SƠN TRUNG THƯ TRANG
Đây là vài bút ký của Võ Phiến viết sau 1975, chúng tôi sưu tập dể tiện việc nghiên cứu văn học hải ngoại
Quê hương tôi gồm tập Đất nước quê hương in năm 1973 và một số tùy bút khác cùng loại.
352 pages
Published August 2012 by Nhã Nam & NXB Thời Đại
Tác phẩm đã in:
Tiểu thuyết: Giã từ (Bách Khoa, Sài-gòn, 1962), Một mình (Thời Mới,
1965), Đàn ông (Thời Mới, 1966), Nguyên vẹn (Người Việt, California,
1978).
Truyện ngắn: Chữ tình (Bình Minh, Quy Nhơn, 1956), Người tù (Bình Minh,
1957), Mưa đêm cuối năm (Tự Do, Sài-gòn, 1958), Đêm xuân trăng sáng
(Nguyễn Đình Vượng, 1961), Thương hoài ngàn năm (Bút Nghiên, 1962), Về
một xóm quê (Thời Mới, 1965), Truyện thật ngắn (Văn Nghệ, California,
1991).
Tùy bút: Thư nhà (Thời Mới, 1962), Ảo ảnh (Thời Mới, 1967), Phù thế
(Thời Mới, 1969), Đất nước quê hương (Lửa Thiêng, 1973), Thư gửi bạn
(Người Việt, California, 1976), Ly hương (in chung với Lê Tất Điều,
Người Việt, California, 1977), Lại thư gửi bạn (Người Việt, 1979), Quê
(Văn Nghệ, 1992).
Tiểu luận: Tiểu thuyết hiện đại (bút hiệu Tràng Thiên, Thời Mới, 1963),
Văn học Nga Xô hiện đại (Thời Mới, 1965). Tạp bút, ba tập (Thời Mới,
1965-66), Tạp luận (Trí Đăng, 1973), Chúng ta qua cách viết (Giao Điểm,
1973), Viết (Văn Nghệ, 1993), Đối thoại (Văn Nghệ, 1993).
Biên khảo: Văn học miền Nam tổng quan (Văn Nghệ, 1986), Văn học miền
Nam, 6 tập, gồm 3 tập về truyện, 1 tập ký, 1 tập kịch - tùy bút và 1 tập
thơ (Văn Nghệ, 1999).
Dịch thuật: Hăm bốn giờ trong đời một người đàn bà (Stéfan Zweig) (Thời
Mới, 1963), Các trào lưu lớn của tư tưởng hiện đại (André Maurois) (Thời
Mới, 1964), Truyện hay các nước, 2 tập, cùng dịch với Nguyễn Minh Hoàng
(Thời Mới, 1965), Ông chồng muôn thuở (Dostoyevsky) (1973). Toàn bộ tác
phẩm Võ Phiến được in lại trong Võ Phiến Toàn Tập, 9 cuốn (Văn Nghệ,
1993).
Năm 2010, Võ Phiến cho in Cuối Cùng, gồm tạp bút và thơ mới viết của ông. Đây cũng có thể là tác phẩm cuối cùng của nhà văn.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc nhận định về Võ Phiến như sau:
"Theo tôi thì Võ Phiến là một trong những nhà văn lớn nhứt của Việt Nam
trong nửa sau của Thế Kỷ 20. Xin lưu ý là tôi dùng chữ Việt Nam chớ
không phải là Miền Nam hay là hải ngoại; trong phạm vi cả nước thì Nam
cũng như Bắc, quốc nội cũng như quốc ngoại...
Tùy Bút
Về Một Xóm Quê
Xem Sách
Cái Còn Lại
Ế Ị !
Giọt Cà-phê
Một Ngày Để Tùy Nghi
Một Chỗ Thật Tịch Mịch
Lúc Dừng Nghỉ
Những Đám Khói
Đô Thị Hoang Sơ
Chiếc Áo Dài
Anh Bình Định
Gắn, Gùa Và Gu
Rụp Rụp
Nhớ Làng
Hạt Bọt Trà
Mùa Xuân, Con Én
Một Mùa Thu
Một Mùa Xuân An Lành
Lạnh
Mười Giờ
Ổi Tàu
Hoan Ca
Cô Quì Còn Không?
Tư Bề Người Dưng
Cửa Sổ
VAN NGHÊ XUẤT BẢN
MỤC LỤC
1. Cửa Sổ
2 .Một Mùa Xuân An Lành
3. Lạnh
4. Mười Giờ
5. Ổi Tàu
6. Hoan Ca
7. Cô Quì Còn Không?
8. Tư bề người dưng
9. Vươn Ra Ngoài Cuộc Sống
1. Cửa Sổ
Dọn nhà là chuyện vất vả. Hôm dọn đến nhà mới, đêm hôm ấy tôi ngủ mê
mệt. Sáng, thức giấc rất muộn: mở mắt ra thấy ánh sáng đã đầy phòng. Từ
phía cửa sổ, ánh mặt trời ùa vào chói chang. Hóa ra mình không hề thức
dậy; mình bị đập dậy tàn bạo.
Về sau, nhắc lại chuyện ấy, chúng tôi vẫn gọi cái sáng xông vào cửa sổ
hôm đó, gọi buổi sáng đó là “Thằng cha Sấn Sổ”. Ngay từ sơ ngộ, sao mà
đường đột, ngổ ngáo quá vậy? Cửa sổ phòng ngủ mở về hướng đông. Rồi sẽ
còn lắm chuyện với Thằng cha Sấn Sổ. Người ta còn đang sõng sượt chình
ình trên gường. Làm gì mà vội vàng xông xáo... Hừm!
Hóa ra không phải thế. Từ phía cửa sổ ấy không phải chỉ có một “thằng”.
Ngay hôm tiếp theo, thức giấc thấy yên ắng, êm ru bà rù, tôi nghĩ là
không có ai quấy rầy. Chắc thế. Lờ mờ, êm ru, vắng lặng thế này.
Tôi kéo mền lên đầu, định nằm thêm một lát. Không ngờ khi hướng mắt về
phía cửa gặp ngay “nhân vật” về sau mang tên “Gã Mặt Mốc”. Màu trời
phương đông, ngay ở chỗ đáng lẽ mặt trời xuất hiện, lúc ấy lại toàn một
màu xám nguội, như tro. Khoảng mây xám ấy cứ thản nhiên hướng mặt vào
khung cửa sổ. Thản nhiên. Bất cần. Hừm! Mặt Mốc!
Sau đó, lần lượt: Thằng Ủ Ê, cô E Ấp, lão Trầm Ngâm, rồi gã Hí Hửng,
chàng Hân Hoan, rồi cậu Hả Hê v.v... Không hẹn hò mà hôm nào tôi cũng
sẵn một tâm lý đón đợi.
°
Sáng hôm nọ, tỉnh giấc muộn. Linh tính khiến mình liếc mắt về hướng cửa
sổ. Khung trời xanh nhạt, gợi một cái xanh mênh mông. Cây thông cao đứng
không một lay lắc. Sự chờ đợi kéo dài, hờ hững. Một con quạ từ đâu bay
đến. Quạ đáp xuống chỗ cuối một cành mềm, oặt qua oặt lại. Con quạ loay
hoay, vung cánh, đạp chân lung tung, trật qua trật lại, mãi hồi lâu mới
tạm yên. Nhưng nó vẫn chưa tìm được thế đậu ổn định. Chốc chốc quạt
cánh, đạp chân, trầy trật...
Trời xanh cao rộng, ngọn thông yên lặng, con quạ loay hoay... Ơ kìa!
Linh tính xui tôi bắt gặp đúng cái gì như thể là... hạnh phúc? Bắt đúng
niềm sung sướng không ngờ. Đời hay ho quá cỡ.
Chợt tai nghe: “Á a! Á a!” vang lên mấy tiếng.
Tôi ngẩn ngơ, tần ngần. Á a? Á a? Cái gì á a? Trời xanh mênh mông tự
dưng cao hứng quá đỗi mà phát lên thế chăng? Hay lại quạ, một con quạ vô
duyên đâu đó quác mỏ... á a?
Dù sao, tôi bỏ qua mọi suy tưởng vẩn vơ, tôi tiếp tục vui sướng, vô cớ.
°
Vô cớ, đúng là vô cớ. Cớ? biết gán cho cái gì? Cho con quạ vụng về? Cho cành thông mềm oặt? Cho cái sáng hững hờ?... Bậy bạ cả.
°
Không nghe nói về kiểu huyệt mộ nào có cửa thông lên trần gian.
Cho đời nhìn xuống, cho người nhìn lên.
Liệu rồi sẽ có kẻ nghĩ ra một kiểu thích hợp cho những hồn ma nhấp nhổm nhớ trần gian?
- Không có? Chán!
1 - 2004
2 .Một Mùa Xuân An Lành
Vùng quê tôi thường có những mùa đông nghiệt ngã, không phải vì giá rét,
nhưng là vì các trận bão lụt. Không mấy năm là ở miền Trung Việt Nam
không gặp thiên tai, hoặc lớn hoặc nhỏ.
Tuy vậy, thường thường sau hạ tuần tháng mười âm lịch, ai nấy có thể an
tâm. Tiền nhân dặn dò con cháu hãy cố gắng đề phòng một ngày hăm ba
tháng mười 1. Thế rồi thôi. Sau đó, có thể bắt đầu nghĩ tí chút về các cuộc vui mùa xuân.
Trong kỷ niệm của tôi về những ngày thơ ấu miền quê, hội vui mùa xuân
dính liền với... hột đậu phụng. Ở đây, người ta trỉa đậu vào tháng chạp.
Cứ hễ bao giờ người lớn trong nhà tổ chức “lột đỗ” — tức bóc vỏ đậu
phụng (để lấy hột đem trỉa) — là trẻ con có quyền hí hửng nghĩ tới
chuyện ăn Tết. Vì thế, ngay trong công việc lột đỗ đã mơ hồ một không
khí hội hè.
Khi đậu được xúc từng thúng từ trong bồ đem ra phân phát, mọi người
trong gia đình, từ lớn đến bé ai nấy đều có phần của mình. Có kẻ nằm
trên võng vừa đu đưa vừa lột đỗ; có người mang rổ ra vườn, tìm nơi thanh
vắng mát mẻ, vừa lột đỗ vừa hát se sẽ, để trí theo đuổi những mơ mộng
ân tình; có những ông bà cứ vừa bóp trái đỗ kêu cúc cắc, vừa lắng dõi
theo sự trăn trở uể oải của vài mối ưu tư cũ kỹ đã mất sức phá phách; có
những đám trẻ tụ tập ở một góc hè, vừa lột đỗ vừa tranh cãi sôi nổi về
các chương trình vui chơi... Đối với tất cả, những tiếng cúc cắc, lách
tách của vỏ đậu bị bóp vỡ đều ngầm một ý nghĩa hào hứng trong cái cảnh
toàn gia nhất tề lao động.
Phải nhất tề như vậy là vì công việc gấp rút, hối hả. Có những năm chúng
tôi trỉa đỗ đến chiều hăm chín, hay thậm chí cho đến ba mươi Tết. Tiếng
vỏ đậu vỡ cúc cắc đuổi gấp đến sát Nguyên Đán. Lột đỗ là dọn đường cho
Tết đến; không nhanh tay, không đồng lòng, e không kịp. Tiếng vỏ đậu vỡ
lách tách đưa thẳng tới tiếng pháo nổ đì đoành. Lột đỗ vui là thế.
Người ta trỉa đậu phụng trên đất khô ráo. Người ta cũng chỉ có thể dựng
chòi, đánh bài chòi giữa trời, vào một mùa thực tạnh ráo, ấm áp. Vì vậy
cuối tháng chạp ở quê tôi đã hưởng cái khí hậu của mùa xuân.
Nửa đời người sống với thời tiết như thế, bỗng năm nay tôi đón cái Tết
đầu tiên tại miền bắc Hoa Kỳ với chừng nửa thước tuyết trước thềm nhà,
trong cái lạnh vào khoảng hăm lăm độ dưới không độ bách phân.
Đã từ hai tháng rưỡi, không hề thấy một giọt nước ở thể lỏng ngoài trời.
Lại phải chờ thêm chừng nửa tháng nữa mới gặp được một trận mưa. Trời
đã biết rơi nước lỏng xuống là đã biết cố gắng để trở nên quen thuộc,
tôi mừng thầm. Nhưng sự cố gắng cũng chỉ làm nổi một trận mưa mà thôi.
Rồi lại tuyết giá mịt mù.
Tháng giêng đã trôi qua trọn vẹn, vẫn chẳng thấy tăm dạng mùa xuân đâu
cả. Cơ sự này thì hỏng quá! Không Tết thì chẳng ra làm sao: mới vừa ra
khỏi nước đã quên ngay tục lệ. Mà có tổ chức Nguyên Đán giữa cái hoang
tàn khốc liệt của mùa đông, giữa cảnh chết chóc tàn rụi của mọi loài
thảo mộc dưới bầu trời thê lương này, thì chẳng hóa ra là muốn chế giễu
cái ý nghĩa đổi mới, khởi đầu, của một ngày hội dân tộc sao?
Hôm hai mươi tháng ba dương lịch, nghe loáng thoáng tiếng reo vui của
người xung quanh kêu rằng mùa xuân đã bắt đầu. Nhưng thực ra nó chỉ mới
bắt đầu trên tờ lịch. Mãi tận cuối tháng, tuyết mới chịu tan cho.
Nhưng đâu dám thấy vậy mà yên tâm? Ban đêm hàn độ vẫn quanh quẩn bên
cạnh số không, và mãi tới đầu tháng năm dương lịch hãy còn đổ một trận
tuyết lớn lê thê suốt ngày.
Tháng năm dương lịch tức là tháng tư âm lịch rồi đấy: “Thiều quang chín
chục đã ngoài... chín mươi” rồi, còn chờ đến bao giờ mới được trông thấy
mùa xuân, hả trời?
°
Không phải chỉ có người (đặc biệt là người tị nạn), mà cây cỏ hình như
cũng lấy làm sốt ruột lắm. Chúng không thể nào tung hoa, tung lá ra dưới
tuyết; nhưng chúng nô nức chuẩn bị, ráo riết chuẩn bị: ở mỗi đầu cành
không biết từ bao giờ đã tích sẵn một cái nụ. Từ những bụi cây lè tè bên
rào cho đến những cây cao lớn trên đồi, ven đường, trong rừng v.v...
tất cả đều ở tư thế sẵn sàng.
Nụ lá cứ mỗi ngày mỗi lớn, rồi cương tròn, rồi mọng lên. Chúng không thể
nào chờ đợi được nữa. Chúng như những giọt nước tụ ở đuôi tranh trước
hiên, như những giọt cà-phê rưng rưng dưới rá phin: sắp vỡ, sắp rụng đến
nơi.
Có phải vì sự chờ đợi trong một dồn nén kéo dài như thế mà hoa lá ở xứ
này nở rộ trong cảnh chụp giựt, như thể tranh nhau, lấn nhau? Trời vừa
ấm mấy hôm, đầu tuần nụ lá vừa hé mở, cuối tuần đã thấy cây xanh dờn,
đến tuần sau khắp thành phố um tùm rậm rạp. Hoa nở rộ, rồi cũng tàn
nhanh. Tuyết vừa tan, ở ven tường đã thấy có tí lá xanh lấp ló như vẫn
rình sẵn từ lúc nào. Thế rồi ta chưa kịp để ý tới, một buổi sáng bỗng
nhiên hoa tím hoa vàng ở đâu phọt lên tùm lum. Hỏi ra thì là Johnny-jump-up 2
đó! Tính danh sao mà ngộ nghĩnh. Bé Johnny nghịch ngợm, chợt nhảy cỡn
rồi chợt biến mất! Dăm mười hôm sau, quanh tường hoa uất-kim-hương ( tulip) khoe đủ màu sặc sỡ.
Ven rào, trong công viên, ở ven rừng, vẫn có thứ cây không cao lớn nhưng
sum suê, hoa lá ửng một màu hồng rực rỡ. Giữa đám cây xanh nhạt có đậm
có, nó điểm vào một màu khác lạ vui mắt, nó in xuống mặt hồ những cái
bóng lộng lẫy, nó gợi nhớ hình ảnh hoa anh đào làm rực một phương trời.
Thứ bông huy hoàng ấy — bông crabapple — cũng chỉ rực lên một vài tuần lễ gì đó rồi xìu xuống, lặn mất.
Hình như bây giờ đến lượt hoa tử đinh hương (lilac). Gọi là tử,
kỳ thực tím có, trắng có, xanh nhạt có...; lá nó khiến nhớ đến lá của
cây bông giấy ở quê nhà, mà hoa nó cũng lắm màu như hoa giấy. Lúc tử
đinh hương hết hoa thì bên rào lại trắng xóa hoa spirea rập rờn trong gió.
Cứ thế, hết đợt nọ đến đợt kia, các giống hoa xô đẩy nhau, dồn nhau,
đuổi nhau trong một cuộc trình diễn gấp gáp. Phải chứ, thì giờ đâu mà
nhẩn nha?
°
Cái hôm mà bé Johnny nhảy cỡn ở ven tường, tôi hứng chí chụp vội chiếc
mũ lên đầu, đi tung tăng một hồi, để hứng đón lấy tia nắng ấm đầu tiên
của năm.
Đi ngang qua công viên trước trường Mỹ Thuật, chợt chùn bước sững sờ
trước thế nằm của dăm ba cô sinh viên trên sân cỏ, cái thế nằm không tha
thứ được ở một người con gái Việt Nam trước mắt công chúng. Chẳng qua
các cô sinh viên nọ muốn cho tất cả các bộ phận trong người đều được
hưởng ánh dương, cái ánh dương ấm áp, quý báu đã vắng mặt từ sáu tháng
qua.
Về nhà, trong trí hãy còn lởn vởn mấy ý nghĩ phàn nàn về cái phong cách
vừa mục kích, tôi vén một lá màn cửa cho sáng sủa thì... Ô kìa! Qua
khung cửa sổ, trông thẳng sang nhà láng giềng, thấy ngay một cô gái, gần
trọn người lồ lộ, nằm tênh hênh phơi nắng... trên mái nhà!
Nhà đôi ba tầng trong xóm có những chỗ nhô ra một mái hiên con con. Và
nàng trải chăn, thoát y, tận hưởng ánh dương quang hàng giờ hàng buổi
cách mặt đất cả chục thước tây như thế; cả khu phố không ai là không thể
trông thấy. Quanh nàng một con mèo mướp thơ thẩn. Trên tàn cây du gần
đấy, một con sóc nhảy từ cành nọ sang cành kia...
Thế rồi, nắng càng rực rỡ, phơi phóng càng nhiều. Hoặc khênh giường,
hoặc trải chăn, hoặc khuân nệm ra vườn, ra bãi cỏ trước nhà, hoặc ra bờ
hồ, trên sườn đồi v.v... Cởi ra mà phơi.
Ngẫm nghĩ có hôm khách Mỹ đến nhà gặp ta chưa kịp thay bộ đồ bà ba,
khách lẫn lộn bà ba với py-gia-ma, lấy làm khó chịu. Ở trong nhà mặc
quần áo, kín từ cổ tới chân, mà hóa ra thất lễ; trong khi giữa công
chúng phơi gần trọn người thì là đủ... lễ! Trong trận cãi vã lao nhao
giữa các nền văn hóa, có những cái oái oăm kỳ cục.
°
Nửa đời người bỗng lạc loài đến nơi xa lạ, đón một cái tết không còn ra
tết, nhưng tôi lại được hưởng một cảnh xuân tuy muộn mà thật huy hoàng.
Bởi vì đến muộn, đến trong sự đợi chờ sốt ruột, đến sau một mùa giá rét
khắc nghiệt, cho nên mùa xuân càng tưng bừng, càng làm cho say sưa, ngây
ngất.
Ai nấy quý từng tia nắng. Trai trẻ, hễ ngoài giờ làm việc học hành là
tuôn tràn ra sân thể thao, ra sông hồ, đồi suối v.v... Nếu không chơi
banh, chèo thuyền, thì người ta câu cá. Có người lái xe đi hàng trăm dặm
để câu, có kẻ lấy vé máy bay sang tận Gia-nã-đại để câu (mặc dù ngay
tại tiểu bang này có hơn một vạn cái hồ). Câu xong, hoặc gỡ từng con cá
khỏi lưỡi câu, vứt trả xuống nước ngay tại chỗ, hoặc mang về cho bạn cho
bè. Câu lấy vui hơn là lấy ăn. Câu để có cớ hoạt động mà chạy hết hồ nọ
sang sông kia. Nắng lên tự dưng kiếm cớ mà chạy quanh chạy quẩn, thế
thôi. Còn các ông già bà cả không tung tăng được, cũng dắt díu nhau ra
khỏi các nhà dưỡng lão, kẻ còn đứng nổi trên hai chân thì tình nguyện
đẩy xe cho người cùng kiệt, họ nối nhau lũ lượt dạo quanh dăm ba nẻo
đường.
À, đã thế trời cũng không hẹp hòi. Đã thích nắng thì cho thỏa thích: mới
năm giờ rưỡi mặt trời đã mọc, nghĩa là từ năm giờ chân trời đã hừng
sáng. Thế rồi mãi gần chín giờ đêm, mặt trời mới chịu lặn. Tám rưỡi tối,
vài con sáo siêng năng hãy còn thơ thẩn trước sân cỏ.
Trời đã hậu đãi những ngày dài mười sáu giờ, một kẻ từ xứ nhiệt đới đến
dù không ham phơi phóng, dù không có được mấy thứ cần phơi như các cô
gái nõn nà xứ này, tôi cũng không đành nằm nhà giữa một mùa đẹp như thế.
Suốt ngày lang thang, thơ thẩn, phất phơ bên các dòng nước, ngồi mỏi
rồi lại nằm dim mắt dưới bóng cây...
Cụ Tiên Điền chịu cái “mầu quan san” của loài cây phong về mùa thu; uy
tín lớn lao của cụ khiến cây phong mùa xuân chịu thiệt thòi. Thực ra cái
màu (không phải là quan san) của cây hồng phong vào tháng tư dương lịch
cũng hay lắm: hoa vàng nhạt, lá đỏ gắt, đỏ đậm, hoa nhiều hơn lá. Thế
rồi cứ theo thời gian lá rậm dần, lớn dần, chuyển dần ra màu xanh; hoa
thì tàn dần. Cho đến giữa tháng năm, tàn cây hùng vĩ với vô vàn những
trái cánh đôi, đứng giữa các loài cây khác vẫn giữ một vẻ độc đáo, trông
chẳng giống ai.
Cụ Tiên Điền thì thiên về mùa thu, mà thi hào Lý Bạch lại thiên về cái lá:
“Minh triêu quải phàm khứ
Phong diệp lạc phân phân”
(Dựng buồm mai sáng thẳng dong,
Tơi bời rơi rụng lá phong ven bờ)
Giả sử họ Lý không phải dong buồm trên sông thu, mà một ngày xuân nào đó
nhân lúc quá chén nằm thiu thiu dưới bóng cây trên đồi, chợt thức giấc
trong ngọn gió mát, mở mắt trước cái cảnh trái phong, muôn vạn cánh
phong khô xoay tít trong gió, tản mạn đầy trời..., tôi chắc họ Lý cũng
không chê đâu.
Cái cảnh trái phong bay loạn lên như thế, nó là cả một hội vui giữa
không gian, là sự tưng bừng của nắng gió giữa trời. Nhất là ở nơi
Thủ-Phủ-Nước 3
này, tôi đã chờ suốt chín tháng mà không trông thấy một con bướm, ở một
nơi như thế lấy gì làm linh động không gian nếu không có điệu múa may
của những cánh phong?
°
Tôi vừa đề nghị với họ Lý một lối thưởng xuân lười lĩnh có thể làm
chướng mắt người Mỹ hiếu động. Về phần mình, đành thú thực những giờ
biếng nhác lơ mơ trên cỏ dưới cây là những giờ thích thú nhất trong mùa
xuân này, mùa xuân đầu tiên của cuộc đời lưu lạc.
Trải qua những xáo trộn dữ dội về tinh thần của năm qua, trải qua một
mùa đông tù hãm vừa rồi, tôi thẩn thơ trong nắng ấm, thần trí khật khừ,
như một kẻ vừa ốm dậy, nhưng bao nhiêu giác quan lại đê mê trong khung
cảnh diễm ảo.
Xứ sở này đẹp đẽ quá, thanh bình an lạc quá. Và đôi khi đang trông nắng
lao xao trên lá, lấp loáng trên nước, nghe tiếng chim hót lanh lảnh,
chợt sững sờ: Kìa! Không phải mình đang hưởng một mùa xuân an lành nhất
từ ba mươi năm qua đây sao?
Quả thực là an lành. Từ ngày lớn lên trên đất nước quê hương, có bao giờ
như năm nay, được đón xuân mà không lo lắng về những trận tấn công,
phản công, về những kế hoạch, sách lược, cao điểm, những biến cố hoặc
chính trị, hoặc kinh tế, hoặc quân sự đang rình rập đâu đó? Bây giờ
thì... khỏi hẳn!
Từ nay về sau, mùa xuân nó không còn tự liên hệ với hạt đậu phụng, cũng
không liên hệ với chính sách, kế hoạch, cao điểm nào nữa. Nó liên hệ với
cái gì? Với thằng Johnny nhảy cỡn chăng? với sự phơi phóng chăng? Không
biết. Dù sao tất cả những thứ sau này đều không gây ra thảm trạng, âu
lo.
Đất nước tôi đã chọn những nẻo đoạn trường, nó sẽ tiếp tục đi những nẻo
đoạn trường. Xuân này, xuân tới, và bao nhiêu xuân nữa, đồng bào tôi sẽ
còn lo lắng, đảo điên: những cuộc nổi dậy, những vụ đàn áp, những thanh
trừng, sửa sai, chuyển hướng, thi đua, nhảy vọt v.v... Riêng mình đã bị
đánh văng ra ngoài vòng. Từ nay riêng mình chỉ có những mùa xuân an
lành. An lành một cách xót xa.
Nhận thức ấy làm cho cuộc đời bỗng trở nên trống huếch trống hoác. Trống
kinh khủng, ghê rợn. Bỗng nhiên mà không còn có một tương lai nào trước
mặt, mà đứng ngoài vòng mọi lo lắng. Chao ôi, cái an lành của những
cuộc đời không tương lai.
Nắng xuân càng huy hoàng càng làm ta chơi vơi, choáng váng. Ta không
cánh mà như thể xoay tít trong không, tựa hồ những trái phong giữa trời.
5 - 1976
--------------------------------
1 | “ Ông tha bà lại không tha
Giáng cho một trận hăm ba tháng mười.��
(Ca dao)
|
2 | Tục danh của loại hoa pansy dại. |
3 | Tức Minneapolis. |
3. Lạnh
Hồi tôi nhắm mắt đưa chân tới thành phố xa lạ này, tôi đâu có ham giật
cái giải gì? Vậy mà đến đây năm trước năm sau liền được ngay cái hân
hạnh chứng kiến Thủy Phủ (Minne: nước; Polis: đô thị) đạt luôn một hơi
bốn kỷ lục về thời tiết.
Cách đây mười một năm, ngày 8 tháng 1 năm 1966, trời lạnh -20 độ F, và
được xem là ngày 8 tháng 1 lạnh nhất tại địa phương. Năm nay cũng đúng
vào ngày ấy, hàn độ xuống -23 độ F. Một kỷ lục.
Ngày kế tiếp, 9-1-74, cố gắng hạ xuống đến -21 độ. Nhưng năm nay, ngày 9
tháng 1 lại tụt xuống một lèo tận -32 độ. Thêm một trận đại thắng mùa
đông nữa.
Ngày 10 tháng 1 năm 1912, trời lạnh -23 độ. Kỷ lục vẻ vang ấy giữ vững
suốt sáu mươi lăm năm; đến năm nay, lúc 11 giờ rưỡi đêm 10-1, nhiệt kế
lại xuống -27. Rồi đời cái kỷ lục của năm 1912.
Ngày kế, 11 tháng 1 vẫn năm 1912, là cả một nỗ lực vượt bực trong lịch
sử khí tượng của xứ này: -30 độ. Nhưng vào lúc tờ mờ sáng 1-11 năm nay,
hàn độ xuống tận -31 độ: hết thuốc chữa.
Vẫn chưa xong. Chúng ta mới nói đến chuyện thượng tuần tháng 1 dương
lịch. Theo thường lệ, đó chỉ là màn mở đầu. Rồi từ đây tới cuối tháng,
hạ hồi còn nhiều hứa hẹn.
Xung quanh mình, thiên hạ nhốn nháo cả lên: Một trăm giờ liên tiếp dưới
không độ. Khiếp ơi là khiếp! Trong sở làm, trên xe buýt, trong các siêu
thị v.v..., gặp nhau ở đâu cũng toàn nói chuyện “trăm giờ dưới không
độ”.
Không độ? Cái ngôn ngữ ở đây ta nghe chưa quen, nghe cứ như là nó không
được... thật! Cách thức đo lường ở đây rắc rối, kỳ cục, không giống ai.
Cái gì mà nói ra nghe cứ lỉnh kỉnh những phít (feet), những pao (pound), những in (inch), những mai (mile) v.v... Rồi 12 in một phút (foot), mà 3 phit lại một da (yard); chẳng ra làm sao cả.
Hai trăm năm rồi, người Mỹ cứ cứng đầu cứng cổ giữ lấy những đơn vị đo
lường cổ lỗ, lủng củng ấy; mãi tới khi nghe tin dân An Nam sắp sửa chạy
sang, họ mới hoảng hồn bỏ thói cũ, vội vàng chấp nhận hệ thống đo lường
thông dụng trên thế giới. Nhưng đã muộn: thói quen ăn sâu, phải chờ một
thời gian chuyển tiếp để người Mỹ tập làm quen với các đơn vị mới. Hiện
giờ, trong ngôn ngữ hàng ngày ta vẫn nghe toàn pao, với phít, với mai.
Trở lại với cái không độ của người Mỹ: Đây là độ Fahrenheit. Khi nhiệt
kế Fahrenheit chỉ 32 độ thì nhiệt kế bách phân quen dùng ở ta xuống tới
không độ từ khuya. Thành thử, thực ra đâu phải vừa rồi chúng tôi chỉ
sống có một trăm giờ dưới không độ? Phải nói là hàng tháng, hàng một vài
tháng trời dưới không độ bách phân liên tiếp.
Vả lại, bảo rằng ngày 9-1 lạnh -32 độ, ấy chỉ là nói về cái độ lạnh
không kể ảnh hưởng của gió. Một khi ra đường, có tí gió vi vút, thì dám
xuống tới dăm, sáu chục độ như chơi!
°
Giữa thời tiết ấy, hình như khắp cả chốn Thủy Phủ chỉ có loại chó husky là hí hửng. Đó là một giống khuyển gốc Tây-bá-lợi-á. Gặp lạnh, chúng khoái tỉ ra mặt.
Ngoài ra, bao nhiêu chim muông đều có vẻ khốn khổ. Mấy ngày liền, tôi
không gặp một con sóc nào cả; cho đến lũ chim sẻ đông đảo cũng tự dưng
vắng bóng, chẳng thấy đâu.
Sóc, sẻ, với vịt là những con vật tôi vẫn liệt vào hàng đặc biệt thân
thuộc từ khi mới đến đây. Từ xứ nhiệt đới sang, trông con sáo không
giống hẳn con sáo bên nhà, trông con chó không mấy giống con chó bên
nhà, nhìn con bò không hề giống con bò bên nhà, nhìn hình thù người qua
kẻ lại không mấy giống bà con bên ta. Ngoảnh đi ngoảnh lại, chỉ có con
sóc bên đường, đàn sẻ trên cây, với lũ vịt trên các mặt hồ là trông quen
mặt, không có gì khác với các giống đồng chủng nhiệt đới. Ta có cảm
tưởng chúng vẫn theo ta từ bên nhà sang đây.
Sóc ở đây thật nhiều. Mùa hè, trong công viên, trên lề cỏ bên đường,
trên cành cây, trên mái nhà, đều có sóc nhởn nhơ. Có những lúc ta đang
nằm trong nhà xem dở trang báo, nghe có tiếng khua nhẹ bên cửa sổ: một
chú sóc men đến không biết từ lúc nào bên mép cửa, chân đặt lên mặt
kính, đang nghểnh đầu nhìn ta bằng đôi mắt chăm chú, dò hỏi. Ở công
viên, có những con sóc bạo dạn, trèo lên vai khách, chồm tới đòi chia xẻ
một miếng trái cây khách đang ngậm nơi miệng.
Đang gần gũi như thế, sóc có thể vụt phóc lên ngọn cây cao. Trên cây, nó
“bay” từ cành này sang cành kia, nhẹ phới. Nó như là thứ chim không
cánh. Giống khỉ cũng không kém tài, tuy nhiên hiện nay ở các đô thị
không mấy khi gặp khỉ sinh hoạt tự do. Cho nên trong chỗ đông đúc thế
này, loài sinh vật lông mao mà có thể nhảy nhót cao đến thế giữa không
trung, e chỉ có các tay hiệp khách truyện Tàu và các chú sóc.
Từ mấy hôm nay chẳng thấy sóc đâu nữa. Nghe nói chúng lo rúc vào các đống lá cây, nấp vào các hốc cây.
Con vịt thì trên mặt hồ chúng được hưởng một khoảng nước lỏng nho nhỏ,
mấp mé ba chục độ ấm. Xung quanh những nơi chúng bị cầm chân suốt mùa
đông như thế toàn những tuyết trắng mênh mông, tôi đâu dám lảng vảng đến
làm gì.
°
Sóc, vịt, sẻ v.v... các giống vật thích ứng thật tài tình, con người như chúng ta đành thua xa.
Mặc dầu đã quấn vào người bao nhiêu là lớp áo, lớp quần, lớp khăn cổ,
lớp mũ trùm đầu, mỗi lúc ra ngoài ta vẫn cứ điêu đứng như thường. Một
khoảnh da mặt bị hé lộ ra là một khoảng bị tê, bị rát như bỏng.
Từ ngoài bước vào nhà một lúc, da mặt như co rút lại, máu bắt đầu xông
dồn ra cứu nguy các chỗ tê cóng. Bấy giờ ta có cảm tưởng môi vêu lên, cử
động vụng về, vành tai chót mũi bị kim chích, đau réo lên.
Không bao giờ từng bộ phận trên nhân thể lại kêu gọi sự chú ý gấp rút
đến thế. Thường nhật ta vẫn biết mình có tay có chân, có mắt, có mũi,
nhưng mấy ai buồn để ý đến đâu? Tự dưng lúc này nào mũi nào tai bỗng
nhức nhói, rậm rật, như thể kêu la khẩn cấp: “Thưa ông, đây là cái tai,
đây là cái tai của ông:”, “Đây là cái mũi”, “Đây là vành môi khốn khổ
của ông”, v.v...
Ờ, thì là tai, là mũi. Nhưng gì mà nhặng xị, ồn ào quá vậy? Không yên một tí được sao?
- Không được! Ít ra phải mười phút sau khi vào nhà, các bộ phận nó mới trở lại tình trạng bình thường, mới chịu ngưng léo nhéo.
Ra đường là khốn khổ, mà sự ra đường thì tùy thuộc vào chiếc xe. Chiếc
xe hơi mùa mày lại dễ lâm bịnh. Trong bốn ngày kỷ lục nọ tính trung bình
cứ mỗi giờ trong thành phố có bốn trăm cú điện thoại gọi đến các trạm
xăng yêu cầu ra tay tế độ những chiếc xe không chịu nổ máy, bất chấp mọi
biện pháp săn sóc đề phòng từ trước!
Phép đề phòng thật vất vả. Ngoài chuyện cho chất nọ chất kia vào xăng,
vào bình điện, vào thùng nước v.v..., ngoài việc trùm chăm đắp mền cho
xe, lại còn cứ ba bốn giờ nên nổ máy xe một lần cho nóng máy. Ban ngày
còn khá, đêm đến, giữa khuya trời lạnh như cắt, mà đang ở trong nhà ấm
áp, phải nai nịt đồ đạc chồng chất vào người, ra đường nổ máy xe. Có
loại xe như Volkswagen không chịu nổ mà ngừng một chỗ, phải cho nó dạo
lòng vòng mấy khu phố hồi lâu. Khuya khuya, cho xe đi dạo, rồi đắp mền
cho xe tử tế; hầu hạ xe kỹ như thế xong mới được phép vào nhà ngủ.
°
Trong cái khoảng thời gian “trăm giờ dưới không độ”, một phóng viên của tờ Minneapolis Star
gặp một thiếu phụ bật khóc trên quãng đường năm dãy phố đi đến chỗ đậu
xe, liền hỏi, và được thiếu phụ nức nở vừa đáp: “Tôi mới từ California
dời nhà lên đây. Chịu không thấu. Tôi muốn trở về”.
Từ một tiểu bang Hoa Kỳ đến một tiểu bang Hoa Kỳ mà nàng đã chịu hết
thấu, nàng đã khóc lên khóc xuống. Huống hồ ta từ Đông Nam Á.
Vậy mà ta lại không nói được chuyện trở về. Ta lại còn chừng vài chục
năm trước mặt để đương đầu: ngày ngày lò mò thức giấc lúc trời còn tối
om, lóng cóng ra xe, tới sở; bốn rưỡi chiều ta ra khỏi sở đã lại tối om
om, tuyết đổ tơi bời, trời sầu đất thảm!
Nguyên một cái ở đã khốn khổ, lại còn cái ăn. Không lóng cóng như thế, sao có được cái ăn?
Từ hồi nào tới giờ tôi vẫn tự mắng mình là đứa vô thần bất trị. Trong
suốt mấy mươi năm trời, xứ tôi náo loạn cả lên vì sự xung đột giữa các
niềm tin — hoặc niềm tin duy vật, hoặc niềm tin duy tâm. Ấy vậy mà đầu
óc tôi cứ trơ ra, không chịu thấm nhuần tín ngưỡng vào đấng thần linh
nào cả. Tôi vẫn ngờ rằng trước sau rồi cũng có ngày sự sai quấy hỗn láo
ấy phải chịu một trừng phạt.
Quả nhiên. Ngày ấy đã đến. Và tôi đang chịu sự trừng phạt đến nơi đến chốn của ông thần quái ác nhất: ông... Thần Khẩu.
Tôi kêu trời trong giá lạnh xứ người: Biết bao giờ mình mới thoát nổi sự
cai trị, đầy ải nghiệt ngã ấy? mới chấm dứt được cái cực hình phục vụ
ông Thần Khẩu, một sự phục vụ nhục nhã, không lý tưởng nào cả.
1 – 1977
4. Mười Giờ
Gửi Võ Đình
Cây sweet pea — người Tàu gọi là đậu tuyết hay đậu xạ hương gì đó
— màu sắc thật là sặc sỡ. Ở đây người ta chỉ trồng lấy màu, lấy hoa,
lấy hương (xạ hương?). Người láng giềng gieo hạt hồi mùa đông, đầu xuân
đã có hoa nở rộ trên hàng dậu ngăn cách hai khoảnh vườn. Tháng ba dương
lịch, bà láng giềng thông báo cho ông về chuyện phá lũ dây đậu để gieo
hạt anh túc. Cũng lại một hoa sặc sỡ nữa. Bà ta có cái thú làm nở ra
những đóa hoa cánh mỏng dính có sắc màu lòe loẹt. Bà ta dự tính như thế,
ông tán thành ngay. Mà hình như lũ bướm cũng tán thưởng lắm.
Ông lạc mất trang sách từ lúc nào không hay. Tay vẫn cầm hững hờ cuốn
sách, nhưng mắt ông đã rời chữ. Xung quanh ông, khắp phòng, ánh sáng ùa
vào nhiều quá, ùa vào tràn trề. Hai mặt phòng có nhiều cửa gương lớn,
phòng ông vào giờ này là cả một niềm hân hoan.
Mấy hôm gần đây kể như hôm nào cũng vậy, rốt cuộc rồi cũng đến thế thôi:
ông bỏ sách, loay hoay tìm một mảnh giấy, một cái gì để cài vào làm dấu
trang sách nhưng không tìm được, ông đành úp mặt cuốn sách xuống thảm.
Rồi ông nằm ngẩn ngơ trong ngôi nhà sáng choang. Rồi ông ngồi dậy đốt
một điếu thuốc, khói xanh tỏa chầm chậm qua những tia ánh sáng. Rồi ông
mở cửa bước ra hiên. Ông trở vào pha cà-phê uống. Ông mở cửa ra vườn
sau, nghếch mặt nhìn nghiêng nhìn ngửa, đến bên cây này cây nọ, lại
nghếch mặt nhìn đàn sáo đậu trên dây điện, nhìn con quạ trên cây thông
sau lưng căn nhà trên ngọn đồi bên kia đường, có khi nhìn lên trời xanh
trống không. Rồi ông bước đến đứng một lúc dưới bóng cây long não. Rồi
ông cảm thấy mình lơ ngơ, không có việc gì giữa ngôi vườn vắng vẻ, ông
lại vào nhà, ông đốt một điếu thuốc nữa v.v... Ông nằm xuống, cầm lấy
cuốn sách. Một lát, ông lại nhổm dậy, úp sách xuống mặt thảm. “Căn phòng
này coi bộ sáng quá, sáng dữ đa!”. Ông nhìn qua cửa kính, theo dõi lũ
chim hải âu từ đâu ngoài bãi mới kéo vào khu phố này, lượn thấp trên các
mái nhà, sà cả xuống mặt đường. Ông đứng lên, mở cửa, bước ra hiên xem
hải âu chúng nó làm gì! Xem ra chúng cũng chẳng làm gì đáng kể: không ăn
không uống, không tìm sâu tìm hạt gì, chúng chỉ bay lên bay xuống, lượn
đi lượn về rà rà khắp xóm vậy thôi. Có con đậu lên một chiếc tán đèn
bên đường, một con hải âu xám trên chót đỉnh một cột đèn, đậu và phóng
uế, xong lại bay đi, vậy thôi. Rồi ông nhìn sang hai con bướm chờn vờn
trên hàng dậu sweet pea. Bướm nó bay, hay nhỉ, nó không bay thẳng
từ nơi này đến nơi khác, như không cốt bay để đến; nó bay như nhảy như
múa, như đùa như giỡn mà chơi. Một lát, tự cảm thấy thừa thãi trước
hiên, ông quay vào nhà, sửa lại chiếc gối, ghé nằm xuống, cầm cuốn sách
lên, xem đồng hồ: Thế mà đã mất khối thì giờ!
Gần như hôm nào cũng vậy. Đến một lúc nào đó, ông chợt để ý và tự hỏi:
“Có gì vậy cà?” Hồi gần đây có gì xảy ra? biến cố gì vậy?” Kiểm điểm
mãi, cũng thấy ra biến cố: Mười giờ.
°
Mười giờ là một biến cố. Đáng lẽ ông đã biết từ lâu, vậy mà không hiểu
tại sao ông lại lú đi, chẳng chịu thấy. Mười giờ sáng; trời đất vào cái
giờ ấy, nó lạ lắm. Bây giờ nhớ lại thì ông đã nhiều lần khốn khổ vào cái
lúc mười giờ. Hồi nhỏ, ngày ngày ngồi trong lớp học, mỗi buổi mai vào
khoảng mười giờ, thỉnh thoảng hoặc một con chim bay ngang qua cửa sổ kêu
đánh “chéo” một tiếng nhỏ, hoặc mấy đứa chăn trâu đùa giỡn với nhau
ngoài đồng để lọt vào tai ông mấy tiếng léo nhéo, hoặc tốp lính kéo đi
rộp rộp ngoài đường v.v..., thế là ông trông ra cái nắng tưng bừng bên
ngoài và lạc mất tiếng thầy giảng một lúc lâu, thần trí vẩn vơ mãi đâu
đâu.
Ngày nhỏ lơ đãng trong lớp, lớn lên ông lơ đãng ngay tại nhà. Cứ mười
giờ mai, vào giờ nắng ráo, ấm áp, là như thế. Cứ như có ai kêu ai réo ở
ngoài trời. Cứ như có hội hè ầm ĩ linh đình, có trống thúc cờ reo giục
giã khẩn cấp ở ngoài. Nằm không yên, ngồi đứng không yên.
Giá mà lúc ấy ta xô cửa, bước ra ngoài, bắt gặp quả tang “cái mười giờ”,
nhìn tận mặt nó một lúc thì rồi cũng nguôi ngoai. Rồi thấy mình lơ ngơ
thừa thãi. Rồi cũng đến trở vào nhà thôi. Nhưng nằm lì trong nhà, ngồi
lì trước bàn viết, nắm mãi cuốn sách trên tay, thì khổ sở đa!
Mười giờ, ngoài trời có gì vậy? Thì trời xanh vậy thôi. Thì mây trắng tơ
tướt ngang trời vậy thôi. Nhưng trời xanh thao thiết mênh mông vào lúc
mười giờ, tưởng chừng nó có cái hấp lực hút bật dậy những thây ma. Những
xác chết nhập tràng chồm lên dưới một tác động ma quái.
Ma quái chứ. Mở cửa ra, vẫn chỉ có trời xanh, có cây xanh, có ánh nắng
nhấp nháy trên lá xanh, mọi sự y nhiên, như xế hôm qua, như trưa hôm
trước, như sáng hôm kia, như một ngày năm ngoái, năm kia... Nhưng mà
không! Mười giờ hôm nay, vào giờ phút này, tưởng chừng nó đập gõ khua ầm
lên trước cửa mình vậy. Mỗi hôm nó mỗi quấy động, nó luôn luôn mới,
luôn luôn bất ngờ, nó là biến cố hàng ngày. Hôm nào mười giờ cũng làm
mình rạo rực, nao nức, như là một Mười Giờ đầu tiên buổi khai thiên lập
địa. Mười Giờ nào cũng là một Mười Giờ hoang sơ. Khu phố có thể tha hồ
vắng vẻ, cứ mười giờ là tưởng chừng có hội hè tưng bừng: Mười giờ ngoài
cửa, nó là một im lặng ầm ĩ, huyên náo, chát chúa.
Hoa có thứ hoa giờ tí có thứ hoa giờ ngọ, hoa tự do chọn lựa giờ giấc.
Thứ hoa chọn lúc khuya khoắt vắng vẻ như hoa quỳnh, nó tha hồ đơn độc,
ẻo lả, kiều mỵ. Còn hoa mười giờ không thế. Nó là hoa bầy hoa lũ. Là thứ
hoa đồng khởi. Nó dậy lên, đứng lên cùng lượt, rực lên chói chang. Nhất
hô bá ứng: Mười giờ cất tiếng gọi, từng từng lớp lớp điệp điệp trùng
trùng hoa nọ liền đứng lên giữa trời. Không có ai mang hoa mười giờ vào
phòng, vào những căn phòng nhỏ hẹp, để cho những ông cụ già móm mém vừa
nhắp từng hớp trà vừa “thưởng thức”. Hoa mười giờ phải nở giữa khoảng
rộng, dười trời bao la.
Đã mười giờ lại mười giờ sáng một ngày xuân, thôi thì khỏi nói. Đám dạ
lý hương bên hè phát triển mạnh quá, lấn tràn vào cửa, mùa đông vừa qua
ông đã phát bớt đi quá nửa lùm. Những gốc dạ lý hương bị đốn tưởng đã
chết khô, bẻ gãy rôm rốp. Thế mà sang xuân bỗng thấy mầm xanh phọt lên.
Lại nhớ có lần trong đống củi xếp sau hè thỉnh thoảng lại có cành bắn
mầm nứt lá non. Tiếng gọi mùa xuân, sức kêu gọi của sự sống, Trời! nó
mạnh kinh khủng!
Nghĩ đến cái rạo rực trong lòng một cành củi, một gốc cây khô, ông lại
nhân tiện nghĩ qua về cái rạo rực trong lòng mình: “Ờ! mà mình cũng “rạo
rực” lắm, đâu đã yên? Khối thì giờ mất đi một cách vu vơ. Thế mà không
để ý thì không biết đấy”. Ông nhìn xuống mấy ngón tay vàng khè khói
thuốc, mấy ngón tay dẹp, mỏng, khô quắt dần. Ông nhìn thoáng qua, rồi
quay mắt đi, chán ngán. Tuy nhiên cũng nhếch miệng cười bâng quơ.
Ngoài sân, con bướm chờn vờn bên dậu hoa sweet pea. Rồi nó rời
dậu hoa, bay nhanh qua suốt chiều ngang của khoảnh sân trước, tưởng đi
luôn sang vườn nhà bên cạnh, bỗng đâu lại thấy nó chập chờn ngay trước
hiên. Cái bóng của con bướm múa rộn ràng trên tấm màn cửa. Vào lúc ấy,
chợt vẳng lên tiếng một đứa trẻ. Tiếng gọi la eo éo gì đó, nghe không rõ
ràng, cách vài con phố, cất lên mấy tiếng rồi bặt mất.
Ông bàng hoàng. Tiếng kêu ngắn quá không kịp phân biệt là tiếng nước
nào. Mễ chăng? Mỹ chăng? Việt chăng? Tưởng chừng tiếng một đứa trẻ ngày
xưa hắt vào căn nhà tranh của ông từ một ngôi gò nào trong làng. Tưởng
chừng tiếng mấy đứa trẻ la giỡn ở một góc phố vẳng lọt vào lớp học hồi
niên thiếu... Một cái gì rung lên, quẫy mạnh trong ông. Ông xao động cả
người.
°
Ông nhớ bữa ăn sáng cuối cùng với một người đàn bà. Người đàn bà đã
chung sống với ông hơn chín tháng, ở một ngôi nhà mát mẻ thanh tịnh bên
Tân Qui Đông. Hồi tưởng lại những ngày đó thật êm đềm.
Hồi đó, hai người gặp nhau giữa một đám bạn. Ông có một cảm tình mơ hồ
với Loan lúc vừa mới gặp, tuy vậy ông không bắt chuyện, cũng không có dự
tính gì. Vào một lúc nào đó ông nói một câu vẩn vơ (bây giờ ông không
còn nhớ đại khái ra sao nữa, hay nói cho đúng là ông quên bẵng đã từ lâu
chứ không phải mới bây giờ). Loan nghe xong, không nói gì; nàng quay
mặt về phía khác, nhìn mông ra xa, mỉm cười nhẹ nhàng, bâng quơ. Ông sực
kiểm điểm và nhận thấy câu nói vừa rồi của mình quả nhiên là có hướng
về nàng, một cách vô ý thức. Sự hưởng ứng của nàng xa xôi dè dặt, lại
hơi hững hờ.
Vậy mà ít lâu sau hai người gần gũi, rồi ông rước nàng về chung sống.
Nghĩ lại, giá bấy giờ nàng niềm nỡ có lẽ ông đã lảng tránh. Độ ấy tự
dưng ông tránh hết những thái độ nồng nhiệt, tích cực, hăm hở. Tự dưng
ông mệt mỏi tận chỗ sâu xa nhất trong tâm hồn. Đang ở một căn phòng thuê
tại đường Cô Bắc, đi lại các tòa báo khá tiện khá gần, ông quyết định
rút hẳn về bên Tân Qui Đông. Ông từ chối bớt một số công việc tòa soạn,
hạn chế bớt một số khoản chi tiêu, hạn chế giao du, để hưởng một thời
gian yên tĩnh. Bên cạnh Loan. Và Loan là cả một sự yên tĩnh, êm đềm.
Hai người sống với nhau không lâu, nhưng “hợp nhau kinh khủng”, ông công nhận thế.
Hôm về ở với ông, nàng không có gì nhiều nhặn để mang theo. Y phục, nàng
cũng không sắm bao nhiêu. Nhưng nàng có chở theo một chậu trúc đằng
ngà. Kể ra không phải là thứ cây kiểng hiếm hay quí. Một cây trúc đằng
ngà nhỏ hơn cổ tay bị chặt ngang lưng chừng, cao chừng thước rưỡi tây,
thế thôi. Đưa cây trúc xuống xe, nàng cười. Ông bảo đặt nó ngay trước
hiên nhà, ngoài cửa sổ từ phòng khách trông ra. Nàng đồng ý dễ dãi.
Cây trúc thế mà khỏe. Cành lá nó tỏa rộng ra sum suê. Nhiều buổi trưa
vắng lũ chim sẻ kéo đến ríu rít trong tàn lá ấy. Mỗi lần nghe tiếng khua
động trong nhà, chúng bay tán loạn. Trưa mùa hè nhiều lúc không được
trông đến, trúc khô nước, lá cuốn cả lại. Múc một lon nước đổ vào gốc
cho nó, thử lắng tai, có thể nghe tiếng lá khô mở ra rào rào, khe khẽ.
Chừng vài giờ lá lại cuốn queo, lại cần thêm lon nước nữa.
Tàn lá ấy làm khổ cây trúc. Có những đêm gió lớn, sáng ra thấy nó lăn
kềnh, nằm chình ình trước hiên. Cái chậu đất nặng nề là thế vẫn chưa đủ
để giữ thăng bằng. Rốt cuộc Loan phải hè hụi trói cây trúc vào song cửa
bằng một sợi dây kẽm. Ông muốn giúp nàng một tay, nàng cười cười:
- Anh cứ để nó cho em. Em trị được mà.
Thực ra ông ngờ rằng không phải chỉ có thế. Không phải là nàng không
muốn phiền đến ai khác chỉ vì nàng đủ sức “trị” nó, mà bởi vì nàng muốn
tự tay mình chăm sóc cây trúc “của mình”. Cây tre cây trúc ít khi là cây
kiểng của một người đàn bà. Có thể đây là một kỷ niệm riêng sao đó.
Nàng có cây trúc trong trường hợp như thế nào? nàng “thừa hưởng” của ai?
Có lúc ông thoáng nghĩ ngợi về điều ấy, nhưng rốt cuộc cả hai cùng lảng
tránh, bỏ qua vấn đề. Sáng sáng hai người ngồi trước hiên điểm tâm,
uống cà-phê, và nhiều lần ông khen cây trúc đẹp. Nàng thắc mắc:
- Không thấy nó nẩy được mụt măng nào.
- Ờ nhỉ. Trồng lâu chưa?
- Lâu.
- Ờ, thế thì lạ.
Vậy rồi thôi. Ông không hỏi thực sự nó ở với nàng từ bao giờ.
“Trị” cây trúc là công việc của nàng. Ngoài ra nàng còn một thành tích
nữa, cũng đáng kể. Sau nhà có cây mít, không biết nàng tìm đâu ra cái
chuông, đem về treo lên một cành mít, rồi lại buộc một khúc cây bên cạnh
làm cái dùi. Thỉnh thoảng, trong gian nhà vắng lặng, hoặc ông đang nằm
đọc sách, hoặc chợt ngừng bút giữa trang giấy, hoặc đang ngồi lơ mơ uống
tách nước..., chợt nghe một tiếng “boong.., oong...oong...” từ sau
vườn.
Tiếng chuông đánh thức sự tịch mịch vắng vẻ. Ông tán thưởng:
- Hay nhỉ. Không có tiếng chuông, mình không để ý đến sự im vắng của xung quanh.
Nàng không nói gì. Một lát, ông lại ngẫm nghĩ:
- Thì vẫn là im vắng, nhưng một im vắng vô ý thức. Lâu lâu một tiếng
“boong” làm cho sự im vắng tự ý thức về mình. Thành ra một sự vắng lặng
có ý thức.
Nàng vẫn không nói gì. Nàng nhìn mông ra ngoài, cười bâng quơ.
Người đàn bà ấy không có mấy nữ trang, mấy món phấn son trang điểm; nàng
bỏ thì giờ vào những thứ vớ vẩn: cái chuông, chậu cây... Hai người sống
với nhau như thế cho đến một hôm ông bắt gặp Loan với một vẻ khổ sở.
Vài ngày sau, nàng bảo ông biết nàng vừa được tin nhà, nàng phải về quê,
ở dưới Sóc Trăng. Hoàn cảnh nàng có gì rối rắm khó khăn lắm. Ông khựng
lại, nhìn nàng chăm chú một lát, biết rằng sự thể không thể nào đổi khác
được, ông thở dài.
Hôm cuối cùng, loay hoay thế nào mà họ thức trắng đêm. Buổi tối, ngồi
trước hiên nhà mãi cũng buồn, ông lấy xe chở nàng đi ăn cháo cá, rồi hai
người ra ngồi bờ sông hóng mát tới khuya. Về, ông lại pha cà-phê uống,
rồi ngồi xem sách. Loan lên giường nằm hồi lâu không ngủ được, vẹt màn
chui ra. Ông bỏ sách, ngồi với nàng, chuyện trò lẩm cẩm. Đêm hết lúc nào
không hay. Lúc nhìn qua cửa sổ thấy chân trời ửng sáng, ông sực nhớ ra,
kêu đói, bảo Loan chải tóc tai để đi ăn sáng. Nàng ái ngại:
- Anh thức suốt đêm, có mệt không? Nhà sẵn còn trứng. Hay để em chiên “ốp la” ăn với bánh mì. Được không?
Ông lắc đầu. Lúc này ông muốn ngồi ở tiệm, ăn một tô phở nóng, thơm tho.
Thì đi. Qua cầu Tân Thuận, gặp hơi nước mát, ông hít mạnh vào phổi,
thích thú. Rồi ông cao hứng dừng xe lại bên kia cầu tìm một cái quán gần
bờ sông, ngồi nhìn mặt nước sáng dưới ánh bình minh, nhìn người qua kẻ
lại, thấy khoan khoái, tỉnh người dần. Hỏi chủ quán: không có phở, chỉ
có bò kho, có trứng “ốp la”. Không muốn bỏ một chỗ ngồi thích ý, ông gọi
trứng “ốp la” và quay lại bảo Loan:
- Nhất ẩm nhất trác, định trước cả. Số mình sáng nay ăn trứng thì chỉ
được ăn trứng thôi... Huống hồ những chuyện lớn trong đời, chạy đâu khỏi
số?
Nàng nhếch cười buồn bã.
Ăn xong, đốt điếu thuốc, ngồi trước tách trà thơm, ông lờ mờ nghĩ về
những ngày sắp tới. Chắc chắn ông sẽ trả ngôi nhà ở Tân Qui mà trở về
bên Sài Gòn. Ở một mình chỗ quạnh vắng, buồn chết. Vả lại, tiền dành dụm
đã vơi, ông cần ở gần các tờ báo để làm việc nhiều thêm. Ông nghĩ đến
cuộc dọn nhà trong tuần tới, nghĩ đến công việc lấy tin vào lúc mờ sáng ở
các tòa soạn nhật báo, đến công việc viết lách liên tu bất tận suốt
ngày... Ông thẫn thờ lẩm nhẩm: “Mệt kinh khủng!”
Nghe một tiếng cười khẽ, ông ngoảnh lại: Loan cười lớn hơn, nàng lấy tay
che miệng cười ngặt nghẽo, rồi lấy tay che cả mắt. Lát sau, khi nàng bỏ
tay xuống, nước mắt hãy còn trên má. Lưng bàn tay nàng cũng ướt.
°
Loan ra đi tuần trước thì tuần sau ông cũng dọn nhà đi luôn. Hai người
để lại trong vườn cũ cái chuông trên cây mít. (Cây trúc tất nhiên là
Loan đem theo. Nó lên xe sau cùng, khi nàng đã chất đồ xong và đã lên
ngồi trên xích-lô máy nàng mới nhờ người phu xích-lô bê nó đặt lên sàn
xe, và nàng bảo ông: “Để lại, anh không trị nó nổi đâu. Nó sẽ vòi vĩnh,
làm phiền anh.” Ông biết đó chỉ là một cách nói. Đó không phải là lý do
khiến nàng không rời nó.)
Ông thuê một căn phòng nhỏ ở tầng lầu hai một tòa nhà lớn gần chợ Thái
Bình. Trong cái hiu hắt của một cảnh sống đơn chiếc, có những buổi xế
chiều, sau một giấc ngủ trưa mê mệt, ông thức dậy, nằm thười trên
giường, ngao ngán nhìn bức tường phòng trơ trụi không một cái tranh cái
ảnh. Cửa sổ đóng kín, căn phòng im mát và râm râm tối. Nằm im hồi lâu,
trí nghĩ vẩn vơ từ chuyện nọ sang chuyện kia; trong vắng vẻ tĩnh mịch
chợt ông tưởng chừng nghe thấy một tiếng “boong...oong...oong!”
Ông bàng hoàng ngẩn ngơ. Ông không nghĩ đến Loan, nhưng từng giác quan
của ông chúng vẫn nhớ nàng. Trong cùng thẳm cõi vô thức của ông cái hơi
hướng của những ngày cùng Loan chung sống vẫn còn vương vất. Từ cái này
đến cái nọ, từ chuyện này đến chuyện kia, chúng trở về. Cái cổ tay của
nàng, bữa cháo khuya trước hiên nhà bên Tân Qui, và ơ kìa! cổ chân, còn
cả cái cổ chân của nàng nữa, thật là kỳ cục! và mùi tóc nàng nữa, và cái
nhìn mông rất bâng quơ v.v... Ở tuổi ông vẫn còn những vẩn vơ vậy sao?
Ông tự cười mình, lẩm nhẩm mấy câu lăng nhăng:
“Mình về mình nhớ ta chăng?
- Nhớ mình? Ta quyết đoan rằng là: Chưa!
Nhớ mình? đã nhớ đâu cơ
Chẳng qua chỉ có vẩn vơ nhớ... nhà
Vườn quê mỗi buổi chiều tà
Bâng quơ tai nhớ một và tiếng chuông
Cà-phê mỗi sáng tinh sương
Nhớ đôi cành trúc vấn vương bên thềm
Lưng trời nhớ một cánh chim”
Mãi sau đó khá lâu, một hôm ông có dịp sực nghĩ đến giọt nước mắt của
Loan trong bữa điểm tâm cuối cùng. Trong một thoáng, tự dưng ông tưởng
thấy rõ cả cái lý do, như thoắt “ngộ” sự thực tròn vẹn. Lý do là cái
tiếng “kinh khủng”... Đó là một thói quen của ông. Ông thường nói: “Dại
kinh khủng. Hay kinh khủng. Rắc rối kinh khủng”... Hôm đó ông vừa kêu
“Mệt kinh khủng” thì Loan cười. Nàng cười một thói quen. Rồi lại nghĩ
rằng từ đây nàng sẽ chẳng bao giờ còn nghe “kinh khủng” nữa, chẳng còn
gần gũi với cái thói quen hàng ngày ấy của ông nữa, nàng khóc lúc nào
không hay. Một thói quen ngộ nghĩnh, chẳng đâu vào đâu, nhưng nghĩ rằng
nàng sẽ mất nó mãi mãi, cho nên cuối tiếng cười có những giọt nước mắt.
°
Một cuộc chung sống mấy tháng rồi tan rã đã lâu thỉnh thoảng còn hắt về
một tiếng chuông mơ hồ như thế. Và ở Sóc Trăng chắc chắn một đôi khi ở
chỗ người qua kẻ lại, ở một góc đường, một quán nước, đâu đó chợt thoáng
nghe hai tiếng “kinh khủng” Loan cũng ngẩn người ra bồi hồi.
Hơi hướng một cuộc tình đã dai dẳng, ông nghĩ đến cái hơi hướng của cuộc đời. Của cả cuộc đời.
Mai kia, ông ra đi khỏi cõi đời này, chắc đâu cái hơi hướng của nó không
đeo đuổi? Ba tấc đất đâu đã thực là đủ sâu? Trong nghĩa trang, những
khu nghĩa trang với đồi cỏ xanh mướt, cây xanh mơn mởn, mười giờ lũ chim
sẻ, chim quành quạch kêu tíu tít, kêu rối cả lên, và nắng thì chan hòa,
những khu nghĩa trang đô thị nằm ngay cạnh các con lộ rộn ràng, sát kề
cuộc sống náo nức, trong những khu nghĩa trang như thế làm sao yên được
giấc nghìn thu! Khó đa. Cuộc đời còn inh ỏi hơn một tình nhân. Dĩ nhiên
ông không muốn nhớ, nhưng không nhớ mà được sao? Một tiếng còi xe, một
tiếng gọi la trong vắt của đứa bé ở một góc phố..., những cái ấy hắt lọt
xuống lòng huyệt vào nửa buổi mai huy hoàng, nó làm kinh động giấc
nghìn thu đến chừng nào. Không nhớ Cuộc Đời, không nhớ “mình” mà được
sao? Mình réo gọi, mình hút ta lên từ đáy mộ mỗi buổi mai mười giờ chứ
lị. Những inh ỏi của trần gian, chao ôi!
“Mình “về” mình nhớ ta chăng?
- Nhớ mình? Không nhớ được răng hả mình?
Ba tấc đất, biết bao tình
Mười giờ mình vỗ rập rình nắp săng
Mình xua gió thổi mây giăng
Mình tung ánh nắng vang vang khắp trời
Mình rung chuyển đất lay đồi...
Mai kia rồi nữa ta rời xa nhau
Nhớ mình không nhớ được sao?”
°
Ông lẩm nhẩm trong trí mấy câu sau cùng, rồi đứng lên, bước ra sau vườn,
nhìn bâng quơ: đàn sáo đậu trên dây điện đã bay đâu mất cả. Ông nhìn
mông lên trời xanh trống không một lát rồi quay vào nhà.
Mười giờ, ông bỗng dưng như thể một kẻ lểnh lảng: ở trong nhà thì nghe
như có tiếng réo gọi đâu đó xa xa, tung cửa ra ngoài không thấy ai,
không thấy gì cả. Trông bên nọ ngóng bên kia dáo dác một lúc, cảm thấy
tưng hửng, bèn quay vào.
Quay vào, thì nghe réo gọi bên ngoài. Văng vẳng, mơ hồ, mà khẩn trương,
hối hả. Thoạt tiên mình còn ngờ vực lấy mình, về sau càng lúc càng nhốn
nháo cả ruột gan. Tiếng gọi thiết tha quá, cấp bách quá, không sao không
đáp ứng được. Lại tung cửa chạy ra. Và nhìn xuôi trông ngược vẫn chẳng
có gì. Chỉ có ngọn gió vừa lướt qua. Chỉ có cây gồi già đội một mảng mây
trắng to tướng đứng trân trên ngọn đồi...
Như vậy là chẳng có gì? — Lẽ đâu thế? Tiếng réo gọi mơ hồ nhưng không
thể chối cãi. Sự Sống đó. Tiếng réo gọi của Sự Sống đó mà. Từ nơi cùng
thẳm hư vô, nó gọi ta. Cái lanh lảnh trong một tiếng trẻ con, cái rào
rào trong gió lá; một cánh bướm chập chờn, một cành tre dưới nắng: Nó
đấy. Nó cả đấy. Nó xa xôi tận cùng thẳm mà cũng gần gũi trong gang tấc.
Sự Sống đó. Tiếng gọi của Sự Sống nhiệm màu. Tiếng gọi của Trời Đất đó.
Của Vũ Trụ Càn Khôn mịt mờ ảo huyễn mà quyến rũ mê hoặc khôn lường đó.
Rồi mai kia:
“Nhớ mình không nhớ được sao?”
°
5 – 1987
5. Ổi Tàu
Bạn hiền,
Bạn đang cười ré lên đấy chứ gì? Bạn nên tiếp tục. Tốt lắm. Đời“di tản”,
cười được lúc nào hay lúc ấy. Giờ này bạn tha hồ thích thú. Bạn thích
thú về sự lố bịch của tôi: “Tên này chúa nhảm. Chưa chi đã dạy đời! Bảo
người ta bôn chôn, rồi mình cũng nhấp nhổm như gái ngồi phải cọc. Sao
không cố bám luôn lấy đất ấy mà an cư lạc nghiệp?”
Tôi không chối cãi vào đâu được. Dù không có một trí nhớ tốt, tôi cũng
chưa quên lá thư ấy. Hồi đó, mới mấy tháng trước đây, bạn thay đổi địa
chỉ liền liền, quả tôi có cảnh cáo bạn về một số hậu quả không hay của
sự lăng quăng. Tôi nói năng y hệt một kẻ biết điều, khôn ngoan, chín
chắn, lúc nào cũng làm chủ được mình, không để cho những phút yếu lòng,
những cơn hứng bất tử lung lạc. Thế rồi thoắt cái, bây giờ bạn bắt gặp
quả tang tôi cũng lại dọn nhà ra đi.
Vâng, bạn cứ cười. Chỉ cần giơ phong bì lên, so hai cái địa chỉ cũ và
mới, thấy ngay tôi đã đi một mạch ngót hai nghìn dặm đường. Từ Trung Bắc
tới tận Tây Nam nước Mỹ. Thế đáng gọi là một cuộc chạy dài.
Gần đây, tôi vắng thư. Mãi bận rộn vì cuộc chạy dài ấy tôi không viết
được cho bạn. Hôm nay phải trở lại với bạn chút ít về chuyện nam di đấy.
Không phải là để cắt nghĩa. Ối! “Ai đi cắt nghĩa được thiên di, có
nghĩa gì đâu... cứ việc đi”. Thế thôi. Mạnh bạn bạn ngược xuôi, mạnh tôi
tôi ngang dọc, mới đến xứ này, hãy cứ nhốn nháo như thế trong ít năm
đầu, rồi sau sẽ hay.
Tuy không hẳn là cắt nghĩa được lý do tại sao tôi quyết định về sinh
sống ở miền nam, nhưng đây cũng là một chuyện có liên quan đến việc nam
di. Thật vậy, hôm đó khi lần đầu trông thấy nó trên đường xuống Cali
tham quan, tôi đã biết ngay mình không thể cầm lòng được. Thế nào rồi
cũng phải xuôi nam thôi.
°
Tôi bắt gặp “nó” trước tiên ở tiểu bang Utah.
Hôm ấy chúng tôi đến thủ phủ tiểu bang thì trời vừa chạng vạng tối. Nghe
nói ở đây có nhiều cái hay: có niềm tín ngưỡng riêng, có nước mặn giữa
đất liền, có đàn ông đèo bòng dăm bảy khối hạnh phúc v.v... Dừng chân
lại đây một đêm để học lấy đôi ba sàng khôn hẳn là điều rất đáng làm.
Thoạt tiên chạy ngang chạy dọc mấy vòng cho biết qua mặt mũi Salt Lake
City, rồi chúng tôi tìm vào một khách sạn. Kê xong mấy khoản khai báo
trên mẫu giấy ghi danh tá túc, tôi xoay người lại, sắp sửa rời cái quầy
nơi văn phòng thì tầm mắt chợt hạ đúng vào chỗ bồn hoa giữa sân. “Ơ kìa,
ngộ chưa! cái gì lạ vậy cà?” Tôi vội vàng đến nỗi suýt tông cả người
vào tấm kính lớn ngăn cách văn phòng khách sạn với sân cỏ.
Quả nhiên tôi không lầm. Ra đến giữa sân, tôi đứng sững sờ. “Nó” đây
rồi. Thực “nó” đây rồi. Làm sao có thể ngờ được sau hăm mấy năm trời tôi
lại tái ngộ với “nó” trên bước đường lưu vong, ở mãi tận xứ Hoa Kỳ thế
này. “Nó” đến đây từ bao giờ! định cư lúc nào? trải qua những bước thăng
trầm như thế nào mà rốt cuộc bây giờ trông phởn phơ quá vậy? thể thống
quá vậy?
Nhưng “nó” là ai? Bạn đừng vội nổi cáu. Tôi không cố ý ỡm ờ. Tôi đang
viết thư chứ có phải viết truyện kiếm hiệp hay trinh thám đâu mà treo lơ
lửng sự bí mật để bắt bạn hồi hộp? Tôi rất muốn kêu phắt tên “nó” ra từ
lúc đầu, nhưng không kêu được đấy thôi. Tôi kẹt quá.
Kêu bằng tên nào bây giờ? Ở vùng quê tôi ai nấy vẫn gọi “nó” bằng tên
ấy: ổi tàu. Nào, tên đấy, bạn đã thấy có gì rõ thêm chưa nào? Ổi tàu là
thứ ổi quỉ quái gì vậy? Bạn suy luận: Vịt ta nhỏ bé, vịt xiêm thì bự;
dâu ta bằng đầu đũa, dâu tây bằng ngón chân cái; gà ta khiêm tốn, gà tây
là gà khổng lồ; trà ta xoàng, trà tàu thì nhất; thậm chí con chuột tàu
cũng quí hơn con chuột ta... Vậy ổi ta bằng quả bóng bàn, ổi tàu áng
chừng nó là thứ ổi mỗi quả bằng một nắm tay, hay bằng quả bóng rổ chăng?
thịt nó vừa ngọt vừa thơm bát ngát chăng?
Bạn mà nghĩ thế, bạn khốn đốn ngay. Thật vậy, táo tàu tha hồ hơn táo ta,
trà tàu tha hồ hơn trà ta v.v..., nhưng ổi tàu thì lại là tính danh của
một sự lố bịch đấy bạn ạ. Hạt ổi tàu nó bé như hạt tiêu, nó chen chúc
một khóm chi chít như thể một đám ruồi xúm nhau đậu chổng ngược đít lên
vậy.
Nếu bạn muốn, tôi có thể khai thêm một tên nữa. Ở quê tôi, bà con còn
gọi nó là... nho. Vâng, cây nho trái nho ở tôi đấy. Bên Tàu bên Tây,
người ta lấy nho làm rượu. Bồ đào mỹ tửu óng ánh dưới trăng, ngời ngời
trong thi ca xứ người. Ở tôi, thứ trái chi chít nọ cũng là nho: danh với
thực nhảm là thế.
Nhưng quê tôi thô lậu, bạn không biết đấy là đâu; tiếng nói địa phương ở
vùng tôi không có sức phổ biến rộng. Ở tôi nói gì, gọi là gì, bạn không
biết được. Tốt hơn nên cung cấp cho bạn cái danh xưng thông thái dùng
trong sách vở, lẽ ra phải thông dụng toàn quốc. Nhưng cái đó lại khó,
tôi có ý muốn phục vụ bạn thực kỹ mà không xong, rồi bạn xem.
Muốn sách vở thì có sách vở. Trong sách thực vật của ông Phạm Hoàng Hộ, cây lantana camara được gọi là cây thơm ổi. Lantana camara là thứ lantana nào? thuộc chi phái họ hàng gần xa ra sao? cái đó tôi không rõ. Nhưng lantana
thì chính thị là nó. Tên thơm ổi làm tôi mừng rơn. Nhà học giả đã nhất
trí với đồng bào vùng tôi ở tiếng ổi, lại còn bảo là nó thơm. Tuy nhiên
vừa buông cuốn sách của học giả xuống liền gặp rắc rối ngay.
Ông Phạm là con người của những cây cỏ miền Nam nước Việt, thế tại sao
tiếng nói của ông không mấy giống với tiếng nói những người miền Nam
khác? Tôi gặp nhiều đồng bào miền Nam sống quanh đây, tôi đưa thứ cây ấy
ra hỏi. Liền có câu đáp:
- Cứt heo đấy mà.
- Hả? Thưa... theo ông...
- Thì cây cứt heo đấy, ông ơi. Nó đấy.
Kẻ bảo thơm, người gọi c..., biết chọn sự trung dung ở đâu bây giờ?
Rồi tôi nẩy ý hỏi đến đồng bào miền Bắc. Nhiều người không biết, chắc
chắn đó là những vị sinh trưởng ở đô thị, không mấy quan tâm đến cây cỏ.
Một hôm tôi gặp một ông từng ở thôn quê. Ông cầm nhánh cây, ngẫm nghĩ:
- Tôi chắc nó là cây cứt lợn... Chắc thế. Không hẳn là giống cứt lợn ở ta, nhưng...
Ông bứt một chiếc lá, vê vê, rồi ngửi, rồi lại ngẫm nghĩ:
- Cứt lợn đấy... Trông màu hoa có khác. Nhưng... nó đấy.
Như vậy tôi nghĩ số phận nó đã gần như được quyết định: kẻ Nam người Bắc
cùng bảo thế thì hẳn tên nó là thế rồi. Cả sách vở thông thái cùng với
một địa phương nhỏ bé của tôi không đủ sức gỡ danh dự cho nó đâu. Nó chỉ
còn trông cậy ở chỗ này nữa thôi: là hình như có khá nhiều địa phương
độc đáo như địa phương tôi, tiếp tục từ chối cái tên xấu xa mà gọi nó
cách khác. Ở Huế, ở Nha Trang, Phan Thiết, Kontum v.v..., chưa từng nghe
nói đến bông hoa c... heo hay c... lợn. Biết đâu nó không là nho thơm
hay ổi thơm? Ở Quảng Ngãi, bà con chú ý đến màu hoa, gọi là bông ngũ
sắc.
Trong niềm hi vọng ấy, tôi đã ngập ngừng chần chờ, không muốn xưng ngay
tính danh nó ra lúc vừa bắt đầu. Nhưng từ lúc này, sau khi đã giải bày
cặn kẽ, tôi xin gọi nó bằng cái tên quen thuộc ở quê tôi: ổi tàu.
Tôi chắc bạn đang thắc mắc: vì sao tôi lại mê ổi tàu? lại làm lớn chuyện về ổi tàu?
°
Tôi mê ổi tàu? Nói thế là hãy còn nhẹ nhàng quá đấy. Có thể bảo về một phương diện nào đó tôi tự đồng hóa với ổi tàu. Nó là tôi.
Gần như tôi sinh ra giữa ổi tàu. Không hiểu do đâu mà quê tôi lắm ổi tàu
đến thế. Không có rào dậu nhà ai mà không có ổi tàu chen chúc. Không có
gò đống nào mà không có ổi tàu lan tràn, không có bờ ruộng, bờ ao, bờ
khe, bờ suối nào mà không có ổi tàu đứng giăng hàng san sát... Một
khoảnh đất khoảnh vườn ngưng canh tác hay thiếu chăm sóc trong ít lâu là
đã thấy cỏ và ổi tàu dấy lên ngay. Không mời mà đến, không gọi mà thưa:
Thứ cây vô duyên ấy cứ tự xuất hiện lừng lững, xuất hiện hàng hàng lớp
lớp. Ở quê tôi ổi tàu tràn ngập như... bể cây. Chỗ nào cũng có nó, đi
đâu cũng thấy nó; mà không đi, cứ nằm liệt tại nhà, ngước mắt lên nhìn
là đã thấy nó rồi.
Lớn lên trong cảnh ấy, riết rồi tôi có cảm tưởng ổi tàu là một sự tất
nhiên của thiên địa càn khôn. Hễ có đất là có ổi tàu, tôi không thể quan
niệm nổi một vũ trụ vắng bóng ổi tàu. Tôi trịnh trọng suy tư: “Ổi tàu
có đó, vậy vũ trụ hiện hữu.” Tôi yên trí nằm ngủ trên một chân lý nền
tảng.
Tôi nằm ngủ như thế suốt tuổi ấu thơ. Thế rồi xong tiểu học, bắt đầu xa
làng xa huyện, tôi dần dần tự tách rời khỏi ổi tàu. Đi học hành làm ăn ở
Qui Nhơn, Huế, Hà Nội, Sài Gòn, Chợ Lớn v.v..., tôi không có dịp gặp ổi
tàu nữa. Hàng lâu, mãi lo sách đèn, bài vở, lo bạn bè đàm đúm nhởn nhơ,
không nghĩ đến nó. Khi nhớ lại, thì thấy vắng bặt tự bao giờ. Quả tình
không hề thấy nó ở đầu đường Gia Long cuối đường Hưng Đạo nào, không
thấy nó lấp ló ở những cổng trường Đồng Khánh, Trưng Vương, không thấy
nó phất phơ dọc bờ sông Hương, sông Nhà Bè v.v... Rong chơi đây đó: Nha
Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Biên Hòa v.v...: không có đô thị lớn bé nào thấp
thoáng bóng ổi tàu. Có lần đánh bạo nêu lên cái tên nó để dò hỏi, thì
ai nấy ngơ ngác. Kẻ Thừa Thiên, Quảng Trị, người Đồng Nai, Bến Nghé, đều
không biết mình nói đến cái gì. Một vài anh bạn che miệng khúc khích:
- Cái gì của tàu? Ghẻ tàu hả? “Nẫu” nói gì hỏi gì vậy cà?
Tôi biết sự tình không ổn, vội vàng tháo lui:
- Không không... Ơ, ờ... Đâu có! Có ai hỏi gì đâu...
Tôi cấp tốc thu hồi nó về ngay, cất giữ cho mình, như một niềm riêng tư
không tiện tiết lộ cho bất cứ ai khác. Ngay từ hồi ở trong nước mà ngoài
làng quê ra, ai nấy đã ra người tứ xứ, không chịu cảm thông. Đi đây đi
đó, chỉ riêng tôi ấp ủ lấy tên tuổi cùng hình dáng của riêng nó mà thôi:
trong trường hợp ấy bạn bảo sao mà không có lúc tôi tự đồng hóa với nó.
Ổi tàu là vậy. Bỗng trong một lúc bất ngờ nhất, tự dưng tôi đối diện nó ở
tân thế giới, giữa thủ phủ xứ Utah. Không sững sờ được sao?
Bạn có tin hay không tin tùy bạn, tôi không ép. Nhưng tôi phải cho bạn
hay đó là một đối diện mừng mừng tủi tủi đấy bạn ạ. Bởi vì trong cuộc
trùng phùng, ổi tàu của tôi không còn là ổi tàu hèn mọn nữa, nó chợt ở
một ngôi vị cao sang không chờ đợi!
Thú thực với bạn từ ngày bỏ nước ra đi nhiều lúc tôi tự thấy xuống giá
ngang xương, cảm thấy mình có vẻ rạc rài thế nào. Còn ổi tàu, trong buổi
hoàng hôn tái ngộ ấy, ối tàu nó đang ngự giữa một bồn hoa lộng lẫy. Nó
đang trịnh trọng sánh vai cùng bao nhiêu là loài hoa rực rỡ. Vâng, nó
đấy, ổi tàu — nhất danh là cứt lợn — nó đang hớn hở giữa muôn hồng nghìn
tía đấy, bạn có tin được không?
Ngày còn ở quê hương, không ai có thể tưởng tượng cứt heo lại đem làm
cây cảnh. Sang Hoa Kỳ, cứt heo lên ngôi. Sao mà vẻ vang thế? Tôi mừng
cho nó, tủi cho mình.
Tình cảnh tựa hồ như thể một kẻ đồng hương với Chí Phèo bỏ làng ra đi
lưu lạc nhiều năm, ngày kia đến kinh đô một xứ lạ bỗng nhiên gặp lại Chí
Phèo mũ áo xênh xang giữa chốn triều đình, hay gặp Thị Nở đã hóa thành
một đấng phu nhân đường đường với đầy đủ kẻ hầu người hạ.
Cây cỏ cũng như người, bạn ạ. Cũng là cây ổi tàu mà ngày xưa khi nó đứng
ở đầu gò, góc rào, ven suối, trông nó chẳng ra làm sao; bây giờ chễm
chệ giữa sân trước tòa lâu đài sang trọng, trông lại tư cách hẳn ra. Nó
khoan thai gật gù nhè nhẹ trước gió chiều mát mẻ. Trông cao phẩm giá lắm
cơ.
Nói cho đúng, ở đây nó có được bồi dưỡng kỹ càng hơn: những phân, nước,
những thuốc trừ sâu bọ, những cắt tỉa chăm sóc thường xuyên có làm cho
lá nó xanh mướt hơn, hoa nó thắm hơn, dáng hình nó óng ả hơn thuở hoang
dại ngoài cõi thiên nhiên. Tóm lại, trông nó đắc ý ra mặt. Nó chịu Hoa
Kỳ hơn là quê tôi. Nó chịu lắm. Nó đắc ý một cách rất vong bản. Quả
nhiên sau này rõ ra là nó đã dắt díu tất cả bà con họ hàng di cư sang
Hoa Kỳ từ lâu. Thật vậy, ngày bé tôi chỉ biết có một loại ổi tàu, thứ
bình dân xoàng xĩnh nhất. Sang đây tôi dần dà điểm mặt được ít ra là
hàng chục loại ổi tàu khác nhau. Có thứ cây có thứ dây, có thứ đứng có
thứ nằm, nằm và bò lê bò la trên mặt đất, có thứ quấn quít leo lên những
loại cây khác, có thứ lớn có thứ bé, hoa lá lăn tăn như hường tường vi,
có thứ hoa đỏ, hoa vàng, có thứ hoa tím ngát, hoa hồng hồng v.v...
Không biết từ đâu mà chúng lũ lượt kéo nhau ra đông đảo thế.
Thế này thì quá cỡ. Hoa Kỳ thật quá cỡ: bom nguyên tử, nó có; phi thuyền
vũ trụ, con thoi không gian, nó có; to khổng lồ như loại cây hồng sam (sequoia) cả một chiếc xe hơi có thể chui tọt qua gốc cây, nó có; nhỏ tí xíu như con chim vo ve (humming bird)
lông lớn lông bé khắp người đếm không quá chín trăm chiếc, nó có. Chưa
hết! sau rốt nó còn sưu tập đủ loài đủ giống ổi tàu của tôi nữa.
Từ Utah xuống Cali, càng đi càng gặp thêm nhiều ổi tàu. Bạn bảo tôi còn
sự chọn lựa nào khác hơn. Một chút quê tôi đã bắt gặp ở đây rồi. Phải
“về” Cali thôi.
°
Bạn đang ngờ ngợ, cho rằng tôi có thể thuộc vào hạng người tha thiết với
quê hương, tôi có khuynh hướng “về nguồn” đấy chứ gì? tôi là một phần
tử có tinh thần dân tộc chứ gì? Nhảm, bạn đừng cao xa như thế, đâm hỏng
ra. Tôi không về cội về nguồn gì ráo. Tôi chỉ có khuynh hướng trở về
với... cái tôi đấy thôi.
Thú thực với bạn: trong khóm ổi tàu tôi chỉ trông thấy toàn những hình ảnh của chính mình. Nhiều lắm bạn ạ.
Tôi trông thấy dọc theo chân rào trước nhà những đứa bé, trai và gái,
những đứa bé bốn năm tuổi lúc thúc bên nhau, giơ những bàn tay bé tí
teo, xòe những ngón tay thật là xinh túm lấy mớ bông ổi tàu để nhổ lên,
ngửa cổ, xoay ngược gốc hoa vào miệng, cố mút lấy một hạt mật ngọt mà
con ong cũng chê là quá nhỏ. Đến mùa trái chín, những đứa bé ấy đi gỡ
từng nhúm trái ổi tàu li ti như những hạt tiêu đen, sung sướng cho vào
mồm. Trái chín vỡ ra trong các bàn tay vụng về, quệt quạc trây lên má
lên mép, nom lem nhem luốc nhuốc. Ngày này qua ngày khác, tháng nọ sang
tháng kia, các trò chơi, các thú vui nghèo nàn của những đứa bé ấy diễn
ra quanh quẩn bên các chân rào. Những cặp mắt đen láy ấy, những bàn tay
tí xíu ấy, những tiếng nói cười bi bô, ríu rít ấy... ngày lại ngày...
bên cạnh những bụi ổi tàu chen chúc dày đặc ở bờ rào. Bây giờ tôi còn
tưởng tượng ngửi lại được cái mùi của lá ổi tàu dập nát trên tay, cái
mùi thật mạnh.
Này bạn, trong những đứa bé lúc thúc bên chân rào ấy, về sau có đứa cầm
súng đánh nhau và chết về súng đạn, có đứa từng trở thành mẹ chiến sĩ,
rồi có đứa đã thành bà ngoại bà nội nhăn nheo!
Dĩ nhiên trước khi nhăn nheo họ đã trải qua một thời kỳ khác. Thời kỳ mà
mắt họ long lanh, ngực họ căng lên rạo rực, môi má của họ đỏ hồng...
Tôi lớn lên, rời xa làng, thỉnh thoảng về quê, từng có dịp gặp lại đôi
người. Những cô bạn bé xíu ngày xưa giờ đâm ngượng ngùng, mặt đỏ ửng,
trên một khúc đường làng vắng vẻ họ ý tứ đứng nép sát một bờ rào (lại ổi
tàu). Ánh mắt nhìn nhau, câu chào giọng nói với nhau lúc bấy giờ, chao
ôi, những cái đó sương khói thời gian lớp lớp tỏa mờ vẫn chưa xóa lấp
nổi đâu. Ở cuối trời, xa xôi tít tắp, sương khói lờ mờ cứ mãi rung lên,
phải chăng là rung lên vì những xôn xao đắm đuối chưa chịu lắng chìm
hẳn.
Xin lỗi bạn, tôi có cao hứng quá không nhỉ? Tôi còn muốn nhắc thêm với
bạn về một hình ảnh nữa. Cái hình ảnh của chàng trai mới lớn, đầu đội
chiếc nón cối, giữa buổi mai đứng bên bờ sông La Tinh nghe chim hót...
Ấy chết, bạn đừng nghĩ con sông La Tinh chảy đâu đó gần kinh thành
La-mã, hoặc giả quanh quẩn bên cạnh thành phố Venise thơ mộng! Không có
đâu. La Tinh là tên con sông ở quê tôi đó, bạn ơi. So với những tên tuổi
lừng lẫy vừa nói qua, nó là một sự hài hước. Tuy gọi là sông, nó bé
lắm. Trong nhiều tháng trời nó cạn khô. Chỉ vào tháng chín tháng mười
nước lũ mới tràn bờ; rồi nước rút đi nhanh chóng; sang xuân là nó đã
hiền khô như một con suối. Lòng sông gần như chỉ những toàn cát với
cuội. Gọi là nước, bất quá một dòng róc rách, ngoằn ngoèo cho vui vậy
thôi. Ấy, trên bờ một con sông như thế chàng ta đứng nghe chim hót. Và
tay chàng thì... mãi vân vê một lá thư tình cứ như đang lồng lên trong
túi áo, lá thư tình đầu tiên!
Những con chim nào đã hót trong buổi sáng thần tiên hôm ấy? Chỉ biết
ngày nay, cách xa ba mươi năm dư, bên tai chàng còn vang vang tiếng
cưởng tiếng sáo. Trời xanh trong vắt. Những con khướu, con cưởng, con
sáo ở đâu ven sông mà chúng kêu lên ong óng, kêu lanh lảnh, làm rung
động cả bầu không khí buổi mai rực rỡ. Tiếng cưởng sáo nó khua vang inh
ỏi buổi mai, làm chàng nôn nao rối loạn cả lên. Và làm cho từ đó chàng
cứ có cái cảm tưởng là hạnh phúc trần gian toàn xuất hiện dưới hình thức
tiếng chim kêu!
Chúa quyền năng tha hồ làm được vô số những buổi mai như thế, cố nhiên.
Nhưng trong đời chàng, chàng không gặp lại một cơ hội tương tự. Thời
gian trôi qua, mỗi lúc chàng mỗi xa cơ hội tương tự. Phải chăng lặp lại
là một việc làm thiếu sáng tạo, không xứng đáng, cho nên đấng quyền năng
nhất định không tái ban phát cho chàng buổi mai nào như thế nữa. Suốt
đời chàng chỉ có thể ngoảnh đầu ngóng về một buổi mai bên bờ sông La
Tinh.
Và bờ sông ấy — tôi cam đoan với bạn — suốt từ nguồn cho đến bể, tuyệt
nhiên không hề có bóng dáng một cây liễu cây dương nào để gọi là thơ
mộng. Chỉ có lau, có sậy, có tre, có dứa, có những thứ cây loàng xoàng,
cùng với... ổi tàu mà thôi.
Thành thử trong bao nhiêu năm thiếu vắng nó, mặc dù bị chế giễu vì sự dò
hỏi về nó, tôi không nản chí. Bị chế giễu, tôi tháo lui. Nhưng trong
thâm tâm vẫn một mực đinh ninh: rồi sẽ có ngày... Tôi tự an ủi: Yên chí!
Chờ ngày thái bình thịnh trị, trở về làng, tha hồ tái ngộ. Đành là
chiến tranh dữ thật, nhưng bom đạn nào bột khai quang nào mà tru diệt
nổi ổi tàu? Nó sẽ trơ trơ cùng tuế nguyệt. Rồi xem: thế nào cũng lại gặp
nhau mà!
Bây giờ bạn đang ở Mỹ, bạn nghe nhắc đến hình ảnh “thân yêu” của người
thanh niên nón cối, bạn cười muốn chết. Bạn cười cho cái thời vàng son
của tôi chứ gì. Tốt thôi. Trong kho kỷ niệm của chúng ta còn có nhiều
mẫu hình ảnh ngộ lắm. Có câu hát:
“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai”.
Người quân tử đội nón cối ước chừng là cháu ba bốn đời của người quân tử
từng vắt lên vai thứ khăn đậm màu nọ. Cũng như thế hệ quân tử đầu trần ở
Mỹ hiện nay là con cháu của lớp quân tử đội mũ dạ vừa qua. Thời thế đổi
thay. Hình dạng người quân tử không ngớt tùy thời thay đổi. Duy ổi tàu
vẫn thế. Ở khách sạn Utah cũng như hồi ở xóm tôi.
Đến đây bạn kêu ngấy đến tận cổ rồi chứ gì? Bạn hết chịu thấu ổi tàu,
bạn ngáp lên ngáp xuống, bạn than dài thở vắn: Thư đâu có thư lê thê
lòng thòng đến thế v.v... Mặc kệ! bạn không thể thoát ra dễ dàng khỏi ổi
tàu đâu. Tôi còn những mấy trang nữa dành cho bạn đấy. Không phải vì ác
ý: chính tôi cũng không thoát khỏi nó phen này. Đã khơi động đến niềm
xưa, thôi thì liên miên, rứt ra không nổi.
°
Hãy trở lại xóm tôi. Xóm tôi toàn những gò là gò: gò Huyện, gò Ngựa, gò
Đu, gò Căng, gò Đình, gò Cầy, gò Muồng, v.v... Cứ như chỗ tôi hiểu biết,
cách đây không lâu vùng này còn là hoang địa. Xóm tôi chưa có dấu vết
văn minh. Nói cách khác, trước tôi đôi ba đời gì đó chủ quyền vùng này
hãy còn thuộc về cây cỏ và muông thú, chưa thuộc về loài người. Ông
Kha-luân-bố tìm ra tân thế giới trước, xong rồi các nhà thám hiểm vất vả
còn phải nghỉ ngơi một thời gian dài, mãi về sau mới có người tìm ra
xóm tôi đấy, bạn ạ. Lúc mới tiến chiếm đất, người tạm sống chung với
muông thú: chồn, cáo, cọp beo, heo rừng v.v... Cuộc sống chung còn để
lại nhiều kỷ niệm. Dân làng vẫn kể rằng trước đây cứ đến đúng cái đêm
trước ngày giỗ ông Bưng là có con cọp về ngồi ngoài hè, đưa chiếc đuôi
lòn qua ngạch cửa, quơ quất vào trong nhà. Đám con cháu phải quát đuổi
om sòm lên cọp mới chịu bỏ đi. Sở dĩ có chuyện ấy vì trước kia con cọp
nọ đã vồ bắt ông Bưng trong lúc ông đang lom khom cắt tranh; người nhà
chỉ còn tìm được nửa thây ông để chôn cất.
Cọp bắt người thì thỉnh thoảng, nhưng chuyện cọp bắt heo bắt chó ở xóm
tôi là chuyện thường, bà tôi hãy còn nhớ rõ mồn một những vụ như thế. Vì
vậy, ngay sau này, khi tôi đã lên năm lên bảy, vào những lúc trời chạng
vạng tối, tôi đang loanh quanh gần bà, chợt có tiếng te te cất lên đâu
đó là bà tôi liền lắng tai nghe ngóng, đầy e ngại.
Con te te, bạn biết chứ? Nó là loài chim nhỏ bằng nửa nắm tay, đặc biệt
có cặp chân nhỏ và dài lêu khêu như que hương. Nó thường kiếm ăn ở các
gò. Te te, không thấy nó đi bao giờ; nó chỉ có chạy. Bạn hãy còn xa, nó
nghểnh cổ trông chừng; bạn đến gần thêm, nó vùng cắm đầu chạy một mạch
rồi dừng phắt bất ngờ. Bạn lại tiến, nó lại chạy, hay cất cánh bay luôn.
Chim thì bé mà tiếng kêu của nó vang rất xa. “Te te... ù uét! Te te... ù
uét!” Tiếng cao và xẳng the thé. Rất nhiều buổi tối, từ lúc chạng vạng
cho đến bảy tám giờ đêm, thằng bé là tôi nằm trong ngôi nhà ít người
không đèn không lửa ở chỗ đồng quê quạnh vắng, nằm nghe tiếng côn trùng
rỉ rả và nghe cái tiếng lạ lùng của con te te kêu thét lên khi xa khi
gần không biết từ những chỗ bìa rừng, những khoảnh gò đống nào tràn đầy
bóng tối trong khắp vùng. Tôi lo sợ chơi vơi như một mình bơ vơ giữa cõi
hồng hoang chất chứa bí ẩn, mơ hồ đe dọa. Bà tôi đinh ninh rằng hễ te
te nó “đánh” vào lúc chạng vạng tối thường thường là có cọp loanh quanh
đâu đó. Te te nó nhạy lắm. Một bước động nhẹ trên mặt đất cũng không qua
khỏi tai nó.
Gạt ra một bên tất cả các định nghĩa lòng vòng cùng các tiêu chuẩn rắc
rối về văn minh với văn hóa, tôi nhất trí với những ai nhận định giản
đơn rằng nơi nào có máy móc, có điện, có lắm xe, có xa lộ mênh mông
chằng chịt là văn minh, còn nơi nào người ở lẫn với cọp beo, với lợn
lòi, với te te v.v... thì còn hơi thấp văn minh. Tôi không thiên vị,
không yêu xóm gò vì nền văn minh cao. Không, tôi chỉ yêu vì nó là cõi
thiên đường.
Khi tôi phải rời làng đi học trường huyện trường tỉnh, phải ở trọ nhà
người ta tháng nọ sang tháng kia, mỗi lần có dịp về, lúc còn cách nhà
một vài trăm thước, là tự dưng chân tôi quýnh lên, líu quíu cả lại, tôi
gần như không bước được nữa.
Xung quanh nhà tôi toàn những gò. Muốn về nhà, dù đi đường nào tôi cũng bắt buộc phải băng qua một cái gò.
Suốt dọc đường, trên xe lửa, xe hơi, tôi nén được niềm vui. Nhưng khi
chân giẫm lên một đầu gò, tôi trông thấy bóng dáng lẻ loi của một con te
te lỏng khỏng giữa những nấm mộ lè tè, với mớ cỏ may khô xơ xác, với
những đám ổi tàu..., tức thì tim tôi nó lồng lộn lên, nó làm loạn cả
lên, nó quá xá, không sao kềm chế nổi nữa.
Tới gò là tới nhà. Tôi đã sắp đặt trong đầu bao nhiêu là kế hoạch, là
trò lạ. Đã đến lúc đem ra thi hành. Trò nào cũng hay ho, tuyệt vời, thần
tình cả. Hoặc giả tôi rón rén đi rất nhẹ nhàng vào cổng, nấp xem bà tôi
đang lom khom bên luống rau nào, đang cặm cụi chăm nom những giàn cà
với dây bí dây bầu nào, tôi sẽ bước êm như ru đến đứng ngay sau lưng bà,
đứng như thế mà nhất định vẫn không chịu lên tiếng đâu, tôi đứng cho
thật lâu xem bà tôi làm những gì, tôi sẽ nén cho khỏi bật cười, tôi đứng
chờ đến lúc bà tình cờ quay lại, trông thấy tôi... Lúc ấy... phải biết!
Hoặc giả tôi lẻn vào thẳng trong nhà như một cái bóng. Tôi cất mũ nón,
thay đồ đạc, không để ai nhận thấy vừa mới về, tôi làm y như thể tôi vẫn
ở nguyên trong nhà với mọi người từ bao giờ, tôi vào giường nhặt một
chiếc gối mang ra nằm ngay xuống chiếc trường kỷ giữa nhà. Bà tôi có
thói quen dù làm gì ở ngoài vườn lâu lâu cũng ghé vào nhà uống một tách
trà, có khi còn khều một vài lá trà tàu trong bình ra bỏ vào miệng nhai
móm mém cho thơm. Giữa hai hớp trà chợt bà ngước mắt trông thấy tôi đang
nằm... ngủ (?!) trên trường kỷ thì... ối chao ơi! Tưởng tượng đến cái
cảnh bà luống cuống quýnh quáng lúc ấy, tôi hết chịu nổi. Bà líu ríu kêu
lên mấy tiếng. Thế là cô tôi, em tôi... nhào vô nhà, cùng xúm lại la
lối, cười rú. Tưởng tượng ra cảnh ấy, đột nhiên chính tôi lại đâm quýnh
quáng ở đầu gò. Lần nào cũng vậy.
Tôi có nhiều trò, nhiều mẹo lạ như thế. Tựu trung mẹo nào cũng căn cứ
trên một niềm tin căn bản: là sự hiện diện của tôi quí giá vô cùng, nó
là một nguồn vui lớn lao kinh khủng, nó làm cho mọi người mừng rỡ không
thể tả được.
Ngày tôi còn bé, hai thân tôi đem nhau đi làm ăn trong Nam, vì chỗ quê
hương quá nghèo nàn không hứa hẹn gì. Tôi sống với ông bà cô chú. Các cô
chú, cũng lại vì sinh kế, không luôn luôn có mặt tại nhà. Trong nhiều
năm trời thường thường không có cha mẹ nào chờ đón tôi ở gia đình, nhưng
tôi không có chút nghi ngờ gì về lòng thương yêu quí mến của mọi người
đối với mình. Tự giấu mình đi, để dành một cơn vui bất ngờ, khủng khiếp
(!) cho ai nấy trong nhà, tôi tự trao cho mình cái giá khiêm tốn của
một... lô độc đắc! Tôi chọn một hình thức trao giải thật ngoạn mục, cho
có một ép-phê bùng nổ kinh hoàng. Và tôi không tính sai. Tôi thành công
liên tiếp. Mỗi lần về là một chấn động. Tôi hoan hỉ, hể hả, hài lòng về
mình. Cho đến bây giờ không lúc nào thoáng nghĩ đến một mô gò xơ xác với
cỏ may hiu hắt, với ổi tàu bụi thấp bụi cao, mà tôi không rộn rã trong
lòng.
Bây giờ, trên xứ này, thân tôi là một hạt cát. Sự hiện diện lạc lõng của
tôi trên cõi lục địa mênh mông này không là cái gì cả. Không có con
đường nào, ngôi gò nào, lùm cây bãi cỏ nào làm tôi run chân cả. Tôi tha
hồ phất phơ lang bạt, không có nơi nào khác nơi nào, ở đây không có một
nơi nào để mà “về” cả. Có về, chẳng qua là một kiểu “về” vờ vĩnh như về
Cali.
- Ủa! còn đòi gì nữa? Đời vô thủy vô chung vô cùng vô tận, ta là cát bụi trong khoảnh khắc. Bạn không biết vậy sao?
- Bạn biết từ lời dạy của triết gia là một chuyện. Mà khi bạn thấm cái ý nghĩa cát bụi ấy mới thấy nó thê lương là chừng nào.
Nhưng ơ này! bất chấp mọi dạy dỗ của thánh hiền, tôi cứ cam đoan với
bạn: Đời ta có thể phù du, vũ trụ có thể là hư không, nhưng ngày nào ta
còn đi về một chốn quê xó xỉnh hoang vu nào đó có chim te te với ổi tàu,
ta còn là lớn lao choáng cả càn khôn, ta còn là cả một càn khôn đấy bạn
ạ. Tôi tin thế nên tôi dọn nhà đến sống bên cạnh ổi tàu đây.
°
Tôi thấy bạn lắc đầu ngao ngán: “Úi dào! thư với thả! Con cà con kê mãi chỉ vì một nỗi... cứt lợn!”
Thôi thì buông tha bạn vậy. Nhưng bạn nhớ ghi lại cái địa chỉ mới của tôi trước khi vứt bỏ lá thư chán ngắt này đấy nhé.
°
12 – 1987
6 . Hoan Ca
Từ hồi nào tới giờ tôi vẫn khoái câu hát xẩm ấy:
“Buồn về một nỗi tháng giêng
Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài
Buồn về một nỗi tháng hai v.v...”
Cứ thế buồn miết. Tháng nào cũng buồn. Dân tộc tôi ham buồn và kính
trọng cái buồn. Tuy vậy, trong trường hợp này, thực tình mà nói tôi
không khoái vì nỗi buồn. Mà vì chuyện nằm nghiêng. Không biết trời xui
đất khiến thế nào một ý kiến ngộ nghĩnh như thế lại nảy ra trong đầu óc
một nghệ sĩ nào đó xa xưa. “Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài”. Ngộ
quá!
Một người có thể nghe câu hát ấy với đôi tai hờ hững là một người đắc
tội. Người như vậy giá một hôm tình cờ có gặp trên đường vài con ngựa rủ
nhau khiêu vũ trên sáu chân cũng không lấy làm ngạc nhiên, có trông
thấy chiếc cầu vồng mười tám màu cũng không lấy làm ngạc nhiên. Tức là
một người không chịu xúc động trước bất cứ biểu thị ngoạn mục nào của
cuộc sống, của trời đất. Đối với người ấy, Chúa có ra sức làm phép lạ
cũng vô ích thôi. Đối với người ấy, không có cái gì là lạ.
Câu hát nọ, lâu lâu tôi tưởng tượng dông dài, và càng khoái thêm. Câu
lục bát “con chim cái cú” đâu phải do một nghệ sĩ bất thần nghĩ ra, rồi
viết xuống, rồi rung đùi một mình? Đó là bài hát mà. Một người hát, trăm
người nghe. Một người hát, hát biết mấy trăm mấy nghìn lần, trước biết
bao nhiêu thành phần đối tượng khác nhau: ở hè phố, trên bến tàu, ở đầu
chợ, mép sông v.v... Tức là đã chịu hằng hà sa số cuộc thử thách, và đã
vượt qua tất cả. Giả sử trong một lần nào đó nó xuất hiện mà có kẻ thắc
mắc, buột miệng kêu “kỳ cục”, thì bài hát đâu có lưu truyền được lâu?
Không. Tôi tin không hề có lời thị phi nào về con cú nằm nghiêng, con cú
thở dài cả. Tôi tin nó chỉ gặp toàn sự tán thưởng. Cho nên nó cứ nằm
nghiêng một mạch luôn mấy trăm năm. Hẳn là nó phải lấy làm đẹp lòng. Mà
tôi thì đắc ý về chỗ mình đã bắt kịp cái khiếu thưởng ngoạn khoáng đạt
của đồng bào mình. Tôi hí hửng như thế cho đến gần đây, sau chuyến đi
chơi Hạ-uy-di về, tự dưng có “vấn đề”.
Cũng bài hát ấy:
“Buồn về một nỗi tháng năm
Chưa đặt mình nằm gà gáy chim kêu.”
Nỗi tháng năm làm tôi ái ngại quá chừng. Ca hát kiểu ấy là có ý trách
đêm ngắn ngày dài. Là phiền lòng về chỗ con chim con gà nó bắt đầu sinh
hoạt quá sớm. Là ham cái ngủ mà chê cái sống. Sao vậy cà?
°
Hạ-uy-di đêm tháng năm cũng ngắn. Tôi chắc nó phải tận lực bình sinh co
rút hết sức, cho cùng cực ngắn, vì áp lực thôi thúc; thế mà người ta vẫn
cứ sốt ruột.
Trời chưa kịp sáng, mới bốn giờ bốn rưỡi gì đó, một sự rậm rật vô ý thức
đã đánh thức tôi dậy. Nằm nán một lúc, trông qua cửa kính, thấy ánh
sáng bên ngoài đổi màu. Không chỉ còn là ánh điện. Có một thứ ánh sáng
gì khác hẩng lên rồi, không biết từ lúc nào. Và tai cũng bắt gặp những
khua khuống không thường. Đêm Hạ-uy-di nó vẫn vậy sao? nó không lúc nào
an giấc cả sao? Không phải gió dữ lộng hành, không phải mưa xối tầm tã.
Chỉ là những tiếng động khẽ thôi, rời rạc thôi, nhưng cũng đủ chứng tỏ
rằng đêm Hạ-uy-di ngủ cứ chập chờn, làm cho mình cả thẹn về giấc ngủ
nặng nề của mình, ngủ một mạch tù tì luôn mấy giờ qua; thức giấc, khoác
mền ra, dưới cổ ướt nhâm nhấp mồ hôi. Mình ngủ nghê cách nào mà thô tục
thấy rõ.
Chợt có tiếng gì như tiếng huýt sáo mồm? Tiếng mỗi lúc mỗi lớn thêm rất
nhanh. Không còn ngờ gì nữa. Tôi xô cửa, chạy ra bao lơn, nhìn xuống.
Một người đàn ông bưng cái khay nhựa, trên có năm chiếc ly nhựa đậy nắp
trắng toát, bước nhanh qua trước cửa phòng tôi. Đó là một người vạm vỡ
mà thấp, da đậm màu, mình trần, ngực nhiều lông, chân mang dép. Thoáng
trông thấy bóng tôi xuất hiện, ông ta ngước mặt lên, giơ bàn tay phải
với ngón trỏ và ngón cái khoanh một vòng tròn: dấu hiệu “Tốt. Tốt lắm.”
Cái gì tốt? Ông ta giải thích vắn tắt: “Ở hành lang khách sạn.”
Tôi tự trách mình chậm hiểu. Cái gì xảy ra ngoài chỗ hành lang vào giờ
này? Tất nhiên một người đang huýt sáo mồm bước đi nhún nhẩy thế kia
không thể loan một tin tức án mạng. Vậy thì ở chỗ hành lang phía mép bể
kia đang diễn ra một vũ hội bán phần loã thể chăng?
Tôi vội vội vàng vàng, đánh răng súc miệng qua loa, chải tóc qua loa,
bương bả đi về chỗ mách bảo, bụng bảo dạ: “Ấy. Những món vũ như thế dám
chấm dứt cấp kỳ trước khi bình minh ló dạng lắm đa. Thì con người tốt
bụng nọ không phải đã mang tấm lưng trần về phòng rồi đó sao? Biết bao
tấm lưng nõn nà khác đang lẩn trốn? Không khéo lỡ hội Long Hoa mất!”
May quá, tôi không hề lỡ hội. Tôi đến nơi, chen vào giữa đám người hớn
hở, chào mừng nhau, chúc tụng lẫn nhau, nói cười hể hả, trong khi chờ
đón nhận một ly cà-phê nóng hổi, hoàn toàn miễn phí. Trong khoảng hành
lang đèn đuốc sáng trưng, ai nấy rộn ràng, lăng xăng, kẻ rắc vào ly thêm
tí kem, người rót chút sữa, kẻ khuấy đường lia lịa... Ánh điện thì sáng
choang, không khí thì thơm lừng: tôi không tưởng tượng ra một khung
cảnh bình minh nào kích thích hơn. Cái hoạt động vào lúc mặt trời chưa
kịp ló dạng, trong một gian phòng ngào ngạt mùi cà-phê, là một cảnh hoạt
động lạ lùng, nó làm phấn chấn hẳn con người. Lao vào đám người ấy, tôi
bị cuốn phăng tới, tôi quên mọi chuyện: Mình có thực sự cần cà-phê
không? có phải đang định đi kiếm cà-phê mà uống không? uống gấp gáp hối
hả vào giờ này để làm gì? để kịp một chuyến khởi hành quan trọng nào?
kịp bắt đầu một công tác khẩn trương nào? Không thắc mắc về ba cái lỉnh
kỉnh ấy, tôi xông vào làm theo mọi người: cũng bốc ngay một cái cốc,
cũng vồ lấy chiếc que, lọ đường, bình sữa v.v..., cũng khuấy lia khuấy
lịa. Vô ý thức, tôi hoạt động vì hoạt động (cũng như nghệ thuật vị nghệ
thuật).
Có cốc cà-phê trên tay, lững đững bước tới cửa, bấy giờ tôi mới ngớ ra:
Đi đâu? Về lại phòng mà ngủ tiếp chăng? Mua tờ báo, bật đèn lên ngồi đọc
chờ sáng chăng? Quay trở lại chỗ hành lang rộn rịp này, kéo chiếc ghế
ngồi nhấm nháp chăng?...
Chợt một ý kiến nảy ra: tôi theo chân mấy người vừa vượt qua mặt, rẽ về
phía bãi bể. Ở đó tôi bắt gặp ý nghĩa của một buổi sáng tháng năm, vào
cái lúc “gà gáy chim kêu”. Ở đó, quặt một tay vớ chiếc ghế nhựa kéo đến
bên một gốc cây bàng, sửa ghế cho ngay ngắn, tôi ngồi xuống, gác chân
lên một gốc cây khô chưa kịp dọn nằm cạnh đấy, tay kia nâng cốc cà-phê
lên tợp liền mấy tợp, hít hít cái mùi cà-phê trộn lẫn với mùi sương mai
mùi nước bể, rồi ghếch mỏ nhìn mông ra mặt nước với chân trời..., đột
nhiên tôi “ngộ” cái nghĩa sống trên cõi đời quí báu. Tôi ngộ cái một,
không kịp tốn một sát-na suy tưởng nào.
°
Bạn định hỏi tôi bãi bể ở chỗ ấy nó đẹp cách nào? cát nó phẳng nó mịn ra
làm sao? màu trời ở đấy xanh kiểu nào? cái gió cái mây buổi mai ấy nó
đặc biệt ra sao? v.v... Phải vậy không? — Ấy, đừng! Bạn đừng hạch hỏi,
tra vấn nhiều quá. Lỡ tôi bốc lên tán bậy huyên thiên, phải tội chết.
Tôi là kẻ yếu lòng. Hứng lên rất có thể tôi khoác lác, khiến thiên hạ
bực mình. Ai mà không bực mình khi bị những lời lẽ ba hoa thiên địa vã
tới tấp vào tai? cái ba hoa của một kẻ đi chưa được nửa ngày đường đã
đòi rùm beng.
Bạn hỏi là kẹt cho tôi! Vả lại không cần hỏi ai cả. Bạn chỉ cần đến đấy,
một chỗ xa cách mọi công việc bận bịu, ngồi xuống nơi lằn ranh giới
giữa đất và nước, vào cái giờ ranh giới giữa đêm với ngày, thế thôi. Thế
là tất cả năm giác quan của bạn sẽ bỏ phiếu theo tôi, theo cảm tưởng
của tôi. Cái làn da của bạn nó vui, lá phổi của bạn nó phập phồng phởn
phơ, từ cái tai cái mắt cái mũi, cho đến cái thần trí của bạn, tất cả
chúng đều thấy khinh khoái. Bạn sẽ thông cảm với tôi ngay.
Lúc này tôi không dám giấu bạn điều gì, và xin thú thực rất khẽ vào tai
bạn: Bấy giờ tôi chẳng hề có được một ý nghĩ nhỏ nào trong đầu, cũng
không hề triển thi một môn thuật nào, hoặc hít khí hạo nhiên đưa thẳng
vào đan điền nhốt lại, hoặc vận khí công chuyển lang thang khắp huyệt nọ
huyệt kia v.v... Bấy giờ tôi rổng như cái xị mà một tửu đồ vất ra sau
khi nốc cạn giọt đế cuối cùng. Tôi ngồi trống trơ hàng giờ. Xung quanh
tôi cũng thế: chỗ này một chiếc ghế trắng, chỗ kia vài chiếc ghế khác
chiếc xanh chiếc vàng v.v..., trong cái nhá nhem trước bình minh những
khối đen lù lù ấy cũng lặng lờ, cũng im thin thít như tôi, cũng thỉnh
thoảng làm một tợp cà-phê, hít một khói thuốc. Và chúng tôi cứ thế mà...
sung sướng. Sung sướng cùng mình.
Bạn không tin? Vâng, bạn đừng tin điều gì trước khi bằng cớ được trưng
ra. Và bằng cớ thì lúc trời dần dần hửng sáng, tôi bắt đầu góp nhặt đây
đó được dăm ba cái cớ để trình bạn. Tôi không phao truyền một tin lành,
một niềm vui vô căn cứ. Xin trình:
Thoạt tiên là những mẫu tàn thuốc quanh chân ghế. Nhiều lắm. Trông bẩn
mắt lắm, bạn ạ. Bẩn mắt mình, và nhất định là bẩn mắt luôn đám quản lý
khách sạn. Tất nhiên phải có nhân công thuê làm công việc dọn tàn thuốc
cho sạch sẽ khoảng bãi bể trước mặt khách sạn. Nhưng không cách nào dọn
kịp. Không phải vì lẽ ở Hạ-uy-di tàn thuốc nó có tài đẻ thêm tàn thuốc
tới tấp. Mà chỉ vì sự sống ở đây nó thao thức không ngừng.
Ngày tháng năm thì dài, mà đêm đến mình vẫn không ngủ được. Ngoài bãi
lại có tiếng nói tiếng cười, trên các lối đi cứ có bóng người loáng
thoáng, nước bể cứ rập rình mãi, trên trời thì hằng hà sa số vì sao cứ
thi nhau sáng, sao lớn sao bé chập chùng nô nức cứ lao nhao như hội như
hè giữa thinh không suốt đêm v.v...; ngoảnh qua ngoảnh lại khắp trời đất
chưa có thứ gì chịu ngủ cả thì mình ngủ thế quái nào được. Cho nên nếu
mình không tham gia một hoạt động nào cho vui nhộn, ít nhất cũng cầm đôi
ba lon bia và gói mực khô hay tôm khô gì đó, ra biển với một vài người
bạn. Thế rồi người thức thì thuốc điếu chúng nó cũng thức theo, thỉnh
thoảng nó lóe sáng một cái trong khoảng bóng tối một tàn cây bàng, thỉnh
thoảng một mẫu tàn bị vứt xuống cát giật mình bắn ra mấy tia lửa nhỏ
giận dữ. Những tàn thuốc của đêm khuya vừa nhắm con mắt sáng rực của
chúng được một lát thì lác đác những mẫu tàn thuốc đón đợi bình minh đã
kế tiếp nằm lóm đóm trên bãi.
Sự sống của hôm trước không chịu tắt, chịu nghỉ; sự sống của hôm sau lại
không chịu chờ. Nó không kiên nhẫn, nó không nhường nhịn. Nó nhấp nhổm,
nó rậm rật, rốt cuộc nó bắt đầu trước cái lúc được phép bắt đầu. Vì vậy
mà hôm trước với hôm sau suýt nữa va chạm nhau.
Tàn thuốc lặng lẽ tiết lộ niềm hân hoan của con người, cái rạo rực của
sự sống là như thế. Và như thế tôi chợt ái ngại về nỗi tháng năm ở xứ
mình. Ở đây ngày không đủ dài cho cái chơi, cái sống; ở mình đêm quá
ngắn, không đủ cho một chút nghỉ ngơi. Mình vất vả quá. Thương lắm thay.
°
Bạn không thích loại bằng cớ bẩn thỉu vừa được trưng dẫn chăng? Tôi xin trình bạn loại khác vậy.
Lúc ánh sáng còn chưa đủ để nom rõ mặt người, cách tôi chừng chục thước
tây có anh chàng hai tay bưng hai ly cà-phê, đã ngồi xuống một chiếc ghế
lại còn lấy chân khều thêm chiếc ghế nữa đến bên cạnh. Anh ta ngồi
xuống được một lát thì từ trong khách sạn te tái chạy ra một thiếu nữ.
A! Cô nàng còn mãi bận nhiều công việc trước chiếc gương nên chậm trễ.
Cô phăng phăng lao tới, nhảy tót vào lòng anh chàng Hai Ly, khiến anh ta
phải giang rộng cánh tay ra để nước khỏi chao đổ lên người. An tọa vào
ngôi vị hạnh phúc xong, cô nàng cười ngặt nghẽo, rồi níu lấy một cánh
tay anh Hai Ly, kéo vào tận môi mình một ly để cô ta khánh thành hớp
nước thơm đầu tiên trong ngày.
Sau đó, anh chàng hạ hai tay xuống, ôm vòng trước ngực cô bạn. Họ ngồi yên, và sung sướng... cùng mình.
Rồi trời sáng rõ hơn nữa, đủ để tôi đoán con người đang đứng cách tôi ba
thước tây là một người Phi-luật-tân. Mái tóc muối tiêu thật ướt, chải
lật ngược ra sau, phủ ót. Quần jeans, áo sơ-mi màu vàng tươi; áo
quần thật sạch sẽ, khô dòn. Ông bạn cài một chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ
gắt lủng lẳng bên hông. Một tay ly cà-phê, một tay kẹp điếu thuốc. Tôi
chưa hề trông thấy ai phô diễn sự hài lòng lặng lẽ mà hùng hồn như ông
bạn. Hít thật sâu một khói thuốc, khuỳnh rộng vòng tay nâng ly cà-phê
lên, nghiêng người cúi đầu hớp một hớp nóng hổi, rồi thở khói ra ào ào
bát ngát giữa trời. Ông bạn không đơn điệu: lúc phun khói bằng mồm, lúc
xịt khói bằng mũi, lúc ngước mặt lên mà phà, lúc cúi đầu xuống mà thổi
v.v... Kiểu nào trông cũng hay ho cả. Không có một kiểu nào hững hờ, máy
móc, như cái ăn cái hút đều đều trong cuộc sống thường nhật buồn tẻ. Ở
ông bạn, mỗi khói thuốc là một sáng tạo.
Ông bạn đứng thì dạng chân ra. Nhưng ông bạn không đứng yên: một khói
thuốc, đi tới mấy bước, đạp chân vào gốc cây nhún thử mấy cái, thu chân
về, dạng chân ra; một hớp cà-phê, quay ra, dí mũi giày xuống đất, dấm dứ
mấy cái, lại thu chân về, dạng chân ra; ông dùng ngón trỏ đập lên điếu
thuốc, dùng ngón út gạt rụng tàn thuốc; khịt mũi, quẫy mạnh đầu, nghiêng
mặt dùng lòng bàn tay đỡ cằm thốc mạnh lên một cái, bẻ cần cổ cho máu
huyết lưu thông (?) v.v... Và ông bạn cựa quậy đến đâu thì chiếc mũ lưỡi
trai cựa quậy đến đó. Khắp người ông bạn là một niềm hân hoan. Không
phải thứ hân hoan e dè, mà là thứ hân hoan rậm rật nó không cho phép một
đường gân thớ thịt nào được uể oải, được yên nghỉ.
Có điều làm tôi ân hận. Số là niềm vui nọ có sức thu hút cao: mắt tôi
bất giác cứ hướng mãi về ông, khiến ông bạn tự dưng cảm thấy bất an.
Phun khói thuốc lên trời xong, ông bạn quất một khóe mắt về phía tôi;
thổi một khói thuốc xuống đất xong, ông bạn lại liếc qua về phía tôi
v.v... Tôi áy náy, rồi sợ hãi, lấy làm phiền lòng về mình, tự trách thái
độ khiếm nhã của mình. Tôi vật vã kêu thầm trong bụng: “Oan cho tôi
lắm, ông bạn ạ! Tôi không hề có ý chế giễu chút nào. Sự hài lòng về
mình, sự hài lòng lộ liễu về cuộc sống, về một khoảnh khắc an lành nào
đó của cuộc sống, những cái đó không bao giờ lố bịch cả. Ông bạn hồ nghi
về ý nghĩa sự quan sát lén lút vụng trộm chăng? Cái lén lút ấy chỉ nhằm
giấu giếm một lòng ganh tị, ao ước, thèm muốn thôi. Ông bạn hãy nhún
nhẩy thêm nữa vào, cứ việc ve vẩy thêm nữa, để cho những kẻ xấu tính hay
ganh tị, những kẻ ấy uất lồng lên. Tôi sẵn sàng đón chịu sự trừng
phạt...”
°
Ấy, khi lũ tàn thuốc thao thức tiếp nhau lóe lên ngoài bãi, khi anh chị
Hai Ly tọa vị trên ghế mà tưởng trôi trên mây, khi đàn sáo cứ bay lên
đáp xuống giữa khoảng bãi cỏ và các ngọn dừa, kêu ong óng vang cả bình
minh v.v...; xin tưởng tượng xem: Khi ấy mà tôi còn nằm chình ình một
đống trên giường, ngáy ồ ồ, ngủ mê ngủ mệt, ngủ lăn ngủ lóc, mồ hôi mồ
kê đầm đìa, thỉnh thoảng mớ mết ú ớ mấy tiếng, ngủ như một đứa trẻ chưa
dứt sữa mẹ, như một gã tục tử sau đêm trác táng, say sưa, sau một đêm
bài bạc... Hoặc giả như một tên dân thành thị ở lục địa, tất tưởi bôn ba
đầu tắt mặt tối vì công việc! Tưởng tượng ra như thế, cái đống lù lù
trong phòng một khách sạn Hạ-uy-di vào lúc bình minh trông nó thô tục
biết chừng nào.
May mắn làm sao, nhờ một tiếng huýt sáo mồm mà tôi thức dậy gần kịp
thời, bắt gần kịp nhịp sống địa phương, mà tôi bắt theo gần kịp ông bạn
Phi-luật-tân. Ông bạn, mũ kết đã lủng lẳng cài ngang hông rồi, tức là đã
sẵn sàng. Sau bãi bể là cuộc họp, sau cuộc họp là ông bạn chụp chiếc mũ
lên đầu, vù luôn. Còn tôi — ấy chết — tôi phải chạy về phòng chỉnh đốn y
phục dung nghi, xếp đồ lặt vặt vào túi hành trang, tất cả phải nhanh
nhanh một chút để khỏi trễ buổi họp.
Họp cái gì vậy? Chấn hưng kinh tế chăng? Mở rộng tự do chăng? Đoàn kết
đấu tranh chăng? — Ấy, đừng có om sòm như thế. Ở đây, chỉ có một đề tài
thôi. Mọi hoạt động chỉ nhằm một chuyện: Chơi.
Chiều hôm qua, sau mười tiếng đồng hồ rong chơi hết rừng này bãi kia đến
núi gần đồi xa, trở về khách sạn, vừa xô cánh cửa bước vào phòng đã
thấy có kẻ nào lòn vào một tờ giấy mời họp. Hứa hẹn có thuyết trình viên
kinh nghiện lão luyện. Thuyết trình về... nghề chơi. Đúng tám giờ,
người lão luyện thao thao: Bãi nào nông bãi nào sâu? Muốn lặn xem cá màu
đáy bể thì đi đâu? Muốn phóng ngựa đồi hoang đi ngả nào? Ăn luau
có bao nhiêu nơi tổ chức? Du thuyền chạy ven đảo có mấy hãng chuyên
trách? v.v... Nhao nhao hỏi đáp náo nhiệt một hồi; rồi xổ số. Người này
trúng hai chỗ ngồi trên trực thăng bay quanh đảo; người khác trúng cái
vé cưỡi ngựa xem hoa; người khác nữa trúng vé đi thuyền ra khơi và lặn
xem cá v.v... Vỗ tay mừng đôm đốp. Rồi kẻ trúng người không cùng rời
phòng họp toả ra, xông vào cuộc chơi cho đến chiều.
Chơi là lẽ sống của kẻ đến Hạ-uy-di, là nguồn sống của người ở Hạ-uy-di.
Quanh năm thiên hạ các nơi lũ lượt kéo đến đây vui chơi, mùa hè cũng
như mùa đông. Và ở đây trăm nghề hầu hết là nghề phục vụ du khách bốn
phương.
°
Tôi đến đảo Kauai vào những ngày mà ông Gorbachev thăm viếng Hoa Kỳ.
Buổi tối, bật ti-vi lên, vặn ngược vặn xuôi khắp các đài, tôi không bắt
gặp bóng dáng nhân vật nọ đâu cả. Chỉ có bãi tắm, có thác nước đổ ào ào
giữa cảnh rừng xanh sum sê cây cỏ! Chỉ có những toà khách sạn lộng lẫy
chiếm cả từng khu vực mênh mông, với hồ, với rạch đào ngoằng ngoèo cho
khách chèo outrigger nhởn nhơ, có đảo nhân tạo đắp lên cho hạc
cho công cho trĩ nó múa v.v... Tôi không có ý cam đoan rằng truyền hình
Hạ-uy-di tuyệt đối cấm cửa các chính khách; tuy nhiên muốn tìm cho được
khuôn mặt ông Gorbachev hay khuôn mặt ông Bush dưới khóm lá bụi hoa nào
đó, công phu lắm đa. Chắc là phải chờ đợi lâu lắc, phải kiên nhẫn lắm.
Tôi không có đức kiên nhẫn. Sau một ngày đường vất vả, tôi ngủ khò trước
khi kịp thấy mặt lãnh tụ hai siêu cường.
Hôm sau, có tin tổng thống Nam Hàn bay sang Cựu-kim-sơn để gặp
Gorbachev, làm cho Kim Nhật Thành lồng lộn lên. Tôi lấy làm tò mò quá,
đến quầy báo mua một tờ xem thử. Ơ kìa! không hề có những cái nhảm nhí
ấy trên báo chí Kauai. Tuyệt không! Garden Island Extra là một tờ
báo kỳ cựu ra đời từ đầu thế kỷ; giá có dịp lưu lạc sang ta nó là một
bậc huynh trưởng đấy. “Đảo Vườn” là mỹ danh của Kauai, vì đảo này cây
cối um tùm xanh tốt như một khu vườn lớn. “Vườn ai mướt quá xanh như
ngọc.” Tờ báo của Đảo Vườn ra mỗi tuần một số mười hai trang. Phần quan
trọng nhất (hai trang) dành cho mục gia chánh! (Tuesday’s kitchen.
Báo phát hành mỗi ngày thứ ba). Trang một loan các tin chấn động: hoạt
động của những ông bà thị trưởng, nghị viên, dân biểu địa phương, của
một trại chủ nuôi được con bò to tướng sắp mang đi đấu xảo tại hội chợ
nông nghiệp ở Lihue hay có thể tận Waikiki chẳng hạn v.v... Phần còn lại
tất nhiên là của nền văn minh vui chơi: lại trượt nước, lại bơi lội, ăn
luau, lại câu cá, ngắm cá v.v...
Những ai không theo phép tắc địa phương, không tuân lệ làng, đều bị phạt vạ nặng nề. Thật vậy, tôi quay ra hỏi mua một tờ Los Angeles Times:
một đồng bảy mươi lăm xu! Gấp bảy giá bán tại Eo Ê. Đáng đời những kẻ
táy máy, đã đến đây còn đòi bận tâm theo dõi cái vớ vẩn xa vời.
Lệ làng có thưởng tất có phạt chứ. Những tách cà-phê miễn phí phát ra vô
hạn định mỗi buổi sáng là thưởng đấy, còn gì nữa? Trước bảy giờ nhà
hàng chưa mở cửa bán bữa ăn mai, mà cuộc sống ở Hạ-uy-di thì nó không
thể chờ đợi đến bữa ăn mai. Đối với những ai biết hưởng ứng theo địa
phương, biết tỏ ra sốt sắng đối với cuộc sống, Hạ-uy-di vui vẻ chiều
chuộng ngay. Sau bảy giờ, hạng sống lười sống lĩnh sống uể sống oải uống
một giọt là phải trả tiền một giọt. Sau bảy giờ, Hạ-uy-di sòng phẳng
như mọi nơi trên thế gian.
°
Cái chơi ở đây là cái thiêng liêng.
Tại thung lũng Kakalau thuộc đảo Kauai, trên một ngọn đồi có mỏm đá Tiên
Đồng. Kìa, trẻ con làm gì, trông chờ ai mà đến nỗi hoá đá? Trông cha
lặn lội trèo non vượt núi đi “giải phóng” chăng? Trẻ con đã làm gì có
công lao hiển hách mà nên tượng, mà thành tiên thành thần. Chúng cưỡi
ngựa sắt đánh giặc Ân chăng? — Không đâu. Đấy là hai đứa trẻ biết chơi
thôi mà. Tục truyền rằng xưa kia vào một đêm trăng có hai tiên đồng
xuống trần gian giỡn trăng vui đùa mải mê quên về. Lúc mặt trời lóe
sáng, cả hai bị hoá đá.
Trẻ xưa biết chơi, trẻ nay càng biết chơi. Trẻ trai biết chơi, trẻ gái
càng biết chơi. Trong một cuốn sách gọi là tiểu thuyết, cuốn Hawaii
của James A. Michener, hồi đệ nhị thế chiến một thiếu tá mang quân hàm
đại tá giả định trong một phái đoàn Hoa Kỳ sang đảo Bora Bora lo quốc
quân trọng sự. Trong những ngày bàn quốc sự, phái đoàn không được mời ở
khách sạn đâu. Mỗi vị có một túp lều tranh với một... quả tim vàng.
Riêng phần đại tá Hale cô bé tiếp ông chỉ lớn hơn con gái ông có một
tuổi. Cô bé mười lăm tuổi nọ được bố mừng tuổi bằng cách cất cho ngôi
nhà con con gần bãi bể để vui hưởng lạc thú đến tận cùng thỏa mãn trong
thời gian trước khi lấy chồng.
Buổi sáng cuối cùng cùng nhau trên bãi bể cô bé hỏi và được vị đại tá
bảo rằng ở lục địa Hoa Kỳ không có phong tục như thế, cô ta buồn xo:
“Thật đáng tiếc. Năm tháng qua nhanh lắm mà. Chẳng mấy chốc...” Cô bé
chỉ về phía một bà lão đang còng lưng mò bắt từng con sò trên bãi, nói
một câu tiếng Pháp theo giọng địa phương : “Et bientôt c’est tout fini et nous ne jouons plus.” 1
Ối Trời! Không chơi nữa thì còn gì là đời! là cuộc sống!
Thế cho nên tiên chơi lấn sang ngày, mà người thì chơi lấn về đêm. Và chơi quanh năm...
“Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè...”
Tháng tư, tháng năm, tháng sáu..., cứ thế chơi miết. Tất cả sẽ thành
tiên đồng tiên lão. Ở đây không có sự phân biệt: Thứ bảy chủ nhật là
ngày nghỉ ngày chơi đã đành. Thế thứ hai là ngày gì? Là ngày phè phỡn
đấy. Còn thứ ba thứ tư, là những ngày gì? Thưa, là những ngày nhởn
nhơ... Ngày nào cũng là ngày của Chúa cả, xin đừng phân biệt. Hãy hỏi
ông thuyết trình viên lão luyện ở các cuộc họp tám giờ mai thì biết. Ôi,
Hạ-uy-di!
Ở Hạ-uy-di nếu có ngày kiêng cữ, có một tháng ngừng chơi, tất xảy ra
trục trặc lớn ngay. Trăm nghề sẽ bị chấn động to. Sinh hoạt xã hội tha
hồ điên đảo. Đảo Bora Bora của cô bé Tehani nọ chính là quê xưa đất tổ
của dân Hạ-uy-di. Xứng nguồn xứng ngọn lắm.
Từ Hạ-uy-di nhìn về nguồn như thế; từ Hạ-uy-di nhìn ra ngoài vũ trụ xa
xăm cũng có thể bắt gặp một lời nhắn nhủ như thế lắm. Viễn vọng đài Keck
từ ngọn núi Mauna Kea vừa chụp hình được giải thiên hà NGC 1232 nào đó
cách quả đất 65 triệu năm ánh sáng. Mỗi năm ánh sáng là cả một khoảng
cách chúng ta ước chừng sáu nghìn tỉ dặm đường đấy.
Viễn vọng kính đài Keck là cái kính mạnh nhất, lớn nhất thế giới hiện
thời. Thành thử tại Hạ-uy-di, chúng ta có khung cửa sổ lớn nhất để loài
người nhìn ra vũ trụ, ra cái Mênh Mông hãi hùng. Cái Mênh Mông còn có
lời nhắn nhủ nào khác lời bé Tehani!
Giữa Mênh Mông Vô Thủy Vô Chung, mỗi đêm khuya mỗi mai sớm, bên một mép
nước đại dương, tay bưng cốc cà-phê, ngồi mà rình xem cái chân diện mục
của từng phút giây. Hồi hộp, run lên vì cái rạo rực ngấm ngầm trong mỗi
phút giây. Chẳng phải là điều nên làm sao?
12 - 1990
7. Cô Quì Còn Không?
|
|
|
|
Bình Nguyên Lộc có tập truyện bằng văn vần, gọi là Thơ Ba Mén. Truyện ấy hình như chưa bao giờ xuất bản. Thơ Ba Mén là thơ thế nào, tôi không biết. Chỉ tình cờ biết qua lời khai từ, trên vài chục câu. Và chỉ nhớ vài câu:
“Ghe ơi, vài bữa ghe về
Nhắn người dưới ruộng, cô Quì còn không?”
“Ghe ơi”, ghe ấy tức những chiếc ghe thương hồ đậu ở bến sông Ông Lãnh
một buổi sáng mưa dầm. Trong thời chiến tranh, chốn nông thôn bất an,
lắm kẻ bỏ quê lên tỉnh sinh sống. Trong số những kẻ ấy có người đã yên
thân làm ăn ở Sài Gòn; nhưng thân có yên mà lòng chưa chịu yên. Những
hôm mưa rơi nhẹ nhàng, tiết trời lành lạnh, người nọ ra bến sông, ngồi
uống tách cà-phê nóng ở một quán nhỏ, nhìn lũ ghe thương hồ từ dưới quê
chở nông phẩm lên bán mà nhớ về làng xóm cũ. Ghe đi vài bữa ghe về, mà
mình thì biền biệt, nhớ cô Quì muốn chết. Một ông khách bới tóc (tức
cũng người gốc quê) ngồi bàn bên cạnh liếc sang có trông thấy người nọ
khóc trộm. Thảm quá.
Vì bấy nhiêu mà tôi không quên được thơ Ba Mén. Mà tôi bị thơ Ba Mén ám ảnh.
Áng chừng người nọ bỏ quê ra đi cũng không lâu mấy. Cô Quì vẫn còn gọi
được là cô Quì thì xa cách có gì là lâu. Xa như chúng ta — một số đông
đảo trong chúng ta, những kẻ rời bỏ xóm làng từ tuổi đôi mươi cho đến
tận cuối đời — xa nhau đến thế thì nhớ về người cũ đâu còn nỡ gọi nhau
là cô! Từ lục tuần thất tuần về sau, dẫu có còn đấy các cô Quì cũng
thành ra cụ Quì cả thôi.
Đàng này, mới tách lìa nhau đấy đã mếu máo, đã rối rít: “Cô Quì còn không?” — Làm gì mà chả còn. Lo sao lo quá lắm vậy.
°
Giờ tạm gác qua chuyện tuổi tác, tuổi cô tuổi cụ.
Trước, hãy nói về những cô Quì muôn thuở. Muôn thuở và muôn phương luôn.
Những cô Quì làm cuống quít người khác phái khắp cùng đó đây.
Sống giữa Sài Gòn, ngày ngày lội ngược lội xuôi các con phố đông nghìn
nghịt, bộ người đàn ông nọ không gặp được cô nào vừa mắt, khả dĩ sánh
với người dưới ruộng sao? Sức mê hoặc nằm ở chỗ dưới ruộng chăng? Chốn
lâu đài phố xá là không đáng kể, phải gốc “dưới ruộng” mới hấp dẫn
chăng? — Giả thiết ấy nghe rối trí quá. Trong kháng chiến, có những kẻ
bỏ thành đi khu lại quay quắt nhớ về mấy bóng hồng ở một căn gác nhỏ
ngay tại Hà Nội:
“Gác Dì Năm thuở ấy họp bình thơ
Người trong cuộc bây giờ đâu nhạn cá?”
Nguyễn Tuân đấy. Vũ Hoàng Chương đấy. Quê nhớ thành đấy.
Cô Quì không nhất thiết ở một nơi nào. Có thể tin rằng người bỏ Cà Mau
đi làm ăn xa thì nhớ da nhớ diết cô Quì Cà Mau, kẻ di cư rời Phát Diệm
Bùi Chu thì mơ tưởng bóng hình cô Quì Bùi Chu Phát Diệm... Ở đâu mà
không có một cô Quì? Cô Quì ruộng, cô Quì thành, cô Quì da đen, cô Quì
tóc vàng, cô Quì Trường Sơn, cô Quì Vàm Cỏ, cô Quì Hương Giang, cô Quì
Trèm Trẹm, cô Quì thảnh thơi giữa đồng xanh bát ngát, cô Quì tơi tả dưới
bom đạn mịt mù v.v... Cô nào cũng là cô độc nhất vô nhị trên đời, tuyệt
không thể thay thế được. Tách rời một cái là tha hồ đau lòng mỏi miệng
như con cuốc cuốc cái gia gia.
Ông Trời khôn ngoan, láu lỉnh, đã đặt để ra như thế. Nếu không thế sẽ
không có cách nào ngăn cản nổi người giết sạch người. Nếu trên thế gian
chỉ có một người đẹp thôi thì chúng sinh còn có cách giải quyết nào khác
cách giết nhau? Cho nên người độc nhất phải là người vô số. Mầu nhiệm
thay.
°
Thuở thơ ấu ta đã có mắt tinh vi, thấy được con dế trốn dưới cỏ, thấy ổ
sáo con nằm sâu trong bộng cây, thấy từng cái kẹo trong túi áo của bà
nội bà ngoại... Chớm tuổi đôi mươi thì ta có mắt thần.
Gậy tiên chỉ vào, hòn đất hóa cục vàng. Gậy tiên quí vậy nên cực hiếm,
nên huyền hoặc. Mắt thần càng quí hơn, nhưng mỗi người mỗi có. Con bé
hàng xóm vẫn gặp nhau hàng ngày, vẫn tranh nhau trái me trái ổi cãi cọ
chí chóe; lớn lên, một ngày nào đó ta được trao cho mắt thần, trông lại
con bé bỗng ngẩn ngơ: Cô Quì đây rồi.
Cô Quì xuất thế, mọi sự đổi thay. Ta vừa mở cánh cửa bước sang một cuộc
đời khác. Ta trông ánh sáng cách khác, nghe tiếng gió thổi cách khác. Ta
biết những cảm xúc mới lạ, những cảm xúc chưa từng. Nhìn lại từng bộ
phận nhân thể của chính mình, ta ngỡ ngàng. Ta không còn nhận ra ta nữa:
ta thay đổi từ vóc vạc, giọng nói, cho tới cái hơi thở. Ta như con rắn
lột da, thành con rắn khác.
Ta đối với ta còn thế, huống hồ đối với người khác. Cho nên cô Quì là
một khám phá: dẫu gần gũi cũng hóa ra mới lạ. Làm ta ngây ngất, mê tơi.
Nhờ mắt thần, mỗi chàng trai đều có được một cô Quì tuyệt vời.
Nguyên một sự thay đổi ở ta đã thế, huống hồ laị có sự thay đổi cùng lúc
về phía cô Quì. Thì ở cô cũng có chứ sao không? Đến tuổi ấy, cô mở mắt
trông ta, bỗng ngạc nhiên, bỗng đắm đuối. Ta đã thành một cậu Quì rồi.
Cô ấy với cậu ấy, chao ôi!
°
Trên thế gian vẫn có bày sẵn nhiều món quí. Tạm ghé nơi này trong chốc
lát, chúng ta được thết đãi tử tế. Thượng Đế đâu có bỏn xẻn. Nhưng hoa
quả thịt cá, có ăn mới thấy ngon; rượu, có uống mới thấy khoái; thuốc,
có hút mới thú, mới đã. Cô với cậu thì chỉ có nhau, chỉ bên nhau, là
hoan hỉ đã vô ngần. “Em đi chàng theo sau”. Thế là “em” đã vui
sướng, đã mở hội trong lòng, đã cuống cả chân. Em đi, em có làm gì chàng
đâu? chàng có làm gì em đâu? Em là gái nhà lành, gái khuê các, em là
con nhà gia giáo, chàng con nhà lễ nghĩa. Không hề có chuyện lườm qua
liếc lại, cười qua cợt lại; chỉ mới bén cái hơi là mê tơi rồi. Chỉ một
cái hơi bên cạnh. Chỉ có em đây có anh đấy, chỉ là “có”, tức khắc sảng
khoái cả tinh thần rồi. Rượu với thuốc phiện mà đến ngồi bên cạnh đã hả
hê được à?
Đến đây đâu đã hết cái hay ho của cô với cậu. Trẻ với kẹo: chỉ có trẻ
yêu kẹo, kẹo không yêu trẻ. Người với rượu: chỉ có người nghiện rượu,
rượu không nghiện người. Xưa nay không ai bắt gặp có kẹo nào náo nức
trong hũ trong lọ. Không ai bắt gặp rượu nào xôn xao rạo rực trong ve.
Đàng này, cô với cậu thì... ối, không gian như chứa đầy những tín hiệu
tìm nhau xao xác. “Không gian như có dây tơ”. Trai gái mỗi bước
mỗi vướng chạm cái mạng tơ giăng tình cảm. Cứ ra khỏi cửa là háo hức
tưởng chừng nơi góc phố này ngã ba kia, con hẻm kia vườn hoa nọ... đều
có thể gặp một mối tình đang lấp ló đợi chờ. Nơi này một ánh mắt chỗ kia
một nụ cười. Trong sương sớm, trong nắng vàng, đều có thể phục sẵn
những tình cảm vu vơ mà nồng nàn. Những mối-tình-khả-dĩ rập rình đợi
khắp đó đây.
°
Thế rồi mai kia, từ một nơi xa hơn bờ sông Ông Lãnh — vâng, có phần xa
hơn — từ một nơi thái thậm an lạc, tuyệt đối an lạc — nơi cực lạc — ta
thẫn thờ nhớ về một cốc cà-phê bất khả. Bất giác buột miệng kêu: “Nhắn
người dưới thế, cô Quì còn không?” Rồi bật khóc nức nở. Bấy giờ Thượng
Đế ngồi cạnh (tựa như ông già bới tóc trong quán thuở nào), Thượng Đế
lòng lành liếc thấy, tha hồ ái ngại xót thương. Cô Quì còn không? — Thì
vẫn còn. Cô Quì của thiên hạ vẫn còn hoài dưới thế. Vẫn mặt hoa da phấn.
Phây phây khắp nơi. Tóc bay trong gió. Mắt long lanh. Mắt lúng la lúng
liếng... Ôi cái nhớ của kẻ xa xôi, nhớ quay nhớ quắt, nhớ da nhớ diết.
Vô phương giải cứu. Ông Trời già bên cạnh mỗi lúc mỗi bồn chồn xót
thương. Vô phương.
Cái nhớ ấy, sánh với nó họa chăng chỉ có cái nhớ của cụ Quì hướng về cậu
Quì. Cụ Quì (hoặc bới tóc hoặc không bới tóc), lù khù lọm khọm, âm thầm
trong tuổi già ở trần gian, thỉnh thoảng ngẩn ngơ sực hỏi: “Cậu Quì
ngày nọ... Đâu rồi cà?”
Một cái nhớ da diết, sánh với một cái nhớ quá đỗi hắt hiu.
Thơ Ba Mén của Bình Nguyên Lộc, một hôm nhớ lại vài câu khai từ, kẻ bép xép đã trót vui miệng phun ra mấy câu nhảm nhí. 1
Hôm nay bỗng dưng nhớ ra vài câu khai từ nữa; e không khỏi nhảm nhí thêm nữa.
“Nhìn ghe bỗng chạnh tình quê
Rưng rưng nước mắt: tư bề người dưng.”
Ba Mén thế đấy: ngồi quán uống chơi một cốc cà-phê, trông thấy mấy chiếc
ghe thương hồ từ dưới quê mới lên, tự nhiên muốn khóc. Nhớ quê, nhớ
quá. Dân là dân Biên Hòa mà lưu lạc tới tận Sài Gòn, xa lạ ôi xa lạ. Cầm
lòng sao đặng? Khóc thôi! Khóc về cảnh ngộ tư bề người dưng.
Cảnh ngộ ông Ba Mén xui nhớ tới cảnh ngộ ông Xuân Hiến ngày nào. Năm 75,
thi sĩ Xuân Hiến hớt hơ hớt hải bỏ Sài Gòn bôn tẩu. Bay một mạch tới
chỗ thị trấn Tacoma ở tiểu bang Washington, thuộc miền tây bắc nước Hoa
Kỳ, được cho tá túc tại một ngôi nhà lạ hoắc (cố nhiên). Vào nhà, ngó
trong ngó ngoài, thò đầu ra nhìn phố xá. Nhìn xuôi nhìn ngược một hồi,
ông kêu:
“Cúi nhìn con phố bơ vơ,
Đất xa lạ đất, trời ngơ ngác trời.”
Ông Ba Mén, ông Xuân Hiến, hai ông đều đáng thương cả. Giọng nói đều
thấm thía chân tình cả. Thảm não quá chừng. Đời sau hẳn phải có thơ.
Chẳng hạn thơ rằng:
“Nhất ông Ba Mén
Nhì ông Xuân Hiến
Tha thiết tình quê
Người người biết tiếng.”
Ông Ba Mén ông Xuân Hiến, hai ông cùng nói một điều. Là con người nhất
sợ cái lạ. Không gì kinh hãi bằng bị nhích ra khỏi chỗ quen thuộc.
°
Ấy vậy mà con người bắt đầu cuộc đời bằng một đối đầu đột ngột với cái lạ.
Mỗi chúng ta thuở mới đến đây là nghìn lần mạo hiểm hơn ông Kha-luân-bố.
Từ chỗ không đến chỗ có: tuyệt đối lạ. Ánh sáng mênh mang — món lạ đầu
tiên — khiến hoảng hốt. Liền khóc lớn; khóc oa oa, khóc oe oe. Xung
quanh, kẻ lạ cười ầm ĩ.
Lớn lên, càng trông càng nghe càng thấy xa lạ. Trời xa lạ, đất xa lạ. Là
“dưng” cả. Mặt nước rộng dửng dưng, vòm trời dửng dưng bất động. Núi
non xa cách dửng dưng; con kiến con dán gần, bận rộn không ngừng, cũng
là kiến dán dưng thôi. Mây trôi dửng dưng, nước chảy dửng dưng... Ai lo
phận nấy, đâu có phần đấy. Tư bề đều dưng.
Mỗi chúng ta bơ vơ sợ hãi, quơ quào lạng quạng, túm níu bám bậy bám bạ
vào bất cứ món gì trong tầm tay để có một cái gần gũi, tin cậy, để tìm
chút an tâm. Kẻ bấu vào bụi chuối sau hè, người gốc tre cuối vườn, kẻ
cây đa đầu làng, người níu một chéo áo bà con, một góc mảnh vải gọi là
cờ, một sắc da một màu tóc, một thói quen truyền kiếp, một tục lệ, một
thành kiến, một sợi tơ một mạng nhện tư tưởng mong manh, một danh từ
rỗng tuếch v.v... Lụp chụp bấu víu vội vàng, trượt tay, lại quýnh lên
chộp bấu vào món khác. Giành giật nhau, xô đẩy nhau, kêu la chí chóe.
Loay hoay mấy chốc, vừa đầy bảy, tám chục năm. Có thể trăm năm. Rồi
trượt tay, “đi” luôn.
Đi đâu? Tất nhiên không phải đến một chỗ quen thuộc nào cả. Từ các chốn
thiên đường, nát bàn, từ khắp các cõi ba nghìn thế giới, ai nấy tha hồ
khóc, khóc rưng rưng, rồi khóc nức khóc nở, nhớ về bụi chuối sau hè, về
cây đa đầu làng... Nhớ tha nhớ thiết.
°
Mỗi chúng ta trượt tay bám víu, lần lượt ra đi, gửi lại mớ xẩu vùi giấu
đâu đó dưới mặt đất. Năm này qua năm khác qua, bên trên mặt đất vẫn tiếp
tục:
“Tư bề rầm rập hội người
Tiếng chân xuôi ngược tiếng cười râm ran
Trời xanh gió nhẹ thênh thang...”
Thênh thang cách dửng dưng. Tất cả cùng tiếp diễn một cách dửng dưng.
Nghìn năm sau (năm bảy chục nghìn năm sau nữa cũng nên), có gã đào đất
xem đời cổ sơ, gặp chiếc sọ vớ vẩn, bốc lên ngắm nghía: “Ơ hơ! cái này
trông lành lặn đa”. Từ thế giới ba nghìn trông xuống, thấy khắp cùng. Ta
thấy, và giật mình đánh thót, kêu la rối rít: “Kìa, của tôi đấy. Sọ tôi
đấy mà...”
Thoắt cái, đã sà ngay xuống. Trông gần, ta sững sờ. Chiếc sọ với các lỗ
hổng, trống hoác trống trơ. Ta nhìn sọ, sọ nhìn ta không một biểu thị.
Đôi bên đã hoàn toàn xa lạ. Sọ là sọ “dưng” rồi. Tất nhiên toàn thể mớ
xẩu đều thành xẩu dưng luôn, mất hẳn tinh “của tôi” không biết tự lúc
nào.
12 – 1998
‘Cô Quì còn không?’ (V.P.)
9. Cửa Sổ
Dọn nhà là chuyện vất vả. Hôm dọn đến nhà mới, đêm hôm ấy tôi ngủ mê
mệt. Sáng, thức giấc rất muộn: mở mắt ra thấy ánh sáng đã đầy phòng. Từ
phía cửa sổ, ánh mặt trời ùa vào chói chang. Hóa ra mình không hề thức
dậy; mình bị đập dậy tàn bạo.
Về sau, nhắc lại chuyện ấy, chúng tôi vẫn gọi cái sáng xông vào cửa sổ
hôm đó, gọi buổi sáng đó là “Thằng cha Sấn Sổ”. Ngay từ sơ ngộ, sao mà
đường đột, ngổ ngáo quá vậy? Cửa sổ phòng ngủ mở về hướng đông. Rồi sẽ
còn lắm chuyện với Thằng cha Sấn Sổ. Người ta còn đang sõng sượt chình
ình trên gường. Làm gì mà vội vàng xông xáo... Hừm!
Hóa ra không phải thế. Từ phía cửa sổ ấy không phải chỉ có một “thằng”.
Ngay hôm tiếp theo, thức giấc thấy yên ắng, êm ru bà rù, tôi nghĩ là
không có ai quấy rầy. Chắc thế. Lờ mờ, êm ru, vắng lặng thế này.
Tôi kéo mền lên đầu, định nằm thêm một lát. Không ngờ khi hướng mắt về
phía cửa gặp ngay “nhân vật” về sau mang tên “Gã Mặt Mốc”. Màu trời
phương đông, ngay ở chỗ đáng lẽ mặt trời xuất hiện, lúc ấy lại toàn một
màu xám nguội, như tro. Khoảng mây xám ấy cứ thản nhiên hướng mặt vào
khung cửa sổ. Thản nhiên. Bất cần. Hừm! Mặt Mốc!
Sau đó, lần lượt: Thằng Ủ Ê, cô E Ấp, lão Trầm Ngâm, rồi gã Hí Hửng,
chàng Hân Hoan, rồi cậu Hả Hê v.v... Không hẹn hò mà hôm nào tôi cũng
sẵn một tâm lý đón đợi.
°
Sáng hôm nọ, tỉnh giấc muộn. Linh tính khiến mình liếc mắt về hướng cửa
sổ. Khung trời xanh nhạt, gợi một cái xanh mênh mông. Cây thông cao đứng
không một lay lắc. Sự chờ đợi kéo dài, hờ hững. Một con quạ từ đâu bay
đến. Quạ đáp xuống chỗ cuối một cành mềm, oặt qua oặt lại. Con quạ loay
hoay, vung cánh, đạp chân lung tung, trật qua trật lại, mãi hồi lâu mới
tạm yên. Nhưng nó vẫn chưa tìm được thế đậu ổn định. Chốc chốc quạt
cánh, đạp chân, trầy trật...
Trời xanh cao rộng, ngọn thông yên lặng, con quạ loay hoay... Ơ kìa!
Linh tính xui tôi bắt gặp đúng cái gì như thể là... hạnh phúc? Bắt đúng
niềm sung sướng không ngờ. Đời hay ho quá cỡ.
Chợt tai nghe: “Á a! Á a!” vang lên mấy tiếng.
Tôi ngẩn ngơ, tần ngần. Á a? Á a? Cái gì á a? Trời xanh mênh mông tự
dưng cao hứng quá đỗi mà phát lên thế chăng? Hay lại quạ, một con quạ vô
duyên đâu đó quác mỏ... á a?
Dù sao, tôi bỏ qua mọi suy tưởng vẩn vơ, tôi tiếp tục vui sướng, vô cớ.
°
Vô cớ, đúng là vô cớ. Cớ? biết gán cho cái gì? Cho con quạ vụng về? Cho cành thông mềm oặt? Cho cái sáng hững hờ?... Bậy bạ cả.
°
Không nghe nói về kiểu huyệt mộ nào có cửa thông lên trần gian.
Cho đời nhìn xuống, cho người nhìn lên.
Liệu rồi sẽ có kẻ nghĩ ra một kiểu thích hợp cho những hồn ma nhấp nhổm nhớ trần gian?
- Không có? Chán!
1 - 2004
9. Vươn Ra Ngoài Cuộc Sống
Sự thất vọng bắt đầu sau chuyến đi thăm mặt trăng về. Người về chỉ mang
theo mớ đá: Tuyệt không có dấu vết sinh vật nào. Từ ấy, những thám hiểm
khác không khá hơn. Nơi bấy lâu chúng ta vẫn đặt nhiều mơ tưởng là hỏa
tinh: Hỏa tinh rốt cuộc cũng làm cụt hứng giới “tìm bạn bốn phương”.
Cuối thiên niên kỷ thứ II dấy lên một nghĩ ngợi: Phải chăng chúng ta là
sinh vật duy nhất trong vũ trụ vô cùng? Cô đơn đến thế thật là cô đơn.
Hãi hùng quá.
Con người khiêm tốn, xưa nay vẫn dành cho mình một vị trí thấp. Bên
trên, bao nhiêu hạng tôn quí: ông Trời, bà Đất, tiên, thánh, thần, ma
vương, thượng đế v.v...; xưa nay nó vẫn quen thờ phụng, lạy lục, lạy từ
hòn đá cục đất lạy đi. Bỗng nhiên không còn gì còn ai để lạy nữa, con
người hoảng hốt, hoang mang.
Trước, con người không thực sự nghĩ tới việc mình có thể rời khỏi quả
đất. Nó yên phận ở một nơi này, và yên trí là đó đây cũng có những giống
sinh vật như mình. Ai có cõi sống nấy. Như thế, nó yên tâm.
Năm 1969 — mới cách đây hơn ba chục năm — lần đầu tiên nó đặt chân lên
một thiên thể ngoài quả đất. Thấy mặt trăng trống trơ. Từ ấy nó tìm
kiếm lung tung. Đem máy móc tiến gần, rình rập hỏa tinh: thấy khô ráo,
lạnh ngắt. Lại tiến lên mộc tinh rình xem cái vệ tinh Europa chạy quanh:
cũng không mảy may dấu hiệu sinh sống nào. Chỉ trong khoảng năm năm
cuối thế kỷ vừa qua, ít nhất đã có 22 thiên thể bị dò xét. Sự hối hả
thấy rõ, còn gì nữa.
Cái tìm kiếm lục soát càng ngày càng ráo riết, mà mức kỳ vọng mỗi lúc
mỗi thấp. Thuở xưa, người ta mơ tưởng sẽ gặp trên thượng giới những sinh
vật giống như mình: cũng những cô gái xinh đẹp với đầy đủ xiêm y, biết
ca xướng đàn địch, cũng những cụ già tóc râu khả kính, thích chơi cờ
thích ngâm thơ v.v... Về sau, con người địa cầu không còn đòi ai kia
phải giống hệt mình. Chỉ mong đây đó may ra có những giống loài dù khác
lạ dù dị hợm, nhưng vẫn có trí thông minh vẫn tài giỏi, đây đó may sao
có thể khám phá ra những nền văn minh bất ngờ, xuất sắc, rải rác trong
vũ trụ. Người vũ trụ, riết rồi hình ảnh ấy thật mơ hồ: nó nhỏ bằng nắm
tay chăng? lớn bằng tòa nhà chăng? nó di chuyển bằng cách trườn mình oằn
oèo trên đất chăng? bằng cách vỗ cánh trên không trung chăng? nó có
được một vài cái tai để nghe, dăm ba con mắt để trông chăng? v.v...
Mãi không thấy gì, hết mong “người”, chỉ ao ước bắt gặp đôi giống bạn
hữu có liên hệ xa xôi: bất cứ loài sinh vật nào cũng quí, thậm chí một
manh nha thảo mộc nào cũng được.
Vẫn chưa thấy.
Về một phương diện, hoàn cảnh con người địa cầu thật là tệ hại. Tệ hại
hơn bao giờ cả, kể từ thuở “khai thiên lập địa”. Chưa bao giờ nó bơ vơ
đến thế. Mặc dù nó là... chúa tể. (Thì khắp nơi tuyệt nhiên không có
sinh vật nào khác, nó phải là chúa tể chứ còn gì nữa?) Một đấng chúa tể
không biết từ đâu đến, đến để làm gì, rồi đi về đâu! Tức thị là một chúa
tể ngẩn ngơ.
Cái sống, cả vũ trụ không có, ta có: thích ghê. Chỉ mình ta có: quí ghê.
Giữa hai bên — sống và chết — chỉ có cái sống là đáng suy nghĩ. Còn cái
chết, đáng gì mà xem là vấn đề triết lý căn bản (như có kẻ từng bảo).
Chết là định luật chung: trăng sao ngời ngời đều chết, thiên địa bát
ngát toàn chất liệu chết cả, cho đến mọi sinh vật cũng chỉ sống có hạn
kỳ rồi cùng chết ráo trọi. Chết là tất nhiên, sống không tất nhiên. Sống
là biệt lệ bất thường, tối bất thường. Thế mà lúc này ta lại đang sống.
Chao ôi!
Cái chết không tự ý thức về nó; cái sống ý thức được về cái sống. Trong
thế giới chết, mọi hiện tượng xảy ra, tự xảy ra, ngẫu nhiên. Trong thế
giới các sinh vật, mỗi động tác mỗi biến cố diễn ra là có chủ định chủ
ý. Big Bang tha hồ hùng vĩ, nhưng nó xảy ra không tự biết. Một trận đá
lông nheo vụng trộm giữa cặp sinh vật hai chân cao chừng thước rưỡi,
hoạt động ấy diễn ra âm thầm mà rạo rực. Diễn ra sau bao nhiêu mơ tưởng,
ngần ngại, đắn đo, xếp đặt, bố trí v.v... Ơ kìa! Ý thức, cái gì kỳ vậy?
Từ đâu, tại sao nảy sinh xuất hiện ra cái món lạ ấy, quí hóa ấy?
Cái sống, tưởng chừng nó tự đánh giá tầm quan trọng lớn lao của mình.
Phút lâm chung là đau đớn cùng cực. Đau đớn đâu phải vì là bắt đầu cái
chết? mà là vì chấm dứt sự sống. Hư vô vẫn chết tự bao giờ, và còn chết
mãi mãi. Cái chết không đầu không cuối. Vật chết, không vật chết nào có
sự cố gắng duy trì cái chết. Cái chết không thiết tự duy trì, không
thiết phát triển. Nhưng muôn vật đã sống đều cố duy trì cái sống. Sinh
vật đều có bản năng sinh tồn. Từ vật vô cùng nhỏ đến vật vô cùng lớn đều
ráo riết cạnh tranh, phát triển, giành nhau, giết nhau để bành trướng,
lớn thêm, cao thêm, sinh sôi nẩy nở thêm v.v....
Muôn loài có sống là bám lấy cái sống. Không một bộ phận nào trên cơ thể
sinh vật mà không có vai trò cần thiết cho sự sống, không có hoạt động
nào của sinh vật được phát khởi ngoài lợi ích cho sự sống. Ăn, uống, thở
ra hít vào, ngủ nghê, âm dương thèm muốn nhau, gần gũi nhau, chiếc lá
vươn ra ánh sáng, cái rễ chúi xuống đất đen..., thảy thảy đều vì cái
sống. Muôn loài đã sống đều bám hết mình vào sự sống. Bám hết cả mình
mẩy, và cả tâm trí (nếu có) vào cuộc sống.
Muôn loài sinh vật đều thế, duy có loài người không thế. Loài người như
thể không thuộc hẳn vào muôn loài: chúa tể không thuộc muôn loài. Chúa
tể thuộc loài muôn-lẻ-một.
Muôn loài ăn uống để sống, loài muôn-lẻ-một còn hì hục làm ra rượu, để
uống thêm. Rượu, uống vào đã rõ không cốt để sống. Cũng như thuốc lá với
á phiện, hít vào không cốt để sống. Vậy mà loài người khắp nơi đều hâm
mộ.
Con người còn làm bao nhiêu cái kỳ quặc, vô bổ, vô cớ khác nữa.
Đánh cờ, đá bóng, thả diều, thổi kèn, làm thơ...cũng đều không nhằm củng
cố, vun bồi, phát huy cái sống. Đều là những hoạt động “chơi”, không
phải hoạt động hữu ích. Hoạt động linh tinh ấy không phải là hoạt động
họa hoằn: nó nhiều lắm. Nhiều một cách khiêu khích. Con người càng văn
minh càng lắm sáng kiến kỳ quặc, và càng đưa những hoạt động ấy lên địa
vị cao, địa vị tiêu biểu của mức độ văn minh. Giọt nước mắt cô Kiều khóc
cho số phận Đạm Tiên, La Joconde với nụ cười không đâu, hạt lệ rơi lặng
lẽ vì một khúc nhạc tình phụ mà ngẫu nhiên tai bắt được trong đêm
khuya, niềm khoái thích về một câu pha trò thông minh, những tra vấn
khúc mắt mà đau đớn, những ám ảnh suy tưởng miệt mài, vật vã, đời này
sang đời khác về ý nghĩa của cuộc sống... Những cái đó đánh dấu từng
trình độ văn minh mà không đóng góp vào sự duy trì cuộc sinh tồn.
Các nghệ sĩ và trí thức sẽ phản đối: Vẽ nụ cười cũng là phát huy sự sống
(tinh thần), sao không? Thổi điệu sáo buồn cũng có thể như thế. — Đã
đành là vậy. Nhưng ở đây, khi nói về vấn đề sống chúng ta chỉ giới hạn
vào cái nghĩa hạn hẹp, thích hợp với cái sống của cả muôn loài: cầm thú,
cỏ cây. Tức sự sống còn của thể xác vật lý mà thôi.
Nhìn chung, cứ như thể muôn loài sống đều hết mình vào cái sống, còn con
người — loài muôn-lẻ-một — thì muốn vươn cả ra ngoài sự sống.
Trong số những thứ hoạt động “vươn ra” ấy, nên kể một thứ đặc biệt: là
tự tử. Trương Quỳnh Như tự treo cổ trong ngày cưới, đó chắc chắn không
phải một phát biểu1 để vun bồi cái sống. Nếu là phát biểu, chẳng qua cô
ta vùng vằng ngúng nguẩy phát biểu về một nồng độ yêu đương thôi. Hoạt
động ấy là một can thiệp táo tợn của con người vào định luật thiên
nhiên. Là quá xá.
Lại nên kể thêm một hoạt động “vươn ra” thật ồ ạt. Là giết nhau. Loài
người giết nhau liên miên không ngừng. Lịch sử loài người là lịch sử
chiến tranh. Gì còn chừa bỏ được; giết đồng loại không chừa được, không
bỏ được. Có khi không cần một khung cảnh chiến trường, người ta có thể
xây lò lên đốt luôn sáu triệu dân Do Thái chẳng hạn.
Muôn loài khác, có khi con này cắn con kia, bầy này đánh nhau với bầy
nọ, đàn này cắn nhau với đàn khác, nhưng không dữ dằn, qui mô bằng loài
muôn-lẻ-một. Thú vật quá bận vì cái ăn, không thể lao vào những cuộc
chiến đấu qui mô với đồng loại. Trong muôn loài thú, được tạo hóa trang
bị cho nanh vuốt dữ nhất là những loài ăn thịt. Nhưng con thú ăn thịt,
hễ cứ sau mấy giờ đồng hồ, tiêu hóa ngót bụng thịt là phải vội vàng đi
tìm ngay con mồi khác để săn để giết; nếu không, chính nó kiệt sức bỏ
mạng cấp kỳ. Con người trồng trọt được, có vựa có kho để tích trử thực
phẩm, không bị cái đói đuổi theo sát sạt, nên có thì giờ tổ chức những
cuộc giết nhau dài ngày.
Đánh nhau riết, loài người trau dồi kỹ thuật và trang cụ chiến tranh đến
chỗ tuyệt vời. Đã lâu, loài người có thừa phương tiện khí giới để giết
trọn loài người, giết đi giết lại nhiều lần.
— Giết làm chi vậy?
— Tất nhiên không phải vì sự sinh tồn của nhân loại. Có thể cũng không vì lợi ích thiết thực của một bên nào.
— Vậy giết nhau làm chi?
— Vì một thứ gì đó, vượt ra ngoài cái cần thiết cho sự sinh tồn.
— Một thứ gì?
— Thí dụ một quan niệm, một chủ thuyết, một tín ngưỡng...
— Trời đất!
— Là những thứ không thể khoan nhượng.
— Trời đất!
— Muôn loài sinh vật giành nhau miếng ăn, giành nhau khu vực săn mồi, là
những thứ liên quan trực tiếp đến sự sống còn. Tranh giành như thế có
thể tương nhượng thỏa hiệp để cứu lấy mạng sống. Phía yếu xin nhường vài
miếng mồi. Chưa được? Thêm một miếng nữa nhé. Vẫn chưa? Thế thì nửa
miếng nữa vậy, được chứ gì? Tranh giành rừng núi, để nới rộng khu vực
săn mồi? Thì bên yếu có thể thuận cắt đất mảnh này, mảnh nữa, nhượng bộ
lần lần. Miếng ăn bớt được, đất đai bớt được; chứ quan niệm, chủ nghĩa,
tín ngưỡng thì cắt giảm từng miếng để mặc cả thế nào được? Kẹt cứng
thôi. Giết nhau vì cạnh tranh sinh tồn còn có cách giải quyết; giết nhau
bên ngoài chuyện sinh tồn thì vô phương can thiệp.
Muôn loài răm rắp theo định luật tạo hóa: Luôn luôn bám dính vào sự
sống, để rồi cuối cùng lăn ra chết cả. Loài muôn-lẻ-một thì trong khi
chờ chết lại lắm trò linh tinh. Chút cá tính của nó gây nhiều rắc rối,
mệnh số của nó đầy bất trắc.
Trong nghìn năm tới đây, nó thêm khả năng, thử xem còn linh tinh tới đâu.
4 - 2000
1 Xem ‘Cái chết như một phát biểu’, cùng tác giả.
|
No comments:
Post a Comment