưởng thành, nối tiếp văn chương truyền khẩu truyền thống. Nó mang hình thái mới và nội dung mới nhưng đôi khi nó là sự vay mượn văn chương truyền khẩu cũ hay truyện hài đen ngoại quốc.
Cướp đêm là giặc, cướp ngày công an!
- Con ơi con nhớ lời này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày đảng viên.
Hai câu trên bắt nguồn ca dao cũ:
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
-Thằng ngụy mà được nói năng,
Thì thằng cộng sản hàm răng không còn
Câu này xuất xứ từ ca dao cổ:
Thì thầy địa lý hàm răng khộng còn.
Sau cuộc họp thượng đỉnh, một hôm ba ông Hồ Chí Minh, Kennedy và Khrouchtchev cùng đi dạo trên một cánh đồng. Bỗng trước mặt xuất hiện một đàn bò. Tổng thống Kennedy rút súng ra bắn ba phát, chúng nó cũng không lui bước. Chủ tịch Khrouchtchev lớn tiếng đe dọa dùng hỏa tiễn, chúng cũng không sợ. Sau cùng Hồ chí Minh bước lên nói nhỏ vào tai chúng, tất cả đều sợ hãi rút lui có trật tự. Hai ông Kennedy và Khrouchtchev ngạc nhiên hết sức, bèn hỏi: 'bác nói gì mà chúng bỏ đi?' Ông Hồ đáp: 'Tôi bảo nếu chúng không lui thì cho công an cắt hộ khẩu!'
V. SÁNG TẠO.
Tại một quán nhậu lề đường, một đám dân Sài Gòn ngồi nhậu vui vẻ. Một anh chàng nói:- Hồi nãy tao đi ngang qua bùng binh Sài Gòn thấy thằng cha Văn Vỹ lái một chiếc xe Dream mới tinh, trên xe chở một con bồ xinh như mộng. Con bồ ôm eo ếch Văn Vỹ chặt cứng, mê ly hết chỗ nói!Thằng bạn la lên: ' Mày xạo vừa vừa! Văn Vỹ mù thì làm sao lái xe Dream?'Người bạn đáp: -' Mày chẳng biết gì hết trơn hết trọi! Từ khi cộng sản vào đây, dân Nam ai cũng 'sáng mắt' hết cả, đâu còn thằng nào mù !
PHÊ VÀ TỰ PHỆ
-Chàng và nàng là hai đoàn viên thanh niên rất tích cực trong xã. Cả hai lúc nào cũng đi sâu đi sát bên nhau. Sau một thời gian tìm hiểu, cả hai đi đến hôn nhân. Ít bữa sau ngày cưới, chàng bèn cùng nàng tự phê và phê bình theo đường lối của đảng để cùng nhau tiến bộ. Chàng hỏi:-Em thấy anh có ưu khuyết điểm gì chăng?Người vợ cứ im lặng . Người chồng thuyết phục mãi, người vợ mới nói:-Anh có nhiều ưu điểm, nhưng anh cũng có một số khuyết điểm khá trầm trọng. . .Người chồng nói:-Em cứ phát biểu, anh sẽ cố gắng đấu tranh khắc phục khuyết điểm để trở thành người đoàn viên tốt.
-Anh rất tích cực, hăng hái nhưng đêm khuya nào anh cũng bắt em thức dậy khiến cho hôm sau em mệt quá không công tác gì được. . .Người chồng rất buồn, nghĩ rằng mình chiều chuộng vợ như thế mà bị phê bình. Nhưng chàng đành làm bộ vui vẻ nói:-Anh sẽ quyết tâm khắc phục khuyết điểm, sẽ không bắt em thức dậy giữa khuya.
Người vợ vội vàng nói:-Nói là nói vậy thôi. Anh cứ làm như cũ. Em thích thế! Đó cũng là ưu điểm cần phát huy!
Qua một vài dẫn chứng trên, ta thấy văn chương truyền khẩu hiện đại luôn luôn đi sát tình hình đất nước, phản chiếu nỗi khổ và bất mãn của nhân dân. Văn chương truyền khẩu đi suốt chiều dài lịch sử dân tộc, lúc nào cũng chứng tỏ một sự hiện hữu kiên cường và một tình thần sáng tạo mạnh mẽ.
1-Tục ngữ
Tục ngữ là những câu nói ngắn gọn được dân chúng quen dùng. -Nhất đội , nhì trời. -Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng -Một tháng bên Tây, không bằng một ngày Sàigon. .
2. Ca dao : Ca dao là những câu thơ ngắn, thường làm theo thể lục bát: -Thằng ngụy mà được nói năng, Thì thằng cộng sản hàm răng không còn! -Việt Minh thì tuổi đã cao,Việt cộng ốm yếu xanh xao gầy mòn.Việt kiều yêu nước còn son,Đảng yêu, đảng quý hơn con trong nhà.
3.Câu đối :
Câu đối là những câu văn, lời nói đi với nhau thành cặp song song, đối nhau về vần lẫn ý: -Trai công binh như khỉ leo cây, Gái bộ đội như giường bệnh viện. -Nam Kỳ Khởi Nghĩa mất Công Lý, Đồng Khởi vùng lên hết Tự Do.
4.Vè :
Vè là một thể thơ bình dân, gồm nhiều câu , thường là 3 câu trở lên, mỗi câu ba, bốn, năm chữ, dùng cước vận hoặc yêu vận.
Lẵng lặng mà nghe,
Nghe vè đãu tố.
Dân Việt rất khổ,
Vì lũ cộng nô,
Theo lệnh đấu tố.
Kìa con đãu bố,
Nọ vợ tố chồng.
Bắt cháu chửi ông,
Bỏ thím vào rọ,
Bỏ chú trôi sông.
Bắt bác mang gông,
Bắt bà thắt cổ
Trường Chinh đãu bố,
Ông Hồ giết chị .
Ngàn thằng như thế,
Vạn thằng như thế.
Độc ác vô cùng,
Dã man khôn kể.!
Chốn chốn xương rơi
Nơi nơi thịt đổ.
Chúng chẳng là người,
Chúng là quỷ dữ...
-Ăn quận năm,
Nằm quận ba.
Xa hoa quận nhất.
Phát đạt Tân Bình,
Lình xình Bình Thạnh.
Ương ngạnh Hóc Môn .
5.Sấm ngữ :
-Khi nao đá nổi lông chìm
Đồng khô, hồ cạn,búa liềm ra tro.
7. Giải thích các từ viết tắt
Dân ta có óc hài hước. Trước 1975, người ta đã giải thích ý nghĩa của thuốc lá CAPSTAN như sau:
"Cho Anh Phát Súng Tim Anh Nát". Tinh thần hài hước và văn chương đó còn tiếp nối sau 1975.
-XNCTHDVTN (xí nghiệp công tư hợp doanhvận tải nhẹ) : Xe này của tao họ dựt vì tao ngu.
Văn chương truyền khẩu hiện đại có một sức sống mãnh liệt và mang nhiều màu sắc. Chúng ta thấy có bốn tính chất:-Tính chiến đấu-Tính trung thực- Tính châm biếm- Tính bi đát.
I. TÍNH CHIẾN ĐẤU
Cộng sản ở tại nước Nga,
Chính danh thủ phạm tên là Lê nin.
-Ông Hồ, ông Duẩn, ông Chinh
Vì ba ông ấy, dân mình lầm than !
- Bác Nguyễn Lương Bằng, cả nước ít người lương bằng lương bác,
Ông Tôn Đức Thắng, trên đời nhiều kẻ đức thắng đức ông!
Bắt dân ta phải ra đi chiến trường.
Tuổi trẻ nát thịt tan xương,
Tuổi già tải đạn, tải lương đêm ngày.
Ngày nay theo Mỹ chẳng ai bằng mình.
Thằng làm thì đói,
Thằng nói thì no.
Thằng bò thì sướng.
Thằng bướng thì chết,
Thằng bết thì tôn,
Thằng khôn thì đập.
-Nhất thân, nhì thế, tam tiền, tứ chế.
II. TÍNH TRUNG THỰC
-Một người làm việc bằng ba,
Để cho cán bộ xây nhà, lát sân.
- Một người làm việc bằng tư,
Để cho cán bộ tiền dư thóc thừa.
-Nhà văn, nhà giáo, nhà báo, nhà đài,
Bốn nhà cọng lại bằng hai nhà nghèo.
Ăn cắp một đồng,
Thì gông vào cổ
Ăn cắp hàng tỷ,
Xử lý nội bộ.
III. TÍNH CHÂM BIẾM
-Tiền là tiên, là Phật,
Là sức bật tuổi trẻ
Là sức khoẻ tuổi già.
Là cái đà tiến thân,
Là cán cân công lý.
Tiền! Hết ý
- Bảng đỏ sao vàng,
Sang giàu bỏ đảng.
Không biết thời Lê Duẩn, hay Đỗ Mười làm tổng bí thư, có một ông khách ăn bận sang trọng vào văn phòng tổng bí thư xin gặp mặt lãnh tụ.
Ông nói rằng ông là bạn học của Tổng bí thư hồi còn nhỏ, nay qua đây xin gặp mặt cho thỏa lòng nhớ mong người bạn thân thiết thuở ấu thơ. Nghe người khách nói xong, viên trung úy phụ trách an ninh văn phòng Tổng Bí thư liền kêu lính bắt nhốt người khách vì tội làm gián điệp CIA mưu sát tổng bí thư!
Mãy nhà báo Việt Nam và Anh, Pháp, Mỹ nghe tin liền đến xin phỏng vấn vị anh hùng và là thiên tài tình báo của Việt Nam:
-Vì đâu mà ông biết ngay người khách là gián điệp CIA?
Viên trung úy ngước mắt cao ngạo trả lời:
-Tổng Bí thư có đi học đâu mà có bạn học! Rõ ràng tên kia là CIA Mỹ!
CLINTON VÀ PHAN VĂN KHẢI
Trước khi gặp Clinton, Phan Văn Khải được thầy giáo Anh Văn chỉ dẫn về căn bản Anh ngữ. Thầy giáo nói :
-" Khi thủ tướng bắt tay Clinton, thì nói:" How are you?"(Ông có mạnh khoẻ không ?). Clinton sẽ nói :" I am fine and you?" (Tôi mạnh khỏe còn ông có khỏe không?). Lúc đó thủ tướng sẽ đáp:" Me too" ( tôi cũng khỏe).
Bài dạy rất giản dị nhưng sự thực không phải thế. Khi gặp Clinton, Phan văn Khải nhầm lẫn nói:
-" Who are you". (Ông là ai?).
Clinton bực bội nhưng cố bình tỉnh trả lời một cách khôi hài rằng:"-Hà... hà... Tôi là chồng của bà Hillary".
Phan Văn Khải nói"- Me too". ( Tôi cũng thế! hà.. hà...hà...) .
Trong phòng hội lúc đó im phăng phắc, ai cũng nghe được tiếng ruồi bay.
Về nghệ thuật, phần lớn trình bày theo lối văn chương bóng bảy với ý tưởng sâu xa, kín đáo. Trong tính trào phúng này còn có một chút dâm tính theo truyền thống truyện tiếu lâm Việt Nam. Đó là truyện Thu mua nông sản phụ:
IV. TÍNH BI ĐÁT
Một số là truyện bi, vì kết thúc là đau buồn hoặc chết chóc.
Anh Thòong làm việc tại một HTX thuộc tỉnh Quảng Châu ( Trung Quốc), chuyên làm ruộng và chăn nuôi rất tích cực. Anh được vào đoàn viên thanh niên cộng sản, và được chi bộ cho phép kết hôn với một thiếu nữ khá xinh xắn. Đêm động phòng hoa chúc, anh tắt đèn và leo lên giường. Nhưng cô dâu ngăn lại, bắt anh quỳ xuống nâng quyển sách Đỏ của Mao chủ tịch đọc một trang. Chủ tịch dạy:''Người cộng sản phải đặt nhiệm vụ tổ quốc lên trên hết và gạt mọi tình cảm cá nhân''. Hai người vâng lời Mao chủ tịch, lên giường nằm ngủ, không nghĩ đến việc ân ái riêng tư. Đêm hôm sau, hai người cũng thử thời vận, cần sách Đỏ lâm râm khấn vái, bốc trúng trang:Trong thời kỳ xây dựng XHCN, thanh niên nam nữ phải thực hiện chính sách ba khoan:Lỡ quen nhau thì khoan yêu
Các đồng chí phải nắm chặt hai điểm trên và nhấn mạnh điểm dưới.
V. TÍNH QUỐC TẾ
Nói chung, văn chương truyền khẩu hiện đại rất phong phú, nhiều màu sắc, nhưng chủ yếu là chống cộng với nụ cười trào phúng.
NÔI DUNG
Văn chương truyền khẩu là nguồn sáng tạo của nhân dân Việt Nam bao gồm nhân dân lao động và trí thức. Văn chương truyền khẩu là vũ khí của quần chúng bị đàn áp, bóc lột chống bạo quyền cộng sản. Vì họ bị khủng bố, tù đày, bị bóc lột thậm tệ hơn cả thời thực dân và phong kiến, họ đã chống lại bằng nhiều hình thức:
-Bất hợp tác và chống đối:
Vì cộng sản bóc lột, người nông dân và thợ thuyền không đủ ăn, bao nhiêu lợi nhuận đều vào tay chủ nhiệm Hợp tác xã, huyện ủy và tỉnh ủy và bọn trung ương ngồi mát ăn bát vàng. Vì thấy mình bị lừa dối và bóc lột, dân chúng không tích cực làm việc. Kết quả là năng suất giảm sút.-Phá hoại: Dân chúng phá hoại của công như lấy bàn ghế cơ quan làm củi đun bếp, lấy trộm thóc lúa, ngô khoai. . .
-Biểu tình, đình công: Quỳnh Lưu 1956 là một vụ điển hình.
Sau 1985, cộng sản bán đất của nông dân cho tư bản, và thực thi nhiều chính sách tàn bạo và ngu xuẩn cho nên khắp nơi dân chúng chống đối như vụ Tiền Giang, Thái Bình, Thọ Đà, Xuân Lộc. , .
-Châm biếm:
Sáng tác và truyền bá các thi văn châm biếm, chống đối cộng sản. Cộngf sản rất sợ loại văn chương này nên đã bắt giam những ai kể chuyện hay ghi chép loại trào phúng hiện đại này.
Báo Nhân dân, ngày 10.8.1980, đã phải có bài kết tội văn chương trào phúng chống cộng. trong đó có đoạn:“Những năm gần đây, bên cạnh nền văn học dân gian hiện đại tiếp tục phát triển nói về những ý nghĩ, tình cảm của nhân dân và có tác dụng cổ vũ mọi người hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong mỗi giai đoạn, lác đác lại xuất hiện một số câu thơ, câu vè với nội dung không xây dựng, không rõ tác giả là ai. Thí dụ:Mỗi người làm việc bằng haiĐể cho chủ nhiệm mua đài, sắm xe...Đây là loại vè hoặc ca dao tiêu cực!”..
Văn chương truyền khẩu Việt Nam trước 1945 mang nhiều nội dung phong phú phản ảnh tình cảm, tư tưởng, giáo dục, luật pháp, phong tục, tập quán, tín ngưỡng Việt Nam. Văn chương truyền khẩu Việt Nam hiện đại cũng phản ảnh nhiều mặt về tư tưởng, tình cảm, chính trị, giáo dục của con người và đãt nước Việt Nam hiện nay. Văn chương truyền khẩu hiện đại đã nói lên thực trạng xã hội đất nước ở hai bên, nhưng bên cộng sản thì nhiều hơn gấp trăm lần, ngàn lần. Thời Pháp, nạn lính lê dương cưỡng hiếp phụ nữ và lính Bảo vệ ( lính theo Pháp) bắt gà đã tạo nên những ảnh hưởng xấu về chính trị:
Cắc bụp, cắc bụp cheo
Ba thằng Bảo vệ bắt heo, bắt gà.
Các bụp, cắc bụp xòa,
Ba thằng giặc Pháp bắt gà bắt heo.
Thời Ngô Đình Diệm, công lý đã trở thành công cụ cho gia đình họ Ngô. Ngô Đình Cẩn bán gạo cho Việt Cộng thì trắng án, bà Ngô Đình Nhu vì ngăn cản Nguyễn Văn Châu ly dị em gái bà, bà đem luật từ thời trung cổ để áp dụng cho nước Việt Nam. Trước đây, đường Công Lý đi hai chiều nay đi một chiều, đường Tự Do hạn chế xe và Tòa Pháp Đình ở đường Gia Long, Sài gòn cấm vào cổng trước, bởi vậy, dân chúng có câu:
Công Lý một chiều.
Tự Do hạn chế
Tòa Án vào cổng hậu.
Dân chúng bấy giờ truyền tụng câu sấm ngữ :
Khi nao ba tháng đủ liền,
Nhà chùa nhuộm máu, Ngô quyền ra tro.
Lúc bấy giờ quân Mỹ đổ vào Việt Nam, gây ra bao thay đổi về xã hội. Người ta truyền tụng câu thơ:
Rớt tú tài, anh đi trung sĩ,
Em ở nhà lấy Mỹ nuôi con,
Khi nao yên nước yên non,
Anh về anh có Mỹ con anh bồng!
Tại quốc ngoại cũng có một vài câu ca dao, tục ngữ. Để nói về tục đi trễ của người Việt Nam, tục ngữ tân thời có câu:
-Không ăn khỏe không phải người Mễ
Không đi trễ không phải người Việt Nam.
Nói về nước Mỹ, nhiều người ca ngợi, nhưng nước Mỹ chỉ thích hợp cho hạng thanh niên ưa phấn đãu, không thích hợp cho người già cần yên tĩnh, và thanh bình:
-Hoa Kỳ là thiên đường của tuổi trẻ
Là chiến trường của thanh niên
Là địa ngục của người già.
Đấy là những câu ca dao thực tả vùng quốc gia, và hải ngoại, mà chỉ được vài câu. Điều này cho thấy quốc gia cũng có khuyết điểm nhưng không bằng cộng sản dã man, tàn bạo ngàn vạn lần. Thực chất văn chương truyền khẩu hiện đại là nhắm đả kích chủ nghĩa cộng sản mọi mặt, và phần lớn là do chính những người đã sống dưới xã hội cộng sản, nhất là những người miền bắc sáng tác.
Nói miền Bắc sáng tác vì những câu ca, những truyện khôi hài này chúng ta không bao giờ nghe kể ở mìền Nam trước đây. Sau 1975, chúng ta mới đượe những bạn bè, thân quyến từ miền Băc kể cho chúng ta nghe. Qua sự kiện này, chúng ta thấy ca dao tục ngữ không phải do ' Mỹ Ngụy ' sáng tác, mà là do những người dân miền bắc đã từng được 'bác và đảng giáo dục'. Và qua điều này, chúng ta thấy rằng không phải toàn thể dân chúng miền Bắc theo cộng sản, trái lại họ căm thù cộng sản còn nhiều hơn dân miền Nam.
Văn chương, nhất là văn chương trào phúng là vũ khí của kẻ yếu. Cộng sản nắm nhà tù, nắm công an, nắm bộ đội, nắm kho gạo. Cộng sản theo dõi mọi người. Không ai có thể rải truyền đơn, ném lựu đạn, hay phá cầu như Việt cộng. Để chống cộng sản, người dân không tên không tuổi đã tổ chức một cuộc chiến tranh âm thầm nhưng bền bĩ. Đó là thái độ thụ động khi làm việc, là sự phá hoại của công, lấy trộm hợp tác xã.
Nhân dân đã sáng tác và truyền miệng những bài ca, câu truyện khôi hài về một chế độ phản dân hại nước. Do đó, văn chương hiện đại phản ánh chế độ cộng sản xấu xa, thối nát và lòng dân căm thù sâu sắc bè lũ cộng sản dã man. Văn chương truyền khẩu là vũ khí đấu tranh chống cộng.Ta có thể nói văn chương truyền khẩu hiện đại mang tính cách chiến đấu chống cộng. Việc này không phải là một hiện tượng đặc thù tại Việt Nam mà là một nét đậc thù của cộng sản chủ nghĩa. Đâu có cờ đỏ, sao vàng, búa liềm là có uất hận và có tơ văn châm biếm. Phần lớn mang tính cách châm biếm với nụ cười nhẹ nhàng, đôi khi sâu cay! Chúng ta có thể nói 90% là ca dao hài và truyện hài.
I.Xã hội:
Cộng sản hô hào mục đích tranh đấu của họ là bình đảng, tự do, đánh tan mọi bất công xã hội, đem lại cơm no áo ấm cho người dân. Sự thực, chế độ cộng sản là một chế độ dã man, tàn bạo nhất trong lịch sử loài người.
(1). Bóc lột sức lao động của nhân dân.
Trước khi chưa nắm quyền, cộng sản chỉ trích tư bản, địa chủ, phú nông bóc lột nhân dân lao động nhưng khi cầm quyền, họ bóc lột dã man hơn tư bản và phong kiến. Họ trả lương rẻ mạt. Họ bắt dân chúng nhịn đói lao động ngày đêm không được ngưng nghỉ: Làm ngày không đủ, Tranh thủ làm đêm, Làm thêm ngày nghỉ. Họ hô hào dân chúng làm việc để xây dựng xã hội chủ nghĩa nhưng thực sự là để cho giai cấp thống trị hưởng thụ, thấp nhất là bọn cán bộ Hợp Tác xã, mà cao nhất là bọn trung ương ủy viên:
-Một người làm việc bằng hai,
Để cho cán bộ mua đài , sắm xe.
-Một người làm việc bằng ba,
Để cho cán bộ xây nhà, lát sân.
-Một người làm việc bằng tư,
Để cho cán bộ tiền dư thóc thừa.
-Một người làm việc bằng năm,
Để cho cán bộ vừa nằm vừa ăn.
(2). Bãt công, nịnh hót, cửa quyền.
Cộng sản luôn nói đến lao động, sản xuất, chống ăn bám, chống bóc lột, nhưng chính cộng sản là bọn ăn bám, bọn bóc lột. Cán bộ đảng xuất thân là nông dân, công nhân nay trở thành quan lại. Dưới chế độ phong kiến hay thực dân, dân chúng chỉ nuôi một thứ hổ báo, nhưng dưới chế độ cộng sản, dân một cổ hai tròng, phải nuôi nhà nước và đảng. Đảng luôn trấn áp , khủng bố dân chúng, cho nên những kẻ khôn ngoan biết nịnh hót thì được tồn tại. Họ bắt các dân chúng, học sinh, viên chức, cán bộ, đảng viên, thợ thuyền phê bình, kiểm thảo hàng tuần, hàng tháng, nghĩa là phải xỉ vả mình, tố cáo người khác và đề cao đảng, bác. Đó là chính sách ngu dân, chỉ tạo những kẻ ba hoa nịnh hót, những con người hèn hạ. Chỉ có những công nhân, nông dân là đói khổ:
Thằng làm thì đói,
Thằng nói thì no.
Thằng bò thì sướng.
Thằng bướng thì chết,
Thằng bết thì tôn,
Thằng khôn thì đập.. .
Ngày xưa quan lại còn có kẻ thương dân, phú gia còn biết cho nông dân ăn no dù là ăn cơm hẩm với cà muối, địa chủ lấy tô khoảng 20% đến 50%. Nay thì cán bộ nào cũng bóc lột, từ thằng nhỏ đến thằng lớn, chúng bắt dân nộp cho nhà nước gần 90% số lương thực sản xuất. Lương công nhân thời Pháp ít nhất cũng nuôi đủ vợ chồng nay thì lương cán bộ công nhân viên nuôi bản thân không được một tuần, và nông dân giỏi mỗi ngày một ký lô lúa. Bị bóc lột, công nhân và nông dân chỉ còn phản ứng lại bằng chiến tranh thụ động, chiến tranh phá hoại âm thầm:
Lãnh đạo sướng quá
Giám đốc chè lá.
Công nhân đập phá
Nông dân đói lả.
Đất nước Việt Nam một phần bị chiến tranh phá hoại. Một phần bị công nông phá hoại và một phần bị đảng phá hoại. Đảng là thành phần phi sản xuất, đảng nói láo, đảng là một đám vi trùng ăn bám vào thân thể gầy còm của xã hội. Đảng đưa những kẻ tàn ác và vô học lên nắm quyền. Chính sách vô sản chuyên chính dẫn tới việc phá hoại đất nước bằng những cái ngu dốt thật tình và tham nhũng vô tận. Dân chúng đã viết thành công thức về thành tích phá hoại của đảng vô sản:
Ngu dốt+ nhiệt tình= phá hoại
Cán bộ phá hoại, con cháu, anh em họ phá hoại và dân chúng cũng phá hoại. Đất nước càng ngày càng suy vong là lẽ tất nhiên! Bởi vậy dân chúng đã giải thích hàng chữ CCCP của cộng sản là: Các cụ cứ phá. Các cậu cứ phá. Các con cứ phá. Các cháu cứ phá.Khoảng 1980, dân chúng bỏ nước ra đi ngày càng đông, chính phủ lâm cảnh bần cùng, công an, bộ đội đói dài. Thực tế này đã thu tóm trong mấy câu:
Chính phủ phá sản,
Cán bộ tư bản.
Công nhân hốt hoảng.
Nhân dân di tản.
Bộ đội bất mãn.
Chế độ cộng sản bản chất là chế độ phát xit cộng với chế độ phong kiến. Còn tệ hơn thế nữa vì vua quan phong kiến, quan chức tư bản vẫn dùng chung chợ, chung nhà thương, chung trường học với dân chúng. Chế độ cộng sản đã tạo ra một giai cấp mới hưởng thụ. Trên hết là vua và triều đình, dưới là bọn quan lại tham ô, mỗi nhóm đều hưởng những quy chế riêng, có cửa hàng riêng đầy đủ mọi mặt hàng Âu Mỹ. Các lãnh đạo cộng sản Việt Nam, giai cấp mới của xã hội Việt Nam từ sau 1955 có cửa hàng đặc biệt ở Hà Nội như là Tôn Đản, Ngô Quyền, Hàng Trống, trong khi dân chúng thiếu thốn, cực khổ, phải lang thang, buôn bán bất hợp pháp ở chợ trời. Chợ trời là đặc sản của chủ nghĩa cộng sản :
Tôn Đản là chợ vua quan,
Cửa Nam là chợ những gian, nịnh thần.
Đồng Xuân là chợ thương nhân,
Vĩa hè là chợ ' nhân dân anh hùng '
(4). Tham nhũng
Càng lên cao càng có nhiều đặc quyền. Bởi vậy trong chế độ cộng sản con người phải luôn luôn phấn đấu bằng nịnh hót và bằng thành tích giết dân chúng hoặc giết đối thủ. Lên đến tỉnh hay trung ương thì được cung cấp nhiều và lợi lộc càng nhiều. Nếu số phận thấp hèn ở mãi cấp xã hay huyện thì người ta cũng phải tìm cách ăn. Do đó tham nhũng, hối lộ trở thành quốc sách. Cộng sản áp dụng chính sách lấy '' chiến tranh nuôi chiến tranh'', và ''tự lực cánh sinh'' nghĩa là bắt cán bộ nhịn đói, buộc họ phải ăn cướp của dân mà sống. Đảng cộng sản cũng giống như một số cơ sở khiêu vũ, cà phê ôm, bia ôm không trả tiền cho các nữ tiếp viên, mà để cho họ làm tiền khách:
Quan cao ăn cung cấp,
Quan thấp ăn chợ đen.
Quan quen ăn cổng hậu.
Lý luận Mác Lê bảo rằng trong chế độ cộng sản sẽ không còn giai cấp, ai cũng như ai, nhiều kẻ lạc quan còn bảo rằng sẽ không còn chính phủ, ai muốn làm bao nhiêu thì làm, ai muốn hưởng bao nhiêu là tùy ý (các tận sở năng, các thủ sở nhu), nhưng sự thật quan càng cao lương càng cao, chỉ có những kẻ yếu thế là thiệt thòi. Chỉ số lương quy định bậc thang giá trị xã hội:
Hai trăm ngồi phán,
Trăm tám ngồi nghe.
Tranh nhà, tranh xe,
Là thằng trăm rưỡi.
Tất ta tất tưởi,
Là lũ trăm hai.
Vừa làm vừa sai,
Là lũ chín chục.
Vợ chồng lục đục, Là lũ sáu mươi.
Dở khóc dở cười,
Là bọn bốn chục.
Không ta không địch,
Là bọn áp phe.
Nói chẳng ai nghe, L
à thằng nhà nước. . .
Ngày xưa Hải Triều, Trương Tửu, Trường Chinh chửi chế độ phong kiến thối nát, tư bản bất công nhưng dưới chế độ phong kiến và tư bản, ai cũng có quyền đi học, đi thi, đi xa làng để sinh sống, tự do chọn nghề cho mình, tự do buôn bán, tự do làm thợ, tự do mở cửa hàng. . .Nay xã hội cộng sản còn bất công, tham nhũng, thối nát hơn, chỉ có con em cộng sản mới được đi làm, đi học trong và ngoài nước, con em địa chủ, phú nông, tư sản và 'ngụy quân ngụy quyền' thì chịu thiệt thòi. Ai có tiền bạc, hoặc thân thế thì mới tồn tại, còn hạng cùng đinh thì đành chịu chết: -Nhất thân, nhì thế, Tam chế , tứ tiền.
- Nhất thân, nhì quen, ba quyền ,bốn chế.
Xuất thân bần cố, khi lên nắm quyền, họ tìm cách chiếm đoạt của dân, trộm cắp tài sản nhà nước để làm giàu. Và cộng sản là một xã hội bè phái, không luật pháp, cho nên ăn cắp, phá hoại mà vẫn không bị tù:
Ăn cắp một đồng,
Thì gông vào cổ
Ăn cắp hàng tỷ,
Xử lý nội bộ.
Marx không những là một nhà chính trị mà còn là một kinh tế gia. Ông gieo quẻ và tiên đoán kinh tế, khoa học cộng sản tiến gấp năm gấp mười chế độ tư bản vì quy luật khoa học do ông sáng chế ra là xã hội tiến theo chiều thẳng đứng. Trong chiều hướng này, con người cộng sản không cần tiền bạc, vàng, kim cương nữa, mọi thứ trở thành vô giá trị. Vàng lúc này chỉ dùng trang trí cầu tiêu vì kinh tế dư thừa, không cần phải tích trữ vì khi xã hội còn dùng và cất trữ tiền, vàng, đô la nghĩa là còn lo sợ nghèo đói và kinh tế khủng hoảng. Đó là viễn ảnh tương lai. Còn nhìn gần thì Marx cực lực chỉ trích tư bản. Ông cho rằng xã hội tư bản và quân chủ chú trọng đồng tiền, con người phải làm nô lệ cho đồng tiền và tạo ra bất công. Người ta có kẻ đã tin ông nhưng thức lâu mới biết đêm dài, xã hội cộng sản nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng là một xã hội bất công và tham nhũng, đồng tiền được đặt lên trên cao.
Càng thất bại trong lý tưởng công bằng xã hội, quốc gia văn minh tiến bộ, người cộng sản thấy mình bị lừa dối cho nên họ quay ra làm tiền để bù lại những ngày ngu dại chạy theo kháng chiến. Cộng sản bây giờ đã trở thành tư bản. Miệng họ tung hô cộng sản nhưng thực chất là hữu sản, tư sản. Mục đích của họ là làm giàu, là đua đòi vật chất. Họ khoe nhau từng xấp đô la. Họ khoe nhà, khoe xe. Mấy tay công an mới vào, tháng trước đi xe đạp, vài tháng sau là Honda, Dream hai ba chiếc. Mục tiêu của họ rất cụ thể: Ti vi, tủ lạnh, Honda, Không ba thứ ấy chẳng ra con người!Không phải chờ đến thời mở cửa, người cộng sản mới tham vàng và đô la. Tính tham ở khắp mọi nơi và ở trong lòng mọi người, chỉ khác nhau ít nhiều. Trừ một số rất ít là bậc thánh vô tham, vô sân, vô si. Người ta đi học là để làm quan, người ta đi tu là để được bái lạy và cúng dường, và để leo lên chức tối cao trong giáo hội. Người ta theo cộng sản là để được chia của, được cướp tài sản kẻ khác và được ngồi trên đầu người khác. Những từ ngữ công bằng xã hội, tự do dân chủ ở miệng lưỡi cộng sản ngày càng nhạt màu, mà nay chỉ thấy mặt mũi và môi miệng của họ là mỡ, và máu. Họ đã cướp của giết người, đã mang tính hống hách, quan liêu và thích hưởng thụ từ ngày kháng chiến đầu tiên.
Trong thời gian 1945-1975, đối tượng của các cán bộ là 4 Đ: Đảng, Đổng, Đài, Đạp. Ngày xưa người ta mua nhiêu, mua xã là để được ăn trên ngồi trước, nay không còn nhiêu, xã, người ta muốn vào đảng để được danh giá nơi thôn quê. Đổng là đồng hồ. Có đồng hồ đeo thì sang trọng, nhất là đồng hồ Wyler của Thụy Sĩ. Đài tức là cái radio. Nơi thôn quê có cái đài thì cả xóm, cả làng bu lại nghe, thật là hãnh diện! Trước 1975, mỗi anh bộ đội và cán bộ đều có cái một cái đài mang kè kè bên cạnh. Đạp là xe đạp. Ở thôn quê mà có chiếc xe đạp thì hách lắm! Trước 1975, xe đạp rất quý. Ngoài bắc ai có xe đạp phải đăng ký và mang bảng hiệu cũng như trong nam trước 1975 ai có xe Honda, Suzuki phải đăng ký. Cái ước mơ vật chất đã có từ lâu ở trong trái tim người nông dân, và trong anh cán bộ dù gốc thành thị hay thôn quê. Sau 1975 anh cán ước một chiếc Honda.Và trước đó, khoảng 1945, mốt của anh cán bộ là mang xắc cốt, giắt bút máy Parker đeo đồng hồ Wyler, và chiếc xe đạp:
Ham chi xắc cốt, đồng hồ,Mai họ về quê họ, họ để ba lô lại cho mình.
Do đó có câu:
Bút máy Parker
Đồng hồ Wyler
Nằm giường tre
Lãy vợ tạch-tạch-sè ( tiểu tư sản)
Đi xe đạp cuốc (course).
Muốn sang trọng tất phải có tiền. Từ trước cho đến nay, người cộng sản bao giờ cũng coi trọng đồng tiền. Đồng tiền được đề cao triệt để. Lòng tham tiền, sự tính toán trở thành kinh nhật tụng:
Tiền là tiên, là Phật,
Là sức bật tuổi trẻ
Là sức khoẻ tuổi già.
Là cái đà tiến thân. . .
Một khi các cán bộ tham tiền thì dân chúng phải bị bóc lột và cướp bóc. Đi đâu, người dân cũng phải nộp tiền. Đi học, đi nhà thương, ra cơ quan ...ngoài lệ phí công khai, chúng ta còn phải hối lộ. Ngay trong học đường cũng có nạn hối lộ. Những trẻ con muốn học trường tiểu học gần nhà, hoặc trường nổi tiếng thì cha mẹ phải ký sổ vàng vài triệu bạc. Nói chung, đi đâu, người dân phải lo 'thủ tục đầu tiên '. Cán bộ muốn làm tiền thì có hai đường. Một là ăn cắp của công, hai là ăn hối lộ. Họ chạy đua một tốc độ kinh khủng trong thời gian mở cửa cho tư bản đầu tư. Ngày xưa, ở chế độ phong kiến và tư bản cũng có hối lộ nhưng it hơn bây giờ vì con người ít tham hơn và pháp luật công minh.
Ngày xưa, quan có tội cũng bị trừng trị còn nay thì xử lý nội bộ! Ngày nay tù nhân trong các khám đuờng hầu hết là giám đốc các công ty vì tội họ quá nhiều và vì họ sa cơ trong cái tranh giành giữa bầy lang sói! Vì đồng lương quá ít, cán bộ phải ăn hối lộ và ăn cắp ăn trộm để nuôi cái dạ dày, nhưng rồi ăn cắp quen tay, ăn cắp và ăn hối lộ đã trở thành quốc sách, trở thành tập quán cho tất cả mọi người! Lớn ăn theo lớn, nhỏ ăn theo nhỏ. Đừng coi thường những viên chức nhỏ. Nhiều khi viên chức lớn không có thực quyền bằng viên chức nhỏ: Thủ kho to hơn thủ trưởngTỉnh ủy, huyện ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân ăn hối lộ đã đành, mà những viên chức nhỏ như người coi về điện, người công nhân lái máy cày cũng đòi hối lộ nếu ta không biết điều thì ta không có điện thắp sáng, không có điện để bơm nước vào ruộng, không có điện để sản xuất, không có máy cày để tăng gia kịp thời vụ:
- Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà.
- Có ki lô oét mới có ki lô oát.
- Có cầu thớt mới có cầu dao .
- Muốn cho điện sáng về nhà,
Ruột lợn, ruột gà phải nối đến nơi!
Hối lộ thì có nhiều cách. Ngày xưa người ta dùng miếng trầu mở đầu cuộc giao thiệp: Miếng trầu là đầu câu chuyệnNay thì bằng thuốc lá. Kinh nghiệm cho thấy thuốc lá có nhiều hạng cao thấp khác nhau và đem lại lợi ích khác nhau cho những ai muốn giao thiệp với các cán:
'Sa Pa' đứng xa mà nhìn'
"Du Lịch' nhích lại gần hơn.
Sông Cầu' mở đầu câu chuyện.
"Sa Mít' nói ít hiểu nhiều'
Hoa Mai' nói hoài không hiểu.'
"Ba Con Năm' vừa nằm vừa ký,
" Ba số' nhí nhố cũng xong.
Có hai loại hối lộ. Một loại là rõ rệt, đứng trước mặt mình như là cán bộ quan thuế, mình muốn yên ổn thì trong sổ hộ chiếu đưa trình nên kèm năm, mười đôn. Có một loại mình muốn tìm mà không biết ở đâu. Muốn gặp hạng này, mình phải có trung gian đưa đường chỉ lối. Do đó quần chúng có câu:
- Qua sông nên phải lụy cò.
- Không cò đố dò cho ra!
- Không cò làm thầy, đố mầy làm nên!
Cộng sản bày ra lắm thủ tục nhiêu khê, nếu ta không chịu hối lộ thì không làm sao vượt được những cửa ải khó khăn do họ bày ra để bắt ta nộp tiền mãi lộ:
Vào rừng thủ tục chỉ gục mà thôi!
Vi tiền, người cọng sản hiện nay đã đánh mất lý tưởng mà ban đầu mà họ gióng trống khua chiêng cổ võ. Họ đã trở thành những tư bản đỏ. Dân chúng đã thấy rõ bản chất tham lam, tráo trở của người cộng sản và họ đã mỉa mai bằng cách nói lái theo giọng Nam bộ:
Bảng đỏ sao vàng, Sang giàu bỏ đảng.
Vì tiền, họ trở thành bọn cướp. Cộng sản là bọn cướp ngày:
-Con ơi con nhớ câu này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày công an.
-Con ơi, con nhớ điều này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày đảng viên.
Dưới chế độ phong kiến, thực dân, chỉ một số ít tham nhũng, còn trong chế độ cộng sản, ai cũng có cách ăn, từ quan to cho đến anh gác cổng:
Quan cao ăn cung cấp
Quan thấp ăn chợ đen
Quan quen ăn cổng hậu
Họ bóc lột dân chúng, và có thể làm mọi điều nếu có lợi cho riêng họ. Chuyện Thăm lăng Bác được kể như sau :
Một thương gia ngoại quốc tới Hà Nội để lo việc kinh doanh.Thương gia đó mãi lo các thủ tục giấy tờ, cho đến lúc gần phải lên đường về nước, mà lúc ấy đã năm, sáu giờ chiều, các cơ quan đã đóng cửa, mới nhớ ra mình đã quên một điều khá quan trọng là phải đi thăm lăng Hồ chủ tịch. Ông bèn than thở cùng các nhân viên khách sạn, thì được họ mách nuớc : Đừng lo! Ông cứ dúi cho họ vài đô la là xong '. Ông khách ngoại quốc nghe lời bèn chỉnh tề y phục ra thăm lăng Bác. Đến nơi thì hết giờ du khách thăm viếng, cửa lăng đã đóng. Ông khách bèn gặp người gác cổng và nói :' Tôi rất kính yêu bác Hồ vĩ đại, nay vì quá bận việc nên tới trễ, xin đồng chí vui lòng cho tôi vào thăm bác.' Đồng chí gác cổng mặt sắt đen sì, xua đuổi khách :" Hết giờ làm việc, mai đến! " Ông khách sực nhớ lời khuyên của nhân viên khách sạn, bèn rút ra 5 đô la trao cho đồng chí bảo vệ. Đồng chí bảo vệ liền đổi thái độ hỏi : "Ông muốn vào trong hay muốn tôi lôi bác ra đây cho ông xem ?"
Xã hội Việt Nam hiện nay là một xã hội suy đồi, ở đâu cũng có tình trạng lừa đảo, tranh giành quyền lợi, địa vị : ông phó hại ông chánh, đàn anh bóc lột đàn em, công ty này lừa công ty kia, tỉnh này gạt tỉnh nọ...Câu chuyện Chúng cư năm tầng đã cho chúng ta biết phần nào tính chất xã hội Việt Nam hiện nay.
Xã hội cộng sản là một xã hội cá lớn nuốt cá bé. Những người trung hậu, ngay thẳng và những kẻ thấp cổ bé họng là chịu thiệt thòi, trong đó có những anh giải phóng quân miền Nam, hay những người Nam hồi kết. Từ khi gia nhập đảng cho đến ngày đất nước thống nhất, họ luôn luôn thiệt thòi, và khi ý thức được thân phận của họ thì đã quá muộn. Đây là tâm sự của những kẻ theo đảng, đã một đời hy sinh cho đảng, sống rất cực khổ:
- Ăn qua loa
Mặc áo chuyên gia.
Đi xe cố vấn .
Họ bị đảng lường gạt để rồi về hưu non với hai bàn tay trắng:
-Nói như lãnh tụ,
Ăn như thầy tu.
Ở như thằng tù.
Về hưu non rồi mới biết mình ngu!
Cán bộ cấp thấp còn bị bóc lột, lừa đảo, còn kêu huống hồ dân chúng! Cộng sản mặc sức bóc lột, dân chúng đói khổ, nạn thất nghiệp tràn lan. Trước đây cộng sản kết tội tư bản đẻ ra mại dâm nhưng sự thực ngược lại:
Chiều chiều trên bến Ninh Kiều
Sau lưng tượng bác, đĩ nhiều hơn dân!
(còn nữa)
*
No comments:
Post a Comment