Friday, October 9, 2015

KÝ TẾ * HỒI KÝ VƯỢT BIÊN ĐƯỜNG BỘ III


HỒI KÝ VƯỢT BIÊN ĐƯỜNG BỘ - KỲ 7












1 2 3 4 5 6 7 8 9

"Từ xa, có những tiếng súng nổi lên rồi có những tiếng hét thảm thiết của phụ nữ. Chúng tôi đoán chừng chắc là nhóm lính Para khác đang tra tấn, hành hạ những người ty nạn Việt Nam khác. Tiếng kêu thét như tiếng heo bị thọc tiết, ai oán, nghe như xé ruột, vang động cả núi rừng. Rồi thì tiếng gầm thét của bọn lính. Tôi không ngờ mình đã gặp phải một bọn quỷ râu xanh như bọn Para này. Tôi hoảng quá vì sợ chúng hãm hiếp mình. May mà tôi đang có thai sáu tháng, bụng đã to, chứ không thì... Tôi rùng mình và không dám nghĩ hết"

Lời Nói Đầu: Thưa quý độc giả, gia đình chúng tôi là những người tị nạn đường bộ. Chúng tôi khởi sự vượt biên từ Sàigòn, Việt Nam vào ngày 27 tháng 3 năm 1980, đến trại tị nạn Non Chan ngày 10 tháng 4 năm 1980. Sau hơn 7 tháng sống khổ cực trăm bề ở các trại Non Chan, NW9, Pananikhom Holding Center và Rangsit Transit Center, thì cuối cùng, vào ngày 16 tháng 10 năm 1980, gia đình chúng tôi đã đến được mảnh đất tự do, đó là thành phố Los Angeles, thuộc tiểu bang California, Hoa Kỳ.



Từ ngày 16 tháng 10 năm 1980 trở đi, tôi đã dùng rất nhiều thì giờ và công sức để viết báo, viết sách nhằm gióng lên tiếng chuông kêu cứu cho người tị nạn, đặc biệt là người tị nạn đường bộ còn kẹt lại ở các trại tị nạn vùng Đông Nam Á. Cũng từ đó, chúng tôi tích cực tham gia trong các phong trào cứu những người tỵ nạn đường bộ cũng như đường thủy.



Câu chuyện mà chúng tôi sẽ kể sau đây chỉ là một phần nhỏ trích trong tác phẩm Qua Cơn Bão Dữ mà chúng tôi đã xuất bản năm 1992. Nếu muốn tham khảo bằng tiếng Anh thì xin mời quý vị đọc tác phẩm Stormy Escape, xuất bản năm 1997 và Report On The Vietnamese Land Refugees, xuất bản năm 1983. Ba tác phẩm này đều do chúng tôi viết ra để làm tài liệu lịch sử cho đời sau.






Cuộc hành trình của chúng tôi phải nói là gian khổ nhiều vì gia đình đông con, gồm hai vợ chồng và 4 con nhỏ, tuổi từ 4 tuổi đến 9 tuổi, lại còn thêm cái bào thai 5 tháng. Cháu bé thai nhi này được sinh ra tại trại tị nạn NW 9, trên lãnh thổ của Thái Lan, vào ngày 17 tháng 7 năm 1980.






Cuộc sống thê thảm sau kỳ vượt biên đường thủy thất bại:


Chúng tôi đã đi vượt biên bằng đường thủy vào tháng 6 năm 1978 nhưng bị thất bại. Sau đó, cả hai vợ chồng tôi đều bị mất việc vì bị ghép tội là thành phần “Phản động” và “Phản quốc”. Chồng tôi bị đi tù, còn 5 mẹ con tôi chỉ bị tù ba ngày rồi được trả về.






Sau đó, tôi lặn lội đi buôn thúng, bán bưng ở các vỉa hè, nơi ngã ba Hàng Xanh xa lộ, vùng Thị Nghè, Bà Chiểu, Sài Gòn. Khi nào bán ế thì về nhà luộc bắp, nướng bắp mà ăn trừ cơm.






Một hôm, chị hàng xóm tốt bụng rủ tôi đi mua mít Tố Nữ ở Lái Thiêu về Sàigòn bán lẻ. Khi hai chị em vừa xuống xe, mỗi người gánh một gánh mít đi bán ở vùng xa lộ thì trời đổ mưa tầm tã. Chúng tôi phải nép vào một cái quán để tránh mưa. Mưa ướt ngoài trời mà mưa lệ cũng ướt đầm đià trên đôi mắt tôi.






Cả đời tôi chưa hề một lần buôn thúng bán bưng mà giờ phút ấy, hai vai của tôi quằn lại vì gánh nặng của hai thúng mít. Mưa ròng rã suốt buổi nên cuối cùng, tôi gánh về nhà để ăn. Hàng xóm thấy tội nghiệp nên mua giúp cho tôi. Sau đó, tôi đổi nghề đi buôn thuốc tây, nhưng vì không quen làm ăn nên làm gì cũng thua lỗ. Từ từ, tôi đem đồ đạc đã gửi nơi nhà bà con để bán dần, lấy tiền mua gạo cho con cái ăn uống để cầm cự qua ngày.






Mãi đến mấy tháng sau, chồng tôi được thả về. Anh lặn lội đi buôn bán chợ trời nên gia đình tôi bớt vất vả. Trong thời gian ở tù, anh có quen một người tù khác. Ông này vì là triệu phú bị kiểm kê tài sản mà bị ở tù. Khi ra khỏi tù thì tính chuyện đi vượt biên bán chính thức. Ông ta cho vợ chồng tôi mượn 8 cây vàng, và nói rằng khi qua Mỹ, ông ta sẽ đòi tiền nơi mẹ của tôi. Sau đó, chúng tôi khám phá ra rằng trong số 8 cây vàng mà ông ta cho mượn thì có 1 cây vàng giả. Sự khám phá ra vàng giả cũng làm cho tôi đau đớn và suýt lên cơn đau tim vì e rằng không đủ tiền trả cho những người dẫn đường.






Trong lúc ấy, chồng tôi là anh Vĩnh móc nối đường dây đi vượt biên bằng đường bộ. Người ta hứa rằng chỉ lấy một nửa số tiền, khi nào thành công thì chúng tôi sẽ viết mật hiệu về Việt Nam cho em gái tôi trả thêm một nửa số tiền còn lại.






Cuộc hành trình tìm tự do đầy gian nan:


Đến ngày đi, vợ chồng tôi chia gia đình ra làm hai nhóm, ngồi chung xe nhưng làm mặt lạ với nhau để khỏi bị lộ. Khi đi xe lên đến vùng Gò Dầu thì người dẫn đường đưa chúng tôi vào một căn nhà tranh lụp xụp. Họ đổi cho chúng tôi quần áo của người Miên, và bắt chồng tôi đem hết vàng và giấy tờ quan trọng để đi vượt biên qua biên giới Việt Miên vào buổi trưa, khoảng 1, 2 giờ trưa. Tôi có nói với chồng tôi rằng khi anh đã vượt biên thành công thì xin viết mật hiệu báo tin là anh qua lọt để tôi ở bên này biên giới, tức là vùng Gò Dầu, Tây Ninh, sẽ cảm thấy yên tâm. Anh đồng ý và ra đi.






Trong lúc ấy, bốn đứa con của tôi ở trong căn nhà tranh bắt đầu kiếm chuyện vì bị tù túng. Chúng than van là trời nóng, chúng khát nước và đòi uống nước đá. Chúng đòi đi cầu, đi tiểu. Tôi không dám thò đầu ra ngoài vì sợ hàng xóm của gia chủ nghi ngờ và đi báo cáo cho công an. Thế mà cũng có những ngừơi hàng xóm tò mò sang bắt chuyện và hỏi thăm. Tôi phải làm bộ ngủ, quay mặt vào trong để tránh các câu chuyện không cần thiết và bất lợi.






Buổi chiều, các người dẫn đường đòi đưa tôi và hai con nhỏ đi trước qua biên giới, còn hai con lớn của tôi sẽ qua biên giới sau. Tôi sợ mất con nên nhất định không đồng ý. Thế là đêm ấy tôi lo sợ, không ngủ được, phần thì không có tin chồng báo về và sợ chồng bị cướp của và bị giết chết, phần thì con quấy rầy, phần thì bị cơn ho hành hạ.






Cuối cùng, vào ban đêm, có hai người lái xe Honda đến chở năm mẹ con tôi lên xe để vượt biên giới bằng đường ruộng, không bằng đường lộ. Đi lòng vòng một hồi lâu, hai xe dừng lại, và năm mẹ con tôi phải đi theo một người dẫn đường người Miên giữa đêm khuya, không trăng, không đèn.






Vì phải leo lên leo xuống các bờ đê trong ruộng nên mẹ con tôi bị ngã hoài. Chúng tôi không biết tiếng Miên, mà ông Miên dẫn đường lại không biết tiếng Việt. Phần thì ông ta đi quá mau còn bà bầu như tôi và lũ con trẻ lại đi quá chậm. Vì phải chạy theo ông ta nên chúng tôi cứ té ngã mãi. Tôi còn phải cõng đứa con bé nhất trên lưng.






Trên vùng đất Campuchia:


Ði mải miết ba bốn tiếng đồng hồ thì chúng tôi qua được biên giới. Ở bên đất Miên, người ta đốt lửa và họp chợ. Tới biên giới, người ta cho năm mẹ con chúng tôi ngồi trên ba cái xe đạp thồ và chở chúng tôi đi lên đường rồi xuống ruộng. Sau đó, họ bắt tôi lên mặt đường ngồi chờ họ cả buổi. Lòng tôi lúc ấy rất hoang mang và lo sợ. Phần thì sợ lạc con, phần sợ chồng bị giết rồi, phần sợ không có đủ sức khỏe để tiếp tục cuộc hành trình.






Cuối cùng, sau một hồi lâu, họ đến đón tôi về xum họp với chồng con ở trong một ngôi nha bằng tranh. Họ dặn chúng tôi không được nói tiếng Việt. Lúc gặp lại chồng, anh Vĩnh cho biết là khi qua biên giới xong thì họ quay ngay xe đi, không đợi cho anh ấy viết vài chữ về cho tôi. Anh còn kể là họ dùng mỹ nhân kế để quyến rũ anh. Anh phải giả vờ ngủ và phải tranh đấu lắm để không rơi vào lưới tình của người đàn bà trẻ kia.






Sau đó, họ hoá trang cho tôi bằng cách bôi khuôn mặt tôi cho đen hơn. Họ cho tôi cái khăn quàng gọi là “cà ma’ để đội. Tôi phải cải trang mặc áo sà rông, giống như một cái váy ra ngoài cái quần đen của tôi. Rồi họ chia gia đình tôi ra làm hai nhóm và cho ngồi hai xe vận tải khác nhau. Tôi và hai con gái ngồi ngay trên xe vận tải, bên cạnh tài xế, còn chồng tôi và hai con trai ngồi dấu mình ở đàng sau một xe vận tải khác.






Cứ mỗi khi sắp đến trạm kiểm soát thì chúng tôi phải xuống đi bộ, đi vào ruộng và khi qua khỏi trạm kiểm soát thì lại leo lên xe vận tải. Trên đoạn đường từ Gò Dầu Thượng đến Soài Riêng có cả mấy chục trạm kiểm soát, mà cứ đến mỗi trạm thì chúng tôi đều phải xuống đi bộ, bọc qua ruộng để tránh các trạm kiểm soát.






Có một lần vì thương hai đứa con gái nhỏ phải đi bộ vất vả nên tôi đề nghị chúng ngồi lại trên xe vận tải cùng với một giỏ quần áo để khi chúng tôi đi bộ, bọc qua ruộng xong thì sẽ gặp lại chúng. Khi ấy, cháu Kim, 4 tuổi nhất định khóc và đòi đi với mẹ, nên cháu Trang 8 tuổi cũng nhảy xuống theo. Tôi bèn để cái giỏ đồ, trong đó có cái kiếng cận thị của tôi trên xe.






Sau đó, khi chúng tôi đi bọc xong, lên lại đường lộ thì chiếc xe ấy chạy đi mất hút. Nếu tôi buộc hai con gái tôi phải ngồi trên xe ấy thì tôi đã thất lạc hai con rồi. May mà chỉ mất một trong hai cái giỏ của gia đình mà thôi, nhưng cũng khổ cho tôi là từ khi mất kiếng cận thị, tôi đâm ra mù lòa, khốn khổ trong suốt bẩy tháng trời ở trại tị nạn.






Khi chúng tôi đón một xe khác đi tiếp thì nhóm dẫn đường gài cho chúng tôi bị công an bắt, giải ngược lại con đường mà chúng tôi đã đi qua. Sở dĩ chúng tôi biết là họ gài cho công an bắt là vì khi chúng tôi đang ngồi ăn cơm trưa trong quán, thình lình có một xe công an đến quán và ra hiệu đòi chúng tôi đi với họ.






Vì biết rằng khi trở về thì sẽ bị tù, nên vợ chồng tôi bàn với nhau định chôn dấu mớ giấy tờ bảo lãnh của mẹ tôi làm từ Mỹ gửi về. Nhưng Chúa thương các con của tôi cách riêng, nên khi bị bắt, lính Miên chỉ đuổi chúng tôi về lại Việt Nam chứ không bắt giữ.






Khi được thả ra thì chúng tôi không còn thấy những ngừơi dẫn đường của gia đình tôi nữa. Lòng bối rối lo âu, gia đình tôi đi lang thang giữa đường của thành phố Soài Riêng như một đám ăn mày. Bản thân tôi lo sợ như kẻ mất hồn nên đi nghênh ngang giữa đường và bị xe đạp đụng làm rách cả cái áo.






Lúc ấy, chồng tôi dặn tôi trong nom 4 đứa con để anh ấy đi lùng tìm bọn dẫn đường. Anh đi tìm một cách vô vọng thế mà lại gặp bọn chúng. Cuối cùng chúng phải dắt gia đình chúng tôi đi ăn tối. Sau đó, chúng tôi xin ngủ tạm ở nhà một gia đình người Miên. Đêm mùa hè mà nằm lăn lóc trên nền xi măng còn hực lửa nắng hè, tôi lo buồn nên không dám ngủ vì sợ ngủ hết lỡ họ cướp tiền và giết mình thì sao.






Sáng hôm sau, bọn dẫn đường đành phải đưa gia đình tôi đi tiếp. Lộ trình đi vào thủ đô Phnom Pênh (Nam Vang) cũng gian nan không kém lộ trình từ Gò Dầu đến Soài Riêng.






Sống lo âu ở Phnom Penh:


Qua bao nhiêu gian khổ, chúng tôi đến được Phnom Penh. Bọn đẫn đường cho gia đình tôi vào ở trong một gia đình người Miên và rồi chúng lại trốn đi, để mặc gia đình chúng tôi bơ vơ nơi xứ lạ quê người.






Giờ phút ấy, chúng tôi chỉ biết quỳ xuống cầu nguyện để xin Chúa và Đức Mẹ Maria cứu nguy mà thôi. Chúa lại thương nên chồng tôi tìm được hai tên dẫn đường đang ngồi xe xích lô để chuồn về Việt Nam. Khi chồng tôi bắt chúng về lại nhà trọ thì chúng nói thẳng là chúng không biết đường đi đến Thái Lan. Lúc đó, chúng tôi mới biết là chúng đã gài cho lính Công an bắt chúng tôi khi còn ở phạm vi của tỉnh Soài Riêng.






Chúng tôi làm dữ với bọn dẫn đường và dọa sẽ ra công an tố cáo chúng lừa gạt chúng tôi. Cuối cùng, chúng phải trả lại gần một nửa số tiền mà chúng đã lấy của chúng tôi.






Sau đó, chúng dẫn gia đình tôi gặp một người dẫn đường khác. Họ dắt chúng tôi đến một nhà khác để đợi chờ. Trong suốt thời gian chờ đợi, lòng vợ chồng tôi bồn chồn và lo lắng như ngồi trên lửa.






Đi xe lửa đến Pursak và Battambang:


Rồi khoảng một tuần sau, anh chàng dẫn đường tên Sán mới dắt chúng tôi đi tiếp để đến biên giới Thái Lan. Lần này, anh ta đưa chúng tôi đến nhà ga và bảo chúng tôi leo lên xe lửa. Xe lửa đầy những người. Người ta ngồi trong các toa xe. Rất nhiều người khác thì ngồi lắt lẻo trên các mui xe lửa. Còn gia đình chúng tôi thì phải cố gắng leo lên trên một cái toa ở sát toa đầu xe lửa, nơi chất đầy củi để nhét vào lò, hầu làm cho xe lửa chạy.






Đây là một cực hình cho gia đình tôi vì các tàn lửa bay ra tấp vào quần áo chúng tôi và lửa châm vào da thịt chúng tôi, để lại những vết cháy trên da thịt. Lại nữa, toa này không có mui vì là toa chở củi, nên cơn nắng làm nóng khủng khiếp. Lại thêm cái đói và khát hành hạ gia đình chúng tôi. Lúc ấy, tôi cứ cầu nguyện để xin Chúa cho tôi được chết phứt cho xong kiếp đời đau khổ.






Vợ chồng tôi và các con ngồi chỉ cách nhau có 2 thước nhưng chỉ biết im lặng mà nhìn nhau một cách đau đớn. Lòng chúng tôi xót xa đến đứt ruột vì thương các con nhỏ dại mà phải chịu khổ. Cả gia đình tôi chịu cảnh khát nước đến cháy cổ nhưng không biết làm cách nào mà có nước uống vì xe lửa cứ chạy mãi.






Cuối cùng, tôi đánh bạo móc ra 5 đồng bạc Việt Nam để đưa cho những người ngồi gần, rồi ra dấu chỉ vào những trái bắp luộc và một ổ bánh mì đang nằm trong các chiếc giỏ hàng của họ. Họ bèn đưa cho gia đình tôi 5 trái bắp luộc và 1 ổ bánh mì. Thế là giải quyết được việc ăn. Rồi tôi lại ra dấu xin họ cho nước uống. Chị hàng xóm mở bi-đông rót ra một chút nước đen ngòm. Tôi vội cầm chiếc nắp bi-đông ấy để cho bé Kim, đứa con nhỏ nhất của tôi. Còn lại thì cả gia đình đều chịu trận khát khô cổ.






Trong cái nắng gắt của mùa hè nhiệt đới, chúng tôi ngồi im lặng như chết mà không trao đổi với nhau một câu nói vì sợ người ta biết mình là người Việt Nam vượt biên.






Đến 9 giờ tối, xe lửa mới ngừng trước ga Pursak. Chúng tôi mất trọn một ngày mà mới đi được có nửa đường.






Tôi hôm ấy, chúng tôi được anh Sán dắt đi ăn. Sau đó, anh chàng dặn chúng tôi hãy ngủ ngay phía đường rầy để mai đi tiếp.






Vợ chồng tôi rất run sợ vì nghĩ rằng anh ta có thể bỏ rơi gia đình mình bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, tôi phải lôi hết áo quần trong giỏ ra để làm chiếu cho các con nằm xuống. Chung quanh tôi, mọi người đều nói chuyện vui vẻ, chỉ có gia đình tôi là im lặng, sợ hãi và buồn bã.






Nền đất đá cứng và gồ ghề làm cho chúng tôi đau lưng, lại thêm cái nóng của mặt đất bốc lên làm cho chúng tôi trằn trọc suốt đêm không ngủ được .






Sáng hôm sau, anh Sán dắt chúng tôi lên xe lửa đi tiếp. Lại thêm một ngày nóng và khát. Suốt bảy tiếng đồng hồ ngồi phơi trên xe lửa không nóc, chúng tôi mệt muốn xỉu.






Khoảng 3 giờ chiếu thì xe lửa vào đến địa phận tỉnh Battambang. Sau một hồi tìm kiếm, anh Sán cho chúng tôi vào một căn nhà trống trơn. Nơi đây có một lu nước. Không ai bảo ai, cả gia đình tôi nhào đến lu nước, rồi người dùng gáo, kẻ dùng tay để múc nước và uống ừng ực.






Vừa uống xong, tôi bủn rủn tay chân và đầu óc quay cuồng. Tôi cảm thấy chóng mặt và tim đập mạnh. Tôi nghĩ mình sẽ chết ngay tại đó. Chồng con tôi cuống quít cạo gió cho tôi. Tôi cố dằn cơn xúc động, nhưng nước mắt cứ chảy ra dào dạt. Tôi dặn anh Vĩnh, chồng tôi rằng:






“Anh ơi, nếu rủi em có chết tại đây thì xin anh cố gắng dắt các con đi tiếp cho đến đích, vì chỉ còn có 60 cây số nữa thôi. Xin anh đừng lo gì cho em, đừng tính chuyện chôn cất gì cả. Mình không thể bỏ cuộc một cách dễ dàng. Mình đã tốn quá nhiều công sức rồi!”






Nghe lời trăn trối của tôi, cả gia đình tôi khóc thổn thức. Vừa sợ cảnh chia ly, vừa sợ người thân chết, vừa sợ bị người dẫn đường bỏ rơi, lòng chúng tôi đau đớn, xót xa.






Khoảng 4 giờ 30 chiều, anh Sán trở lại. Anh cho gia đình ăn cơm và đưa chúng tôi đi ra biên giới bằng 2 chiếc xe mô tô thồ.






Cứ trước mỗi trạm gác, những người tài xế xe lại ra hiệu cho gia đình tôi xuống xe đi bộ qua trạm gác. Anh Vĩnh luôn luôn phải đi trước để thoát thân, vì nếu vợ con bị chận lại thì anh sẽ không bị bắt. Đàn bà, con trẻ thì có bị bắt cũng không lâu, còn đàn ông thì ở tù không có ngày về.






Trong khu rừng vắng gần biên giới Thái-Campuchia với nỗi lo âu:


Qua biết bao gian nan, chúng tôi thoát nạn qua các trạm gác. Đến tối, anh Sán cho chúng tôi vào một khu rừng và bảo rằng anh ấy sẽ trở lại vào sáng ngày hôm sau. Cơn mệt buổi trưa lại đến. Tôi lập lại lời dặn dò và trăn trối. Chồng con tôi lại hốt hoảng vì sợ tôi chết tại đấy. Tôi cố gắng trấn an và nhất quyết dặn chống tôi phải vượt bỏ tất cả những ủy mị, đau buồn để đưa các con đến nơi, nếu như tôi có chết dọc đường, bỏ cuộc trên con đường đi tìm tự do.






Lúc ấy tôi cảm thấy Thiên Chúa thật gần. Gia đình chúng tôi cầu nguyện như là đang nói chuyện với Ngài. Chúng tôi lại cầu nguyện với Đức Mẹ Maria. Chúng tôi khấn xin các thánh, các linh hồn ông bà, cha mẹ chồng đã khuất để xin sự che chở và bảo vệ.






Chỉ có những lúc như thế, chúng tôi mới cảm thấy thân phận con người thật nhỏ bé giữa trùng vây của nguy hiểm và lo âu hãi hùng. Có trải qua những phút âu lo đó, tôi mới thấy cái hạnh phúc là có một người bạn đường bên cạnh, tôi mới cảm thấy Thiên Chúa thật linh thiêng, sự sống thật đáng quý, tình cảm gia đình thật cao đẹp và ý nghĩa của hai chữ tự do thật cao cả.






Suốt đêm hôm ấy, gia đình tôi được ở trong một cái lán giữa chốn rừng hoang. Cái lán này còn sơ sài hơn một túp lều. Vợ chồng tôi lo lắng vì sợ bị bỏ rơi và sợ cướp giết mình hay bị rắn cắn. Chúng tôi lại lôi quần áo trong giỏ ra để làm chiếu cho các con nằm. Hai vợ chồng tôi lại nằm theo hình chữ V, hai đầu quay gần nhau, bốn đứa con nằm giữa. Tôi nằm yên lặng, thần kinh căng thẳng nên không chợp mắt vì quá sức sợ hãi.






Tôi nhìn lên bầu trời, mở mắt thật to để tìm một chùm sao hình chữ T. là tên tắt của thánh nữ Têrêsa, thánh quan thầy của tôi để xin thánh nữ cầu bầu cho gia đình tôi. Tôi xin Đức Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình cầu bầu cho gia đình được ơn bình an, thoát khỏi tai nạn, nhất là nạn cướp trong rừng biên giới.






Đem đen như mực, tiếng côn trùng kêu rả rích. Vợ chồng con cái nằm im, chả ai buồn nói với ai một lời. Một sự bất an bao trùm. Thần kinh căng thẳng. Chúng tôi lắng nghe để xem có tiếng ai đi đâu đó không. Giữa rừng cây um tùm, ví thử bọn cướp có đến giết gia đình để cướp của thì cũng chả ai mà biết, và nếu gia đình tôi có hét lên thì cũng chả ai nghe được mà cứu.






Trời bắt đầu lạnh, sương xuống mỗi lúc một nhiều. Nhìn bầy con nhỏ vô tội đang nằm lăn lóc giữa sương gió, tim tôi nhói đau như bị ai bóp. Giữa lúc ấy, mạng sống con người còn nhỏ nhoi hơn một con giun, con dế. Cứ mỗi lần có tiếng động là vợ chồng tôi ngồi bật dậy để quan sát và nghe ngóng. Cứ thế, chúng tôi nằm chờ sáng trong muôn ngàn nỗi âu lo, sợ hãi và trong niềm hối hận vì đã hành xác con cái trong cơn đói khát, khổ cực.


Bị cướp và bị bỏ rơi trên đường đi:


Sáng hôm sau, khi thức dậy, chúng tôi thấy có hai người đàn ông người Campuchia đến gần. Không hỏi ý chúng tôi mà họ tự ý lục lọi đồ đạc trong giỏ của chúng tôi. Sau khi chẳng kiếm được cái gì mà họ muốn lấy, họ đề nghị chúng tôi đi tắm mát. Đó là để khi chúng tôi xuống hồ ao thi họ lục lấy vàng hay tiền trong quần áo chúng tôi.






Vợ chồng chúng tôi biết là gặp bọn người bất lương nên tôi bàn với chồng tôi là anh Vĩnh nên đi chậm với hai người ấy để cản đường, còn tôi thì lùa các con chạy trước. Nhưng để có thể biết hướng đi ra khỏi rừng, chúng tôi phải đi theo hướng bọn họ sẽ đi. Khi thấy con đường đất đỏ trải dài trước mắt, lòng chúng tôi mừng khấp khởi vì biết là đến nơi an toàn hơn.






Một lúc sau, tôi thấy bóng một đứa bé ngồi trên lưng trâu, tôi quay nhìn anh Vĩnh và nói to:






“Chuẩn bị chạy!”






Rồi tôi nói với các con:






“Chạy ra theo đường kia, các con ơi! Chạy lẹ kẻo bọn cướp kia bắt được mình đấy!”






Thế là như bầy ong vỡ tổ, các con tôi ùa ra chạy thật lẹ, tôi cũng ì ạch chạy theo các con.






Trong lúc ấy, anh Vĩnh bị hai tên người Miên kèm sát để mong cướp của và vàng bạc. Tôi lại quay ngược đầu về phía sau kêu chồng tôi:






“Chạy theo em, anh ơi!”






Lúc ấy, chồng tôi phải hết sức khéo léo để giựt lại cái giỏ đồ và thùng đựng nước. Anh cũng cố tình trì hoãn lại để mẹ con tôi có thêm thì giờ mà chạy thoát. Thế là cả gia đình cắm đầu chạy như ma đuổi.






Trời đã về chiều mà chúng tôi không có nơi ăn, chốn ở. Lúc đó khoảng 2, 3 giờ chiều, tôi bèn bàn với chồng tôi:






“Anh ơi, có lẽ em và các con sẽ trở về lại Việt Nam. Em ra trình diện với bộ đội Việt Nam để trở về nhà, tiền mình còn ít qúa, chắc không đủ cho cả gia đình mình đi đến Thái Lan đâu. Còn lại số tiền này, anh hãy giữ lấy mà tìm đường đi tiếp. Chứ mình đi như vầy hoài, tiền gần cạn hết rồi, biết tìm ai mà đi tiếp?”






Khi nghĩ đến chuyện chia tay, kẻ ở người đi, lòng chúng tôi ngậm ngùi và tan nát. Thế là chúng tôi bị bỏ rơi lần thứ hai rồi.






Vừa đau khổ, tôi vừa cầu nguyện. Không một lối thoát, ngôn ngữ không đủ để xin người bản xứ cứu giúp hay dẫn đường cho gia đình mình đến biên giới. Bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu vấn đề nan giải hiện ra. Tôi ước ao được chết ngay lúc đó, chết chung với chồng và các con, để khỏi phải lo âu và khắc khoải nữa, để khỏi phải chịu cảnh đói khát dưới cơn nắng khủng khiếp ấy nữa.






Trong tuyệt vọng thì tìm ra đường sống.


Khi chúng tôi đi ra đường thì gặp một người phụ nữ Miên chừng 25 tuổi, chị ấy hỏi chúng tôi rằng : “Việt Nam?” Tôi buồn bã gật đầu. Chị ấy chỉ ra phía trước, ra dấu hai tay sẽ bị còng và nói liên tiếp. Tôi chỉ hiểu rằng chị bảo chúng tôi coi chừng ra ngoài ấy sẽ bị bộ đội Việt Nam bắt còng tay và cho vào tù.






Biết chị là người có lòng tốt, tôi kể lể bằng tiếng Việt Nam về nỗi khổ của mình. Không biết chị có hiểu gì không nhưng chị ấy dắt chúng tôi về căn lều của gia đình chị. Chúng tôi vui mừng vì thấy một lu nước. Vừa xin phép chị, gia đình tôi vừa nhào đến thi nhau uống nước. Dù nước rất đục nhưng có nước còn hơn không. Cơn khát đã hành hạ chúng tôi từ lúc sáng đến giờ.






Câu chuyện thì dài lắm, nhưng kết quả là gia đình chị ấy chịu hướng dẫn chúng tôi đi qua biên giới Thái với điều kiện là chúng tôi phải trả hết số tiền bằng chiếc nhẫn kin cương mà tôi đã dấu trong cạp quần và một số tiền mặt khác.






Đêm hôm ấy, gia đình tôi được tắm mát nơi cái giếng cạn của gia đình chị Miên. Đêm ấy, vợ chồng tôi được bình an vì biết rằng mình đang ở trong tay một gia đình tốt lành.






Ngày hôm sau đó, gia đình chị cho chúng tôi lên ba chiếc xe bò trong một đoàn xe bò, rồi họ trả tiền cho ba người chủ xe bò. Từ đó trở đi, họ và chúng tôi không còn gặp nhau nữa vì gia đình tôi nay thuộc quyền của ba người chủ xe bò. Đến khi khám phá ra là họ bỏ mình cho những người chủ xe bò, vợ chồng tôi hoảng hốt và lo âu trên suốt cuộc hành trình ấy. Giữa đường đi, chúng tôi lại bị cướp thêm một lần nữa. Anh Vĩnh ngồi chiếc xe bò thứ hai, tôi và hai con gái ngồi trên xe bò thứ ba, còn hai con trai của chúng tôi ngồi trên xe bò thứ bốn.






Cuộc hành trình qua biên giới đầy gian khổ vì đói khát và sợ hãi. Ở vùng biên giới này, nhiều người tị nạn Việt Nam bị bộ đội Việt Nam bắt giữ và gửi về Việt Nam để bị giam trong các nhà tù. Cũng tại rừng biên giới này mà nhiều phụ nữ Việt Nam bị hãm hiếp bới bọn lính Miên, tức là lực lượng Para, một thứ linh chống chính phủ Phnom Penh. Tại nơi đó, nhiều người tị nạn bị giết chết vì lằn đạn pháo, vì bị lính Miên nghi ngờ, hay vì bị rắn cắn.






Sau đây, tôi xin được kể lại ngày thứ 15 trong cuộc hành trình vươt biên của gia đình chúng tôi:






Điển hình là ngày cuối cùng của lộ trình:


Ngày 10 tháng Tư năm 1980, tức là ngày 25 tháng Hai năm Canh Thân), cũng là ngày thứ mười lăm của lộ trình.






Sáng tinh sương, khoảng bốn giờ sáng, bà già Miên chủ xe bò đánh thức chúng tôi để đi tiếp. Đoàn xe bò lại lọc cọc lăn bánh dưới ánh trăng mờ nhạt. Tôi không đủ ngôn ngữ để hỏi bà già đó xem bao giờ thì tới Thái. Lòng phân vân, hoang mang, lo nghĩ, tôi ngồi ngủ gật trên xe bò. Khoảng năm giờ sáng, bà già quay lại nói:






"Bộ đội Việt Nam"






Tôi giật mình ra dấu hỏi. Bà ta chỉ về phía trước mặt. Thế là chúng tôi lại cho các con tôi nằm chôn dưới bao rơm, đậy miếng nilông lên. Tôi lại được mượn cái nón đội che nửa khuôn mặt. Cơn hãi sợ lại ập đến bủa vây tôi. Tôi cố giấu mặt trong chiếc nón gồi và liếc nhìn qua vành nón tỏa rộng. Nếu không được bà ta cho mượn nón, có lẽ tôi đã bị lộ rồi.






Đoàn xe vẫn lăn bánh lọc cọc trên đường mòn gập ghềnh sỏi đá Mỗi bước đi đến gần trạm kiểm soát là mỗi chút hồi hộp tăng dần. Tôi có cảm tưởng như máu trong cơ thể mình đông đặc lại.






"Càng gần biên giới, sự kiểm soát càng chặt chẽ, liệu mình có an toàn đến nơi không?"






Câu hỏi như gắn chặt trong tâm trí. Tôi run rẩy chờ đợi. Khoảng năm giờ rưỡi sáng, chúng tôi đã đến đầu bìa rừng biên giới - sau này tôi mới rõ. Đó cũng là trạm kiểm soát cuối cùng có Cộng Sản Việt Nam. Từ xa, tôi thấy lố nhố một số lính bộ đội. Họ la lớn bằng tiếng Việt:






"Đứng lại hết, chờ xét đã!"






Thế là đoàn xe bò dừng hẳn lại. Đám đàn ông trên xe bò lật đật leo xuống xe, đứng rải rác gần đó. Anh Vĩnh, chồng tôi, cũng vội vàng bước xuống xe và trà trộn ngay vào đám đàn ông Miên ấy. Tim tôi hồi hộp và đập thình thịch. Tôi cảm thấy rét run như bị cơn sốt rét. Hai tay run lẩy bẩy như bị động kinh phong. Giờ phút sống còn đã điểm. Một là tới Thái, hai là vào tù lần nữa.






Có sáu người lính Việt Cộng. Họ vác súng chạy rầm rập từ phía đầu của đoàn xe bò đến phía cuối. Họ lục xét để kiếm gà. Tiếng họ nói oang oang:






"Gà đâu? Gà đâu? Có gà thì "tâu", ót gà ót tâu!" (Có gà thì đi, không gà không đi!)






Vừa lục xét họ vừa cười nói và chửi thề luôn miệng. Giọng nói quê và nặng của dân quê miền Bắc Việt Nam. Tôi hơi mừng thầm vì thấy họ chỉ nhắm đến việc xét bắt gà vịt của người Miên đi xe bò hơn là nhằm mục đích xét người Việt Nam vượt biên. Có lẽ họ sống đói khát và thèm thuồng ở vùng núi biên giới này đã lâu nên chỉ mong cướp cạn để thỏa mãn sự thiếu thốn.






Hai tên lính xét xe bò thứ nhất, ba tên lính chạy xuống xét xe bò đi sau chót. Còn một tên đứng cách xe bò của tôi độ hai mét, tay hắn cầm cây súng chĩa lăm lăm về phía đoàn xe chúng tôi.






Đến xe bò thứ nhất, họ lật các bao rơm để kiếm gà. Tôi sợ đến ngộp thở. Chắc chết đến nơi rồi vì chỉ còn có một xe nữa là đến xe các con trai của tôi đang núp trong lớp rơm. Tàn đời rồi. Lại vô tù lần nữa thôi.






"Chúa ơi, cứu con với!"






Tôi hét thầm trong lòng. Rồi, họ xét đến xe Vĩnh đã ngồi là xe thứ hai. Họ lục lọi và lật tìm gà nơi các bao rơm. Họ bóp giỏ đồ của Vĩnh treo nơi xe mà không mở ra - nếu họ mở ra, chắc họ sẽ biết ngay chúng tôi là người Việt vì quần áo người lớn, con nít tùm lum. May mà anh Vĩnh đã trà trộn trong đám đàn ông kia rồi!






Khi họ bước qua xe bò thứ ba - nơi mà hai con trai của tôi đang được dấu dưới lớp rơm che kín-thì trái tim tôi như ngừng đập. Thôi rồi, lộ tẩy rồi! Thay vì tìm ra gà, họ sẽ tìm thấy ra hai cậu bé Việt Nam. Tôi lẩm bẩm cầu xin Thượng Đế che chở.






Lại một phép lạ của Thượng Đế! Khi họ định lục xe bò có hai con trai tôi thì bỗng ba tên lính Việt Cộng ở phía xe bò đàng sau chạy lạch bạch tới, tay họ cầm hai con gà. Họ vui mừng hét thật to:






"Có gà rồi! Có gà rồi chúng mày ơi! Đến hai con gà cơ!"






Hai tên lính này mừng quá, bỏ chuyện xét xe bò thứ ba và xe thứ tư - nơi tôi ngồi - để xúm lại bàn tán về thành tích cướp cạn vừa kể. Họ hý hửng cười, đập tay vào lưng, vào vai nhau một cách khoái trá và quên đi chuyện xét xe bò tiếp.






Trong khi ấy - cháu Kim 4 tuổi, vì bị chôn dưới lớp rơm và bao ni lông trên xe bò quá lâu nên mệt. Cháu la lên:






"Nóng quá! Khát quá mẹ ơi!"






Tôi lại giựt mình vì những người lính Việt Cộng chỉ đứng cách xe tôi ngồi có hai thước mà thôi. Tôi vừa sợ vừa giận nhưng chỉ biết im lặng vỗ vỗ vào lớp rơm che cho cháu để dỗ nó mà thôi. Con bé vẫn khóc y ỷ như chè thiu. Chắc là có ơn trên che chở, làm cho các anh lính bộ đội Việt Cộng bận chú ý về mấy con gà nên họ không thể nghe tiếng bé Kim khóc và nói bằng tiếng Việt Nam. Vả lại, lúc ấy trời còn mờ mờ tối nên đám lính này không thấy cảnh chúng tôi ngụy trang.






"Con bé này cứng đầu quá chừng, chuyên mang nỗi khó khăn đến cho cha mẹ!"






Tôi nghiến hai hàm răng để cắn chặt cơn giận và tiếng la mắng:






"Chuyến này mà lộ thì ăn đòn chết, nghe con!"






Tôi giận tái người vì đứa con dại khờ, cái chết bên mình mà vẫn không biết.






Trong lúc ấy, bà già Miên, chủ xe bò của chúng tôi cũng sợ hết hồn. Bà ta thò tay vào lục trong giỏ mãi mới kiếm được một quả xoài xanh nhỏ bằng trái trứng gà. Rồi bà ta đưa trái xoài cho tôi. Tôi bèn giả bộ cúi xuống, vén lớp rơm và để quả xoài vào bàn tay con bé. Con bé nắm chặt quả xoài rồi nín ngay, không khóc nữa.






Nó bắt đầu tìm cách đưa quả xoài vào miệng, vì thế tấm ni lông lại sột soạt di động. Tôi phải gõ gõ để nó hiểu mà tạm nằm yên. Trong lúc ấy mấy anh lính Việt Cộng lấy súng gõ vào thành gỗ của một vài chiếc xe bò và hét to lên:






"Tâu đi! Tâu đi!" (Đi đi, đi đi!)






Đoàn xe bò chậm rãi chuyển bánh. Anh Vĩnh và đám đàn ông lẹ làng đi bộ qua mặt nhóm lính Việt Cộng. Tôi thở phào nhẹ nhõm như vừa thoát khỏi một gánh nặng.






Trời đã hơi sáng, đoàn người đi lặng lẽ vào rừng thưa. Lúc này đã vào rừng rồi - rừng biên giới Cambodia và Thái Lan. Qua khỏi trạm gác khá xa, các con tôi mới được trút bỏ lớp rơm che đậy chúng để ngồi lên như cũ. Trời vẫn còn sớm nên người đi lại thưa thớt. Dần dần, trời đã sáng bạch, chúng tôi đã tiến sâu vào rừng, qua con đường mòn cỏ cây đan nhánh. Tôi ngồi trên xe bò mà nhủ thầm:






"Mình còn sướng hơn các người đi bộ kia, chắc là họ mệt lắm - mình còn hên nhiều!"






Tôi chợt nghĩ đến cảnh những người vượt biên đi sau tôi - nếu họ đi vào tháng Năm, tháng Sáu mà gặp mưa thì chết cóng vì lạnh và ướt thôi. Suốt cuộc hành trình là nằm ở ngoài bờ bụi, làm sao họ chống trả nổi với cơn mưa suốt đêm? Rồi họ phải lội ruộng, lội đồng. Nếu nước ngập làm sao họ có thể bước đi mau được khi mà đường thì dài vô tận? Đã có bao nhiêu người bị chết vì cóng lạnh dưới cơn mưa, trên đường đi vượt biên, trước gia đình tôi? Và sẽ còn bao nhiêu người chết vì cơn nóng, cái đói khát sau gia đình tôi?






Tôi không trả lời được mà chỉ biết thương xót cho họ. Người dân Việt Nam - có cả chúng tôi - đã trả giá quá đắt cho sự kiếm tìm tự do. Họ trả giá bằng chính sinh mạng của họ và gia đình họ. Tôi đã nếm mùi vượt biên. Nếu yên lành đến nơi, tôi sẽ viết thư về để ngăn cản, không cho bà con, bạn bè đi bằng đường bộ nữa.






Ghê gớm quá, khủng khiếp quá. Tôi ngồi thừ ra suy nghĩ mãi. Xe bò đi sâu vào rừng. Chung quanh là cây cao bóng mát. Bóng mát ở đây nhiều nhưng riêng tôi, tôi vẫn chưa tìm thấy bóng mát của cuộc đời. Một cuộc đời trôi nổi, đầy thiệt thòi và mất mát. Hai lần bỏ xứ ra đi: Một lần từ Bắc di cư vào Nam, và lần này, từ Việt Nam bỏ tất cả để dấn bước phiêu lưu đi tìm tự do.






Tôi lớn lên để bị chứng kiến những cảnh đổ vỡ của gia đình và của đất nước. Tôi đã khóc rất nhiều trước những cơn bão táp ấy. Tôi còn nhỏ lúc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào năm 1963, nhưng tôi đã khóc khi thấy hình Tổng Thống Diệm bị đốt. Tôi thấy đau đớn khi ngọn lửa ăn dần hình ảnh hiền hậu của vị Tổng Thống ấy. Hình như đôi mắt ông Diệm đã khóc khi lửa liếm dần và thiêu rụi. Tôi nhủ thầm, nếu Tổng Thống Diệm không bị ám sát thì chắc đất nước mình vẫn còn thanh bình và thịnh vượng như thời kỳ 1960, có đâu mà dân tộc mình phải chịu đắng cay và đau khổ như bây giờ? Có đâu mà mình và gia đình phải chịu đủ mọi khổ sở như vầy?






Cảnh rừng thưa vào ban mai thật đẹp và hùng vĩ. Cây mọc chằng chịt, chỉa cành ra phía đường mòn, ánh nắng như được lọc qua bóng cây, đổ xuống tràn đầy. Tiếng chim hót líu lo, tiếng bánh xe bò kêu lọc cọc đưa tôi về thực tại. Các người đàn ông đi bộ nay đã leo lại lên xe bò. Xe vẫn đi chậm như rùa bò.






Tôi đưa trả bà già Miên chiếc nón mà bà đã tử tế cho tôi mượn để hóa trang. Tôi mở luôn chiếc khăn quàng để hít thở thoải mái bầu không khí trong lành của buổi sáng sớm trong rừng đầy cây xanh. Một cách cẩn thận, tôi chỉ tay về phía trước, ra dấu và hỏi xem còn bộ đội Việt Nam ở trong rừng không thì bà già Miên lắc đầu. Tôi mừng rỡ, thở phào nhẹ nhõm rồi ngửng mặt lên nhìn ngắm vòm cây xanh cao trước mặt. Những trái xanh treo lửng lơ trên cây. Tôi không biết là loại trái gì nhưng vẫn cầu mong cho một vài trái rớt xuống để mút đỡ khát. Tôi thì thầm câu nói của một bà già trong truyện Tấm Cám:






"Thị ơi! Thị rụng bị bà


Bà để bà ngửi chứ bà không ăn.”






Buồn thay, chả có trái nào rụng xuống. Tôi nuốt nước bọt mà thèm. Một chút gì êm ả, một chút gì ngọt ngào thoáng đến trong hồn tôi. Hình như hồn quê hương tôi còn quanh quẩn đâu đây với cảnh đẹp thiên nhiên này. Tôi sung sớng hít thở mãi.






Lúc này, người ta đi lại tấp nập hơn. Người đi bộ, người đi xe bò, kẻ đi xe đạp. Những người đi cùng chiều với tôi thì đa số đi tay không hay xách giỏ nhỏ. Trái lại, những người đi ngược chiều với tôi - từ biên giới Thái về - thì chở đầy hàng hóa, thuốc lá và vải vóc mà họ đã mua từ biên giới về.






Họ dùng xe đạp để chở đồ đạc. Người thì dắt xe, người thì tải hàng, cứ thế, họ đi bộ về chợ trời Soay - gần Sisophon. Còn các xe bò ở biên giới về thì chở đầy các bao gạo, loại một trăm kí lô gram. Xe bò đi về cũng khá nhiều. Tính ra, họ cũng rất giàu. Khi đi thì chở người Việt Nam vượt biên, khi ở biên giới về thì chở gạo về Miên bán, hay chở vải vóc, thuốc lá, đồng hồ về bán. Xem ra người dân Miên buôn bán tự do hơn người dân Việt Nam ở quê hương tôi.






Thỉnh thoảng, tôi thấy một người ngồi bên đường để bán nước đá sirô, dưa hấu và xoài chín. Những ly nước sirô có đá màu đỏ, màu cam như trêu, như chọc cơn thèm khát. Những miếng dưa hấu đỏ óng như mời, như gọi. Những trái xoài vàng đậm như đợi, như chờ chúng tôi với tay đến. Những thỏi nước đá trắng trong vắt, trông đẹp như pha lê.






"Trời ơi! làm sao mình có tiền để mua được đây?"






Tôi dán chặt mắt vào các món giải khát ấy rồi nuốt nước bọt. Các con tôi cũng nhìn một cách thèm thuồng. Chúng tôi cứ mơ và ước đến các món giải khát mãi.






Thình lình, từ trong lùm cây rậm rạp, có hai tên lính Miên mặt non choẹt, trông chỉ độ mười bốn, mười lăm tuổi, mặc quân phục rằn ri như lính nhảy dù, chúng xông ra chận xe bò của tôi lại. Chúng lăm lăm chĩa súng vào người mẹ con tôi và hét lên:






"Việt Nam, Việt Nam, xuống, xuống ngay!".






Tôi sợ điếng hồn. Tưởng là đã thoát ách bộ đội Việt Cộng thì hết sự nguy hiểm rồi. Thế mà nay lại bị bắt nữa rồi. Tôi lúng túng đứng lên. Bọn chúng - sau này tôi mới biết chúng là lực lượng Para, một loại lính biệt kích của kháng chiến quân Cambodia. Có người thì nói là lính của Sihanouk, của Lon Nol, của Son Sann, của chính phủ Thái thuê để đánh lại bộ đội Việt Cộng và lính Cộng Sản của Miên - lại la lên:






"Xuống! Nếu không thì "ông lớn" bắn chết!"






Chúng nói tiếng Việt không rõ. Rồi chúng hung hăng chụp cháu Kim vứt xuống đất. Con bé hoảng sợ, khóc thét lên. Chúng túm lấy cháu Trang đuổi xuống. Tôi sợ quá, vội vàng nhào xuống xe. Rồi tôi quay lại bà già Miên để nhờ lấy đồ đạc của tôi ở trên xe xuống hết.






Đàng trước, chiếc xe bò chở hai con trai tôi cũng đã ngừng lại, ông già Miên cũng lật đật bỏ hai con tôi xuống đất. Thế là năm mẹ con tôi riu ríu đi theo hai người lính Para vào bụi rậm để chúng lục xét. Trong khi ấy, xe bò chở Vĩnh đã đi thoát về phía trước. Tôi vái trời cho Vĩnh đi thoát, bề nào thì anh ấy là đàn ông, nếu bị bắt lại thì lại bị tù tội gk có ngày về. Bọn Para hỏi lớn:






“Chồng bòn đâu?” ("Bòn" là anh hay chị).






Tôi lắc đầu quầy quậy và làm bộ ngớ ngẩn để tránh câu trả lời. Bọn lính Para bực tức hỏi to hơn:






-Chồng bòn đâu? Nói! Nói đi! Không thì ông lớn Para bắn chết!”






Tôi hoảng hốt nên làm thinh và chỉ tay về phía đoạn đường vừa đi qua. Bọn Para không tin, chúng quay lại hỏi vói tới mấy người Miên trong đoàn xe bò. Lập tức, một trong số những người ấy chỉ tay về phía trước và nói tía lia.






Ngay tức khắc, một tên lính Para đạp xe đạp chạy đuổi theo xe bò chở anh Vĩnh. Thôi rồi! Anh Vĩnh cũng sẽ bị bắt rồi! Thằng còn lại lấy báng súng đánh mạnh vào lưng tôi, rồi thuận chân, hắn đá vào người tôi một cách giận dữ vì tôi đã đánh lừa nó. Đôi giầy săng đá - bốt đờ sô - đánh vào mông tôi. Tôi đau đớn rú lên. Tuy vậy, cái đau của thể xác không làm cho tôi đau bằng cái nhục nhã của một con người bị một đứa con nít đáng tuổi con cháu mình xúc phạm mình.






Lúc ấy, cả năm mẹ con tôi ngồi thụp xuống đất, co ro và run rẩy như bầy chiên ở trước nanh vuốt cọp dữ. Từ đâu không biết mà bọn lính Para người Miên kéo tới khoảng mười tên. Tất cả đều còn rất trẻ, chỉ độ hai mươi lăm tuổi trở xuống đến mười bốn, mười lăm tuổi. Thằng nào cũng mặc đồ lính dù, rằn ri hoa lá. Thằng nào cũng đeo súng, đeo bùa màu đỏ tòn ten trên cổ. Chúng đeo tượng Phật vàng trên cổ. Sau này tôi mới hiểu tại sao mà chúng có vàng vòng nhiều vậy - đó là do việc cướp bóc tài sản của dân ty nạn đường bộ người Việt Nam. Nơi cổ, nơi ngực, nơi tay chúng đều xâm hình Phật và nhiều chữ Miên.






Khi đó, chúng cười hằng hặc vì đã túm được con mồi là gia đình tôi. Tôi sợ quá rồi. Chỉ cần nhìn những khuôn mặt đen đúa của chúng, chỉ cần nghe giọng cười khả ố là tôi sợ đến khiếp đảm.






Tất cả những câu chuyện mà tôi được nghe hồi ở Việt Nam chợt hiện đến trong đầu. Nào là dân tỵ nạn Việt Nam bị chặt cổ, nào là họ bị bắn, bị mổ bụng ở rừng biên giới. Nào là chuyện “cáp duồn”: Vào các năm 1970, 1971, người Việt Kiều ở Miên phải hồi hương vì người Miên nổi lên chặt đầu, hãm hại và giết chóc người Việt. Tôi chợt nhớ đến câu chuyện sử mà thầy giáo tôi đã kể hồi tôi học lớp Nhất (lớp Năm bây giờ) rằng Chúa Nguyễn Ánh đã sai tướng Lê Văn Duyệt đánh phá Cao Miên và tiến đánh Siêm (Thái Lan). Quân lính Việt Nam hồi ấy đã giết hại quân lính Miên rồi dùng dao chặt đầu họ để kê làm bếp nấu cơm - Cứ ba cái đầu người Miên làm thành một cái bếp. Rồi lại cướp đất của người Miên để làm đất của người Việt Nam. Do đó, hai dân tộc căm thù nhau vô cùng. Tôi nhớ đến những câu chuyện ấy mà rùng mình, rởn gai ốc. Không hiểu đó là sự thật hay do thầy tôi thêm thắt, dệt thêm. Dòng tư tưởng đưa tôi liên miên suy nghĩ và liên hệ đến thực tại. Tôi nhủ thầm:






"Chắc bọn họ chờ dịp này để hãm hại dân mình rồi đây, mình là nạn nhân của sự trả thù ngàn đời về trước rồi!"






Chúng tôi run sợ như lũ nai tơ bị bầy chó sói bao vây để hãm hại. Sau này, tôi được biết là trong cánh rừng đó, bọn lính người Miên tên Para, Pol Pot và lính kháng chiến quân của người Lào cũng ở đó. Không một ai thoát khỏi nanh vuốt của bọn lính này. Hàng ngày, hàng giờ, bọn chúng chia nhau ngồi ở hai bên đường mòn để chực bắt các người tỵ nạn Việt Nam. Chúng dùng tiếng Miên để kiểm soát và lọc ra những người không hiểu tiếng Miên. Vả lại, nét mặt, màu da, dáng điệu của người Việt khác xa người bản xứ. Chỉ cần quan sát kỹ cũng đủ nhận ra. Nếu may ra mà gặp lính của vị tướng người Lào thì đỡ hơn vì tương đối họ tử tế và có tác phong tốt hơn.






Bọn lính Para ra dấu hiệu cho chúng tôi đi theo chúng vào sâu trong rừng cây. Ba thằng lôi tôi vào bụi rậm, bắt tôi cởi hết áo quần. Trong lúc tôi đứng tơ hơ thì bọn chúng chia nhau lục xét áo quần và xà rông của tôi. Rồi chúng chia nhau xét cái giỏ quần áo của tôi. Chúng bắt tôi chổng mông để chúng móc ở hậu môn, ở cửa mình để kiếm vàng. Bàn tay chúng thô và to như những trái chuối. Tôi đau đớn và hổ thẹn, muốn khóc mà khóc không được. Cái nhục không thể nào kể xiết được. Nỗi hận thù chất đầy tâm trí. Tôi không dám chống cự và la hét vì sợ bị giết ở ngay tại đó, tội nghiệp cho bầy con vô tội ngây thơ.






Sau đó, bọn lính bóp miệng tôi để xem có vàng nhẫn dấu trong miệng tôi không. Rồi chúng nắm tóc tôi gỡ ra từng đám để xem tôi có cột nhẫn vàng trong tóc không. Xét kỹ lưỡng mà chúng chả tìm được một xu nhỏ nơi tôi, bọn chúng tát cho tôi mấy cái tát tóe lửa rồi xô tôi té nhào vào bụi gai. Tôi rú khẽ vì quá đau. Máu từ vết thơng bị gai đâm rỉ ra. Tôi đau quá, ứa nước mắt sống ra. Trong lòng tôi, tôi nhủ thầm:






"Bọn khốn nạn, chúng mày sẽ phải trả giá đắt cho việc làm chó má của chúng mày!”






Tới phiên các con tôi, chúng lôi các cháu vào nơi khác để xét. Chúng bắt các cháu cởi quần áo để chúng mong tìm chút vàng hay tiền. Cuối cùng, chúng lôi được tờ bạc hai mươi dollars mà tên lính Miên hôm qua đã thí lại cho chúng tôi từ chiếc quần của cháu Trang. Thế là chúng đánh con tôi túi bụi vì con bé đã không chịu đưa cho chúng ngay, phải đợi chúng xét mới thấy.






Con gái tôi khóc rấm rứt vì bị đòn. Chúng cũng xét miệng các cháu, bóp miệng, nắm tóc móc hậu môn. Xét chưa xong thì tên lính Para kia đã đưa được anh Vĩnh đi ngược về. Chúng xô Vĩnh té nhào xuống đất, rồi đánh anh bằng báng súng. Mặt anh tái nhợt. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau mà ứa lệ. Ngôn ngữ không đủ để diễn tả cho phút nhục nhã cực điểm ấy Thế rồi chúng bắt anh Vĩnh tới lùm cây khác để xét của. Chúng bắt Vĩnh cởi truồng, chổng mông để chúng tìm nhẫn vàng trong hậu môn. Rồi lại một màn bị bóp miệng, bị đánh đấm nữa. Chúng bực bội vì gặp một bọn nghèo mạt như gia đình tôi. Chúng hung hăng như bầy quỷ dữ. Chúng nói đủ thứ mà tôi không thể hiểu được. Rồi chúng hất hàm cho phép chúng tôi mặc quần áo. Chúng tôi cắm đầu mặc đồ vội vàng, không dám nói chuyện hay hó hé gì cả.






Từ xa, có những tiếng súng nổi lên rồi có những tiếng hét thảm thiết của phụ nữ. Chúng tôi đoán chừng chắc là nhóm lính Para khác đang tra tấn, hành hạ những người ty nạn Việt Nam khác. Tiếng kêu thét như tiếng heo bị thọc tiết, ai oán, nghe như xé ruột, vang động cả núi rừng. Rồi thì tiếng gầm thét của bọn lính. Tôi không ngờ mình đã gặp phải một bọn quỷ râu xanh như bọn Para này. Tôi hoảng quá vì sợ chúng hãm hiếp mình. May mà tôi đang có thai sáu tháng, bụng đã to, chứ không thì... Tôi rùng mình và không dám nghĩ hết.






Bọn lính Para hằn học đá tung mấy cái giỏ của chúng tôi và ra dấu cho gia đình tôi ngồi lại một chỗ chung với nhau. Từ nãy đến giờ, những người chủ xe bò thấy chúng tôi bị bắt xét, nên họ cũng ngừng xe lại để nghỉ ngơi, cho trâu bò ăn rơm và để nấu cơm cho bữa ăn trưa.






Một ông Miên tuổi trung niên, đi trong đoàn xe bò của tôi bước đến nói rất nhiều với nhóm lính Para. Tôi đoán chừng chắc ông ta kể cho chúng là chúng tôi đã bị cướp sạch từ ngày hôm trước rồi. Rồi bọn Para nói đủ thứ như dặn dò ông trung niên nọ điều gì. Chúng tôi ngồi lo nghĩ, mặt hướng về phía đường mòn và mong cho sớm được thả. Nếu được thả sớm thì còn đi ké theo đoàn xe bò. Chứ nếu được thả trễ, đám người kia ăn cơm xong rồi đi tiếp thì xe đâu mà đi, biết đường đâu mà lần tới biên giới? Tiền đã mất trọn, không có người đưa đi thì chắc chết cả gia đình. Mà còn kéo dài những phút này, còn sợ bị bọn chúng hãm hiếp và giết hại.






Thời gian như ngừng đọng lại, tôi đưa mắt nhìn ông Miên trung niên kia ra vẻ cầu xin ông giúp đỡ. Mắt tôi nhìn ông, rồi quay nhìn chồng con, rồi lại nhìn bọn Para. Ông ta hiểu ý, quay lại nói với bọn Para nữa. Khoảng độ nửa tiếng sau, chúng hất hàm ra dấu cho chúng tôi được đi tiếp. Chúng tôi mừng quá chạy vội đến xe bò, không dám chần chờ vì sợ chúng đổi ý thì chết. Nắng lên đã cao. Dù ở trong rừng, cơn nắng vẫn quái ác, tác hại đến chúng tôi. Cái khát làm bỏng cổ họng.






Chúng tôi leo lên lại hai xe bò. Tôi và hai cháu gái một xe, hai cháu trai một xe, hai xe này khác hai xe chúng tôi đã đi. Còn anh Vĩnh thì bị ông Miên trung niên đòi hết số giấy tờ quan trọng của gia đình chúng tôi. Ông ta bọc số giấy tờ của chúng tôi vào người ông rồi ông dắt Vĩnh đi bộ với ông ta. Tôi không hiểu ý ông ta muốn gì mà lại giữ giấy tờ của gia đình tôi và lại còn bắt Vĩnh đi bộ sát ông ta. Chắc bọn kia đã dặn dò ông ta làm như thế. Bây giờ chúng tôi như cá trong rọ, chim trong lồng nên chỉ biết nghe lời người ta.






Trời đã về trưa, chúng tôi đi giữa cái nóng, cái nắng và sự lo âu. Cháu Ninh kêu mệt và nằm ngửa trên xe bò, dưới cơn nắng. Dù đang ở trong rừng nhưng nắng vẫn ác nghiệt đổ xuống đầu chúng tôi. Tôi đau xót nhìn con trai nhưng không làm gì giúp con được vì cháu ngồi xe phía trước, còn tôi ngồi xe phía sau. Bố nó lại phải đi bộ một cách khổ cực.






Cứ thế chúng tôi câm nín đội cái nắng mà đi. Các con trâu, con bò cũng mệt mỏi, chúng chẳng thèm bước, chủ chúng phải rút ra cái roi có đinh nhọn để đánh chúng, buộc chúng đi. Chúng kêu lên đau đớn. Trông thật tội nghiệp. Đi khoảng nửa giờ, chúng tôi lại gặp một bọn Para khác, chúng lại bắt chúng tôi xuống xe bò, vào bụi. Lại một màn xét, lục lọi, nắn bóp và đánh đập, và chửi rủa. Chúng tôi làm thinh chờ. Bọn lính này tức giận vì không kiếm được một xu nơi chúng tôi. Còn gì nữa đâu mà cướp mà lấy?






Lúc này, cháu Ninh đã mệt lả, cháu xỉu luôn tại lùm cây đó. Mặt cháu tái xám, đôi mắt nhắm chặt như chết rồi. Tôi thương con quá. Rồi chúng tôi xúm lại lôi dầu cù là ra để bôi và giựt tóc mai cho cháu. Tôi biết chắc là cháu không trúng gió gì cả mà chỉ vì đói, khát và trúng nắng mà thôi. Sức cháu yếu, sự chịu đựng chỉ có hạn mà sự khổ sở thì vô vàn. Cháu xỉu là phải. Tôi quay nhìn bọn Para hung dữ, cổ chúng toàn màu đỏ và đủ loại bùa. Chúng xâm hình tượng Phật đầy mặt mũi tay chân. Mặt thằng nào cũng đen đúa. Tôi chỉ cháu Ninh, rồi chỉ một bình nước ra ý muốn xin cho cháu một ngụm nước. Chúng gật đầu, chúng tôi liền đưa vào miệng đứa con. Đứa bé vội mở mắt, uống ngay. Nhưng, cháu vừa uống được một hớp thì một tên Para giằng bình nước lại và cất đi. Tôi tức muốn khóc. Cháu Ninh vẫn nằm thiêm thiếp, mặt tái mét.






Ở góc cây phía xa, tôi thấy hai cô gái Việt Nam đứng run rẩy, nét mặt còn hằn vẻ đau đớn, nước mắt còn lưng tròng. Quần áo các cô rách nát tả tơi. Tôi đau nhói trong lòng, không dám hỏi han, chỉ biết thương và xót cho các cô gái xinh tươi đó. Anh Vĩnh ghé sát tai ông Miên giữ giấy tờ của chúng tôi, anh ra hiệu để ông ta nói với bọn Para cho đi tiếp.






Đoàn người đi buôn lậu vẫn tấp nập qua lại trên đường rừng. Một số người thấy cảnh tình con tôi bị xỉu thì họ đứng lại xem và bàn chuyện. Chúng tôi biết chỉ có cách là chịu nhịn, năn nỉ bọn lính Para mà đi thì mới mong yên thân, nếu còn ở lẩn quẩn đâu đây, nếu chúng buồn tình lia cho một tràng đạn thì uổng công, uổng đời quá.






Đã đến lúc cùng cực ấy, tôi chịu nhục, chắp tay lạy bọn Para để xin cho đi tiếp; chúng cười ha hả vì thấy có kẻ lạy chúng. Tôi chỉ tay liên tiếp về phía cháu Ninh đang nằm bất động để mong chúng động lòng thương hại. Chúng suy nghĩ rồi gật đầu. Thế là Vĩnh cõng con trai chạy thật lẹ đi kiếm xe bò.






Đoàn xe bò đã đi khuất từ lúc nào, có lẽ từ lúc chúng tôi cạo gió cho con. Chúng tôi đành lếch thếch kéo nhau đi bộ dưới cái nóng tàn bạo. Ông người Miên dẫn chúng tôi đi tiếp. Tôi dặn Vĩnh phải bám sát ông ta kẻo lạc ông ta là mất hết giấy tờ quan trọng của mình. Cứ thế, chúng tôi lại đi bộ như lết. Vĩnh cõng cháu Ninh, tôi cõng cháu Kim, còn hai cháu lớn lếch thếch chạy bộ phía sau. Tay chúng tôi còn hai xách giỏ quần áo, thùng nước và hai chai nước. Hai chai nước còn quý hơn mọi thứ gì khác, mất chúng là chết khát.






Như một bọn ăn mày lem luốc, chúng tôi bước đi nặng nhọc. Hai chân mỏi rã rời. Cơn khát làm bỏng cổ, cháy họng. Cái nắng chói chang làm chúng tôi tối tăm mặt mày, hoa cả mắt, mắt nổ đom đóm. Các con tôi hết sức để mà nói, mà than thở. Chúng phải chạy mới theo kịp ông Miên dẫn đường. Tôi bâng khuâng tự hỏi không biết mình còn chịu cảnh "vác thập giá" này đến bao nhiêu lâu nữa?






Tôi đoán chắc năm xưa, Chúa Giêsu vác thánh giá chắc cũng đau đớn như chúng tôi lúc đó là cùng, khác hơn là Chúa chỉ có một mình. Còn chúng tôi phải lo nghĩ, băn khoăn cho sự sống và an sinh của gia đình gần bảy người.






Cái nắng bây giờ đã ở trên đỉnh đầu nên càng làm chúng tôi mệt mỏi hơn. Phân bò rơi rải rác đầy đường mòn nên chúng tôi phải đi cẩn thận để khỏi đạp trúng các đám phân bò ấy. Chân chúng tôi bắt đầu sưng tấy lên và gây cơn nhức nhối. Tôi lên tiếng kêu Vĩnh kéo ông Miên dẫn đường đứng lại để chúng tôi được nghỉ dừng chân một tí cho đỡ mệt. Nhưng kệ, ông ta vẫn cắm đầu bước thật mau. Hình như ông đã quá quen với việc đi bộ và với lộ trình này. ông ta nói tía lia và chỉ tay về phía trước. Vĩnh chẳng hiểu gì nhưng anh vẫn hỏi:






"Xiêm? Xiêm?" ý là "Tới Thái Lan chưa?"






Ông Miên gật đầu và ra dấu cho gia đình tôi bước mau hơn. Trên lưng Vĩnh, cháu Ninh mắt nhắm chặt, mặt xám ngắt. Cháu đã bất động từ hồi lâu rồi. Tuy cơn mệt mỏi đã lớn và giãn nở ra, nhưng chúng tôi buộc lòng phải cố mà lết về phía trước để hy vọng đến trại tỵ nạn sớm mà xin cơm, nước và thuốc cho cháu Ninh và các đứa con khác của tôi.






Trên lưng tôi, cháu Kim rên rỉ vì quá khát, nó cũng chẳng còn sức đâu mà khóc, mà nói nhiều nữa, nó chỉ rên khẽ trong miệng. Thời gian như ngưng đọng lại. Từ phía sau của chúng tôi, một cô gái người Miên - người mà tôi đã gặp lúc chúng tôi dừng lại để nấu cơm cùng với bọn người đi xe bò chiều hôm trước - đã đi bắt kịp chúng tôi và sau đó, ông Miên và cô gái vừa đi vừa thảo luận. Tôi nghe mà chẳng hiểu gì. Cơn mệt quá sức. Cơn khát quá sức chịu đựng. Tôi đứng lại thở hắt ra và la lớn:






"Tắc, tắc, bòn ơi! Tắc, tắc!" (Uống, uống, ông ơi, cho tôi uống!)






Hai người Miên kia quay lại nhìn tôi và nói thật to những tiếng Miên mà tôi chẳng hiểu gì, nhưng qua ngôn ngữ quốc tế, tôi đoán là chắc sắp đến nơi rồi.






Hai đứa con lớn của tôi vừa đi vừa chạy, mặt chúng đã xạm đi vì cháy nắng. Chúng đưa mắt nhìn tôi cầu cứu và van lơn. Hai chai nước đã trống rỗng vì hết đã từ lâu nhưng chúng tôi vẫn phải giữ cái vỏ chai để dành khi gặp vũng nước ao tù hay ao nước bùn thì lấy nước dùng. Hai cái vỏ chai mà chị Tư đã cho lúc này đập long coong vào nhau vì cháu Khang đã đuối sức, nó cứ để cho hai cái vỏ chai trống rỗng tha hồ đập vào nhau.






Lúc ấy, tôi chỉ sợ lỡ hai chai đó bể thì sẽ chết khát vì không còn gì để đựng nước. Vì thế tôi quay về hướng Khang và hất hàm ra dấu cho cháu đeo hai chai nước lên vai. Làm như vậy thì cháu đỡ phải xách vì một chai ở phía trước còn chai kia ở sau lưng. Sau này, cũng nhờ hai cái vỏ chai tầm thường đó mà chúng tôi có đồ chứa nước để chạy giặc và để dấu kỹ trong lều tỵ nạn.






Đối với dân ty nạn đường bộ như chúng tôi thì những đồ đựng nước còn quý hơn vàng bạc. Ở các trại tỵ nạn sâu trong rừng hoang, cho dù có tiền vẫn không thể mua gì được vì không có chợ cũng không được đi ra ngoài vòng rào của trại. Về sau, người ta ăn cắp chai nước của nhau đều đều. Kẻ bị mất chai nước thì sáng hôm sau dậy khóc la thảm thiết vì tiếc của.






Rồi dưới cơn nắng đổ lửa, chúng tôi lết đi theo sự dẫn đường của hai người Miên. Cực hình đeo đẳng, chúng tôi chỉ mong chết ngay lập tức để tránh nỗi khổ sở đó. Con đường trước mặt như cứ dài thêm lên. Đứa con trên lưng cứ chực muốn rớt tuột xuống. Lâu lâu, tôi phải đứng dừng lại để sửa vị trí đứa con lại cho ngay ngắn. Mỗi lần như vậy, tôi phải chạy mới theo kịp những người khác.






Đến khoảng một, hai giờ trưa ngày 10 tháng 4 năm 1980, gia đình chúng tôi đến một đồn lính. Lúc đó, tôi chẳng biết ở trong đó có những ai, nhưng vì tưởng tượng nhiều quá nên tôi nghĩ rằng chắc nơi đây có hội thiện nguyện, có người Âu Mỹ. Chắc họ sẽ đón tiếp mình ân cần lắm vì hội thiện là một tổ chức nhân đạo. Tôi lại hình dung đến những ly nước đá mát rượi, những chai nước si rô màu đỏ, màu cam hay những miếng dưa hấu đỏ óng ánh và những trái xoài chín vàng thơm ngon. Có lẽ họ sẽ cho mình các thức ăn đó.






Tôi cố nuốt nước miếng và quay ra hỏi ông Miên dẫn đường, dù biết rằng ông ta không hiểu tôi nói "trại ty nạn.” là cái gì. Ông Miên đáp:






"Ông lớn Para!"






Từ ngữ "Ông lớn" này được tất cả những người Miên mà tôi gặp trên xe bò hay trên đường đi dùng để nói về bọn lính Para. Họ nói chữ "Ông lớn" bằng tiếng Việt Nam. Bọn lính trẻ Para mà tôi gặp ở trong rừng cũng từng tự xưng là "Ông lớn". Về sau tôi còn được biết nghĩa chữ ông lớn dịch ra tiếng Miên là "Lục thum" hay "Lục thung.”






10. Kết Luận:


Cuối cùng, khi chúng tôi đến được biên giới Thái Miên thì ai cũng tơi tả và rách rưới như những người hành khất.






Đến được trại Non Chan, chúng tôi nhập đoàn vói nhóm ông Phạm Thanh và gia đình ông Lê Tấn Lý. Chúng tôi sống lây lất trong 7 tháng trời trong cơn đói khát và khổ cực.






Những gì xẩy ra trong các trại tỵ nạn mà gia đình chúng tôi ở như ở các trại Non Chan, Northwest 9 (NW9), Panatnikhom Holding Center, và Rangsit Transit Center thi cũng đã được mô tả kỹ lưỡng trong các phần kể chuyện của những người bạn tỵ nạn của chúng tôi ở các chương trước.






Trong lúc mang thai cháu bé, gia đình chúng tôi phải chạy giặc nhiều lần, mỗi lần chạy giặc về thì rơi mất dép, mất các chai nước để dành trong lều và mất luôn quần áo.






Cùng với những người tị nạn khác sống trong trại Non Chan và NW 9, chúng tôi luôn phải chạy trốn vì trại tị nạn nằm giữa hai lằn đạn của Việt Công và Thái Lan. Nhưng nỗi thống khổ vô cùng lớn lao, bút mực không tả xíêt. Cảnh đói khát, áp bức, tranh giành và hiếp đáp xẩy ra hằng ngày như một tấn bi hài kịch trên sân khấu.






Một điều đặc biệt là tôi sinh ra một cháu gái có tên là Hà Thái Thiên Hương vào đêm rạng sáng 17 tháng 7 năm 1980. Cháu sinh ra mà không có nước để tắm, không có quần áo tã lót để mặc. Mẹ cháu phải đi bộ rất xa để đến các hố vệ sinh, dù vừa sinh con. Gia đình tôi phải xin một miếng vải bao gạo để làm võng cho cháu bé nằm. Thấy con sinh ra giữa cảnh không nhà, không tiền bạc, không quần áo, không nước tắm, lòng chúng tôi xót xa ngậm ngùi.






Ngày nay, sau 27 năm, cháu Thiên Hương đã tốt nghiệp đại học UCI. Cháu là đứa con rất thông minh, tài giỏi và ngoan ngoãn nhất trong gia đình. Vợ chồng tôi luôn cảm tạ Thiên Chúa và Mẹ Maria vì hồng ân cao cả mà gia đình chúng tôi đã nhận được. Lòng biết ơn của gia đình chúng tôi thể hiện nơi cái tên mà chúng tôi chọn cho cháu Thiên Hương. (Hương Thơm của Thiên Chúa.)






Đi vượt biên đường bộ mà không bị bắt hay bị giết, không lạc thân nhân, không bị hãm hiếp thì đó là một hồng ân mà muôn đời chúng tôi không ngớt ngợi khen Danh Chúa. Tuy nhiên, chúng tôi không quên cầu nguyện cho các bạn tị nạn xấu số. Họ mãi mãi bị vùi xác nơi rừng hoang biên giới, chết tức tưởi mà không ai biết nơi chôn.






Xin quý vị cùng các bạn cùng giữ thinh lặng trong giây lát để dâng một lời cầu nguyện chân thành cho các hương hồn người tị nạn đường bộ Việt Nam đã dám hy sinh mạng sống để tìm tự do. Xin Thiên Chúa đầy Lòng Thương Xót giải oan và giải thoát cho linh hồn các nạn nhân này sớm hưởng Nhan Thánh Chúa!






Kim Hà






1 2 3 4 5 6 7 8 9

HỒI KÝ VƯỢT BIÊN ĐƯỜNG BỘ - KỲ 8












1 2 3 4 5 6 7 8 9

Nguyễn Văn Thụy Viễn


"Tôi lúc ấy đã sợ quá nên cuống quít gật đầu lia lịa, chẳng biết Lục thum là nghĩa gì mà cũng gật đầu. Thế là tôi bị bọn chúng đánh gần chết. Hai thằng thay nhau dùng báng súng đánh rồi đá và đạp tôi. Mình mẩy tôi đau đớn ê ẩm, máu me chảy đầm đìa, ướt đẫm cả áo quần. Sau đó, bọn chúng bắt tôi cởi hết quần áo để chúng lục xét. Lúc ấy, tôi chỉ còn mặc có cái quần xà lỏn mà thôi. "




Ông Nguyễn Văn Thuỵ Viễn, sinh năm 1951, cựu giáo sư cấp 3, môn Toán tại trường Lê Bảo Tịnh, Sàigòn. Ông Viễn đã vượt biên vào tháng 2, năm 1980. Tới Mỹ năm 1981. Hiện ông là kỹ sư công chánh, cư ngụ tại Whittier, California. Ông đã dành thì giờ cho Kim Hà phỏng vấn vào 12, năm 1984.









Trong quyết tâm đi tìm tự do, ông Viễn đã đi vượt viên bằng đường thủy đến bảy lần nhưng đều bị thất bại. Lần đi vượt biên bằng đường bộ, ông đã thoát chết và sống qua rất nhiều trại tị nạn như Non Chan, Non Makmun, Khoa Y Dang, biên giới Thái và Cambodia. Các trại Sikiew, Panatnikhom Transit Center tại Thái Lan và trại Bataan, thuộc Phi Luật Tân.Khi đến Mỹ, ông Viễn đã định cư tại Detroit,Michigan; rồi đến Missouri; Longview, Washington State trước khi dừng bước tại thủ phủ của người Việt tị nạn, Orange County.











Ông Viễn là em rể của Kim Hà, chồng của Nguyễn Phạm Kiều-Chi. Chi là người em gái của Kim Hà, cô đã ở lại chịu trăm cay ngàn đắng để việc ra đi của Viễn và gia đình Kim Hà được trót lọt. Sau cùng, cô cũng đã đoàn tụ cùng gia đình tại Mỹ và kết hôn với Viễn vào tháng 9, năm 1982.




Thư Viết Của Viễn Từ Khao Y Dang.


Khao Y Dang ngày 30, tháng 10, năm 1980.





Chị Hà mến,




Nhận được thư chị viết cho tôi đề ngày 18 tháng 10, 1980, tôi rất mừng cho gia đình của chị. Chúa đã giúp cho gia đình chị cách riêng. Gia đình chị là một trong số rất ít người đầu tiên đi đường bộ mà nay đã đến được nước thứ ba.




Còn biết bao nhiêu người còn ở trong các trại Sikiew, Khao Y Dang và NW 9 nữa hả chị? Đó là chưa kể đến chuyện gia đình chị với một số người đông như vậy mà đi thoát được để đến trại NW 9. Chắc chị cũng như tôi đều đồng ý có Chúa giúp chúng ta. Mong rằng gia đình chị khi đến được nước Mỹ, hãy sống đạo cho thật nghiêm chỉnh, đừng làm gì lỗi đạo luật của Chúa và của Trời vì đời sau mới đáng kể.




Mong anh chị hãy hy sinh và sống đúng với những giáo điều của Chúa. Làm gương và hướng dẫn những đứa con sau này trở nên những tông đồ trong Chúa. Đừng để những cám dỗ của vật chất văn minh, những yếu đuối của thế gian tầm thường chi phối.


Riêng tôi, trong đời sống ở đây. Từ khi Chúa ban liên tiếp những phép lành cho tôi trên đường vượt biên tới đây, không tối nào là tôi không đọc năm mươi kinh để cảm tạ Chúa, để cầu nguyện cho những người còn lại ở Việt nam. Tôi đã dứt khoát ở hiện tại cũng như trong tương lai, tôi phải là một tông đồ ngoan trong tiếng gọi của Chúa.


Và tôi cũng nói một điều này, tùy chị tin hay không là thời gian gia đình chị còn ở tại trại NW 9, ở ngay biên giới Thái-Miên, không đêm nào là tôi không đọc kinh và cầu nguyện cho gia đình chị ba kinh, mong Chúa giúp cho gia đình chị đi thoát qua cảnh cơ cực lúc ấy, cùng mau chóng được định cư.


Chị Hà mến,


Đọc thư chị viết về thái độ của người ngoại quốc khinh bỉ đám dân tị nạn cơ cực Đông Dương ở trên máy bay, tôi buồn lắm. Mặc dầu tôi biết đó chỉ là một sự thật trong những sự thật tương tự đã xảy ra và đang tiếp diễn.


Biết làm sao hả chị, khi mà chúng ta đã đánh mất quê hương. Rồi đây, tôi, chị và còn rất nhiều người khác nữa sẽ còn phải chịu đựng hơn nữa và hơn nữa.


Cũng như hiện tại, tôi đã phải nhìn, phải chịu đựng biết bao cảnh trái tai gai mắt: từ những cảnh tụi Pol Pot hãm hiếp tập thể các phụ nữ Việt Nam đi vượt biên đường bộ mà chúng nó bắt đuợc. Tôi không bao giờ có thể quên được những tiếng la thét đêm ấy, tại trại Non Samet (007), khi mà tụi nó hãm hiếp một thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, ngay cách đầu chúng tôi độ ba thước. Khoảng mười thằng. Khi xong, chúng còn tống một cái đèn pin vào cửa mình của cô ấy. Tiếng la hét đau đớn ấy, hiện nay nó còn ám ảnh tôi không nguôi.


Rồi đến đời sống tại trại Khao Y Dang ở những ngày tháng đầu tiên, chỉ một lon sữa hoặc nửa ký đường, là một cô gái đàng hoàng sẵn sàng hiến thân ngay. Ngay tổ tôi ở, đã có ba, bốn cô làm như vậy.


Tôi thật ghê tởm công việc làm đó và xót thương cho họ. Đó là chưa kể những cặp vợ chồng vá víu. Chồng chưa xa gia đình dược bao lâu đã quên vợ và ngược lại. Thật tội lỗi không thể tưởng tượng được. Nhiều lúc nhìn những cảnh đó, tôi chán nản cùng cực.


Người Viêt mình như thế, bảo sao người ngoại quốc không khinh sao được? Mặc dầu tôi không dám nói tất cả những người tị nạn đều như vậy cả.


Chị Hà mến,


Hôm nay, tự nhiên tôi muốn tâm sự với chị, biết đâu đây chả là dịp cho chị ôn lại những kỷ niệm tại trại tị nạn mà gia đình chị đã trải qua.


Sống trong trại tị nạn, lúc đầu nhiều khi tôi bị khủng hoảng tưởng muốn điên lên được. Hàng ngày chứng kiến những cảnh trái tai gai mắt đó, cộng với những thiếu thốn tối cần thiết. Đến lúc này nghĩ lại vẫn còn rùng mình.


Khi mà hơn một tháng không đánh răng, ba tháng không có kem đánh răng để đánh. Khi mà suốt ngày chỉ mặc độc nhất một cái quần bộ đội. Tối thì nằm đất mà không có mùng. Khi mà hai ngày đi tắm với một thùng bốn lít nước. Tôi thèm chất ngọt, thuốc lá và đồ gia vị kinh khủng.


Cộng thêm vào đó, tình hình an ninh quá bi đát. Lúc đầu và cho đến giờ này vẫn tiếp diễn: Tụi lính Thái Lan cứ hứng chí lên là tìm cớ vào trại, bắt người này người nọ, mà đa số là thiếu nữ để đi hiếp dâm. Không ai dám hé môi khi mà sinh mạng mình không có cơ chế nào để bảo vệ.


Rồi tụi Pol Pot giả dạng dân, đêm đêm vào trại để cướp của và hiếp dâm. Có đêm báo động đến năm bảy lần. Đạn bắn trúng dân lành. Đến nay ở trại tôi ở là trại Khao Y Dang, số người lạc đạn đã năm người. Rồi lại tin đồn này nọ: trả về biên giới, bộ đội Việt cộng tấn công sang, nay mai được chuyển trại, lâu lâu lại được lá thư buồn của gia đình gửi sang. Trời ơi, tất cả những thứ đó, trong hoàn cảnh xa gia đình, nhớ nhà, nhớ người thân, tủi với những người chung quanh khi họ có tiền.


Thiếu thốn quá nhiều với những đồ cấp phát của HCR để ăn hàng ngày, tôi nhiều lúc muốn đập phá tất cả. Càng sống lâu trong trại tị nạn bao nhiêu, tôi lại càng thương mẹ của tôi quá. Có những cái thật nhỏ, lúc ở Việt nam tôi không để ý. Vậy mà khi đến đây, những cái tôi cho là nhỏ thì nó lại trở thành tối cần thiết, chị ạ.


Tôi đã tâm sự về vấn đề này với chị hơi nhiều. Nói vấn đề này để chị thấy tại sao tôi phải cầu nguyện cho gia đình chị hàng đêm. Thời điểm ấy, tôi rất lo và thương cho chị cùng các cháu lắm. Gần ngày sinh, con đông và quá nhỏ, sống làm sao đây?


Chị biết không? thời điểm ấy, tôi phải xung phong đi vác than cho ban tiếp liệu để mong xin họ thùng giấy rách và bao ni lông gói thịt về để đựng nó, gói bao gửi qua NW 9 cho chị. Và cô Huyền Chi, học trò của tôi, lúc đó đã có một hành động tuyệt vời với tôi là cho tôi mượn năm trăm baht, tức là hai mươi lăm đô la.


Nghĩ lại lúc ấy khổ quá, đi cầu không có giấy, tôi phải lấy lá để chùi. Viết những giòng chữ này, tôi chỉ muốn nói lên, để chị và tôi, chúng ta cùng ôn lại, cùng thương yêu và cùng đùm bọc nhau ở tương lai. Cùng cảm ơn Chúa đã thương yêu chúng ta, đưa chúng ta đến đây và đã ban cho chúng tôi đủ nghị lực thoát qua những cảnh khổ đó. Điều đáng nói nhất là chúng ta đã không làm gì cho Chúa buồn trong thời gian vừa qua.


Cầu xin ơn trên ban mọi ơn lành đến gia đình anh chị.


Thân Mến,


Nguyễn văn Thụy Viễn








Cuộc Hành Trình Từ Việt Nam Đến Thái Lan










“Liên tiếp thất bại bảy lần bằng đi vượt biên đường thủy, nên tôi chọn đi bằng đường bộ. Như sóng cồn, phong trào đường bộ lúc ấy đang thịnh hành, nhiều người bàn tán, đi qua lại buôn bán; lại thêm nhiều công nhân viên nhà nước qua lại làm việc ở Cambodia. Vì thế, tôi nghĩ việc xâm nhập biên giới cũng đỡ phần nguy hiểm. Tôi bèn đánh bạo để thử thời vận, may ra có thể thành công.






Tôi không nhớ đã ra đi ngày nào theo Tây lịch, có lẽ 27 tháng 2, năm 1980, nhưng nhớ rõ lúc ấy là ngày mùng tám Tết, năm Canh Thân (1980). Sau khi đã tìm hiểu đường dây vượt biên, chúng tôi, Nhật và tôi, cùng với người dẫn đường dự định từ Sàigòn sẽ ra bến xe Lục tỉnh đi thẳng xuống tỉnh Châu Đốc.






Tuy nhiên, vì sự di chuyển khó khăn và vì sợ lộ, chúng tôi phải đi hai chặng xe. Từ Sàigòn đến Cần Thơ ở lại một đêm rồi hôm sau mới từ Cần Thơ đi Châu Đốc. Số người đi gồm anh Nhật là học trò của tôi, tôi và người dẫn đường.






Khi tới Châu Đốc, người dẫn đường tên Dũng đưa chúng tôi tới nhà người quen để ngủ đỡ rồi chờ đến đêm sẽ qua biên giới để đến tỉnh Tà Keo của địa giới Cambodia. Khoảng 3:00 giờ đêm, tên Dũng đưa hai chúng tôi vượt sông và đi bộ khoảng hai dặm dưới bóng đêm. Chúng tôi lầm lũi băng qua các cánh đồng để tìm đến tỉnh Tà Keo.






Tới nơi, chúng tôi phải nằm ở nhà người quen của tên Dũng hai ngày để hắn có thể móc nối xe đò đi Nam Vang. Trước khi lên xe đò, chúng tôi phải ăn mặc giả làm dân buôn: áo sơ mi rằn, quần đen, khăn choàng cà ma, một loại khăn thông dụng của người dân Miên.






Từ Tà Keo đi xe đến Nam Vang mất khoảng hai hay ba tiếng đồng hồ. Khi đến Nam Vang, anh chàng Dũng đòi chúng tôi đưa thêm tiền. Như đã quy định, mỗi đầu người chúng tôi sẽ trả bốn cây vàng. Từ Sàigòn đến Nam Vang, mỗi người sẽ giao một cây vàng cho người dẫn đường. Từ Nam Vang đến Sisophon, sẽ giao thêm một cây nữa.






Khi chúng tôi thành công, chúng tôi sẽ giao tín hiệu về Sàigòn thì lúc ấy, người nhà chúng tôi sẽ giao thêm hai cây cuối cùng. Như vậy mới chắc ăn. Thế mà nay hắn đã đòi chúng tôi giao hết. Vì thế, chúng tôi nhất định không chịu giao.






Trên đường đi từ Châu Đốc đến Nam Vang, tôi quan sát thấy Dũng không rành đường đi từ Nam Vang đến biên giới; vì thế chúng tôi sợ nên không giao hết. Thế là hắn bỏ rơi chúng tôi ngay tại chỗ và trốn đi.






Lúc ấy tâm trạng chúng tôi rất hoang mang: Nếu về thì không biết đường về, mà nếu đi lại không biết lối đi. Cũng may, lúc ấy ở Nam Vang có rất đông công nhân viên và dân buôn người Việt. Họ xài tiền Việt nam luôn, chỉ có nơi hẻo lánh mới dùng vàng để trao đổi và buôn bán.






Chúng tôi bèn đánh bạo ở lại đó hai ngày để đi vòng quanh, tìm hiểu và móc nối đường dây để mà đi tiếp. Nếu không móc nối được thì sẽ đi về lại Sàigòn, còn nếu tìm được đường khác thì sẽ đi tiếp.






Sau hai ngày, tôi có một nhận xét là có một số người dù đã cải trang vẫn có thể biết là họ đi vượt biên. Chỉ cần nhìn đôi mắt và dáng điệu lấm lét là biết ngay. Vì thế tôi đã đi theo họ để kiếm lối đi tiếp. Tôi để ý là hễ ăn xong thì cả bọn đều ra bờ sông Nam Vang, kế một cái chợ lớn và kế một bến xe vận tải để ngủ. Thế là hai chúng tôi cũng đi theo ngủ ké theo họ ở ngay các vỉa hè.






Sáng hôm sau, khoảng 3:00 giờ sáng, họ ơi ới gọi nhau cùng lên xe. Chúng tôi thấy họ leo lên xe thì cũng leo lên xe ngồi. Các tài xế và lơ xe của đoàn xe vận tải thì đã có sự toa rập với người vượt biên để đưa họ đi trốn và lấy tiền thù lao.






Khi xe đi từ Nam Vang ra ngoại ô độ mười cây số thì ngừng lại đến hai ngày và không đi tiếp nữa. Tôi đoán có lẽ đoạn đường phía trước đang có giao tranh nên họ sợ nguy hiểm. Lúc này mọi người đều đi xuống ăn uống và nghỉ ngơi.






Trong lúc đó, tôi bèn đi vòng các làng ven đường để quan sát sự sinh hoạt của người dân Cambodia. Họ bị lệ thuộc rất nhiều ở chính quyền Việt Nam. Người bộ đội Việt Nam rất có uy quyền, giống y như sự đô hộ của quân đội Pháp đối với nước Việt Nam ngày trước.






Trong hai ngày chờ đợi đó, người lơ xe liên lạc với chúng tôi để đòi tiền chuyên chở. Họ bảo là sẽ đưa chúng tôi đến một tỉnh giáp vùng Sisophon là tỉnh Battambang với giá sáu chỉ vàng cho một đầu người.






Chúng tôi lúc ấy không biết khoảng cách từ Battambang đến Sisophon là bao xa, nhưng chỉ biết càng đến gần biên giới là hy vọng càng cao. Vì thế, chúng tôi đánh liều đi đại. Sau khi năn nỉ, giá họ chịu lấy là bốn chỉ cho một đầu người.






Trong cuộc hành trình, khi đến các trạm không nguy hiểm thì chúng tôi vẫn ngồi yên trên xe. Xe chứa khoảng từ hai mươi đến ba mươi người. Những người vượt biên thì ngồi ở bên trong, còn dân địa phương buôn bán thì ngồi ở ngoài. Tới các trạm có lính Cambodia kiểm soát thì người lơ xe trao đổi tiền bạc và hàng hoá. Điều này cho thấy là họ cũng làm ăn chia chác với nhau cả.






Khi tới các trại có bộ đội Việt Nam canh gác thì người lơ xe không dám để người vượt biên ngồi trên xe. Họ dặn chúng tôi hãy xuống đi bộ hình chữ nhật, tức là đi vòng trong đường ruộng để tránh các trạm kiểm soát. Người tài xế xe vận tải ngừng xe cho chúng tôi xuống cách trạm cỡ một dặm và quá trạm một dặm để đón chúng tôi lên xe đi tiếp. Họ rất tử tế vì họ có thể bỏ rơi chúng tôi bất cứ lúc nào nhưng họ đã không bỏ rơi. Có khi họ phải đợi chúng tôi từ nửa tiếng đến một tiếng đồng hồ.






Tôi không biết đoạn đường từ Nam Vang đến Battambang dài bao nhiêu cây số, nhưng chỉ biết có khoảng một trăm trạm kiểm soát trên lộ trình ấy, vì cỡ một trăm thước là có một trạm kiểm soát. Từ Nam Vang đi Battambang phải mất ba ngày đường. Số lính người Miên kiểm soát ở các trại lại ít hơn số lính bộ đội người Việt.






Đường lộ rất xấu và hư hại rất nhiều. Có nhiều đoạn đường hầu như không có nhựa. Bụi đỏ bay mù mịt, xe cứ nhảy nhổm như muốn hất người ngồi rớt xuống đất.






Trên chuyến xe đó, rất hên là tôi gặp một bà người Miên gốc Việt Nam. Chồng bà là giáo viên người Miên. Bà ta hình như biết chúng tôi là dân vượt biên nên mở lời trước. Cứ đến mỗi trạm, thì xe ngừng để mọi người mua nước uống và đồ ăn. Chúng tôi không dám xuống vì sợ lộ, nên chỉ ngồi trên xe ăn bánh mì cầm hơi.






Thấy vậy, bà này cứ săn đón và mời chúng tôi mua đồ ăn rồi lần mò hỏi chuyện. Bà ta hỏi có phải chúng tôi là dân Việt Nam không, có phải chúng tôi có ý định vượt biên không, rồi bà hỏi đủ chi tiết về chúng tôi. Khi tiếp xúc, tôi nhận xét rằng bà này muốn giúp đỡ chứ không phải soi mói. Bà ta còn mời chúng tôi uống nước dừa Thốt Nốt. Đây là loại nước phổ thông nhất ở Cambodia, nước đựng ở trong một đốt tre. Thế là hai đứa chúng tôi có một đốt tre nước Thốt Nốt, rồi ăn bánh tét và bánh bò trắng.






Sau khi ăn và nghỉ ngơi, chúng tôi lại tiếp tục lên xe đi. Tôi có thú thật với ba ta về ý định vượt biên của chúng tôi. Tôi tả cảnh bị bỏ rơi và bị lừa. Nghe xong, bà ta tỏ ý thương hại và hứa sẽ đưa chúng tôi về nhà để bà kiếm đường giúp đỡ cho.






Sau khi xe ngừng tại bến xe ở Battambang. Chúng tôi theo bà này về nhà bà. Nhà bà ở cách bến xe độ hai cây số. Lúc ấy, vì tỉnh Battambang tương đối sôi động và đầy không khí chiến tranh nên bà không cho chúng tôi ra đường. Vì thế, chúng tôi chỉ quanh quẩn ở lại nhà bà. Bà ta lo cho chúng tôi ăn uống rất chu đáo.






Chồng bà ta cũng vui vẻ, mỗi khi ông ta hỏi thăm xã giao thì bà ta lại thông dịch lại. Bà ta hứa thêm là sẽ liên lạc với người em chồng để hắn ta dẫn chúng tôi vượt biên giới.






Thế là chúng tôi đành nằm chờ tại đó đến ba ngày vì người em chồng của bà chủ nhà đi buôn bán ở Nam Vang chưa về. Khi anh này về lại nhà, anh ta hỏi xem chúng tôi còn bao nhiêu tiền. Chúng tôi góp lại còn một lượng và một chỉ vàng.






Anh ta bèn giải thích là phải mua ít nhất là hai xe đạp cho hai chúng tôi để đạp xe đi tiếp. Nếu đi từng người thì không bị lộ, nhưng nếu chở đôi trên chiếc xe đạp thì rất dễ bị lộ. Mà với một lượng và một chỉ thì không đủ mua hai xe đạp. Nếu không đủ thì nên đi bộ. Chúng tôi bối rối nên đành chờ anh này quyết định thôi. Cuối cùng, anh ta đề nghị rằng anh và bạn anh sẽ dùng xe đạp chở hai chúng tôi đến tỉnh Sisophon rồi sau đó sẽ đi bộ qua biên giới.






Sáng sớm hôm sau, khoảng 4:00 giờ sáng, anh này chở tôi trên một xe đạp. Người bạn anh thì chở Nhật, cậu học trò của tôi, trên một chiếc xe đạp khác. Chúng tôi đi từ Battambang từ lúc bốn giờ sáng thì đến tỉnh Sisophon lúc 2:00 giờ trưa. Đoạn đường này tương đối an toàn cho chúng tôi.






Tại tỉnh Sisophon, chúng tôi mua đồ ăn và nước uống . Anh dẫn đường căn dặn rằng đêm nay, khi vượt biên giới sẽ rất gian khổ, vì thế phải ăn uống đầy đủ để chuẩn bị đi. Đoạn đường đi bộ sẽ dài khoảng ba mươi cây số. Khi tới trại sẽ có hội HTTQT cứu giúp. Anh còn cho biết rằng họ sẽ chở chúng tôi đi khoảng mười cây số nữa thì sẽ đi qua bờ đê vào biên giới Cambodia và Thái Lan. Cách bìa rừng biên giới, sẽ có một trạm kiểm soát. Đây cũng là trạm quyết định vì đã có nhiều người vượt biên bị bắt tại trạm đó.






Khoảng 4:00 giờ chiều hôm ấy, trời đã trở lành lạnh, chúng tôi lại ra đi. Thường thường thì người dẫn đường chở tôi đi trước. Nhưng hôm ấy không hiểu sao, bạn anh ta lại chở Nhật đi xe đạp lên trước, còn chúng tôi đi ở phía sau cách khoảng hai trăm thước.






Khi tới trại kiểm soát, nhóm lính bộ đội Việt Nam chạy ra đường chặn xe đạp chở Nhật lại. Chúng tôi vội ngừng ngay lại ở đàng xa và không dám đi tiếp nữa. Vì ở khá xa nên tôi không biết họ đã đối đáp ra sao. Chỉ thấy họ dùng báng súng đập lên người Nhật, rồi đá Nhật té lên té xuống, rớt xuống mặt đường. Họ trói và còng Nhật. Tôi không rõ có phải trói không nhưng tay Nhật bị bẻ quặt ra đàng sau và động tác trói đó rất lâu, có đến mười phút.






(Anh Nhật bị bắt giam ở Nam Vang nửa tháng, rồi bị đưa về nhốt ở trại giam Chí Hòa ở Sàigòn trên một năm. Cuối cùng anh ta lại trốn đi bằng đường biển và thành công. Hiện anh ta đang ở Texas, USA. Tuy nhiên, gia đình Nhật đã nhắn tin chửi tôi rất nhiều, vì nghĩ rằng tôi âm mưu hại Nhật bị bắt. Sau này, khi họ tỉnh ngộ, họ đã tìm đến xin lỗi tôi ở Mỹ.)






Sau đó, người dẫn đường đã bỏ xe đạp ở bên đường, rồi anh ta dẫn tôi vào một bụi rậm và dặn dò tôi ở lại đó, nhớ đừng đi ra. Anh ta sẽ quan sát đường để xem có nên đi tiếp không hay phải ngưng lại. Thế là anh ta băng đường đi sâu vào ruộng. Một lúc sau, không còn thấy bóng dáng anh ta đâu nữa.






Tôi ngồi chờ trong sự hồi hộp và nóng ruột. Mãi đến hai tiếng đồng hồ sau, anh ta trở về bụi rậm tìm tôi và dẫn tôi đi tiếp. Lúc ấy khoảng sáu giờ chiều, anh ta đi trước và dẫn xe đạp, còn tôi thì lò dò theo sau.






Chúng tôi đi sâu vào bìa rừng. Cỡ khoảng một lúc lâu, cách bìa rừng độ một trăm thước, tôi thấy nhiều đám cháy sáng rực, người dẫn đường bảo tôi ngồi cạnh đám lửa để lấy than đen bôi lên mặt mũi và tay chân tôi vì da tôi trắng quá, trông không giống người bản xứ.






Khi chúng tôi khởi sự đi tiếp thì trời đã tối mịt. Tôi không còn định được phương hướng nữa. Chúng tôi đi khoảng ba hay bốn tiếng trong rừng. Sau cùng vì quá kiệt sức, hai chúng tôi nằm đại dưới đất và ngủ giữa rừng.






Lúc ấy, vì mệt nên tôi ngủ rất ngon. Khi tôi tỉnh dậy thì mặt trời chói chang, ánh sáng gay gắt. Khi đó cũng khoảng 9:00 giờ hay 10:00 giờ sáng. Người dẫn đường bèn mở cơm và cá khô cho tôi ăn, rồi anh ta đem bình nước cho tôi uống. Ăn uống xong, anh ta lại bọc hết đồ ăn lại, đeo lên vai và chúng tôi tiếp tục đi nữa. Chúng tôi vượt các trạm kiểm soát, lên lại lề đường cái, rồi lại dùng đường ruộng, rồi lại lên lề đường. Dần dần, chúng tôi đến một chợ biên giới. Tại đây, người ta đi lại buôn bán rất nhiều. Ra khỏi chợ độ ba cây số, chúng tôi đến lại một bờ đê, rồi lại ra khỏi bờ đê để đến một vùng trái độn.






Nơi này rất nguy hiểm vì gồm có đủ lực lượng quân sự như Cộng sản Việt Nam, Thái Lan, Para Miên, Pol Pot... Anh dẫn đường bập bẹ nói tiếng Việt Nam cho tôi biết sự nguy hiểm của vùng đất này. Qua ngôn ngữ và sự diễn tả của anh, tôi được biết rằng vùng này thuộc quyền kiểm soát của lực lượng Khmer Đỏ, tức là Pol Pot. Họ có thể chém đầu người tị nạn Việt Nam bất cứ lúc nào.






Khi nghe xong, tôi mất bình tĩnh ngay vì biết rằng tính mạng mình có thể mất một cách dễ dàng. Tinh thần tôi căng thẳng. Cũng vì sợ hãi quá mà sau này tôi mới hối hận.Khi ấy, tôi thấy một con đường moon. Ở hai bên có những lực lượng Pol Pot dọc đường. Họ mặc đồng phục màu đen hay màu xanh da trời, đầu đội nón lá rộng vành. Người dẫn đường của tôi đi trước qua những trạm gác của Pol Pot khoảng độ vài trăm mét. Khi nhắm tình hình bất an thì anh ta về lại và cho biết tình hình không ổn, phải đi bọc vòng.






Chúng tôi đi bọc vòng qua được ba trạm. Người dẫn đường đạp xe đi trước, rồi đợi tôi vượt qua trạm gác để chở x echo tôi đi tiếp. Khi đến trạm kiểm soát thứ tư thì hắn ta đi trước, còn tôi đi vòng nhưng mắt vẫn hướng về con đường mòn để nhớ vị trí trạm gác.






Trong khu rừng rậm rạp, khi tôi đi xa khỏi đường mòn thì thấy bọn lính Pol Pot chạy về phía trước để chận đầu tôi và ngăn đường chạy ra của tôi. Thấy nguy hiểm, tôi vội vàng chạy ngược lại về hướng cũ. Thế là bọn chúng xả súng bắn liên tiếp.






Lúc ấy, tôi hoàn toàn mất bình tĩnh, tôi càng chạy thì chúng càng bắn. Hình như có ba đứa bắn liên hồi. Tôi cố chạy để tránh tầm đạn bằng cách chạy từ gốc cây này qua gốc cây khác. Có những lúc hình như tôi bị hoa mắt nên thấy các lằn đạn nổ tóe lửa trước đám cây trước mặt. Cứ như thế, tôi chạy cho đến khi không còn nghe tiếng súng nữa. Cuối cùng tôi lạc mất phương hướng. Khi tôi càng tìm lối ra thì càng lạc sâu vào rừng rậm khác.






Thế là tôi đành lang thang cả đêm trong rừng. Lúc ấy tôi mới định thần nhìn lại thì tất cả bình nước, cơm khô, cá khô, nón, khăn cà ma để hóa trang đều đã rớt hết sạch sành sanh. Trong người tôi chỉ còn sót một bộ đồ và đôi dép Bình Trị Thiên. Sau cùng vì quá mệt và đuối sức, tôi đánh một giấc ngủ dài để giải quyết sự mệt mỏi.






Hình như tôi đã ngủ trên mười hai tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy, tôi lại đi lòng vòng nhưng không tìm được lối ra. Tôi lại lạc trong rừng thêm một ngày nữa mà vẫn không tìm thấy lối đường mòn để đi ra. Cơn khát nóng bỏng cổ, tôi tưởng mình có thể chết được.






Đêm hôm sau, tôi lại ngủ trong rừng. Cái khát càng gia tăng cao độ. Tôi bèn lượm các chiếc lá mục nát rớt xuống đất đã lâu nên mục và ướt rồi nắm đám lá cây vắt chặt để kê vào miệng cho hơi nóng trong miệng bốc hơi, mong cho cơn khát dịu xuống để chận sự nóng bỏng cổ.






Trong lúc lang thang trong rừng, tôi cố moi óc để nhớ lại cách đây hai ngày, người dẫn đường chỉ mặt trời rồi ra dấu là khi mặt trời lặn thì mình sẽ tới bìa rừng. Từ đó, tôi cứ canh hướng mặt trời lặn để tìm lối ra con đường mòn. Tôi leo lên cây cỡ mười thước để tìm xem hướng mặt trời buổi sáng mọc ở đâu thì các cành cây phía sau hướng mặt trời sẽ có rêu xanh nhiều.






Sau khi quan sát, tôi quyết định đi theo hướng mặt trời lặn. Rốt cuộc tôi lần mò tìm được đường mòn vào lúc gần tối. Tôi suy nghĩ có lẽ mình mà đi ra đường vào buổi tối thì nguy hiểm vì có thể bị bọn cướp giết. Còn nếu đi ban ngày thì dân buôn đi lại nhiều nên đỡ nguy hiểm hơn. Suy đi tính lại rồi, tôi không dám ra vì trời quá tối. Thế là tôi lại ngủ.






Sáng hôm sau, tôi leo lên cây để quan sát phía đường mòn. Từng đoàn xe đạp đi lui tới tấp nập. Tôi đã quá chán nản nên bỏ ý định đi Thái Lan rồi. Vì thế tôi bắt đầu đi ra đường mòn để trở về Việt Nam. Vì muốn trở về nhà nên tôi không thèm trốn tránh bọn lính Pol Pot nữa. Lạ một điều là bọn nó chỉ ngó tôi chứ không hỏi han hay chận bắt tôi nữa. Tôi biết chắc là bọn chúng biết tôi là người Việt Nam vì lúc ấy đồ hoá trang trên người tôi đã rớt mất cả rồi.






Khi tôi đi ngược về phía bìa rừng thì thấy một đoàn xe bò đi ngược đường với tôi. Lúc ấy vì qúa khát nên tôi mất hết lòng tự trọng, tôi bèn chắp tay vái lạy bọn họ rồi ra dấu xin nước uống. Đoàn xe bò đầu tiên không cho tôi nước mà cứ lấm lét nhìn tôi. Sau này tôi mới hiểu lý do là vì họ đang chứa người vượt biên trên xe bò nên họ sợ. Những xe tiếp cũng tỉnh bơ, không cho tôi nước uống.






Sau cùng chỉ có xe cuối ngừng lại. Tôi lại lạy xin nước và ra dấu chỉ cái nhẫn vàng rằng tôi sẽ đưa cho họ nếu họ cho tôi nước uống. Người đi xe bò bèn cho tôi nước uống. Khi uống xong, tôi đưa vàng cho họ nhưng họ không lấy. Thấy họ quá tử tế, tôi sợ đường còn xa nên xin luôn cái bình nước. Anh này vẫn cho tôi cái bình mà không lấy một chút vàng nào của tôi.






Tôi cám ơn và lầm lũi đi. Hơn một tiếng đồng hồ sau, tôi lại gặp bờ đê. Nơi đây, tôi thấy có một nhóm người bán nước Thốt Nốt và bánh trái. Tôi bèn bỏ vàng ra mua đồ ăn và nước uống. Ăn uống xong, tôi tới bờ đê và ngủ thêm một giấc.






Trong giấc ngủ, tôi cảm thấy có một bàn tay đang lay tôi dậy. Khi định thần tỉnh giấc, tôi thấy rõ ràng là người dẫn đường đã lạc tôi từ năm hôm trước, nay anh ta đang ở trước mặt tôi để đánh thức tôi dậy. Tội nghiệp! anh đã đi tìm tôi khắp nơi nay mới gặp lại. Gặp được anh, tôi mừng qúa, tay bắt mặt mừng.






Sau đó, anh ta lại bắt tôi ngồi sau xe đạp và anh ta đạp tiếp. Anh ta an ủi tôi rằng nếu thoát ách bọn lính Pol Pot thì sẽ thoát luôn, còn qua bọn lính Para thì không sao vì anh ta là người làm kinh tài cho Para.






Lúc này, anh ta đạp xe chở tôi vượt các trạm kiểm soát của Pol Pot. Đến khi tới vùng kiểm soát của Para thì anh ta bảo tôi ngồi đợi ở góc bìa rừng để anh ta liên lạc với Para. Trước khi đi, anh ta không quên bảo tôi giao hết vàng để anh đưa cho Para. Nếu có vàng, bọn Para sẽ đối đãi tốt hơn. Thế là còn bao nhiêu, tôi bèn đưa hết cho anh ta đem đi.






Sau đó, không biết tại sao, tôi nghe có nhiều tiếng súng. Có lẽ lại đụng trận giao tranh giữa các phe phái. Lúc ấy, tôi đang ngồi ở bên lề của đường mòn, tôi sợ quá nên lại chạy sâu vào rừng để tránh sự di chuyển của đoàn quân. Khi chạy sâu độ ba trăm mét, tôi lại nghe từng loạt súng ở phía sau bắn tới. Tôi lại chạy ngược hướng đó. Chạy lòng vòng một quãng thì tôi bị bọn lính Para bắt giữ. Bọn chúng nghi ngờ tôi là Việt Cộng nên tra hỏi đủ thứ. Lúc đầu tôi lầm tưởng họ là lực lượng Thái Lan nhưng sau mới biết họ là lực lượng Para của Sihanouk.






Xui cho tôi là khi ấy, tôi mặc đồ của sinh viên học đường có cầu vai, vì thế, bọn họ tưởng tôi là ông lớn Cộng sản nên hỏi tía lia:” Lục thum? Lục thum?”.






Tôi lúc ấy đã sợ quá nên cuống quít gật đầu lia lịa, chẳng biết Lục thum là nghĩa gì mà cũng gật đầu. Thế là tôi bị bọn chúng đánh gần chết. Hai thằng thay nhau dùng báng súng đánh rồi đá và đạp tôi. Mình mẩy tôi đau đớn ê ẩm, máu me chảy đầm đìa, ướt đẫm cả áo quần. Sau đó, bọn chúng bắt tôi cởi hết quần áo để chúng lục xét. Lúc ấy, tôi chỉ còn mặc có cái quần xà lỏn mà thôi.






Cuối cùng, chúng bắt tôi cởi hết quần lót để chúng xét trong hậu môn tôi xem còn vàng hay không. Sau khi xét kỹ lưỡng, bọn chúng trói gộp tôi lại rồi chuyển tôi về doanh trại của chúng để giải quyết.






Bị Bắt Vào Đồn Para, Tại Biên Giới Thái-Miên






Tại trại của Para, bọn chúng hỏi tôi bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Lúc ấy, vốn liếng tiếng Anh của tôi quá kém. Tôi bèn cố gắng giải thích cho chúng rõ là tôi vốn là giáo sư Toán, vì không thích chế độ Cộng sản nên tôi muốn trốn đi Mỹ. Đến đây, tôi móc đồ ra lấy một giấy bảo lãnh của mẹ vợ tôi gửi từ Mỹ về, rồi tôi lấy giấy chứng nhận giáo sư có hình để chứng minh cho chúng biết rằng tôi không nói láo.





Khi xem xong giấy tờ chứng minh lý lịch của tôi, Para thay đổi hẳn thái độ và cách đối xử. Chúng trở nên tử tế và tốt hơn. Chúng hỏi tôi nếu dạy môn toán thì hãy vẽ một đường biểu diễn. Thế rồi một tên sĩ quan mang súng ngắn bảo một tên lính đi theo có mang máy truyền tin đưa giấy tờ cho tôi vẽ đường biểu diễn.




Tôi còn nhớ chúng bắt tôi giải một phương trình hữu tỳ. Lúc tôi vẽ xong, bọn chúng nhìn ngắm rồi tỏ ý tin tưởng tôi hơn truớc. Sau này tôi mới biết là bọn chúng là Para, còn tên sĩ quan kia là chỉ huy lớn nhất của vùng biên giới.




Vì tin tưởng rồi nên chúng kêu lính đem cơm và một hộp cá sốt cà chua ra cho tôi ăn. Đến 5 năm rồi, tôi mới lại được ăn món cá hộp này. Họ còn cho tôi một chai nước ngọt màu xanh loại lớn cỡ một lít. Tôi mừng quá, chỉ dám uống chút ít, còn lại để dành cho những ngày tới. Đây là bữa cơm qúy nhất và thịnh soạn nhất từ ngày tôi đi vượt biên.




Sau khi hoàn tất thủ tục, tên chỉ huy bảo một tên lính chở tôi đi sâu vào doanh trại bộ chỉ huy vì ở ngoài này nguy hiểm hơn. Tên lính đạp xe đưa tôi đi. Độ hai tiếng sau thì đến một trại rất lớn. Trại này có chợ, có nhà và lều xanh rải rác khắp nơi.


Khuôn viên trại rộng vô cùng, quanh vòng rào có các bồn nước bằng thiếc, có hàng rào ngăn nắp. Cuối cùng, tên lính dừng lại ở một căn nhà có một giếng sâu để cho tôi được tắm rửa. Tôi múc nước lên bằng thùng dầu bốn lít để tắm. Cả chục ngày chưa tắm nên lúc này, tôi rất mừng khi được tắm rửa mát mẻ và sạch sẽ.


Đang tắm, tôi nhìn ra đường thì thấy một xe Toyota có vẽ bảng hiệu Thập tự nhỏ. Tôi biết ngay là xe của hội HTTQT. Trên xe có người Âu Mỹ ngồi. Xe đi qua nhanh quá nên tôi không thể chạy theo. Tôi bèn nuôi hy vọng vì biết là xe hội HTTQT sẽ chạy qua đây nhiều lần.


Tắm xong, tôi bèn ngồi đợi cho quần áo khô và cũng để ngóng xe hội HTTQT. Khoảng bốn, năm giờ sau, tôi để ý và thấy xe hội trở lại đến vì bụi bay mù mịt. Khi thấy xe chạy xa cỡ năm trăm thước, tôi bèn chạy hối hả ra đường để chận đầu xe của hội lại. Xe ngừng trước mặt tôi độ một trăm thước rồi hai mươi thước, một người đàn ông người Pháp nhảy xuống xe, còn một người đàn bà Thụy Sĩ, bà Denyse Betchov ngồi trên xe.


Tôi bèn chạy tới gần họ rồi bập bẹ nói. Họ không hiểu tôi muốn nói gì. Vì thế, tôi bèn lôi hết giấy tờ bảo lãnh và giấy học tập của giáo sư ra để chỉ tên và hình của tôi cho họ xem. Cả hai vừa xem vừa gật gù rồi cho tôi lên xe chạy.


Lúc ấy, thằng lính Para đã chở tôi đi tắm, vừa chạy ra và đứng nhìn một cách tức tối. Hắn có thể bắn tôi nhưng hắn không dám. Tôi biết là Para có lẽ không giết tôi nhưng tôi vẫn cảm thấy không an toàn ở lại với họ. Còn tên lính Para hình như còn được lệnh để chở tôi đi đâu đó, nhưng tôi bỏ chạy theo hội. Vì thế, hắn nhìn theo xe có vẻ rất bực tức.




Trại Tị Nạn Non Chan


Xe của Hội đưa tôi đi lòng vòng, sau cùng họ đưa tôi đến một khu bệnh viện. Ở đây tôi phải khai lý lịch. Bà Denyse hứa với tôi là sẽ đến vào hai ngày sau để “bốc”chúng tôi đi. Thế là tôi phải ở lại khu nhà lá ở Non Chan. Tại đây đã có sẵn một số người tị nạn gồm một cựu Thiếu Tá Việt Nam Cộng Hòa, hai đại úy và một người đàn bà có hai con, và hai cô thiếu nữ.





Chúng tôi chen chúc ở trong dãy nhà có mái tranh và nằm ngủ ngay ở sàn đất. Lúc ấy, trong bọn có một tên làm ”ăng ten” cho bọn lính Para. Hắn biết tiếng Việt, có thể nói và hiểu tiếng Việt. Hắn nằm tại đây để quan sát xem ai còn vàng hay không để rồi báo cáo cho Para. Những người đi trước đều biết dã tâm của hắn, nhưng không dám báo động cho những người đi sau.




Khi tôi vừa nhập trại, hắn cũng mon men tới hỏi han và dò xét. Tôi bèn tả oán là hết tiền. Mà thật sự, tôi cũng đã trắng tay rồi. Tuy vậy ban chỉ huy của Para cũng kêu tôi lên để xét lại một lần nữa. Hai ngày sau, có một tốp người Tàu ở Việt nam đến. Họ ba hoa khoe là không mất tiền. Ngay chiều hôm đó, họ bị kêu lên xét và cướp hết tiền. Họ buồn rầu và hối hận vì đã lỡ dại khoe khoang.




Bà Denyse hứa đón chúng tôi sau hai ngày, nhưng mãi đến bốn ngày sau, bà ta mới đến đón. Bà ta cho biết đây là lần đón người tị nạn cuối cùng vì sau đó, biên giới sẽ đóng cửa, không chấp nhận người tị nạn đường bộ từ Việt Nam đến nữa. Ngày đóng cửa sẽ là 25, tháng 3, năm 1980.




Sau ngày này, trại Sikiew sẽ không nhận người tị nan, mà cả trại Khao Y Dang cũng không nhận người tị nạn nữa. Sau đó, bà Denyse gửi chúng tôi ở trại Non Makmun, gần biên giới Thái. Nơi này do lính Thái đóng giữ.




Trại Tị Nạn Non Makmun


Cuộc sống của người tị nạn tại đây là cuộc sống của chủ nhân và đám nô lệ. Đồn lính được rào bằng kẽm gai. Họ không cho dân xâm nhập đồn lính. Họ cho dân ở vòng ngoài rồi rào kẽm gai lần nữa. Nếu có bị Cộng sản tấn công thì lũ người tị nạn ở vòng ngoài sẽ chết trước.





Lúc ấy có khoảng một trăm người tị nạn Việt ở trong đó. Mọi người phải ăn ở, tiêu tiểu tại chỗ, chỉ trong vòng rào giam mà thôi, không được đi ra ngoài.




Sau một tuần chúng tôi ở đó thì vấn đề vệ sinh trở nên trầm trọng vô cùng. Mùi hôi thối bay khủng khiếp, ruồi nhặng sinh sản mau lẹ vô cùng. Mỗi ngày chỉ có hai lần là chúng tôi được qua khu trại Thái Lan để múc nước từ giếng bơm tắm rửa và giặt giũ.




Lính Thái rất giới hạn về giờ giấc lấy nước, chỉ từ 9:00 giờ sáng đến 11:00 giờ sáng và từ 3:00 giờ đến 5:00 giờ chiều. Mỗi lần qua tắm chỉ được một người thôi. Như vậy cho dù một người tắm có mười lăm phút, thì cũng chỉ giải quyết bốn người trong một giờ, bốn giờ chỉ có mười sáu người. Thế là chỉ có một số ít được tắm.




Không thể kéo dài tình trạng đó, bà con tị nạn bèn bàn nhau là để cho các thanh niên nhịn tắm, và nên dành cho đàn bà con nít tắm rửa mà thôi. Vấn đề này cũng bất ổn nên sau đó, các thanh niên lực lưỡng sang trại lính Thái Lan xách nước đem về rồi phân phối cho các tổ xài. Sau này khi sống qua nhiều trại như Khao Y Dang, Sikiew và Bataan, tôi mới thấy là ở trại Non Makmun có chế độ ăn uống sướng nhất. Mỗi ngày cứ hai người là có một hộp cá Tuna tròn cỡ 8 ounces. Còn gạo thì nấu ăn tự do.


Tóm lại, từ khi rời Việt Nam đến khi đến trại Non Makmun là mười bốn ngày. Ở Non Chan có ba ngày, ở Non Makmun mười ngày, rồi tôi được chuyển giao qua trại Khao Y Dang ở nội địa Thái Lan.




Trại Tị Nạn Khao Y Dang


Trại này nằm gần chân núi Khao Y Dang. Đây là trại định cư lớn nhất vùng Đông nam Á. Trại này vốn không phải dành cho dân tị nạn Việt mà là trại tạm cư của dân Cambodia. Họ ở tạm nơi đây để chờ các vị lãnh đạo cũ của Cambodia như Sihanouk, Sonn San... về để giải phóng đất nước khỏi tay Cộng sản Việt và Miên và đưa dân chúng về quê cũ. Trại này đặt dưới quyền kiểm soát của bộ Nội Vụ Thái Lan và Cao Ủy tị nạn Liên hiệp Quốc (UNHCR).





Dân số của trại này gồm 123 ngàn người. Đại đa số là người Miên. Tất cả có hai mươi ba khu (sections). Mỗi khu chứa năm ngàn người. Sở dĩ sau này họ phải chứa thêm người Việt nam vì trại Sikiew đóng cửa, biên giới Thái đóng cửa, nên nạn ứ đọng người tị nạn lên cao.




Số người tị nạn Việt Nam không thể lên trại Sikiew, cũng không thể về lại biên giới nên được chuyển giao đến trại Khao Y Dang. Người Việt tị nạn được dồn vào khu 13. Khu này chia làm hai phần. Một phần còn là người Miên, một phần là người Việt nam tị nạn. Số người Việt nam tị nạn khoảng 1,500 người. Mỗi khu có một ban đại diện độc lập, gồm một trưởng trại, một phó trưởng trại, một ủy viên phụ trách an ninh, một ủy viên phụ trách hành chánh, một trưởng ban ẩm thực.




A. Vấn đề lương thực:


Các khẩu phần giữa người Miên và Việt đều giống nhau. Mỗi tuần, thì cứ hai người được một hộp cá sốt cà chua nhỏ cỡ 4 ounces, trong hộp chỉ có hai con cá nhỏ. Cứ mỗi tuần thì hai người được một cánh gà. Không phải nguyên cái cánh mà chỉ là phần xương của cánh gà mà thôi. Mỗi tuần một đầu người được 200 gramsrau tươi. Đôi khi khẩu phần cá hộp được thay thế bằng vài con cá khô mặn. Bà con ai cũng thích cá khô vì số lượng nhiều hơn cá hộp.





Lúc đầu, ai muốn ăn bao nhiêu dầu ăn, đậu xanh và gạo thì cứ việc lên kho mà lấy. Nhưng sau tháng 4, năm 1980 thì số này được phân phối lại như sau: mỗi đầu người có 400 grams gạo, 200 grams đậu xanh. Cứ một tổ thì được một thùng dầu ăn bốn lít, tức là một gallon dầu. Tuy vậy, số này vẫn dư ăn.




B. Vấn đề nước uống:


Đây là một sự thiếu thốn rất trầm trọng. Hai tháng đầu khi tôi ở trại thì nước rất thiếu. Bốn người được một sô nước hai mươi lít. Nhưng khi nước được xịt vào thì đầy, khi nước lắng lại thì chỉ còn có mười sáu lít nước thôi.





Vì thế, một đầu người chỉ có bốn lít nước mỗi ngày để tự nấu ăn, tắm rửa và uống. Với bốn lít, trừ việc nấu cơm ra, còn lại không đủ uống. Ai muốn mát thì phải nhúng khăn lau mình chứ không đủ nước để tắm. Suốt hai tháng trời, tôi sống rất cực khổ, thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mùng, mền và chiếu. Tôi còn thiếu tất cả mọi nhu cầu vệ sinh tối thiểu như xà bông, kem đánh răng, giấy đi cầu hay lược chải tóc.




C. Nhu cầu thiết yếu khác:


Trong hai tháng đầu, không ai có mùng, mền hay chiếu. Sau đó, cứ hai người có một chiếc chiếu đơn, phải nằm ép vào nhau mới đủ. Vấn đề tiêu tiểu quá mất vệ sinh, nên nạn ruồi muỗi sinh sản mau lẹ đến độ trầm trọng. Từ đó, trại phải tổ chức chiến dịch giết ruồi muỗi.





Sau đó cứ hai người được chia một cái mùng. Vì thế, bà con phải nằm chung với nhau. Từ đó xảy ra nhiều chuyện cười ra nước mắt. Hễ cứ gần tối là bà con có chia mùng mền chung phải đi kiếm nhau để ngủ chung. Vào mùa hè, đường gần trại được phá ra, nên đất đỏ có bụi rất nhiều, nếu không nằm mùng thì bụi sẽ bay bám đầy người.




Khi đến mùa lạnh thì cứ hai người được một cái mền chiếc. Có nhiều cậu độc thân ghiền thuốc và cà phê nên lén đem bán mùng và mền để mua thuốc lá và cà phê. Vì thế xảy ra nhiều vụ đánh lộn, ăn cắp và kiện thưa. Lại vì sự chia chác nên có khi một người đàn ông lại được chia chung mùng mền với một người đàn bà. Làm sao đây? Do đó, nhiều người anh hùng rơm nhường hết đồ dùng cho người con gái, còn mình thì đi nằm ké hết chỗ này qua chỗ khác.




D. Kỷ luật trại Khao Y Dang


Trại có lệnh cấm chợ búa và cấm bài bạc hay đĩ điếm. Với số lượng người tị nạn quá đông: 123 ngàn người. Đời sống rất khó khăn. Nếu ai không thích ứng sẽ có thể bị bịnh mà chết. Vì số lượng lương thực rất hạn chế nên người dân Miên phải cố gắng tự túc thực phẩm. Họ nuôi gà vịt và trồng rau cỏ như mướp, rau muống, xà lách... Họ còn ra sau núi để hái lá giang về bán cho người trong trại để mà kiếm tiền. Họ còn biến chế thực phẩm từ chỗ có dư dầu ăn, gạo và đậu xanh, họ làm bánh chiên để bán.





Cho dù lính Thái Lan cấm họp chợ, họ vẫn lén lút họp. Khi lính Thái bắt được thì chúng đánh dân tị nạn rất dã man. Đã có nhiều người trốn ra vòng rào và bị bắn chết.




Tôi ở đó khoảng mười một tháng mà đã chứng kiến khoảng mười người Miên bị bắn vì lén đi ra ngoài vòng rào buôn bán chợ đen. Nếu lính Thái bắt được ở vòng rào trại thì họ đánh đập dân chúng rất tàn nhẫn, đến nỗi mình mẩy đầy máu me lai láng, rồi họ đưa đám nạn nhân này đi lên xe, có lẽ để đem đến chân núi bắn và hủy xác nạn nhân luôn.




Trở lại câu chuyện của Dũng, người dẫn đường đã bỏ rơi chúng tôi ở Nam Vang. Sau đó, hắn dùng tiền của chúng tôi để đi vượt biên. Cuối cùng tôi gặp lại hắn ở Khao Y Dang, sau khi tôi đến nơi độ một tháng. Dũng vẫn nào tật ấy, hắn xài tiền quen nhưng nhịn không quen.




Sau đó, hắn móc nối với đám dân tị nạn ở trại để tìm cách trốn ra khỏi trại đi buôn chợ đen. Hắn đi trót lọt được hai chuyến, đến chuyến thứ ba thì bị bắn chết ở ngay vòng rào trại. Hắn bị lính Thái bắn khi đang chuyển hàng vào, chỉ cách vòng rào có mười thước. Bọn cùng đi chỉ có Dũng bị chết, một người khác bị thương. Sau đó, ban đại diện có làm lễ để cúng cô hồn, mong cho Dũng sớm siêu thoát. Ở đó, hễ ai lén đi buôn mà bị lính Thái bắt được là bọn chúng sẵn sàng đá nát đồ ăn và đánh đấm người một cách dã man. Phần lớn nguồn hàng chợ đen ở Khao Y Dang là do người Miên trong trại lén vượt rào, hoặc chui bò qua các hàng rào kẽm gai để đi buôn.


Cứ tối tối, họ bò vào trại cỡ 2:00 giờ hay 3:00 giờ sáng. Họ bó tất cả đồ mua được vào người của họ. Mỗi chuyến đi buôn chỉ gồm độ bốn chai xì dầu, hai ký đường và một cây thuốc lá Samit. Số lời hàng ngày chỉ khiêm nhượng đủ để gia đình họ ăn trong vòng một ngày, kể gia đình chỉ gồm bốn người mà thôi.


Vì thế, cứ hai, ba giờ sáng là có tiếng súng bắn. Rồi người bị chết, người bị thương. Người Miên đã quá đói kém, vì thế dù biết nguy hiểm, một số con buôn vẫn liều trốn ra buôn bán để kiếm ăn qua ngày. Với cảnh sống cơ cực mà còn bị chèn ép, nên có một số người Miên bất mãn. Họ làm đơn xin UNHCR để cho họ về quê cũ. Họ xin trước rồi được gọi trình diện.


Khi họ hồi hương thì dọc cổng trại có từng đoàn xe vận tải chờ sẵn. Xe tuần tự chở người hồi hương và hàng hóa. Hội UNHCR hỏi lại lần cuối xem có ai đổi ý để ở lại không. Nếu không đổi ý, thì cứ hai mươi hay ba mươi người được gọi lên xe. Trước khi lên xe, mỗi người được tặng một gói quà gồm gạo và thực phẩm khô.


Trong thời gian tôi ở trại thì có hai đợt hồi hương. Sau đó, việc hồi hương được ngưng luôn, có thể vì việc biên giới bị tấn công và đánh phá. Đa số người Miên hồi hương là đàn bà và trẻ con, hay người già yếu và bịnh hoạn.


Cho dù lệnh cấm đánh bạc nhưng tại trại Khao Y Dang có rất nhiều sòng bạc đánh lớn và có người canh cửa để báo động. Còn về phần đĩ điếm thì rất nhiều. Ở đây có cả hệ thống tú bà, bắt mối và đĩ điếm.


Có nhiều cô phải bán thân vì quá nghèo đói. Ở khu tị nạn Việt Nam thì có sáu cô gái Việt Nam được đưa về khu Việt Nam để đọc bản án tội trạng, nếu còn tái phạm thì sẽ trục xuất về biên giới. Khi bị bêu xấu, cả sáu người đều chỉ biết cúi đầu và khóc lóc.


Lúc ấy tôi đang cộng tác với cha Tom, cha là người Hòa Lan. Cha rất tốt và luôn cứu trợ người tị nạn. Cha xem xét tình hình để cứu giúp. Có nghĩa là gia cảnh nghèo mà đông con thì có thể được cha cho 500 bahts một tháng. Nếu gia cảnh ít con hơn thì được phát 200 bahts cho một gia đình. Còn độc thân thì được lãnh 100 bahts.


Nhân lúc các cô gái đi làm điếm bị xỉ nhục, tôi lấy tư cách là đại điện nhóm Công giáo nên đi tiếp xúc và tìm hiểu lý do tại sao các cô ấy lại làm nghề nhơ nhuốc đó. Trong số ấy, có một cô khai là cô đã bán ”bar” ở Việt nam từ lâu, nay thiếu tiền nên tự động đi làm nghề này để kiếm tiền sinh sống. Còn bốn cô kia thì vì chán đời, vì đã bị Para làm nhục, lại vì nhu cầu vệ sinh tối thiểu như không có băng vệ sinh cho những ngày hành kinh, không có kem đánh răng, không có áo quần để thay đổi khi đồ dơ và hôi thối. Có một cô mà chồng đã bị bắt dọc đường, con cô thèm thuồng quá nên cô phải lén lút làm nghề này để nuôi con.


Theo như tôi được biết thì các tổ chức buôn lậu, đánh bạc và chứa điếm đều được lính Thái đỡ đầu, tham gia và cộng tác. Người lính Thái ăn chia đến cả trung đội và đại đội. Sau đó, vì ăn chia không đều nên nội bộ lủng củng, mới đổ bể ra cho cả trại cùng biết.


Nếu ai phạm kỷ luật ở ngoài vòng rào thì ban lãnh đạo Thái Lan xử lý. Nếu ai phạm kỷ luật trong khu section thì ban đại diện của section sẽ xử lý. Nếu không xử lý được thì sẽ đưa cho ban lãnh đạo người Thái Lan.


Theo tôi, bản án nặng nhất là một nhóm người đóng kịch, ca múa bài hát ” Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Sau đó, họ bị ban an ninh bắt và bị trả về trại tị nạn NW 9. Còn những tội nhẹ thì giao cho lính Thái. Họ có thể cạo trọc đầu người phạm tội hay là nhốt vào chuồng cọp. Đây là một chuồng giam có những song sắt. Người bị giam sẽ chỉ được mặc một quần xà lỏn và bị phơi nắng. Phần lớn người bị giam là thanh niên, chứ không có phụ nữ.




E. Các sinh hoạt tại trại Khao Y Dang


Sinh hoạt hàng ngày:





Người tị nạn Việt Nam ở đây rất nghèo khổ, nhưng người dân Miên thì đỡ hơn vì họ có thể tự sinh sống bằng hai nghề: đi buôn lậu và dẫn đường cho người dân ở Việt nam đi vượt biên.




Những dân Miên ở đây lâu thì có lợi. Con cái họ gia nhập các lực lượng lính Para. Còn họ móc nối đường dây đi từ Khao Y Dang để về Tây Ninh hay Châu Đốc dẫn người Việt đi vượt biên. Vì thế họ có thể sống thoải mái nhờ số vàng kiếm được.




Một hạng người nữa cũng sống rất ung dung, đó là nhóm người Hoa ở Cambodia. Họ biết tiếng Miên, lại biết cách dấu vàng bạc nên ít bị xét, mà nếu bị xét, họ cũng có cách dấu vàng bằng cách nuốt rồi đi cầu ra, lượm lại cất.




Về sinh hoạt điển hình trong ngày thì cứ mỗi ngày bà con phải lo vấn đề lãnh nước và lãnh thực phẩm. Giờ còn lại thì đi học thêm Anh văn. Lúc đầu, trại có tổ chức bốn lớp cho dân chúng học thêm.


Về sau thì dẹp lớp Anh Văn chỉ còn những lớp tư nhân mà thôi. Mỗi tuần thầy dạy Anh văn dạy sáu giờ, chi phí từ 100 bahts đến 150 bahts ( từ năm đô la đến bảy đô la rưỡi). Giá cả đều tùy thầy giáo quyết định. Nếu ai quá nghèo thì đành phải tự học hoặc mượn bạn bè sách vở để chép mà học.


Ở trại Khao Y Dang vì có diện tích lớn rộng nên người tị nạn có quyền đi lòng vòng từ section này đến section kia, miễn là đừng ra ngoài vòng rào thì thôi. Vì thế, bà con thường có thói quen: cứ chiều chiều là từng nhóm đi vòng quanh trại để cho giãn gân cốt, hoặc đi cho khuây khỏa và có dịp để suy nghĩ hay suy gẫm các lời Kinh Thánh.


Bà con thường tổ chức nấu ăn chung cho đỡ tốn. Cứ ba, bốn người thì họp lại để nấu ăn với nhau vì lẽ nấu ăn riêng thì không đủ ăn.


Sinh hoạt tinh thần:


Mỗi ngày Chúa Nhật thì người tị nạn Công giáo đi lễ ở một nhà thờ mà họ tự xây cất. Hàng tuần có các tu sĩ Hòa Lan hay cha Tom đến dâng lễ. Cha Tom còn tìm cách đổi ngân phiếu (check), chuyển thư tín hay chuyển qùa từ trại này đến trại khác. Cuộc sống ở đây bình thản nhưng mọi người rất nôn nóng để được đi định cư. Trong mười tháng tôi ở kẹt tại trại, tôi thấy tình cảm trai gái trong trại phát sinh rất nhiều. Có ít nhất là hai đám cưới chính thức ở nhà thờ. Có khoảng năm đám cưới không chính thức. Còn thì rất nhiều đôi lứa quyết định sống chung nên mời bạn bè đến, rồi nấu một nồi chè đậu xanh để ra mắt và đãi đằng bà con.


Trong trại cũng có một số ít khai man lý lịch của mình. Hễ trung sĩ thì khai mình là đại úy hay thiếu tá. Nếu y tá thì khai mình là bác sĩ. Đã có trường hợp một bác sĩ thật lại không được ban điều hành trọng dụng. Còn một ông y tá ở Cần Thơ thì khi tới trại lại khai mình là bác sĩ và được dân chúng tin tưởng.


Lúc đầu cả hai đều được làm việc ở phòng y tế, nhưng về sau, ông bác sĩ thật lại bị truất phế, còn ông bác sĩ giả lại được chọn làm trưởng ban y tế. Mãi đến khi ông này lên đến trại Pananikhom ở Chonburi thì bị lộ hình tướng.


Thư tín và báo chí:


Về thư tín thì mỗi tuần hai lần, vào ngày thứ hai và thứ sáu, là người tị nạn được nhận thư. Hầu hết các thư đều có tiền hay chi phiếu của các thân nhân trên thế giới gửi về. Có khi thư từ Việt nam gửi qua. Đây là món ăn tinh thần vui sướng nhất của trại tị nạn. Ở đây bà con đâm ra siêng năng viết thư, hoặc viết thư ra ngoại quốc để xin tiếp tế, hoặc gửi thư về Việt Nam để bày tỏ lòng thương nhớ của mình.


Ngoài ra, báo chí cũng rất được bà con coi trọng và giữ kỹ. Hễ ai có báo chí tiếng Việt từ Hoa Kỳ, Pháp hay Canada gửi qua thì họ chuyền tay nhau đọc cho đến nỗi tờ báo nhàu nát và mờ hết chữ mới thôi.


Trong bốn tháng đầu, trại có nạn ăn chận thư tín. Hễ thư về hôm trước thì đến tay ban lãnh đạo. Rồi sau đó ban đại diện trại lên lãnh thư về. Họ không chịu phát ngay mà đợi đến tối để rọi lá thư lên đèn dầu. Hễ thấy thư có kèm tiền hay ngân phiếu (check) thì họ dùng mọi cách để lấy tiền. Có khi lấy tiền xong thì họ thủ tiêu luôn lá thư. Về sau dân chúng khám phá ra nên tệ nạn này mới chấm dứt.


Nạn bè phái:


Những người có quyền hành thì ăn chận đủ mọi cách để rút khẩu phần xuống. Cuối cùng mọi sự đều công khai hóa nên tệ trạng mới biến dần.


Nước là một nhu cầu thiết yếu vì thế nếu các người tị nạn có chút quyền thế thì lập bè phái này nọ để chia nhau ăn chận nước rồi bán nước lấy tiền. Thôi thì hết trưởng ban này đến trưởng ban nọ đến lấy nước. Rốt cuộc đến dân đen thì gần hết số nước.


Vật dụng dành cho người tị nạn:


Khi các quần áo được cấp phát, ban điều hành lo chọn các bộ quần áo vừa kích thước của họ rồi cất đi, còn lại những áo quần không đúng kích thước hay không hợp thời trang thì đưa ra cho dân tị nạn bốc thăm. Có nhiều chuyện buồn cười xảy ra như thanh niên thì bốc thăm được cái áo đầm. Cụ già thì lãnh cái quần cao bồi. Đàn bà rút được cái quần đùi. Nhiều thanh niên lãnh áo đầm thì mặc vào rồi nhảy nhót, múa hát, trông vừa buồn cười mà vừa chua xót.


Việc nhà cửa:


Trong bốn tháng đầu tôi ở thì nhà cửa sơ sài. Ai tới trại trước thì được ở những nhà đã cất sẵn. Còn kẻ tới sau thì nằm vất vưởng ở các sân cỏ, gần thùng nước hay ngay lối ra vào.


Về sau UNHCR cho thêm tiêu chuẩn tre để làm sườn nhà và lá tranh để lợp nhà, thêm vải nhựa xanh để lót cho đỡ dột. Từ đó, người tị nạn làm bồn chứa nước để đựng nước để dành. Hễ cứ một nhà rộng cỡ ba thước và dài cỡ sáu thước thì ở được mười người. Về sau bà con cất nhà lấy để ở hoặc nhờ người quen hay người Miên cất nhà ở cho mình.




F. Thảm cảnh của người tị nạn ở trại Khao Y Dang


Về tệ nạn hãm hiếp:





Có thể nói hầu như 90% phụ nữ tị nạn bị hãm hiếp. Ở trại có một phái đoàn Y khoa thường kêu gọi các cô gái hễ có thai bất đắc dĩ thì họ sẽ giúp cho phá thai, hay nếu ai bị bịnh giao hợp cần chữa trị thì nên khai, không nên vì mắc cở mà dấu diếm. Lúc đầu chỉ có một hay hai cô khai mà thôi. Cuối cùng vì xảy ra một trường hợp khá nghiêm trọng nên ban y tế phải cưỡng bách việc khám nghiệm.




Số là có một cô gái bi bịnh giang mai do bọn lính Para truyền qua. Cô ấy vì quá mắc cở và sợ sệt nên dấu, không chịu khai bịnh. Về sau, cô ta nổi điên loạn, nói lung tung. Đến một buổi trưa, cô ta ngất xỉu. Khi phòng y tế khám phá ra thì cửa mình cô ta đã hư hại hoàn toàn.




Sau đó, phòng y tế xuống kêu từng cô gái để khám riêng. Đây là một việc bí mật vì nếu không, các nạn nhân sẽ mắc cở và cảm thấy nhục nhã. Sau kết quả khám nghiệm thì hầu như đại đa số đều bị mắc bịnh hoa liễu. Còn một số thì có thai bất đắc dĩ.




Có một trường hợp là chồng đi thoát đến trại Sikiew còn vợ thì đến sau ở trại Khao Y Dang. Trên đường đi, cô vợ bị hãm hiếp bởi bọn Para. Sau đó, cô dấu chồng việc ấy nhưng rồi chồng cô biết được nhưng không thông cảm cho cô. Cô ta hỏi xin tiền chồng nhưng chồng cô lờ luôn, cũng không thư từ qua lại. Từ đó, cô sống rất thác loạn. Đôi khi vì chỉ có nửa ký đường hay một hộp sữa mà cô bán dâm một cách công khai. Hầu như các thanh niên ở trại này đều biết danh cô ta.


Một trường hợp khác, người chồng ở trại NW 9, còn vợ ở Khao Y Dang. Chi này nghe tin chồng ở bên kia bê bối nên ở đây chị cũng rất lăng nhăng.


Ở một trại nhỏ này, đời sống tình cảm của nam và nữ rất thác loạn. Có nhiều cô gái nhìn phong cách rất gương mẫu, cách nói năng rất đàng hoàng, có lẽ cô phải sống trong gia đình có giáo dục. Tới trại, các cô sống phóng túng có lẽ vì đã bị nạn hãm hiếp, nay lại sống xa gia đình, thoát sự gò bó của cha mẹ nên không còn ai kiềm chế, cá tính lãng mạn của các cô bộc phát nên các cô tung hoành.


Có một số ông tự xưng mình là bác sĩ, kỹ sư hay giáo sư nay chỉ vì một thùng nước hay một con cá khô mà hạ mình nịnh bợ những kẻ không ra gì hoặc hổ trợ chúng làm những việc thất nhân tâm.


Có một số người tị nạn khác vì sau khi gặp mọi nguy hiểm và khủng hoảng trên đường đi mà thoát được. Khi đến trại, họ cảm ơn Thượng Đế vì các ơn lành của Ngài nên họ trở nên ngoan đạo, lập thành các nhóm đọc kinh cầu nguyện chăm chỉ, và làm các công tác tông đồ cách đắc lực.




G. Các trẻ em bị lạc gia đình.


Lúc tôi ở trại thì có khoảng sáu em lạc cha mẹ hoặc ra đi với người quen, còn cha mẹ các em thì còn lại Việt Nam. Một em cùng đi với cha mẹ, nhưng bị lạc cha mẹ nên không biết họ còn sống hay không. Tới trại, em có nhờ hội HTTQT kiếm nhưng không tìm được cha mẹ ở các trại tị nạn khác.





Có hai em khác thì đi cùng với người dẫn đường để đến trại. Cha mẹ các em còn lại ở Việt nam để thu xếp và đi sau. Khi tới trại, người dẫn đường xua đuổi và ruồng rẫy hai em này. Số còn lại thì đi với anh hoặc chị. Giữa đường thì anh chị chết.




Cha Tom rất chăm lo săn sóc cho các em thiếu nhi mất gia đình này. Cha cho các em quy tụ và sống chung để có một số người lo giáo dục và hướng dẫn các em. Anh trưởng ca đoàn của ban Công giáo tại trại Khao Y Dang thì lo giáo dục các em về thể thao và văn nghệ. Còn tôi đặc trách về tài vụ. Cứ mỗi tuần, tiền chợ búa cho các em ăn tiêu là do tôi đề nghị qũy của cha Tom xuất chi.




H. Bà cụ già nhất ở trại tị nạn.


Trong số những tị nạn Việt nam ở trại Khao Y Dang có một bà cụ già đến 91 tuổi. Cụ bà được các cháu cõng đi. Cụ già người gốc Chàm và quê ở Châu Đốc. Cụ là bà nội của ông Phụng Hoàng Vân, ông Vân ở trong ban cố vấn sắc tộc thiểu số đời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cụ cũng là bà của ông Tôn thất Liêm. Cụ đã được thâu hình và phỏng vấn bởi đài truyền hình Thụy Sĩ vì cụ là người tị nạn già nhất ở trong trại.





Tóm lại, trại Khao Y Dang tương đối an toàn hơn các trại tị nạn ở vùng biên giới vì nó ở trong nội địa Thái Lan. Trại còn được đặt dưới quyền kiểm soát của Liên Hiệp Quốc và Hội HTTQT.




Trại Tị Nạn Sikiew


Từ trại Khao Y Dang có khoảng tám trăm người đã lần lượt được chuyển sang trại Panatnikhom, ở tỉnh Chonburi, Thái Lan. Số còn lại độ năm trăm người gồm đại đa số là thanh niên độc thân và không có người bảo lãnh thì được chuyển sang trại Sikiew vào cuối tháng 11, năm 1980. Đây cũng là đợt chót mà dân tị nạn được chuyển đi, thế là toàn thể section 13, section đặc biệt của người Việt tại trại Khao Y Dang được xoá bỏ hoàn toàn vào cuốt tháng 11, năm 1980.





Trại Sikiew ở sâu trong đất Thái Lan, và nằm trên vùng cao nguyên của Thái Lan, khí hậu mát giống như Đà lạt. Đây là một trại tù không hơn không kém. Trại gồm có chín buildings, gồm hai tầng lầu. Mỗi building dài năm mươi thước, ngang năm thước, chứa khoảng từ 280 người đến 300 người. Mỗi người có một diện tích chỉ đủ để đặt thân mình ngủ, bề ngang độ nửa thước, còn bề dài chỉ độ hơn một thước rưỡi.




Trong chín buildings thì có hai buildings là nhà tù, một building giam bộ đội Cộng sản Việt Nam, một building giam người tị nạn Việt Nam. Ngoài ra còn có một building trống.




A. Cơ cấu nhân sự:


Mỗi building có một trưởng building có quyền kiểm soát toàn building. Tiếp đó là một trưởng phòng trên lầu, một trưởng phòng dưới lầu, một trưởng ban an ninh, một trưởng ban thư tín, một trưởng ban ẩm thực, một trưởng ban chia nước và một trưởng ban xã hội và thể thao.





Toàn thể các trưởng buildings họp lại thành trưởng ban lãnh đạo. Ban lãnh đạo làm việc dưới quyền một thiếu tá quân đội Thái. Phó trưởng trại là một nhân viên quốc gia hành chánh của Thái. Các trưởng buildings có quyền được ra phố xá Thái chơi hàng tuần và được quyền lợi về thực phẩm và nước uống nhiều hơn các người tị nạn khác.




Các buildings cách nhau bởi những hàng rào cho nên mỗi building như một lãnh địa riêng.




B. Tệ trạng quan liêu hống hách.


Ban an ninh trong trại Sikiew là những người Miên gốc Hoa được chọn lựa ra làm việc. Có thể nói là hầu hết người trong ban an ninh là thành phần bất hảo, lợi dụng quyền hành để bắt nạt dân đen.





Mỗi ngày, dân tị nạn phải tụ tập ở sân để chào cờ hai lần vào buổi sáng và buổi tối. Nếu ai trốn chào cờ hay chào cờ không nghiêm chỉnh thì sẽ bị thi hành kỷ luật như bị cạo trọc, hay bị nhốt trong tù. Ai cũng phải tỏ ra nghiêm trang khi nghe quốc ca Thái và nhìn quốc kỳ Thái lên cao. Mỗi building đều có hai người trong ban an ninh trại đứng kiểm soát. Thường thì tác phong của những người này rất tồi tệ.




Sân để chào cờ rất chật hẹp nên bà con phải chen chúc để đứng chào cờ. Sân dài độ sáu mươi thước, rộng mười lăm thước. Dân trong từng building đứng nơi sân của mình. Từ building này đến building kia rất khó vì mỗi building đều có tường xây, ở giữa có rào kẽm gai. Tiếng nhạc chào cờ được vang lên trong loa phóng thanh.




Tại đây luôn có bầu không khí căng thẳng. Diện tích sân và lầu đều quá chật hẹp cho nên bà con thường đi đứng lang thang ở trên lầu hay sân hoặc chen chúc nhau để lãnh nước và lãnh thực phẩm. Loa phóng thanh ồn ào suốt ngày để thông báo về nội quy, kỷ luật của trại. Tiếng ồn ào này làm cho người tị nạn không có thể học Anh văn hay đọc sách được. So với Khao Y Dang thì ở Sikiew rất tù túng và thiếu sự thoải mái.




Nói chung, các tệ trạng của Sikiew phát xuất từ các thành viên trong ban an ninh. Những người này đã sống lâu trong trại. Họ rất biết lấy lòng quan thầy lãnh đạo Thái nên họ được nhiều độc quyền buôn bán và kiếm ăn.


Họ có rất nhiều độc quyền như: Phân phối nước đá, thuốc lá, nước. Ban an ninh làm việc để thâu tiền cho người Thái và để được ăn chia chút đỉnh. Họ chia ra nhiều phe phái: phe thì dựa oai trưởng trại, phe khác dựa oai phó trưởng trại. Thế rồi hai phe kèn cựa nhau, thanh toán nhau bằng cách đâm chém. Họ là những kẻ nịnh bợ người Thái và là con cờ của chúng. Cuối cùng nếu họ vì đánh nhau mà xảy ra chuyện thì ban lãnh đạo Thái cũng cứ lờ đi. Người Thái không vì con cờ mà làm mất lòng nhau.


Ban an ninh còn lạm dụng quyền thế để mua tre dựng lều ở các khoảng trống rồi mở các quán cà phê kiếm lợi. Họ vặn nhạc ồn ào cả ngày với đủ loại nhạc Thái, Tàu và Việt.


Vòng rào như một phương tiện để canh giữ những tù nhân. Vì thế mỗi buổi sáng từ 8:00 giờ đến 11:00 giờ thì chỉ có mười người đại diện cho mười tổ để ra ngoài đi mua đồ ăn. Ngày hôm sau, đến mười người khác được đi.




C. Tình trạng lương thực và nước uống trong trại.


Trong thời gian tôi ở trại Sikiew gần hai tháng, tôi thấy đồ ăn ở đây rất ít. Tình trạng thiếu thốn lương thực đã làm bà con khốn khổ. Đồ ăn do nhà thầu đem đến. Vào mỗi buổi trưa và chiều, loa kêu gọi các tổ trưởng trong buildings mang sô hay thùng qua nhận đồ ăn cho tổ của mình.





Ngày nào cũng chỉ có mỗi một món duy nhất là canh bí. Canh bí gồm bí không lột vỏ được bầm nát ra để nấu với vài cái chân gà, cánh gà hay cổ gà. Có khi bí được nấu với vài miếng thịt heo lèo bèo. Cho dù là cánh gà hay thịt heo thì tiêu chuẩn thịt cũng rất ít. Trong building gồm có khoảng ba trăm người mà sô canh chỉ có vỏn vẹn hai hay ba cánh gà.




Về phần cơm thì mỗi người được hai chén nhựa. Cơm thì có bữa khô, bữa nhão,khê hay nát. Vì thế nếu ai không có tiền tiếp tế của thân nhân từ ngoại quốc gửi đến thì rất khổ cực.




Về nước thì cứ hai buildings có một hồ nước xây bằng xi măng. Cứ hai người được một sô nước mỗi ngày. Nếu lỡ hai ba ngày mà không có nước vào thì dân chúng sống rất khổ cực. Từ đó còn có thêm tệ nạn bán nước với giá cắt cổ. Thường thì những người Thái có quyền hành bỏ tiền ra thuê xe nước đem vào trại rồi bán lại cho dân tị nạn để kiếm lời. Tuy giá bán cắt cổ nhưng dân tị nạn vẫn phải mua để mà dùng.




Tại trại Sikiew có nhiều hàng quán và chợ búa. Ông trưởng trại cho người thầu để ăn hoa hồng. Hàng hóa rẻ và nhiều, gồm đủ loại: từ vải vóc, xà bông đến đồ ăn uống. Dân tị nạn có thể đặt hàng rồi họ đem hàng đến ngày hôm sau. Hàng hóa ở đây rẻ hơn ở Khao Y Dang.




D. Thư tín và thánh lễ:


Cứ ba lần trong tuần thì ban lãnh đạo Thái lãnh thư về và đưa cho ban thư tín của building để phát cho dân. Người tị nạn cũng có thể gửi qùa về Việt Nam hay đi các nước khác bằng cách giao cho ban thư tín đi ra phố Thái để gửi đi.





Mỗi ngày Chúa Nhật đều có cha Namvong, người Thái gốc Việt đến để giúp người tị nạn chuyển thư hay đổi những chi phiếu cho dân tị nạn. Cha biết nói tiếng Việt và rất tử tế, cha đã từng xây nhà thờ ở trại Sikiew và tìm cách giúp đỡ tài chánh cho những người thiếu thốn trong trại.




Cứ mỗi ngày Chúa Nhật, người nào theo đạo Công giáo thì được đi ra khỏi vòng rào để dự Thánh lễ. Họ phải xếp hàng một để đi qua cổng. Khi gặp người Thái canh gác thì phải chắp tay cúi đầu để chào theo kiểu nhà Phật. Hễ ai cố tình lờ đi thì bị phạt rất nặng.




E. Sinh hoạt chung tại trại:


Ở trại này có điện, mỗi người dân ở trong từng building phải góp nhau mua bóng đèn. Mỗi building có từ mười đến mười hai bóng đèn nê-ông. Bà con có thể thắp từ chặp tối đến sáng. Còn ở Khao Y Dang thì không có điện nên bà con phải dùng dầu ăn và vải để làm bấc thắp đèn.





Mỗi tháng, ban lãnh đạo người Thái có những buổi chiếu phim có tính cách bắt buộc. Ai cũng phải đem mùng mền ra xem và ngủ ở ngoài sân vận động. Thường phim được trình chiếu là phim Tàu về quyền cước hay tình cảm. Nghe nói sau này còn có những phim tục tĩu, khiêu dâm. Phim chiếu từ tối đến năm, sáu giờ sáng. Có khi chiếu đến năm, sáu cuốn phim. Có người ra để xem phim, nhưng có số khác ra để cặp bồ bịch hay ân ái.




Ngày chiếu phim là ngày vui cho cả trại vì bà con đua nhau mặc quần áo đẹp. Còn các hàng quán thì mọc ra như nấm để được dịp kiếm tiền. Ban an ninh còn được dịp để khai thác và thâu lợi trong việc ăn uống.




Ở Sikiew có hai cảnh sống trái ngược và mâu thuẫn nhau. Kẻ nào có người nhà ở ngoại quốc tiếp tế hay kẻ ấy biết “mánh mung” thì rất sướng. Trái lại phần lớn dân tị nạn rất khổ vì họ bị nạn bè phái, cá lớn nuốt cá bé nên khổ cực trăm bề.




Tệ nạn bài bạc và mãi dâm:


Các tệ nạn bài bạc, mãi dâm, lừa gạt , đánh lộn, chèn ép đầy dẫy ở trại này. Các người trong ban an ninh, phần lớn là người Tàu lai Miên thường tụ tập bài bạc rồi lấy tiền xâu góp cho ban lãnh đạo người Thái.


Ở building số năm nổi tiếng về tệ nạn mãi dâm. Building này có nhiều người Tàu. Các cô gái Lào từ mười lăm tuổi đến hai mươi tuổi thường là rất đẹp: da trắng và má hồng. Vì phải ở lâu trong trại nên sinh ra đói khát. Các cô này đành phải bán dâm để kiếm ăn.


Các cô gái Việt Nam cũng không kém gì. Họ bị vật chất quyến rũ, lại thêm những tai họa trên đường đi. Từ đó họ sinh ra chán nản,buông thả và bất cần đời. Cảnh lấy vợ, ghép chồng rất nhiều. Họ cần tiền và cần sự giúp đỡ nên lấy nhau rồi bỏ nhau như cơm bữa.


Tệ nạn lừa gạt: Tìm bạn bốn phương.


Ở trại này có một tệ trạng nổi tiếng là nạn: “Tìm bạn bốn phương”. Đây là một tình trạng lừa gạt có hệ thống và tính toán. Các thanh niên độc thân ở building chín thường là những bộ đội Cộng sản Việt nam đào ngũ trốn đi.


Khi qua đến Thái Lan, họ lại bị chính quyền Thái bắt nhốt ở đây quá lâu.Từ đó, họ nảy sinh ra việc đăng báo ở ngoại quốc. Họ giả làm các cô gái, tạo ra những câu chuyện thật thương tâm để làm các nam độc giả ở ngoại quốc xiêu lòng gửi tiền qua trại Sikiew giúp đỡ cho họ.


Các thanh nên này vì đã ở đây ba, bốn năm nên họ không sợ thư gửi qua bị lạc vì người nhận đã đi định cư. Họ còn bắt liên lạc với những người chụp hình để làm ăn. Những người có máy hình chỉ việc đi vòng quanh trại, thấy cô gái nào đẹp là chụp hình và không lấy tiền. Sau đó, họ rửa hình cất đi để làm ăn, đôi khi họ cho các cô đã chụp hình một vài tấm có hình cô ta. Vì thế, các cô này rất thích cho họ chụp hình, nhưng sau này, việc đổ bể nên họ mới dè dặt.


Tôi đã được biết rất rõ những trường hợp giả mạo này ở building chín trong mục tìm bạn bốn phương. Các cậu này lấy những tên con gái thật đẹp và thật kêu để ngụy tạo. Họ tạo những lá thư tả oán thật đáng tội nghiệp, chẳng hạn như cảnh: ”Nàng đi với chồng, rồi chồng bị giết, nay bơ vơ cần tìm người quảng đại và tử tế để lập lại cuộc đời.” Hay cảnh: ” Nàng đi với gia đình rồi gia đình bị chết, nay cô đơn cần người an ủi.” Rồi thì đến cảnh: ”Các cô cựu nữ sinh Gia Long hay Trưng Vương buồn nhiều trong cảnh ngộ vượt biên, cần tìm bạn an ủi, bảo trợ và giúp đỡ tài chánh.”


Từ đó, các thư hồi âm về trại rất nhiều. Có thư kèm theo những chi phiếu hai trăm đô la hay một trăm đô la. Có một lúc, một cậu giả làm một cô gái được rất nhiều thư có tiền đến cùng một lúc. Thế là anh chàng sống phè phỡn và đế vương.


Ở ngoại quốc, những người đã gửi tiền qua bèn xin hình để biết mặt người đẹp. Thế là các anh này đi móc nối với nhóm chụp hình để mua hình các cô gái đẹp và gửi đi lừa những người ở ngoại quốc. Giá hình cũng tùy thuộc theo cô gái trong hình xấu hay đẹp.


Thế là trong trại nảy sinh ra nghề viết thư mướn. Ai viết chữ đẹp và giống chữ con gái thì được người chủ mưu tìm bạn bốn phương thuê để viết thư theo ý họ muốn. Công viết một lá thư là từ năm đô la trở lên. Mỗi lá thư viết lâu từ mười lăm phút đến hai mươi phút.


Có lúc tệ trạng này bị đổ bể vì ở ngoại quốc có một anh viết thư cho ban đại diện building đó để hỏi xem có cô gái nào tên này, tên kia ở trong building chín không. Ban đại diện trả lời là trong building đó chỉ toàn là đàn ông mà không có đàn bà. Anh chàng bèn tức giận, đăng nghi vấn lên báo chí ở ngoại quốc. Rồi anh ta viết thư chửi cô gái giả mạo nọ. Nàng giả mạo bèn viết thư qua kể lể rằng: ” Em chính là con gái, nhưng vì người trưởng building của em muốn ”cua” em, em không đồng ý nên họ đặt điều để phá em. Nếu anh không tin thì cứ gửi quần áo về trại, em sẽ mặc để chụp hình gửi cho anh sau.”


Anh kia bán tín bán nghi nên sắm một thùng quà toàn áo đầm, quần jeans và áo thung gửi qua trại ngay. Cô gái giả mạo bèn đi tìm cho được cô gái đã chụp hình để nói láo rằng gia đình hắn gửi quà cho em gái hắn. Nay em gái hắn còn kẹt lại ở các trại biên giới Thái-Miên nên không mặc được. Rồi hắn tặng cho cô ta thùng quà đó.


Cô ta mừng rỡ nhận ngay. Thế rồi hắn đòi cô ta cho hắn được chụp vài hình làm kỷ niệm. Cô gái kia thật thà cho chụp hình ngay. Sau đó, hắn gửi hình cô ra ngoại quốc để thanh minh với anh chàng kia. Anh kia bèn gửi thêm một lá thư cho ban đại diện building để chửi họ. Thế là mọi sự mới đổ bể ra.


Bọn bất lương này đã làm giàu nhờ việc giả mạo để chơi mục ”Tìm bạn bốn phương”. Bọn họ rất phe phỡn. Họ tuyên bố rằng họ có thể mua xe hơi ngay tại Thái, nhưng họ sẽ để dành tiền để ra ngoại quốc sống.


Sau này, vì tò mò, tôi mới tìm hiểu và được biết rằng đây là một tổ chức có quy mô, từ trên xuống dưới, đều chia nhau ăn. Ban lãnh đạo người Thái thường đi ra lãnh thư. Khi đi, có cả ban an ninh đi theo. Hễ thư của anh nào mang tên con gái thì ban an ninh nhận hết về phần họ.


Khi về, tùy theo số tiền gửi trong thư nhiều hay ít thì cô gái giả mạo kia phải chia tiền cho người Thái và ban an ninh. Ví dụ thường thì một trăm đô la đổi được hai ngàn bahts. Nay một trăm đô chỉ đổi được một ngàn hai trăm bahts hay một ngàn năm trăm bahts. Người trưởng trại Thái nhận đổi theo kiểu này.


Một câu hỏi được đặt ra là tại sao ban an ninh biết mà không ăn chận thư ngay mà lại đưa trả cho kẻ chủ sự việc này? Câu trả lời là họ muốn ăn dài lâu nên không thèm ăn chận một lần. Họ cố tình nuôi dưỡng vấn đề này để cùng ăn chia dài dài.


Ban lãnh đạo người Việt tuy biết tệ trạng này nhưng không có thực quyền nên đành làm ngơ. Nếu làm ra chuyện, họ sẽ có thể bị chụp mũ là Cộng sản và bị nhiều điều bất lợi cho cá nhân họ. Có nhiều người bị ghét nên bị ghép tội rồi bị bắn chết.


Tôi được nghe rằng vào năm 1979, có người tị nạn bị người Thái ghét nên họ đem ra hàng rào bắn chết vào ban đêm rồi gắn tội cho anh ta là tình báo trốn ra ngoài nên bị bắn khi đang chui hàng rào ra.


Vì làm ăn khấm khá nên những cô gái giả mạo này cứ cố tình trì hoãn để khỏi phải chuyển trại. Họ muốn ở lại Sikiew mãi để làm tiền những người ở ngoại quốc.


Tóm lại, đời sống ở Sikiew rất tù túng và gò bó. Tệ nạn tại đây cũng nhiều hơn các nơi khác. So với các trại tị nạn khác thì trại Sikiew này chính là trại tù khổ cực nhất và đầy dẫy sự bất công.”





Nguyễn Văn Thụy Viễn





1 2 3 4 5 6 7 8 9




Lâm Quản Nhân






"Tiếng gọi nhau xen lẫn với tiếng rít của pháo nghe rợn người. Chúng tôi lại đổ xô lên nhau mà thoát ra cổng chính. Tất cả 4,473 người chen chúc ra bằng một cánh cổng rộng không quá năm thước. Người ta chen lấn và đè lên nhau để tìm lối thoát. Có kẻ đã phá rào để thoát ra, hòa chung với dân Khmer đang di tản bên ngoài. Mặc dù lính Thái vẫn chưa cho vào đất họ, chúng tôi đã phải dìu dắt nhau mà chạy vì nhiều cụ già, em bé, nhất là các phụ nữ đã té hay bị xây xát trong khi thoát ra khỏi trại. "




Bài viết của Ông Lâm Quản Nhân"











Ông Lâm Quản Nhân, Một Người Tị Nạn Đường Bộ Viết Về Trại Tị Nạn Dongrek











Lời Nói Đầu: Sau đây là lá thư của ông Lâm Quản Nhân gửi cho tác giả Kim Hà ngày 11, tháng1, năm 1985, sau khi các người tị nạn đường bộ ở Dongrek đã được xem loạt bài về




”Hành Trình Đường Bộ Tìm Tự Do” của Kim Hà, đăng trên báo Tin Việt vào các năm 1984, 1985 và 1986.




Kim Hà đã đưa bản chính của lá thư này cho nhà văn Quyên Di, để đăng trên báo Đường Sống, vào trung tuần tháng 1, năm 1985.


Dongrek, Đêm Không Ngủ


Dongrek vẫn ngủ vùi, mặc dù tiếng pháo vẫn nghe rõ mồn một từ phía Ampil.


Ngày 7, tháng 1, năm 1985.


Buổi sáng hôm nay đầy sương mù. Mọi hoạt động đã bắt đầu. Trong khi các trận đánh của quân kháng chiến Khmer tự do và Cộng quân vẫn diễn ra một cách ác liệt. Nơi đó, cách Dongrek không quá ba cây số đường chim bay.


Dongrek đang lên cơn sốt từ mấy hôm nay. Mọi nguồn cung cấp từ biên giới Thái đều bị giới hạn. Các xe cứu thương của cơ quan MSD cũng như các xe nước đều bị giới hạn. Xe nước giảm xuống từ mùng 5 đến mùng 7 tháng 1 năm 1985. Tiếng thông báo từ chiếc loa của ban đại diện vang lên trong không gian. Hôm nay, chúng tôi không được phép ra khỏi trại vì dân Khmer sẽ biểu tình và tuần hành bên cạnh trại chúng tôi vì ngày 7 tháng 1 là ngày Quốc Khánh của bọn bù nhìn Hen Samrin.


Thế là chúng tôi, những người Việt nam vô tội lại nhận chịu những quả dưa thối, những hòn đá hay những lon cá được ném vào từ phía ngoài.


Khoảng 7:00 giờ sáng, khi mọi sinh hoạt gần bình thường, bất chợt, những tiếng dội xé không gian, cách trại chúng tôi không xa. Những xe nước hôm nay không vào. Chúng tôi hầu như bị cô lập hoàn toàn. Dongrek được nối với thế giới tự do bên ngoài chỉ bằng một cánh cổng mà chúng tôi thường gọi là ”công lôi”. Chỉ một vài chiếc xe của ICRC (HTTQT, chữ tắt của International Committee of Red Cross) được phép vào và xuất hiện trên đường sau khi đạn pháo đã ngừng hẳn. Đó cũng là một biểu tượng duy nhất của mối liên lạc bên ngoài.


Nước! Nước! Một nhu cầu cấp thiết ở một vùng cao nguyên không tìm ra một giọt nước này. Chúng tôi hoàn toàn không có nước dự trữ, vì trong tình trạng bình thường, mỗi đầu người chỉ có 9 lít nước cho mỗi ngày.


Chúng tôi vội vã ăn những hột cơm trong lo âu và sợ sệt, rồi sắp xếp lại đồ đạc để đề phòng những quả pháo sẽ bất chợt đến viếng thăm vào ban đêm trong dịp lễ Quốc Khánh của họ.


Đúng như dự đoán, khi mặt trời vừa khuất bên kia dãy núi Dongrek. Đêm đen dần, hàng loạt quả pháo lại nổ tung cách chúng tôi không xa. Chúng tôi phải nằm và phải bò, mặc dù chúng tôi chưa bao giờ bước chân đến quân trường.


Tiếng gọi nhau xen lẫn với tiếng rít của pháo nghe rợn người. Chúng tôi lại đổ xô lên nhau mà thoát ra cổng chính. Tất cả 4,473 người chen chúc ra bằng một cánh cổng rộng không quá năm thước. Người ta chen lấn và đè lên nhau để tìm lối thoát. Có kẻ đã phá rào để thoát ra, hòa chung với dân Khmer đang di tản bên ngoài. Mặc dù lính Thái vẫn chưa cho vào đất họ, chúng tôi đã phải dìu dắt nhau mà chạy vì nhiều cụ già, em bé, nhất là các phụ nữ đã té hay bị xây xát trong khi thoát ra khỏi trại.


Trại rộng khoảng gần một cây số vuông. Ngày trước phải chen chúc nhau mà ở. Bây giờ vắng lạnh, không một bóng người. Tất cả đã vào rừng hay vào sâu tận chân núi để ẩn nấp. Đồ vật văng tung tóe khắp nơi trong sân trại.


Cảnh màn trời chiếu đất lại tái diễn với chúng tôi. Trời đầy sương mù, bóng đêm như đe dọa và uy hiếp. Từng nhóm người tụ nhau lại trên sân cỏ, trên đá, dưới ánh trăng mờ nhạt. Những nét đau khổ, sợ hãi hiện rõ trên từng gương mặt. Chiến tranh là thế đấy!


Chúng tôi đã đánh đổi tất cả những gì yêu qúy nhất của một con người để tìm lấy một cảnh đời mới với hy vọng sẽ hưởng được chút ánh sáng của tự do. Nhưng trớ trêu thay, chiến tranh vẫn đuổi theo chúng tôi. Ngay cả khi chúng tôi đang đứng trước ngưỡng cửa tự do.


Liệu khi Cộng quân tấn công vào đây, chúng tôi có được phép di tản vào đất Thái hay một nơi nào an toàn khác không hay vẫn sống với nhóm dân Khmer đang rực lửa căm hờn và sẵn sàng hành hung chúng tôi? Ban ngày chúng tôi có thể bám víu vào Chúa thôi.


Những hình ảnh Cộng quân tràn ngập Dongrek, cảnh chết chóc hay những tấm plastic xanh dưới bầu trời rực lửa như đe dọa và uy hiếp chúng tôi. Mang tâm trạng hãi hùng, chúng tôi qua một đêm.


Sáng ngày 8 tháng 1, năm 1985.


Chúng tôi được phép về trại, mặc dù tiếng súng vẫn còn vang lên cách chúng tôi không xa. Với tư thế sẵn sàng, chúng tôi phải đương đầu với mối khó khăn khác: Nước, mỗi đầu người chỉ được hai lít để nấu nướng, uống và tắm giặt.


Sáng hôm nay, nơi được khách thăm viếng đông nhất sau đêm qua là OPD (Outpatient Department), các bệnh nhân đến. Kẻ nằm chờ, kẻ đứng đợi, đông như kiến. Nhưng thuốc men thì rất tiếc, không đủ để cung ứng.


Cứ với không khí căng thẳng đó, chúng tôi trải qua đến tối, thời điểm các đợt pháo thường viếng khu vực này. Chúng tôi vai gồng vai gánh cùng nhau ra sân banh, gần cổng chính để ngủ hầu chạy dễ dàng hơn.


Một số lính Para Miên, thuộc phe kháng chiến tự do của Sonn San không chính phủ, lúc bấy giờ được di chuyển vào vùng này. Lợi dụng tình hình khẩn trương đó, họ vào trại bắt phụ nữ hãm hiếp, cướp đoạt tài sản và hành hung một số người.


Sau lưng, Cộng quân đang đe dọa. Trước mặt cảnh hãm hiếp lại diễn ra. Chúng tôi là những người Việt Nam tị nạn, nào có tội tình gì đâu? Có chăng là cái tội ”Tìm tự do” thôi. Sao chúng tôi lại nhận chịu những cảnh thương tâm đến thế này. Suốt đêm không ai ngủ được. Sương mù vẫn dầy đặc và đạn pháo vẫn nổ không xa.


Ngày 9 tháng 1, năm 1985.


Sáng đến, khi ánh mặt trời đã xua tan đi bóng đêm cùng những lo âu và sợ hãi, chúng tôi thở phào như trút được gánh nặng. Mọi mệt mỏi hầu như tan biến, chỉ có những gia đình gặp điều bất hạnh thì còn đau khổ. Chúng tôi trở về nơi ở với những bước chân rã rời sau một đêm không ngủ.


Cứ thế, mỗi buổi chiều, chúng tôi lại di tản tạm ra sân banh để ngủ, nhất là các cô gái thì tình trạng rất căng thẳng. Biên giới vẫn đóng cửa. Nạn thiếu nước vẫn đe dọa. Bệnh hoạn mặc sức tung hoành. Đạn pháo và nạn hãm hiếp vẫn đe dọa hằng đêm. Mọi người phải sống với một tinh thần bịnh hoạn. Chúng tôi phải chịu đựng cảnh tượng này đến bao giờ?


Hơn hai năm nay, chúng tôi đã chịu đựng quá nhiều đau khổ, thế mà tương lai vẫn là một viễn tượng xa vời. Liệu khi Cộng quân tấn công vào Dongrek, chúng tôi có thoát khỏi các họng súng tàn ác của kẻ thù không?


Ngược giòng thời gian, khi Non Chan thất thủ vào tháng 12 năm 1983 và rồi Non Chan bỏ chạy vào tháng 3, năm 1983, người dân tị nạn chúng tôi đã xem như được tái sinh một lần rồi.


Chúng tôi đã không sống được với Cộng sản là vì chúng tôi ghê tởm sự tàn bạo của chính sách cưỡng bức của họ. Chúng tôi tìm tự do, tìm tự do! ba tiếng ấy sao nghe chua xót đối với chúng tôi thế nào ấy. biết bao nhiêu đồng bào tôi đã phải chết một cách oan ức và tăm tối. Và không biết bao nhiêu cô gái Việt nam đã bị giày vò dọc theo biên giới này.


Chúng tôi, những người theo đuổi lý tưởng tự do và hiện đang đứng trước ngưỡng cửa tự do, chẳng lẽ chúng tôi lại bị tự do chối bỏ sao? Chúng tôi tin tưởng vào các nước tự do vì họ đặt nền tảng trên căn bản” Tự do và nhân ái”. Chúng tôi tin tưởng vào cộng đồng người Việt của chúng ta, những người may mắn đang hưởng không khí tự do ở các nước phương Tây, sẽ nghe tiếng kêu cứu của chúng tôi, những con người đang hấp hối trong chiến tranh, dọc theo biên giới tối tăm này và đang chờ đợi vòng tay tự do ấp ủ.


Tiếng đạn pháo vẫn nghe rõ mồn một và nắng vẫn gay gắt hơn bao giờ hết.


Tái bút: Tính đến nay, trong khoảng 4,473 người tị nạn ở đây, chỉ có hơn hai ngàn người đã được các nước sơ vấn vào tháng 12 năm 1984. Riêng những người bất hạnh ở trên hai năm thì bị sót tên rất nhiều, đến hơn một nửa tổng số.“


Lâm Quản Nhân, 9/1/1985








"Ngay từ những tiếng pháo đầu tiên, khu vực Site I dành cho dân Miên đã di tản vào Site II, còn chúng tôi chạy theo dân Miên ở Site A hướng về Site II. Đến nửa đường, lính Thái bảo chúng tôi dừng lại ngủ qua đêm ở đó.


Gần sáng ai cũng hy vọng Cộng quân đã ngưng đánh. Một số người trở về Site A để lấy đồ đạc. Bất ngờ, Cộng sản dùng ”Pháo bầy” bủa xuống hướng Dongrek cũ. Dân tị nạn tốc cả đồ đạc, bỏ gạo, bỏ hành lý để chạy lấy thân. Có người lạc cả vợ con."













Bài Viết Của Ông Lê Văn Hưng




Ông Lê Văn Hưng: một người tị nạn đường bộ ở các trại Non Chan, Non Samet, Dongrek và Site II.






Lời nói đầu: Anh Lê văn Hưng là em ruột của ông Lê Bá B. Theo lời kể của ông B. thì Lê văn Hưng trước là sinh viên đại học Văn khoa ban Anh văn, năm thứ hai. Sau năm 1975, khi Việt Nam đổi chủ, anh Hưng học hỏi và nghiên cứu về Thiền (Yoga) và Thông Thiên học.






Sau đó, anh Hưng bị bắt và bị nhốt chung với những người bị tù về tội vượt biên ở tại Vũng Tàu. Gia đình Hưng phải lo lót mất năm ngàn đồng Việt để anh được trả tự do. Khi ông B. đi, ông có rủ Hưng đi chung nhưng Hưng không dám đi.






Cuối cùng vì phải trốn tránh và tù tội nhiều nên Hưng mới vượt biên bằng đường bộ sau ông B. Anh Lê văn Hưng đến trại Non Chan ngày 24 tháng 9, năm 1982 và bị nhốt ở trại tù Non Chan. Được ít lâu thì bộ đội Việt nam tổ chức một trận đánh đại quy mô để tấn công Non Chan. Và Non Chan bị đánh tan tành.






Nhân đó, Hưng và các bạn đồng cảnh ngộ phải phá trại tù để chạy bừa đi, nếu không sẽ bị bắn hay bị Việt cộng giải về các nhà tù ở Việt nam. Hưng chạy bừa qua vùng Ancelar, cách đó vài cây số. Sau đó, Hưng được chuyển tới trại Non Samet, ở sát trại NW 82, nhưng lúc ấy trại đã được giải tán rồi.






Sau đó, trại Non Samet bị giải tán và tất cả dân tị nạn ở đây đều bị đẩy lùi vào sâu trong đất Cambodia thêm ba cây số. Tên của trại mới này là Phnom Dangrek or Dongrek.






Ở nơi đây cũng có sự hiện diện của hội HTTQT. Dân tị nạn Việt và Miên bị chở đến trại mới này bằng xe GMC. Có một số người chống cự thì bị lính Thái đánh đập. Còn những người mưu toan trốn đi thì bị bắn chết. Lính Thái còn dọa là sẽ trả họ về biên giới Việt nam. Đó là một điều đáng sợ vì họ có thể chết dưới lằn đạn ở vùng biên giới.






Hiện nay, sau năm năm trời sống triền miên trong đau khổ và tủi cực, anh Lê văn Hưng đã định cư ở Orange County, California vào năm 1987. Anh có sưu tầm rất nhiều hình ảnh và tài liệu về các trại tị nạn mà anh đã sống qua. Anh Hưng đã cho phép Kim Hà sử dụng các bài viết của anh và hình ảnh để giúp cho tập hồi ký chung của người tị nạn được phong phú và đa dạng hơn.






Ngoài ra, Ông Lê bá B. đã cho phép Kim Hà đăng lá thư kể lại chuyến vượt biên nguy hiểm của anh Lê văn Hưng, do chính anh Hưng viết gửi cho gia đình. Anh Hưng viết dưới dạng kể chuyện về một người tên Lê.














Cuộc Hành Trình Gian Khổ






Non Samet ngày 28, tháng 7, 1983.






Khởi hành từ Sàigòn vào sáng sớm, Lê đáp xe đò tại xa cảng miền Tây để đi Châu Đốc. Xế chiều thì đến nơi. Đoạn đường đi cũng khá vất vả: nhiều ổ gà và nắng nôi... Trọ một đêm tại nhà một người quen của người dẫn đường. Chiều hôm sau đi đò ngang qua Tân Châu rồi đi xe lôi đến bến đò Tân Châu.






Từ đây, đò nhỏ sẽ đưa khách ra đò máy neo giữa sông. Đến gần đêm đò mở máy đi về hướng Nam Vang sau khi chất đầy hàng hóa. Đò đã vượt nhiều trạm xét để tránh né sự kiểm soát nguy hiểm. Lê chỉ biết là mình đã vào lãnh thổ Miên khi nghe người lính xuống xét đò nói bằng tiếng Miên trong đêm tối.






Khoảng 10:00 giờ sáng hôm sau thì đò tiến vào địa phận Nam Vang. Từ xa đã thấy mái ngói đỏ của Thành ông vua, tức là dinh của Hoàng tử Sihanouk xưa kia. Trong suốt cuộc hành trình trên sông, Lê phải vấn khăn mà người Miên gọi là Kroma hay kàma để che mặt và nằm co quắp lại cho giống một đứa trẻ hầu cho công an chìm không nhận diện được.






Bốn người dẫn đường và Lê đi xe lôi qua cầu Sàigòn, tên một cầu lớn ở Nam Vang, về ở nhà một người quen của các người dẫn đường khoảng năm ngày để chờ đường xá êm và chờ có xe để đi Battambang. Đường đi Battambang cũng hư nát nhiều chỗ, nên xe chạy bị xóc, đi hết một ngày tròn mới đến nơi.






Tại bến xe, bọn Công an chìm của Miên đầy rẫy nên rất dễ bị bắt. Phải lên xe, xuống xe, nói chung là phải hành động thật ăn khớp với dấu hiệu của người dẫn đường. Tiếng Việt trong lúc ấy thật nguy hiểm, khi tối cần thiết mới dùng đến mà phải nói thật nhỏ, thật kín đáo. Còn tất cả phương tiện thông tin là ánh mắt và dấu hiệu bằng tay. Cứ như là một phim trinh thám.






Xuống khỏi xe đò, len lỏi trong đám đông rồi phóng lên một xe lôi thật nhanh, đi về nhà một người quen của các người dẫn đường. Chờ đến tối mới về nhà của họ ở sâu trong rẫy.






Trong khi chờ đợi, Lê xin chủ nhà đi tắm cấp tốc để tẩy đi cả kí lô đất bụi và mồ hôi bám trên người. Tối đến, mẹ của người dẫn đường, độ 70 tuổi, ra dẫn Lê về nhà họ. Vì đường đi mất an ninh, Lê phải ở đó cả nửa tháng. Thật bực bội! Ăn rồi phải bó chân trong một căn buồng cỡ ba thước vuông trên nhà sàn cất theo lối người Miên. Khi muốn tắm và đại tiện thì phải chờ đến tối mới được xuống nhà sàn và ra ngoài, nhưng phải thật lẹ!






Đến ngày đi, cả nhà thức dậy sớm, lo hóa trang cho Lê bằng cách bôi lọ nồi lên mặt cho đen bớt, rồi họ chỉ cho Lê cách vấn khăn cho đúng và cách xức bùa. Xong Lê lội ruộng ra bến xe Battambang cùng với bà cụ 70 tuổi và hai người cháu của bà.






Cuộc mạo hiểm đến giai đoạn này gay go hơn trước. Thường thì người tị nạn bị bắt ở đây. Đi xe đò từ Battambang đến Swai, Sisophon. Tới bến xe Swai, đi xe ngựa, vào một con đường núi, có nhà dân rải rác hai bên đường.






Theo chương trình, bọn người dẫn Lê có hẹn với một người đánh xe bò khác tại khúc đường rầy, nên cả bọn vào một quán nước nhỏ bên lề đường để chơ đợi. Người dân chung quanh nhìn Lê một cách tò mò, soi mói đến rợn tóc gáy! Thật không ổn, người cháu trai bèn dẫn Lê vào một bụi rậm trong ruộng, bảo ngồi nấp ở đó, chờ y trở lại. Nếu y muốn bỏ rơi Lê lúc đó thì thật dễ như trở bàn tay!






Ngồi đó khá lâu mà không thấy y trở lại, Lê bắt đầu lo. Bất chợt một người đàn ông từ xa rẽ bụi rậm tiến ngay lại nơi Lê nấp. Y bảo Lê đứng dậy và theo y. Thế là xong! chắc về Chí Hòa quá(Chí Hòa là nhà tù ở Sàigòn, Việt Nam). Nhưng về đến nhà, y bảo Lê nằm trên bộ ván ngựa và ngủ đi. Còn y sẽ đi canh bắt người dẫn đường và giao họ cho công an vì những người này, theo y, đã bỏ rơi Lê. Đứa con gái của y, trông cũng dễ thương và nhí nhảnh, nhưng khá lễ phép, cười trấn an Lê và ra dấu bảo không sao đâu.






Khoảng một tiếng sau, người đàn ông ấy dẫn các người dẫn đường về. Hai bên bàn bạc với nhau bằng tiếng Miên. Người đàn ông ấy là người Chàm, ông ta bằng lòng che dấu Lê, chờ đến tối Lê sẽ lên đường.






Theo sự thỏa thuận từ trước, Lê chỉ đưa tín hiệu về khi nào tới trại và chụp hình gửi về kèm với tín hiệu để gia đình Lê đưa tiền. Nhưng tới đây, người cháu trai của bà cụ 70 tuổi phân trần, nài nỉ Lê viết tín hiệu, và nói lần trước gia đình người anh của Lê cũng đưa tín hiệu tại một làng Miên chứ chưa tới trại tị nạn. Quan trọng là tin tưởng nhau và uy tín của lần trước đủ để bảo đảm cho lần này. Sau khi cân nhắc lợi hại và kèm theo một chút liều, Lê đành viết tín hiệu.






Người cháu trai ấy bảo Lê sẽ đi theo hai người Khmer khác, còn y sẽ đạp xe đạp theo một đường khác công khai, vì y biết tiếng Miên. Y nói là vào sáng hôm sau, Lê sẽ vào trại người Miên ở một ngày, hôm sau y sẽ thuê người dẫn Lê đến trại người Việt. Tại đó, Lê sẽ được phát quần áo, bàn chải đánh răng và khăn.






Đến tối, trời mưa lất phất, Lê theo hai người thanh niên Khmer khác lần mò xuống ruộng nước. Khi thì Lê phải bương theo đám cỏ gai và cây mắc cở. Chân tay bị đâm nát bấy, có lúc phải bị dính lùng bùng trong ấy rất lâu mới gỡ ra được. Khi thì Lê phải lội qua nơi nước sâu qúa đầu, Lê lại không biết bơi, phải bám vào một cái thùng bằng nhựa để cố gắng bám theo hai người Khmer ấy.






Trong đoạn đường lội nước đó, Lê uống nước sình khá nhiều và bị đỉa đeo cũng dữ. Lê không quen đi trên bờ ruộng trơn trợt. Hơn nữa, đêm tối đen như mực, tay giơ lên không thấy, nên Lê té lên té xuống nơi ruộng sình lầy hàng trăm lần. Hai ống quyển bị va vào các ụ mối nhỏ trên bờ ruộng đau đến tê tái.






Có lúc Lê phải lội qua những cánh đồng cỏ ngập nước, cỏ ba khía bén như dao cạo đã cứa nát các kẽ ngón chân. Các bắp thịt ở háng và hông đã rã rời, không còn tính dẻo dai nữa, cho nên cử động rất khó khăn. Có lúc Lê phải đi ngang như cua, có lúc đi giống một người què, có lúc không cất nổi chân lên một độ cao chỉ mười phân. Lê bị vướng vào cỏ, té nhào xuống, không muốn ngồi dậy nữa.






Chàng cứ thế mà nằm dụi xuống dưới lớp bùn, nếu không có sự thúc hối của hai tên dẫn đường. Bộ não không còn làm việc, chỉ còn một ý tưởng duy nhất trong đầu là: ”Gắng đi tới!”






Đêm thì mù mịt, không biết bao giờ mới sáng. Nhưng không hiểu lúc ấy Lê mong sáng để làm gì? Vấn đề không phải là sáng hay tối, mà là chấm hết con đường. Trong khi ruộng nước bao la, đi hoài không thấy hết. Xỉu lên xỉu xuống cả trăm lần, hai tên dẫn đường có khi phải xốc nách Lê mà lôi đi.






Sức đã kiệt! Nhiều lúc trên đường đi, Lê không dám nghĩ rằng mình có thể vượt qua sự thử thách kinh khủng này, rằng mình có thể đi hết con đường tị nạn. Hai tên dẫn đường đi rất nhanh, cứ bỏ xa Lê hàng chục thước trong đêm tối. Lâu lâu, Lê phải ngồi thụp xuống, căng mắt ra để cố phân biệt hai bóng đen mờ, nhấp nhô của hai tên dẫn đường với các bóng cây in trên nền trời mờ mờ xám.






Quan sát thái độ ấy của hai tên Khmer, một ý nghĩ đến với Lê lần thứ hai làm tim chàng co thắt lại:






”Cứ cái đà này thì chúng sẽ bỏ rơi mình!”






Đang đi thì có hai tiếng pháo kích lớn, đạn bay qua đầu gần đó. Đến gần sáng, hai tên Khmer đi nhanh hơn, càng lúc càng xa, Lê không dò theo chúng được. Ý nghĩ bị bỏ rơi càng đậm nét trong đầu, Lê cố gắng ho và lắng giọng, rồi giẫm chân mạnh xuống để tạo tiếng động, hy vọng không phải hai tên ấy muốn bỏ rơi, mà là chỉ đi lạc, sẽ nghe theo tiếng động ấy mà đứng lại đợi chàng.





Nhưng chúng đã đi luôn. Lê không thể tả nổi sự kinh hoàng và tuyệt vọng mà Lê có lúc ấy! Đứng giữa trời đêm đó, Lê lớn tiếng cầu nguyện và nghiến răng chờ trời sáng. Chàng tin rằng Thượng Đế sẽ chỉ cho Lê một con đường đúng.




Đến sáng, Lê càng bàng hoàng khi thấy quanh mình chỉ toàn là ruộng nước mênh mông. Ruộng nước chạy mãi đến chân trời, không có lấy một mái nhà. Nhưng không thể đứng đó chờ chết được! Lê đi đại về một phiá, lạc vào một rừng thông xơ xác. Lê quay lại và đi theo một hướng khác, rồi nhiều hướng khác nữa.




Chợt thấy từ xa có mấy người nông dân Miên vác cuốc đi lại, đồng thời có tiếng máy phóng thanh. Chắc chắn gần đây có dân ở, có ”phum”, tiếng Miên dùng để chỉ làng. Những người Miên ngoắc Lê lại và ra dấu hỏi, vì nhìn mặt chàng là họ dư biết chàng là ”Dzun”, tiếng Miên dùng để chỉ người Việt một cách khinh bỉ.


Sau đó, họ bảo chàng với hảo ý rằng hãy lấy khăn quấn lên đầu và che mặt, tay áo buông xuống để che nước da trắng hầu khỏi bị du kích Miên bắt và họ chỉ hướng để chàng đi vào ”phum” của họ. Tại đó, Lê vào nấp trong một căn nhà của một bà cụ Miên. Bà đã cho chàng ăn cơm.


Chàng đã tận dụng khả năng Miên ngữ cũng như khả năng thông tin bằng tay chân, giống như một người câm để thuyết phục các người dân ở đó dẫn chàng đi tiếp tới trại Non Chan. Họ hỏi Lê có nhẫn vàng không, Lê bảo không. Thế là họ cười xòa và lắc đầu. Mặc dù Lê có dấu trong lưng quần, nhưng không dám đưa ra vì sợ họ giết và cướp.


Thất bại trong việc thuyết phục, Chàng bảo họ đưa chàng ra đầu thú tại đồn công an địa phương, họ bảo đừng làm như thế. Ở lại cũng chết, đi cũng chết. Thôi thì cứ tận nhân lực. Lê quyết định đi về phía lùm cây mà đàng xa có tiếng máy phóng thanh. Càng tới gần, chàng càng có hy vọng nhiều hơn.


Chàng thấy có những đám đen nhỏ di chuyển một cách trơn tru trên một đường chỉ. Có lẽ đó là những chiếc xe đạp chạy trên đường. Cứ thế, Lê đi tới và cố tránh chạm mặt với dân địa phương trên đường đi. Tới nơi, Lê thấy có nhiều người, vừa đi bộ, vừa đi bằng xe đạp, mang theo nhiều bao hàng hóa đi về cùng một hướng.


Sau này chàng mới biết đó là dân buôn lậu từ Thái về đất Miên. Chàng bặp bẹ mấy tiếng Miên để hỏi đường về Battambang. Sau khi tính toán nát óc, chàng thấy đây là con đường duy nhất khả dĩ cứu được mạng sống của mình.


Không biết tiếng Miên, không biết đường, không có tiền, bụng đói và khát, nước da khác hẳn với nước da của dân địa phương. Chung quanh đường độc đạo dẫn về Battambang không có hàng quán hoặc nhà cửa. Cứ thế, chàng cứ lê từng bước nặng nề đi.


Tới khi sắp ngất đi vì mệt và đói, Lê xuống bờ ruộng dọc theo đường để uống đầy một bụng nước ruộng mà lấy sức đi tiếp. Nhưng chàng quên rằng càng uống no thì lại càng không thể đi xa được. Trên đường đi có nhiều đoạn bị nước xoi đứt cả hai hay ba thước, bộ hành phải lội qua.


Bầu trời chiều thật xanh, nhưng sao nó cứ chạy giật lùi ra xa, có lẽ tại mắt mình hoa rồi, chàng nhủ thầm. Dân buôn đi qua mặt, quay lại nhìn và xầm xì với nhau:”Dzun”. Có một người đi xe đạp, cột một nải chuối be bé, từ trước mặt chạy tới, Lê chận lại xin mua một riel (tiền Miên do một dân buôn trên đường cho), y đưa cho Lê hai trái. Ăn xong, Lê còn thấy đói hơn lúc chưa ăn.


Lạ thật! Đầu óc đang suy nghĩ cách tìm thức ăn để có thể đi tiếp, nếu không có lẽ sẽ chết trên đường vắng nầy đêm nay, thì thấy một người lính Việt Nam vượt qua mặt...( bỏ một đoạn)...


... Do một sự việc, Lê mất chiếc nhẫn dấu trong quần, nhưng lại có 40 riels. Đêm đó, Lê được ngủ trên giường đàng hoàng, có hai dĩa cơm, canh cá và hai ly rượu đế, có cả bánh ngọt và kẹo để ăn nữa!


Sáng sớm hôm sau, Lê đáp xe ngựa từ chỗ ấy, Sla Cahom tức là Trường đỏ, để ra bến xe Swai Sisophon, qua nhiều trạm gác mà người Miên gọi là Controle, một cách an toàn. Đúng thật là trời cứu.


Tới nơi, Lê lại dùng tiếng Miên mà chàng mới học hôm sáng từ một người... để hỏi tài xế xe đò, và trả giá về Battambang, nhưng xui là hôm ấy, không có một xe nào về Battambang cả. Thêm một rắc rối.


Lê quay sang một tài xế xe Honda ôm. Y đồng ý đi về Battambang với giá 30 riels. Lê chỉ còn 30 riels chót. Mười riels đã trả cho xe thổ mộ ban sáng rồi. Đường ngược về Battambang rất an toàn và ít xét hỏi. Người ta chỉ xét những người từ Battambang về Swai mà thôi, vì đó là đường ra biên giới để vượt biên.


May mắn thế nào, người tài xế xe Honda bỏ Lê xuống ngay nơi bến xe Battambang, gần ngõ dẫn vào dãy nhà của người dẫn đường, đúng như kế hoạch thoát hiểm của Lê dự định trong đầu. Chàng lội tới, lội lui hàng chục lần dưới trời nắng chói chang để tìm nhà, nhưng không thấy.


Đường rất lầy lội. Quần áo của Lê lấm lem. Dân hai bên đường chú ý. Da mặt chàng cháy đỏ vì chói nắng. Khi đi từ nhà người dẫn đường ra bến xe trong đêm tối hôm ấy, Lê có để ý quan sát một số chi tiết quan trọng của con đường, bây giờ vẫn còn nhớ. Thú thật, đêm hôm ấy, Lê chớm có ý nghĩ về trường hợp phải đi tìm lại nhà người dẫn, nếu bị bỏ rơi.


Đúng là con đường này, mà sao không thấy căn nhà ấy đâu cả? Lê đánh bạo ngoắc một xe thồ chỉ đường đến nhà người quen của người dẫn đường đã cho Lê tắm hôm mới đến, mặc dù túi không có tiền. Lê tìm mãi không ra vì lộn đường. Nguy quá, Lê chỉ đại một con đường khác, may sao lần này tìm thấy.


Lê xuống xe vào nhà xin tiền. Năm riels để trả tiền xe. Sau đó, chàng nhờ nhà này dẫn về nhà của người dẫn đường . Tìm một vòng cũng không thấy, Lê quay lại nhà quen ấy thì bị họ la lên một cách bực bội vì căn nhà đối diện là nơi công an hay tụ tập.


Lê vội chạy ra và đi tìm một mình. Khi chàng đi lang thang trong xóm, có một số người dân tốt bụng đã cho chàng bánh tét và nước uống. Ăn xong, Lê đi tìm tiếp và đã tìm được. Sự vui mừng lớn biết chừng nào!


Cả gia đình của người dẫn đường có mặt đầy đủ. Họ tròn mắt ngạc nhiên, vì tưởng rằng Lê đã đi mất đất rồi. Hai hôm sau, họ thuyết phục Lê lên đường tiếp. Lần này sẽ có hai người trong gia đình đi kèm với chàng để tránh trường hợp bị bỏ rơi.


Cả người chàng đau nhức như dần, nhưng phải chấp nhận lên đường. Lại đáp xe đò đi Swai để vào đường núi chờ tối rồi xuống ruộng nước lội suốt đêm. Chàng chịu đựng giống y như lần trước: ngất xỉu nhiều lần, gai và cỏ cắt đứt chân tay. Những con đỉa trâu to có bề ngang to bằng ba ngón tay, bám vào thân người hút máu, đến sau này còn để lại nhiều vết sẹo, rồi lại bị muỗi rừng châm chích.


Gần sáng, cả bọn tới ”phum” Sang. Sức của Lê thật sự kiệt rồi. Không cách gì cất bước nổi. Họ dấu Lê trong một gò mối giữa ruộng nước cao độ một thước, rộng độ ba thước vuông trong một ngày trời.


Tại đây, Lê suýt bị lộ, một người dân Miên đi đốn cây, cứ đốn quanh quẩn ở gò mối. Có lần y leo lên cả lên gò, nhưng khi không thấy chàng nên hắn bỏ đi. Đến tối, người dẫn đường thuê hai thanh niên khác dẫn Lê đi tiếp và bảo đảm với Lê là không có chuyện bỏ rơi nữa đâu.


Cuộc hành trình tiếp tục, Lê cố gắng đi tới ”phum” Roun thì không thể tiếp tục được nữa. Họ dấu Lê trong nhà một ngày để chàng dưỡng sức. Đến tối, họ chở Lê đi bằng xe bò (tiếng Miên gọi là Rơ-te-ku) đến thẳng trại tị nạn Non Chan rồi tài xế xe bò đi về tự nhiên.


Tới nơi, chàng bị tù sáu tháng thật cực khổ. Chỉ tới đây mới thấy các lời quảng cáo đều láo khoét cả: nào là trại tị nạn Việt Nam, trại tị nạn Miên, dò danh sách, bàn chải đánh răng, quần áo... Không có kẻ nào dám vào Non Chan để dò danh sách cả, vào là bị còng đầu ngay.


Ở đây chỉ có đói lạnh, hãm hiếp, đánh đập và lao động. Nếu không có vụ chạy khỏi Non Chan thì có lẽ suốt đời Lê không thấy ánh sáng văn minh. Lê đã cám ơn Thượng Đế đã cho Lê sống lại.


Ở Non Chan, hội HTTQT, mà dân ở đó thường gọi là Pờ-Răng (France, Pháp), không có thực quyền gì cả. Cho nên việc can thiệp và trao đổi với nhà cầm quyền ở đó để lấy người tị nạn ra rất là khó khăn. Đến bây giờ thì kể như không hy vọng. Cho nên người Việt Nam không nên đi nữa. Đi là chết. Người Thái cũng không muốn sự có mặt của người tị nạn Việt nam trên đất nước họ. Chúng ta chỉ là gánh nặng cho họ thôi.


Đến bây giờ, con đường này vẫn còn nhiều phức tạp. Lê vẫn phải ở trại tị nạn trong một thời gian vô hạn định, chưa biết bao giờ được giải quyết. Anh của Lê trước kia phải ở trong một kỷ luật sắt thật sự, hơn cả kỷ luật nhà binh rồi mới được đi.


Còn Lê, gần một năm rồi, chàng hết ở khu rừng này tới khu rừng khác, mùa khô thiếu cả nước uống. Không biết bao giờ chàng mới tìm thấy an bình, cả đời sống bên ngoài lẫn đời sống nội tâm.




Hành Lang Tự Do Về Đâu? Trại Site II


Sau đây là một trong các lá thư mà anh Lê văn Hưng viết về một trong những trại mà anh đã sống.





Thư đề ngày 17 tháng 3, năm 1985.




“Ở vùng biên giới Thái và Miên này, hai tiếng ”mùa khô” dù được nói lên bằng một giọng dịu dàng và nhẹ nhàng thế mấy cũng vẫn mang một âm hưởng đe dọa, một âm hưởng có khả năng tạo kinh hoàng cho dân tị nạn Việt Miên.




Mùa khô năm 1983, tôi đứng bên bờ đập O Bychon, dưới mây trời nắng lóa. Toàn vùng chỉ là một cánh đồng cỏ tranh bị đốt cháy đến tận gốc. Dân tị nạn ngơ ngác đứng chờ đợi cơn pháo kế tiếp đuổi theo từ sau lưng.


Bên này là khốn khổ, là chết chóc, còn bên kia là tự do, là an bình. Hai bên chỉ cách nhau có một bờ đất cao một thước. Tôi và đồng bào tôi ở bên này đứng ngóng cổ nhìn sang bên kia với những đôi mắt thèm khát. Ôi những tàn cau lung lay trước gió, những tàu dừa lả ngọn, những thôn xóm ẩn hiện sau lũy tre kia. Chúng tôi đã tìm thấy ở đó hình ảnh quê hương thanh bình thuở trước.


Mùa khô năm 1984, tại Non Samet, chúng tôi lo âu lắng nghe tiếng ”depart” của Việt cộng và nhìn theo những lằn đạn pháo bay qua đầu, rơi vào đất Thái. Chúng tôi, những người làm ở phòng y tế (Việt Nam Outpatient Department) lo di tản những người bệnh nặng và tàn tật đi trước, vì ARC (American Red Cross?) được biết Việt cộng đã dàn xe tăng chuẩn bị tấn công lớn vào chỗ dân tị nạn Việt Miên.


Chúng tôi thức hầu như suốt đêm trong đợt tấn công mùa khô 1984. Sự ồn ào cũng như sự yên tĩnh làm chúng tôi lo sợ và bực bội trong tình huống ấy.


Hạnh phúc đối với tôi bây giờ thật là đơn giản và nhỏ nhoi. Tôi không mơ đi định cư. Tôi cũng không mơ những tiện nghi vật chất. Tôi đang chờ hứng đủ một xô nước để dội mạnh đi những mồ hôi và đất cát đã bám trên cơ thể sau một ngày và một đêm chạy giặc từ Dongrek Platform (Site A) rồi sau đó nằm dài trên mặt đất ngủ để lấy lại sức.


Dưới ánh nắng gay gắt của buổi chiều, dân tị nạn Việt lẫn Miên bu đen nghẹt quanh những bồn nước của UNBRO. Suốt một ngày và một đêm, chúng tôi không có một hạt cơm hay một giọt nước để uống.


Những đôi mắt héo hắt nhìn một cách vô-cảm-ứng về những diễn biến chung quanh vì quá mệt mỏi. Chúng tôi đi lấy nước vì thấy mọi người lũ lượt đi, và vì một ý thức mờ mờ chứ không rõ ràng, rằng đi lấy nước cốt để làm việc này hay việc kia.


Ngay từ những tiếng pháo đầu tiên, khu vực Site I dành cho dân Miên đã di tản vào Site II, còn chúng tôi chạy theo dân Miên ở Site A hướng về Site II. Đến nửa đường, lính Thái bảo chúng tôi dừng lại ngủ qua đêm ở đó.


Gần sáng ai cũng hy vọng Cộng quân đã ngưng đánh. Một số người trở về Site A để lấy đồ đạc. Bất ngờ, Cộng sản dùng ”Pháo bầy” bủa xuống hướng Dongrek cũ. Dân tị nạn tốc cả đồ đạc, bỏ gạo, bỏ hành lý để chạy lấy thân. Có người lạc cả vợ con.


Tiếng pháo lúc gần, lúc xa, kéo dài đến khoảng trưa. Dân tị nạn đã tiến về tới Site II. Xế chiều, chúng tôi lo ổn định lều ở tạm. Vài ngày sau, ban đại diện phân lô và sắp xếp lều thành đường lối.


Mặc dù thỉnh thoảng vẫn còn nghe tiếng súng và có nhiều tin đồn không lành rằng Việt Cộng sẽ đánh vào Site II để lùa dân về đất Cambodia, chính quyền Thái vẫn cho rào trại Việt và Miên lại một cách quy mô bằng trụ xi măng và kẽm gai. Một hình thức trại tù theo khuôn mẫu NW 82 chăng?


Nhiều lần tôi hỏi các giới chức hội HTTQT về tình hình an ninh ở Site II, họ trấn an rằng:


”Đây là đất Thái rồi, anh cứ yên tâm!”


Nhưng dân Việt nam chúng ta đã có quá nhiều kinh nghiệm về Cộng sản rồi, làm sao chúng ta tin rằng Cộng sản sẽ tôn trọng lằn biên? Hằng đêm chúng tôi cứ sống trong lo sợ và phập phồng. Không biết ngày nào Site II lại phải bỏ chạy dưới lằn đạn pháo.


Đầu mùa khô năm 1985, chúng tôi cũng sống trong lo âu như thế. Dân chúng bỏ nhà, bỏ cửa lên ODP, nhà CARE, và ban đại diện để ngủ cùng với hành lý vì họ sợ rằng nếu ở quá xa ngoài bìa trại, họ sẽ khó thoát ra ngoài khi bị pháo kích.


Có lần mọi người la hét một cách kinh hoàng vì họ nghe thấy tiếng xe tăng, nhưng sau đó, lính Thái đến xác nhận đó là xe tăng của Thái. Có đêm chúng tôi bỏ chạy vào chân núi khi có tiếng pháo, vì lúc chiều có tin báo cho biết Cộng sản chuẩn bị tấn công. Vị trí của chúng chỉ cách Dongrek có hai hay ba cây số.


Nhưng chiến tranh đã không xảy ra mãi đến một buổi chiều thật yên tĩnh. Vào lúc 5 giờ chiều hôm đó, mọi người đang lo sửa soạn ăn tối, thì sau một hai tiếng ”depart”, đạn đã rơi chớp nhoáng vào Dongrek.


Trại Việt nam chỉ bị pháo xung quanh, ông già Nê đã cầm loa đốc thúc mọi người ra khỏi trại. Dân tị nạn đã theo con đường độc nhất vào đất Thái. Đến nửa đêm, Thái ra lệnh ngừng lại chờ lệnh trên. Suốt đêm ấy, hội HTTQT đã phái cô Eureka và Dr. Ian đi cứu thương ở Dongrek. Chỉ có mội ít người bị thương nhẹ về phía Việt nam. Một người Việt ra khu Miên chơi, bị trúng pháo và chết trên trại Khao Y Dang.


Về phía Khmer thì có khoảng ba mươi người chết. Đến trưa hôm sau, có một số người được đi Panatnikhom Transit Center. Họ được tập trung tại bãi đất trống trong rừng rồi đi bộ qua Site II. Ở đó, xe buýt đón họ đi Panatnikhom. Tình trạng đó đã làm những người ở lại tủi thân và xuống tinh thần.


Trước khi Dongrek mất, tôi đã gửi một lá thư để có đôi lời biết ơn các vị ân nhân đã lên tiếng nói giúp đỡ trại Dongrek, và một thư kêu cứu, báo động rằng Dongrek đang hấp hối. Bây giờ thì Dongrek đã thực sự chết, và những người ở Dongrek còn sống sót sau cơn bão lửa đang chờ đợi một phát ân huệ. Dân tị nạn đang sống trong ngắc ngoải vì chờ được định cư quá lâu, vì đau khổ ở biên giới, vì bệnh tật, vì thiếu dinh dưỡng.


Còn một nơi chốn nào để dân tôi đến hay không? Thế giới tự do hãy nói đi! Hãy cho chúng tôi biết một cách thành thật về lý tưởng, quan đểm của quý vị đi. Chúng tôi là những người yêu tự do đã từ chối Cộng sản và cũng đã bị Cộng sản từ chối, không lẽ cũng bị đồng minh mình từ chối nốt hay sao?


Tôi tin tưởng nơi thế giới tự do và nhất là người Mỹ, vì người Mỹ có liên hệ trực tiếp vào cuộc chiến Việt Nam. Người Mỹ phải có trách nhiệm đối với dân tị nạn ba nước Đông Dương. Chúng tôi ngày nay phải lãnh chịu những cơ cực thế này, một phần cũng vì chính sách buông tay của người Mỹ.


Tuy là tin tưởng vậy, nhưng không khỏi có những lúc tôi phải băn khoăn, liên tưởng đến câu nói của thủ tướng Sirik Matak của Cambodia lúc mà ông từ chối chạy trốn khỏi nước:


”Chúng tôi cầu chúc qúy vị được vui vẻ hạnh phúc. Chúng tôi chỉ phạm một lỗi, đó là lỗi quá tin tưởng nơi người Mỹ!”


Ở đây, chúng tôi cũng xin cầu chúc Mỹ quốc được hạnh phúc, bình an, để trong sự yên vui ấy, người Mỹ sẽ có đủ lòng quảng đại và quay nhìn lại một trách nhiệm mà họ đã lơ là: đó là trách nhiệm đối với dân tị nạn Đông Dương nói chung và dân tị nạn đường bộ Việt nam ở Dongrek nói riêng.


Cuối thư, tôi xin gửi đến thế giới tự do lời kêu cứu này:


-Nếu Dongrek không được giải quyết sớm, e rằng đồng bào tị nạn sẽ gánh chịu một trận chiến lùa dân, và lần này ai có thể cả quyết rằng chúng tôi sẽ may mắn hơn những lần trước? Nếu Cộng sản thành công, một thảm kịch O'Smack năm 1982 lại tái diễn như cảnh một đoàn tị nạn bị xâu thành xâu bằng giây kẽm gai, lùa xuống bunker rồi bị ném lựu đạn giết chết.


Tôi biết rằng dù việc ấy có xảy ra cũng chẳng có một tổ chức nào đụng đến lông chân của các nước tự do. Nhưng tôi nghĩ rằng LƯƠNG TÂM của các vị lãnh đạo, của từng người dân tự do, là lịch sử thế giới trong cuối thế kỷ 20 này sẽ đeo đưổi phê phán những người có trách nhiệm đến muôn niên.


Xin qúy vị cầu bình an cho đồng bào tị nạn chúng tôi tại trại Site II này!”


(Lê Văn Hưng)




LÊ BÁ B


"Sau đó, chúng dắt chúng tôi vào một trại tị nạn. Thoạt đầu, chúng tôi tưởng bở, lòng mừng rỡ vì ý nguyện đã thành tựu. Trại tị nạn đây rồi! Ôi ba chữ ” Trại tị nạn” sao nghe vui tai và hay ho đến thế. Nhưng hỡi ôi! khi đến nơi mà gọi là trại tị nạn thì đó chỉ là một nhà tù nhỏ làm bằng tranh, chung quanh đóng cột gỗ và có hàng rào đầy thép gai."





















Hồi Ký Của Ông Lê Bá B., Một Người Tị Nạn Đường Bộ











Ông Lê Bá B.đã cùng với gia đình đi trốn bằng đường bộ. Họ đã trải qua hơn mười sáu tháng trời sống trong tủi cực và đau khổ tại các trại tù của bọn lính Para, người Khmer. Gia đình ông đã ở trại tù ở vùng Non Chan, rồi trại Non Samet, trại NW 82 và trại Panatnikhom Transit Center ở đất Thái Lan.











Cuối cùng, gia đình ông được chuyển sang trại Bataan ở nước Phi luật Tân. Gia đình ông Lê Bá B. đến định cư tại Orange County, California vào ngày 22 tháng 8, năm 1983.











Ông Lê Bá B. đã tha thiết kêu gọi đồng bào ở hải ngoại hãy kêu cứu và giúp đỡ cho những đồng bào Việt nam còn kẹt lại và sống khắc khoải tại các trại tị nạn. Ông đã dành thì giờ cho chúng tôi phỏng vấn và cho phép chúng tôi xuất bản câu chuyện của ông sau này.











Sau đây là phần kể chuyện của ông Lê Bá B.:















CUỘC HÀNH TRÌNH VƯỢT BIÊN ĐẦY GIAN KHỔ











Sau rất nhiều lần mưu tính vượt biên bằng đường thủy bị thất bại, chúng tôi đành quyết định đi vượt biên bằng đường bộ để tìm đến Thái lan.











Sau khi tìm được mối xong, chúng tôi thỏa thuận giá cả. Cuối cùng, chúng tôi phải đóng mỗi đầu người hai cây (lượng) vàng cho người dẫn đường. Ba người là sáu cây. Chúng tôi phải trả trước một nửa số vàng là ba cây. Nếu đến trại tị nạn thành công thì chúng tôi sẽ viết mật hiệu về nhà ở Sàigòn thì người nhà của tôi sẽ trả đủ số vàng cho người dẫn đường.











Ngày khởi hành: Ngày 6, tháng 4, năm 1982.











Khởi đầu, chúng tôi từ Sàigòn đến xa cảng miền Tây để đi về Châu Đốc. Từ Châu Đốc, chúng tôi theo người dẫn đường lên tàu gỗ rồi ngược giòng sông Mêkông để đến Nam Vang (Phnom Penh). Có lẽ nhờ sự hoá trang khéo và nhờ ơn trên che chở nên trên đoạn đường từ Châu Đốc đến Nam Vang, chúng tôi không bị trở ngại gì cả, dù có rất nhiều trạm kiểm soát của Cộng sản Việt và Khmer ở dọc giòng sông.











Khi đến Nam Vang, chúng tôi ở lại nhà người dẫn đường trong khoảng một tuần lễ để họ dò đường kỹ rồi mới dẫn chúng tôi đi tiếp. Ngày khởi hành, chị họ tôi và cháu nhỏ thì đi xe đò, còn tôi được người dẫn đường dẫn đi bằng xe lửa lên thành phố Battambang để tránh sự kiểm soát và dòm ngó.











Khi chúng tôi vừa đến ga xe lửa ở Nam Vang thì bị một tên Miên mặc thường phục nhận ra tôi không phải là người Miên nên hắn chận tôi lại để làm khó dễ. Hắn hỏi tôi bằng một tràng tiếng Miên, thế là lộ ngay. ”Thừa nước đục thả câu,” hắn bắt bí tôi rồi vặn hỏi tôi xem ai là người dẫn đường cho tôi đi. Buộc lòng, tôi phải chỉ người dẫn đường ra. Thế là anh chàng dẫn đường plhải dắt hắn qua toa xe lửa gần đó để hối lộ cho hắn. Vì thế hắn làm ngơ cho chúng tôi đi.











Sau đó, hai chúng tôi ngồi ở toa chở hàng sát đầu máy xe lửa. Toa này không có mui và được chất đầy hàng hóa. Trong chuyến đi ấy, tôi thấy rất nhiều bộ đội Việt Nam nên tôi phải trùm khăn để che mặt cho khỏi lộ diện. Nhưng nếu ai chịu khó chú ý kỹ sẽ thấy rõ sự khác biệt giữa người Việt và người Miên từ nét mặt, màu da đến bàn tay và bàn chân.











Ở trên xe lửa, mỗi lần ghé trạm ga dọc đường, tôi đều được người dẫn đường dắt đi ăn uống một cách vội vã. Lần đầu tiên ăn đồ ăn Miên, ngửi mùi đồ ăn tanh quá nên tôi ăn không nổi. Nhưng khi nghĩ ra là mình phải ăn nhiều cho có sức chịu đựng gian khổ nên tôi cố gắng ăn và nuốt trộng cho đầy cái bao tử.











Ăn xong, thấy chậu nước dơ, có mẻ dừa múc nước đã đóng rêu xanh, tôi ngần ngại không dám uống. Nhưng dần dần, thấy mọi người múc nước đó uống lấy uống để, nên tôi cũng uống đại.











Khi ăn xong, chúng tôi lại leo lên xe lửa, quanh tôi có bộ đội Việt Nam rất nhiều. Vừa leo lên toa xe lửa, thì tôi bị một tên người Miên biết tiếng Việt lõm bõm chận lại. Hắn trừng mắt nhìn tôi và hỏi vặn tôi bằng tiếng Việt:











-Việt Nam hả, đi đâu? Đi Thái Lan hả?











Tôi hoảng quá, kiếm cách chống chế:











-Tôi đi với người anh em bạn lên Battambang chơi.











Hắn không tin nên hỏi tiếp:











-Không phải đâu! Đi Thái Lan, đi Mỹ mà!











Thế là cả đám người ngồi trong toa xe nhốn nháo đứng lên rồi dáo dác nhìn tôi. Tôi sợ quá vì một bọn đồng bọn với hắn bu đến. ”Không khá rồi!” Nhanh trí, tên dẫn đường nói ngay một tràng tiếng Miên rồi móc túi, lấy ra một gói thuốc lá hiệu Samit để mời bốn năm người ấy và các người khác trong toa cùng hút.











Thật là lạ, vừa hút xong có hai hơi thuốc, cả bọn tản mạn đi hết. Còn những người khác ngồi trong toa cũng im lặng hẳn đi, chẳng còn đếm xiả gì đến tôi nữa. Sau này, hỏi chuyện kỹ ra, tôi mới biết là tên dẫn đường này đã dùng gói thuốc lá có trộn bùa ngải để sai khiến bọn người kia.











Trông thấy tận mắt, tôi mới thấy bùa ngãi của người Miên linh thật. Trọn một ngày, chúng tôi ngồi chịu trận dưới cơn nắng. Mãi đến 4:00 giờ chiều thì tới trạm ga Pursat, một tỉnh lớn nằm giữa đoạn đường từ Nam Vang đi Battambang.











Khi đến Pursat, người dẫn đường vội vàng dắt tôi vào một nhà người Miên ở gần ga xe lửa để dấu tôi nằm ở đấy. Trên đường đi từ ga đến chỗ tạm trú, tôi thấy rất nhiều người Việt vượt biên bị bộ đội Việt Cộng bắt. Họ đứng quây quần thành một đám đông. Theo sự quan sát và kinh nghiệm của người tị nạn thì có thể nói đến tám mươi phần trăm (80%) người Việt đi vượt biên bị bắt giữ tại ga Pursat này.











Nói chung, có rất nhiều người vì bị người dẫn đường bỏ rơi tại đây nên họ đứng xớ rớ, không biết phải làm sao, “Tiến thoái lưỡng nan.” Thế là sớm hay muộn, họ cũng bị bộ đội Việt cộng bắt được để giải về lại Việt nam rồi vào tù. Thấy họ khóc lóc và sầu khổ bi thương, tôi không ngăn được giòng lệ rơi. Thương cho họ mà sợ cho mình nên tôi phải vội vã quày qủa đi như chạy để khỏi bị phát hiện và để dấu những giọt nước mắt của mình.











Đến nhà người Miên chủ nhà trọ của tôi thì tôi càng sợ đến rụng rời tay chân vì ông này kể rằng vừa mới rồi, có ba người Việt vì bị bỏ rơi nên họ bơ vơ không biết đi về đâu, cuối cùng họ bị bắt. Tin ấy làm cho tim tôi đập loạn cả lên, còn tay chân thì run lẩy bẩy, mặt thì tái xanh lại. Thế là sau khi ăn qua loa bữa cơm chiều, tôi dấu mình trong xó kẹt nhà trọ để mong được yên thân.











Sáng hôm sau, khoảng 7:00 giờ sáng, khi xe lửa chuẩn bị khởi hành thì có một lực lượng công an Miên Việt hỗn hợp túa ra đi lên các toa xe lửa xét lục kỹ lưỡng. Rối họ bao vây quanh chiếc xe lửa. Thế là lại có một số người Việt tị nạn bị bắt giữ nữa.











Vì đã có kinh nghiệm, nên người dẫn đường ra dấu bảo tôi núp mình trong khu nhà dân cư để chờ bọn chúng xét xong xuôi. Đến khi tàu lửa vừa chạy là chúng tôi phóng lên toa xe thật mau. Tôi vốn có tật ở chân nhưng không hiểu sao lúc ấy, tôi chạy lẹ đến thế.











Trên xe lửa, tôi cố gắng giả đò ngủ hay ngó đi hướng khác để tránh sự tiếp xúc hay phải trò chuyện với đám hành khách người Miên. Cơn nắng thiêu đốt, cơn khát bỏng cổ. Cơn sợ hãi đầy tràn. Đến khoảng trưa thì xe lửa đến Battambang. Người dẫn đường và tôi là hai hành khách nhảy xuống đất đầu tiên ở ga đó. Tôi phải thu hết can đảm để đưa trình vé cho người soát vé. Nếu chậm trễ thì sẽ bị công an hay bộ đội Miên Việt bắt giữ.











Sau đó, anh Miên dẫn đường đưa tôi đi bộ thẳng về nhà anh ta. Anh dặn dò tôi ở lại Battambang để anh về lại Nam Vang đón chị và cháu tôi lên Battambang luôn. Chỉ ngày hôm sau thì mọi người đã tề tựu ở nhà anh ta tại Battambang. Gia đình tôi gặp lại nhau tại đó, kể cả mẹ và em gái người dẫn đường cũng đến từ Nam Vang.











Lúc ấy là 12 tháng 4, năm 1982, đúng và dịp tết của người Miên. Vì thế, gia đình người dẫn đường tổ chức ăn uống và đánh bạc tưng bừng, đến nỗi họ chẳng còn đả động đến chuyện đưa gia đình tôi đi tiếp để đến biên giới Thái.











Chúng tôi lo sợ vô cùng vì đã giao hết vàng cho họ rồi. Chúng tôi cứ nhấp nhỏm như ngồi trên đống lửa, bụng bảo dạ chắc là họ không muốn giúp mình đi tiếp nữa. Nhắc nhở vặn vẹo hoài thì sợ họ giận mà im thì lòng bồn chồn và lo lắng.











Cuối cùng, tôi hỏi lại lần nữa thì bọn họ giải thích rằng bây giờ là tết Miên, ai cũng nghỉ ở nhà để ăn tết nên không ai đi buôn bán ở biên giới. Nếu mình mà đi là lộ ngay vì bọn lính kiểm soát rất kỹ trong mấy ngày tết. Bởi vậy chúng tôi ngậm cay nuốt đắng để nằm chờ tại Battambang.











Qua ngày tết Miên thì người dẫn đường bắt đầu đi dò đường để kiếm xe đi tiếp. Tôi có dặn anh từ trước rằng tôi bị tật ở chân nên không thể đi bộ lâu được. Đến mấy ngày sau, anh ta trở về và nói là thuê xe không được vì họ đòi giá quá cao. Thế là, chị em tôi nghi là hắn kiếm chuyện để đòi thêm tiền. Chị tôi bèn rút hết số vàng đem theo là một chỉ rưỡi để đưa luôn cho hắn.











Nhờ vậy hôm sau nữa, hắn mới thuê được xe. Gia đình tôi ba người và gia đình anh dẫn đường đều chất lên một chiếc xe của bộ đội Miên. Bọn bộ đội này dùng công xa để mánh mung chở hàng hoá và đồ ăn như rau, cá, gạo... cho thường dân Miên rồi lấy tiền chia chác bỏ vào túi riêng. Vì là xe của bộ đội, nên qua bao nhiêu trạm là bọn lính gác ở các trạm đều mở cổng cho xe đi, nên chúng tôi đỡ phải lo nạn bị bắt. Còn bọn dẫn đường vì đã quen cái trò đưa người đi nên họ giả đò dẫn gia đình riêng của họ gồm mẹ, em gái và các cháu nhỏ để đánh lạc sự nghi ngờ của mọi người.











Tất cả các phụ nữ và con nít thì ngồi trong xe, còn tôi, người dẫn đường và các đàn ông Miên thì phải ngồi trên nóc mui xe. Đoạn đường đi từ Battambang đến Sway (Soai) đầy ổ gà nên xe dằn quá sức, chịu không nổi. Riêng tôi, tôi mệt đến độ có thể chết ngay tại đó. Nắng, khát, bụi đất, đường ổ gà dằn làm tôi mệt lả người.











Lúc ấy, tôi chẳng còn tha thiết điều gì nữa. Chân tôi tê cứng lại nên tôi đành phải tháo đôi dép cao su cho đỡ đau. Hễ mỗi lần tôi tháo dép ra là người dẫn đường lại vội vàng lượm dép mang vô lại trong chân tôi. Vì tôi mang giày nhiều nên chân rất trắng, nay nếu bỏ dép ra thì lòi đôi chân trắng, khác biệt ngay với những người Miên ngồi chung xe. Vì thế, tôi đành mang dép để che đôi chân trắng của mình.











Khi tới Sway, chúng tôi đều mệt nhừ tử. Ở đó, người dẫn đường bắt liên lạc được với một người quen của anh, hình như anh ta cũng đến từ Battambang.











Trong khi người dẫn đường đi thuê xe bò thì tôi được giao cho một xe đạp cũ để cùng người dẫn đường thứ hai, mà tôi sẽ gọi là Su, đạp xe tới lui trong vùng đó cho khỏi ai nghi ngờ.











Chúng tôi tạm chia ra hai cánh: gia đình tôi và gia đình người dẫn đường đi bộ tới một góc đường đứng chờ. Tôi và Su thì đi xe đạp. Còn người đưa đường kia thì đi cùng với bọn người lái xe bò lượn tới lượn lui. Chờ đến thời điểm thích hợp, chiếc xe bò đang từ đường nhựa, quẹo gấp lại vào con đường đất đỏ. Thế là gia đình tôi từ hai cánh được ngồi lên cùng một xe bò.











Tới đây, gia đình người dẫn đường từ giã ra về. Họ nói là nhiệm vụ của họ đã hết, còn những người đi trên các xe bò là những người chuyên môn đi qua biên giới nên họ sẽ đưa chúng tôi đi tới Thái. Lúc ấy, chúng tôi hoang mang và hồi hộp vô cùng.











Hành trang của gia đình chỉ gồm có hai giỏ chứa đủ thứ thuốc men và quần áo. Thế mà lúc ấy, chúng tôi chỉ còn có một giỏ thôi vì giỏ thứ hai thì bị bọn người dẫn đường giữ giùm và lấy luôn.











Anh dẫn đường đạp xe đạp đi đường khác và hẹn sẽ gặp lại gia đình tôi sau. Khi ấy chỉ còn một người đánh xe bò, vợ anh đang bồng con nhỏ của chị. Gia đình tôi thì lớ ngớ, lòng muốn hỏi thăm tình hình đường xá ra sao nhưng không biết tiếng bản xứ để hỏi, mà họ thì không biết tiếng Việt. Đành chịu chết!











Lúc đó trời đã xế chiều, trên xe bò chỉ gồm có một chiếc chiếu rách còn thì trống trơn. Xe bò vừa đi được khoảng nửa cây số thì đến một trạm gác của du kích Miên. Xui quá, xe vừa vượt qua khỏi cổng thì bọn lính Miên kêu giật lại. Chúng nói một tràng tiếng Miên với người đánh xe bò. Anh chàng này lắc đầu, ý như anh không biết gì cả còn bọn chúng muốn làm gì thì làm.











Thế là bọn du kích Miên kêu nạt lớn chúng tôi một câu:











-Xuống xe!











Chúng tôi y lệnh theo chúng vào nhà. Chúng ra lệnh cho chúng tôi cởi hết đồ để lục xét, xong rồi chúng lấy hết tất cả đồ đạc trong giỏ của chúng tôi gồm thuốc men, khăn rằn, quần áo, đến cả cây viết ”Bic” nữa. Từ đấy, chúng tôi chẳng còn gì ngoài một bộ đồ cũ ở trên người. Chị tôi vừa lo sợ vừa đau khổ nên khóc tức tưởi. Đứa cháu nhỏ của tôi cũng khóc nức nở. Còn tôi, cơn đau làm tôi uất ức, kêu trời không thấu. Tôi nghĩ thôi thế là hết.











Màn đêm đã bao trùm khắp nơi, nếu ở đây là còn sợ chúng hãm hiếp chị tôi nữa. Bọn chúng lôi súng ống và dao búa ra dọa nạt chúng tôi và đòi phải lột vàng ra để giao hết cho chúng thì mới được đi tiếp. Chúng còn ra lệnh cho anh đánh xe bò đánh xe đi. Chúng tôi tuyệt vọng đến tột độ rồi. Chắc đời tàn tại đây thôi. Thật kêu trời cũng không thấu nữa.











May thay có một người Miên đi bộ theo xe bò đem một nắm tiền Miên tới giao cho bọn chúng và ra dấu chỉ còn chừng đó thôi. Tôi nghĩ có lẽ đây là tay chân của người dẫn đường kia. Bọn lính Miên làm bộ khó dễ một hồi, rồi hất tay la lên:











”Đi!”











Chúng tôi mừng rỡ, lật đật bước đi. Tôi bèn đưa tay lấy lại chiếc khăn quàng của tôi thì bị chúng giật khăn lại. Nhưng chúng cho lại chị tôi một chiếc khăn quàng cũ rách để chị đội trên đầu.











Trời lại đổ mưa tầm tã. Cháu tôi chỉ còn một chiếc áo mỏng trên người. Chúng tôi đi lần tìm về phía xe bò ở xa xa. Lòng buồn não nuột lại hoang mang vô vàn, phần khác lại lo sợ cho đứa cháu có thể mắc bịnh vì trúng mưa. Sau này, tôi được biết trạm này rất nguy hiểm vì đã có rất nhiều người Việt bị chận bắt tại đây. May cho chúng tôi là không có bộ đội Việt nam ở trạm kia trong giây phút ấy. Mọi ngày vẫn có quân đội Việt nam ở đó. Họ không ăn hối lộ ít như lính Miên mà ăn rất nhiều. Nếu không có tiền thì tiêu đời.











Trở lại chuyện gia đình tôi lúc ấy, chị tôi vẫn khóc rưng rức trong cơn mưa triền miên. Chúng tôi ngồi chịu trận dưới cơn mưa đêm. Ai cũng run cầm cập. Lại muốn hỏi nhưng đành chịu vì ngôn ngữ bất đồng. Anh đánh xe bò cũng muốn nói với tôi điều gì đó nhưng rồi anh cũng im lặng luôn.











Cứ thế, chúng tôi vừa lạnh run, vừa lo âu. Chúng tôi ngồi trên xe bò đi suốt đêm. Tiếng xe bò lạch cạch vang lên trong đêm vắng cộng với tiếng khóc thổn thức của chị tôi, càng làm cho lòng tôi lo sợ và bâng khuâng:











”Mình sẽ đi về đâu? Tới bến bờ tự do hay bị bỏ rơi giữa đường?”











Xe bò băng qua một cánh đồng để đến một cái vườn hoang có trồng dừa và nhiều loại cây cối. Tự nhiên, chiếc xe bò đứng dừng lại như để chờ đợi một điều gì. Xa xa có tiếng súng nổ dòn, có ánh lửa sáng rực, có làng mạc nhà cửa, và có các luỹ tre rậm rạp...











Trong lúc đó, chúng tôi thắc mắc vô cùng nhưng không thể hiểu được. Khi ấy, người đánh xe bò ra hiệu cho chúng tôi xuống xe đi tiểu. Còn anh thì chạy vào bụi rậm, lấy mấy đống rơm cho trâu bò ăn. Số rơm còn lại thì anh ta bỏ lên xe bò để lót cho chúng tôi ngồi. Hình như anh ta đã quá quen với lộ trình đi, với nơi dấu rơm và cách dấu rơm.











Sau đó, chúng tôi tiếp tục đi suốt đêm. Chị tôi và cháu nhỏ được ngồi lại trên xe bò. Còn tôi phải đi bộ với người Miên khác và theo một lộ trình khác. Gia đình tôi lại phải xé lẻ ở đoạn đường đó, để chia làm hai nhóm. Theo lối diễn tả của họ thì nếu tôi mà ngồi chung với gia đình là bị lộ ngay lập tức.











Từ khi ấy, tôi và người Miên dẫn đường phải lội sình lầy qua các cánh đồng đầy nước. Về sau này, tôi mới biết rằng cái làng xa xa đó là làng mạc của Khmer Đỏ, tức là lực lượng Pol Pot. Do đó, tên dẫn đường cứ tìm cách dắt tôi tránh né ngôi làng của Khmer Đỏ.











Mỗi khi có tiếng súng nổ là tên dẫn đường lại dừng ngay lại để nghe ngóng, còn tôi thì hồi hộp lo lắng, vì không biết điều gì sẽ xảy tới cho mình. Đêm như dài vô tận. tôi phần sợ lạc gia đình, phần hoang mang lo âu, phần mệt mỏi vì phải đi bộ suốt đêm trường, qua các vũng sình lầy nước đọng nên tôi cứ đi như lết theo dấu chân người dẫn đường.











________________________________________




Chương II-1b: Hồi Ký Của Ông Lê Bá B., Một Người Tị Nạn Đường Bộ (b)











(tiếp) Khuya hôm ấy, tôi được dẫn vào một làng của người Khmer Đỏ. Trong làng tối đen như mực. Người ta di chuyển trong làng đều phải dùng đèn pin. Mỗi khi có ánh đèn pin lóe lên là tôi sợ điếng hồn vì ngỡ rằng công an hay bộ đội Miên bắt mình.











Cũng tại làng ấy, tôi gặp được chiếc xe bò đã chở gia đình tôi. Lòng mừng thầm vì tôi nghĩ rằng mình sẽ được leo lên xe bò đi tiếp thay vì phải đi bộ. Ai ngờ xe bò lại đi tiếp về phía trước, còn tôi phải lẽo đẽo theo sau và giữ khoảng cách độ mười thước.











Tới một trạm gác, có một tên lính Miên chận xe bò lại và nói một tràng tiếng Miên. Lập tức, chiếc xe bò phải ngừng lại. Nhanh như cắt, tên dẫn đường kéo tôi đi tách ngay qua đường khác liền. Tôi sợ run lên vì nghĩ rằng chị và cháu tôi có thể bị phát hiện và bị giam giữ tại đó rồi. Trời thương nên tôi không ngồi trên xe bò ấy.











Dù đi lối khác để tránh sự dòm ngó, nhưng tôi luôn phải chạy theo người dẫn đường. Chúng tôi đi lạc vào một bãi gò mồ ma. Nơi này có đầy phân và nước tiểu. Mỗi bước đi là đạp lên phân. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc làm tôi muốn ói. Tuy vậy chúng tôi không còn cách chọn lựa nào khác an toàn và tốt hơn cả.











Chúng tôi cứ lần mò mãi trong đêm đen như những người mù. Cuối cùng, tôi được dắt vào một nhà sàn có lầu cao. Hình như đó là nhà của một nhân viên cao cấp Khmer Đỏ, có liên hệ bà con với bọn dẫn đường. Sau đó, họ lấy mì sợi cho tôi ăn để lấy lại sức. Nhưng tôi vì mỏi mệt quá lại căng thẳng đầu óc nên ăn không nổi, mà chỉ xin uống thuốc thôi.











Cũng tại ngôi nhà này, tôi gặp lại chị và cháu tôi. Cả hai người đang nằm sẵn từ hồi nào rồi. Thì ra lúc xe bò chận lại thì bọn lính chỉ hỏi han qua loa rồi cho đi qua chứ không bắt lại. Cả ba chúng tôi mừng rỡ vì được đoàn tụ, còn sống sót mà nhìn thấy nhau là vui rồi.











Thế rồi, chị em tôi bảo nhau đi ngủ cho đủ sức mà đi tiếp nữa. Còn bọn người Miên trong nhà thì nói chuyện nho nhỏ vì nơi này nguy hiểm, đó thuộc vùng kiểm soát của Khmer Đỏ. Nếu bị lộ thì mất đầu như chơi.











Nơi đây, chúng tôi cũng gặp lại người đẫn đường đã đưa chúng tôi từ Sàigòn đến Nam Vang và Battambang. Anh ta nói tiếng Việt với chúng tôi rằng:











-Bây giờ đã đến nơi an toàn rồi. Coi như anh chị đã thành công rồi. Vậy xin anh chị hãy viết mật mã cho tôi về Sàigòn lãnh số vàng còn lại. Vì khi ở trại tị nạn, chúng tôi không dám đến đó để lãnh tiền. Ở đó có Hội Thiện Quốc Tế, ai mà dám đòi tiền nong và mật mã?











Chị em tôi bàn tính thiệt hơn. Đây đâu đã phải là trại tị nạn mà chỉ mới là vùng của Khmer Đỏ kiểm soát. Mình sống chết chưa biết lúc nào, làm sao mà dám viết thư về nhà để giao tiền hết cho họ?











Tuy nhiên, sau khi thảo luận, chị em tôi đều đồng ý viết đúng nội dung mật hiệu mà chúng tôi đã thỏa thuận với người nhà ở Việt nam để họ có thể về lấy tiền. Chúng tôi nghĩ:











”Mình cứ lấy lòng ngay thẳng mà đối với họ rồi Ơn Trên sẽ giúp đỡ và che chở cho mình.”











Vì thế, tôi liền viết mật hiệu vào tờ giấy như sau:











”Anh, B., Sơn đã khỏi bịnh.”











Anh là tên của chị tôi, B. là tên của tôi, còn Sơn là tên của cháu tôi. Nếu tôi viết mật hiệu có nội dung khác như:











”Ba chị em tôi đã đến Mỹ,”











Thì làm sao hắn biết được? Mà về đến Việt Nam thì người nhà tôi dứt khoát không bao giờ giao tiền cả vì hai mật hiệu hoàn toàn khác biệt.











Sau khi giao mật hiệu cho anh ta, gia đình tôi ngủ đỡ độ chừng một, hai tiếng đồng hồ cho đỡ mệt. Đến lờ mờ sáng thì bọn họ đánh thức chúng tôi dậy đi tiếp. Anh dẫn đường kia đã đi về hướng Việt Nam để lãnh tiền. Từ đó trở đi, chúng tôi chỉ đi với bọn dẫn đường khác mà thôi.











Lần này cả ba chúng tôi phải đi bộ băng qua các khu gò mồ mả. Đi một lúc lâu, cháu nhỏ của tôi mệt quá nên đi không nổi nữa. Người dẫn đuờng phải cõng nó mà đi tiếp. Chúng tôi băng đồi mà đi mãi. Khi đến một khu rừng âm u vắng vẻ, chúng tôi cùng người dẫn đuờng đứng tại đó để chờ xe bò.











Chờ thật lâu mà xe bò không thấy tới, chúng tôi bồn chồn nóng ruột vô cùng. Người dẫn đường cũng lo âu không kém. Hắn nhìn tới nhìn lui, chép miệng và nói một tràng tiếng Miên. Tôi đoán rằng anh ta bực mình nên phàn nàn về việc chiếc xe bò đã đi lạc hướng rồi. Những phút chờ đợi dài lê thê. Rốt cục, chúng tôi nghe tiếng xe bò lọc cọc đi tới.











Khi xe bò đến nơi, người đánh xe bò vẫn là người cũ, nhưng người ngồi trên xe bò phiá sau lại là người lạ. Người đánh xe bò dừng xe lại rồi trả tiền cho người lạ kia. Chúng tôi đoán chừng anh ta dẫn dường cho anh chủ xe bò đi lọt qua các trạm gác. Anh nọ nhận tiền là đi ngay, bóng anh mất hút về phía đường khác.











Đến bấy giờ, ba chúng tôi lại được ngồi trên xe bò cùng với chủ xe và anh dẫn đường để đi tiếp. Lần này xe bò đi vào rừng chứ không còn cảnh đồi hay ruộng nữa. Xe đi băng rừng mãi cho đến khoảng 9:00 giờ sáng. Tiếng chim hót thật hay lạ lùng và làm vui tai người nghe. Rừng thật yên tĩnh hoang vu, không một bóng người, không có cả tiếng động, ngoài tiếng xe bò đi lọc cọc và tiếng chim ríu rít hót líu lo.











Cảnh rừng thật đẹp và hùng vĩ nhưng tôi chẳng còn lòng dạ đâu mà thưởng thức cảnh đẹp nữa, chỉ toàn thấy hồi hộp và lo âu. Đi thật lâu trong khu rừng vắng mà không thấy động tĩnh gì, nên chúng tôi tạm yên tâm.Trong khi đó, anh dẫn đường chỉ tay về phía trước và nói:











”Thái Lan, Thái Lan!”











Chúng tôi mừng vì nghĩ là chắc sắp tới nơi an toàn rồi, có lẽ trại tị nạn chỉ còn vài bước nữa thôi. Thình lình, từ trong đám bụi cây, có ba người lính bộ đội Việt Nam, đầu đội ba chiếc nón cối nhảy xổ ra đột ngột làm cho chúng tôi giật nẩy mình.











“Ôi thôi, bộ đội Việt Nam rồi!”











Chúng tôi rụng rời tay chân, lòng thầm nghĩ:











”Thế là hết, đã đến nơi mà gặp bộ đội thì đời tàn rồi. Tiền đã hết, làm gì có mà hối lộ cho họ nữa chứ? Họ lại bắt mình về Việt Nam rồi. Ôi! Uổng cho công sức, uổng cho tiền bạc đã mất đi. Thế là mất tất cả rồi! Không còn gì nữa hết rồi!”











Chúng tôi tuyệt vọng và sợ hãi đến tột độ. Ba người bộ đội hỏi chúng tôi bằng giọng Bắc nặng và quê của những người Bắc vào miền Nam sau năm 1975, chứ không phải những giọng Bắc của những người Bắc di cư năm 1954:











-Mấy người đi đâu?











Bọn người Miên đứng im lặng không trả lời đã đành, còn chúng tôi cũng im lặng luôn, giả bộ là người Miên, không hiểu tiếng Việt. Lính bộ đội hỏi tiếp:











-Rõ ràng mấy người vượt biên mà. Người Việt Nam sao không trả lời?











Thôi, lộ tẩy rồi! còn gì nữa mà giả bộ không hiểu. Chúng tôi bắt buộc phải trả lời:











-Bọn tôi là người Việt Nam.











Họ hỏi tiếp:











- Mấy người đi đâu thế?











-Bọn tôi định đi Thái Lan thăm người bà con.











-Vượt biên chứ Thái Lan, Thái liếc gì! Xuống! Xuống xe hết!











Chúng tôi ngán ngẩm, vội bước xuống xe hết. Họ lại hỏi:











-Tại sao đi vượt biên?











Chị tôi khóc lóc thảm thiết và trả lời:











-Dạ tại khổ quá nên chúng tôi phải đi.











-Biết khổ sao còn đi? Bây giờ có tiền không? Không tiền là không đi đâu hết!











Thế là bọn họ tách chúng tôi ra hai nhóm để lục xét. Họ bắt chúng tôi cởi quần áo ra để họ lục soát kỹ xem có vàng bạc hay tiền nong gì không. Sau đó họ định hãm hiếp chị tôi ngay tại đó. Chị tôi sợ run rồi khóc nức nở. Vừa khóc, chị vừa năn nỉ và van xin thật lâu:











-Các anh cũng đáng tuổi em của tui, xin làm ơn tha cho tui đi.











Cuối cùng, họ tha cho chị. Họ xét rất kỹ mà chẳng kiếm được cái gì, vì còn gì nữa đâu mà họ lấy? Rốt cuộc, họ giật hai mẩu bánh mì trên tay cháu tôi. Hai mẩu bánh mì này là do quà của anh dẫn đường cho cháu tôi. Bọn họ bảo:











-Chắc là có dấu đồ trong bánh mì rồi. Có phải dấu đồ trong bánh mì không?











Tôi nghĩ chắc họ ở đây cũng thèm bánh mì nên mới lấy bánh mì của cháu tôi để mà ăn. Thế rồi họ cứ kéo dài việc lục soát. Chúng tôi sợ càng kéo dài càng nguy hiểm vì lỡ đồng bọn họ kéo tới thêm nữa thì còn khó mà thoát hơn. Lúc ấy, tôi chợt nhớ ra là trong cổ tôi còn có một tượng Phật bằng ngà bọc vàng tây. Tôi đeo tượng Phật để mong được Phật độ trì và che chở. Tôi dùng sợi dây tròn trắng mà binh lính thường đeo thẻ số quân để đeo tượng vào cổ. Cũng may là bọn Miên cướp đường lúc trước đã xét lục mà chưa tìm ra. Tượng đeo trên cổ, lẫn vào cổ áo mà chúng đã không thấy, kể cũng là lạ thật! Bọn lính cố dùng dằng tìm kiếm đồ quý hay tiền vàng trong quần áo chúng tôi hoặc để cho chúng tôi sợ hãi và sốt ruột mà thòi đồ quý ra cho họ.











Tôi bèn năn nỉ:











-Xin các anh cho chúng tôi đi, bao nhiêu vàng tôi đã giao cho bọn dẫn đường. Còn tiền bạc và đồ qúy giá thì bọn Miên cướp đường lần trước đã lấy hết. Không tin mấy anh hỏi bọn dẫn đường này mà xem.











Nhóm bộ đội nạt lớn:











-Mấy thằng Mán rừng đó làm sao mà hỏi nó được? Nó có biết tiếng Việt gì đâu mà hỏi?











Tuy nói thế nhưng bọn họ cũng tới nạt hỏi bọn người Miên dẫn đường


Họ chỉ lắc đầu quầy quậy chứ chẳng chịu hối lộ tiền cho nhóm bộ đội Việt Nam kia. Tôi thầm nghĩ:











“Mình phải tìm cách đi chứ kéo dài mãi thì chết.”











Thế là tôi nói:











-Tôi còn tượng Phật này, các anh lấy đỡ rồi cho tôi đi!











Vừa nói, tôi vừa tháo gỡ tượng Phật giao cho mấy anh bộ đội để họ cho đi. Cầm tượng Phật xong, họ liền hất hàm ra lệnh:











-Thôi đi đi! Mấy người sao mà gan vậy? Đường này toàn gài mìn hết cả rồi! Bây giờ anh chỉ bọn Miên đi đường bên trái kia kìa. Nếu đi đường bên phải là tiêu luôn đó nghe!











Tôi trả lời:











-Mấy anh làm ơn nói hộ với nhóm người Miên cho họ hiểu, chứ tôi đâu có biết tiếng Miên mà nói với họ?











Bọn họ liền nói một tràng tiếng Miên với những người dẫn đường và chỉ trỏ các lối đi an toàn cho chúng tôi đi. Khi đó, chúng tôi mừng quá vì đã thoát nạn nên vội leo lên xe bò ngay. Xe vừa chuyển bánh thì ba người bộ đội dặn vói:











-Đằng trước còn nhiều trạm bộ đội Việt Nam nữa. Nếu họ có chận hỏi thì làm bộ giả người Miên, nhớ đừng trả lời. Hễ trả lời là chết đó! Thôi đi lẹ lên!











Tôi thầm nghĩ:











”Làm sao mà giả người Miên được? Họ nhìn là biết ngay mình là người Việt. Dấu làm sao được? Từ khuôn mặt đến dáng điệu, nhìn là biết liền.”











Chúng tôi cám ơn họ rối rít rồi đi tiếp. Xe băng rừng và đi độ thêm một hai tiếng đồng hồ gì đó thì chúng tôi gặp một đám lính mặc đồ rằn ri, có mang súng ống đầy đủ. Chúng tôi thoạt đầu mừng quá vì nghĩ rằng chắc đây là:











”Quân ta đây rồi! Đồ quân phục của lính Dù, lính Biệt Động Quân đây mà! Ôi, màu áo quen thuộc, thân thương của quân ta đây!”











Nhưng lúc đến gần, chúng tôi mới biết là lính dù Người Miên. Chúng có cái tên quen thuộc là Para. Chúng là lính của quân đội giải phóng Miên. Bọn chúng xúm lại, kéo chúng tôi khỏi xe bò để dắt vào lùm cây mà xét và cướp của lần nữa. Mặt mũi của bọn Para ra này thật dữ dằn và hung tợn. Thằng nào cũng xâm hình tượng Phật nhỏ đầy mặt, đầy cổ và đầy người. Chúng còn đeo tượng Phật và bùa đỏ đầy trên cổ.











Bọn Para trao đổi lời lẽ với những người đi xe bò dẫn đường và muốn đuổi họ đi. Nhưng bọn họ không đi mà cứ đứng nấn ná đợi chúng tôi. Bọn Para thì cứ xua tay đuổi bọn kia đi để chúng dễ bề xét người và cướp của trên người của chúng tôi.











Chúng chia nhỏ toán quân và dò xét quanh vùng. Một vài tên lính Para biết tiếng Việt lõm bõm, chúng bèn hỏi chúng tôi với giọng lơ lớ và sai văn phạm, nghe thấy thật buồn cười:











-Có gặp bộ đội Việt Nam không? Bộ đội Việt Nam đông không? Họ có những súng gì?











Rồi chúng lại tiếp tục xét người chúng tôi. Chúng tôi lại phải bị lột quần áo và đứng tơ hơ. Tụi này khám rất kỹ, kể cả hậu môn và chỗ kín chúng cũng không bỏ qua. Lại một thằng Para Miên lấy súng lục kê cạnh tai tôi và hỏi gằn:











-Bộ đội Việt Nam phải không? Bộ đội hay nhân dân Việt nam?











Tôi sợ quá, run cầm cập mà trả lời:











-Tôi là dân Việt Nam đi vượt biên, chứ không phải bộ đội Việt Nam.











Hắn hỏi gằn đi gằn lại:











-Thiệt không? Nói láo bị bắn chết ngay! Khai thiệt đi, nhanh lên!











Cứ thế, nó dọa nạt tôi đủ thứ. Lúc ấy, trong túi quần tôi còn một cái dụng cụ ngoáy tai bằng bạc mà tôi giữ làm kỷ niệm đã lâu. Thằng Para này đòi lấy, tôi cũng đưa luôn. Tiếc gì nữa mà giữ lại? Cháu nhỏ của tôi còn một tượng Phật bằng bạc, chúng nó cũng đoạt lấy luôn.











Tìm tòi mãi mà chẳng có gì đáng giá, chúng bèn ra lệnh cho chúng tôi mặc quần áo lại mà đi tiếp với toán quân của chúng. Đi một chập, chúng tôi gặp lại chiếc xe bò cũ, bọn Para lại trao đổi, mặc cả và trả giá gì đó với bọn đi xe bò. Cuối cùng chúng lại đuổi bọn xe bò đi.











Thế là từ đấy, chúng tôi không còn gặp lại chiếc xe bò đó nữa. Trong lòng lo lắng và sợ hãi, chúng tôi chỉ sợ bọn người rừng rú này làm bậy và hãm hiếp chị tôi. Nhưng Trời thương, chúng không hãm hiếp.











Khi đến một nơi tiền đồn, có giao thông hào và đồn phòng thủ, chúng bèn giao chúng tôi cho một toán quân ở nơi đó và bảo đưa chúng tôi đến Non Chan. Bọn lính sau này gặp một xe bò chở nước, chúng nhảy lên xe bò ngồi và cho phép cháu nhỏ của tôi leo lên xe theo. Tay chúng lăm lăm ghìm súng chỉ vào người chúng tôi như muốn sẵn sàng nả đạn vào gia đình tôi.











Trong lúc đó, chị tôi và tôi phải chạy bộ theo dấu xe bò mà đi. Vừa mệt, vừa sợ lạc mất đứa cháu, vừa khát khô cổ nhưng chúng tôi vẫn phải bương bả chạy theo xe bò mà đi. Cơn nắng lên cao, cơn đói khát, nỗi sợ hãi làm chúng tôi mệt đến có thể ngất xỉu ngay tại đó.











Ôi! đường đến với tự do sao quá khổ sở, đầy gian nan thử thách và đầy nguy hiểm như thế này? Chúng tôi lần mò đi để tìm đến vùng Non Chan. Một bước ngoặt của đoạn đời mới đầy tủi nhục và đau thương bắt đầu từ đây!















________________________________________




Chương II-2a. Trại Tù Ở Non Chan, Khu Thứ Nhất















Khi chúng tôi tới Non Chan là vào buổi trưa ngày 22, tháng 4, năm 1982. Từ xa, chúng tôi thấy những căn nhà lụp xụp làm bằng cỏ tranh, trên có che những tấm ni lông màu xanh da trời. Xa xa, tôi thấy một lá cờ của lính giải phóng Miên, có màu xanh, đỏ và một hình tháp chính giữa. Tôi vì quá mệt nên cũng không còn đủ sức mà nhìn rõ xem màu sắc và hình vẽ của lá cờ như thế nào.











Khi đến nơi, tôi nghĩ là mình đã đến vùng tự do rồi nên lòng mừng khấp khởi. Thế nhưng lại bị một bọn lính Para khám xét nữa để cướp đồ quý. Bọn chúng hỏi tôi bằng một tràng tiếng Miên. Tôi không hiểu mà chỉ ra dấu rằng tôi quá khát và cần nước uống. Nhưng thay vì cho tôi uống nước, chúng lại bắt chúng tôi cởi quần áo để chúng moi móc tìm mọi chỗ, kể cả chỗ kín trong người.











Lúc ấy tôi chỉ còn vỏn vẹn có một bộ đồ mặc trong người và một đôi dép râu quai bố (loại dép Bình Trị Thiên). Dù vậy, bọn Para cũng không tha vì chúng nghĩ rằng tôi có thể dấu vàng bạc ở đôi dép ấy. Chúng lấy luôn đôi dép râu của tôi và trao cho tôi một đôi dép Nhật khá tốt.











Sau này, tôi đã khốn khổ vì đôi dép ấy trong những tháng ngày dài sống thiếu thốn ở trại tù Non Chan và trại tị nạn NW 82. Đôi dép cũ mòn hư hao. Tôi đã phải tìm mọi cách để cột đôi quai dép lại cho có thể đi tạm được. Đi chân trần khổ lắm, vừa đau, vừa đạp gai, đạp miểng chai, sâu bọ hay phân người. Tôi cứ tiếc hùi hụi cho đôi dép râu bền chắc đã bị bọn Para lấy mất.











Bọn Para mới dữ dằn vô cùng. Chúng hạch hỏi đủ thứ, kể cả ngày sinh tháng đẻ và cả nơi sinh của chúng tôi để làm thủ tục giấy tờ. Bà chị tôi lúc ấy quá sức sợ hãi nên khai bậy bạ. Chị khai nhiều tuổi hơn tuổi thật. Chị khai lộn xộn hết mà từ đó, tôi không dám điều chỉnh lời khai nữa vì sợ chúng nghĩ rằng mình có ý man trá nên khai tầm bậy. Chính vì thế mà kẹt luôn cho đến khi khai để xin được bảo lãnh, tôi cũng phải khai như lời chị khai.











Làm thủ tục xong, bọn chúng lại giao chúng tôi cho một tên lính dắt đi đến một văn phòng khác ở rất xa. Chúng tôi đi mãi, băng qua một khu chợ. Ở đấy, người ta che các căn nhà lụp xụp bằng lớp cỏ tranh hay bằng tấm vải ni lông xanh.











Khi tới một văn phòng khác của Para, chúng tôi phải ngồi chờ rất lâu ở đó. Thế rồi lại một màn cởi quần áo để khám xét kỹ lưỡng nữa. Bao nhiêu nỗi tủi nhục và cực lòng làm chúng tôi đau đớn vô cùng. Thân phận mình còn bị bạc đãi và coi thường hơn một con chó hay con kiến nữa.











Sau đó, chúng dắt chúng tôi vào một trại tị nạn. Thoạt đầu, chúng tôi tưởng bở, lòng mừng rỡ vì ý nguyện đã thành tựu. Trại tị nạn đây rồi! Ôi ba chữ ” Trại tị nạn” sao nghe vui tai và hay ho đến thế. Nhưng hỡi ôi! khi đến nơi mà gọi là trại tị nạn thì đó chỉ là một nhà tù nhỏ làm bằng tranh, chung quanh đóng cột gỗ và có hàng rào đầy thép gai.











Nhìn vào trong nhà thì thấy rất nhiều người đứng lố nhố, đặc biệt là đàn ông và con nít đều ở trần. Mọi người đứng trong vòng rào kẽm gai nhìn ra. Trông ai cũng đen đúa như một đám mọi đen đói vì ai cũng ốm dơ xương ra. Tôi thấy mình chới với ngay:











”Trại tị nạn gì mà kỳ cục quá, khủng khiếp quá!”











Hình ảnh thực tế của trại tù Non Chan đập mạnh vào mắt tôi.











”Đây là trại tị nạn đó sao? Trại chỉ toàn kẽm gai và đám người bị tù túng, đói khổ như thế này! Thôi rồi, thiên đường của dân tị nạn đường bộ là đây sao?”











Mộng ước sụp đổ tan tành ngay lập tức. Chúng tôi bị xúc động về hình ảnh đau thương trước mắt. Chúng tôi không thể mở miệng mà hỏi han hay nói chuyện với ai cả, chỉ còn biết đứng ngây ra nhìn mà thôi. Sự thật phũ phàng quá! Bao nhiêu cực khổ dọc đường không làm cho chúng tôi chán ngán bằng hình ảnh cái trại tù Non Chan ấy.











Liền đó, tên lính mở dây xích khóa cửa tù để tống ba chúng tôi vào đó. Tống giam xong, hắn cẩn thận khóa cửa để đi về. Địa ngục là đây rồi! Lúc ấy, nhằm lúc bọn tù đàn ông đi làm lao động hết rồi, chỉ còn bọn tù đàn bà, con nít và một số đàn ông bịnh hoạn ở lại trại giam này mà thôi.











Khi chúng tôi bị tống vào trại, trong đó ai cũng nhìn chúng tôi bằng đôi mắt thương hại. Họ ở đó lâu qúa rồi, và họ đã nếm đủ mùi cực khổ rồi. Bây giờ chúng tôi cũng lại lao đầu vào chốn địa ngục trần gian ấy nên họ thương hại.











Lúc chúng tôi nhập trại thì trời đã quá trưanên ai cũng ăn cơm hết rồi. Theo lời họ kể thì cơm là do bọn tù đàn ông đi làm lao động khổ sai rồi để dành cơm đem về cho vợ con ở kẹt trong tù. Cơm chỉ ăn với muối trắng mà thôi.











Chúng tôi quá tuyệt vọng và mỏi mệt nên chẳng ăn được mà chỉ khát nước mà thôi. Một vài người đàn bà tốt bụng đã cho chúng tôi vài ngụm nước. Sau này tôi mới thấy rằng họ đã quá tốt với chúng tôi, vì nước trong tù rất hiếm và qúy còn hơn là vàng nữa.Tình đồng hương, đồng cảnh ngộ thật đáng ngợi khen. Ở trong tù không có nước, không có muối và không có đồ ăn. Mỗi bữa mọi người chỉ được ăn cháo do bọn lính Para phát cho mà thôi.











Uống vài ngụm cũng chưa đã khát, nên sau đó chúng tôi được các bà ấy rót nước cẩn thận ra ba lon sữa bò và trao cho ba chúng tôi. Hết thẩy mọi người ở đó đều nhìn chúng tôi với sự xót thương, nhưng không ai vội vàng kể cho chúng tôi những chuyện khổ cực trong tù. Có lẽ họ nghĩ rằng chúng tôi vừa mới đến nơi, kể ngay sợ chúng tôi đau khổ sớm.











Trong nhà tù ấy rất dơ dáy, toàn là đất bụi, chiếu thì rách te tua. Người ở trong tù đã quá quen với cảnh dơ bẩn đó, còn chúng tôi thì còn ngại dơ nên đứng lóng ngóng ở đó và không dám ngồi. Mọi người cứ mời chúng tôi ngồi mãi. Cuối cùng chúng tôi đành ngồi nhẹ xuống vì ngồi mạnh lại sợ dơ.











Sau đó chúng tôi mới hỏi thăm tình hình trong nhà tù và được biết rằng căn nhà tù này rất nhỏ, mỗi cạnh độ chừng bốn thước mà được ngăn làm hai: Một bên chứa người Miên hay lính Miên phạm pháp. Một bên chứa người Việt tị nạn. Số người Miên bị giam chiếm hai phần ba, còn số người Việt chiếm một phần ba dân số.











Trước đó, phiá giam người Việt tị nạn có đến bốn mươi hay năm mươi người. Lúc tôi đến thì có khoảng hai mươi hay ba mươi người. Mọi người chen chúc sống trong căn nhà chật hẹp. Khổ một nỗi là ngay trong phòng có một cầu tiêu, chiếm một phần tư diện tích căn phòng. Người ta bài tiết ngay ở đó, mà lại không có nước để dội. Vì thế, mùi hôi thối bay ra nồng nặc, lại thêm ruồi bọ nhiều như ong. Ruồi nhiều đến nỗi chúng bu vô cơm, cá khô và tất cả mọi thứ. Con nít đi tiêu chảy tung tóe đến nỗi phân dính đầy trên chiếu.











Tối đến, chúng tôi cũng vẫn phải ngủ trên chiếc chiếu có dính phân. Phòng vừa chật vừa hôi thối, người ta chen chúc như nêm cối. Lúc đầu, chúng tôi thấy phòng dơ, ruồi nhiều nên không dám ăn cơm nữa vì chưa ăn đã ớn và sợ đến tận cổ rồi. Cơm nước thì do bọn dân tù nấu ở một nhà bếp làm phía ngoài. Mấy ngày đầu chúng tôi mới đến thì bọn Para cho ăn vài bữa cơm. Sau thì toàn cho ăn toàn là cháo trắng và muối hột mà thôi.











Sau đó, bọn Para cho tôi nhập vào đám tù đàn ông để làm công tác nặng như đào giếng, làm đường, cưa cây xẻ gỗ, làm nhà, đào mìn hay gỡ mìn. Còn đàn bà thì làm những việc nhẹ chung quanh trại. Khổ một điều là đàn bà bị hãm hiếp thường xuyên. Ban ngày, bọn Para kéo đàn bà vào ngay văn phòng của chúng để hành lạc tập thể. Ban đêm lại còn kinh khủng hơn vì chúng lôi phụ nữ đi hãm hiếp từng đêm.











Bọn chỉ huy của Para thường mang danh là chống Cộng, là lực lượng giải phóng, nhưng thực chất, chúng chỉ là bọn thảo khấu, ăn cướp và hãm hiếp phụ nữ mà thôi. Chính những tên được gọi là ”Ông lớn”, hay ”Lục thum” là những tên tai quái nhất.











Ban đêm chúng cho người đem một mảnh giấy gọi hết cô này đến cô kia lên văn phòng cho ”Ông lớn điều tra”. Như vậy ai cũng hiểu là chuyện gì sẽ xảy ra cho những cô gái ấy rồi. Ở văn phòng các ”ông lớn” thường có sẵn bốn, năm tên lính Para ngồi chờ. Khi các cô trở về thường là đi hết nổi, có cô bại liệt hẳn và phải có người dắt nách hai bên.











Còn những tên lính ”tép riu” Para thì hay làm càn. Chúng kéo các cô vào cầu tiêu ngay trong phòng. Có khi chúng hãm hiếp các cô gái ngay trước mặt bọn tù tị nạn người Việt. Cả con nít cũng phải chứng kiến cảnh đốn mạt ấy. Hội Hồng Thập Tự Quốc tế (HTTQT)có can thiệp xin lãnh mọi người tị nạn, đặc biệt là xin cho các cô gái được dời đi đến các trại khác, nhưng lính Para cũng không tha cho họ ra đi.











Thường thường thì các cô gái đẹp mà không có chồng hay không có gia đình đi chung thì bị chúng giữ lại rất lâu để hành lạc. Tôi có quen hai cô gái tị nạn. Sau này một cô được chấp nhận cho tới Mỹ, còn một cô được đi Canada. Hai cô này bị hãm hiếp hàng đêm đến nỗi trở thành ngơ ngẩn nhưng may mà chưa điên. Đàn ông khỏe mạnh thì bị giữ lại ở trại tù rất lâu để làm lao công. Cơ hội đi thoát cũng rất là khó.











Gia đình tôi kể ra là may mắn nhất. Chúng tôi ở trại tù khoảng một tháng rồi được chuyển qua một khu khác gần nhà thương Non Chan. Tụi Para chơi bùa nhiều nên có đứa ngán, không dám hãm hiếp vợ người vì sợ bùa hành. Do đó những gia đình có vợ và con nhỏ thường dễ được đi nhanh hơn các trường hợp khác. Chúng tôi khai là vợ chồng có con nhỏ nên được hội HTTQT can thiệp mạnh và cho đi sớm.











Mỗi tuần, vào sáng thứ tư là ngày hội Hồng thập Tự Quốc tế tới. Ở trong tù, ai cũng mong đợi cho mau đến ngày thứ tư. Đến ngày ấy, không ai phải đi làm lao động cả mà chỉ ở nhà nằm chờ cho hội HTTQT đến lấy danh sách tên tuổi của người tị nạn. Lấy danh sách là một chuyện còn khi nào bọn Para Miên cho đi thì hội HTTQT mới có thể ”bốc” dân tù tị nạn đi được. Nếu bọn Para không cho dân tị nạn đi thì đành phải chờ cho dù mấy tháng, mấy năm vẫn phải chịu.











Như thế số phận dân tị nạn như cá nằm trong rọ, sống khắc khoải dưới sự đàn áp và cưỡng bức tàn bạo của bọn Para. Có nhiều người đã phải chờ cả hai năm. Có người bị giết chết cách tức tưởi nên chẳng bao giờ còn dịp gặp được hội HTTQT cả.











Những người tị nạn nào đã được gặp hội HTTQT thì vẫn tiếp tục đi làm. Còn những người khác vì lý do nào đó như gái đẹp, trai khỏe mạnh, hay tỏ ý chống cự lại bọn Para thì đến ngày hội HTTQT đến, bọn Para bắt họ đứng riêng, không cho gặp mặt nhân viên của hội.











Cũng có người bị bọn Para nghi là Cộng sản, gián điệp, không thành thật hay còn giấu diếm tiền bạc, vàng nên không được chúng cho gặp nhân viên hội HTTQT. Đã có hai người đến trước chúng tôi khoảng mấy tháng và ở trong trường hợp bị chúng tách riêng không cho gặp nhân viên hội HTTQT. Chúng giữ hai người này cả năm trường. Hai ông này rất sợ hãi vì không biết bị bọn chúng đập đầu giết chết lúc nào.











Một điều lạ là bọn Para Miên ghét Cộng sản Miên đã đành , nhưng chúng cũng rất ghét sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa của chế độ cũ. Các vị cựu sĩ quan như đại tá hay trung tá mà vượt biên đến đó cũng bị bọn chúng chúng hành hạ, đầy ải đến nỗi họ ăn ngủ không yên. Tinh thần họ bị khủng hoảng vô cùng. Vì thế tôi lấy làm thắc mắc, chẳng hiểu lý tưởng của bọn Para như thế nào nữa.











Ở trong tù mà không biết tiếng Miên thì thật là khổ. Như trường hợp của tôi: Hôm đó có một đám lính Para tới phòng tôi và nói một tràng tiếng Miên. Chúng tôi chẳng hiểu gì cả, may mà có một phụ nữ tị nạn biết tiếng Miên nên dịch ra tiếng Việt cho chúng tôi hiểu. Chúng bảo:











”Ai có gia đình thì ở lại phòng này, còn ai không có gia đình thì qua bên phòng kia ở với tù người Miên.“











Vì thế, chúng tôi yên trí ở lại phòng đó. Tối đến lại có một nhóm Para khác đến cũng nói một tràng tiếng Miên. Tôi cũng không biết chúng nói gì. Thế là một lần nữa, người đi qua, kẻ ở lại, còn chúng tôi ngơ ngác đứng xớ rớ. Liền đó, một thằng Para giận dữ đá ngay vào mặt tôi và nạt lớn. Sau đó, nó còn đá bồi vào ngực vào lưng tôi rồi kéo đầu tôi qua phía phòng bên kia.











Những người ở cùng phòng hoảng hốt hét to:











”Đi ra đi! Đi ra đi!”











Tôi hốt hoảng và chạy ”dọt” ra ngoài. Như vậy là đàn ông dù có gia đình hay không gia đình đều phải qua phòng đó. Thế là chúng muốn tách tất cả đàn ông ra một phòng riêng.











Tôi vội vàng chạy chúi đầu vào phòng của người Miên và không dám ngóc đầu lên nữa. Tối đó, tôi phải nằm trên một chỗ đất lồi lõm, không bằng phẳng mà ngủ. Vì vào phòng sau cùng, nên ai cũng dành chỗ tốt hơn, còn tôi chỉ có chỗ nằm tệ nhất thôi.











Đêm hôm đó, tôi đau lưng cả đêm, lại thêm bị tức ngực và đau mặt ê ẩm vì những cái đá của thằng lính Para độc ác. Dù đau và nằm không thoải mái, tôi cũng chịu trận vì hễ trở mình, lỡ đụng bọn tù Miên bên cạnh là chúng đạp lại và đánh tôi ngay. Thật là khổ ải, hết bị bọn này hành hạ lại đến bọn khác đánh đập. Ngay cả đến chút nước uống của mình, bọn tù Miên cũng cướp lấy, không cho chúng tôi uống.











Ban ngày, đàn ông tù tị nạn đi làm, được nấu cơm ăn bên ngoài. Ăn xong, bọn họ gói cơm và để dành nước đem về cho tù đàn bà và con nít ở nhà. Cứ chiều đến, những người tù ở nhà đứng bu bên cạnh hàng rào kẽm gai, ngóng mắt chờ mong những người tù nam về để xin cơm và nước mà sống qua ngày.











Vì sống trong cảnh khổ đau cùng cực nên chúng tôi thương yêu nhau như trong tình gia đình: chia cho nhau từng chén cơm và ngụm nước. Lúc ấy mới thấy thấm thía câu ca dao:











“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,




Người trong một nước phải thương nhau cùng.”











Khi đám tù đàn ông chúng tôi đi ra ngoài làm lao động, chúng tôi vẫn tiếp xúc với dân chúng Miên. Họ có vẻ thông cảm và thương hại chúng tôi. Hình như họ cũng bị ép buộc ở vùng đó. Họ cũng buôn bán cò con, lẻ tẻ như dân nghèo Việt nam. Họ bán ổi, xoài, kẹo và bánh. Đôi khi vì thấy chúng tôi quá cực khổ nên họ lén cho chúng tôi một trái xoài hay một cây kẹo.











Nhiều người Miên ở đấy biết tiếng Việt nhưng không dám nói tiếng Việt với chúng tôi vì họ sợ bọn Para ghét. Cho đến nay tôi vẫn còn thương một người lính Miên tên là Khíp. Mẹ anh ta là người Việt. Có lẽ vì thế mà anh thương bọn tù chúng tôi. Đôi lúc, anh ta cho chúng tôi ít nước uống hay dấm dúi cho con nít vài cái kẹo. Khíp không hề đánh dân tị nạn Việt mà còn giúp chúng tôi những thứ lặt vặt trong khả năng của anh ta nữa.











Có lần vì thấy bọn tù chúng tôi ở dơ, không có nước tắm nên anh Khíp xin cấp trên cho anh dẫn từng năm người đi tắm. Không hiểu anh này có biết tiếng Việt hay không, có thể anh ta biết nhưng vì sợ bị bọn Para kia kiếm chuyện nên không dám nói tiếng Việt với chúng tôi.











Các câu chuyện về lao động khổ sai:











Có nhiều trường hợp mà dân tị nạn phải đi gỡ mìn và chết oan vì mìn nổ. Một người bạn của tôi tên là Dũng. Dũng và người anh trai cùng đi vượt biên đường bộ và cùng bị tù ở Non Chan. Tại đây, có một phái đoàn Phục quốc người Việt đến chiêu mộ binh sĩ. Người anh của Dũng đã tình nguyện gia nhập đoàn quân phục quốc, còn Dũng thì ở lại, chịu cảnh làm lao động khổ sai.











Dũng còn trẻ là học sinh, cả đời không biết gì về súng đạn hay bom mìn gì cả. Một hôm Dũng đang làm lao động thì bọn Para kêu anh ta ngồi riêng ra một chỗ. Rồi bọn chúng cho Dũng ăn một nồi cơm nguội và cá khô. Điều này rất hiếm vì ở trong tù chỉ được ăn cháo trắng, đôi khi còn không có muối mà ăn chứ đừng nói đến chuyện ăn cá khô.











Khi Dũng ăn no nê xong, chúng còn cho Dũng ngồi nghỉ thật lâu và còn cho hút thuốc lá nữa. Dũng rất ngạc nhiên nên cứ thắc mắc mãi. Chừng một lát sau, mười tên lính Para Miên đội mười quả mìn từ đâu đến để trước mặt Dũng. Rồi thằng chỉ huy Para vừa nói vừa ra dấu cho Dũng cách thức tháo ngòi nổ. Hắn nói bằng tiếng Miên nên Dũng không hiểu mà chỉ biết nhìn theo cách hắn dạy để làm thôi.











Tên Para lấy một cái búa và một cái đục để ra dấu chỉ cho Dũng đục qủa mìn theo hình chữ thập. Phải đục thật cẩn thận và khéo léo. Đục xong thì cậy lên để tháo ngòi nổ. Sau đó rút chốt quả lựu đạn rồi nhét và qủa mìn. Cần nhất là làm nhẹ nhàng kẻo mìn nổ.











Sau khi nhắc đi nhắc lại nhiều lần, bọn lính Para chạy dạt ra xa hết vì sợ nổ. Thế là còn lại chỉ có Dũng với mười trái mìn. Nhát búa đầu tiên mà Dũng đóng vào quả mìn làm tim anh nhói lên vì sợ hãi. Anh sợ vì lỡ nó nổ thì anh ta chết tan xác ngay. Anh ta cố gắng đến tột độ nên làm xong quả mìn đầu tiên thì người Dũng ướt đẫm hết vì mồ hôi toát ra như tắm.



















________________________________________


Chương II-3. Trại Tị Nạn Ở Gần Nhà Thương Non Chan, Khu Thứ Hai













Lúc ấy là ngày thứ tư 22 tháng 5, năm 1982. Từ trại tù đến nhà thương Non Chan chỉ độ một cây số. Nhà thương này được hội HTTQT cấp thuốc men và y sĩ để chữa bịnh cho nhân dân Miên. Khu trại chứa dân tị nạn Việt Nam này nằm ở sát bên cạnh nhà thương, nhưng ở về phía sau của nhà thương.











Trại này chứa những người tị nạn từ các trại tù ở Non Chan hay ở Pnom Chat mà đã được bọn Para chấp thuận cho hội HTTQT mang đi. Tại trại mới này có một nhân viên hội HTTQT người Thái rất tốt. Ông ta căn dặn chúng tôi chớ nên ra khỏi vòng rào trại vì nếu ra đó sẽ bị bọn Para bắt nhốt vào tù là khỏi đi được nữa.











Chỉ có một số những người tị nạn người Việt gốc Miên, thường được gọi là ”Chrom” là có thể lén ra đi lại vì họ biết tiếng Miên nên không ai biết họ là dân tị nạn. Số người Việt gốc Miên này đã bị bọn Para dụ dỗ để ở lại đó làm việc cho chúng. Để làm cho họ vững tâm ở lại, Para đồn là ở trại NW 82 cũng rất khổ cực, lại không được cứu xét cho đi Mỹ, rằng đã có người ở trại NW 82 mấy năm vẫn không được đi, vậy thì đến đó để làm gì? Rồi lại còn bị nạn lính Thái hành hạ nữa.











Chính vì đòn tâm lý ấy nên một số đông người Việt gốc Miên đã ở lại làm việc cho bọn Para. Nếu họ chọn ở lại với chúng mà sau này họ trốn đi thì cũng bị Para giết chết.











Tại trại tị nạn gần nhà thương Non Chan này, lúc đầu chúng tôi tưởng là đã an toàn hơn nhưng khi nghe ông nhân viên HTTQT tên là Kông, người Thái Lan dặn dò là con gái không nên sửa soạn son phấn, không nên đi ra ngoài và cũng không nên nằm sát cửa là chúng tôi sợ rồi. Ông Kông lo nhiệm vụ phát mền, chiếu, thực phẩm cho dân tị nạn.











Thế là ảo tưởng tan tành rồi, những tưởng là có tai mắt của Hội HTTQT thì đỡ hơn. Nơi này, từ 4:00 giờ chiều trở đi, khi nhân viên hội HTTQT rút về biên giới Thái, thì lại thuộc quyền sinh sát của bọn Para người Miên.











Y như rằng, tối hôm ấy, bọn Para vào lều lôi kéo và bắt phụ nữ đi hãm hiếp. Nơi trại này có một tên Para phụ trách an ninh tên là Thi. Hắn nổi tiếng là hung thần. Hễ nghe đến tên hắn là dân tị nạn ”tản thần”, sợ rởn tóc gáy. Thi chuyên môn ”điều tra” vào ban đêm, ngay lúc nửa khuya. Cũng nên hiểu việc ”điều tra” là hãm hiếp, hành hạ, đánh đập để thỏa mãn thú tính và để khảo của.











Hễ nửa đêm là giờ quỷ sống Para tung hoành. Đối với tù nhân đến từ Non Chan qua thì ít bị đánh đập và khảo của vì chúng đã lột sạch tiền của từ lâu rồi. Nhưng đối với những nạn nhân tị nạn từ các nơi khác đến như từ Pnom Chat hay những trại khác thì bị chúng đánh đập tàn nhẫn để cướp tiền và khảo của. Chúng dùng đinh đóng vào thân thể người ta để tra tấn cho bao giờ thò vàng và tiền ra mới thôi.











Các phụ nữ tị nạn bị hãm hiếp như cơm bữa, nhưng phụ nữ người Miên gốc Hoa thì đỡ bị hành hạ hơn. Cứ đêm đến là những tiếng khóc than nổi lên nghe ai oán và ghê rợn. Nhiều nạn nhân có con nhỏ, khi họ bị lôi kéo để bọn Thi hãm hiếp thì con cái họ khóc la dậy trời.











Hành tung của Thi và đồng bọn thật kinh tởm và khủng khiếp. Đồng bọn của hắn gồm thêm bốn, năm đứa nữa. Vẻ mặt Thi rất dữ dằn. Hắn vừa là y tá trưởng của nhà thương Non Chan, lại vừa là người phụ trách an ninh. Có thể hắn làm việc cho hội HTTQT nên mới giữ được chức vụ y tá trưởng. Nhưng hội không hề biết gì về bộ mặt sát nhân và đểu cáng của hắn khi đêm đến.











Mỗi khi có nhóm dân tị nạn Việt Nam mới tới là bọn lính Para tổ chức hội họp và ra thông cáo. Mục đích của chúng là để nhìn mặt xem nếu có cô thiếu nữ nào đẹp thì ban đêm, chúng sẽ vào lôi kéo để thỏa mãn thú tính. Khi mắt chúng láo liên đảo quanh thì không có con mồi nào thoát khỏi nanh vuối độc hiểm của chúng.











Nạn nhân phụ nữ từ trại tù Non Chan qua cũng vẫn chưa được buông tha. Có một cô gái ở trại tù đã bị chúng hãm hiếp nhiều lần đến bại chân. Nay cô qua trại này và được đi bệnh viện và chữa lành. Còn nhiều cô gái khác thì trở nên bất bình thường vì khủng hoảng tâm lý.











Gia đình tôi sống lây lất nơi trại Non Chan này được khoảng một tháng nhưng cứ tưởng như thiên thu vì bị khủng hoảng đến phát bịnh. Chẳng hiểu tại sao mà Para đối xử tàn tệ với người tị nạn như là kẻ thù truyền kiếp của chúng. Trong khi ấy, các dân tị nạn người Miên gốc Hoa hay người Miên thì được đối đãi tử tế hơn. Chúng luôn luôn đe dọa người Việt tị nạn như sau:











”Hễ Việt cộng mà tấn công thì tụi bay biết tay chúng tao!”











Ngày chúng tôi đến trại này thì nhân số tị nạn chỉ có khoảng hai mươi người. Dần dần nhân số tăng lên rất mau vì dân tị nạn từ các nơi khác đến. Cũng có người may mắn được người dẫn đường đưa thẳng tới khu trại ở gần nhà thương Non Chan nên không phải ở tù như chúng tôi. Nói chung, dù từ bất cứ từ nơi nào đến trại này, kể cả từ các trại của lính Sihanouk, Sonn San hay Pol Pot đều bị chung số phận đen tối như nhau.











Khi gia đình tôi rời trại Non Chan để qua trại NW 82 thì nhân số tị nạn đã lên đến hơn 200 người.











Chương II-4. Trại Tị Nạn North West 82 (NW 82)















Trại này cách trại NW 9 (nơi Kim Hà và gia đình đã từng ở) khoảng ba, bốn cây số đường chim bay. Khi nhân số dân tị nạn ở trại NW 9 đã được giải quyết cho đi đến các trại nằm trong nội địa Thái hay cho đi định cư tới các nước vào cuối năm 1981 thì toàn bộ nhà cửa của trại NW 9 đã bị thiêu cháy để tẩy uế. Nhưng rồi người tị nạn lại tiếp tục đến nên trại NW 82 được thành lập. (Lời của tác giả Kim Hà)











Chúng tôi rời khu nhà thương Non Chan để đến trại NW 82 vào ngày 16 tháng 6, năm 1982. Phải kể là gia đình tôi là những người may mắn nhất vì tới sau mà đi trước nhất. Đã có những người ở tại trại tù Non Chan cả năm rưỡi mà vẫn chưa được đi chỉ vì họ là gái đẹp hay thanh niên cường tráng.











Khi đến nơi, chúng tôi vẫn không được vào trại NW 82, mà phải nằm nơi nhà thương Non Samet, bên cạnh trại NW 82. Nơi này thuộc quyền kiểm soát của lính Thái Lan. Chúng tôi phải nằm chờ một đêm, phải thi tiếng Việt, nếu thi đậu mới cho vào trại NW 82.











Đêm hôm ấy, 16 tháng 6, 1982, mội tên chỉ huy phó lo về an ninh ở trại NW 82 đi qua nhà thương Non Samet để truy lùng xem ai là người đẹp. Hắn tên là Chon nhưng dân tị nạn gọi hắn là Cọp vì bản chất hắn rất dữ dằn, mặt mũi hắn thì đầy râu ria. Hắn muốn đánh ai thì đánh, muốn đá ai thì đá, không cần có lý do gì cả. Vì thế dân tị nạn rất sợ hắn. Tên Cọp này nổi tiếng là hung thần của trại NW 82 này.











Sáng hôm sau, 17 tháng 6, 1982, tên Cọp chở tất cả những người mới tới đến một cái lều mới dựng ở bìa rừng để lục xét tìm kiếm của cải, vàng bạc. Nhưng hoài công, vì dân dị nạn đã bị lục xét cả trăm lần nên chẳng còn gì.











Tiếp đó, ban đại diện người Việt cũng tới đó và kêu từng người tị nạn mới đến để thi tiếng Việt. Việc này có thể do bọn lính Thái đặt ra nhằm mục đích làm tiền. Cũng có thể là do họ muốn loại bớt những thành phần người Miên giả làm người Việt.











Trong số các người thi tiếng Việt, cũng có một số người thi rớt vì nói tiếng Việt không rành hay vì đọc chữ Việt không được. Tuy nhiên cũng có những người không viết được tiếng Việt hay không nói rành thì vẫn thi đậu nếu biết đút lót vài ba chỉ vàng. Có thể họ đưa vàng cho ban đại diện người Việt Nam hay đưa cho lính Thái.











Một trường hợp oan uổng:











Một ông đã làm việc nhiều năm cho tòa đại sứ Mỹ ở Việt nam, đi cùng với bốn con nhỏ từ sáu, bảy tuổi trở xuống. Ông ta không có vợ đi chung. Sau khi thi thì ông ta bị rớt nên năm cha con phải ở lại nhà thương Non Samet, chứ không được đến trại NW 82.











Những người thi tiếng Việt bị rớt thì ở trại Non Samet, không được giải quyết cho đi định cư. Khi mà trại NW 82 được giải quyết cho đi một lúc thì những người ở Non Samet vẫn còn kẹt lại.











Trại NW 82 ở cách giao thông hào khoảng một cây số, còn nhà thương Non Samet thì cách trại NW 82 chỉ có một hàng rào tre. Lúc trước thì trại NW 9 ở sát bờ giao thông hào. Nhưng trại này đã được giải tỏa và thiêu cháy ra tro từ năm 1981.











Khoảng tháng 2, 1983, nhờ có sự vận động can thiệp từ mọi nơi trên thế giới, nên số dân tị nạn gồm gần 1800 người ở NW 82 được giải quyết cho chuyển trại và được di chuyển thanh nhiều đợt, cách nhau vài ngày để đến các trại khác.











Chỉ có một số nhỏ dân tị nạn ở NW 82, gồm gần 150 người vì không có quốc gia nào nhận nên bị chuyển đến trại Khao Y Đang để chờ đợi. Trại này cách biên giới Thái khoảng mười hai cây số. Nghe nói sau này, nhóm người đó cũng được giải quyết cho đi. Còn những người thi rớt tiếng Việt thì vẫn ở lại Non Samet để tiếp tục chờ đợi nữa.




Chương II-I. Lề lối sinh hoạt của trại NW 82











1. Về thực phẩm:




Mỗi đầu người dân nhận được 200 grams gạo mỗi ngày, nhưng gạo được đưa cho nhà bếp để nấu cơm và phát cho dân. Mỗi tuần một đầu người được phát nửa lon cá Sardine hình trụ, đường kính cỡ năm phân, chiều cao cỡ mười phân. Lâu lâu được phát thêm một loại bột cá để ăn thêm, loại boat này được dùng để nuôi gia súc.











Về sau, bột cá cũng không có, người ta mới phát cho dân tị nạn một loại cá trích khô và mặn như muối. Giòi bọ bò lúc nhúc trong đám cá khô này. Trung bình mỗi đầu người được nhận năm con cá khô một ngày. Nhưng chỉ có mỗi một ngày Chúa nhật trong tuần là được ưu tiên lãnh cá thôi.











Người dân tị nạn thích loại cá khô này hơn cá hộp vì họ có thể để dành và ăn dè sẻn được vài ngày. Họ dùng dầu để chiên cá, nướng cá, hay nấu canh với một nhúm đậu xanh để ăn cho mát. Trong lúc đó, cá hộp không thể để lâu được vì sợ độc. Số lượng cá hộp cũng ít, ăn không đủ thiếu gì cả.











Mỗi lần được lãnh cá khô, người ta xâu dây kẽm qua mắt cá để phơi khô. Chỗ nào cũng có xâu cá, ruồi bu lại dầy đặc. Hễ phái đoàn báo chí nào đi tới thấy xâu cá đầy ruồi bu là họ chụp hình ngay.











Muối cũng rất hiếm, một đầu người được lãnh một muỗng muối cho một tuần. Họ không hề được phát rau cỏ gì cả. Mỗi đầu người được lãnh gần một lon đậu xanh và bốn muỗng canh dầu ăn cho một tuần. Ở NW 82, có chương trình Dinh Dưỡng (Feeding) để bồi dưỡng cho thiếu nhi, người già và phụ nữ mang thai.











2. Về nước dùng:




Mỗi đầu người được tám lít nước một ngày dùng để ăn uống, tắm giặt và mọi nhu cầu khác. Dân tị nạn không đủ đồ đựng nước nên họ kiếm bao ni lông có trong các bao gạo để cột túm lại rồi họ treo tòn ten nơi các cột trụ hoặc gần các chiếu nằm. Từ từ các bao treo đầy trong các lều trại, lâu dần, các bao này đóng rêu xanh lại.











Sô nước cũng không được phát. Có người thì lén mua sô để chứa nước. Còn có kẻ không có gì đựng thì lãnh nước ra là tắm ào một cái rồi nhịn khát sau đó.











3. Vật dụng hàng ngày:




Trại không phát nồi soong gì cả. May là khi chúng tôi còn ở tù ở Non Chan, khi bị cưỡng bách đi làm lao động ở ngoài nhà tù, chúng tôi có đi lượm ở trong các đống rác và tìm được những vỏ thùng dầu ăn loại bốn lít, có dấu hiệu hai bàn tay bắt nhau (loại viện trợ từ Mỹ quốc). Vì thế, chúng tôi mang theo và dùng để nấu ăn ở trại NW 82 này. Khi nấu ăn, người ta dùng bốn cái vỏ lon cá hộp loại nhỏ được cột chung với nhau để nấu ăn hay dùng vỏ lon sữa bò.











Xà bông giặt thì cứ năm người được một cục xà bông để xài cho một tháng. Còn quần áo và dép thì không được phát, ngoại trừ có lần một linh mục tên Tom đã quyên được của người Công giáo và phát cho mỗi đầu người một bộ quần áo.











Đa số dân tị nạn bị cướp hết tiền nên không thể mua dép. Ai cũng đi lượm dép cũ rồi họ ghép hai ba chiếc dép lại, dùng dây kẽm gai buộc lại để đi tạm. Nhiều lúc vô ý đạp lên chân nhau là nạn nhân bị thuơng ở chân ngay vì kẽm gai làm cho sước máu.











Một sự kiện cười ra nước mắt là khi chúng tôi được chấp nhận đến Mỹ, chúng tôi vẫn hiên ngang mang những đôi dép cọc cạch có buộc kẽm gai ấy lên phi cơ để ngồi chung với các hành khách giầu có khác.











Hội HTTQT có phát mùng cho dân tị nạn nhưng rất nhiều người vẫn bị sốt rét rừng vì muỗi rừng nhiều vô số. Tội nghiệp cháu nhỏ của tôi cũng bị sốt rét này. Rất nhiều người chết vì bịnh ấy.











Chương II-II. Cách cấu tạo trại NW 82















1. Nội quy trại:




Trại có khoảng ba mươi lều ghi từ số 1 đến số 30. Lều khá lớn, có màu xanh rêu của quân đội. Cứ giữa hai lều thì có một khoảng cách độ chừng một thước. Chung quanh các lều là một hàng cọc tre sơn màu đỏ để bao bọc tất cả chu vi trại. Dân tị nạn bị cấm đi ra khỏi các hàng cọc tre ấy. Cách hàng cọc sơn đỏ độ một thước là hàng rào tre. Hễ ai mà vượt ra vòng rào là bị lính Thái đánh đập ngay.











Cạnh hàng rào tre có một cái chuồng như kiểu chuồng súc vật, cao hơn nửa thước, có mỗi cạnh độ chừng hai thước. Chuồng có hình vuông và sơn màu đỏ. Người ta gọi là chuồng cọp vì nó được dùng để nhốt người tị nạn phạm tội hay phạm kỷ luật. Tuy nhiên có khi dân tị nạn chẳng có tội lỗi gì cũng bị giam cầm. Đa số nạn nhân là đàn ông. Báo chí ngoại quốc khi vào thăm trại đều chú ý chụp hình cái chuồng cọp này.











Ban đại diện người tị nạn tuy có hiện diện nhưng cũng như bù nhìn, lơ mơ cũng bị ăn đòn như dân thường. Hễ lính Thái bảo làm gì thì làm nấy. Trong trại cũng có thành lập một ban trật tự, mục đích để giữ gìn an ninh, để thi oai, đối chọi với dân tị nạn chứ không phải để chống chọi với lính Thái. Một nhân viên trong ban đại diện tị nạn vì tỏ ý phản đối việc lính Thái bắt một cô gái có liên hệ với ông ta nên ngay hôm sau, ông này bị lính Thái đánh đập tàn nhẫn.











Ở đây, lính Thái ra lệnh cấm mua hay bán bất cứ một món hàng gì. Nếu trái lệnh sẽ bị ghép là có tội và bị trừng phạt ngay. Xin đan cử một vài trường hợp sau:











-Một người tị nạn lén mua một bó rau muống do người dân Miên đem bán ở cạnh hàng rào. Bất ngờ, lính Thái bắt được qủa tang, hắn ra lệnh cho người này phải ăn sống ngay bó rau muống tại chỗ.











-Một người khác vì thèm thuốc rê và thuốc lá nên lén mua ít thuốc lá. Lính Thái bắt được bèn xé nhỏ thuốc lá rồi quậy xác thuốc trong tô nước. Sau đó hắn bắt anh ta phải ăn xác thuốc và uống tô nước đầy xác thuốc lá.











-Một bà tìm mua một gói đường cát. Lính Thái bắt được bèn trộn đường chung với đất cát rồi bắt bà ta ăn cả đường lẫn đất cát.











-Một bà bầu thèm ăn loại bánh cóng làm bằng bột gạo, có nhân đậu xanh chiên lên. Lính Thái bắt được bèn đổ bánh xuống đất, rồi lấy giày ”bốt đờ sô” chà đạp nát và bắt bà ta ăn cho kỳ hết.











Khi chúng tôi gần được cho đi định cư thì luật lệ được nới ra. Dân được mua bán rau muống. Ngoài ra họ cũng có thể tập hợp để sinh hoạt văn nghệ bỏ túi.











2. Tên hung thần nổi tiếng của trại NW 82.




Trở lại chuyện tên sĩ quan chỉ huy phó lo về an ninh của Thái, có biệt danh là Cọp. Cọp rất tàn ác và hiểm độc. Hễ thấy hắn là dân tị nạn phải ngó tránh đi chỗ khác. Nếu để hắn bắt được mình đang nhìn hắn là hắn đánh ngay. Hễ hắn muốn đánh ai là hắn có toàn quyền đánh, không cần có lý do chính đáng. Vì thế hễ thấy hắn lảng vảng đến lều bên cạnh là ai nấy lo chạy trốn trước kẻo bị đòn oan.











Rất nhiều lần dù dân tị nạn không hề phạm lỗi gì thì hắn vẫn kiếm cớ để đánh đập họ. Có nhiều người đang ngồi trong lều cũng bị tên Cọp này kêu ra và ”dợt” võ chơi. Hắn xem dân tị nạn như những bao cát dài để hắn tập dợt những thế quyền Anh của hắn. Hắn đá vô mặt, cổ, ngực, lưng và bao tử của từng người. Tôi đã từng chứng kiến cảnh tên Cọp đá vô bao tử của một số nạn nhân. Nhìn họ đau đớn đến gập người xuống, tự nhiên tôi cảm thấy lòng mình quặn đau y như người trong cuộc.











Có nhiều lần, tên Cọp đánh người tị nạn bằng cây gậy hay bằng báng súng. Có lần nạn nhân bị hắn đánh gẫy tay, có lần nạn nhân khác bị hắn đánh gãy xương sườn. Phòng Y Tế của trại không đủ phương tiện chữa trị cho nạn nhân xấu số ấy.











Mặt khác, hội HTTQT lại không dám chở nạn nhân đi chữa trị ở bịnh viện Khao Y Đang vì sợ đụng chạm đến tên Cọp và sợ lòi ra tội đánh người mang thương tích của hắn. Vì không được chữa trị đúng mức nên nạn nhân gầy mòn và đau đớn từng ngày. Sau đó không biết số phận các nạn nhân ra sao nữa.











Tại trại NW 82, vì đa số dân tị nạn hết tiền nên họ không thể thuê người cắt tóc. Giá tiền để cắt tóc là 1 baht hay hai baht. Một baht Thái tương đương năm xu của Mỹ. Một đô la Mỹ trị giá 20 baht. Mà hễ để tóc dài thì cũng bị tên Cọp đánh hay bắt phạt.











Một hôm có một người đàn ông vì tóc để dài đến tận vai nên bị tên Cọp phạt bằng cách bắt ông ta lội dưới mương đầy sình lầy, phân và nước tiểu. Hắn bắt ông ta lội sấp rồi lội ngửa ở dưới mương và phải vục mặt vào chỗ đầy phân và nước tiểu ấy. Hễ ông ta định ngóc đầu lên để thở là bị tên Cọp đánh đập ngay. Khi tên Cọp cho phép đứng lên thì trông ông ta như một vật gì chứ không phải là con người nữa vì khắp cơ thể đã bị sình lầy, phân và bùn phủ kín và che lấp hết, chỉ còn có hai con mắt rục rịch mà thôi.











Sự đối xử tàn ác của lính Thái đối với dân tị nạn thật là khủng khiếp và tồi tệ. Về sau khi tôi kể lại cho bạn bè ở các trại Bataan và ở Mỹ nghe, không ai dám tin đó là sự thật nữa.











3. Tình trạng hãm hiếp:




Tình trạng hãm hiếp vẫn có nhưng ít hơn và bớt lộ liễu hơn bọn lính Para người Miên. Mức độ thì vẫn khủng khiếp không kém. Bọn lính Thái còn dùng tiền để mua chuộc hay dùng áp lực để dọa nạt và đòi sự thỏa mãn xác thịt.











4. Tình trạng sa sút tinh thần của người tị nạn ở NW 82.




Trong suốt thời gian chúng tôi ở trại này, không ai thấy tương lai được đi định cư. Không hề nghe có ai hứa hẹn giải quyết việc cho định cư cả. Chỉ nghe là định cư tại chỗ, hoặc cho mọi người trở về Việt nam, hoặc là nằm đây chờ, hoặc là ra ngoài ở chung với người dân Miên.











Lúc tôi gần rời trại NW 82 thì có pháo kích. Nghe đâu Việt cộng đánh vào Non Chan, đạn pháo kích nổ ầm ầm nhưng chưa vào chu vi trại NW 82. Hàng đêm, đàn bà và trẻ con được lệnh ra nằm ngoài khu vực trại, gần bờ đập giao thông hào. Nếu ai chạy lạng quạng đến bờ đập thì bị lính Thái bắn, còn chạy ra ngoài thì bị lính Para Miên bắn.











Tinh thần chúng tôi bị khủng hoảng vì không biết tương lai mình ra sao. Tin đồn từng ngày là trại này không được giải quyết, rằng trại NW 9 là trại tị nạn cuối cùng được giải quyết thôi. Có thể phải ở trại này đến ba, bốn năm nữa. Các tin đồn, tin vịt và dự đoán làm cho bà con lên ruột. Ngồi buồn, bà con dựng chuyện lên rồi truyền khẩu đủ thứ tin vịt. Lâu lâu lại đồn ”gần rồi”, có nghĩa là trại gần được giải quyết cho đi.











Khi cha Tom phát cho dân tị nạn một bộ đồ quần áo thì có tin đồn là gần được đi nên cha mới phát đồ cho để có quần áo mà mặc khi đổi trại. Họ còn bàn tán là ở trại NW 9, lúc sắp được giải tán người ta cũng phát đồ, dép và bàn chải đánh răng để chuyển trại. Thế là mọi người lại lên tinh thần., bàn tán hươu vượn và hy vọng dài dài.











Lâu dần, từ ngữ ”gần rồi” được lập lại nhiều lần một cách khôi hài, tiếu ngạo và đùa cợt. Nó trở thành một lối nói chuyện khôi hài giữa các đồng bào tị nạn. “Gần rồi” có nghiã là không bao giờ có hay sắp được đi rồi.











Thế rồi, lâu lâu lại có người đem tin giật gân và sốt dẻo đến bằng cách chìa lá thư của thân nhân anh ta ở ngoại quốc đến và nói là ở bên ấy, người ta đang lập phong trào tranh đấu để trại này sắp được giải quyết. Thế là bà con lại phấn khởi và lên tinh thần.











Nhưng rồi cơn phấn khởi và hồ hởi ấy chỉ khơi động lên một lát thì lại có một người nữa đem lá thư khác của thân nhân từ ngoại quốc gởi đến, nội dung thư này trái ngược với tin của thư trước. Thế là bà con lại xuống tinh thần ngay. Như thế đủ hiểu là tinh thần người tị nạn bất ổn, bị giao động mạnh, cứ lên xuống như trái banh khi căng lên, khi bị xì hơi thì xiù xuống.











Từ đó, trại NW 82 lại có thêm từ ngữ ”thua” và ”thắng”. Hễ nghe tiếng ”Thua, thua rồi!”có nghĩa là trại không được giải quyết cho đi, là bà con giật thót người lên, bụng quặn đau, rồi xôn xao lắng nghe thử thua như thế nào. Còn ”thắng” thì có nghĩa là trại sắp giải quyết cho đi thì bà con lại nhảy lên, bàn tán và mừng rỡ.











Có lần, chúng tôi được đọc một lá thư của một người tị nạn hồi trước ở trại NW 9 và đã đi định cư tại Úc. Ông này viết thư kể lại kinh nghiệm của ông hồi ở trại NW 9, cứ mỗi lần nghe tin đồn đủ thứ là lo sợ và mất tinh thần. Nhưng giờ này ông ta cũng đã được định cư như bao nhiêu người khác. Vậy thì mong bà con đừng lo sợ về chuyện tin đồn, cứ kiên tâm bình tĩnh mà chờ đợi. Lá thư ấy giúp bà con ổn định tinh thần được phần nào. Có lần, nghe nói trại NW 82 sắp được giải quyết, bà con tị nạn mừng rỡ, cười nói tíu tít. Một hôm, ông trưởng trại tuyên bố là ngày mai sẽ có một phái đoàn đến thăm và sẽ cho biết là dân ở đây được đi định cư hay bị trả về nguyên quán. Thế là cả trại xôn xao và chuẩn bị đón rước.











Đường đi trong trại được quét sạch và tưới nước cho khỏi bay bụi. Trẻ con được sắp thành hàng ngũ chỉnh tề nhưng quần áo các cháu thì rách mướp. Cả trại đứng đợi chờ từ sáng đến trưa dưới cơn nắng rực lửa. Ai cũng khát nước đến muốn xỉu. Trông thật tội nghiệp cho mọi người, nhất là các trẻ con.











Khi phái đoàn đến, hội HTTQT mừng rỡ chạy xe đến trại báo tin trước để dân chúng chuẩn bị cho chu đáo. Phái đoàn vừa đến là một đoàn con nít đồng cất tiếng hát. Các em hát rất nhiều bài mà tôi không nhớ được, nhưng cảm động nhất là bài hát ”Việt Nam, Việt Nam”. Mình là người trong cuộc nên cảm động đến chảy nước mắt, cả người nổi gai ốc lên trước cảnh tượng một bầy trẻ con, quần áo rách bươm, đứng dưới cơn nắng thiêu đốt để gân cổ lên hát chào mừng phái đoàn, những người có thể gọi là ân nhân vì có thể họ giúp đỡ cho dân tị nạn được đi sớm.











Khi phái đoàn đi ra về thì các em hát bài”Tạm biệt”. Có rất nhiều trong phái đoàn tỏ ra rất cảm động. Một trong những người của phái đoàn ấy là bà Mai Khôi, người Việt Nam. Bà là vợ của một sĩ quan tùy viên quân sự Mỹ ở Thái Lan. Bà này rất đẹp và có lòng thương người đồng hương. Bà đặc trách về vấn đề tị nạn. Trước đó, trại NW 9 cũng được bà Mai Khôi giúp đỡ rất nhiều trong việc cho dân tị nạn định cư sớm.











Chúng tôi được thông báo là phái đoàn đến thăm có khoảng mười một nước nhưng hôm đó chỉ có độ năm, bảy người đến thăm mà thôi. Họ đi ra rồi đi vào, chẳng nói năng hay tuyên bố điều gì mới lạ cả. Trước khi ra về, họ nói là:











”Phái đoàn chúng tôi chỉ đi thăm thôi chứ không có vấn đề gì khác!”











Khi họ về rồi, tất cả chúng tôi đau khổ, thất vọng và buồn chán vô cùng. Lúc ấy, sự mệt mỏi và chán nản làm mọi người buồn phiền và tuyệt vọng. Khi chờ đón thì hy vọng và vui mừng bao nhiêu thì khi tiễn khách về thì đau khổ và chán chường bấy nhiêu.











Chính lính Thái cũng muốn cho dân tị nạn Việt được sớm đi định cư. Vì thế họ đã căn dặn chúng tôi không được ăn đồ ăn ngon mà phải ăn đồ ăn tồi để phái đoàn quốc tế thấy khổ cực mà cho đi sớm.











Tuy vậy, sau đó hai tháng, cả trại chúng tôi được từ từ giải quyết cho đi. Điều đó cũng là nhờ sự can thiệp của phái đoàn quốc tế hôm ấy.











Từ đấy, cứ từng đợt được chuyển đến Panatnikhom Transit Center ở Chonburi, Thái Lan. Gia đình tôi được rời trại NW 82 vào ngày 4 tháng 2, năm 1983. Có được thoát khỏi NW 82, mới biết chắc là mình còn sống.











Ngày chúng tôi được đi định cư, bà con tị nạn còn lại khóc lóc thảm thiết vì chậm đi một ngày là thêm một ngày khổ sở và nguy hiểm, vì tai họa đến từ đủ mọi phía. Thật là trên đe dưới búa. Ngay cả hội HTTQT cũng không hề hứa hẹn hay nói những gì cho mình hy vọng cả. Hội chỉ cho nước uống và thực phẩm để dân tị nạn sống tạm qua ngày. Họ chỉ ghé đến trại NW 82 trên đường đi đến Non Chan vào ban ngày rồi buổi chiều là họ đi về.











Tình hình ở trại NW 82 rất mất an ninh. Việt cộng có thể đến tấn công bất cứ lúc nào. Dân chúng thì đông lúc nhúc, chỉ cần một trái pháo kích là đủ chết như rạ vì họsẽ dẫm bừa lên nhau mà chạy thoát thân.











5. Tình trạng thư tín:




Lính Thái phong tỏa, kiểm duyệt và thủ tiêu hầu hết các thư từ ngoại quốc gửi đến. Có người ở trại cả một năm trời mà không hề nhận được một lá thư của thân nhân. Có người thì đến sáu bảy tháng không có thư, nhưng khi nhận thì một lúc có hai, ba cái.











Lính Thái kiểm soát và muốn để “ngâm tôm” cho mất thời gian tính rồi mới giao cho người nhận. Thư có tiền đều bị lính Thái cướp đoạt hết. Do đó, ai cũng nghèo như nhau, quần áo rách tả tơi và hôi như cú.











Về sau, chính sách được nới lỏng. Nếu ai may mắn nhận được 50 đô trong thư thì lính Thái đòi đổi và đưa cho người nhận chỉ có 200 baht, tức là trị giá có 10 đô, còn 40 đô thì chúng ăn cướp tay trên. Rồi chúng đưa địa chỉ của chúng cho dân tị nạn và nói rằng chúng sẽ gởi tiền cho họ sau khi họ lên trại Panatnikhom. Còn nếu là ngân phiếu (check) thì chúng bảo ngân phiếu còn mới quá, chưa đổi ngay được nên ông lớn đưa cho mượn tạm 200 baht. Ai cũng bị chúng ăn cướp, ăn chận kiểu đó. Hiện nay tôi còn giữ địa chỉ của một tên trưởng trại người Thái ấy.











6.Tình trạng vệ sinh:




Vệ sinh trong trại thì dơ bẩn quá sức. Chu vi trại quá nhỏ mà có đến 30 lều san sát và gần 2 ngàn người chen chúc. Cầu tiêu ở sát bên lều nên ruồi bọ lúc nhúc, mùi hôi thối bốc lên khủng khiếp.











Vào mùa mưa thì đất trở nên lầy lội. Mỗi người tị nạn chỉ có một khoảng diện tích nhỏ hơn miếng ván hòm. Trời mưa lạnh đến cắt da, có lẽ vì chúng tôi ăn đói nên cảm thấy lạnh. Đêm đến, gió rừng thổi ào ào nghe như tiếng mưa bão. Thật là sầu thối ruột, buồn áo não.











(Vượt biên đường bộ tìm tự do)











Kim Hà











Chương II-III Cảm Tưởng Của Ông Lê Bá B















Chúng tôi chỉ ở trại Panatnikhom có bốn mươi lăm ngày rồi phải rời Thái Lan để đến trại Bataan ở Phi Luật Tân vào ngày 22, tháng 3, năm 1983. Chính phủ Thái Lan đã ra hạn với các phái đoàn là họ chỉ muốn chứa dân tị nạn trong vòng 45 ngày ở tại Chonburi mà thôi.











Sau đó chúng tôi ở tại trại Bataan, Phi Luật Tân trong năm tháng. Tại đây có nhiều người Mỹ thiện nguyện đến dạy Anh văn cho dân tị nạn.











Tuy chúng tôi đã được định cư tại California, nhưng chúng tôi vẫn lo lắng và thương xót cho số phận những người tị nạn đường bộ còn bị kẹt lại ở nhà thương Non Samet. hoặc vì họ không thi đậu tiếng Việt, hoặc vì họ đi vượt biên sau khi trại NW 82 đóng cửa.








Số người đến sau lại phải nằm chờ đợi trong suốt những năm tháng dài dằng dặc, trong các trại tị nạn và sống chung với người tị nạn Cambodia, trong điều kiện kém an ninh, mất vệ sinh và mất tất cả những điều kiện sinh sống tối thiểu.











Hiện nay trong những người tị nạn bất hạnh ấy có cả em trai ruột của tôi là Lê văn Hưng. Tôi sẽ cho chị Kim Hà thêm chi tiết về cuộc vượt biên của em tôi. Có điều đáng buồn là hầu như báo chí ở trên thế giới đều tưởng là ở các trại này đã hết người tị nan Việt nam rồi mà chỉ còn có người dân Miên mà thôi.











Tôi rất mong mỏi rằng chính phủ Mỹ cũng như chính phủ các nước tự do sẽ lưu tâm cứu giúp những người tị nạn đường bộ còn ở tại các trại tị nạn như trại Dongrek và Site II.

No comments: