Thursday, October 8, 2015

PHẠM GIA ĐẠI * HỒI KÝ NHỮNG NGƯỜI TÙ CUỐI CÙNG III,


HỒI KÝ NHỮNG NGƯỜI TÙ CUỐI CÙNG CỦA PHẠM GIA ĐẠI - KỲ 5


1 2 3 4 5 6 7

Thiên Hồi Ký về "Những Người Tù Cuối Cùng" nhằm nói lên tinh thần bất khuất, sức chịu đựng phi thường cùng lòng dũng cảm và sự tương thân tương ái của những quân dân cán chính VNCH đã bị giam giữ, lưu đầy trong các trại gọi là "Tập Trung Cải Tạo" của Cộng Sản sau khi miền Nam sụp đổ vào ngày 30-4-1975.






Thiên Hồi Ký cũng để nêu lên những sự diệu kỳ và linh thiêng của Ơn Trên, của Trời Phật của Mẹ Việt Nam đã che chở cho những người tù....trong nhà tù CS.






Đọc xong thiên Hồi Ký này, chúng ta sẽ thấy những sự tuyên truyền xuyên tạc của Cộng sản nhắm vào chế độ VNCH đã từ từ tan rã như bọt nước; và những sự trả thù tàn bạo của Cộng Sản dành cho những người tù chế độ cũ đã không thành công như ý chúng muốn và thế cờ đã được lật ngược như thế nào




Phần XVIII: Người Tù Bất Khuất






(Kính dâng lên anh linh của anh Cả chúng tôi là Phạm Gia Quang, khóa 20 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và dâng lên anh linh của em họ tôi Trung Úy Công Binh Kiến Tạo Tạ Mạnh Cường, người tù bất khuất.)






Đất nước chúng ta trải qua bốn ngàn năm văn hiến đã thành tựu trong việc gầy dựng lên một quốc gia hùng mạnh và đầy sức sống mãnh liệt cũng như trong công cuộc giữ nước đã bảo vệ được đất đai của tổ tiên chống lại không biết bao nhiêu lần ngoại xâm từ phương Bắc.






Chúng ta đã có những triều đại lẫy lừng như Đinh, Lê, Lý, Trần với những nền văn minh rực rỡ và mỗi khi tổ quốc lâm nguy thì lại xuất hiện nhiều anh hùng hào kiệt để giải nguy và cứu nước.






Bình Định Vương Lê Lợi với mười năm nằm gai nếm mật để đánh đuổi quân Minh và phục hồi giang san lấy lại Thăng Long thành.




Vua Quang Trung Nguyễn Huệ với chiến thuật chuyển quân thần tốc đã đại phá quân Thanh chiếm lại kinh đô trong hào quang ngời sáng.






Vua nhà Trần với quốc sư Trần Thủ Độ, với danh tướng như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, đã ba lần bẻ gẫy mộng xâm lăng của quân Mông Cổ làm rạng danh đất Việt và làm quân thù thất kinh hồn vía.






Lý Thường Kiệt đã xuất quân chinh phạt Tống và chiếm ba Quận phía Nam Trung Hoa viết nên trang sử vàng cho dân Việt.






Nhưng qua thế kỷ Hai Mươi thì vận nước bắt đầu suy vong và ngày 20-7-1954, Hiệp Định Genève đã chia cắt Việt Nam thành hai miền Nam Bắc qua vĩ tuyến 17 và hàng triệu người đã phải bỏ lại quê hương đất Bắc sau lưng mà di cư vào miền Nam lánh nạn Cộng Sản.






Một chế độ Tự Do đã dần dần hình thành một cách vững mạnh trong miền Nam và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng dần dà trưởng thành trong khói lửa của chiến tranh vì Miền Bắc theo chế độ Xã Hội chủ Nghĩa, đã theo mệnh lệnh của Cộng Sản Quốc Tế Nga – Tầu, lại xua quân qua vùng Phi Quân Sự để tấn công miền Nam, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Genève vừa ký kết.






Khi ấy trong miền Nam đang vui hưởng cảnh thanh bình và an lạc nhưng các chàng trai, các thanh niên đã lần lượt phải giã từ bút nghiên lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi của núi sông để bảo vệ nền Tự Do cho miền Nam chống lại họa Cộng Sản muốn nhuộm đỏ cả giải đất hình chữ “S”.













Họ đã trở thành những người lính, những sĩ quan tài giỏi thao lược và trở thành những anh hùng lưu danh muôn thủa trong các binh chủng của QLVNCH, nối gót cha ông và nối gót tiền nhân, đi trên khắp các nẻo đường của đất nước để bảo vệ quê hương chống họa xâm lăng từ phương Bắc.















Hầu như gia đình nào cũng có con em nhập ngũ trong những năm đầu của thập niên sáu mươi tại Sài Gòn và khắp các tỉnh miền Nam.















Gia đình tôi có chín anh em không kể “con bé dại”, Mẹ tôi vẫn gọi đứa em gái vắn số của tôi như vậy khi nó mất đi mới có vài tháng tại Hải Phòng lúc đó tôi nhớ còn ở đường Cát Dài chưa dọn về Cầu Đất.















Tôi tuy sanh đẻ tại Nam Định nhưng trong ký ức không còn nhớ gì về thành phố nơi chôn nhau cắt rốn này của mình, bởi mới sanh ra thì Ba Mẹ tôi đã đi tản cư liên miên ra khỏi Nam Định vì các thành phố lớn đều là mục tiêu cho các cuộc tấn công và phá hoại của Việt Minh và giao tranh của Pháp-Nhật tại Đông Dương. Người dân lành chỉ còn biết trốn chạy lúc thì trốn Việt Minh, lúc thì trốn quân phiệt Nhật để qua vùng Pháp kiểm soát, lúc thì trốn các cuộc giao tranh giữa Pháp - Việt Minh, thật vô vàn cơ cực.















Thành phố Hải Phòng là nơi thiếu thời của tôi và ba ông anh lớn và là nơi mà tôi còn ghi lại được nhiều kỷ niệm, nhất là những năm tháng theo học tại trường Dòng Saint Joseph. Hai đứa em út thì sanh trong Nam nhưng ba em gái tôi sanh tại miền Bắc lúc đó cũng quá nhỏ nên tôi không nhớ tụi nó nhiều hay có nhiều kỷ niệm như với ba ông anh trai.















Bốn anh em trai lớn trong gia đình tôi mà Ba Mẹ đặt tên Quang, Minh, Chính, Đại, thực tế thì tính tình lại không giống nhau và có những cuộc đời cũng khác nhau dù là cùng một cha một mẹ.















Ông anh Cả thì hiền lành và đạo đức nhưng có khuynh hướng thiên về quân sự ngay từ nhỏ khi thích bầy binh bố trận với các tên lính bồng súng và các xe jeep bằng thiếc mà Ông Nội tôi đúc cho và anh cũng rất say mê họa các hình võ tướng ngày xưa như vua Quang Trung, Lê Lợi , Trần Hưng Đạo với áo mão gươm đai.















Ông thứ Hai thì tinh khôn trước tuổi và có lẽ lấy hết sự khôn lanh của ông anh đầu, có lẽ vậy mà sau này khi di cư vô Nam mới hai mươi tuổi đã lấy vợ và sống tự lập từ khi vừa xong hai cái Tú Tài ở Trung Học Võ Tánh, Nha Trang.















Ông thứ Ba thì trầm tĩnh hơn, khôn ngoan và chín chắn hơn trong bốn anh em, có vẻ như già trước tuổi mà hồi bé tôi vẫn gọi anh là “ông cụ non”. Cũng không ngờ là “ông cụ non” ấy sau này lại là thủ khoa của khóa 13 sĩ Quan Hải Quân Nha Trang.















Khi anh đậu thủ khoa thì một số người ngạc nhiên bởi lẽ trong khóa 13 có một anh là cháu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nên ai cũng nghĩ rằng anh này, vì con ông cháu cha, sẽ là thủ khoa. Nhưng xét lại điểm thì anh Ba tôi hơn anh kia đến 27 điểm, quá xa để có thể thay đổi thứ bậc được và đây cũng là một điệm son của chế độ VNCH chúng ta, khác hẳn chế độ Cộng Sản mọi việc đều do chỉ định theo giai cấp và đảng tịch chứ không do tài cán.















Còn tôi khi di cư vào Nam mới lên chín tuổi và tính vốn hiền và nhút nhát từ nhỏ nên bảo sao làm vậy là yên thân và được Ba Mẹ khen ngoan chứ không hay bị la rầy vì nghịch ngợm như ông anh thứ Hai.















Ba Mẹ tôi cứ nói là ông anh thứ Hai lanh quá nên lấy hết cái khôn ngoan của ông anh Cả rồi nhưng không ngờ khi lớn lên thì ông anh Cả lại nổi danh hơn nhiều so với ông thứ Hai dù là cả hai anh em đều là sĩ quan phục vụ cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh đóng tại Lai Khê, Bình Dương.















Khi chúng tôi lớn lên thì vận mệnh đất nước nổi trôi lại đưa bốn anh em tôi đi theo bốn con đường khác nhau, ngay sau khi mỗi người vừa đỗ xong bằng Tú Tài toàn phần.















Anh Cả sau một thời gian vài năm đi dậy học các trường tư thục tại Sài Gòn thì tình nguyện vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt khóa 20 và trong thời gian thụ huấn anh có biệt hiệu là “Quang Râu” vì có bộ râu quai nón đẹp rất là con nhà võ. Anh tôi đã theo chân cậu em họ là Tạ Mạnh Huy đang theo học khóa trước là khóa 19.















Ông thứ Hai vào ngành Quân Y và thuyên chuyển về Sư đoàn 5 Bộ Binh tại Bình Dương để lo về y tế cho các thương bệnh binh hay cùng hành quân với tiểu đoàn. Một vài người lính của anh tôi về phép Sài Gòn ghé lại nhà chơi thường cười nói với Mẹ tôi là ông Trung Úy Minh, tên anh Hai tôi, bây giờ “ngon” rồi chứ lúc đầu ông ấy thấy máu là muốn xỉu à, vậy thì làm sao mà cấp cứu thương binh?















Ông thứ Ba vào khóa 13 sĩ quan Hải Quân Nha Trang và vui với những chuyến hải hành lấy biển khơi làm nhà, ít có dịp lên “Bờ”.















Có một thời gian anh tôi phục vụ trong đoàn Biệt Hải phối hợp với toán người Nhái oai hùng của HQVN để thi hành những hải vụ nguy hiểm tại vùng Phi Quân Sự làm cho Mẹ tôi nhiều khi cũng ăn ngủ không yên, nhưng làm sao được vì người trai trong thời loạn ly lúc đó thì chỉ có một chí hướng duy nhất là chống lại sự xâm lăng của đám vô thần cuồng tín Cộng Sản Bắc Việt để giữ vững miền Nam bằng mọi giá.















Anh Ba tôi những khi từ Nha Trang về phép Sài Gòn và khi ngồi ăn trong không khí ấm cúng của gia đình vừa nhấm nháp các món ăn mà Mẹ và các em gái tôi nấu, thường hay kể về người Nhái HQVN với giọng nể phục.




Anh kể về những trận đánh hầu như huyền thoại, về các cuộc hành quân chớp nhoáng rồi rút lui của toán Biệt Kích người Nhái này mà ít khi nói về đoàn Biệt Hải của anh, nhưng tôi ngầm hiểu rằng anh tôi cũng là những sĩ quan đã tham dự trong các trận chiến âm thầm nhưng vô cùng hiểm nguy với cái chết và cái sống chỉ cách nhau gang tấc đó nữa nhưng anh không kể ra vì sợ Mẹ lại lo buồn.













Vì từ khi Ba tôi mất thì Mẹ tôi đã ở vậy nuôi con lúc mà cậu em út của tôi mới lên một, và tất cả tình thương thì Mẹ đã hết dành cho chúng tôi dù là hầu như các con đều đã lớn. Ngược lại thì anh em chúng tôi cũng dồn tình yêu thương dành cho Mẹ và luôn làm vừa lòng cũng như tránh làm gì cho Mẹ phải lo nghĩ.















Các anh tôi nhất là anh Cả và anh Ba luôn hiếu thảo, mỗi tháng lãnh lương xong là anh Cả cho vài người lính về phép để ghé nhà đưa hầu như toàn bộ số lương cho Mẹ tôi. Anh Ba thì trong thời gian huấn luyện tại trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang lãnh lương Trung sĩ một ngàn ba một tháng thì chỉ giữ lại đúng một trăm đồng bỏ túi và trừ các khoản chi phí thì gửi hết phần còn lại về cho Mẹ. Tháng nào tôi cũng đạp xe lóc cóc ra Bưu Điện Sài gòn để lãnh tiền lương anh gửi về và những dịp Tết, Trung Thu thì lại lóc cóc đạp xe ra Bưu Điện để gửi bánh trái ra Nha Trang cho anh.















Nhưng có điều tôi ít ngờ tới là cuộc đời tôi và anh Cả tôi lại có những thời gian gắn bó bên nhau trong những năm tháng lưu đầy nơi đất Bắc sau khi mất miền Nam.















Tôi lớn lên trong thành phố Sài Gòn hoa lệ. Sài Gòn là thủ đô miền Nam nhưng với tôi Sài Gòn là tất cả, là thời niên thiếu, là thời hoa niên học trò tại trường Trần Lục, Tân Định, là Chu Văn An trong Chợ Lớn, là nơi tôi đã trưởng thành trên con đườngTrương Minh Giảng thân thương với rạp hát Văn Lang gần bên, trường Lê Bảo Tịnh trước cửa, là nhà cô ruột tôi với các cậu em họ trong ngõ hẻm bên cạnh, và quá nhiều kỷ niệm.















Trước khi thi Tú Tài, tôi cũng theo anh Cả đi dậy kèm các trẻ em tư gia để kiếm thêm giúp cho Mẹ. Cho đến lúc đỗ Tú Tài toàn phần xong thì một hôm, tôi tình cờ đọc một tin trên báo Chính Luận, cái tin tức mà đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời sinh viên của tôi.















Đó là Không Quân Hoa Kỳ trong căn cứ Tân Sơn Nhất của KQVN tại Sài Gòn đang cần tuyển nhân viên. Vì muốn giúp cho Mẹ nhiều hơn là đồng lương ít ỏi của kèm trẻ tại tư gia nên tôi tham dự thi tuyển và được tuyển dụng về Phân Đội Sáu của Đệ Thất Không Đòan, một đơn vị quân báo của không quân Hoa Kỳ.















Tôi bắt đầu bước vào ngành tình báo lúc nào không hay nhưng tôi lại cảm thấy rất thích thú với vịêc làm mới mẻ này của mình vì hai lẽ. Thứ nhất, tôi sẽ giúp cho gia đình vững vàng hơn với số lương tháng đưa về cho Mẹ nhiều hơn, vì sau khi Ba tôi mất thì Mẹ nói là còn nợ nần nhiều với chi phí cho nhà thương Grall bao nhiêu tháng trước kia. Thứ hai là tôi có dịp góp mặt trực tiếp vào công cuộc chống lại họa xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt và diệt trừ lũ Cộng phỉ VC đang ngày đêm đốt phá xóm làng giết hại dân lành.















Trước đó khi nghĩ đến ba anh trai tôi đang xông pha ngoài chiến trận mà mình thì cứ mãi trong học đường làm nhiều lúc tôi cũng không yên trong thâm tâm và mang mặc cảm tội lỗi với cuộc sống quá yên bình tại Sài Gòn.















Nhất là có lần tôi đã đến tham dự buổi khao quân của anh Cả tôi lúc đó là Trung Úy, đại đội trưởng đại đội Trinh Sát của Trung Đoàn 7, Sư Đoàn 5 BB ở Lai Khê về các chiến công lẫy lừng của đại đội Trinh Sát. Những chiến công thì nhiều nhưng nổi bật có thể kể đến trận Ấp Ba, trong đó đại đội đã quét sạch được VC ra khỏi Ấp mà đơn vị không bị một tổn thất nào trong khi tiểu đoàn bạn đã không thể vào nổi mà còn khiêng ra ngoài gần chục lính bị thương; và chuyến nhẩy trực thăng vận xuống mật khu VC phá hủy một căn cư “hậu cần” của địch.















Tôi đã thấy Trung Đoàn Trưởng lúc đó là Trung Tá Lê Nguyên Vỹ lên micro biểu dương chiến công của đại đội Trinh Sát trực thuộc trung đoàn này, gắn huy chương cho các sĩ quan binh sĩ Trinh Sát có nhiều công trận và anh tôi được Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu.















Tôi có dịp nói chuyện với các sĩ quan trẻ tuổi trong đại đội trinh sát và thấy họ thật dễ mến hiền hòa nhưng lại rất dũng cảm hoàn thành được nhiều cuộc hành quân gian khổ mà Trung Đòan giao cho.















Mỗi Trung Đoàn của Sư Đoàn 5 Bộ Binh chỉ có một đại đội Trinh Sát được trang bị với toàn những vũ khí tối tân và được xem như đơn vị tác chiến cơ động với hỏa lực mạnh nhất, thiện chiến nhất và là “con cưng” của Trung Đoàn. Đơn vị Trinh Sát này luôn trong tình trạng ứng chiến và nhận lệnh thẳng từ Ban Chỉ Huy của Trung Đoàn và thường được giao cho những nhiệm vụ khó khăn mà tiểu đoàn bạn không thể thực hiện được.















Vì thế mà anh Cả tôi ít khi thấy về phép mà mỗi tháng chỉ cho hai người lính về Sài Gòn thăm gia đình họ rồi nhân tiện đem tiền lương của anh về cho Mẹ tôi mà thôi. Riết rồi anh Cả tôi không những nổi tiếng trong Trung Đoàn là một cấp chỉ huy không sát quân mà còn là một người con rất hiếu thảo.















Mẹ tôi mỗi tháng khi thấy chiếc xe jeep quân đội ngừng trước cửa hàng, lúc đó Mẹ tôi đã chuyển qua bán quần áo trẻ em, trên đường Trương Minh Giảng thì lại phập phồng lo sợ cho đến khi hai người lính nói là ông đại đội trưởng gửi lương tháng về cho Mẹ.















Thời gian đó, tôi thấy một niềm tự hào không những về anh mình mà về cả đại đội trinh sát thiện chiến của anh, về Trung Đoàn 7 BB, về Sư Đoàn 5 BB và cả về QLVNCH nữa đang trải rộng những hành quân ngày đêm ra trên khắp bốn vùng chiến thuật trong công cuộc tiễu trừ Cộng phỉ này ra khỏi miền Nam.















Bởi thế nên tôi đã quyết định dấn thân và và lao mình vào làm việc với hơn năm năm trời cho Phân Đội Sáu của không quân HK.















Tôi bay đi về từ Sài Gòn ra Đà Nẵng thường xuyên để cùng phối hợp với các đơn vị quân báo VN của Quân Đoàn I. Những khi ở Sài Gòn thì tôi cùng Phân Đội này ghé lại làm việc tại Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè để phối hợp thêm tin tức về những hoạt động của VC trong vùng của Ba Chiến Thuật.















Trong thời gian này tuy tôi dồn hết nỗ lực vào làm việc cho Phân Đội Sáu nhưng vẫn không quên việc học vấn nên cố theo học ban Cử Nhân Anh Văn tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn dù gập rất nhiều khó khăn vì không thể đến trường thường xuyên.















Số tôi luôn có quí nhân phù trợ hay sao cho nên có một anh bạn thân thời học chung trường Chu Văn An là Nguyễn Đình Phương đã lấy dùm “cua” cho tôi đầy đủ và năm đó không hiểu có sao may mắn chiếu vào hay không mà tôi đậu luôn hai chứng chỉ Văn Minh VN khóa I và đậu Văn Chương Văn Minh Mỹ khóa II.















Có một kỷ niệm mà tôi không quên được là khi tôi vừa xong một chuyến công tác ra Đà Nẵng, khi bay về Sài Gòn thì ngày hôm sau phải vào vấn đáp cho chứng chỉ Văn Chương Văn Minh Mỹ.















Hai giáo sư theo như sinh viên thì thầm thì đều khó như nhau. GS Diệm thì nhớ mặt các SV thường xuyên tới lớp và GS người Mỹ thì “quay” SV tối tăm mặt mũi lại về các tiêu thuyết phải đọc trong chương trình.















Một SV lên trước tôi là người mà không hề vắng mặt thì lại bị thầy Diệm hỏi là sao tôi không thấy anh đến lớp bao giờ và bị đánh trượt oan mạng. Khi tôi có tên lên kế tiếp thì chắc mẩm là sẽ ăn một quả trứng to tướng vì tôi chẳng hề đến lớp thầy bao giờ nhưng thật lạ lùng là thầy hỏi thẳng vào cuốn tiểu thuyết The Scarlet Letter như vậy là tôi trúng tủ vì học quyển này rất kỹ.















Đến khi qua phòng bên vào vấn đáp với GS Mỹ thì chính ông này lại hỏi là tôi có thường đến lớp hay không mới lạ chứ? Tôi bèn trình bầy sự thật là vì chiến tranh đang lan rộng và tôi đang phục vụ cho Phân Đội Sáu, một đơn vị Quân Báo của Đệ Thất Không Đoàn HK, nên không thể có mặt được thường xuyên. Nhưng nếu mà GS thông cảm cho tôi 10 điểm thì tôi sẽ chắc chắn đậu chứng chỉ này và tôi hứa sẽ thu xếp thời gian để có mặt tại giảng đường nhiều hơn.















Chả hiểu ông bà phù hộ hay sao mà ông GS Mỹ này cho tôi đúng 10 điểm như yêu cầu.















Quả là học tài thi phận. Mẹ tôi có dịp lại khen tôi trước mặt các bà bạn của Mẹ hay với các chị đang giúp may vá trong nhà là tôi học giỏi vì vừa đi làm vừa đi học nữa mà được như vậy. Riêng tôi khi gập mấy cô bạn của các em gái tôi thì có vẻ hơi làm cao một tí.















Thế rồi chiến sự bùng nổ ra khắp bốn vùng chiến thuật. Sau hai lần VC mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 thì tôi cảm thấy người Mỹ hình như đang muốn rút bớt quân số của họ đang tham chiến tại miền Nam về nước.















Một hôm trong năm 1969, các người bạn Mỹ trong Phân Đội Sáu nói với tôi là họ đang chuẩn bị rời VN và muốn giới thiệu tôi qua Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn.















Tôi đến Tòa Đại sứ Mỹ nộp đơn để tham dự một kỳ thi và trúng tuyển vào làm cho họ nhưng cũng có duyên nghiệp với ngành tình báo hay sao, cho nên từ Tòa Đại Sứ họ chuyển chúng tôi gồm 27 nhân viên qua yểm trợ cho Phủ Tổng Thống, nhưng nhiệm sở thực tế lại là Phủ Đặc Ủy Trung ương Tình Báo (PĐUTƯTB) trực thuộc Phủ Tổng Thống.















Chính vì thế mà sau khi miền Nam sụp đổ, tôi thường hay bị giam chung với các người tù thuộc các ngành ANQĐ, CSĐB hay PĐUTƯTB, hay Quân Báo.




Trong chế độ VNCH trước kia của chúng ta, có rất nhiều các quân dân cán chính tài giỏi và anh hùng, không những khi đối mặt với quân thù ngoài trận tuyến nhưng ngay cả khi họ sa vào trong ngục tù, và lưu đầy, họ cũng âm thầm chịu đựng một cách can trường mọi sự trả thù tàn nhẫn và phi nhân bản mà kẻ thù dành cho họ.













Thời gian lưu đầy ở ngoài Bắc có một dịp tôi được gập những người Biệt Kích nhẩy toán ra Bắc thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Các anh đều sống rất kỷ luật, vẫn tôn trọng cấp bậc quân đội, và buồng giam đều giữ sạch sẽ ngăn nắp. Khi ngồi tâm sự với nhau, các anh cũng nói tới cái niềm đau không thể diễn tả được khi nghe tìn Sài Gòn đâ mất ngày 30-4-1975.















Lần đầu tiên, nhiều anh đã không còn cầm được nước mắt vì chính trong thâm tâm các anh cũng như đồng bào miền Bắc đều trông đợi một ngày nào đó QLVNCH trong Nam sẽ ra giải phóng miền Bắc và các anh sẽ thoát cảnh tù đầy rồi trở về mái nhà xưa; nhưng tất cả đã hoàn toàn sụp đổ một cách chua cay và đen tối.















Khi nước mất thì nhà tan, ngoài anh Ba tôi được cử đi tu học một khóa HQ tại Rhode Island, HK và gia đình vợ con anh qua cơ quan D.A.O đã đi thoát được trước ngày Sài Gòn sụp đổ thì ba anh em tôi còn lại đều vào tù.















Bên gia đình cô Hanh là em út của Ba tôi với tám trai bốn gái thì bẩy con trai đã trong quân đội và năm người đi “cải tạo” sau ngày 30-4, chỉ trừ một cậu là hạ sỹ quan, và một cậu nữa giải ngũ thì tránh được cảnh ngục tù, còn cậu út thì được miễn dịch.















Nhà Mẹ tôi thì ngoài mặt đường Trương Minh Giảng, nhà cô tôi thì trong hẻm nhưng chỉ cách nhau vài trăm thước nên bốn anh em trai chúng tôi rất thân với các cậu em họ dù là vài anh lớn tuổi hơn chúng tôi nhiều. Trong những năm của thập niên sáu mươi thì hai gia đình từ từ vắng người dần bởi các anh tôi và các em họ tôi đều đã lần lượt nhập ngũ vào Thủ Đức hay Đà Lạt.















Mẹ tôi vẫn nói là cô ruột tôi rất là can đảm vì một lúc mất đến bốn người con trai sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản.















Anh Hải là anh lớn thì sau hai năm “cải tạo” đã trốn được ra khỏi trại giam ở trong Nam và trốn vào rừng nhưng mất tích và không nghe tin tức gì từ đó. Điều lạ lùng là một thời gian cả chục năm sau, có lần tôi lại nằm mơ thấy anh y như lúc anh còn sống, và anh dắt tôi vào trong một khu rừng rồi chỉ vào một gốc cây rồi nói với tôi rằng: “Đại ơi! Tôi ở chỗ này này”. Gốc cây ấy to như gốc cổ thụ và phát ra nhiều ánh sáng vàng nhạt trong khi những thân cây khác ở chung quanh thì mờ mờ trong bóng tối làm cho tôi tin rằng anh đã mất tại gốc cây này và đã hiển linh.















Khi tỉnh dậy tôi nhớ giấc mộng đó như in và thông báo cho gia đình bên cô tôi biết mà làm ma chay cho anh bởi lẽ cô tôi nhất định tin rằng anh đã trốn được qua Thái Lan dù là hơn mười năm đã trôi qua không hề có một chút tin tức nào về anh.















Anh thứ tư là Trường và thứ sáu là Linh thì mất tích và chết trên biển trên đường đi tìm Tự Do sau khi ra khỏi trại giam vài năm.















Anh Trường chết trong tình trạng rất là tội nghiệp vì khi ra tù thì anh nguyện ăn chay trường cho nên khi con thuyền lênh đênh trên biển nhiều ngày và hết lương thực, mọi người vớt được cá và sống sót nhưng anh nhất định không chịu ăn cá và nhịn đói - anh là người duy nhất thiệt mạng trên chuyến tầu đó.















Nhưng câu chuyện về anh Cường là con thứ ba của cô ruột tôi mới là câu chuyện bi thương và hùng tráng nhất của một người tù bất khuất đã có những hành động phi thường làm cho kẻ thù phải khiếp đảm.















Anh Cường, Tạ Mạnh Cường từ nhỏ đã ưa thích võ nghệ nên được cô chú tôi cho đi học võ cùng với người em là Tạ Mạnh Trường tại võ đường của Tổ Sư Lộc người sáng lập ra môn phái Vovinam ở Hà Nội.















Tôi nhớ lúc đó tôi mới năm tuổi cùng ba ông anh tôi được Ba Mẹ cho lên chơi Hà Nội ở nhà cô tôi ba tháng Hè. Anh Cường đã huấn luyện võ cho chúng tôi với thế tập đầu tiên là lộn mèo qua lưng một người khác trước khi có thể tập tự mình tung người lên trên không và lộn một vòng. Các anh thì đều tập được nhưng tôi có lẽ còn quá nhỏ và không có năng khiếu võ thuật hay sao mà lộn hoài không xong. Lúc ấy anh Cường thường nhìn tôi mỉm cười lộ chiếc răng vàng ra và cho tôi miễn tập làm cho tôi vô cùng khoái chí vì “ông thầy”không phạt mình.















Anh kể rằng Tổ Sư Lộc võ nghệ uyên thâm không biết đâu mà lường và là người mà lần đầu tiên trong đời anh thấy Tổ Sư chỉ ngồi tại bàn giấy và nghe tiếng gió mà tránh hết các đòn tấn công của học trò đứng chung quanh.















Anh Cường khi di cư vào Nam thì đã lên đẳng cấp Võ Sư và tôi đã có dịp hân hạnh được xem anh và phái đoàn Vovinam biểu diễn tài nghệ tại rạp Thống Nhất lúc đó tên là rạp Norodome tại Sài Gòn vào khoảng năm 1956. Đặc biệt của môn phái Vovinam là biểu diễn không có nệm tapis như Nhu Đạo hay các môn võ khác mà quật nhau thẳng trên sàn gỗ và dao sử dụng là con dao thiệt.















Dưới khán giả cũng có nhiều môn phái bạn ngồi xem và tôi cũng như tất cả khán giả đều vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt khi anh Cường biểu diễn cú chặt bằng cạnh bàn tay đánh rơi con dao của một võ sinh khác đóng vai kẻ cướp tấn công anh và màn anh tung người nhẩy qua một võ sinh để dùng hai chân cặp cổ quật một võ sinh khác.




V





õ sinh bị chặt rớt con dao thì cổ tay vẫn còn đau ê ẩm vì anh Cường biểu diễn thật, và võ sinh bị cặp cổ thì dù đã lộn người theo thế quật nhưng sau đó vẫn còn hãi sợ vì chút nữa thì bị trặc cổ.















Tôi thấy vị Võ sư trưởng môn phái Nhu Đạo và nhiều người của môn phái bạn và trong đó có chú bé con là tôi cũng đứng lên vỗ tay hoan hô mấy màn biểu diễn của anh Cường.















Vì hai nhà ở gần nhau nên tôi thường chạy qua nhà cô tôi chơi.















Có lần tôi vừa qua thì thấy cô em họ tôi đang nấp sau cánh cửa, tay cầm cái gáo bằng nhựa định hù anh mình. Khi anh Cường vừa bước chân qua cánh cửa thì cô ta đập cái gáo vào đầu anh Cường để rỡn chơi thôi nhưng phản xạ tự nhiên, anh vung tay lên chém và cái gáo bay tuốt ra sân, còn cô em họ tôi thì mất cả hồn vía ôm mặt khóc hu hu làm tôi không nhịn được cười.















Anh giòng giỏi con nhà võ vì chú ruột của anh có một gánh xiếc lưu diễn khắp miền Bắc qua nhiều tỉnh thành và từ vùng trung du lên cả mạn ngược, thời gian trước năm 1954. Đi đến đâu thì gánh xiếc này cũng đều gặt hái thành công. Gánh xịêc họ Tạ này nổi danh vì ông chú của anh là một người võ nghệ cao cường thường tay không chế ngự được con cọp và điều khiển nó theo ý mình.















Anh như vậy là nối giõi con đường võ nghệ theo chân ông chú chứ Ba của anh thì võ vẽ chẳng biết một tí gì lại rất là hiền lành và chỉ chuyên về buôn bán.















Tuy hai anh em đều theo học cùng lúc với Tổ Sư Nguyễn Lộc nhưng anh Cường tài nghệ giỏi hơn người em cho nên khi vào trong Nam một thời gian sau thì anh Cường được mời làm huấn luyện viên cho Cảnh Sát Quốc Gia tại Sài Gòn.















Tôi nhớ có một lần tụi tôi cũng năm sáu người ra quán Mai Hương góc đường Lê Lợi và Công Lý ngồi ăn kem và nhìn ông đi qua bà đi lại cho vui.















Khi ấy, quán này có một toán cao bồi hay đóng đô tại đây và quấy nhiễu các khách hàng mà chủ quán cũng không dám ho he gì vì sợ chúng phá quán. Bọn chúng đông cũng khoảng chục mạng, tay nào tay nấy ăn mặc quần áo theo kiểu chim cò đúng là dân chơi cao bồi thứ thiệt, và hôm đó không biết chúng ngứa mắt ra sao mà tính qua bàn chúng tôi cà khịa.















Anh Cường vẫn thản nhiên như không, vẫn cười nói với chúng tôi và chỉ ngoái lại bàn phía sau nói với tên đầu đảng cao bồi này anh là Huấn Luyện Viên võ thuật cho Cảnh Sát và muốn hơn thua thì đến Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát.















Nghe đến đó thì chúng lấm lét rồi từ từ dông hết làm cho tôi vừa phục anh vừa khoái chí nữa vì “ông thầy” đã cho bọn chúng một bài học nhưng không cần phải ra tay. Cũng từ đó thì đám cao bồi này dời “đô” đi nơi khác không còn thấy tại quán kem Mai Hương nữa.















Tôi hồi nhỏ ở Hải Phòng thì theo học tại trường Dòng St. Joseph, không biết có phải vì kỷ luật và giáo dục tại trường này rất chặt chẽ hay không mà tính tôi vốn nhút nhát lại càng thêm hay sợ hãi và thiếu tự tin. Chính vì thế mà hồi mới di cư vào Sài Gòn, đi đâu có anh Cường hay các em họ con cô tôi thì tôi rất là yên tâm và tụi tôi thân với nhau nhất vì toàn là con trai và mang tiếng là em họ nhưng các anh ấy đều lớn tuổi hơn tôi nhưng vẫn thân mật gọi tôi bằng "anh" theo đúng lễ giáo ngày xưa.















Bên bác Phán là chị ruột Ba tôi thì ở Hải Dương và gia đình bác lại toàn con gái hay các anh thì quá lớn không thèm chơi với bọn tôi cho nên bốn anh em chúng tôi từ Hải Phòng thường được Ba mẹ mua vé máy bay mỗi dịp Hè để đến thăm cô tôi tại Hà Nội nhiều hơn là xuống Hải Dương. Những lúc như vậy thì có cơ hội tập hợp hết cả lũ con trai với nhau hơn chục đứa và tha hồ nghịch phá bởi cô tôi rất dễ tính và lại hay chiều con cháu.















Thế rồi Hiệp Định Genève di cư vào Nam, bốn anh em trai tôi lại có dịp ở chung một thời gian với các cậu em họ trong nhà cô tôi tại Bến Chương Dương cho đến khi cô tôi dọn về Trương Minh Giảng thì chúng tôi mới tách ra nhưng vẫn giữ tình anh em rất là thân thiết.















Rồi lớn lên, mỗi người vào quân ngũ và bay đi bốn phương trời cho đến ngày mất miền Nam thì tôi, anh Cả tôi và anh Huy là con trai thứ năm của cô tôi bị đưa ra miền Bắc.















Anh Cường, Trường và anh Linh vì là Trung Úy Công Binh và văn phòng nên bị giam giữ tại Suối Máu trong miền Nam. Ít năm sau thì anh Linh và anh Trường được thả về nhưng anh Cường vẫn bị giữ lại dù anh chỉ là Công Binh Kiến Tạo xây dựng cầu đường mà thôi.















Lý do giản dị vì anh là cái gai trong mắt của bọn cán bộ trại bởi tính tình cương trực của anh hay bênh vực đồng đội nên anh bị ghép vào tội chống đối "cải tạo và lao động".















Những khi họ đọc lệnh thi hành kỷ luật với người tù nào mà anh thấy bất công là anh đứng lên phản đối, đòi lại sự công bằng.















Sau đó họ di chuyển anh về một trại trong vùng Tống Lê Chân gần biên giới Việt-Miên và anh bị giam trong thùng "connex" sau lần bênh vực một người bạn tù.















"Connex" là một loại thùng lớn bằng tôn dầy của quân đội Mỹ trước kia dùng để chứa các kiện hàng di chuyển theo đường biển cho quân đội Hoa Kỳ trong miền Nam.















Cái nắng khủng khiếp của vùng rừng núi nhất là vào giữa trưa như hun đốt anh trong hỏa lò cộng với sự bỏ đói và bỏ khát là một hình thức tra tấn tàn bạo của trại giam mục đích để tiêu diệt ý chí và dũng khí của anh, nhưng anh vẫn không đầu hàng để được thả ra khỏi "connex" sớm hơn.















Các bạn anh bên ngoài đã khôn khéo mua chuộc được mấy tay nhà bếp nên anh đã được cho ăn khá hơn với miếng thịt hay miếng cá nằm dưới ít khoai sắn và họ đã chuyển vào cho anh được cái đinh bù loong mười phân.




Chính cái đinh này đã cứu anh sống sót sau hai tuần giam trong "connex". Mỗi khi họ cho ít nước hay phần ăn ngày một lần thì khi họ đóng cánh cửa thì anh lại nhét cái đinh này vào khe cửa, nhờ thế mà những trưa Hè nắng như đổ lửa và anh sắp ngạt thở trong cái thùng bít bùng này thì anh bò lại gần khe cửa và ghé mũi sát vào cái khe hở nhỏ xíu đó mà hít được ít hơi mát từ bên ngoài.













Sau hai tuần lễ hành hình trong thùng "connex" anh được khiêng ra ngoài nhưng quả là họa vô đơn chí vì chỉ một thời gian ngắn sau đó thì trực trại kêu anh ra "làm việc" vì anh vẫn nhất định không chịu ký tên vào biên bản nhận "tội" như họ đã viết sẵn.















Các anh em trong buồng đều bảo anh là không nên ra, mỗi người một câu:















-"Cậu cáo ốm ở lại trong buồng thì tụi nó làm gì được?"















-"Giăng mùng lên chui vào ngủ là xong, kệ nó."















-"Mình cảm thấy lành ít dữ nhiều đó nha, nên cẩn thận."















Cáo ốm ở lại trong buồng thì anh không thể làm được vì như thế là tỏ ra sợ chúng nó, anh vốn là con nhà võ, hơn nữa lại là võ sư không thể để mất danh dự của môn phái, nên anh không chịu cáo ốm như vậy vả lại anh nói trước sau gì cũng phải đối mặt với họ một lần:















-"Các cậu cứ để tôi ra xem chúng giở trò gì? Mình trong tay nó mà, hôm nay không ra gập chúng thì ngày mai cũng phải gập thôi."















Anh từ từ đi ra ngoài cổng trại chiều hôm đó trong sự lo âu của các bạn tù cũng là các sĩ quan chế độ cũ.















Khi anh ra đến nơi thì thấy tay Thượng Úy chính trị viên đã ngồi sẵn tại bàn với các cán bộ trực trại. Tên Thượng Úy mặt lạnh như tiền đưa tờ giấy cho anh ký nhận "tôi trạng".















Anh bình tĩnh đưa lại tờ giấy:















-"Tôi không hiểu tôi mắc vào tội gì?"















Tên Thượng Úy đập bàn như hét lên:















-"Anh còn ngoan cố hả, không ký thì bỏ tù cho rũ xương ra."















Hắn hầm hầm đứng lên và bước ra khỏi phòng trực trại.




Anh chuẩn bị bước ra cửa để vào trại thì mấy tay cán bộ như có dàn cảnh trước đã ngăn anh lại:













-"Chúng tôi còn cần "làm việc" với anh chưa xong.




Anh cảm thấy một cái gì không ổn nhưng đã quá trễ để rút lui và chờ xem chúng giở thủ đoạn gì.













Tay cán bộ vừa dứt lời thì các cửa sổ được đóng kín lại chỉ chừa có cửa ra vào là còn mở và từ ngoài bất ngờ hàng chục cán binh mang theo gậy gộc và thanh sắt xông vào phòng. Lúc đó mấy tay trực trại mới chịu bước ra ngoài.















Bấy giờ anh mới hiểu rõ dã tâm của bọn chúng kêu anh ra ngoài này "làm việc" là như vậy.















Anh nhìn quanh, căn phòng khá hẹp và anh lui dần vế phía góc phòng. Nếu ở bên ngoài thì với một lũ tép riu này chỉ cần học trò của anh cũng đủ dậy cho chúng một bài học nhưng mấy năm nay lao động khổ sai và ăn uống kham khổ đã làm anh mất đi rất nhiều sức lực nên không biết sao đây.















Dù sao thì cũng phải cho chúng biết thế nào là một Võ Sư được chân truyền. Anh ngầm lấy sức vận nội công lên hai cánh tay và đôi chân thủ thế.















Hầu như đã được chỉ thị trước, bọn cán binh đều không nói một lời vung các gậy và các thanh sắt lên xông vào tấn công anh túi bụi, nhưng vì anh đã lui vào góc phòng nên chỉ hai ba đứa có thể tấn công một lúc vì chúng sợ loạn đả vào nhau.















Thế rồi anh ra chiêu nhanh như gió và chỉ một loáng trước những con mắt kinh hãi của đám cán binh, các vũ khí của chúng đều rơi gọn nhẹ xuống đất. Đứa thì ôm cổ tay nhăn nhó, đứa thì ôm chân la bài hải và lùi dần ra phía cửa. Anh tính vọt ra cửa thì đột nhiên hai họng súng đen ngòm lên đạn hướng về phía anh, thì ra chúng đã tính trước là sẽ phải dùng đến súng tiểu liên để đối phó với anh.















Anh đứng lại tại chỗ và hai tay khoanh trước ngực chờ đợi. Chúng tiến lại gần và trói hai tay anh vào thanh sắt cửa sổ và trói hai chân lại với nhau. Xong đâu đấy rồi thì bọn cán binh, vốn đã được nhồi nhét những tuyên truyền xuyên tạc mọi thứ xấu xa về các sĩ quan "Ngụy" cho nên đều nhẩy vào dùng các thanh sắt quất anh không thương tiếc.















Than ôi! Người Võ Sư hào hùng ngày nào của võ đường Vovinam, người tù anh hùng đã bảo vệ cho bao nhiêu bạn mình trước bạo quyền của trại giam "tập trung cải tạo" của chế độ Cộng Sản, người sĩ quan hiền hòa vẫn xây dựng bao nhiêu đường xá cầu cống cho dân làng miền Nam ngày trước, người tù bất khuất ấy bây giờ đã ngất xỉu đi trong cơn đau đớn tột cùng của thân xác.















Mắt anh mờ dần đi và anh thấy lấp lánh đâu đó là những giọt nước mắt của Mẹ già tóc đã bạc phơ chỉ sau mấy năm Sài Gòn đã đổi tên và rồi anh không còn biết gì nữa.




Khi anh tỉnh dậy có lẽ vài ngày sau đó thì thấy những cặp mắt âu lo của các bạn tù trong buồng giam.













-"Ê! Cường tỉnh dậy rồi nè."















-"Lấy ít cháo loãng thôi."















Một anh bạn đến gần:















-"Ráng ăn ít cháo đi rồi uống thang thuốc này. Mình mới vào rừng hái ít lá cây nấu lên uống để xổ máu bầm ra."















-"Cậu là võ sư chứ người thường thì chết rồi. Chúng dã man hèn hạ quá. Loài thú chứ không phải loài người!"















Anh bị gẫy hết hai bên xương sườn, một chân bị dập, một bên vai xương bị nát. Rất may là các vết thương trên đầu không nặng sau trận đòn thù đó.















Tình hình trong trại mấy ngày sau đó cực kỳ căng thẳng, khi các anh đi lao động chúng đều đem súng theo hườm sẵn và được lệnh sẽ bắn ngay nếu có nổi loạn.















Anh bèn bảo các bạn thân của mình chuyển lời nói với các buồng chung quanh là án binh bất động vì anh không muốn vì anh mà nhiều anh em khác phải hy sinh. Anh đã là một biểu tượng oai hùng nhất trong con mắt của những người tù đồng cảnh ngộ nên lời nói của anh đã được nghe theo và đã tránh được một cảnh tắm máu vì anh em đều sôi sục căm hờn.















Từ ngày đó anh không còn khả năng đi ra ngoài lao động, không còn những giây phút vào rừng sâu kiếm củi, nghe được tiếng chim hót ban mai hay hưởng cái hơi mát lạnh của núi rừng khi chiều buông xuống. Anh chỉ có thể khó khăn lắm mới lê từng bước một tập đi trong buồng giam.















Năm sau, các bạn anh vì là cấp Úy nên cũng từ từ được thả ra nhưng anh là cấp Úy sau cùng ra khỏi trại giam đó.




Anh trở về gia đình trong căn hẻm Trương Minh Giảng gần nhà Mẹ anh và được thuốc thang chạy chữa nhưng vì lục phủ ngũ tạng đều bị chấn thương cho nên một thời gian ngắn sau anh qua đời trong sự thương tiếc của gia đình và bạn bè khắp nơi.













Anh mất đi lúc mới ngoài bốn mươi tuổi để lại người vợ còn trẻ và mấy đứa con còn nhỏ dại. Cô tôi vừa khô nước mắt khóc hai đứa con đi vượt biên mất tích lại mang thêm một cái tang nữa. Mẹ tôi ở gần bên cạnh cũng chỉ biết qua nhà an ủi cô tôi mà thôi vì chính Mẹ tôi trong lòng cũng ngày đêm lo sợ cho tôi và anh Cả tôi lúc đó đang bị giam lưu đầy ngoài Bắc.















Đám ma anh Cường được tổ chức đơn sơ nhưng rất đông người tham dự kể cả gia đình họ hàng và nhất là gia đình các bạn tù của anh cũng đến thắp nén nhang để tưởng niệm người anh hùng yểu tử, vị võ sư vì bảo vệ bạn tù, vì bảo vệ Chính Nghĩa mà vong thân.















Hình bóng của anh vẫn sống mãi trong tâm khảm của mọi người. Anh là một sĩ quan Công Binh Kiến Tạo tận tụy với nghề nghiệp được đơn vị thương yêu, anh sống gần gũi với dân chúng và bảo vệ họ tại những cùng thôn xóm làng mạc xa xôi.















Anh là một người chồng gương mẫu, một "ông thầy võ" mà tôi kính phục khi tôi còn thơ ấu, một võ sư mà bao nhiêu võ sinh dưới quyền nể trọng nhưng trên hết anh là một người tù bất khuất, một anh hùng bất tử.















Khi tôi được thả về, nghe tin anh mất thật là bàng hoàng và xúc động bởi tuổi thơ của tôi đã nhiều kỷ niệm gắn bó với các em họ con cô ruột tôi từ lúc còn ở Hải Phòng và Hà Nội và ngay tại Sài Gòn trong thời thanh niên. Tôi vẫn không quên được những bài học vỡ lòng về Vovinam mà anh dậy cho bốn anh em chúng tôi trên sân gác thượng của nhà cô tôi ở Hà Nội.















Chùa Linh Giác đường Lý Thái Tổ là nơi mà gia đình để ảnh của các anh con cô tôi đã mất và cũng để ảnh của anh Quang, anh Cả tôi nữa.















Tôi đã đến ngôi chùa nhỏ ấy nhiều lần để thắp nén nhang dâng lên anh Cả tôi , dâng lên các anh Hải, Trường, Linh và nhất là anh Cường với bao niềm ngậm ngùi rằng thế hệ chúng tôi đã cống hiến hết cho công cuộc bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ miền Nam chống lại Cộng Sản xâm lăng trong hai thập niên, và mất hết những năm tháng đẹp nhất của đời người trong tù.















Không biết rồi mai này con cháu mình có còn nhớ rằng ngày xưa đã có những bậc anh hùng bất tử ghi lại bao chiến công oanh liệt không kém gì tiền nhân trong quân sử của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa? Và trong lịch sử của "trại giam tập trung cải tạo" của chế độ Cộng Sản vô thần tại Việt Nam đã có những người tù bất khuất mà võ sư Vovinam Tạ Mạnh Cường là một?




Một vị sư - Một đóa sen Hồng

















Mùa hè năm ấy có lẽ là một mùa hè nóng bức oi ả nhất của thập niên tám mươi tại miền Bắc. Trại giam Ba Sao, Nam Hà thuộc tỉnh Hà Nam Ninh như nằm yên dưới sức nóng như thiêu đốt, ngay cả về đêm cái nóng như vẫn còn âm ỉ, mọi thứ như tỏa ra hơi nóng – những bức tường, những sàn lót gạch hung hung đỏ, cái sân tráng xi măng trước mặt, ngay cả cái ván lót trên sàn nằm cũng toát ra hơi nóng. Những tù nhân chính trị chế độ cũ như trong một lò ngục tối trên trần gian, ban ngày thì lao động khổ sai đổ mồ hôi không phải đổi lấy bát cơm mà đổi lấy ít thức ăn độn như khoai hay sắn hay bo bo mà vẫn không đủ no, ban đêm thì cố giỗ giấc ngủ trong cái nóng như nung như đốt ấy trong cái cả nh nằm xếp hai từng như cá đóng hộp trong buồng giam. Mồ hôi lại đổ ra cho đến khi mệt lả người đi thì giấc ngủ chập chờn mới đến.











Cái nóng kinh người đã kéo dài cả tháng nay và đồng ruộng đã nứt nẻ, các em bé chăn trâu mà Trung và các bạn gặp trên đường đi lao động cũng môi khô và chui vào các bụi cây trú nắng. Các giếng nước cũng từ từ khô cạn đưa đến nạn thiếu nước trầm trọng cho cả dân chúng những làng bên ngoài lẫn những người tù khốn khổ trong trại.











Buổi trưa hôm đó cũng như mọi ngày sau khi lao động về, ăn xong phần ăn trưa ít ỏi, các người tù cố nằm giỗ giấc ngủ ngắn để lấy sức lao động buổi chiều thì thấy một vị sư già đang ngồi ngoài sân nắng trong thế kiết già cả nửa tiếng đồng hồ và mặt ngước nhìn thẳng lên trời. Những khi hạn hán thì thầy vẫn cầu nguyện như thế và sau đó chiều tối hay trước nửa đêm thể nào mưa giông cũng kéo đến. Đêm nay cũng thế, Trung cố giỗ giấc ngủ để mà mai còn sức trả cái nợ lao động nhưng không làm sao nhắm mắt được, mồ hôi trên người cứ nhỏ từng giọt như làm cho sức khỏe của anh cạn dần đi theo đêm. Anh nhớ tới thằng bạn thân nằm bên cạnh nói với anh hồi chiều rằng chỉ ước ao ông Trời cho một trận mưa chứ đã tù cả chục năm rồi cũng chẳng mơ ước xa xôi gì ngày trở về nữa.











Thế rồi, như một phép lạ những làn gió mát từ đâu từ từ thổi đến, len lỏi vào những khung cửa sổ, luồng dưới những cánh cửa buồng giam và từ xa xa vài lằn chớp nhoáng lên bên trời. Chẳng bao lâu sau thì những giọt mưa, ôi những giọt mưa cam lồ của Trời ban xuống như thêm sức mạnh cho những người tù biệt xứ lưu đày. Các buồng giam không ai bảo ai đều thức dậy và tung mùng ra để được hít thở những giây phút mát rượi của làn gió lùa vào trại giam.











Vô tình Trung nhìn xuống nơi vị sư già giam cùng buồng với anh, thầy vẫn như còn đang ngồi thiền trong mùng, mặt quay vào tường trong thế kiết già. Trung chợt hiểu và các bạn anh cũng hiểu rằng chính nhờ thầy cầu nguyện mà đã có trận mưa đêm nay. Vị sư già đó chính là Trung Tá Quyền Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo của QLVNCH – Thượng Tọa Thích Quang Long, một người tù xuất chúng đã làm cho kẻ thù phải cúi đầu kính nể. Giang sơn của thầy cũng là một tấm chiếu, hai bộ quần áo tù, và một cái chăn đỏ Trung Quốc như mọi người và nằm một dãy với các Đại Đức Tuyên Úy khác.











Anh nhớ đến thầy Khuê, một vị Tuyên Úy Phật Giáo và Tam Đẳng Huyền Đai Nhu Đạo võ đường Quang Trung, một vị Đại Đức mà anh rất mến thương và kính trọng, đã từng nói với anh rằng nếu nói về đạo Phật, về sự tu hành thì hãy lấy thầy Long mà làm gương; đừng vì một vài vị Tuyên Úy đã không nghiêm giữ được giới răn mà hiểu lầm về đạo Phật mà mất đi niềm tin.











Anh nhớ lại câu chuyện lúc mới bước chân vào trại giam Long Thành sau khi Sài Gòn sụp đổ và hầu như mọi người đều không biết bấu víu vào đâu, niềm tin vào các tôn giáo cũng bị lung lay thì một sự việc đã xảy ra làm mọi người đều kính trọng thầy, nhất là khi biết hai tòa đại sứ bạn đã đến đón thầy đi di tản trước đó nhưng thầy đã khẳng khái chối từ và thanh thản bước chân vào trại giam.











Trong thời gian mới bị giam giữ, một hôm thầy được gọi ra làm việc để gặp hai vị sư quốc doanh là Thượng Tọa Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu. Hai vị này ra sức thuyết phục và chiêu dụ thầy để thầy ủng hộ phong trào “Phật giáo yêu nước”, và nói sẽ bảo lãnh cho thầy ra khỏi tù ngay để nhờ thầy góp công góp sức xây dựng phong trào Phật Giáo Yêu Nước này. Hai vị sư này chính là người mà Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã bắt giam trước năm 1975 vì hoạt động cho Cộng Sản. Thích Minh Nguyệt đã bị đày ra Côn Đảo, còn Thích Thiện Siêu thì thường được gọi là ông Từ Đàm vì tu ở chùa này ngoài Huế. Sau đó chính Thượng Tọa Thích Thanh Long là người đã bảo lãnh cho họ ra khỏi tù để ăn năn hối cải mà trở về lại con đường tu hành vì họ đã bị lộ hình tích. Không ngờ ông trời trớ trêu để có ngày họ lại đến trại Long Thành và đối đầu với thầy trong hoàn cảnh đặc biệt này của đất nước.











Thầy nhìn hai vị sư quốc doanh kia và từ tốn chậm rãi nhưng thật cương quyết thầy nói:




“Các ông đã dựng nên cái phong trào “Phật Giáo yêu nước” ấy thì các ông cứ tiếp tục công việc mà các ông đã làm, còn tôi là một Tuyên Úy trong quân đội và tôi sẽ theo chân các Phật tử trong các trại giam, họ đi đến đâu thì tôi cũng sẽ đi đến đấy với họ cho tới cùng. Thôi các ông về đi”.




Và sau đó thầy chấp nhận việc chuyển trại ra Bắc mở đầu cho một quãng đời biệt xứ lưu đày.











Những ai có may mắn gặp thầy trong trại giam thầy đều kính trọng vị sư già này, người mà lúc nào cũng như mỉm cười, hòa nhã, giản dị, khiêm tốn và giúp đỡ tất cả mọi tù nhân mỗi khi thầy có phương tiện.




Năm 1976, thầy cùng một số Tuyên Úy chuyển trại từ Nam ra Bắc và bị giam giữ tại trại 1 Sơn La hay còn gọi là trại Mường Thái là nơi mà trước kia Pháp đã từng giam giữ những tù nhân bị án lưu đày. Năm sau thì thầy có tên trong số những tù nhân di chuyển về trại Yên Hạ, trại giam này nằm dưới thung lũng và bao vây chung quanh bởi những dãy núi đá vôi, thuộc huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Trại Yên Hạ là nơi chuyên giam giữ những tử tội hình sự cướp của giết người mà đã được nhà nước “khoan hồng” tha cho tội chết.











Chỉ hơn một năm sau thì các tù nhân này dần dần kiệt sức vì lao động khổ sai, thiếu dinh dưỡng, thiếu ăn nhất là thiếu chất mỡ và đường, và vì khí độc từ dãy núi đá vôi phả vào từ chung quanh. Bởi thế chỉ sau một thời gian ngắn chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, ai nấy đều gầy như bộ xương còn biết đi. Khi đi lao động hay đi trở về trại, người ta chỉ thấy những bộ quần áo tù phấp phới bay mà chẳng thấy da thịt đâu. Thế rồi sau bốn năm trời giam cầm và lưu đày, một số những người tù lần đầu tiên được nhận một gói nhỏ tiếp tế cực kỳ quí giá từ gia đình trong Nam gửi ra, một số khác thì vẫn chưa nối lại được sợi dây với gia đình trong Nam. Trong gói nhỏ mà các Phật tử gởi cho thầy Long có 15 cục đường móng trâu, lúc đó ai mà có được 5 cục đường như thế thì đã là thần tiên rồi, nhưng thầy từ từ đem ra phân phát hết 15 cục đường quí giá đó cho những người cùng buồng. Ưu tiên những tù nhân nào mà đã kiệt lực thì được một cục, những người đau ốm khác thì mỗi người được nửa cục mà thôi, còn riêng thầy thì không có một miếng đường nào hết. Những người tù này khi nhận được cục đường từ tay thầy phân phát đã không cầm được nước mắt trước tấm lòng vị tha, quảng đại vô biên của một vị sư mà tâm đã định và huệ đã ngời sáng.




Thầy cũng không thoát được những vụ hỏi cung, một hình thức tra tấn tinh thần những người tù khốn khó này trong trại giam. Một tên cán bộ từ Hà Nội vào với mái tóc hoa râm có vẻ là một viên chức cao cấp thuộc Bộ Nội Vụ đã hỏi cung thầy trong ba ngày liên tiếp. Hắn vứt cho thầy tờ giấy để tối về khai báo những tội lỗi đã chống đảng, nhà nước và nhân dân trước kia khi hoạt động ở Sài Gòn cho Nha Tuyên Úy Phật Giáo của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sáng hôm sau, khi kêu ra làm việc tiếp tục, thầy đã nộp bản khai báo cho hắn, vừa xem xong thì hắn đùng đùng nổi giận ném tờ khai xuống bàn và quát tháo:




“Anh khai báo thế này hả? Tại sao anh lại chép Chú Đại Bi vào đây? anh muốn tù rục xương ra không?”.




Vẫn thái độ bình tĩnh và từ tốn của một vị cao tăng thầy chậm rãi trả lời:





“Thì đây chính là những gì mà tôi đã làm và đã tụng niệm khi xưa, có thể thôi!”.











Hắn với vẻ mặt hầm hầm liệng cho thầy một tờ giấy khác để khai báo lại một cách thành khẩn để được sớm khoan hồng. Sáng ngày hôm sau, thầy nộp cho hắn một tờ thứ hai và trên tờ đó thầy chép lại thật nắn nót bài Kinh Bát Nhã. Đến đây thì hắn nổi điên lên và mạt sát thầy thậm tệ và đe dọa rằng thầy sẽ tù mọt gông và đừng mong sẽ được hưởng lượng khoan hồng. Thầy ung dung trả lời rằng:




“Các ông cứ việc giam giữ tôi bao lâu cũng được, tôi chỉ xin các ông hãy thả hết những người tù chính trị chế độ cũ mà các ông đang giam giữ mà thôi”.











Từ đó đến sau, chúng ít khi kêu thầy ra hỏi cung nữa cho đến mãi năm 87, trước khi có một đợt thả lớn tại trại Ba Sao Nam Hà thì trong các vị Tuyên Úy bị hỏi cung có tên thầy. Nhưng đặc biệt lần này chúng gọi thầy bằng thầy chứ không gọi là anh như trước nữa, tuy nhiên chúng vẫn dụ dỗ thầy nhận tội để được khoan hồng. Thầy trả lời rằng các ông cứ thả hết các ông đại đức tuyên úy ra đi vì họ chẳng có tội lỗi gì hết tất cả đều do tôi và họ đều làm theo chỉ thị của tôi hết, muốn gì thì cứ giữ tôi ở lại đến bao lâu cũng được. Chúng đành chào thua và chỉ vài tháng sau thì thầy có tên trong danh sách được thả ra khỏi trại cùng với tất cả các đại đức và những vị mục sư linh mục khác trong các Nha Tuyên Úy quân đội.











Thầy ở tù mười hai năm, một năm trong Nam và mười một năm lưu đày trong những trại giam được dựng lên nơi rừng thiêng núi độc miền Bắc. Về miền Nam, thầy trở lại chùa Giác Ngạn trên đường Trương Minh Ký cũ ở Sài Gòn để lại lo Phật sự, cúng kiến giúp đỡ các gia đình Phật tử. Khi đi đâu tụng kinh thầy vẫn đơn sơ trong chiếc áo nâu sòng và phe phẩy chiếc quạt đã sờn rách và môi luôn nở nụ cười hiền hậu giống như một ông già nhà quê chất phát hiền lành.











Chùa Vĩnh Nghiêm có vời thầy ra nhưng thầy vẫn ở lại Giác Ngạn – ngôi chùa mà thầy góp công xây dựng lên và trụ trì cho tới khi mất nước – cho tới khi thầy viên tịch vài năm sau đó.




Ngày Trở Về






Trại Hàm Tân Z-30D, tỉnh Bình Thuận, miền Nam Việt Nam, vào một ngày cuối tháng Tư năm 1992.









Trại giam này nằm giữa khu rừng chập chùng toàn lá buông, dân chúng thường gọi tắt là khu rừng lá. Nó được dựng lên từ sức lao động khổ sai của những tù nhân sau ngày mất Miền Nam, và là nơi giam giữ cả tù hình sự nam lẫn nữ và tù nhân chính trị chế độ cũ cũng như những thành phần được gán cho danh xưng là "âm mưu lật đổ chế độ".











Ðây là một trại giam khá lạ lùng và có lẽ độc nhất vô nhị. Lạ lùng bởi lẽ nó đã thay hình đổi dạng rất nhanh trong thập niên tám mươi từ khi có trưởng trại mới là Thiếu Tá Nhu. Sau nhiều năm sắt máu, trại khổ sai này hò hét lao động hàng đầu, nhưng đã "phát huy sáng kiến" làm tiền kiểu kinh tế thị trường. Việc thăm nuôi đã từ từ mở rộng để cho tù nhân có thêm đồ và tiền tiếp tế. Việc khai thác lâm sản có kế hoạch qui mô nên đã làm giầu nhanh chóng cho cả trại và túi tiền của Thiếu Tá Nhu.











Gọi ông ta bằng tỷ phú thì cũng chưa đúng với sự giầu có của ông ta trên xương máu của tù nhân. Sân trại tù được biến thành nơi làm ăn, để móc tiền tiếp tế của tù nhân, bằng mà chiếu phim video thu tiền ở hội trường hàng đêm.











Sân trại sau bữa cơm chiều, người ta thường thấy nhiều cặp nam nữ tù hình sự cặp đôi đi rảo bước bên nhau hay ngồi tâm tình trên ghế đá trong những bộ quần áo thời trang đủ kiểu rất ư là tình tứ, dắt nhau ra mua vé và hẹn hò nhau gập lại buổi tối cùng xem phim chiếu trên hội trường.











Mỗi buổi chiều thì tất cả đều phải tập họp vào buồng giam, tối đến những ai có mua vé xem phim thì được mở cửa cho ra tập trung thành hai đội nam, nữ và dẫn lên hội trường. Căng tin được mở rộng thành quán nước và nhà hàng thu nhỏ. Phim video chưởng, võ hiệp, tình cảm Ðài Loan, Hồng Kông được thuê về chiếu cho toàn trại xem một cách thoải mái, nhưng phải bỏ tiền ra mua cũng đem lại cho ông ta bộn bạc.











Bên cạnh những tù nhân nam nữ can tội hình sự đủ loại, là một khu dành riêng cho các tù nhân chính trị chế độ cũ. Hàng chục ngàn tù nhân chế độ cũ đã trải qua những năm tháng lao động khổ sai trại trại Z-30D này. Cho đến tháng Tư năm 1992, tất cả chỉ còn lại đúng 20 người sau cùng được dồn vào Ðội 23.











Buổi sáng hôm ấy, họ ngồi chờ đợi một cách bình thản ở trong hai căn phòng dành cho tù chính trị chế độ cũ đang bị tập trung cải tạo, phòng trên dành cho bốn ông tướng Trần Bá Di, Đỗ Kế Giai, Lê Văn Tâhn Thân và Lê Minh Ðảo, phòng duới dành cho số còn lại.




Tất cả hai mươi người bao gồm bốn tướng, bốn đại tá ANQÐ, Quân Báo, bốn trung tá Cảnh Sát Ðặc Biệt và ANQÐ, hai thiếu tá CSÐB và ANQÐ, nhân viên Phủ Ðặc Ủy TƯTB, một hồi chánh viên, một trinh sát tỉnh đội, và một người về từ tầu Việt Nam Thương Tín. Họ đã bị giam giữ qua năm thứ mười bảy kể từ ngày Saigòn sụp đổ.


Họ đang chờ đợi bởi vì ngày hôm nay là một ngày khác thường, các bạn Hoàng và chàng trong đội 23 đang chờ xuất trại đi lao động như mỗi buổi sáng, thì được lệnh vào trong tại và chờ lệnh mới.









Người ngồi đánh cờ tướng, người nấu nước pha trà để nhâm nhi trong lúc chờ đợi, hay nằm đọc lại tờ báo cũ. Cái xấu nhất có thể xảy đến là chuyển trại về một nơi xấu hơn hoặc cho một viên đạn, nhưng qui luật của trại giam Hoàng đã đi qua thường là di chuyển về ban đêm, không đi ban ngày bao giờ. Vậy thì cái gì đây sắp xảy ra?











Từ căn phòng trên vẳng xuống tiếng sáo của tướng Thân lúc trầm lúc bổng. Hoàng mỉm cười, thời gian trong tù, ông tướng này đã học được hai nghề, một là châm cứu từ một ông thầy người Tầu có tài châm cứu xuất chúng, bị bắt và bị gán cho tội gián điệp ở biên giới Việt Trung, và thứ hai là tài thổi sáo











Thế rồi tất cả 16 người, trừ bốn ông Tướng, bao gồm cả các anh đang ở ngoài trông coi các lô, lán của trại, hay đang đi chăn bò, cắt cỏ đều được triệu hồi vào hết bên trong hội trường. Mười sáu người ngồi lọt thỏm trên hàng ghế đầu trong cái hội trường rộng mênh mông có thể chứa đến ngàn người.











Và cái gì khó tin nhất đã xảy ra, 16 người trong đó có Hoàng được đọc tên thả ra khỏi trại, và năm ngày sau thì bốn vị tướng cũng giã từ cuộc đời tù tội và đóng lại cánh cửa tù sau lưng. Hầu như một cơn chấn động vừa chạy qua mọi người, họ nhìn nhau không biết có nên tin hay không? Hai chữ Tự Do hình như không còn hiện hữu kể từ này họ bị lưu đầy biệt xứ ra Bắc một năm sau ngày mất miền Nam.











Thế rồi chiếc xe đò của ông Tô, chiếc xe vẫn thường chuyên chở hàng thuốc men và thực phẩm tiếp tế của các gia đình từ Saigòn hay các tỉnh gởi lên cho tù nhân được gọi vào để chở những người tù cuối cùng này về Saigòn.











Vai khoác chiếc ba lô mà anh đem theo từ ngày đầu bước vào cơn bão lửa tập trung, anh từ từ theo các bạn đi ra con đường cái để chờ xe đò đến đón.











Ngồi trên xe đò mà hồn anh như để tận đâu đâu, chiếc xe bon bon lăn bánh trên quốc lộ số một xuôi về nam. Bây giờ, ngồi cạnh cái cửa sổ trên xe đò, Hoàng mới tin là mình còn sống, và cũng không thể giải thích được tại sao mình còn sống sót được sau bao nhiêu là tàn phá của những năm tháng qua. Nhìn qua cửa sổ những hàng cây bên đường như chạy thụt lùi lại phía sau và gió mát lùa vào trong xe như đưa anh trở về quá khứ, mắt Hoàng mờ dần mờ dần với ký ức, một cơn ác mộng triền miên, trong khảnh khắc như một cuộn phim bừng sống lại...











Những họng súng AK, CKC chĩa vào người chàng và các bạn, những ánh đèn pin lóa mắt, tất cả 40 người được đựng dậy trong đêm, đọc tên xác nhận từng người rồi đứng ra thành một nhóm từ một căn nhà tạm giam tại trại Long Thành, tỉnh Ðồng Nai năm 1976. Ðó là ngày mà chàng cũng như hàng vạn những quân công cán chính chế độ VNCH như Hoàng đã cùng lúc bị chuyển trại từ khắp nơi trong miền Nam ra Bắc, bắt đầu bước vào cảnh lưu đầy biệt xứ.











Những năm tháng dài thăm thẳm, quần áo không đủ che thân, đói rét lạnh cắt vào da thịt của mùa Ðông mưa phùn gió bấc nơi xứ Bắc. Những mùa Hè nóng đến nung người suốt ngày lẫn đêm, cái nóng gay gắt và hầm hập làm người lúc nào cũng như bị say nắng. Những bệnh tật, kiệt sức đã cướp đi hàng ngàn nhân mạng, những cái chết thật dễ dàng và vô lý.











Rồi mười hai năm lưu đầy qua hết trại giam này đến trại giam khác, và sau cùng tập trung về trại Ba Sao Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh. Sau bao nhiêu đợt thả, lúc nhiều lúc ít nhưng có lẽ tên chàng đã bị lãng quên.











Thế rồi những tin tức dồn dập về phái đoàn do cựu đại tướng John Vessey cầm đầu đề cử bởi Tổng Thống Reagan để thương thuyết với Hà Nội đã đi đến thành công đem đến cho các trại tập trung một luồng sinh khí, và họ đã như sống lại từ những cây khô.











Năm 1988, sau hai đợt thả lớn nhất, chín mươi người trong đó có Hoàng còn sót lại tại trại. Ba Sao Nam Hà đã được lệnh di chuyển bằng xe lửa từ ga Nam Ðịnh xuôi về phương Nam.











Khi vào đến khu vực rừng lá Hàm Tân trại Z-30D đầu tháng năm 1988, số người từ miền Bắc vào nhập với số anh em còn lại trong Nam tổng cộng còn lại một trăm năm mươi bốn người trong đó có Hoàng, trong số hàng triệu người bị cải tạo ngắn hạn đến tập trung không có bản án từ ngày Saigòn bị đổi tên. Và trại từ từ thả những người còn lại ra một cách nhỏ giọt làm nhiều đợt trong suốt bốn năm cho đến tháng Tư năm 1992 thì vỏn vẹn chỉ còn lại hai mươi người tù cuối cùng trong đó cũng có Hoàng.











Giòng tư tưởng của chàng chợt bị ngưng đọng lại khi chiếc xe đò tự dưng khựng lại giữa đường. Tiếng người tài xế kêu mọi người xuống xe và phụ giúp đẩy xe vào lề đường để sửa chữa làm chàng choàng tỉnh dậy. Nghe người tài xế phân bua một cách hài hước với mọi ngưới làm Hoàng cũng bật cười:"Tại các ông ấy đấy chứ, hôm nay trở về làm xe tui chết máy chứ xe này bà con thấy có hư máy bao giờ đâu. Ái chà, tù gì mà tới mười bảy năm, lâu dữ à nha, chắc tại học bài không thuộc chứ gì!"











Hỏi thăm thì biết mình đã về đến Biên Hòa, tim chàng tự dưng đập mạnh khi nghĩ chỉ một tiếng đồng hồ nữa là có mặt tại Saigòn. Saigòn hai tiếng này đã làm tim chàng đau nhói bao nhiêu lần mỗi khi nghĩ tới trong suốt bao nhiêu năm trường bị giam giữ giữa bốn bức tường. Tiếng bác tài hối mọi người lên xe vì máy đã sửa xong:




-"Lên xe đi các bà con ơi! Còn một tiếng nữa là về đến thành phố rồi" như nhắc Hoàng chợt nhớ tới câu chuyện "Khi Người Tù Trở Về" có lẽ nếu anh nhớ không lầm là tác phẩm của nhà đại văn hào Pháp André Malreaux.









Câu chuyện về nhóm tù binh Pháp được trả tự do sau Thế Chiến, khi Ðức bại trận. Có một viên sĩ quan trẻ khoe với các bạn tù về người vợ tuyệt vời của mình và mơ tưởng đến lúc trở về nhà sum họp hạnh phúc như xưa, nhưng trong lòng anh thì vẫn không chắc rằng vợ mình còn chờ đợi hay không?




Khi về tới ngôi nhà cũ, anh ta không vào thẳng nhà mà đi quanh nhà kín đáo quan sát và chờ bữa cơm chiều xem vợ mình có sống với ai không. Núp sau bụi cây sau nhà, anh thấy vợ mình gầy hơn xưa nhưng đang rất vui tươi lăng xăng bầy hai phần ăn với hai chiếc muỗng, hai chiếc nĩa, thì hai giòng nước mắt tuôn ra và lủi thủi đi mất. Trong khi người vợ được tin chồng mình sẽ trở về trong ngày nên nấu món soup đặc biệt cho chồng nhưng chờ mãi mà không bao giờ thấy người chồng trở về nữa.









Nghĩ tới gia đình, người vợ đã bao năm bặt tin và hai đứa con, lòng Hoàng bồi hồi xúc động. Ngày mà chàng giã từ gia đình ra đi không hẹn ngày trở lại, chúng mới đứa hai đứa ba tuổi, nay đã thành thanh niên và thiếu nữ rồi. Ngày chàng ra đi còn trong lứa tuổi hai mươi, bây giờ trở về đã trong lứa tuổi tứ tuần. Tuổi đẹp nhất của người đàn ông để lập nên sự nghiệp đã bị vùi dập trong tập trung cải tạo. Thời gian quả là lạnh lùng và không có trái tim.











Khi về tới Saigòn năm 1992 và tạm trú ở đây, Hoàng mới được biết là có một danh sách đặc biệt bao gồm hơn một trăm người tù sau cùng đã được thành lập gọi là thành phần Z-05 và được ra đi nhanh chóng trong những đợt của chương trình H.O.











Chỉ trong vòng một năm sau, Hoàng và gia đình các bạn chàng đã được ra đi tái định cư tại Hoa Kỳ. Hiện nay, những người tù cuối cùng xuyên qua mười bảy năm cải tạo tập trung và còn sống sót trở về năm ấy đang cư ngụ tại những tiểu bang trên đất Mỹ như New York, Virginia, Washington, Texas, Oregon; nhưng nhiều nhất vẫn là tại Quận Cam, California.




(Ghi Chú: Bài này đã được đăng trên Việt Báo tại Orange County, Nam Cali vào cuối tháng Tư năm 2002. Bút hiệu của tôi lúc đó là Đăng Tâm.)






Những Ngày Giáp Tết






Những ngày cuối năm vẫn là những ngày có đủ hai mươi bốn tiếng đồng hồ như mọi ngày nhưng sao thấy có cái gì thật là đặc biệt. Hình như trên trời dưới đất và trong không gian vạn vật đang giao hòa với nhau để chuyển biến dần sang năm mới. Con người cũng bận rộn chuẩn bị đón Giao Thừa và Năm Mới, người lớn thì lo cúng giỗ Ông Bà, đưa Ông Táo đi và đón Ông Táo và đón Ông Bà trở về trẻ con thì háo hức chờ Mùng Một Tết được lì xì và quần áo mới. Những gia đình khá giả thì đây là dịp để vui hưởng những ngày Xuân và những gia đình khó khăn thì đang chật vật với những khoản chi tiêu làm sao cho qua được những ngày Tết.









Tôi đã qua được mười tám cái Tết trên đất Mỹ, cũng chờ đón Giao Thừa, cũng chúc Tết Mẹ tôi và gia đình các em, các cháu ngày Mùng Một, cùng đi lễ Chùa, lễ Đền, hái lộc đầu năm nhưng sao vẫn không thấy được cái không khí ngày Tết của những năm tôi còn bé tại thành phố Hải Phòng trước khi di cư năm Năm Mươi Tư hay trước năm Bảy Mươi Lăm tại Miền Nam.




Tôi còn nhớ lúc nhỏ năm bảy tuổi là lúc mà Bố Mẹ tôi là một thương gia giầu có vào hạng nhất nhì của thành phố Hải Phòng và căn nhà mà tôi ở thì rộng lớn như một dinh thự trên một mẫu tây đất và phải dùng đến đúng một trăm ngọn đèn neon và đèn bóng tròn mới đủ thắp sáng hết căn nhà.


Căn phòng mà bốn anh em trai chúng tôi ngủ thì tường toàn là dát những bông hoa giấy và những chấm mầu đỏ mà Mẹ tôi nói là Ba tôi đã "com măng" từ bên Pháp qua.


Mỗi khi Tết gần đến là lòng tôi lại có một cảm giác háo hức chờ xem những sinh hoạt của những ngày cuối năm.









Vì Bố tôi là Trưởng Tộc và lại giầu có nữa nên những ngày này thì các cô chú tôi và cả những bà chị họ của tôi đều đến nhà và lăng xăng chạy qua lại trên nhà dưới bếp để xắt thịt lợn tươi ra, lớp thì khô thịt, lớp thì làm thịt đông, lớp thì để gói bánh chưng theo sự sắp xếp của Mẹ tôi.




Mỗi cái Tết như vậy thì Mẹ tôi cần phải mua một con lợn thật là béo về thì mới đủ để mà gói bánh chưng và làm các món cho ngày Tết và cũng để chia phần cho tất cả những gia đình đến phụ giúp trong những ngày cuối năm nay. Tôi còn nhớ ông Cộng mà chúng tôi coi như là người Bõ già của gia đình là người đắc lực nhất trong mọi chuẩn bị cho một ngày Tết hoàn hảo của mỗi năm.


Bõ Cộng cũng là người rất là hiền lành nhưng mà giống hệt Ông Nội của tôi là mỗi năm chỉ tắm đúng hai lần Xuân Thu nhị kỳ mà thôi. Ông Nội tôi là thầy thuốc Bắc thật là tài giỏi lúc bấy giờ và mỗi khi mà bọn tôi có đứa nào bị ốm đau hay cảm hàn gì đó thì Mẹ tôi lại nhờ đến Cụ và đó là lúc mà Cụ lên lớp Mẹ tôi là mày cứ cho chúng nó tắm nhiều vào rồi thì đau ốm lại làm khổ Ông.









Tôi thích nhất là những ngày cuối năm, có lúc được Ông cho đến hiệu thuốc Bắc của ông, cho ngồi trên cái quầy và chờ Ông sửa soạn các thứ để đóng cửa mấy ngày Tết thì tôi được dịp nhấm nháp những quả ô mai cam thảo thật là ngon và được Ông cho những đồ chơi mà ông tự tay làm lấy như Lồng Đèn Kéo Quân, hay những thằng lính bằng thiếc bồng súng chào hay những chiếc xe Jeep con con mà Ông tự đúc lấy.











Trên lầu nhà tôi ở trên đường Cầu Đất ấy có một cái sân thượng to thật là to phải đến bốn trăm mét vuông là nơi mà mọi sinh hoạt chuẩn bị cho ngày Tết đều diễn ra ở đây. Tôi thường ngồi xổm bên cạnh Mẹ tôi để xem gói bánh chưng.




Mẹ tôi nói gì tôi cũng không hiểu nào là phải nấu đậu xanh ra sao, cắt những miếng thịt vừa nạc vừa mỡ ra sao, nào là phải gói cho thật chặt tay vào thì bánh chưng mới để lâu được để chỉ dẫn cho các cô tôi và các bà chị họ. Tôi thấy ai cũng đều vâng dạ và có vẻ như rất là kính trọng Mẹ tôi như là một vị tổng chỉ huy vậy.









Đến ban đêm mà luộc bánh chưng thì dù là thật buồn ngủ bốn anh em tôi cũng được đánh thức dậy để ngồi cạnh bên bếp lửa và cái thùng phuy thật là to chứa hàng trăm cái bánh chưng trong đó đang ùng ục sôi và thích thú nhất là lúc Bõ Cộng gắp lấy từng cái bánh ra thì tôi cố tìm xem cái bánh gói riêng cho tôi bé xíu ở đâu để cất riêng vào phòng của mình để suốt mấy ngày Tết nhất định chỉ để ngắm nhìn chứ không ăn nó.




Bánh chưng đậu và bánh chưng đường mà mẹ tôi nấu thì thật là tuyệt, tất cả họ hàng đều khen vì không thể tìm mua tại các cửa hiệu được lý đó giản dị là từ lá chuối đến nhân đậu thịt và đường đều là những thứ hảo hạng và tuyển chọn cả.









Rồi ngày hai mươi chín là mọi việc đều xong xuôi và hoàn tất, Mẹ tôi rất là cẩn thận và ân cần phân chia mọi thứ từ nồi thì Đông cho đến thịt kho tầu, bánh mứt tết và nhất là bánh chưng cho từng người và từng gia đình một. Bõ Cộng cũng nhận một phần kèm theo một số tiền mà mẹ tôi thưởng cho để đem về quê ăn Tết.











Và ngày ba mươi thì căn nhà tôi tự dưng vắng hẳn đi chỉ còn mấy chị giúp việc và các bà vú em đi theo Mẹ tôi quét dọn lại nhà cửa và chuẩn bị cúng Giao Thừa.




Đến bây giờ tôi mới thấy cái gia đình Việt Nam ngày xưa nó khác với gia đình ngày nay ở chỗ là một cái gì như là tình người rất là đằm thắm giữa Mẹ tôi và các chị giúp việc và nhất là các bà vú nuôi chúng tôi họ cứ y như là những người thân thích và ruột thịt của mình vậy. Lúc đó ba đứa em gái của tôi đều rất còn nhỏ và mỗi lần các bà vú xin phép Mẹ tôi để về thăm quê là tôi lại thấy cảm giác như thiếu vắng người thân vậy và mong các chị sớm về lại nhà với những món quà đơn sơ từ quê đem lên.




Vì Bố tôi học Tú Tài Pháp nên mọi thứ ông đều chuộng theo mốt của Tây khác hẳn với Ông Nội tôi lại là thầy lang và suốt năm cứ khăn đóng áo dài. Bốn anh em trai của tôi đều được ăn mặc rất là chỉnh tề và giống y hệt nhau chỉ khác có kích thước quần áo mà thôi để đứng sắp hàng một loạt chúc Tết Bố mẹ tôi ngày Mùng Một và chờ được mừng tuổi. Bốn anh em tôi đều được cho đi học trường Saint Joseph tại Hải Phòng là một trường Dòng nổi tiếng và những năm tháng học tại trường này và nếp sống Tây phương của Bố tôi vẫn còn ảnh hưởng đến tôi cho đến sau ngày di cư vào miền Nam năm Năm Mươi Tư và những năm sau này tiếp xúc với nhiều cố vấn Mỹ và văn hóa của người Mỹ nữa.




Thế rồi chiến tranh bùng nổ và gia đình tôi cũng như hàng triệu gia đình khác phải di cư vào Nam lánh nạn Cộng Sản.









Những cái Tết trong miền Nam có những hương vị đậm đà của nó nhưng tôi vẫn không quên được những ngày Tết khi còn bé.











Chiến cuộc vẫn tiếp tục lan rộng tại miền Nam và những ngày Tết sau đó là những ngày Xuân chiến chinh và các anh tôi lần lượt tòng quân vào sỹ quan Hải Quân Nha Trang, Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và tôi sau đó phục vụ cho Không Lực Thứ Bẩy của Hoa Kỳ tại Tân Sơn Nhất và những ngày Xuân tại Sàigòn đều đượm mùi thuốc súng với những bài hát đón Xuân gửi ra tiền tuyến trên Radio và trên truyền hình, dù là Saigon rất còn xa với những chiến trường của Quân Đoàn III.











Năm nay Xuân lại đến trên mảnh đất tạm dung chan hòa ánh nắng của miền Nam Cali. Hai ngày nữa là Giao Thừa.




Một năm nữa lại sắp qua đi, một năm mới lại sắp đến với




những ước vọng mới và niềm hy vọng rằng cái Mới sẽ tốt


đẹp hơn cái Cũ và cứ thế cuộc đời vần xoay.









Mấy ngày qua miền nam Cali như chìm trong mưa lũ và




bão tố. Hai hôm nay trời đã nắng lên và thời tiết tốt trở lại


và những chợ Hoa tại vùng Little Sàigòn thuộc Quận


Cam như đang hồi sinh và chợ Tết Xuân của Sinh Viên


với chủ đề "Xuân Yêu thương" sẽ khai mạc vào ngày mai


hai mươi chín Tết và kéo dài đến hết ngày Mùng Một.






Nhìn lại những mùa Xuân đã qua trong cuộc đời mình


như một cuốn phim quay chầm chậm lại và như thấy lại


hình bóng của tôi từ lúc còn bé đến khi trưởng thành


trong khói lửa chiến tranh, những năm tháng trong hỏa


ngục tù đầy và những năm tháng trên quê hương thứ hai


này như cũng mờ dần đi trong những bước thăng trầm


của đất nước Việt Nam.













Viết xong ngày Hai Mươi Tám Tết năm Canh Dần




Sài Gòn Mùa Thu Kỷ Niệm






Chúng ta những người Sài thành đã từng sống trong thành phố Hòn Ngọc Viễn Đông này thì đều thấy một điều là miền Nam nước Việt trong vùng Nhiệt Đới thì chỉ có hai mùa mưa nắng, hết mưa thì đến nắng chứ không có cảm nhận được khí hậu bốn mùa như các vùng Ôn Đới khác.









Tuy nhiên khi mà mùa hè chấm dứt theo tờ lịch treo trên tường thì mức độ nóng cũng có giảm dần đi một phần bởi vì trời đã sang Thu dù là trên lý thuyết.











Tôi có nhiếu kỷ niệm về những mùa Thu khi còn sống với Mẹ và các em. Đó là thời gian khoảng những năm đầu thập niên một chín sáu mươi khi mà cả ba người anh trai của tôi lần lượt nhập ngũ vì tình hình chiến sự đang leo thang và thanh niên nhất là trong thành phố bấy giờ đang nao nức tòng quân để bảo vệ quê hương.











Sài Gòn dù đã sang Thu nhưng những năm ấy đường phố và nhà nhà đều mang một sắc thái đặc biệt của một thành phố trong thời chinh chiến với những người lính trong quân phục trên khắp ngả đường đất nước.











Lúc đó tôi vừa học xong Đệ Tứ và vừa đỗ Trung Học Đệ Nhất Cấp tại trường Trần Lục ở Tân Định; và chuẩn bị vào Đệ Tam Chu văn An.











Là học sinh Đệ Nhị Cấp cũng có cái oai của nó bởi vì tôi là anh lớn nhất còn tại nhà để phụ giúp Mẹ tôi buôn bán, chỉ thêm bài vở cho các em và đôi lúc còn được các bạn học của mấy cô em gái tôi bên trường Lê Bảo Tịnh nhờ vả chuyện này chuyện kia nữa, cho nên dù là gia đình cũng còn túng thiếu nhiều nhất là sau khi Ba tôi qua đời nhưng trong cái gia đình nhỏ bé đó gồm mẹ tôi, tôi, bốn cô em gái và cậu út mới biết đi chưa biết chạy thì tôi và các em tôi đều rất là an phận và vui tươi chẳng thấy gì là suy nghĩ vì cuộc sống thật là giản dị đó.











Mỗi sáng là Mẹ tôi dậy sớm để bắt đầu một ngày mới mở cửa hàng buôn bán tạp hóa trên con đường Trương Minh Giảng thân thương, đối diện với ngôi trường Lê Bảo Tịnh, con đường mà tôi đã ở trên mười lăm năm trời với bao là kỷ niệm.











Nhưng sáng nào cũng vậy Mẹ tôi không quên làm một chảo đầy cơm chiên và một đĩa dưa muối cùng chén nước mắm cho các con ăn cho no rồi đi học. Sáng nào cũng vậy 365 ngày không bao giờ thay đổi vì nhà nghèo không thể mua quà sáng cho cả lũ con như vậy được.




Mẹ tôi nói ăn cơm cho chắc bụng vậy mà sáng nào tôi cũng tận tình xơi hai bát đầy không bao giờ chán, trước khi đạp xe đạp lóc cóc đến trường Chu Văn An tuốt trong Chợ Lớn.









Thời gian đó với tôi sao thật là đẹp thật là nhiều bạn dù là tôi lớn lên và trưởng thành trong hoàn cảnh thiếu thốn không quần áo để se sua, cả các em gái tôi cũng vậy thật là ngoan bao giờ cũng yêu thương Mẹ và không hề đòi hỏi gì.











Mỗi năm chỉ có hai bộ quần áo mới Mẹ may cho là vào dịp Tết Nguyên Đán mà thôi, còn quanh năm có gì mặc nấy, miễn là lành lặn sạch sẽ là được rồi. Mẹ tôi đôi lúc cũng khuyến khích chúng tôi là nghèo mà học giỏi mới tài chứ giầu có thì còn nói chuyện gì nữa.











Có lúc tôi kể cho Mẹ nghe là ôi còn học giỏi hơn nhiều thằng bạn nhà giầu nữa thì Mẹ lại lên giọng:











-"Thấy chưa! Mẹ đã bảo mà. Các con học giỏi là giống Ba con còn thông minh biết tính toán là...giống Mẹ."











Anh em tôi thường nhìn nhau cười thầm vì thấy Mẹ lúc nào cũng tự hào về mình, nhưng những lúc về đêm trước khi đi ngủ tôi thường thấy Mẹ ra ban công thắp nén hương vài Trời Đất và cầu nguyện cho các anh tôi được bình yên vô sự thì tôi lại thương Mẹ thật nhiều và xót thương cho quê hương mình quá lầm than. Những lúc các anh tôi về phép để chiếc mũ sĩ quan trên bàn thì tôi lấy thử đội lên đầu ra gương ngắm xem sao thì Mẹ lại bảo:











-"Chảng cần phải đội thử con ạ, mấy năm nữa vào trường sĩ quan Thủ Đức thì tha hồ mà đội."











Tôi có nhiều kỷ niệm về mùa Thu là bởi vì mỗi năm chúng tôi nhất là các cô con gái thường trông đến mùa Thu và đến rằm Trung Thu để phá cỗ rất là vui và hào hứng.











Cỗ mà Mẹ tôi chỉ cho chúng tôi bầy ra chỉ ba ngày trước rằm Trung Thu và phải chờ đến đúng tối ngày rằm mới hội họp đầy đủ hết con cháu thì mới được phá cỗ.




Đến bây giờ các em tôi còn nhắc đến kỷ niệm đó vì làm xong cỗ thì rất là công phu mà phá cỗ thì chỉ mươi lăm giây đồng hồ là có thể phá tan hoang chẳng còn gì.









Thời gian đó thì cô ruột tôi làm bánh Trung thu tại nhà và các em họ tôi đem đi bỏ mối tại các cửa hiệu. Thế là có lý do để chay qua nhà cô tôi trong hẻm 359 cách nhà tôi hơn trăm thước.











Cô tôi cho phép chúng tôi tha hồ lựa các khuôn gỗ nhỏ có tay cầm hình con heo, hình bánh vuông hay hình mặt Trăng để nhào bột thành bánh dẻo và nhồi vào các khuôn rồi đập ra thành sản phẩm.











Tôi thường chỉ huy các em để tụi nó làm nhiều bánh dẻo đủ các loại hình theo ý thích nhưng riêng tôi thì nhào bột để làm một cái bánh dẻo mặt Trăng thật lớn cả kí lô để làm giải thưởng cho tối hôm rằm phá cỗ. Xong rồi mua các lồng đèn Trung Thu và hàng chục cây mía nữa là đủ.




Gian ngoài mặt đường thì là mặt hàng còn gian nhà giữa rất rộng làm phòng ăn được sử dụng luôn làm nơi bầy cỗ.









Cái bàn hình chữ nhật chiều dài gần hai mét và chiều ngang tám tấc được sử dụng làm nơi bầy cỗ. Mía được róc hết vỏ và cắt ra thành những đoạn dài ngắn bằng nhanh rồi xây mía lên thành hai cái tháp nhọn lớn y như Kim Tự Tháp vậy hai bên và phần còn lại là trang trí sao cho thật là hấp dẫn với các bánh dẻo con con đủ hình thể xen với các bánh nướng nhỏ mà cô ruột tôi cho chúng tôi nữa để bầy cỗ xung quanh cái bánh Mặt Trăng lớn nằm giữa và bánh kẹo lồng đèn treo chung quanh. Trong con mắt của tụi nhỏ gia đình tôi vàtụi nhỏ bên cô tôi thì đây là cái cỗ Trung Thu lý tưởng và đứa nào cũng nhắm sẵn một món để tối hôm rằm đúng tám giớ thì Mẹ tôi mới cho phá cỗ.











Mấy ngày hôm đó chúng tôi cứ đi ra đi vào ngắm bàn cỗ để tính tối hôm đó sẽ nhào vô giựt món gì. Các cô cậu em họ tôi cũng rảo qua nhìn ngắm nhưng tôi nói là chỉ được nhìn thôi cấm táy máy.











Chắc chẳng có bút mực nào tả được hết cái nét hân hoan của tụi nhỏ em tôi và bên cô tôi tối hôm phá cỗ.











Sau khi chiều tắm rửa và ăn tối xong thì các em họ tôi chạy qua nhà tôi hợp cùng với đám em gái tôi. Mê tôi bảo tôi ra đóng cửa hàng xong thì vào nhà trong thắp sáng hết các lồng đèn lên và bánh Trung Thu mà cô tôi biếu Mẹ tôi ăn còn bao nhiêu thì bỏ hết lên mâm cỗ.











Giờ phút nghiêm trọng đã đến và tôi nhìn thấy trên mỗi khuôn mặt trẻ thơ trong những ánh mắt ấy một niềm vui sướng khôn tả trong hồi hộp chờ lệnh của tôi đếm một hai ba là cả chục đứa con nít có mà choai choai có đều nhẩy vào mâm cỗ và giựt lấy chiến lợi phẩm. Chỉ nháy mắt sau là mâm cỗ chẳng còn gì đáng kể, có những đứa em bé hơn nên không giành giựt được các con giống bánh dẻo hay bánh nướng với các chị thì khóc như ri.




Tôi cũng lấy được một mớ trên tay rồi nên quay lại cho các cô bé này và thế là lại gạt nước mắt cười tươi như hoa và mọi người đều vui và hể hả.









Năm nào cũng vậy cứ vào dịp Trung Thu là gia đình tôi lại tổ chức bầy mâm cỗ cho các em tôi và mấy em họ bên cô tôi vui ngày Tết cho nhi đồng - mà người lớn cũng hưởng vui lây - để cho Mẹ tôi vui và để cho Mẹ quên đi ba anh trai tôi đang xông pha nơi chiến trận.











Đến bây giờ đã gần bốn chục năm qua rồi mà các em gái tôi còn nhắc đến niềm vui lúc phá cỗ ngày rằm Trung Thu.







HỒI KÝ NHỮNG NGƯỜI TÙ CUỐI CÙNG CỦA PHẠM GIA ĐẠI - KỲ 6


1 2 3 4 5 6 7

Thiên Hồi Ký về "Những Người Tù Cuối Cùng" nhằm nói lên tinh thần bất khuất, sức chịu đựng phi thường cùng lòng dũng cảm và sự tương thân tương ái của những quân dân cán chính VNCH đã bị giam giữ, lưu đầy trong các trại gọi là "Tập Trung Cải Tạo" của Cộng Sản sau khi miền Nam sụp đổ vào ngày 30-4-1975.






Thiên Hồi Ký cũng để nêu lên những sự diệu kỳ và linh thiêng của Ơn Trên, của Trời Phật của Mẹ Việt Nam đã che chở cho những người tù....trong nhà tù CS.






Đọc xong thiên Hồi Ký này, chúng ta sẽ thấy những sự tuyên truyền xuyên tạc của Cộng sản nhắm vào chế độ VNCH đã từ từ tan rã như bọt nước; và những sự trả thù tàn bạo của Cộng Sản dành cho những người tù chế độ cũ đã không thành công như ý chúng muốn và thế cờ đã được lật ngược như thế nào.




Vũ Trụ Và Con Người



Vũ trụ thì bao la bát ngát đến vô tận và huyền hoặc nhưng con người tuy nhỏ bé khiêm cung nhưng cũng đầy huyền bí. Đấng Tạo Hoá hay Đấng Toàn Năng đã tạo dựng nên một vũ trụ với không gian hầu như vô tận hầu như không có điểm bắt đầu và cũng không thấy đâu là điểm tận cùng. Con người chưa được là hạt cát so với vũ trụ nhưng cũng chứa đầy những điều kỳ bí mà khoa học phát triển ngày này cũng chưa tìm hiểu hết được.






Con người rất là tự hào đã gửi những phi thuyền con thoi đi vào vũ trụ nhưng cũng chỉ quanh quẩn bên cạnh Mặt Trăng, Hỏa Tinh của Thái Dương Hệ. Nhiều phi thuyền không gian đã được gửi vào vụ trụ những năm trước đã ra đi với những tín hiệu yếu dần và biệt tích không biết về đâu hay chỉ còn là một cái xác kim loại chết đứng cô đơn một nơi nào đó cách Trái Đất bao xa?






Sâu thẳm trong Vũ Trụ cách chúng ta cả triệu năm ánh sáng vẫn có những hành tinh, những thiên thể nhưng không thể biết rằng ở đó có sự sống như trên Trái Đất hay không?






Nhìn những hình ảnh mà phi thuyền không gian đã gửi về Trái Đất của vùng mênh mông vô tận của những ánh sáng đầy màu sắc lung linh chúng ta chợt nhận thấy cái quyền năng cũng vô hạn của Đấng Tạo Hoá hay Đấng Toàn Năng. Ngài là ai có lẽ chỉ một số bậc Giác Ngộ mới có thể tri cảm được mà thôi.






Trong cuốn "Đức Phật và Phật Pháp" khi Đức Phật Thích Ca đã Giác Ngộ lên quả Phật và có những tín đồ của tôn giáo khác như Ấn Độ giáo và tu Khổ Hạnh hỏi ngài rằng vũ trụ là hiện hữu và vô tận ? Thì Ngài trả lời rằng cuộc sống con người ta quá là ngắn ngủi và tất cả chúng ta đều đang bị như trúng một mũi tên có tẩm thuốc độc và chưa kịp tìm hiểu gì về vũ trụ thì chúng ta đã giã từ thế giới này rồi.






Ý của Ngài là khuyên con người nên đi vào con đường tu hành và từ từ chúng ta sẽ hiểu được sẽ một ngày nào đó Ngộ được chân lý.






Não bộ con người thật là bé nhỏ nhưng nếu mà sử dụng được hết những neuron của nó thì không khác gì một bộ máy điện tử tinh vi hoàn hảo nhất trên thế giới này, và có thể biết đâu sẽ thông tin và liên lạc được với những bộ não còn thong minh hơn nó nhiều trong vùng không gian bao la vô cùng tận kia?






Cách đây cũng gần nửa thế kỷ trước, tờ báo Paris Match đã đăng một bài báo làm chấn động dân chúng thời bấy giờ là có một đĩa bay đã hạ cánh xuống một cánh đồng thuộc một thị trấn của nước Pháp và có những nhân chứng đã trông thấy nó.






Bài báo với nhiều trang tường thuật và vẽ lại những hình ảnh theo lời kể của nhân chứng thì khi chiếc đĩa bay nầy hạ cánh xuống thì tất cả nhà cửa, phố phường chung quanh vùng đó đều bị mất điện và các xe cộ đang chạy đều đứng khựng lại. Có hai cảnh sát viên đã núp sau một gốc cây và rút súng ra bắn về phía đĩa bay nhưng không gây hề hấn gì mà bất ngờ một lằn ánh sáng xanh từ đĩa bay như luồng điện xẹt ra và cả hai cảnh sát viên đó đều thấy tê đầu cổ tay và khẩu súng rớt xuống đất.






Ngũ Giác Đài của Hoa Kỳ cũng có rất nhiều tài liệu của những phi công Hoa Kỳ đã nhìn thấy những hình thể như đĩa bay và đã bay đuổi theo những chỉ tic tắc là mất hút.


Có lẽ rằng nếu có sinh vật ngoài hành tinh thì họ thấy chúng ta còn qúa là lạc hậu và cách xa họ hàng triệu năm ánh sáng về văn minh cho nên chỉ đến thăm Trái Đất chúng ta mà thôi chứ không muốn gây phương hại?


Linh hồn chúng ta khi chết rồi có phải nó sẽ bay về để hội ngộ với khối tâm linh ngoài vũ trụ bão la kia không? và Tiểu Ngã sẽ đoàn tụ với Đại Ngã?






Từ khi xuất hiện trên Trái Đất, con người đã chứng tỏ sự thông minh với một bộ óc biết suy luận nên đã đứng trên tất cả muôn loài. Loài người đã làm nên những kỳ tích trong việc đưa con người từ ăn lông ở lỗ cho đến ngày nay trong xã hội văn minh với những biệt thự nguy nga, những quần áo sang trọng, phương tiện tối tân và đưa cả phi thuyền lên chinh phục Mặt Trăng và thám hiểm Thái Dương Hệ nữa.






Mặt khác, con người cũng đã tạo nên những tội ác không thể nào xóa đi được dù đã trải qua mấy ngàn năm với những cuộc chinh chiến tàn sát hủy diệt lẫn nhau như Thành Cát Tư Hãn, quân Minh, quân nhà Thanh phương Bắc đã bao lần xâm lược nước ta trên hai ngàn năm qua.


Hai cuộc Thế Chiến I và II, sự cướp chính quyền và xâm lược của chủ nghĩa Cộng Sản trong thế kỷ Hai Mươi đã nhuộm đỏ toàn những máu và xác người từ Âu Châu sang Á Châu, những toán quân Khủng Bố Hồi Giáo, v.v.
Có nhiều điều chúng ta có thể hiểu được và lý giải nó được nhưng cũng có những sự kiện vẫn không thấu hiểu được.






Phải chăng vì tham vọng của con người hay vì trong con người chúng ta vẫn luôn có cái Thiện và cái Ác hay bởi vì chúng ta đang phải hít thở bầu không khí trong Cõi Dục nên cái Ác trong Dục Vọng thôi thúc con người tìm cách chiếm đoạt lấy để thỏa mãn cái tính Dục ấy?


Phải chăng nếu biết hướng về cái Thiện hay đi vào con đường Tu Hành thì chúng ta sẽ từ từ một kiếp nào đấy sẽ thoát ra khỏi được cái Dục Giới này và bay cao lên dần vào Cõi Trên trong vùng vũ trụ bao la kia? Cõi đó phải chăng là Cõi Thiên Thai?






Xuân Canh Dần Nhớ tết Năm Xưa



Tôi đi dạo một vòng phố phường trên đường Bolsa tại Little Sàigòn nơi được gọi là thủ đô của những người tỵ nạn và trong lòng vui vui bởi vì Tết sắp đến qua hình ảnh của những chậu hoa Cúc đại đóa hay những cành Quất nặng trĩu những trái hay những cành lay-ơn đủ mầu. Little Sàigòn và Cali đang đi vào Mùa Xuân, Mùa Xuân thứ ba mươi sáu trên miền đất tạm dung. Những cái rét lạnh sương mù bão rớt của Mùa Đông đang từ từ nhường bước cho cái nắng ấm còn nhạt mầu đang chiếu hắt bên thềm nhà trong buổi sáng sớm. Các gia đình có con cái thì dù là kinh tế vẫn chưa hồi phục hay nói đúng hơn thì vẫn còn trong khủng hoảng vẫn chắt bóp để mua quần áo giầy dép mới cho con cái và chuẩn bị cho ngày Tết họp mặt cũng đúng vào Chủ Nhật ngày Valentine's Day; cho nên các cậu con trai có người yêu năm nay lại phải chuẩn bị hai món quà vừa lì xì vừa gift card cho người yếu bé bỏng.

Tôi ghé vào vài gian hàng cửa tiệm trong khu thương xá Phước Lộc Thọ bày bán những tấm thiệp chúc Tết, những phòng bao mầu đỏ lì xì và cả những bánh mứt ngày Tết và hỏi thăm thì đều nhận được những câu trả lời giống nhau là con chậm lắm và hy vọng tuần sau giáp Tết thì thương vụ sẽ lên cao. Nhìn qua nhìn lại thì chỉ có ông đi qua bà đi lại là đông hay vào các nơi ăn uống mà thôi. Có những ngân hàng Mỹ tại vùng Quận Cam này cũng biết đến Tết của Việt Nam cho nên đã chuẩn bị để tặng cho khách hàng những phong bao mầu đỏ hay có thể đổi các tiền giầy mới để lì xì đầu năm.

Gia đình tôi năm nào cũng vậy, tối Giao Thừa là sửa soạn cho tục lệ "Xông Đất" bởi vì Bà Cụ thân sinh ra tôi giữ rất là đúng những lễ nghi phong tục của ông bà ngày trước. Ngày hăm ba là "Đưa Ông Táo Về Trời". Ba mươi là đón ông Táo về nhà đồng thời cúng ông bà, Mùng Ba là Hoá Vàng,v.v.

Dù rằng sống trên đất Mỹ với cuộc sống đầy đủ hơn rất nhiều so với Những ngày còn sống tại quê nhà nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những cái Tết đầy hương vị của mùa Xuân tại Sàigòn những năm khi miền Nam còn trong không khí an bình của thập niên sáu mươi và những năm đầu bảy mươi. Sàigòn của những năm tháng đó tuy rằng đất nước còn trong chiến tranh mịt mù nhưng những người ở thành phố vẫn còn được hưởng một không gian yên bình để đón Xuân.

Những ngày giáp Tết, chúng ta có thể như thấy mùa Xuân hiện diện trong bầu không khí quanh mình chưa kể mỗi buổi chiều tối rảo bước quanh khu Chợ Hoa chiếm hẳn một góc đường Nguyễn Huệ và một phần đường Lê Lợi đông nghẹt những người là người. Chiều ba mươi Tết tôi thường có thói quen chạy xe một vòng quanh khu Catina để nhìn cái hình ảnh cuối cùng của ngày cuối năm và nhìn những người vì bận rộn chưa mua sắm được gì đang vội vã mua bánh trái chậu hoa để đem về nhà kịp đón Giao Thừa và trong lòng thoáng một chút buồn vì một năm đang từ từ đi qua trong đời mình.

Đêm Tất Niên, tuy rằng tôi là người ngoại đạo, đúng hơn lúc đó chỉ biết thờ ông bà gia tiên theo những cúng kiếng của Mẹ tôi, nhưng vẫn tụ họp các cậu em họ để đến khu vực chung quanh nhà thơ Đức Bà, chạy xe vòng vòng hay nghẹt xe cộ đứng một chỗ để nhìn thiên hạ diện trong những bộ quần áo thời trang đi vào nhà thờ hay đi bộ chung quanh. Đúng là chẳng có việc gì nhưng năm nào cũng vậy không bỏ được cái việc chạy xe đến nhà thờ trước Giao Thừa hay vào một quán kem trên đường Tự Do ngồi nhâm nhi và ngắm thiên hạ rồi mới yên tâm về nhà coi TV chờ đón giờ phút thiêng liêng đưa năm cũ và đón năm mới..

Tôi là người luôn được gia đình ủy thác cho việc chọn các kênh TV nào để xem những chương trình chọn lọc trong buổi tối Tất Niên bởi lẽ nếu mà chọn chương trình không hấp dẫn là bị Mẹ tôi chê bai thì thiệt là "quê".

Thế rồi sáng ngày Mùng Một sau khi chúc Tết Mẹ tôi và các anh em trong nhà và lì xì cho các cháu xong là chuẩn bị đi lễ Xuân Đầu Năm mà nơi tôi thường đến nhất vẫn là Lăng Ông Lê Văn Duyệt, Bà Chiểu. Lúc đó tôi vẫn còn độc thân và dù rằng chẳng có gì để cầu xin nhưng vẫn cố chen chân vào được bên trong để thắp một nén nhang và cắm lên lư hương bằng đồng trong không khí phủ đầy sương khói của nhang đèn đôi lúc làm cho tôi ho hen đến sặc sụa và như vậy mới an tâm thong thả ra về.

Những món ăn ngày Tết tôi thích nhất lại không phải là bánh chưng mặn hay đường mà là vài món đặc biệt mà Mẹ tôi nấu hay mua về nhà ăn và chỉ trong dịp Tết mà thôi. Đó là món soup cải bắp nấu với măng tây và thịt heo và thêm bún tầu nữa bên cạnh vài đĩa hột vịt bắc thảo và vịt nhồi nếp với hạt sen. Con vịt thì đích thân Mẹ tôi phải đi chợ để chọn con nào thật là béo và chọn loại nếp và hạt sen và nấm mèo thứ thượng hạng thì nhồi nó mới ngon và con vịt mới có màu óng vàng.

Ba ngày Tết thì đúng là chỉ nghĩ đến ăn chơi vì hết ăn rồi đến chơi với các bàn 21 điểm, Tam Cúc hay Bầu Cua Cá Cọp cho con nít và bạn xì phé cho người lớn kéo dài suốt ba ngày Tết.




Thế rồi, những cái Tết sau năm một chín sáu hai thì vắng dần và bớt vui dần đi vì ba anh lớn của tôi và cả bẩy cậu em họ con của bà cô ruột gần nhà cũng từ từ nhập ngũ tòng quân vì chiến sự đang lan tràn khắp cả bốn vùng Chiến Thuật và vì làm thân trai thời đó cũng không thể khoanh tay ngồi yên được trước những tin tức đốt làng mạc giết dân lành, giật cầu đắp mô phá hoại đường xá của Việt Cộng.

Người Việt chúng ta lúc nào cũng nặng lòng với quê hương đất nước cho nên dù sống xa trên nửa vòng trái đất mà lúc nào cũng nhớ đến những kỷ niệm khôn nguôi của thời gian còn là người Sàigòn, sống tại Sàigòn, đi học đi làm hay khoác áo lính để bảo vệ Sàigòn.

Không biết đến bao giờ chúng ta mới có thể trở về lại Sàigòn để sống lại được những ngày tháng đong đầy kỷ niệm của một đất nước tự do và an bình.

"Saigon ơi! Ngày đó uất hận mà ra đi."
"Bởi vì Em đang trầm mình trong Lửa Đỏ."
"Bao năm qua dù vật đổi sao dời,"
"Em vẫn là Em của ta Sàigòn ngày đó,"
"Để ta về sẽ ngắm lại dung nhan."

Viết xong Rằm tháng Chạp năm Kỷ Sửu


Công Cha Nghĩa Mẹ






(Lời Tác Giả: Nhân ngày lễ Father's Day năm 2010, Tùy Bút này như một nén hương dâng lên Ba và là lòng biết ơn của con đối với công ơn sinh thành và nhất là sự hy sinh không bờ bến của Mẹ - người mà vẫn đứng vững như cây cổ thụ qua bao nhiêu là cuộc chiến thê lương trên quê hương mình.)






Hồi nhỏ chúng ta học nằm lòng câu thành ngữ gần như ca dao trong văn chương Việt Nam: "Công Cha như núi Thái Sơn, Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chẩy ra" nhưng ít khi nào chúng ta ngẫm nghĩ về sự so sánh rất là sâu sắc đầy ý nghĩa về công ơn của hai đấng sinh thành.


Thật vậy, khi còn nhỏ tôi thường nghĩ rằng cả hai ơn đức nuôi dưỡng của cha mẹ đều to lớn ngang nhau, nhưng càng lớn lên và nhất là sau những năm tháng trong ngục tù "cải tạo" thì tôi mới nhận thức được cái vai trò vô cùng quan trọng và bất khả thay thế được của người Mẹ.


Chả thế mà ta có câu:"Con không Cha như nhà không nóc" nhưng "Con mất Mẹ liếm lá ngoài đường".


Công Cha thì to lớn, vĩ đại và hùng vĩ như ngọn núi Thái Sơn và Nghĩa Mẹ thoạt nhìn thì nhỏ bé và dịu dàng như giòng suối trong nguồn, nhưng giòng suối đó vẫn róc rách chẩy ngày đêm qua bao nhiêu là năm tháng thì sẽ thành giòng sông, thành biển cả bao la, và đó chính là tình của Mẹ vẫn êm đềm yêu thương và chăm sóc con cái từ lúc con sinh ra đời hàng ngày và hàng đêm cho đến khi trưởng thành.


Nhất là người Mẹ đó lại là bà Mẹ Việt Nam đã sống kinh qua bao nhiêu cuộc chiến điêu tàn trên quê hương VN không lúc nào ngưng tiếng súng, từ những phong trào chống Pháp của vị anh hùng Nguyễn Thái Học và 13 nhà chí sĩ Yên Bái đến chiến tranh Pháp - Nhật, rồi Việt Minh, chia đôi Nam Bắc di cư vào Nam, đến cuộc chiến Quốc - Cộng 1954-1975 và những năm tháng gian khổ dưới ách cai trị hà khắc và phi nhân của Cộng Sản tại miền Nam sau năm 1975.


Những bà Mẹ Việt Nam đó chính là những thỏi vàng ròng quí hiếm đã không bị khói lửa chiến tranh làm cho sói mòn mà còn vươn lên và làm được những kỳ tích mà ít bà mẹ nào trên thế giới có thể sánh được trong những giai đoạn cực kỳ khó khăn đó của đất nước.


Trong gia đình từ nhỏ, anh em chúng tôi gọi Bố là Ba và gọi Mẹ là Mợ. Đúng ra thì Ba đi với Mẹ và Cậu đi với Mợ mới là cách xưng hô của người Hà Nội ngày xưa.


Người Hà Nội mà tôi đề cập ở đây là người Hà Nội lịch lãm của Thăng Long thành, và của văn hóa trước năm 1954, chứ không phải đám người từ trong rừng rú, trong hang Pắc Bó đi ra và mang theo cái học thuyết Cộng Sản quái thai và ngoại lai về để cướp chính quyền, rồi về Hà Nội cướp nhà cướp đất của dân chúng rồi vỗ ngực tự xưng là dân Hà thành và đã làm băng hoại hết những giá trị văn hóa và đạo đức từ ngàn xưa của dân tộc.


Tuy nhiên tôi cũng không để ý lắm đến cách xưng hô ấy trong gia đình mà chỉ biết rằng Ba tôi là một người theo Tây học và học sinh trường Bưởi ngày trước, và là một người có đầu óc đầy sáng kiến.


Ông Nội tôi lại là một nhà nho và một thầy thuốc Bắc sau này ra làm nghị viên thành phố nên ở nhà thường gọi là ông Nghị. Ông Nội tôi cũng nhiều sáng kiến nhưng ông chỉ dùng nó để sáng chế ra những đồ chơi thật là lạ lùng hấp dẫn mà đã làm cho các anh em chúng tôi say mê lúc còn nhỏ như lồng đèn Trung Thu khi thắp nến lên thì thấy có đoàn quân cầm cờ hay ngồi trên lưng ngựa chạy vòng chung quanh, hay chiếc tầu thủy bằng thiếc chạy được trên chậu thau hay bể nước khi gắn một miếng sà bông dưới đáy tầu.


Trong khi đó Ba tôi lại biết áp dụng sáng kiến vào thương mại vào đầu tư cho nên đã ba lần Ba Mẹ tôi trở thành triệu phú từ những năm trưóc khi sanh ra tôi.


Ba tôi đã đem sáng kiến vào ngành dệt và phát triển ngành này trong kỹ nghệ dệt tại Nam Định và là chủ nhân ông của một nhà máy dệt lớn trong thành phố nơi sinh ra tôi.


Lúc đó, Nhật đang chiếm đóng thành phố này và một hôm có một người đàn bà là tình nhân của một viên sĩ quan Nhật đến nhà Ba Mẹ tôi và đòi hỏi một cách hách dịch là phải có phần chia trong xưởng dệt đó nếu không bà ta sẽ cho đóng cửa nhà máy. Bà ta ngồi trên ghế tay phe phẩy chiếc quạt vừa nói mà không thèm nhìn Ba Mẹ tôi nữa với thái độ rất là kênh kiệu. Ba tôi thì quá tức giận vì con người trơ tráo này và nhất định không chịu vì nhà máy dệt mới xây dựng lên chưa bao lâu, nhưng Mẹ tôi bảo người đàn bà đó hãy về cho gia đình thu xếp.


Sau đó Mẹ tôi mới khuyên Ba tôi là nên chấp nhận, nếu không thì hàng trăm công nhân sẽ bị mất việc vì cơ xưởng đóng cửa, và con đàn bà nhân ngãi của Nhật đó làm ác thì sẽ gập quả báo, còn mình thì cứ làm gì cho phải đạo mà thôi.


Lúc đó Ba tôi mới thấy sự khôn ngoan của người vợ mình và nhờ đó mà xưởng dệt không bị đóng cửa.


Quả thật, một thời gian ngắn sau thì Ba Mẹ tôi nghe tin người đàn bà đó bị té ngã từ trên lầu xuống gẫy chân và không biết vì sao mà không thể đi lại được nữa.


Nhưng rồi cũng không ai qua khỏi định mệnh vì chiến tranh Nhật-Pháp lan rộng khắp các tỉnh thành và cả thôn xóm miền Bắc, và nhà máy dệt của Ba Mẹ tôi cùng nhiều nhà máy khác đã bị bom đạn san bằng.


Ba Mẹ tôi lại phải tản cư qua tỉnh khác lánh nạn.


Mẹ tôi kể rằng lúc đó mới có bốn anh em trai và Mẹ đã phải gánh bốn anh em tôi trong đôi thúng đi khắp làng này qua làng khác trong khi Ba tôi thì hướng dẫn cả một đoàn người đi chạy loạn trong đó có hai gia đình của ông Đốc là em ông Nội.


Ba Mẹ tôi lúc đó còn rất trẻ nhưng Ba tôi là trưởng tộc lại có học thức và biết tiếng Pháp nên hầu như là trưởng đoàn và từ ông bà đến các cô chú ai cũng nghe theo.


Nhiều tháng trời, Ba Mẹ tôi theo dòng người tản cư như thác lũ hướng về Hà Nội, vượt qua bao nhiêu trận ném bom của Pháp vào vùng Nhật chiếm đóng và tránh né được bao nhiêu là cuộc càn quét của Nhật vào những nơi còn quân Pháp đồn trú.


Sinh mạng con người trong thời loạn ly mong manh như cành hoa trước giông bão và Mẹ tôi vẫn thường nhắc lại rằng quả thật con người ta có số mạng vì hàng ngày nhìn thấy bao nhiêu người chết bị thương vì bom đạn vì kiệt sức mà gia đình mình nhờ Trời Phật vẫn bình an dù là lao đao trong khói lửa.


Trong tình hình gian nan nguy hiểm như vậy thì ông anh thứ hai của tôi lại bị bệnh "cam tẩu mã" làm cho hai hàm răng lung lay sắp rụng hết, may mắn nhờ có thuốc cao của ông Nội tôi bào chế ra và đắp vào cả hai hàm răng và lợi nên đã chữa được và giữ lại được hàm răng cho anh tôi kịp thời.


Chưa hết, sau đó lại đến người anh thứ ba bị phù thủng đi không được và Mẹ tôi nghe lời ông Nội là phải cho anh tôi ăn chuối mới trị bệnh được nhưng đang tản cư thì kiếm đâu ra được. Lúc đó mới thấy tình Mẹ, không chỉ là nuớc chẩy trong nguồn mà bao la như biển Thái Bình, vì Mẹ nhất quyết phải vào trong các làng mạc bên đường rất là vất vả và nguy hiểm để kiếm cho bằng được một nải chuối cho anh tôi ăn dần và không ngờ bệnh phù thủng đã lui đi một cách lạ lùng.


Nhưng thật là "phước bất trùng lai họa vô đơn chí", phước chẳng đến hai lần nhưng họa thì chẳng đến một lần rồi thôi,


vì trong khi theo đoàn người lũ lượt tản cư Ba Mẹ tôi lại lạc mất nhau.


Lúc đó Mẹ tôi đang gánh bốn anh em trai trong đôi thúng và khi nhìn lại thì không thấy Ba tôi và các ông bà cô chú đâu nữa. Mẹ tôi ngồi nghỉ lại bên vệ đường và chờ cả buổi vẫn không thấy tăm hơi gì nên một hồi suy nghĩ Mẹ tôi đoán rằng đoàn người đã gập phải chuyện gì không hay dọc đường rồi nên quyết định đi ngược lại dòng người để quay lại đi tìm Ba tôi.


Đến sẩm tối, khi Mẹ tôi tưỏng đã hết hy vọng thì mới thấy đoàn người trong đó có Ba tôi đang bị một toán võ trang Việt Minh giữ lại bởi vì Ba Mẹ tôi đang tản cư ngang qua một vùng do Việt Minh chiếm đóng. Họ bảo là đoàn ngưòi này đang trên đường vào dinh Tề tức là vào thành Hà Nội và bắt phải quay lại về hướng Nam Định.


Mẹ tôi hết sức thuyết phục họ là đoàn người chỉ chạy tản cư khỏi vùng bom đạn thôi chứ không vào Thành nhưng họ không tin. Suốt đêm hôm đó không ai chợp mắt được vì nếu quay lại có nghĩa là đi tìm về cái chết.


Rồi như một phép lạ xẩy ra, bất ngờ Ba tôi được gọi vào gập tay trưởng toán Việt Minh vì anh ta đã nhận ra Ba tôi là bạn học trường Bưởi ngày trước và viết một tấm giấy cho phép đoàn người được tiếp tục tản cư.


Lúc đó Mẹ tôi mới thở ra nhẹ nhõm và thầm cảm ơn Trời Phật và nhờ vậy mà Ba Mẹ và cả họ hàng của tôi mới vào được trong Thành an toàn.


Thế nhưng quân phiệt Nhật lại bắt dân chúng nhổ lúa và trồng đay cho kỹ nghệ chiến tranh của họ và năm đó Ất Dậu đã xẩy ra nạn đói gây cho hàng triệu người chết một cách thảm khốc nhất là những nơi vựa lúa như Thái Bình, trong khi miền Nam gạo thóc dư thừa không thể chuyển ra Bắc được.


Trong gia đình tôi, Mẹ kể lại thì Cụ Ông biết xem thiên văn cho nên một hôm Cụ bảo Mẹ tôi là phải tích trữ lúa gạo vì sắp đói to rồi. Mẹ tôi bèn thông báo cho hết họ hàng và quả thật miền Bắc đã hết thóc lúa và dân chúng đào cả củ khoai sắn, rồi củ chuối lên ăn và lũ lượt hàng đoàn người phải bỏ làng xã về thành phố đi ăn xin.


Mỗi ngày, hàng chục chiếc xe ba gác chở đầy người chết vì đói chất đống bên trên đi ngang nhà Ba Mẹ tôi, có những người vừa đến trước cửa nhà xin ít cơm cháo thì ngã lăn ra chết vì kiệt sức.


Mẹ tôi cứ nắm sẵn từng nắm cơm nhỏ một và cùng một người tớ gái đứng trước cửa nhà để phân phát cho họ, không dám cho ăn nhiều vì họ đã đói khát nhiều ngày nếu cho ăn no lại chết vì bội thực.


Mỗi khi nghĩ đến nạn đói năm Ất Dậu, chúng tôi lại vô cùng kính phục Mẹ tôi vì lòng thương người vị tha với Tâm Từ Bi của Mẹ đã giúp cho Mẹ làm được những chuyện phi thường. Nhất là lúc đó Mẹ tôi còn rất trẻ, mới 25 tuổi và chỉ theo Đạo Thờ Cúng Ông Bà và chưa hề được học qua đạo Phật hay một tôn giáo nào khác về vấn đề hành Thiện hay làm Phước.


Thế rồi Nam Bắc bị chia đôi ngày 20-7-1954, Ba Mẹ tôi di cư vào Nam như hàng triệu người VN khác không chấp nhận Cộng Sản.


Những tưởng sẽ được yên thân trong miền Nam thanh bình nhưng chiến tranh lại nổ ra khốc liệt đưa đến sự sụp đổ của chế độ Tự Do tại miền Nam.


Trong những năm tháng khi mà anh em chúng tôi đang trong tù thì gia đình Mẹ tôi bị đánh tư sản, chúng đóng quân trong nhà và đào bới khắp nơi để tìm vàng, tiền bạc cho bọn cầm quyền ngoài Bắc. Bọn Cộng Sản và VC địa phương tìm cách trục gia đình Mẹ tôi đi kinh tế mới để tịch thu căn nhà nhưng Mẹ tôi nhất quyết không đi.


Bao nhiêu lần chúng rình lúc gia đình vừa dọn cơm chiều lên là "mời" Mẹ tôi qua Phường "làm việc" và bắt ký vào lệnh giao nhà cho chúng để đi kinh tế mới rồi dụ dỗ không được thì quát tháo và vu cáo cho tội chống lại chính sách Nhà Nước của chúng. Mẹ tôi vẫn tìm kế hoãn binh mấy năm trời ròng rã, thấy không lay chuyển được Mẹ tôi, chúng cuối cùng mới chịu buông tha.


Những năm sau này khi tôi và ông anh Cả được thăm nuôi trong tù thì chính Mẹ tôi mà các con cháu thường gọi đùa và âu yếm là "Mẫu Hậu" là người chỉ huy mọi thứ, đã chắt chiu từng đồng một kiếm được hay từ những gói quà của anh thứ ba và của một em gái tôi từ bên Mỹ gửi về để gửi vào trong tù cũng như giúp đỡ thêm cho vợ con tôi và gia đình anh Cả tôi nữa cũng đang gập nhiều khó khăn tại Sàigòn và Lái Thiêu.


Bây giờ, qua bao nhiêu gian lao và khổ ải, đại gia đình tôi đều đã được định cư tại Hoa Kỳ trong nhiều chuyến ra đi khác nhau mà tôi là người sau chót,


Mẹ tôi vẫn tự hào nhắc lại lời Ba tôi trước khi nhắm mắt là:"nếu tôi mà không lấy được Mợ thì chắc gia đình mình đi ăn mày quá".


Bây giờ dù là Ba tôi mất đã lâu nhưng hình bóng của một con người học thức, hào hoa phong nhã, giầu có không kiêu căng mà chan hòa tình cảm cho cả họ hàng vẫn luôn là gương mẫu cho tôi trong cách sống ở đời.


Bây giờ dù là Mẹ tôi đã già nhưng tôi vẫn như thấy ẩn hiện hình bóng của một người phụ nữ trẻ đẹp và giầu lòng nhân đạo và quả cảm không hãi sợ trước bạo quyền Cộng Sản, suốt một đời hy sinh cho chồng cho con; một người đã đưa được gia đình mình vượt qua hết mọi sóng gió của một nước VN đắm chìm trong khói lửa chiến tranh và đến được bến bờ Tự Do an toàn như ngày hôm nay.


Tôi viết lên những giòng tùy bút này như lời cám ơn chân thành đến Mẹ và anh Ba và các em đã gửi những gói quà gói ghém tình thương gia đình trong đó vào tận trong tù nơi rừng sâu núi thẳm. Tôi muốn nói với Mẹ rằng con rất thương Ba nhưng con thương Mẹ còn nhiều hơn nữa.






Viết xong vào đầu tháng Sáu năm 2010


Mùa Xuân Và Tình Yêu






Như mọi buổi sáng khi vừa thức dậy, tôi kéo tấm màn cửa và tấm mành mành che cái cửa sổ nhìn ra vườn sau nhà. Qua khung cửa kính còn hơi chút sương mờ là những tia nắng sớm ban mai đang lung linh chiếu qua những cành cây trong vườn.


Tiếng chim chóc vui mừng hót líu lo làm đôi lúc tôi có cảm giác như mình đang sống trong một vùng thôn dã nào đó chứ không phải tại Thủ Đô Tỵ Nạn của người Việt tại Hoa Kỳ.

Cảnh vật xanh tươi và tiếng chim hót chào bình minh như thầm bảo cho tôi biết là Mùa Xuân đã về rồi với đất trời.

Trong vườn thì cây chanh lá vẫn còn xanh tươi sau một mùa Đông dài, cây hoa Anh Đào vẫn còn những nụ hồng xinh xinh, chỉ riêng cây ổi thì hoàn toàn héo úa lá vàng, và cây chuối thì tả tơi những lá cành sau những cơn mưa bão.


Đúng như vậy các bạn ạ, tiết Xuân vừa mới trở lại với California và chúng ta vừa giã từ một mùa Đông với nhiều mưa bão nhất trong hai thập niên gần đây.

Một năm thì có bốn mùa, nếu có ai hỏi tôi thích nhất mùa nào thì thật ra mùa nào cũng có cái đẹp và hấp dẫn của nó.



Mùa Hè thì ra bãi biển và nơi tôi cư ngụ thì rất gần biển- bờ biển của Thái Bình Dương nối liền California với Việt Nam bên kia bờ đại dương.


Những bãi biển đẹp và nổi tiếng như Laguna Beach, Huntington Beach, Santa Monica, xa hơn chút nữa là bãi cát nổi tiếng với thành phố kiểu Châu Âu tại La Jolla, sát bên San Diego, nơi chúng ta có thể ngồi ăn những con cua, sò, ốc, ngay tại chỗ.

Mùa Thu thì thời tiết đã bắt đầu se lạnh và những bộ quần áo ấm bắt đầu được đem ra mặc để đi shopping hay đi xem những khu rừng mà lá bắt đầu vàng úa hay chuyển sang mầu đỏ tuyệt đẹp. Những shopping malls tại Cali cũng là những trung tâm thương mại lớn vào bậc nhất Hoa Kỳ.

Nếu bạn đến miền nam Cali mà chưa đi shopping tại South Coast Plaza, hay chưa đến thăm viếng khu Thành Phố Cổ "Old World" của Châu Âu, để ngồi trong cái làng nhỏ của người Đức này ngay trong lòng Quận Cam và nhâm nhi một ly bia đen của Đức hay Hòa Lan, thì quả là một thiếu sót.

Mùa Đông Cali không lạnh lắm, nếu so sánh với miền Đông Hoa Kỳ hay với nhiệt độ luôn dưới zero của Canada, thì phải nói là ấm áp rất nhiều. Chính vì thế mà dân Cali lại thèm những cảnh tuyết rơi trắng xóa của miền Đông cho nên lại rủ nhau leo núi tới Big Bear hay Arrowhead để được hưởng khung cảnh tuyết trắng.

Nhưng, mùa Xuân vẫn là mùa mà tôi thích nhất, thích cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của nó. Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, ai cũng đã trải qua bao nhiêu là mùa Xuân và bao nhiêu là kỷ niệm êm đềm.

Thời gian đầu tiên lúc ấu thơ sống trong nhung lụa tại Hà Nội và sau cùng là Hải Phòng trước khi di cư vào Nam năm một chín năm tư.

Đó là những mùa Xuân vô tư nhất trong cuộc đời với những ngày Tết rộn rã tiếng cười trong tình thương yêu và tình người của gia đình họ hàng đoàn tụ và được mặc những bộ quần áo mới để đón Xuân.

Đó là lúc đầu tiên trong đời mà tôi đã để ý nhìn thấy những mầm non đâm chồi nẩy lộc trong vườn hay dọc theo trên đường đi học từ nhà đến trường Saint Joseph. Những mùa Xuân vô tư ấy đã mất đi cùng với hàng triệu người rời bỏ quê hương miền Bắc để di cư vào miền Nam.

Miền Nam nắng ấm hiền hòa là nơi đất lành chim đậu, và những mùa Xuân trong Nam cũng là những kỷ niệm khó quên dù lúc đó gia đình tôi đã sa sút, nhất là sau khi ông cụ thân sinh ra tôi qua đời.

Những mùa Xuân đó tôi không còn áo mới những ngày Tết nữa mà chỉ đón Xuân trong không khí đạm bạc của Sàigòn phảng phất khói súng vì những năm sau đó chiến tranh bắt đầu lan rộng.

Tuy vậy, những đêm Giao Thừa hay Mùng Một Tết đi lễ Đền Lăng Ông Bà Chiểu hay lễ Phật tại chùa Xá Lợi hay chùa Vĩnh Nghiêm với các cậu em họ tôi vẫn là kỷ niệm sâu trong ký ức.

Tôi có duyên với mùa Xuân vì những thành công đầu tiên trong đời cũng đều bắt đầu trong tiết Xuân. Sau khi tốt nghiệp Tú Tài toàn phần và giã từ ngôi trường Chu Văn An thân yêu để bước vào Văn Khoa, thì đầu năm sau đó, tôi được giới thiệu ngay một chỗ dậy học.

Mùa Xuân năm sau thì chính thức làm việc cho Đệ Thất Không Đoàn Hoa Kỳ tại Tân Sơn Nhất. Rồi năm năm sau, ngay sau những ngày Tết Nguyên Đán thì tôi chuyển qua nhiệm sở mới là Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ trên đại lộ Thống Nhất, Sàigòn.

Mùa Xuân cũng là mùa của Tình yêu nhưng với tôi thì nó cũng là mùa đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm sâu đậm của tình yêu học trò đầu tiên trong đời.

Thời gian đó gia đình tôi cư ngụ trên đường Trương Minh Giảng, Quận Ba và ngay sát bên là rạp hát Văn Lang, sau này đổi thành rạp Minh Châu thì phải.






Lúc đó tôi vừa theo học tại Văn Khoa - có một chứng chỉ học cùng lớp với Hoàng Oanh, cònThanh Lan thì học sau tôi hai năm, Đức Huy thì sau một năm - vừa đi làm lại vừa theo học một khóa Tae Kwon Do ngay dưới dốc cầu Trương Minh Giảng.

Nhà của nàng nằm trong ngõ hẻm dưới chân cầu và chỉ cách võ đường nơi tôi theo học vài căn mà thôi.

Mỗi tuần ba lần tôi và cậu em họ cùng tản bộ từ nhà tôi đến võ đường để tập môn võ của Đại Hàn này cũng vừa là để rèn luyện thân thể; và chiều nào cũng vậy, nàng đều đứng trước cửa nhà khi tôi đến võ đường cũng như khi ra về.


Lúc đầu tôi chỉ nghĩ là sự tình cờ, nhưng sau đó cậu em họ tôi thì nói nhỏ vào tai tôi là cô bé có vẻ thương tôi đó làm cho tôi rất là lúng túng mỗi lần sau đó phải đi qua nhà nàng, ngặt là vì không còn con đường nào khác.

Thế rồi hai đứa quen nhau lúc nào không hay, có lẽ là nhờ cậu em họ của tôi tính bạo dạn hơn tôi nên đã làm quen được nàng trước; và mỗi tối thứ Bẩy là tôi và Khiêm cậu em họ lại đến thăm nhà nàng và nghe nhạc thật hay của những ban nhạc lừng danh thời đó như Cliff Richard với “The Young Ones”, “Evergreen Tree”, The Beatles với những nhạc khúc “Yellow Submarine”, “Michelle” và “Yesterday” qua cái máy quay đĩa và hai cái loa Akai tối tân lúc đó.

Lúc đầu tôi cứ nghĩ là nàng để ý cậu em họ của tôi hơn vì cậu ta cao lớn hơn dáng thư sinh của tôi nhiều. Nhưng sau này có nhiều nam ca sĩ trẻ và cả ban nhạc Spotlight của Đức Huy cũng đến chơi và mỗi lần như thế thì nàng đi ngang qua tôi và nói nhỏ là tôi để dành một chỗ cho nàng bên cạnh tôi trong phòng khách trong lúc nàng lo chạy đi pha nước; và nàng luôn đến ngồi bên tôi suốt buổi tối trong sự ghen tức ra mặt của các anh chàng trồng cây si khác.

Tình yêu thời sinh viên là thế, thật là đẹp, thật là êm đềm và thơ mộng. Kỷ niệm nàng dành cho tôi là những cái lồng đèn bé xíu xiu bằng ngón tay thật là xinh với chữ ký của nàng bên dưới; hay những tấm các và những giòng chữ và những giọt nước mắt vì thứ Bẩy tuần trước nàng đã ngồi nói chuyện với tôi thật lâu và đã bị ba nàng la rầy.

Mẹ nàng cũng đã đến thăm Mẹ tôi và hai cụ rất là tương đắc tôi cũng mừng, nhưng gia đình nàng thì khá giả trong lúc gia đình tôi thì đang còn chưa hết nợ nần sau khi ông cụ thân sinh tôi đã mất.

Trong lòng tôi thật là hãnh diện có một người yêu bé nhỏ tiếng nói thật dịu dàng, người đã dành trái tim cho tôi và đã tế nhị từ chối hết những tình cảm của bao nhiêu là cây si đến thăm nàng mỗi tối thứ Bẩy.

Nhưng không ai học được chữ ngờ, không hiểu sao bố mẹ nàng lại muốn cho nàng lập gia đình khi nàng mới hơn hai mốt tuổi, có thể vì thấy quá nhiêu người theo đuổi nàng chăng?

Chị của nàng rất ủng hộ cho cuộc tình của hai đứa chúng tôi và nói là rất đẹp đôi và bảo tôi hãy mau về thưa lại với Mẹ. Tôi quả thật rối như bòng bong vì lúc đó ba anh trai lớn đều vào quân đội, còn tôi là lớn nhất nhà và là cột trụ gia đình và tôi dự định là vài năm nữa học xong Cử Nhân ra ngành dậy học thì mới tính đến chuyện hôn nhân.

Nếu tôi ngỏ lời xin với Mẹ thì chắc vì lòng thương con mình Mẹ tôi sẽ ráng lo cho tôi, nhưng tôi biết gia đình còn khó khăn nhiều lắm, nên tôi đành giữ kín trong lòng và đành phải trình bầy hết cho bà chị của nàng biết là nếu Bố Mẹ nàng cho phép nàng chờ tôi vài năm nữa?

Thế rồi mùa Xuân năm đó, khi tôi đang cùng Phân Đội Sáu thuộc Đệ Thất Không Đoàn, đi ra Đà Nẵng công tác thì được tin nàng phải vâng lời Bố Mẹ để lập gia đình. Tôi bèn cấp tốc lấy một chỗ trên phản lực cơ loại nhỏ "Bitchcraft" để bay về Sàigòn.

Tiếng hát của Andy Williams mà tôi vẫn thích với bài hát "Hawaiian Wedding" qua speakers của máy bay nghe như từ vùng nào xa xôi đưa lại vì tâm trí tôi như đang ở tận đâu đâu.

Người mà tôi tìm gập đầu tiên là cậu em họ và khi nhìn thấy tấm thiệp cưới của nàng thì tim tôi như muốn ngừng đập.

Tôi được cậu em họ cho biết rằng nàng đã buồn bã không ăn uống gì mấy ngày hôm nay nhưng có lẽ vì gia đình bên kia rất giầu có nên mọi việc coi như đã xong. Nàng cũng gửi lại tôi những món quà nhỏ kỷ vật tôi đã tặng nàng suốt hai năm quen nhau và một lá thư nhạt nhòa những giọt nước mắt, và nói tôi nhận lấy vì nàng không đủ can đảm giữ lấy và nhìn thấy những kỷ niệm đó nữa.

Buổi tối hôm đó tôi nói với Mẹ rằng mới công tác về rất nhức đầu không ăn cơm nhà và hai anh em xuống Hầm Gió ngồi uống cà phê nghe nhạc đến đêm khuya.

Sau này mỗi khi vào dịp Tết Trung Thu tôi lại nhớ đến những cái lồng đèn bé xíu xinh xinh, và mỗi độ Xuân về thì lại tự hỏi lòng mình buồn hay vui.


Hải Ngoại Thành Trì Chống Cộng Cuối Cùng



Nhận Định của: Phạm G. Đại










Nếu chúng ta không giữ được thành trì cuối cùng này tại hải ngoại thì người Việt Quốc Gia hiện đang cư ngụ trên hơn 80 nước trên thế giới sẽ không còn đất dung thân trên cái hành tinh này.






Cộng Sản Việt Nam (CSVN) dưới sự chỉ đạo của Cộng Sản Quốc Tế (CSQT) Nga-Tầu đã không từ một thủ đoạn tàn ác, vô nhân đạo, ám muội và đê hèn nào để trừ khử các nhà yêu nước, các đảng phái Quốc Gia, các vị tu hành, giết hại dân lành,v.v. để sau cùng cướp lấy chính quyền vào tay họ, và một triệu người miền Bắc đã phải bỏ quê hương di cư vào Nam sau hiệp Định Genève 20-7-1954.






Biến miền Bắc thành Địa Ngục trần gian từ 1945 và sau 1954 chia hai đất nước. Hố Chí Minh và bè lũ Đảng Cộng Sản cướp nước và bán nước là tội đồ lớn nhất của dân tộc VN.






Chúng không dừng ở đó mà xua quân vào xâm nhập miền Nam và cùng với bọn VC đốt làng phá xóm với vũ khí của CSQT.






Trong khi chúng được yểm trợ tối đa thì Mỹ tính chuyện của họ để rũ áo ra đi sau hơn 17 năm giúp miền Nam chống Cộng (1954-1972).






CSVN đã chiếm được miền Nam với sự trợ giúp của CSQT và của Hoa Kỳ (Nixon & Kissinger: hai tay sát thủ làm cho miền Nam kiệt quệ, QLVNCH không còn súng đạn để phải thua trận. CIA Mỹ thổi bùng phong trào Phản Chiến tại Mỹ châm ngòi cho Mỹ và toàn thể Đồng Minh rút lui mau lẹ khỏi VN trước khi chúng ta có thể một mình tự vệ được.)






30-4-1975 mất miền Nam, cả nước bị nhuộm một mầu máu đỏ. Sau một thời gian củng cố quyền hành xong, cướp xong hết tài sản của dân và tài nguyên của đất nước vào trong tay bọn cầm quyền Hà Nội thì chúng bắt đầu nhìn sang hải ngoại để đánh phá cộng đồng chúng ta để đẩy chúng ta vào chỗ suy vong.






Một mặt, qua hình thức kinh tài, địch vận, văn hóa vận, lũng đọan các tổ chức của chúng ta, gây chia rẽ qua Nghị Quyết 36 thâm hiểm của chúng; mặt khác thì tìm mọi cách chiêu dụ để moi tiền chúng ta đem tiền về nước đầu tư, "xây dựng quê hương", trường học, bệnh viện cho chúng,v.v., rồi dùng tiền này đem qua cho cán bộ chúng bên này đánh phá lại chúng ta.






Cộng đồng VN tại hải ngoại rất là mạnh vì có học thức cao, tích lũy nhiều sau 35 năm lập nghiệp, dân số đã lên đến ba triệu người nhưng có nhiều khuyết và yếu điểm mà CSVN đang lợi dụng triệt để như:






* AN PHẬN, KHÔNG CÓ THÁI ĐỘ CHÍNH TRỊ RÕ RỆT, MAU QUÊN QUÁ KHỨ ĐAU THƯƠNG, TỰ CAO TỰ ĐẠI VÀ THIẾU ĐOÀN KẾT.






Khi thấy một người ăn nói ba láp có lợi cho CSVN thì thường bỏ qua không dám lên tiếng sợ liên lụy hay mất lòng hay cho rằng ăn thua gì kệ họ.


Nếu CSVN thành công trong việc hủy diệt tiềm năng của chúng ta bên này thì còn có thì giờ ngồi hối hận vì sự "không dám lên tiếng" của mình hay không?.






Chúng ta cần phải đề cao cảnh giác rằng người Mỹ đang công khai nối lại, làm ăn, giao dịch với CSVN và CSTC cho nên họ không muốn chúng ta đi ngược lại chính sách của họ.


NHƯNG, việc của người Mỹ thì họ cứ làm


Công cuộc chống Cộng của chúng ta , ta cứ làm.


Không phải Mỹ họ không chống Cộng nữa thì chúng ta buông xuôi hay theo Mỹ chạy về VN làm ăn, sinh sống hay trở cờ.






Hành động xịt hơi cay vào ĐVH của anh Lý Tống, tuy là một việc nhỏ của một cá nhân anh hùng mà tôi vô cùng kính phục nhưng đã làm cho bọn văn công VC phải khựng lại, bọn cai thầu văn nghệ không còn coi thường cộng đồng chúng ta nữa, và bọn CSVN phải xem xét tín tóan lại.






Hoa kỳ trong thập niên 50 phong trào chống Cộng lên cao nhất là nhờ những người như TNS Mc Cathy (Cathyism).






Bức tường Bá Linh sụp đổ cũng một phần nhờ TT Ronald Reagan, TT Gorbachev và bao nhiêu là anh hùng vô danh đã tranh đấu và hy sinh cho tổ quốc của họ.


Tự Do cho quê hương VN không thể tự nhiên nó đến vì Tư Do không ai cho không mà là kết tinh của bao nhiêu sự tranh đấu bền bỉ của cả một dân tộc (như Độc Lập sau ngàn năm Bắc Thuộc).






Lịch sử VN sau này sẽ phán xét nếu chúng ta thờ ơ với vận mệnh Quốc Gia hiện nay hay sống quá tiêu cực và vinh thân phì gia mặc cho đồng bào và các tôn giáo trong nước vẫn đang bị đàn áp, bắt bớ giam cầm tù đầy hãm hại bởi sự cai trị hà khắc của Đảng Độc Tài Cộng Sản.





Chào Đoàn Kết!






Ngôi Chùa Bỏ Hoang






Bút Ký của: Phạm G. Đại










(Lời Tác Giả: Nhân dịp năm mới Canh Dần 2010, chúng ta thử trong một khoảnh khắc tưởng tưởng như đang sống lùi lại thời gian hơn nửa thế kỷ trước để đi vào câu chuyện có thật về một ngôi chùa trong Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung nằm ven đô thành phố Sàigòn năm xưa. Kính dâng lên hương linh của Thầy Tâm, cố Hòa Thượng Thích Thiện Chánh)






Ngôi chùa Thới Bình với bức tường gạch xây chung quanh, nhìn từ xa thì trông như một cái am lớn dành cho những người muốn tìm một nơi chốn yên tịnh để quên đi những phiền toái và trầm luân của cuộc đời. Khi vào bên trong sân để vãn cảnh thì thấy chùa cũng khá rộng và khang trang, gần cuối sân có một cây đa cổ thụ với tàng cây che phủ rợp cả một góc sân chùa nhưng hình như thiếu tay người chăm sóc cho nên cỏ mọc đầy cả sân và tường thì loang lổ nhiều chỗ vị thấm nước mưa, trong chánh điện thì một lớp bụi dầy phủ trên nền xi măng và nhện giăng mấy góc.






Theo dân mấy thôn làng kế bên kể lại thì trước kia đây là một doanh trại của lính Lê Dương thuộc quân đội Pháp trấn đóng để bảo vệ cửa ngõ vào thành phố Sàigòn. Sau khi đại đội lính Lê Dương rút đi thì một thời gian sau người ta thấy ngôi chùa được xây dựng lên với sự đóng góp tài vật của dân làng và những gia đình mộ đạo Phật và bá tánh trong vùng lân cận và do lực lượng công binh của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung đảm nhiệm phần kiến tạo.



Mấy năm trời sau khi khánh thành ngôi chùa nhưng vẫn chưa tìm ra được vị sư để trụ trì vì thời gian đó luật quân dịch không chừa một ai và các chú tiểu hay nhà sư đến tuổi vẫn phải thi hành nghĩa vụ quân sự và nhập ngũ.
Đại Đức Minh Tâm, pháp danh Thích thiện Chánh lúc đó 22 tuổi cũng nằm trong số những vị sư được đưa vào Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung để thụ huấn về quân sự.



Thầy đã qui y Tam Bảo từ thuở nhỏ lúc còn để chỏm và theo học đạo với Sư Ông từ lúc thiếu thời tại chùa Châu Viên nằm dưới ngọn Núi Lớn thuộc vùng Thất Sơn, tỉnh Châu Đốc.






Thất Sơn là vùng linh địa với bẩy ngọn núi và có lẽ là nơi quy tụ nhiều chùa chiền nhất trong nước và cũng là nơi nổi tiếng về sự linh thiêng huyền bí. Thất Sơn là nơi mà dân gian truyền tụng rằng Đức Phật Di Lặc là vị Phật Tương Lai sẽ hiện thân xuống trong Hội Long Hoa và khi đó thì thế giới mới có hòa bình và hạnh phúc thật sự mới đến với nhân loại.



Ước mơ của thầy là được xuất gia nương nhờ cửa Phật để theo chân Đức Phật Tổ, nhưng quốc gia đang trong thời chinh chiến nên thầy đành tuân theo luật pháp, tạm gác việc tu hành để làm tròn bổn phận của người dân.
Chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung lúc đó là Thiếu Tá Trần Tử Oai một hôm nằm mộng thấy một vị Bồ Tát hiện xuống với ánh sáng chói lòa mà ông nghĩ rằng đó là Đức Phật Bà Quán Thế Âm. Ngài nói rằng trong tay Thiếu Tá đang có một viên ngọc quí và hiếm, hãy cho người đó được trở lại cuộc sống tu hành và cho về trụ trì ngôi chùa bỏ hoang kia thì sẽ được nhiều phước đức.



Buổi sáng khi thức dậy Thiếu Tá Oai vẫn còn ghi nhớ như in giấc mộng thần linh tối hôm qua nhưng bán tín bán nghi nên bèn kêu viên sỹ quan phụ tá tìm xem thử trong đám người mới nhập trại có ai tên là Minh Tâm hay không.






Sau khi được xác nhận là có một vị đại đức tên họ tục danh như vậy, ông bên cho kêu vào để gặp mặt. Khi thấy Đại Đức Minh Tâm với khuôn mặt hiền hòa và từ con người của thầy như toát ra một cái gì thật là nhân hậu thì ông nổi giận và gọi viên Trung Úy vừa thì hành xong nhiệm vụ đưa các tân binh vào Trung Tâm để thi hành nghĩa vụ quân dịch và khiển trách viên sỹ quan này sao lại bắt một người tu hành như vậy.






Đại Đức Tâm liền được thả ra khỏi trại lính và được đưa qua trụ trì chùa Thới Bình để thầy từ nay sẽ lo vấn đề đạo pháp cho các tân binh và sỹ quan tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.



Từ khi thầy về trụ trì thì ngôi chùa Thới Bình được tu sửa quét vôi lại và dân làng chung quanh lại được nghe tiếng tung kinh gõ mõ và tiếng chuông chùa ngân vang mỗi khi chiều xuống.






Chẳng bao lâu sau thì Chùa Thới Bình trở thành một ngôi chùa được nhiều thiện nam tín nữ kể cả các tân binh quân dịch đến thăm viếng, nhất là những ngày Rằm và Lễ Tết trong năm. Bên cạnh chánh điện là một căn phòng nhỏ được thiết trí thành một nơi để thờ vong linh những người quá cố.






Dân làng bên và ngay cả một số gia đình từ Sàigòn cũng đem ảnh thân nhân quá vãng của họ đến để tại chùa để mong thân nhân họ được nghe kinh kệ và sớm siêu thoát.



Thế rồi trong Trung Tâm bỗng xôn xao vì một tin là nhiều tân bình quân dịch thường hay bị quấy phá ban đêm khi đang say ngủ bởi những ma nữ dấu mặt.






Các tân binh thường vẫn ngủ chung với nhau trên những sạp bằng ván gỗ trong những lán trại, nhiều người trong đêm bỗng giật mình thức giấc vì có những bàn tay lạnh toát đang kéo giật chân mình hay đầu tóc họ hoặc phà hơi lạnh vào gáy của họ.






Gọi là ma nữ dấu mặt vì nhiều tân binh khi tỉnh dậy thì đều thấy giống nhau là có hai bóng người nữ mảnh mai trắng toát đi lướt ngang qua nhưng không nhìn rõ được mặt của họ.



Tin nầy loan truyền đến tai của vị chỉ huy trưởng trung tâm nhưng ông cho rằng các tân binh ban ngày luyện tập nhiều quá và mỏi mệt nên đêm thường ngủ mộng mị như vậy mà thôi chứ làm gì có ma quái nào. Có tân binh đem chuyện ma nữ nhát họ qua kể cho thầy trụ trì chùa Thới Bình nghe và hỏi ý thầy thì thấy thầy nghe rất là chăm chú và có vẻ trầm ngâm như đang suy nghĩ và đối chiếu một điều gì.



Sự việc đó lại xảy ra lần nữa nhưng không phải trong trung tâm mà ngay tại chùa Thới Bình.






Một buổi tối lúc trời đã khuya rồi, và thầy Tâm đang cùng một chú tiểu nữa đang ngồi trong chánh điện để tụng kinh niệm Phật thì thấy nghe như gió thoảng qua từ phía cuối sân chỗ cây đa cổ thụ và cái giếng nước có tiếng ai đang than khóc thảm thiết và tiếng những miếng gach đá ném lên nóc chánh điện.






Thầy từ từ đứng dậy và khoác trên vai một miếng vài thô có dệt những sợi chỉ ngũ sắc mầu lóng lánh và một tay cầm chiếc roi mây và tay kia lần chuỗi hạt bước ra cửa và hướng về phía giếng nước.






Thầy thấy hai bóng trắng vừa vụt chạy như bay quanh miệng giếng và quanh cây đa và vừa liệng mấy miếng gạch đá nghe loảng xoảng lên nóc chùa.



Thầy chợt quắc mắt lên và chỉ roi mây về phía hai bóng trắng:


-Các người có khôn hồn thì lại đây nghe ta dạy bảo, không được phá phách như vậy!


-Ta nói các người có nghe không? Các người ở đâu và cớ gì đến chùa phá phách?






Hai bóng trắng như khựng lại một lúc rồi vụt bay tới quỳ xuống dưới chân thầy và gục đầu khóc nức nở.


-Chẳng hay các ngươi có điều gì oan ức nói cho ta nghe. Có phải các ngươi là thủ phạm quậy phá giấc ngủ của các tân binh bên trung tâm hay không? Tại sao các người dám lộng hành như vậy?


-Bạch thầy đúng là chúng con đã chọc phá họ nhưng vì chúng con bị giết quá ư là tàn nhẫn và oan ức cho nên chúng con không siêu thoát được và cứ phiêu dạt bao nhiêu năm nay cho nên mới tìm người quậy phá cho vơi đi niềm u uất trong lòng.


-Hay kể cho ta nghe thì ta sẽ giúp cho còn nếu cứ khuấy động lên như vậy thì chiếc roi này không tha cho hai ngươi đâu nghe chưa?


-Thưa thầy câu chuyện rất dài nhưng chúng còn vì kính trọng đạo đức của thầy nên xin nhờ thầy giúp cho sớm được siêu thoát nếu không chúng con sẽ không bao giờ ra khỏi được nỗi khổ nhục nầy.


Nguyên chúng con là hai chị em trong thôn Hai của làng bên kia cánh đồng, cách đây gần tám năm trước có việc phải đi ngang qua khu trại lính Lê Dương này vào buổi chiều sắp tối thì bị bọn chúng bắt giữ vào trong trại và hãm hiếp hai chị em con cho đến chết rồi ném xác xuống chiếc giếng kia và đổ gạch đá phủ kín giếng nước từ đó.


Gia đình đã đi tìm kiếm khắp nơi và có xin vào cả trại này hỏi thăm nhưng đâu ngờ xác con mình đang nằm dưới giếng sâu kia. Nỗi oan ức và nhục nhã này chúng con cứ mỗi đêm gào thét mãi mà không sao vơi được.


-Hai người nữ tên họ là gì, con cái nhà ai và ở đâu? nếu nói đúng, ta sẽ tìm cách đưa về chùa và sẽ cầu siêu giải oan cho. Thật là oan nghiệt!


-Bạch thầy, chúng con ở nhà gọi là cô Hai và cô Ba, con ông bà N. V. Ng. trong thôn Hai.


-Được rồi! Để mai ta sẽ nhờ người đào giếng xem sao đã.


Hai bóng trăng không còn than khóc nữa và vụt chạy như bay về phía giếng nước và biến mất.


Sáng hôm sau, thầy Tâm bèn qua bên trung tâm và xin gặp vị chỉ huy trưởng để trình bày sự việc và xin một số binh sĩ qua đào giếng để xem sự thật có đúng như hai hồn ma nữ thuật lại hay không.






Chiếc giếng nước này khi thầy về trụ trì thầy thấy nó rất lạ với đường kính rộng đến gần hai thước nhưng lại cạn khô và phủ đầy đất đá và gạch vụn lấp lên đến gần một phần tư của chiều sâu của nó.


Một mặt thì thầy sai chú tiểu vào thôn Hai hỏi dò xem có gia đình nào họ tên như vậy không. Buổi chiều hôm đó có hai ông bà dáng người khắc khổ, chống gậy vào chùa và xin gặp thầy trụ trì.


Lúc đó toán lính đang đào bới đến đáy giếng thi lòi ra hai bộ xương người. Khi đem hai bộ xương với những mảnh vải còn sót lại lên trên mặt đất thì hai ông bà già từ thôn Hai đến đã nhận ra ngay là hai đứa con gái của mình đã mất tích tám năm về trước.






Hai ông bà già nắm lấy tay thầy Tâm mà nước mắt tuôn rơi trên hai khuôn mặt mà những khổ đau đã in hằn lên những vết nhăn của năm tháng.


Hai người con gái xấu số đó cuối cùng đã được yên nghỉ trong cái nghĩa trang nhỏ bé của thôn Hai bên cạnh giòng suối có nước chảy róc rách ngày đêm.


Gia đình đã nhờ người vẽ lại chân dung hai người con và đem qua chùa nhờ thầy để trong căn phòng nhỏ thờ vong để được nghe kinh kệ và sớm siêu thoát.


Từ đó trong trung tâm huấn luyện không còn cảnh ban đêm ma nữ chọc phá các tân binh quân dịch nữa. Chùa Thới Bình nằm trong phạm vi của trung tâm và được các tân binh theo đạo Phật thương yêu gọi là ngôi chùa của Trung Tâm.


Qua thập niên sáu mươi, nhờ công đức đóng góp của các Phật tử, thầy Thích Thiện Chánh này là Thượng Toạ đã xây xong một ngôi chùa mới là chùa Thới Hòa nằm trên đường Quang Trung, Quận Gò Vấp. Thầy rời chùa Thới Bình giao lại cho một vị sư khác trụ trì và về trông coi ngôi chùa Thới Hòa cho đến sau tháng Tư năm 1975 khi Cộng Sản vào xâm chiếm Miền Nam thì thầy Tâm và các vị sư trong Nha Tuyên Úy Phật Giáo thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bắt đi cải tạo tập trung.


Thầy và thầy Thích Thành Long, quyền giám đốc nha Tuyển Úy, cùng các vị Đại Đức, các Linh mục và Mục sư khác được thả ra khỏi trại Ba Sao, Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh sau mười ba năm giam giữ.


Khi trở về chùa Thới Hòa thì ngôi chùa này đã tan hoang chỉ còn cái xác chùa. Thầy ra sức tu sửa lại và từ chối ra đi theo chương trình Nhân Đạo của Hoa Kỳ (HO: Humanitarian Operation) để ở lại với ngôi chùa thân yêu của mình cũng giống như tháng Tư năm 1975, thầy đã từ chối rời bỏ Sàigòn để qua Hoa Kỳ theo chương trình di tản của sứ quán Mỹ.


Ngôi chùa Thới Hòa đã được trùng tu trở lại và bắt đầu có đông đảo các Phật tử đến thăm viếng như xưa sau năm năm thầy trở về nhưng đó cũng chính là lúc mà thầy viên tịch, rời bỏ chốn hồng trần này để trở về với cõi vĩnh hằng.






Tản Mạn Về Những Kỷ Niệm Vui Buồn

Hồi Ký của Phạm Gia Đại



(Trích Tập San Hôi ngộ CVA646566 2009, Little Saigon, California.)



Trong mọi người đang sống trên miền đất tạm dung nầy, chúng ta đều có những kỷ niệm vui buồn thật là sâu đậm mỗi khi nhớ lại những tháng năm còn sống tại quê nhà. Những người sinh sống tại miệt vườn hay tại các tỉnh nhỏ thì không thể không nhớ đến các khu vườn trái cây sum suê nào mãng cầu, nào ôi, nào mít tố nữ, nào chôm chôm, v.v, nhớ đến những áo ca, những cánh đồng lúa vàng chạy tit chân trời.


Còn như tôi trưởng thành tại Saigon, thành phố hoa lệ và thường được coi như là Hòn Ngọc Viễn Đông thì kỷ niệm lúc nào cũng đầy ắp và một niềm nuối tiếc không nguôi về những ngày tháng năm cũ trong đó có những năm tháng miệt mài học thi tại trường trung học Trần Lục và trường Chu Văn An.

Cũng giống như hàng triệu người Miền Bắc sau Hiệp Định Geneve 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, Ba Mẹ tôi đành phải quyết định di cư vào Nam để lánh nạn Công Sản. Lúc đó tôi mới lên 9 tuổi cho nên những ký ức về những thành phố lớn mà tôi đã trải qua thời thơ ấu như Nam Định , Hải Phòng và Hà Nội chỉ là những hình ảnh chưa in đậm rõ nét trong tâm khảm dù rằng lúc đó tuổi thơ ấu tôi đã sống trong nhung lụa của một gia đình khá gia vào bậc nhất nhì thành phố Hải Phòng.

Vào tới Miền Nam vì có cô ruột tôi đã vào trước nên cô tôi thuê cho gia đình Ba Mẹ tôi một căn nhà rất là rộng rãi tại Bến Chương Dương để hai gia đình ở gần bên nhau và Ba Mẹ tôi mở một cửa hàng buôn bán gạo.

Khi việc buôn bán đang phát triển rất khả quan thì Ba tôi sức khỏe suy yếu vì đau buồn đã phải bỏ tất cả tài sản tại Hải Phòng để di cư vào Nam với hai bàn tay trắng.

Mẹ tôi đã quyết định ra Nha Trang, thành phố biển với khí hậu trong lành, để làm ăn và cho Ba tôi dưỡng bịnh. Lúc đó tôi theo học lớp Nhất tại trường Nam và năm sau thì lên Đệ Thất tại trường trung học Võ Tánh, Nha Trang.

Sau hơn hai năm tại Nha Trang, sức khỏe của Ba tôi đã khá hơn và tình hình buôn bán tại Nha Trang cũng không phát triển được nên gia đình tôi lại di chuyển vào lại Sàigòn và đơn về cư ngụ lúc đầu tại Trương Tấn Bửu và sau một năm thì về tại đường Trương Minh Giảng nơi tôi được nhận vào lớp Đệ Lục của trường Trần Lục trên đường Nguyễn Đình Chiểu, Tận Định.


Đây là ngôi trường mà lần đầu tiên từ khi di cư vào Nam năm 1954, tôi đã có được nhiều bạn bè thân quen và tình bản đó đã gắn bó từ thuở chưa trưởng thành cho đến tận ngày nay.

Năm tôi học Đệ Tứ tại Trần Lục đánh dấu hai sự kiện quan trọng xảy ra trong đời mình. Đó là năm mà Ba tôi sau nhiều năm sức khỏe suy giảm vì đã quá đau buồn và mất đi dù rằng đã được các bác sỹ người Pháp tận tình cứu chữa tại nhà thương Grall, Saigon. Lúc đó Mẹ tôi mới ngoài bốn mươi nhưng tôi thấy Mẹ tôi thật là lớn tuổi và chững chạc lo toan được mọi việc.

Đến bây giờ nhìn lại mới thấy lứa tuổi bốn mươi thật ra còn quá trẻ và Mẹ tôi quả thật rất là giỏi giang mới vượt qua được khoảng thời gian khó khăn và nợ nần chồng chất đó.


Sự kiện thứ hai là cuối năm Đệ Tứ, tôi đã may mắn thi đậu hạng Bình, Trung Học Đệ Nhất Cấp, những năm sau đó thì kỳ thi này đã được hủy bỏ và học sinh cứ học thẳng lên Đệ Nhị Cấp mà không cần phải có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp nữa.


Một người bạn rất thân với tôi lúc còn học Trần Lục chung một lớp là Nguyễn Văn Duyệt và anh cũng đậu hạng Bình, là thứ hạng cao nhất lúc đó tại Trần Lục.


Nhờ đó mà tôi xin qua học Đệ Tam Chu Văn An rất là dễ dàng. Và khi theo học những năm tháng tại CVA, tôi lại có thêm những người bạn mới mà tình bạn hữu vẫn còn kéo dài cũng cho đến ngày hôm nay.

Nói đến những kỷ niệm mà thời đang trưởng thành từ Đệ Tâm đến Đệ Nhất tại CVA thì không thể nói đến các người bạn thân thiết nhất của mình thời đó và những vị giáo sư đã dạy dỗ mình.

Những người bạn thân nhất của tôi thời trung học từ Trần Lục qua CVA rất nhiều những nổi bật nhất là Nguyễn Văn Duyệt và Đặng Trần Đắc.

Nguyễn Văn Duyệt tính tình rất hiền lành và khiêm tốn, anh học rất giỏi nhất là về môn Toán học vì thời đó tôi ở Trương Minh Giảng còn Duyệt ở trong cư xá Trần Quang Diệu (trước là Trương Tấn Bửu) cách nhau chưa đến một cây số và thường chạy xe đạp qua nhà nhau hàn huyên hay học chung và Duyệt cũng từng chỉ dẫn cho tôi nhiều về Đại Số và Hình Học những bài toán hóc búa anh cũng giải ra một cách dễ dàng. Sau này khi rời sân trường CVA năm 1965 thi Duyệt vào học tại Đaị Học Sư Phạm và được bổ về dạy học tại một trung học tại Rạch Giá.

Anh thường mời tôi xuống chơi thăm trường và nói rằng Rạch Giá đẹp lắm nhất là những buổi chiều lúc hoàng hôn ra bãi biển thì nhìn thấy Mặt Trời đỏ hồng đang từ từ lặn xuống sâu dưới biển.


Đến bây giờ tôi vẫn cứ tiếc nuối mãi là lúc đó một phần quá bận rộn đi làm để giúp thêm cho Mẹ tôi một phần nữa là ba anh trai lớn của tôi đều đã lần lượt nhập ngũ vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, vào trường sỹ quan Hải Quân Nha Trang và vào ngành Quân Y, nên tôi trở thành anh lớn trong gia đình và nhiều việc phải cáng đáng thêm cho nên đã nhiều lần bỏ lỡ cơ hội xuống chơi thăm Rạch Giá và thăm người bạn thân của mình và từ đó đến nay không ngờ là không còn gặp được nhau nữa.

Đặng Trần Đắc thì là công tử con nhà giàu trong lúc đó thì gia đình tôi đang sa sút nhưng không hiểu sao Đắc lại rất thích lui tới chơi với tôi và tôi cũng hàng tuần chạy chiếc xe Vélo Solex cọc kệch lên nhà chơi với Đắc tại đường Hồng Thập Tự.


Tôi còn nhớ là lúc tôi còn chạy xe đạp thì Đắc đã ung dung lái Vélo Solex rồi và đến khi tôi có được chiếc xe Vélo Solex cũ kỹ mỗi khi đến ngã tư dừng lại thì phải kéo cái cần nó lên và khi chạy đi thì hạ cái cần nó xuống thì Đắc đang lại chiếc Solex đời mới và tự động trông thật là oai. Đắc và Nguyễn Văn Chính hay Chính Móm đã học nhảy Đệ Tam và tốt nghiệp Tú Tài II trước tôi một năm.


Đắc có người anh trai đang sinh sống tại Pháp cho nên tôi đã đến nhà Đắc để gặp bạn mình chia tay và chúc bạn những điều tốt lành lên đường qua Pháp tiếp tục con đường học vấn. Đắc, sau vài năm đầu vất vả về vấn đề sinh ngữ vị tụi tôi chọn Anh Văn là chính tại trung học, đã dần dần thành công và chiếm đuoc mảnh bằng Tiến Sỹ và giảng dạy tại một đại học bên Pháp mà tôi không rõ tên.






Đó là gương thành công của một trong rất nhiều bạn bè của tôi từ Trần Lục đến CVA, mà tôi không kể hết ra đây được, những người đã làm rạng danh tên trường và làm tôi hãnh diện mỗi khi nghĩ đến các bạn đồng môn đó.

Tôi cũng đến thăm gia đình hai anh em học chung với tôi lúc đó là Nguyễn Hoàng Cương và Tuấn. Ba của Cương và Tuấn mở phòng mạch tại đường Cao Thắng và sau này khi tôi đi tù cải tạo tập trung trở về lại Sàigòn với thành phố đã đổi tên này và môi lần đi qua đường Cao Thắng thì vẫn nhìn vào căn nhà cũ đó dù rằng gia đình bạn mình đã không còn ở đó nữa và nhớ lại những hình bóng cũ thoáng qua.

Một người bạn mà cũng ở rất gần nhà của tôi là Uyên, Bùi Đức Uyên. Từ Trường Minh Giang tôi thường chạy xe rẽ qua Kỳ Đồng và rẽ vào cuối đường Nguyễn Thông để đến thăm Uyên. Tôi thích nhất là nhà Uyên có cái giếng nước và thường đến đó kéo gầu múc nước chơi vì tôi sinh ra và lớn lên tại thành phố nên những gì thuộc về thiên nhiên và không máy móc thì tôi rất thích.

Về những vì giáo sư đã dạy dỗ tôi tại CVA, ngoài những giáo sư dạy toán rất là hấp dẫn như Nguyễn Văn Kỷ Cương, Bạch Vân Ngà, thì tôi nhớ nhất là Cụ Mại dạy Pháp Văn, thầy Y dạy Việt Văn và một thầy rất trẻ đeo kính rất trí thức, mới ra trường Sư Phạm dạy tôi môn Anh Văn tại Đệ Tam mà tôi chưa nhớ ra được tên thầy. Cụ Mại với làn da trắng hồng hào khỏe mạnh, có lần tôi đã hỏi thầy rằng tại sao thầy có được là đã hồng hảo như vậy, thì thầy mỉm cười nói rằng mỗi buổi sáng khi thức dạy là thầy moi từ trong gầm giường ra chai rượu nếp than và tu một hơi.



Thầy Y thì lúc nào cũng "com-lê" tề chỉnh nhưng lại chạy xe...đạp. Một điều thú vị là mỗi khi sắp dừng xe lại tại đầu ngã tư hay vào sân trường thì thầy nhảy phốc xuống xe mà không cần "phanh" gì hết.


Sau khi mất miền Nam vào tay Công Sản, tôi cũng như hàng triệu người khác trong chế độ cũ VNCH bị gọi đi cải tạo tập trung và không ngờ nơi chỉ định cho tôi đến để trình diện lại là trường Chu Văn An.


Sau 10 năm kể từ khi tôi tốt nghiệp trung học đến lúc đó, bất ngờ tôi quay lại trường trong một hoàn cảnh thật là tang thương và cũng bất ngờ tôi gặp lại vị thấy trẻ tuổi dậy Anh Văn tôi lớp Đệ Tam CVA.


Lúc đó chúng tôi nằm ngồi la liệt trong các lớp học và ra cả ngoài hanh lang nữa với một tâm trạng nặng trĩu ưu tư và đang chờ đêm đến các xe bít bùng sẽ chở đi đến một nơi nào không biết được, thì thầy lặng lẽ đi ngang qua các lớp học đầu hơi cúi xuống, vẫn gọng kính đó vẫn khuôn mặt trẻ và trí thức đó nhưng sao tôi quá nghẹn lời không nói lên tiếng để chào thầy được.

Khi bước chân vào lớp Đệ Tam CVA năm 1962, điều đầu tiên và cảm xúc đầu tiên của tôi là một niềm hãnh diện khi mặc đồng phục là một học sinh Đệ Nhị Cấp CVA. Niềm hãnh diện này lại gia tăng mỗi khi nhìn thấy các nữ sinh Trưng Vương trong tà áo xanh và Gia Long trong tà áo trắng vì thời đó không hiểu sao lại có một sự gán ghép CVA với Trưng Vương và Gia Long cho Petrus Ký; có lẽ vì đã số học sinh tại CVA và Trưng Vương đều là trong gia đình những người Bắc di cư vào miền Nam năm 1954. Đến khi thi đậu Tú Tài I và lên học Đệ Nhất thì niềm hãnh diện lại tăng thêm khi nghĩ rằng bây giờ mình đã là "đàn anh" trong trường rồi và muốn mặc đồng phục hay không cũng không còn bị hỏi thăm sức khỏe như những học sinh các lớp dưới nữa. Các vị giám thị và cụ Tổng khi nhìn thấy các học sinh không mặc đồng phục đi học vào sân trường là các thầy biết ngay chúng nó là lớp Đệ Nhất và giả bộ làm ngơ, ngay cả khi thấy "cúp cua" thì cũng biết rằng tụi tôi đi học thêm các lớp luyện thi hay về nhà "học gạo" thêm bài vở vị học sinh CVA nổi tiếng là học giỏi và chăm chỉ và mỗi kỳ thi đều có tỷ lệ thi đậu rất cao so với các trường khác.



Một biến cố lịch sử xảy ra trong thời gian tôi theo học lớp Đệ Nhị tại CVA là vấn đề có tính cách “kỳ thi Phật Giáo” của chính phủ TT Ngô Đình Diệm. Sự kiện này đã nổ bùng ra sau khi Thượng Tòa Thích Quảng Đức tự thiêu tại trung tâm Sàigòn và các trường học lần lượt biểu tình và bãi khóa.


Tôi đang ngồi học trong lớp thì những viên đá ném lên loảng xoảng làm bể những cửa kính và các bạn bè dưới sân trường đang hô hào bãi khóa và biểu tình.


Bên ngoài thì từ lúc sáng sớm đã có những xe cảnh sát và cả xe thiết giáp bao vây quanh trường từ lúc nào rồi và việc gì phải đến đã đến. Học sinh CVA đã xung đột với cảnh sát dã chiến và một người bạn học của tôi lúc đó bị thương tích nhiều nhất là Nguyễn Minh tự là Minh Râu. Một số học sinh nhảy qua tường trốn được còn tất cả đều bị lùa lên xe lưới mắt cáo và về giam giữ tại Quân Lao Gò Vấp. Tôi ở trong Quân Lao được hai ngày thì ông chú tôi là Trung Tá trong Ủy Hội Quốc Tế tại Sàigòn đến bảo lãnh về lại gia đình.

Thời gian trôi qua rất là nhanh và năm 1965 chúng tôi thi đậu Tú Tài toàn phần và mọi người túa ra đi theo một phương như những cánh chim trời bay đến những vùng đất xa lạ.

Tôi vì phải gánh vác thêm giúp Mẹ tôi cho nên đã chọn Văn Khoa để có thể vừa đi làm vừa đi học trong lúc đa số các bạn tôi đã xin được học bổng và lên đường đi du học khắp năm châu và một số khác thì đã lên đường nhập ngũ tòng quân vì tình hình chiến sự lúc đó đang dần dần lan rộng từ thôn quê ra đến các thinh thành và đi đâu cũng nghe bàn tán đến những vụ khủng bố của Việt Cộng như đắp mô gài mìn trên quốc lộ, phá sập cầu cống, giết hại dân lành,v.v.

Sau biến có đau thương mất nước tháng Tư năm 1975, tôi cũng như bao nhiêu trăm ngàn quân dân cán chính khác của chế độ cũ VNCH đã bị cải tạo tập trung, trại tù mọc lên như nấm khắp hai miền Nam Bắc.


Sau khi được tha ra từ trại giam và đi định cư tại Hoa Kỳ, có nhiều người bạn Mỹ đã hỏi tôi rằng những kỷ niệm nào mà tôi ghi nhớ nhiều nhất thời gian còn ở Việt Nam thì tôi đã trả lời họ rằng thời còn là học sinh Đệ Nhị Cấp tại CVA là đáng ghi nhớ nhất.


Lý đó là chính trong thời gian theo học tại trường này đã hun đúc cho tôi tinh thần CVA, chăm chỉ học hành theo gương bạn bè, có thêm tinh thần trách nhiệm, và đây chính là thời gian như bản lề cho tôi trước khi chuyển sang giai đoạn bước chân thực sự vào đời. Những gì chúng ta thành công trong trường đời một phần chính là những gì chúng ta đã thâu lượm được trong những năm trung học và đại hoc.

Viết xong vào dịp lễ Memorial Day 2009






Tiếng Việt Từ Ngàn Xưa






Bài Viết của: Phạm G. Đại







Theo ngôn ngữ học thì tiếng Việt là một thứ tiếng nói và viết chỉ có một âm mà thôi (monosyllable: độc âm) và có các dấu sắc huyền hỏi ngã nặng làm cho tiếng nói của chúng ta lúc lên bổng lúc xuống trầm vả lại thay đổi cả ý nghĩa của chữ ấy nữa nếu khác dấu. Người ngoại quốc khi học tiếng Việt đều thấy đây là một sự thử thách khi trau giồi tiếng Việt.



Theo sử liệu ghi lại thì chúng ta có được chữ viết theo alphabetic này là công ơn của một nhà truyền giáo người Pháp là Giám Mục Bá Đa Lộc; một sử liệu khác lại nói rằng Bá Đa Lộc là người đã kiện toàn chữ viết cho chúng ta chứ nó đã có từ trước đó rồi nhưng chưa được hệ thống hoá.



Dầu sao đi nữa, ngày nay khi chúng ta sử dụng tiếng Việt theo mẫu tự La Tinh mà không phải viết ngoằn ngoèo thì rất là biết ơn người xưa. Bởi vậy, chúng ta cũng phải cố gắng giữ gìn tiếng Việt chúng ta cho chính xác kể cả văn nói lẫn văn viết để không những chúng ta cùng ôn lại ngôn ngữ mẹ đẻ của mình mà còn để nó lưu truyền lại cho các con cháu chúng ta nữa kẻo mai đây chúng nó vốn đã yếu về tiếng mẹ đẻ của mình mà rất để sử dụng sai các từ ngữ làm mất đi vẻ đẹp thuần túy của tiếng Việt mà ông cha chúng ta để lại.



Sau tháng Tư năm 1975 thì những người miền Bắc họ đã đưa vào trong Nam chúng ta những từ ngữ rất lạ lung và quái dị, và cách diễn đạt những tư tưởng của họ cũng rất là phi văn hóa với ngôn ngữ Việt.






Đó là những danh từ mà Công Sản phổ biến trong dân chúng, những từ ngữ này có thể đã được Cộng Sản Việt Nam phỏng dịch từ những từ ngữ mà Cộng Sản Liên Sô và Tàu Cộng sử dụng sang tiếng Việt cho nên nhiều chữ rất là không có trong tư điển hay nghĩa của chúng hoàn toàn khác với chữ vẫn được cha ông chúng ta sử dụng.


Sau này nghe quen chúng ta mới hiểu được là họ người miền Bắc sau năm 1954 muốn nói cái gì.






Điều này cũng xảy ra tại các nước có Đảng Cộng Sản hoạt động như tại Pháp thì người dân Pháp cũng phải thốt lên rằng không biết những người Cộng Sản Pháp này đang nói cái thứ tiếng gì không giống tiếng Pháp thường nhật.






Người Mỹ trước năm 1975 tại Saigon thì gọi những danh từ này là từ ngữ Việt Cộng (VC terminology). Đôi lúc chúng ta quen miệng có thể sử dụng những từ ngữ này mà không để ý. Tuy nhiên, nếu chúng ta cẩn thận và loại bỏ những VC terminology ra khỏi câu chuyện hay đối thoại của mình thì chúng ta đã giữ gìn được sự thuần khiết và đẹp đẽ của tiếng Việt mà cha ông đã để lại cho chúng ta từ ngàn xưa.



Nước Tàu là một nước lớn ngay phương Bắc của Việt Nam và lúc nào từ hai ngàn năm nay họ cũng rắp tâm thôn tính nước Việt thành một tỉnh hay quận huyện của họ và đồng hoá dân tộc chúng ta và bắt dân ta học chữ Hán.


Dù đã nhiều lần bị Bắc thuộc và có lần đã lâu đến cả ngàn năm nhưng ông cha chúng ta vẫn luôn luôn bất khuất và giành lại được giang sơn gấm vóc và chống lại được âm mưu thâm độc muốn đồng hoá chúng ta cũng như giữ gìn được phong tục văn hóa và tiếng nói riêng của người Việt.



Chúng ta đã ghét đến ghê tởm cái chế độ độc tài đảng trị và côn đồ của Công Sản Việt Nam theo gót Tầu Cộng thì chúng ta nhất định không bao giờ sử dụng một ngôn từ nào của chúng.
HỒI KÝ NHỮNG NGƯỜI TÙ CUỐI CÙNG CỦA PHẠM GIA ĐẠI - KỲ CUỐI


1 2 3 4 5 6 7

Thiên Hồi Ký về "Những Người Tù Cuối Cùng" nhằm nói lên tinh thần bất khuất, sức chịu đựng phi thường cùng lòng dũng cảm và sự tương thân tương ái của những quân dân cán chính VNCH đã bị giam giữ, lưu đầy trong các trại gọi là "Tập Trung Cải Tạo" của Cộng Sản sau khi miền Nam sụp đổ vào ngày 30-4-1975.






Thiên Hồi Ký cũng để nêu lên những sự diệu kỳ và linh thiêng của Ơn Trên, của Trời Phật của Mẹ Việt Nam đã che chở cho những người tù....trong nhà tù CS.






Đọc xong thiên Hồi Ký này, chúng ta sẽ thấy những sự tuyên truyền xuyên tạc của Cộng sản nhắm vào chế độ VNCH đã từ từ tan rã như bọt nước; và những sự trả thù tàn bạo của Cộng Sản dành cho những người tù chế độ cũ đã không thành công như ý chúng muốn và thế cờ đã được lật ngược như thế nào.




Phần XIX: Những Người Tù Áo Hoa






Thời gian ở trong tù quả thật đúng nghĩa là thời gian chết.


Khoảng thời gian vô bổ, vô nghĩa vì không biết lấy cái gì để lấp đi được hết cái khoảng trống đó hay làm sao để giết đi được hết cái thì giờ thừa thãi đó. Đâu phải nó chỉ là mười ngày hay một tháng như lời tuyên truyền lừa bịp của Quân Quản thành phố khi Sài Gòn đã mất, mà nó kéo dài lê thê và pha lẫn với những máu, nước mắt và mồ hôi của hàng trăm ngàn người tù chính trị hết năm này qua năm kia hình như không có giới hạn về thời gian nữa.


Lúc tôi còn ở trại cô nhi Long Thành, hơn ba ngàn người hầu hết là dân sự trong các Phủ Bộ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đang ở trong tù. Sau mười ngày, rồi sau một tháng trôi qua không động tĩnh thì họ cũng không còn biết bám víu gì vào ngày tháng nữa và thời gian chỉ còn là một khoảng trống không vô tận.






Cái chính sách "khoan hồng nhân đạo" của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản đối với các viên chức chế độ cũ đã bị rơi cái bộ mặt giả nhân giả nghĩa khi sau một tháng rồi mà vẫn giam giữ các "cải tạo" viên.


Chính sách đó đã biến miền Nam thành một nhà tù lớn nhất thế giới.


Những người dân miền Nam , nhất là các quân dân cán chính chế độ cũ VNCH qua một thời gian ngắn sống dưới chế độ Cộng Sản, bắt đầu hiểu lờ mờ thế nào là Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN); và khi mà thức ăn dành cho súc vật là bo bo cũng không có đủ cho những người tù lao động khổ sai nữa thì mọi người bắt đầu nhìn thấy một hiểm họa đói kém và một tương lai đen tối đang đổ ụp xuống trên quê hương mình.






Có điều chúng tôi đều không hay và đều không hề biết rằng những khoảng thời gian ấy là những tháng ngày hiếm có mà còn được những giây phút thoải mái và thong dong một chút trước khi bị đưa ra miền Bắc XHCN, bị ném vào "hỏa ngục" trên trần gian - là những trại "tập trung cải tạo" với nhiều hình thức lao động khổ sai khác nhau- đang được từ từ dựng lên như nấm khắp Nam chí Bắc VN, dập khuôn theo các trại ở Siberia hay Tân Cương.






Những buổi chiều tại trại cô nhi Long Thành, chúng tôi chẳng biết làm gi hơn là cứ lững thững đi bộ dọc theo các con đường đất nện chung quanh các căn nhà chỉ còn là cái xác, không cửa sổ mà cũng chẳng có cửa ra vào.


Một số thì ngồi trên gò đất cao nhìn ra hướng xa lộ chạy về thành phố vừa nhớ về gia đình vợ con vừa tự hỏi tại sao lại ra nông nỗi này?






Tại sao lại cả một chế độ đang Tự Do no ấm trong miền Nam chui hết cả vào tù như thế này? Tại sao hầu như tất cả những thành phần tinh hoa của VNCH đều vào trong cái rọ này hết? Ai, những ai là người đã gây ra cái thảm trạng này, chúng tôi chăng?






Câu hỏi đó cứ mãi xoáy vào trong đầu tôi và có lẽ cũng trong đầu mọi người đang ở chung quanh tôi bởi vì chúng tôi đã mất một miền Nam trù phú thịnh vượng và văn minh văn hóa vào tay bọn người mà trước kia VNCH gọi nó là loài quỷ Đỏ từ miền Bắc vào, vừa vô tôn giáo vừa vô tổ quốc, vừa nghèo đói vừa gian manh, tàn bạo, đầy thủ đoạn và xảo quyệt.






Nhưng loài quỷ Đỏ gian manh xảo trá đó lại là kẻ chiến thắng và chúng tôi văn minh văn hóa hơn mà lại là kẻ thất trận.






Điều nhức nhối là nằm ở chỗ đó, và mỗi thời gian qua đi trong tù thì chúng tôi lại học được những kinh nghiệm mới và hiểu rõ hơn về cái gọi là XHCN - là cái xã hội dậy cho con người ta bề ngoài phải sống dối trá thì mới có thể tồn tại được.






Trong khi từ ngàn xưa chúng ta đã bị ảnh hưởng nhiều từ hai luồng triết học của Khổng giáo và Phật giáo. Sau ngày di cư vào Nam chúng ta còn được học Công Dân Giáo Dục và Đức Dục tại trường học. Các môn trí dục đó đều dậy chúng ta trở thành những con người vừa có tài năng vừa có đức hạnh, ngay thẳng, thành thật và biết thương người.






Đem hai lối sống đối chọi nhau như vậy ra cân đo, một đàng Cộng Sản chỉ biết một điều là chém giết và phá hoại không nương tay tất cả mọi thứ trên đường chúng đi để cướp chính quyền bằng mọi thủ đoạn - và một bên chúng ta những người Quốc Gia đã hành động như những người quân tử có lòng nhân đạo và không biết phòng bị đối với kẻ tiêu nhân - thì chúng ta đã hiểu vì sao Việt Minh đã thành công trong việc âm thầm hay công khai thủ tiêu hầu hết các nhà cách mạng trong các phong trào và đảng phái yêu nước thời chống Pháp và họ đã cướp được chính quyền.






Sau năm 1954 đất nước bị chia hai và khi Hiệp Định Genève ký chưa ráo mực, CSVN vẫn dùng một sách lược như cũ, theo đúng lời dậy bảo của quan thầy chúng là Nga-Tầu, là phát động cuộc chiến võ trang, xé bỏ ngay Hiệp Định mà chúng vừa ký kết để xua quân xâm nhập trái phép vào miền Nam qua vùng Phi quân sự và sử dụng cả đất Lào và Miên cho đường chuyển quân của chúng.






Trong tù, anh em có lúc nói chuyện với nhau rằng nếu ngày trước hành quân bắt được tên VC hay Bắc Việt nào bắn bỏ hết thì chúng đâu còn lực lượng đâu mà tấn công chúng ta nữa? Nhưng là người Quốc Gia chúng ta thượng tôn luật pháp đâu có thể làm thế được. Cho nên chỉ giam giữ tù binh VC một thời gian, cho một bản án, rồi lại thả và chúng lại trốn vào bưng, như cóc bỏ dĩa vậy.


Thời gian còn ngoài Bắc, có những em bé chăn trâu hay những trẻ đang mót lúa trên đồng nhìn thấy chúng tôi thì lạ lắm. Vài hôm sau quen dần thì mon men lại gần hỏi chúng tôi biết đọc chữ hay sao khi có vài anh cầm trên tay cuốn sách. Bởi Các em và các dân làng bên đều bị tiêm nhiễm sự tuyên truyền của Cộng Sản rằng các lính "Ngụy" chỉ biết ăn gan hút máu người mà thôi.






Thế rồi vài anh đã chỉ cho các cháu tập đọc và cách giữ gìn vệ sinh tránh bệnh tật nữa và các em bé này khi về tới làng loan truyền lại rằng các người tù này rất hiền lành và tử tế chứ không hung dữ như các cán bộ huyện xuống tuyên truyền đâu, và mỗi lúc đội chúng tôi đi lao động bên ngoài trại thì các em lại mon men đến gần vì rất thích nghe các chú kể truyện trong Nam.






Những ngày mà đội được điều về sửa sang hay xây lại cái sân hay gian trái của nhà tay trưởng trại là Thiếu Tá Dũng thì cậu bé cháu nội của tay trưởng trại này mới lên bẩy thường khệ nệ vác ra cái điếu cầy, ít thuốc lào cho các chú hút thuốc "giải lao" cho vui.






Nó thường nhìn trước sau không có ai là bê nguyên bình rượu Mai Quế Lộ của ông nội nó ra cho các chú mỗi người tu một hớp, rồi ngồi bên cạnh há hốc mồm ra nghe một cách say sưa các chú vừa lao động vừa kể chuyện đời xưa trong Nam, những chuyện lạ lắm nó chưa từng được nghe bao giờ.






Hỏi là lớn lên cháu thích làm gì thì nó trả lời không do dự:






-"Cháu muốn làm các người tù áo hoa như các chú"






-"Tại sao không muốn làm cán bộ như ông nội con đó?"






-"Tại vì tù áo hoa có nhiều quà lắm. Mỗi lần thăm nuôi là một xe đầy quà à!."






Chúng tôi dù đang trong hoàn cảnh lưu đầy cũng không nhịn được và phá ra cười.






Sau khoảng hai tuần lễ sửa chữa nhà cửa cho tay trưởng trại này xong thì những người tù áo hoa này không còn có dịp gập lại chú bé con dễ thương đó nữa, nhưng vẫn không thể nào quên được tình cảm thương mến mà chú bé đã dành cho các anh em trong đội xây dựng nhất là hớp rượu Mai Quế Lộ hiếm có trong hoàn cảnh đó.






Dân làng chung quanh cũng quen gọi chúng tôi là tù áo hoa vì mặc đồ treillis, còn bà vợ của tay trưởng trại này thì gọi chúng tôi là "những tù quốc tế":






-"Các anh cứ đưa tiền đây cho tôi, tôi sẽ mua trứng gà và thịt thà cho. Ăn vào cho nó khỏe chứ các anh là tù quốc tế mà sợ gì tụi nó".






Tụi nó ở đây là đám cán bộ an ninh và trực trại và những anh em tù nhân cả bên hình sự và chính trị được cho chức vụ như tự giác, thi đua luôn đứng lục xét từng người tù một ngay tại cổng trước khi cho nhập trại, nếu họ có gì nghi ngờ.






Bà ta nói thì rất là mạnh miệng nhưng có lần trong đội thường cử ra một anh làm "sĩ quan liên lạc" để đi lấy hàng về, khi vừa đến cửa nhà tay trại trưởng thì anh định kêu bà đem hàng ra thì thấy ông ta ngồi lù lù cạnh cái bàn đang rít điếu thuốc lào, còn bà vợ ở phía sau thì xua tay rối rít. Anh "sĩ quan liên lạc" này vội dọt lẹ.






Hôm sau gập bà ta lấy hàng thì bà phân bua:






-"Các anh không biết chứ ông ấy cứ hay lên lớp tôi là mua bán “móc ngoặc” như thể là làm ăn không tôn trọng nội quy và làm ông ta mang tiếng. Hôm qua tôi bèn nói cho ông ta biết rằng nếu tôi không làm ăn buôn bán thế này thì lấy đâu ra ngày ngày thịt lợn luộc cho ông ấy ăn, rượu Mai Quế Lộ cho ông ấy nhắm?"






Bà vợ tay trại trưởng này tuy người gầy đét như que củi và hàm răng thì cả một tiểu đội trú mưa cũng còn dư nhưng được cái không hiểu sao rất là tốt với những người tù áo hoa này, có thể vì họ sẵn sàng mua hàng với bất cứ giá nào dù là cao hơn nhiều so với ngoài chợ, miễn là có hàng cho họ để bù vào cái khẩu phần ăn quá thiếu thốn.






Vậy mà trong một thời gian dài bà ta cũng đã giúp cho chúng tôi rất nhiều trong dịch vụ cung cấp "chất tươi" - để chỉ các loại thịt và nhất là trứng gà.






Hễ có con gà nào vừa đẻ là bà ta dành dụm lại thành một chục để bán cho tù chính trị và chỉ bán cho tù chính trị mà thôi. Có anh em hỏi tại sao không bán cho tù hình sự thì bà chỉ lắc đầu không nói nhưng chúng tôi hiểu ngầm là bà chỉ tin tưởng vào đồng tiền của người tù áo hoa thôi.


Mãi cho đến khi các gia đình trong Nam ra thăm nuôi chúng tôi được thường xuyên hơn thì những dịch vụ buôn bán của bà vợ tay trại trưởng này mới thưa dần đi.


Dù thời gian đã xóa nhòa đi nhiều kỷ niệm nhưng tôi vẫn không bao giờ quên được cái dáng gầy đét như cây sậy và đôi chân trần nứt nẻ của bà vợ tay trưởng trại này và cái tay bà khua khua trên không khí:






-"Các anh không biết chứ ngày xưa tôi là hoa khôi trong làng cho nên ông ấy mới mê tít đi mà cưới hỏi đấy."






Dầu sao cũng phải công nhận là bà ta có cái Tâm khá thành thật và không hề bị ảnh hưởng bởi luận điệu tuyên truyền của Nhà Nước XHCN nên đối xử với chúng tôi có chút tình người.






Những hôm mua được "hàng" từ nguồn cung cấp của bà vợ trưởng trại này, và qua mặt được sự khám xét ở cổng trại để đem "hàng" vào được trong trại yên lành là những thời gian "vàng son" của người tù.






Chúng tôi chia nhau có thể năm mười người một con gà luộc để có một bữa ăn cho bõ ghét. Nằm ngay trước mặt tôi là một anh bạn khác đội, pilot ngày xưa và cao lớn. Anh ăn rất khỏe bởi thế lại là người đau khổ nhất mỗi khi nhận phần ăn chưa đầy một bát bo bo hay lưng bát cơm. Thấy tôi nhỏ con nên anh thường hay qua đổi cơm lấy bo bo để ăn cho nó nặng bụng hơn một chút vì bo bo vỏ dầy ăn vào thì lâu tiêu hơn là cơm nên có cảm giác đỡ đói hơn.






Hôm ấy, anh dành tiền và mua được nguyên một con gà và buổi tối sau khi vào buồng, anh mượn cái chậu thau phát cơm của buồng để đựng con gà, bầy nó nguyên con ra trước mặt để làm một bữa đánh chén có một không hai cho thỏa những ngày bụng xẹp lép quanh năm.






Tôi ngồi ngay trước mặt anh ở sàn trên nên không muốn cũng phải nhìn qua sàn bên kia từ đầu đến cuối, từ lúc anh bắt đầu ngồi xuống chiếc chiếu, sắn tay áo lên bê cả con gà lên, nghĩ sao lại bỏ xuống rồi chỉ bẻ một cái cánh ra nhấm nháp trong khi cặp mắt thì lim dim lại như để tận hưởng cái khẩu vị êm ái và ngọt ngào đó. Nhìn cách anh chậm rãi "xơi tái" con gà một cách ngon lành mà tôi không nhịn được cười, dù là vui vì bạn mình có một bữa no nê để trả thù cái đói kinh niên đáng nguyền rủa cứ bám chặt lấy người tù. Thình lình anh mở mắt ra nhìn thấy tôi bèn chỉ vào chiếc đùi gà, tôi lắc đầu chỉ vào phần thịt gà mà tôi vừa chia được.






Sau hai tiếng đồng hồ anh mới xong bữa tối. Bình thường thì chỉ vài phút đồng hồ là chúng tôi ăn xong phần ăn của mình bởi chỉ có độc nhất ít bo bo hay khoai tây nhỏ bằng ngón tay út hay lưng chén cơm, không có canh, không có cả nước muối hay rau cỏ gì nên thanh toán rất nhanh.






Anh rửa qua loa cái chậu thau, bỏ nó ra gần cửa xong leo lên giăng mùng chui vào giấc ngủ đến thật êm đềm. Tối đó tôi tin là anh ngủ rất say không nhiều mộng mị. Người tù đó vừa có một ngày vui bất ngờ, một bữa ăn thịnh soạn như trên trời rơi xuống, và ngày mai muốn ra sao hãy tính sau.






Vài năm sau khi vào trại thì họ phân phát cho chúng tôi các bộ đồ treillis mầu hoa rừng của QLVNCH trước kia, một phần để tiết kiệm ngân quỹ, mặt khác cũng có thâm ý để cho chúng tôi mặc quấn áo đó như là QLVNCH đang bị chúng giam giữ vậy.






Thiên bất dung gian cho nên họ không ngờ rằng với bộ treillis mầu hoa rừng đó của các binh chủng TQLC, Nhẩy Dù, BĐQ, các người tù đã đi khắp đó đây trong núi rừng trùng trùng điệp điệp của Hoàng Liên Sơn chặt cây đem về cho trại - và vô hình chung QLVNH như bừng sống lại giữa núi rừng từ miền trung du lên các tỉnh miền thượng du.






Trong mắt của dân làng nhất là dân tộc thiểu số qua những lần tiếp xúc tuy ngắn ngủi với các người tù chính trị chế độ cũ thì họ nhận thấy những người tù này hoàn toàn khác hẳn so với những tù hình sự và dân chúng bắt đầu gọi chúng tôi là "người tù áo hoa" từ đó để phân biệt với tù hình sự. Tù áo hoa là những con người hiền hòa dễ mến và hay giúp đỡ không phải là hình ảnh những kẻ giết người, ăn gan người như tuyên truyền.






Khi ra Bắc được khoảng hai năm thì vào một ngày cuối Thu, trời chợt chuyển lạnh thình lình rồi mưa xuống xối xả như thể bao nhiêu nước trên trời đều tuôn xuống vùng núi rừng hoang vu này.






Nước từ trên nguồn cũng tháo xuống qua thung lũng, qua khe núi, từ trên rừng đổ về. Chỉ mấy ngày sau là cả vùng ngập lụt trong nước trắng xóa. Những ngôi làng dân tộc thiểu số người Thái chìm trong biển nước. Hoa mầu mất sạch và nương rẫy đều biến mất dưới làn nước trắng xóa, trâu bò xổng chuồng và bị nước lũ kéo phăng đi.






Nước cuồn cuộn đổ về tàn phá xóm làng, cả một vùng mênh mông không còn gì ngoài nước lũ, sức nước xoáy về quả thật là ghê gớm như cơn thịnh nộ của trời đất. Tất cả hầu như không còn gì dưới dòng nước trắng đục.


Miền Bắc nhất là các vùng mạn ngược của đồng bào thiểu số vốn dĩ đã nghèo xác xơ, quanh năm suốt tháng chỉ trông chờ vào hoa mầu và nương rẫy bây giờ tay trắng. Dân làng đứng trước một nạn đói không thể tránh được.






Địa phương thì nơi nào lo nơi đó và họ không hề quan tâm đến dân làng, nhất là khu vực làng của những sắc dân thiểu số.






Những người tù áo hoa bảo nhau nhập cuộc.


Hàng ngày mỗi khi ra lao động đi ngang qua khu vực làng mạc bị thiên tai, người cái áo, người cái quần, cái mùng hay đôi dép, lon Guigoz, cái nón lá và ngay cả khẩu phần ăn ít ỏi của họ nữa, góp lại và kín đáo bỏ lại bên gốc cây còn khô ráo và chỉ cho dân làng đến lấy về dùng.






Một thời gian sau, khi qua được thiên tai đó, mỗi lúc dân làng người dân tộc, thấy những người tù áo hoa lao động đi qua khu vực làng xóm thì họ chạy ra, bồng bế con cái và chắp tay lại cúi đầu xá những người tù này từ xa như xá những ông thần của họ vậy. Họ đem ra nải chuối, củ khoai củ sắn bỏ bên cạnh các gốc cây, nhưng những người tù trong mầu áo hoa rừng đó đều ra hiệu cám ơn, khoát tay và bảo nhau không nhận - bởi thấy người dân làng họ nghèo quá, nghèo đến độ mà những người tù thân còm cõi trong hoàn cảnh lưu đầy nhìn thấy cũng còn phải xúc động.






Nói về con người giam giữ con người thì trong lịch sử bốn ngàn năm của chúng ta, các vua chúa thời xưa cũng dựng lên nhiều loại ngục thất dành cho các kẻ tạo phản hay để trừ khử những thành phần chống lại triều đình, nhưng chưa bao giờ lại có một hình thức kỳ lạ và quái dị như các trại tập trung "cải tạo" như Cộng Sản VN du nhập vào từ các nước "quan thầy" của họ là Nga-Tầu để giam giữ nhiều trăm ngàn người dân một lúc.






Cho nên trong trại tôi ở miền Bắc có một bác rất là hiền lành và ít nói tên là Vỹ, người quắc thước để râu bạc phơ. Bác thuộc về bên đảng phái nên bị đi "cải tạo", có hôm ngay tại "hiện trường" lao động bác đã quá bực tức vì cái án tập trung "cải tạo" vô hạn định này mà la lên rằng:






-"Tôi cũng đã bị ở tù nhiều lần trước kia nhưng chưa bao giờ thấy cái tù nào nó kỳ quặc như lần này."






-"Ông Trời không biết có thấu không chứ tôi hết chịu nổi cái tụi này rồi.".






Bác cứ la inh ỏi cả một góc khu vườn trồng rau cải bẹ xanh, bác bỏ cả cái cuốc cái thúng mủng bên cạnh mà đập tay đập chân xuống đất mà la đến khản cổ. Nhưng chỉ có chúng tôi nghe thấy mà thôi vì tay quản giao lấy xe đạp chạy đi mất từ sáng nên không xẩy ra chuyện gì.


Bởi thế khi mà chúng tôi bước vào trại tập trung, chính mình cũng không ngờ rằng mình đang mang bản án còn hơn tù chung thân vì tập trung - là hình thức sao chép nguyên bản lại từ Liên Xô - có nghĩa là không có thời gian hạn định và họ muốn giam giữ đến bao giờ thì giam.






Người tù không hề được ra trước tòa để biện minh cho mình, không hề được thông báo cho biết hạn tù là bao lâu và không bao giờ có quyền thắc mắc.






Cứ hết hạn ba năm thì trên Bộ Nội Vụ của họ tự động chồng thêm ba năm nữa và người tù không hề hay biết.


Một điều người tù có thể biết là tù nhân chỉ là một công cụ sản xuất để "làm ra của cải vật chất cho trại" qua cái từ ngữ lừa bịp là "lao động vinh quang" với một khẩu phần ăn nếu chỉ ngồi không, không phải lao động ngoài nắng mưa giá rét, thì cũng khó mà tồn tại.






Cứ lao động cứ "vinh quang" như vậy cho đến hơi thở cuối cùng và được cho một bộ ván sáu miếng rồi khênh lên nghĩa trang trên ngọn đồi là xong một kiếp người.


Một điều rất oái oăm và đau lòng là khi sống người tù chẳng bao giờ được ăn một bữa ăn tương đối no bụng nhưng khi nằm xuống thì được đặt trước mộ một bát cơm trắng đầy và một quả trứng gà luộc. Chỉ ngay tối hôm đó chưa qua ngày hôm sau thì bát cơm và quả trứng ấy cũng biến mất và chỉ còn lại nấm mồ đơn sơ nhiều khi cũng không có cả tấm bia mộ đề tên người quá cố.






Giòng đời vẫn cứ trôi và ngàn năm mây vẫn bay và người tù vẫn kéo lê cuộc đời lao tù, sống dở chết dở.


Quả thật chẳng có gì chán nản và dễ mất tinh thần hơn là ở tù dù là tù chính trị, chẳng thế mà ông bà ngày xưa đã nói "nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại" và "nhất tội nhì nợ". Thời gian này là thời gian chết trong đời sống mỗi ngày của người tù, nó như kéo họ xuống đáy sâu của hỏa ngục, mà họ vẫn cứ phải lê bước đi cho đến hết con đường buồn thảm đó, không có cách nào khác.






Lâu lâu, vào những dịp lễ Tết thì trại lại thả một số người, khi thì vài anh lúc thì vài chục người và những người không có tên thì tiếp tục trong bốn bức tường và ở lại trong một tâm trạng buồn chán hơn và mất tinh thần hơn.


Mục đích họ có những đợt thả, dù là nhỏ giọt, là nhằm thúc đẩy những người tù "cải tạo" tích cực hơn, nhưng trên thực tế thì hiệu quả lại ngược chiều vì mọi người đều nhận thấy một sự thực là bản án nặng hay nhẹ, ở tù lâu hay mau chính là dựa vào lý lịch chứ không hề dựa vào sự "cải tạo" nào cả.






Những người trong các "diện" liên quan đến tình báo, ANQĐ, cảnh sát đặc biệt thì chẳng hề thấy tên mình trong danh sách được thả sớm bao giờ.






Thêm vào đó là những đợt Bộ Nội Vụ xuống trại thẩm vấn liên tục, mỗi đợt kéo dài hàng tháng. Họ bắt người tù đa số là nằm trong các "diện” nêu trên phải nhận tội trong các bản gọi là "Tự Khai".






Tôi cũng nằm trong số đó và họ đã thẩm vấn không biết bao nhiêu lần, mỗi lần cách nhau chỉ vài tháng cũng một nội dung như vậy.






Bắt người tù khai đi khai lại một câu chuyện bao nhiêu lần, khai vừa xong thì lại nhận được một sấp giấy và cái bút chì bắt khai lại vì chưa đủ “thành khẩn”. Ban đầu thì chúng tôi những người bị thẩm vấn lấy làm rất khó chịu và suy nghĩ rất nhiều vì không biết họ muốn cái gì, nhưng dần sau này hiểu ra cách “làm Việc” của họ nên cứ bản cũ sao chép lại là xong dù họ có hài lòng hay không cũng vậy.






Phương pháp thẩm vấn của họ đều giống nhau là tìm mọi cách khủng bố tinh thần người tù, rồi dụ dỗ để khai ra càng nhiều tội càng tốt chứng tỏ lòng “ăn năn hối cải” của mình để được "khoan hồng" sớm.






Nhưng thực tế, bản án dành cho người đó đã có sẵn.


Họ bắt khai nhiều lần để xem có vô tình khai ra điều gì mới hay không, bởi thế khi khai xong lần đầu thì tôi kín đáo viết lại vào nhiều chỗ khác nhau các chi tiết để ghi nhớ lần sau khai đúng như vậy.






Phải ghi lại nhiều chỗ và phải viết tắt vì thường xuyên họ có đợt kiểm tra “đôt xuất” chỗ nằm và tư trang. Tôi rút kinh nghiệm vì có lần họ bất ngờ xộc vào buồng hỏi chỗ nằm của tôi để kiểm tra “nhạc Vàng”. May mà tôi hay nằm trên góc sàn từng trên nên kịp thời tẩu tán hai cuốn Kinh Phật trước khi tay trực trại leo lên bắt đổ hết mọi thứ trong ba lô ra. Có thể họ đã thấy tập chép tay các bài hát của thời VNCH mà tôi cho anh bạn buồng bên cạnh mượn. Cuối cùng chẳng tìm được gì, họ chỉ nói vài câu cảnh cáo rồi leo xuống.






Để rút kinh nghiệm cho việc đấu trí với cách thẩm vấn của họ nên mỗi buổi chiều, chúng tôi các người được gọi ra "làm việc" trong lúc đi bộ trước sân thường trao đổi với nhau.






Anh Quang 'sừng", người thợ thật khéo tay tạc các bức tượng Phật và tượng Chúa, hay các kỷ vật bằng sừng trâu đã kể cho tôi nghe khi ra thẩm vấn ban sáng là tay cán bộ thẩm tra hỏi anh ý như khoe về “chính sách khoan hồng" của họ:






-"Anh nhận xét sao về chính sách này mà nhà Nước đã tạo cơ hội cho các anh?" Anh Quang bình tĩnh trả lời một cách thản nhiên:






-"Tôi chỉ biết rằng trong chế độ VNCH chúng tôi trước kia nếu giam giữ mà không có án thì còn hơn là tù chung thân, bị tù mà còn bị lao động như vậy là tù khổ sai, bị đưa ra khỏi miền Nam là lưu đầy."






Tên cán bộ bị khựng lại và đổi qua đề tài khác.






Phần tôi khi ra "làm việc", tay cán bộ của Bộ Nội Vụ tóc đã hoa râm rót chén trà nóng mời tôi theo thủ tục, châm điếu thuốc lá hút rồi hỏi có vẻ mỉa mai là tôi có lúc nào nghĩ rằng trước kia như vậy mà nay ngồi ở đây hay không. Tôi trả lời nhẹ nhàng rằng nếu biết như vậy thì tôi đã đi từ lâu chứ không có ngồi như ngày nay ở đây đâu. Tôi cũng cho họ biết rằng họ đã chiếm được miền Nam, họ có thể kiểm chứng nhiều nguồn tin nhưng tôi chẳng có gì cần phải dấu diếm như họ kết tội tôi; còn như nếu mà họ cứ không tin thì tôi cũng đành chịu chứ khai tới khai lui cũng chỉ có thế mà thôi.






Suốt bốn năm đầu, vừa đói khát vừa xuống tinh thần vì lo nghĩ đến gia đình lại chồng thêm cái mất ngủ do những buổi "làm việc" liên tục và căng thẳng với Bộ Nội Vụ của họ nên chúng tôi sa sút thấy rõ nhưng vẫn trước sau khai như một.






Có lẽ thấy cũng tốn thời gian mà không khai thác được gì thêm nên từ đó họ bỏ hẳn không còn xuống "làm việc" nữa.






Không biết có phải nghiệp chướng tù đầy của chúng tôi đã được Trời Đất thuyên giảm cho hay không, hay vì chúng tôi đã nhẫn nhục chịu đựng mọi gian khổ thử thách một cách can trường, mà cùng lúc với việc họ không xuống trại làm nhức đầu chúng tôi nữa thì gia đình cũng được tin cho vào trại thăm nuôi để mở ra một chương hoàn toàn mới và nhiều thay đổi lạ kỳ cho người tù.






Chị Liên, bà chị con bác Phán, từ Hà Nội vào thăm tôi lần đầu tiên và hai chị em sau một phần tư thế kỷ gập lại nhau thì chị vẫn giả lả nói những lời khuôn sáo rỗng tuyếch như khuyên tôi cố gắng lao động, chấp hành tốt nội quy, nhưng khi thấy tên cán bộ bỏ ra ngoài cửa thì nắm lấy tay tôi nói:






-"Sao em gầy thế, chị nhớ hồi chị ra thăm Ba Mợ ở Hải Phòng trước khi Ba Mợ di cư vào Nam thì em bụ bẫm lắm. Em phải cẩn thận giữ sức khỏe nhe, còn lâu đấy!". Rồi chị lau nước mắt ra về.






Các chị con bác Phán, bác là chị Cả và Ba tôi là thứ Hai nhưng là trưởng tộc, vẫn mang ơn Ba Mẹ tôi vì ngày xưa khi gia đình Ba Mẹ tôi giầu có ở cái dinh thự lớn nhất nhì Hải Phòng thì Mẹ tôi rất biết ăn ở và có lòng thương người kể cả họ hàng và ngay cả các chị vú nuôi chúng tôi cũng xem Ba Mẹ tôi như gia đình của các chị vậy.






Ngày xưa thì tình cảm rất là gắn bó giữa người vú nuôi và người con trong gia đình, người vú được coi trọng như là người mẹ thứ hai vậy. Nhiều khi các chị vú thương chúng tôi quá đến nỗi Mẹ tôi dục dã mãi mới bịn rịn về thăm quê ngày Tết hay giỗ chạp.






Ngày mà Ba Mẹ tôi khá giả bắt đầu từ căn nhà mà Mẹ nói là "nở hậu" ở đường Cát Dài thì Mẹ tôi cũng đón về nuôi luôn hết gia đình Bà Hai của ông Đốc khi ông mất, để trả lại ơn ngày xưa trên Yên Bái lúc Ba Mẹ tôi còn hàn vi cũng nhờ ông Đốc lúc đó mở phòng mạch cưu mang một thời gian.






Mẹ tôi thường cho tài xế đi đón các chị con bác Phán từ Hải Dương ra Hải Phòng chơi, và mỗi lần như vậy thì Mẹ tôi lại dắt các chị đi mua sắm áo quần, vòng vàng, giầy dép đủ thứ, và được đi ăn ở những hiệu ăn sang trọng nữa nên các chị rất quý mến Mẹ tôi.






Khi quyết định di cư vào Nam thì Ba Mẹ tôi để lại hết ngôi dinh thự này cùng tất cả tài sản xe cộ cho gia đình người chị ruột là bác Phán vì bác trai không muốn bỏ xứ ra đi. Vì lý do đó mà gia đình bác Phán nhất là các chị vẫn mang ơn Ba Mẹ tôi, các chị gọi Ba Mẹ tôi là Cậu Mợ nhưng mà thương cũng như Bố Mẹ ruột mình vậy.






Khi Mẹ tôi nhờ chị Liên đi dò đường trước để vào trại thăm tôi thì chị nhận lời ngay dù là lúc đó dân chúng ngoài Bắc họ rất sợ dính vào chính trị nhất là di thăm tù chính trị từ trong Nam.






Đến khi Mẹ tôi và em Tuyết kế tôi ra Bắc thăm tôi lần đầu tiên thì các chị con bác Phán đón tiếp Mẹ tôi như bà hoàng.






Các chị hỏi Mẹ tôi thích ăn gì để đãi cơm, Mẹ tôi nghĩ Hà Nội cũng như Sài Gòn nên nói là bún chả. Báo hại các chị chạy khắp Hà Nội để mua ít than quả bàng về mới quạt được mẻ thịt nướng. Khi biết ra thì Mẹ tôi cứ xin lỗi mãi vì có ra tận ngoài Bắc thì mới hiểu được cái nghèo khổ thiếu thốn và sự túng quẫn nó như thế nào mà người dân đã phải sống dưới chế độ XHCN từ năm 1954 đến bấy giờ là một chín bẩy chín.






Trong thời gian tôi ở tù kể ra thì cũng có nhiều quý nhân giúp đỡ ngoài các anh chị con bác Phán. Một ông anh rể bên vợ tôi lúc đó ở Hà Nội cũng vào thăm tôi và nói thẳng rằng:






-"Anh có bạn quen ở Bộ Nội Vụ và anh có nhờ họ xem dùm hồ sơ của em và thấy ghi trên đó là CIA." Anh ngừng một chút rồi nói tiếp:






-"Anh vào thăm em lần này để cho em biết, nếu không lo thì anh sợ em sẽ phải ở rất lâu đấy. Em hãy nói với Mẹ em đi nếu chịu thì anh sẽ lo cho."






Tôi nhìn anh một lát. Lúc đó tôi đã gập Thầy Tâm là người thầy đã dậy cho tôi về đạo Phật và về nghiệp lực. Trong lòng tôi suy nghĩ rất nhanh, tôi bèn nói với anh:






-"Cám ơn anh đã vào thăm em. Em biết ở nhà em bây giờ bán hết rồi các xe cộ và cả các bộ vest cũng bán luôn. Mẹ em thì chẳng còn tiền sau khi anh Hai và cậu em út của em đi vượt biên bị bắt lại. Thỉnh thoảng Mẹ em gom được ít tiền gửi qua bưu điện vào đây cũng là quý lắm rồi, làm gì còn "cây" nào nữa đâu mà "chạy". Họ nghi em là CIA thì đành chịu thôi biết làm sao”.






Tôi vào trại kể lại cho thầy Tâm nghe, thầy nói tôi đã quyết định như thế là đúng và cứ chuyên tâm niệm Phật. Từ đó tôi kiên nhẫn đếm từng ngày qua đi trong bốn bức tường trong khi học hỏi thêm về đạo Phật, quan sát nhận xét và thâu thập kinh nghiệm qua những người bạn tù mà tôi quý mến.






Các điều chúng tôi phán đoán việc thả nhanh hay chậm là do lý lịch chứ không do "cải tạo" tốt hay xấu dần dần càng sáng tỏ .






Có những anh vừa bị kỷ luật xong thì vài bữa sau có tên tha về, cho nên sự tuyên truyền của họ về "khoan hồng", về "cải tạo" thành người công dân tốt đều tan ra mây khói. Không còn ai tin nữa; và anh em mỗi người đều tự cố gắng giữ gìn sức khỏe cho con đường lưu đầy còn dài thăm thẳm trước mắt.






Đến lúc đó thì chúng tôi mới bàng hoàng nhận ra một sự thực đau lòng là mình trước kia chống Cộng mà kết cuộc lại thì chính mình cũng không hiểu Cộng Sản là như thế nào.






Nếu biết thực chất của Cộng Sản tàn bạo, vô tổ quốc, vô tôn giáo và vô dân tộc và người Cộng Sản chỉ cần có cái chủ nghĩa xã hội của họ mà thôi thì chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng chứ không chịu nghe theo lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh để rơi vào tay họ như thế này.






Riêng tôi và các bạn làm cho tòa đại sứ hay lãnh sự quán HK tại miền Nam trước kia thì còn mang theo một mối ưu tư là tại sao người Mỹ, nói đúng hơn là chính phũ Mỹ bấy giờ hay các cấp có thẩm quyền Mỹ tại Sài Gòn đã cố tình bỏ rơi chúng tôi lại để rồi rơi vào tay Cộng Sản?






Một mặt thì tòa đại sứ HK theo lệnh của Washington cho phép những người làm cho cơ quan D.A.O - Defense Attache's Office: Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự - được di tản mấy tháng trước khi Sài Gòn sụp đổ; mặt kia thì yêu cầu chúng tôi, những nhân viên tòa đại sứ Mỹ, phải ở bên cạnh các Phủ Bộ của chính phủ VNCH để yểm trợ cho đến giờ phút cuối cùng thì mới được di tản.






Nhưng giây phút cuối cùng ấy thì trực thăng đã không đến đón gia đình chúng tôi như họ đã hứa. Người Mỹ đã chỉ đưa ra khỏi miền Nam những thành phần không quan trọng hay một số nhỏ các cấp chỉ huy của VNCH mà thôi.


Họ lấy cớ là sân bay Tân Sơn Nhất bị phá hủy phi đạo bởi tên phi công nằm vùng Nguyễn Thành Trung vào ngày 28-4-1975 nên chương trình di tản đường hàng không phải đình chỉ.






Thế nhưng theo chương trình mà tôi họp với họ một ngày trước đó là ngày 27 tháng 4 năm 1975 tại sứ quán HK ở Sài Gòn thì họ đã có dự trù về việc nếu có trở ngại về di tản đường hàng không thì HK có "plan B" là thiết lập ngay một lối di tản bằng đường bộ từ Sài Gòn ra Vũng Tầu với năm ngàn lính TQLC Mỹ từ Đệ Thất Hạm Đội sẽ lên bờ và được sử dụng để bảo vệ cho cuộc di tản cho tới khi hoàn tất.






Chính phủ HK qua tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn đã hủy bỏ "plan B" không muốn đưa thêm người ra khỏi miền Nam nữa và hủy bỏ luôn việc đón chúng tôi - những nhân viên mà ở lại tính mạng có thể nguy hiểm trong tay Cộng Sản.


Trong đầu tôi có nhiều câu hỏi mà tôi đang đi tìm câu trả lời nhưng có một điều tôi biết chắc rằng nếu tôi chỉ làm việc thuần túy tại tòa đại sứ HKởi Sài Gòn thì tôi và gia đình có thể cả Mẹ và các em tôi đã ra đi được trước ngày mất miền Nam.






Vì yểm trợ cho Phủ ĐUTƯTB nên tôi mới bị kẹt lại và vào tù chung với bên Phủ và từ đó Bộ Nội Vụ của họ vốn chủ trương "bắt lầm hơn tha lầm" đã suy diễn ra tôi là người làm việc cho CIA, và hơn nữa có thể được cài lại cho kế hoạch hậu chiến. Vì thế tôi không ngạc nhiên khi trong các buổi thẩm vấn họ đều cố dò hỏi về kế hoạch hậu chiến của Hoa Kỳ tại Việt Nam, nhất là ở miền Nam, nhưng tôi trước sau đều lắc đầu.






Trong nhiều năm tôi đã cố tìm hiểu tại sao người Mỹ lại nhẫn tâm bỏ rơi chúng tôi trong khi người Mỹ biết chắc chắn rằng khi rơi vào tay Cộng Sản sau khi mất miền Nam thì chúng tôi sẽ gần cái chết hơn là cái sống hoặc giả nếu còn sống sót được thì sẽ phải ở tù mọt gông?






Một dịp may đã phần nào giải tỏa thắc mắc của tôi hôm mà tôi đọc được bài viết của một vị luật sư người Cu Ba lưu vong.






Tình cờ và may mắn tôi có trong tay tập san Reader's Digest đăng bài của một vị luật sư ái quốc người Cu Ba về vụ thất bại của cuộc đổ bộ tại Vinh Con Heo thì tôi thấy lạnh xương sống khi so sánh với việc HK đã bỏ rơi đồng minh VNCH tại miền Nam một cách thật nhanh chóng thật dứt khoát và không thương xót, nhất là bỏ rơi các thành phần nguy hiểm như tôi và các bạn đồng nghiệp vào tay Cộng Sản.






Cũng như vụ đổ bộ Vinh Con Heo để giải phóng Cu Ba khoảng năm 1962 đã thất bại vì chính phủ Mỹ bấy giờ với TT John F. Kennedy phút cuối cùng đã rút tầu chiến ra khơi bỏ mặc cho hàng ngàn chiến sĩ Cu Ba ưu tú trên bãi biển làm mồi cho Fidel Castro mới lên nắm quyền tha hồ tàn sát không thương tiếc.






Một vị luật sư người Cu Ba đã trốn thoát khỏi nước qua được HK sau vụ đổ bộ thất bại đó đã thề rằng nếu cần thì ông sẽ dùng hết cuộc đời của mình để tìm hiểu tại sao HK lại hủy bỏ kế hoạch vào phút chót thì ông cũng làm. Ông đã vào các thư viện, qua bạn bè đến tận Bộ Quốc Phòng HK, xem được các tài liệu mà sau 20 năm đã được bạch hóa thành non-confidential thì đã tìm ra câu trả lời.






Chiến dịch giải phóng này đã được thành hình dưới thời TT Eisenhower, các người Cu Ba lưu vong tại HK được huấn luyện chu đáo cho cuộc đổ bộ cướp lại chính quyền từ tay Fidel Castro đang theo chế độ xã hội chủ nghĩa là một cái gai ngay bên cạnh hông của HK cần phải nhổ.






Mọi việc diễn tiến hoàn hảo và các chiến hạm và các phi đội chiến đấu oanh tạc cơ HK sau khi đổ bộ lực lượng các chiến sĩ Cu Ba này xong lên Vịnh Con Heo thì sẽ làm cỏ không quân của Fidel Castro vốn còn yếu ớt và yểm trợ cho lực lượng này vào giải phòng thủ đô của Cu Ba là xong.






Khi TT Kennedy lên thì không hiểu sao kế hoạch vẫn thực hiện như thường lệ cho đến khi vị tư lệnh chiến trường người Cu Ba vừa đặt chân lên Vịnh Con Heo thì ông bèn gọi cho phi cơ và chiến hạm HK nã pháo vào thủ đô và sân bay trên đảo nhưng không có tín hiệu trả lời và nhìn thấy các chiến hạm HK từ từ rút ra ngoài khơi bỏ mặc họ bơ vơ trên bãi biển.






Ông nhìn thấy các chiến hạm HK rút ra khơi y như nhìn thấy bản án tử hình cho mình và các chiến sĩ Cu Ba lưu vong đang phơi mình tại Vinh Con heo này.






Sau một thời gian án binh bất động như tê liệt vì quá hãi sợ trước cuộc tấn công bất thình lình của lực lượng hùng mạnh Cu Ba lưu vong, cho đến khi biết các chiến hạm HK đã rút lui không can thiệp nữa, hay có thể Cu Ba đã được mật lệnh từ Moscow cho nên Fidel Castro đã mạnh dạn tung quân ra và cho các máy bay cũ kỹ của mình ra bãi biển tàn sát lực lượng vừa đổ bộ. Một số lớn chết và bị thương, một số còn lại bị bắt và bị Fidel Castro ra lệnh tra tấn tàn nhẫn và hành hình dã man.






Theo vị luật sư ái quốc người Cu Ba này thì lý do là vì TT Kennedy không muốn đối đầu với Liên Xô tại Cu Ba, nhưng tại sao không hủy bỏ kế hoạch ngay từ đầu để hàng ngàn người Cu Ba yêu nước bị chết thảm khốc thì không thể hiểu được một nước văn minh hàng đầu thế giới là HK lúc đó nghĩ gì? Hay HK muốn dùng thân xác của hàng ngàn chiến sĩ Cu Ba lưu vong đó trên Vịnh con Heo như là một tín hiệu của HK cảnh cáo Nga Xô qua Fidel Castro?






Ông cho rằng HK muốn duy trì một nước Cu Ba Cộng Sản ngay bên hông nước Mỹ để dân chúng Mỹ biết sợ hãi mà ủng hộ các chương trình chạy đua vũ trang của chính phủ HK lúc bấy giờ.






Từ đó tôi tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi của tôi là người Mỹ đã plan một kế hoạch hậu chiến để tiếp tục "đánh" Cộng Sản trên phương diện chính trị và nhân quyền.


Người Mỹ biết rằng các thành phần như tôi hay làm cho các ngành tình báo quân báo và ANĐ chẳng hạn thì Cộng Sản khó mà thả ra sớm trước mười năm và đó là lá bài mà mà Mỹ có thể "tấn công" Cộng Sản VN để đạt tới những mưu đồ khác của họ.






Người Mỹ cần có những lá bài để có thể làm khó dễ CSVN, để “đánh” đòn nhân quyền, “đánh” về chính trị hầu buộc CSVN phải phần nào thỏa hiệp với Hoa Kỳ theo kế hoạch hậu chiến của Mỹ.






Chúng tôi những người tù cuối cùng chính là một trong những lá bài quý giá đó trong tay người Mỹ.






Chính vì thế mà họ đã chọn lựa mục tiêu nào cần thiết để bốc đi trước và con số hơn một trăm ba chục ngàn người miền Nam từ các sứ quán các vùng và tại tòa đại sứ Mỹ Sài Gòn được di tản trước ngày 30-4-1975 toàn là những thành phần văn phòng, tài xế, thư ký không nguy hiểm nếu bị bỏ lại.






Người Mỹ đã đạo diễn hết từ lúc có ý định rút lui khỏi miền Nam năm 1972 sau cái bắt tay giữa Kissinger và Chu Ân Lai tại Bắc Kinh.






Họ sắp xếp mọi chuyện chi li đến từng chi tiết cách bỏ rơi miền Nam, từ chiến thuật “Việt Nam Hóa” chiến tranh thời Nixon, trao toàn bộ trách nhiệm cho VNCH trong công cuộc chống Cộng, một mình VNCH chống lại cả một khối Cộng Sản Quốc Tế cho đến ký kết Hiệp Định Paris.






Họ trực tiếp đàm phán với Bắc Việt trong nhiều năm và để chúng ta ngồi ngang hàng với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là VC để chúng ta không thể có ý kiến gì được trong khi họ dàn xếp với Bắc Việt về cuộc chiến tranh mà VNCH đang đóng vai chính và về những gì mà Kissinger và Nixon đã hứa với Chu Ân Lai.






Họ làm ngơ trước các vi phạm của Bắc Việt và VC, họ cắt giảm nhanh chóng viện trợ để một quân lực hùng mạnh và thiện chiến nhất thế giới thời bấy giờ là QLVNCH phải lui trên mọi chiến trường, phải bỏ Cao Nguyên, Vùng II, về co thủ tại Vùng III mà chờ chết. Họ buộc TT Thiệu phải từ chức để đưa Dương Văn Minh lên- cho ông ta ít tiền để ươn hèn mà ra lệnh đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản như Nixon và Kissinger đã giao ước với Chu Ân Lai, Trung Cộng.






Bây giờ, họ lại bỏ rơi có kế hoạch ngay cả những nhân viên thuộc tòa đại sứ HK của họ tại miền Nam như tôi và một số anh em khác mà tôi gập trong tù như anh Sửu, anh Điệp, Chi và Hảo,v.v. Những người đã làm việc trong ngành tình báo cho họ bao nhiêu năm, nay lại bị họ sử dụng một lần nữa trong kế hoạch “đánh” Cộng Sản bằng nhân quyền sau khi họ đã làm cho miền Nam phải sụp đổ.






Cộng Sản và Hoa Kỳ giống nhau ở một điểm là họ sẵn sàng hy sinh hàng triệu người để đạt mục đích. Cộng Sản đã ném nhiều triệu thanh niên thanh nữ vào chỗ chết trong các chiến trường chống Pháp ở miền Bắc, vào trận Điện Biên Phủ, vào cuộc chiến xâm lăng hai chục năm ở miền Nam hầu nhuộm đỏ toàn bộ đất nước.






Người Mỹ thì sẵn sàng hy sinh mười bẩy triệu người dân miền Nam để đổi lấy mậu dịch với Trung Cộng kể từ năm 1972.






Điểm khác biệt là người Mỹ không hy sinh dân chúng Mỹ mà đem mười bẩy triệu dân chúng miền Nam ra để hy sinh trong cuộc trao đổi với Tầu Cộng nhưng Cộng Sản thì hy sinh chính người dân cùng giòng giống da vàng với họ để làm vừa lòng quan thầy của chúng là Nga-Tầu.


Một số anh khi ra “làm việc” đã nói thẳng với đám cán bộ Bộ Nội Vụ rằng:






“Các ông chẳng có gì mà khoe khoang về chiến thắng tại miền Nam hết, chính người Mỹ đã làm cỗ sẵn và mời các ông đến ăn mà thôi. Thử nhìn xem, Nha Trang đã ba ngày sau khi Dương Văn Minh đầu hàng vẫn là thành phố bỏ ngỏ; các ông có mống nào dám vào “tiếp thu” chưa?”


Quả là về chính trị mà nói thì không thể có tình người mà dùng thân xác con người để lót đường cho bước đường chính trị của những tay hoạt đầu như Kissinger, Lê Đức Thọ, Nixon.






Các tay tài phiệt nằm sau lưng chính phủ HK thổi bùng lên phong trào phản chiến tại Wasington cuối thập niên sáu mươi đòi rút quân Mỹ về nước, đòi bỏ rơi miền Nam để tiến nhanh đến làm ăn với Trung Cộng trên một tỷ người là viễn ảnh hấp dẫn hơn nhiều - dù là miền Nam có thể thành núi xương biển máu thì xương máu của người miền Nam chứ xương máu của người Mỹ đâu mà họ lo.






Những nỗi đau đó lại phủ lấp trên phần đất Tự Do của miền Nam. Chúng ta có Chính Nghĩa mà chúng ta lại thất trận là vì lý do đó.






Sau này một số thành phần phản chiến người Mỹ tỏ ra hối hận nhưng tất cả đều đã quá trễ khi họ thấy hàng triệu người VN bất chấp hiểm nguy đã vượt biên, hàng trăm ngàn chết ngoài biển khơi, hàng triệu người phải vô tù.


Sau cuộc chiến nhìn lại thì tựu chung người trong tù vẫn luôn là những người bị nhiều thiệt thòi nhất - khi mà mọi nơi đã ngưng tiếng súng trên quê hương miền Nam, khi mà nhà tù mọc lên như nấm thay vì trường học.






Có sống trong những giai đoạn ngục tù và lưu đầy đó mới thấy được cái đau đớn trong tâm thức không nói ra được của mỗi người tù.






Một mặt thân xác rã rời sau một ngày lao động, buổi tối những đêm mùa Đông co ro lạnh cóng vì không đủ quần áo ấm chăn mền, vì bụng đói cồn cào đến hoa cả mắt; mặt khác thì lo nghĩ đến vợ con gia đình ở nhà không biết ra sao. Cho nên khi mà con người ta quá căng thẳng thần kinh và quá rệu rã về thể lực thì nhiều người đã tìm cách quyên sinh cũng không phải là không có lý của họ.


Đó là sự giải thoát ngắn nhất để mỗi ngày không phải nghe cái điệp khúc đáng nguyền rủa nhất là tiếng kẻng báo thức, kẻng xuất trại đi lao động, kẻng nghỉ "giải lao", kẻng thu quân, kẻng điểm danh vào buồng và nhiều khi cả đêm chưa ngủ yên thì đã nghe tiếng kẻng đánh thức rền vang lên khắp trại giam và núi rừng.






Tiếng kẻng là cái gì mà chúng tôi thù ghét nhất mà lại phải sống với nó mỗi ngày giờ và quanh năm bốn mùa.


Một điều cười ra nước mắt và lần đầu tiên nhìn thấy làm tôi vô cùng kinh ngạc không tin ở mắt mình nữa là ngay cả trâu bò cũng nghe và hiểu được tiếng kẻng và phân biệt được các loại kẻng báo hiệu nữa mới lạ.






Thí dụ như vừa mới nghe kẻng "giải lao" kêu "keng!keng!" lanh lảnh từ xa trong trại vọng ra ngoài cánh đồng là con trâu nằm phịch ngay xuống luống cầy không cần suy nghĩ gì, không cần phải chờ lệnh từ người thợ cầy với nó cũng là tù nhân. Nó thở phì phò một cách mệt nhọc vì chính nó cũng không được ăn uống no đủ để mà "lao động trong vinh quang" nữa.






Con vật trong cái xã hội chủ nghĩa - mà người Cộng Sản vẫn khoe khoang không biết xấu hổ rằng XHCN là "thiên đường", là tốt đẹp hơn nghìn lần chế độ tư bản "bóc lột" đang dẫy chết- cũng thật đáng thương vì nó đã sinh lầm vào chế độ đó.






Huống chi con người, những tù nhân chính trị chế độ cũ trong trại giam của một nước Cộng Sản đang đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng nghèo đói lạc hậu, lòng hận thù nhỏ nhen và sắt máu nhất thế giới.






Phần XX: Sài Gòn Ngày Tháng Cuối






(Lời Tác Giả: Những năm trước, tác gỉa có đăng một số bài trong Hồi Ký về NNTCC trên báo chí tại đây hay trên DĐ thân hữu.


Kể từ tháng Giêng năm 2010, tác giả đã lần lượt cho đăng liên tục Hồi Ký này từ Phần I. Vì thế tác giả phải hiệu đính và bổ túc lại một số bài trước khi cho đăng trên các DĐ hiện nay; cho nên "Chuyến Tầu Xuôi Phương Nam" được chuyển thành "Về Miền Nắng Ấm"; "Yêu Người Dương Thế" thành "Sợi Dây Ngũ Sắc", "Anh Hùng Yểu Tử" thành "Người Tù Bất Khuất", "Mầu Áo Hoa Rừng" thành "Người Tù Áo Hoa".


Vì có một số đông độc giả chưa đọc nên tác giả cho đăng lại các phần này theo thứ tự trong Hồi Ký dưới dạng bổ túc.


Một số độc giả, đã đọc những bài này được đăng năm ngoái hay trong Blog của tác giả, có thể thấy một số tình tiết trùng hợp với các bài mới bổ túc này trong Hồi Ký. Xin cáo lỗi.


Kỳ Tới: "Ngày Trở Về" sẽ gồm nhiều Phần và là một chương then chốt lồng trong những điều lạ kỳ của thời gian những năm sau cùng trong trại giam của tác giả. Chưa hề được ghi lại. Mời đón xem.)










Trong suốt bao nhiêu năm nhưng tôi vẫn không sao quên được những ngày tháng cuối cùng của Sàigòn mà tôi đã sống.






Những ngày mà thành phố bất ngờ lâm trọng bệnh vào cơn hấp hối, nhưng vẫn cố chiến đấu đến hơi thở cuối cùng mới chịu buông xuôi hai tay.






Tôi cũng không thể nào quên nổi vì đâu mà cả chế độ của một quốc gia hùng mạnh như VNCH, lúc đó phát triển ngang hàng với Phi Luật Tân, Đại Hàn, hay Đài Loan, đã phút chốc bị tan tác như xác pháo.






Và vì đâu mà hầu như nguyên một chế độ theo chân nhau...vào tù trong bàng hoàng và đau thương.






Tôi theo Mẹ tôi leo lên trên lầu. Căn nhà số ba năm bẩy này có một lầu nhìn ra con đường Trương Minh Giảng. Tôi đẩy nhẹ cánh cửa sổ để có thể có được một cái nhìn khái quát những xáo trộn và ồn ào mà mười mấy năm nay tôi chưa từng bao giờ thấy xẩy ra trên đường phố này. Những khuôn mặt ngơ ngác của dân chúng, người


ôm giỏ người xách va li vừa đi vừa chạy.






Phía bên kia đường, một vài binh sĩ VNCH cũng đi lẫn vào dân trên đường họ về nhà hay đi đâu thì tôi cũng không biết được nữa. Nhìn dáng đi thẫn thờ của những người lính mà lòng tôi quặn đau khi nghĩ rằng anh tôi, Thiếu Tá tiểu đoàn trưởng của Sư Đoàn 5 BB QLVNCH ở Bình Dương bây giờ cũng bặt tin không biết ra sao.


Đầu óc tôi thường rất bén nhậy mà lúc đó cũng gần như tê liệt không nghĩ được phương kế gì.






Dương Văn Minh - (người vừa được đưa lên chức vụ Tổng Thống để thay thế cụ Trần Văn Hương, một nhà chí sĩ yêu nước nhưng đã bất lực trước thời cuộc) - vừa đọc thông điệp đầu hàng và kêu gọi mọi người buông súng.


Lúc đó khoảng hơn mười giờ sáng ngày 30-4-1975, giờ Sài Gòn.






Tôi đã đưa gia đình lên ở với Mẹ và các em từ hai ngày nay vì căn nhà tôi trong Phú Lâm tuy thuộc Quận Sáu nhưng không được an ninh cho lắm. Cứ tạm thời ra trung tâm thành phố để tránh các toán VC nằm vùng ở ngoại ô có thể xuất hiện bất ngờ trong hiện tình đất nước đang tranh tối tranh sáng như mấy ngày hôm nay.






Ngoài ra tôi cũng muốn ra ngoài Sàigòn trong những ngày rất là biến động về chính trị này để giữ liên lạc với các bạn đồng nghiệp trong lúc chờ đợi người Mỹ sẽ bốc đi cùng gia đình.






Đó là sáng ngày 28-4, sau khi người Mỹ đột ngột ngưng chương trình di tản bằng đường hàng không, cho nên mọi người ai cũng tìm đường ra đi trước khi quá trễ.


Có người bạn rủ vào khu vực Hải Quân trên Bến Bạch Đằng xem sao nhưng tôi lại không đi, vì tôi cố chờ đợi để đi theo chương trình ấn định của Tòa Đại Sứ Mỹ trong buổi họp cuối cùng.






Đi theo chương trình này, tôi sẽ đem theo không những gia đình mình mà cả Mẹ và các em nữa, danh sách này tôi đã nộp cho Tòa Đại Sứ Mỹ xong rồi.






Theo tinh thần của buổi họp cuối cùng của Đoàn Liên Lạc HK mà hầu hết các nhân viên người Mỹ, Việt và Á Châu trong đó có tôi đều tham dự thì người Mỹ rất có quyết tâm để đưa đi tất cả những nhân viên đang làm việc cho Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn và gia đình của họ, nhưng chương trình nêu ra vài điểm đặc biệt về thứ tự ưu tiên:






-Ưu Tiên Một:






Dành cho các nhân viên đã lánh nạn Cộng Sản chạy từ sứ quán Vùng I và Vùng II về Sàigòn sẽ được ra đi trước với gia đình họ.






- Ưu Tiên Hai (Non-Essential):






Các nhân viên trong Tòa Đại Sứ kể cả người Mỹ lẫn người Việt được chia ra làm hai loại:


"Không Thiết Yếu" ("Non-Essential") và "Thiết Yếu" ("Essential").






*Theo sự sắp xếp thì những nhân viên "Không Thiết Yếu" được ra đi trước vì nhiệm vụ của họ không còn cần thiết nữa tại đây.






*Các nhân viên "Thiết Yếu" là những người đang sát cánh với các cơ quan Phủ Bộ của chính phủ VNCH thì phải ở lại tiếp tục yểm trợ các Phủ Bộ này cho đến giờ phút chót để tránh cho chính phủ VNCH có thể sụp đổ sớm nếu tất cả sự yểm trợ của người Mỹ rút đi cùng một lúc.






-Tòa Đại Sứ Mỹ sẽ quyết định lúc nào là thời điểm -có thể trong tình hình dầu sôi lửa bỏng thì các nhân viên Việt-Mỹ thuộc dạng "Thiết Yếu" mới được bốc đi bằng trực thăng cùng gia đình.






*Thuyết trình viên một viên chức cao cấp người Mỹ bảo đảm là sẽ bốc hết tất cả mọi người còn lại và lập đi lập lại lời cam kết sẽ bốc đi tất cả các nhân viên thuộc dạng "Thiết Yếu".






-Plan B: Nếu cần thiết thì 5 ngàn TQLC HK từ Đệ Thất Hạm Đội sẽ đổ bộ vào Vũng Tầu và thiết lập một con đường bộ nối liền SàiGòn ra Vũng Tầu - một con đường "Thép" an toàn cho việc di tản không bị gián đoạn.






*Chương trình di tản này dự trù sẽ kết thúc vào ngày 15-5-1975.






-Ngoài ra cần nói rõ thêm là trong các ưu tiên hàng đầu thì phải nói đến Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự D.A.O của Mỹ đã bắt đầu chương trình di tản trước tiên cho nhân viên của họ ra khỏi Sàigòn từ khoảng tháng 2-1975; và nhờ đó mà chị dâu tôi và hai cháu đã đoàn tụ với anh thứ Ba HQ của tôi đang tu nghiệp tại Rhode Island bên Mỹ vào tháng 3-75.






Mấy lần anh quá sốt ruột về tình hình sẽ mất Sài Gòn nên định bỏ về nước. Tôi đã phải gửi điện khẩn qua hệ thống của Tòa Đại Sứ để khuyên anh bỏ ý định mạo hiểm về nước của anh, vì chị ấy và hai cháu sẽ qua.






Trong bốn anh em trai, gia đình anh là gia đình hạnh phúc duy nhất đã đoàn tụ trên phần đất Tự Do. Ba anh em còn lại đều... vô tù.






Sau khi nghe buổi thuyết trình về kế hoạch di tản ngày 27-4 tại Tòa Đại Sứ Mỹ, chúng tôi trong Đoàn Liên Lạc HK đều tin tưởng vào kế hoạch này và tuân thủ theo đúng lệnh họp và ở lại đến giờ phút cuối cùng chờ đợi.






Ngày 28-4, tôi chở vợ con trên chiếc xe Renault 4CV ra nhà Mẹ tôi ở Trương Minh Giảng và sau một ngày chờ đợi không có tin tức gì từ phía các cố vấn Mỹ, tôi quyết định vào văn phòng của Đoàn Liên Lạc HK trong Phủ Đặc Ủy TƯTB xem sao.






Lúc đó là sáng ngày 29-4, tôi lái xe vào Phủ Đặc Ủy lần chót, mấy anh an ninh mở cổng cho tôi vào và nhìn tôi với cặp mắt hết sức ngạc nhiên:






-Ủa! ông mà còn đây thì làm sao tụi tôi đi được?"






Tôi vẫy tay chào các anh rồi lái xe vào cổng:






-"Tôi đang liên lạc chưa được. Có gì sẽ thông báo ngay cho các anh biết để cùng ra đi."






Tôi đậu xe vào khu vực sân bên trong rồi chạy lên lầu mở cửa vào văn phòng và dùng điện thoại liên lạc ngay vào tòa đại sứ nhưng tất cả các đường giây đều bận hoặc điện thoại reo mà không có ai trả lời.






Trong lòng tôi nóng như lửa đốt và có linh tính không hay vì mắt bên phải máy liên tục. Mẹ tôi vẫn bảo là máy mắt bên trái là may mắn hay có tiền, nhưng bây giờ toàn máy mắt phải. Tôi vừa quay máy gọi vừa mong phía bên kia đầu giây có ai đó làm ơn nhắc dùm cái điện thoại lên nhưng vẫn vô vọng.






Kể từ hôm 27-4 sau buổi họp cuối cùng về tình hình di tản cho Đoàn Liên Lạc HK thì các cố vấn Mỹ cũng biệt tăm và bây giờ hai ngày sau cũng không biết họ giờ ở đâu.






Tôi cố gắng và kiên nhẫn gọi nhiều lần trong suốt một tiếng đồng hồ với hy vọng nghe được tiếng nói của bất kỳ tay cố vấn nào trong Đoàn Liên Lạc này thì sẽ tìm ra được manh mối về điểm tập trung mới cho kế hoạch di tản sau khi phi trường Tân Sơn Nhất đã bất khả dụng nhưng mọi nỗ lực đều không có kết quả.






Có lẽ chỉ còn một ít đường giây đặc biệt nào trong Tòa Đại Sứ là còn hoạt động mà thôi, còn các đường giây khác đều bỏ trống.






Tôi ngồi đó nhìn lại văn phòng nơi mình đã làm việc năm năm trời với bao nhiêu là kỷ niệm rồi quyết định thủ tiêu hết các tài liệu. Một số giấy tờ không kịp thủ tiêu thì tôi bỏ vào trong thùng và đem xuống xe.






Khi bước ra khỏi văn phòng, tôi nhìn suốt dọc hành lang tất cả đều vắng lặng như tờ, nguyên dẫy này và dẫy bên cạnh nữa trước kia tấp nập người đi lại chạy lên xuống cầu thang thì bây giờ mình tôi đứng trên đây tựa vào lan can.






Dưới sân cũng không một bóng người, chỉ còn cây Mai Tứ Quí một mình bơ vơ giữa sân như tôi cô đơn đứng trên này.






Tôi quyết định lái xe trở về nhà Mẹ tôi để lại ngồi chờ tin nữa.






Gia đình vẫn luôn là nơi cho ta trú ẩn qua những cơn giông tố của cuộc đời. Lần này là một cơn giông bão khủng khiếp khổng lồ và đen tối nhất đang úp chụp lên miền Nam. Liệu gia đình có còn là nơi trú ẩn an toàn nữa không đây?






Dầu sao tôi vẫn phải trở về nhà, đồng hồ mới chỉ 11 giờ sáng ngày 29-4, vẫn còn chút hy vọng là những người bạn Mỹ sẽ còn nhớ đến chúng tôi để thông báo về địa điểm tập trung cho kế hoạch di tản mới.






Trên đường về, tôi thử tạt qua vài nơi mà các tay số vấn Mỹ vẫn thường lui tới làm việc bí mật gọi là các Nhà An Toàn nằm trên đường Hồng Thập Tự và Sương Nguyệt Ánh nhưng họ đều đã rút đi hết không còn một ai.






Buổi sáng ngày 29-4 ấy, sau khi không liên lạc được từ văn phòng làm việc, nếu tôi chạy xe thẳng vào Tòa Đại Sứ và tìm cách ở lại trong đó thì chắc chắn sẽ gập lại các cố vấn của Đoàn như Frank Rygalski, Vance Vincent, Jeffrey Ho, Paul hay Dick, và đêm 29-4 tôi đã leo lên nóc sứ quán vào trực thăng để bay ra Đệ Thất Hạm Đội an toàn rồi.






Nhưng không hiểu sao tôi lại không chạy thẳng vào tòa đại sứ để ở lại trong đó sáng ấy ? Một phần có lẽ vì không thể bỏ lại vợ và hai đứa con còn nhỏ dại, một phần tôi vẫn hy vọng là người Mỹ còn giữ kế hoạch bốc chúng tôi đi.






Thực tế đáng buồn là Tòa Đại Sứ HK chỉ bí mật ra lệnh cho các nhân viên người Mỹ gấp rút vào trong compound tức là trong sứ quán sáng ngày 29-4, mà không hề thông báo cho các nhân viên người Việt hay Á Châu.






Không có trực thăng nào bốc ai đi cả và các nhân viên người Việt hay gốc Á Châu thuộc Đoàn Liên Lạc HK của Tòa Đại Sứ Mỹ và hầu như toàn bộ nhân viên của Phủ Đặc Ủy TƯTB thuộc Phủ Tổng Thống (nơi mà Đoàn Liên Lạc HK yểm trợ), không ai biết địa điểm tập trung là ở đâu nữa ( cho nên tất cả sau đó đều gập nhau trong..... tù.)






Bây giờ lệnh đầu hàng đã loan đi trên làn sóng điện Saìgòn thì chúng tôi những nhân viên còn lại của Đoàn Liên Lạc KH trong đó có tôi lại càng thêm bôí rôí. Con đường ra đi đã tắc nghẹn một cách ngang xương và con đường ở lại thì tương lai mù mịt không biết về đâu.






Tình huống đã trở nên tuyệt vọng, nhiều tin loan tải đi rất nhanh; như là cả một hạm đội gần hai mươi bẩy chiếc tầu của HQVN đã ra khơi an toàn ngày hôm qua, rồi tin thiên hạ đang ùn ùn kéo nhau về miền Tây để sinh sống hay tiếp tục tìm đường di tản.






Tin tức khác nữa thì chúng ta sẽ bỏ Vùng III và lui về cố thủ tại Vùng IV vì Vùng IV Chiến Thuật là vựa thóc đủ sức nuôi quân chờ một giải pháp mới chứ chúng ta không chấp nhận đầu hàng dễ như vậy.






Hay sẽ có một chính phủ liên hiệp và một giải pháp tốt hơn cho miền Nam cũng được nhiều người bàn tán trong đó có ông anh thứ Hai của tôi không hiểu sao lại tin tưởng sẽ có một giải pháp mới?






Những tin tức đủ loại như vậy chỉ làm cho người dân trong đó có tôi thêm rối trí. Tôi đang đứng suy nghĩ như vậy thì nghe tiếng của Mẹ tôi gọi. Bên dưới nhà ngay sau khi nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trên radio thì Mẹ tôi bảo đóng ngay cửa hàng bán quần áo trẻ em lại, khóa cửa sắt bên trong, rồi kéo tấm màn che kín hết và kêu tất cả rút lên lầu.






Bên ngoài đường, như là đã chuẩn bị từ trước ở vùng ven thủ đô, cho nên chỉ khoảng một tiếng đồng hồ sau là tôi nghe thấy tiếng những âm thanh động cơ nặng nề của những bánh xích xe tăng T-54 lăn rầm rầm trên đường nhựa từ phía Ngã Ba Ông Tạ, chạy trên đường qua trước mặt nhà Mẹ tôi, hướng về phía cầu Trương Minh Giảng.


Tôi nhìn qua cánh cửa sổ hé mở để thấy hình ảnh đau thương đầu tiên nhất về ngày mà Sài Gòn sụp đổ trong mắt tôi là một đoàn xe tăng T-54 đang lăn bánh vào thành phố.






Những người lính Bắc Việt mở nắp xe tăng và chui ra đứng lên nhìn thành phố một cách ngỡ ngàng. Từng chiếc, từng chiếc một chạy ngang qua trước mặt tôi bên dưới đường như những mũi kim xuyên qua da thịt đâm vào tim.






Trong khi mà đa số dân chúng hai bên đường còn đang sửng sốt chưa hiểu chuyện gì đang xẩy ra, thì một số người chả hiểu sao đã giơ tay vẫy vẫy đoàn xe tăng này - bên cạnh đó những người lính VNCH vẫn đang lầm lũi bước đi một cách đáng thương.






Tôi có cảm tưởng như bầu trời u ám tối xầm hẳn lại vì một sự kiện không bao giờ ai tin là có thể có thật đã vừa xẩy ra: quân Bắc Việt đang tiến chiếm và "tiếp thu" thành phố Sàigòn -thủ đô của Miền Nam và chế độ VNCH vừa sụp đổ sau hai mươi năm anh dũng chống lại quân xâm lược từ phương Bắc.






Tôi theo Mẹ xuống nhà dưới để chuẩn bị cùng gia đình ăn bữa cơm trưa và cố gắng lùa bát cơm nhưng không thể nuốt nổi.






Trên radio chợt có những giọng nói rất lạ của vài xướng ngôn viên mới và trong những bản nhạc được phát đi, người ta nghe thấy bản "Nối Vòng Tay lớn" của nhạc sĩ họ Trịnh.






Tôi với tay tắt cái radio đi vì chả có gì cần phải nghe nữa.


Tôi nhớ lại buổi sáng ngày hôm đó, ngày mà chúng ta mất Sàigòn.






Không hiểu sao tôi ngủ dậy rất sớm sau một đêm thao thức và trằn trọc vì cái quyết định ở lại không ra đi một mình.






Tôi lấy chiếc xe Renault 4 CV chạy về phía Tòa Đại Sứ Mỹ xem tình hình ra sao trong khi cả nhà trừ Mẹ tôi, là còn đang say ngủ.






Trời mới vừa hừng sáng và không khí còn hơi mát của sương đêm. Sàigòn dễ thương là chỗ đó, dù ban ngày có nóng mấy đi chăng nữa nhưng khi màn đêm buông xuống là không khí dịu đi ngay.






Phố phường dọc theo con đường Trương Minh Giảng còn vắng người, tôi vừa lái xe ra khỏi nhà một lát chưa tới khu chợ nữa thì thấy một dáng người thất thểu đi bên đường như không hồn. Tôi nhận ra anh Điện, anh bạn đồng nghiệp của tôi và được Tòa Đại Sứ Mỹ biệt phái qua Tổng Nha Cảnh Sát. Tôi mừng quá vội dừng xe lại, nhẩy xuống bắt tay anh hỏi thăm thì chỉ nhìn thấy một khuôn mặt u buồn, anh không nói một lời nào, cái siết tay tôi thật chặt thay cho lời nói rồi lại đi bộ dọc theo con đường hình như đang suy nghĩ gì lung lắm. Tôi đứng nhìn theo anh một lát rồi lên xe đề máy và chạy chầm chậm suốt cho tới cuối con đường Trương Minh Giảng, gập ngã ba thì rẽ trái vào Trần Quí Cáp để hướng về phía con đường Thống Nhất.






Trong khi lái xe tôi vẫn suy nghĩ về anh Điện và dự định chiều nay sẽ đến thăm anh nhưng tôi không ngờ rằng đó là lần cuối cùng tôi gập anh bởi ngay sau khi anh nghe tin Dương Văn Minh đầu hàng thì anh uống thuốc tự tử.


Anh sinh trưởng ở Huế, là một người rất hiền lành, một công chức cần mẫn, gia đình chỉ có hai vợ chồng và không con cái.






Con đường Trần Quí Cáp sáng hôm ấy vẫn đẹp và rợp bóng mát với hai hàng cây cao bên đường như mọi ngày nhưng tôi có cảm giác thật lạc lõng và thật cô độc.






Thiên hạ hình như còn đang chìm trong giấc ngủ, thỉnh thoảng mới thấy một hai chiếc xe gắn máy chạy vụt qua rồi mất hút.






Những chiếc lá theo từng cơn gió sớm mai bay là là nghiêng cánh trước mặt kính xe của tôi rồi rơi xuống mặt đường nhựa và nằm im trên đó. Cuộc đời tôi cũng sẽ rơi rụng như chiếc lá khô này chăng?






Tôi lái xe vào phía trước của tòa đại sứ Mỹ và không thể không kinh ngạc khi nhìn thấy một dinh thự hoàn toàn trống rỗng, cánh cổng trước mở toang ra, với các mảnh kính vỡ bay ra tới tận ngoài đường.






Vòng xe lại phía sau là đường Hồng Thập Tự thì quang cảnh còn tang thương hơn. Một tòa đại sứ hôm nào còn nhộn nhịp, còn là đầu não của mọi kế hoạch tinh vi, thì bây giờ là một căn nhà hoang phế, các cửa sổ bị đập nát và khu cỏ xanh và đường nhựa phía sau này đầy các mảnh vụn của cửa kính vỡ, tôi phải lái xe ra xa để tránh các mảnh vỡ đó.






Mới tối hôm qua khi tôi đến đây thì còn đông nghẹt những người là người chen chúc nhau để tìm đường di tản. Trên bức tường kia là các TQLC Mỹ hườm súng và cổng vào thì đã đóng chặt.






Bây giờ hai cánh cửa mở toang, trên tường hoang lạnh, trong sân chỉ thấy vài bóng người, và trên nóc tòa đại sứ, hôm qua các trực thăng còn nườm nượp bay đi về để chở người di tản ra Đệ Thất Hạm Đội bây giờ cũng chẳng còn ai. Tôi chỉ nhìn thấy một bóng trắng rất nhỏ bốn chân đang chạy từ trên nóc xuống, có lẽ là con mèo đang đi tìm thức ăn.






Tôi đậu xe lại bên hàng cây, bước xuống cầm lên một mảnh vụn kính văng ra và nghĩ rằng phải có người dùng chất nổ để phá các két sắt trong đó để tìm tiền hay đô la còn sót lại thì các mảnh mới có thể văng xa đến như vậy.


Có điều tôi không ngờ rằng chẳng bao lâu sau thì cuộc đời hàng triệu người dân miền Nam trong đó có tôi cũng vỡ vụn ra không khác gì mảnh kính vỡ tan kia.






Tôi vòng xe về nhà nghỉ một chút đến chiều ngày 30 thì ghé thăm anh Điện, nhà anh rất gần nhà Mẹ tôi, ngay trong con hẻm bên cạnh ngôi chợ Trương Minh Giảng.


Khi tôi bước vào căn nhà thì không khí hoàn toàn vắng lặng và tôi hơi bị khựng lại vì cửa thì mở toang ra nhưng trong nhà không có ai ngoài một người bà con.






Tôi được biết là anh đã quyên sinh và chị đang ở trong nhà thương với anh để lo việc tẩm liệm.






Tôi bước ra khỏi nhà anh mà đầu óc còn chưa tỉnh hẳn.


Tôi để xe đó và đi bộ vào trong chợ, tôi có ý tìm một nhân viên của tôi cùng làm việc trong Đoàn Liên Lạc HK là một người gốc Chàm rất thành thật và dễ mến tên Carim.






Đang loay hoay nhớ lại lối vào nhà anh vì lối đi quanh co phía sau chợ thì tôi chợt thấy anh vác chiếc xe đạp ra định đi đâu. Gập tôi anh mừng qua dắt chiếc xe đạp trở lại, dựng nó tựa lên vách phòng khách trong nhà rồi chạy lại nắm tay tôi mời vào nhà.






Căn nhà anh ở là căn nhà sàn vách ván, bên dưới là con sông chẩy lượn lờ vòng quanh dưới chân cầu Trương Minh Giảng.






Căn phòng khách đơn sơ nhưng tối tù mù và trên tường có một bàn thờ che vải đỏ có lẽ là nơi anh thờ bùa chú gì đó.






Anh là một người với một cuộc đời khá đặc biệt chuyên giúp người, mà tôi nghe nhiều nhưng khi quen anh mới biết được.






Anh là một ông thầy người Chàm cao tay về bùa yếm.


Căn nhà sàn này cũng là một tặng phẩm của một bà trên chợ Bến Thành biếu cho anh vì anh đã cứu mạng cho con gái của bà.






Anh kể tôi nghe rằng con gái của bà này khi xuống Cần Thơ ăn học thì có một người thương yêu cô nhưng cô không chịu. Chàng trai kia bèn nhờ thầy bùa gì đó dưới Cần Thơ "thư yếm" vào phong bì gửi cho cô. Lúc mở phong bì ra là cô bắt đầu thấy như có ngọn lửa đang nung đốt ruột gan mình chịu không nổi, cô la hét và xé cả quần áo ra như người điên.






Đưa đến bệnh viện cấp cứu và bao nhiêu là bác sĩ cũng bó tay vì không tìm ra bệnh gì hết. Bà mẹ bèn đem cô về Sài Gòn để tìm thầy chữa trị, và may mắn có người giới thiệu với Carim.






Anh nói với tôi anh biết cái người đã yếm bùa hại cô này nhưng anh cao tay hơn nên chữa được. Sau khi con gái bà đã được giải trừ bệnh tật xong thì bà đã mua tặng cho anh ngôi nhà sàn này.






Lúc anh Carim mới vào làm cho Tòa Đại Sứ Mỹ và được đưa về Đoàn Liên Lạc HK để yểm trợ cho Phủ Đặc Ủy TƯTB thì anh nói tiếng Việt chưa sõi mà tiếng Anh thì cũng yếu nữa nên tôi thường giúp anh trong các khi cần phiên dịch hay diễn đạt bởi thế anh thân tình với tôi hơn những nhân viên khác của Đoàn.






Tôi tình cờ đến thăm và thấy anh rất vui mừng. Anh có hỏi tôi về tình hình và tại sao Tòa Đại Sứ HK lại không giữ lời hứa và không đến đón chúng tôi như đã cam kết trong buổi họp cuối cùng ngày 27-4-1975?






Tôi nói tôi không biết và lược sơ tình hình cho anh hiểu.


Riêng tôi có một câu hỏi với anh là với nghề nghiệp thầy pháp, tạm gọi anh như vậy đi, không biết anh có thể tìm được điều gì về tâm linh ngõ hầu soi sáng thêm cho tình hình đen tối này hay không.






Anh nhìn tôi chầm chậm lắc đầu một cách bi quan.






Anh cho tôi biết là một số anh chị em trong Đoàn còn lại tại Sàigòn cũng rất là hoang mang, không biết tính sao. Tôi nhờ anh nhắn lại với họ là mọi người nên lo cho gia đình mình là tốt nhất rồi xem tình hình ra sao sẽ tính.


Tôi ngồi uống với anh chung nước trà và siết tay anh rồi ra về.






Đó là lần tôi gập anh ngay sau lệnh đầu hàng và không còn dịp nào gập lại nữa nhưng lúc nào tôi cũng mến anh, một con người thật thà ngay thẳng và hay giúp người.






Tôi chạy xe đến nhà anh Sang là một cấp chỉ huy trong Đoàn Liên Lạc HK thì nghe tiếng khóc sụt sùi từ trong nhà vọng ra. Tôi chỉ gập một cô bé giúp việc, cô nói rằng cả hai vợ chồng anh đều đã ra đi từ hồi nào cô không hay nữa. Bấy giờ tôi mới hiểu rằng tất cả đều đã tan tác như loài ong vỡ tổ và mạnh ai người nấy đi tìm đường thoát ra khỏi miền Nam trước khi quá trễ.






Vì quá tin vào lời hứa và cam kết của các cố vấn Mỹ trong buổi họp ngày 27-4 mà phút chót tôi và rất nhiều người đã bị kẹt lại.






Mấy ngày sau tôi mới biết là tất cả cố vấn Mỹ đã có lệnh rút hết vào bên trong Tòa Đại Sứ sáng ngày 29-4 và ngay buổi chiều hôm đó thì Tòa Đại Sứ đã ra lệnh đóng kín cửa, cho lính TQLC Mỹ canh gác trên bức tường thành chung quanh và không còn ai ra vào được nữa.






Các bạn đồng nghiệp của tôi và chính tôi nữa khi bước chân vào các trại "tập trung cải tạo" của Cộng Sản, đã phải trả một cái giá rất đắt với bao nhiêu năm tù đầy cho niềm tin vào lời hứa sẽ bốc đi bằng trực thăng của người Mỹ.






Bởi lẽ các cố vấn Mỹ chỉ lo cho những người họ quen biết, hay chỉ đưa đi một số người quan chức bên phía VNCH đã được chỉ định mà thôi trong đó có Trung Tá HDC, một Trưởng Ban của Phủ Đặc Ủy TƯTB - nơi Đoàn Liên Lạc HK tôi vẫn làm việc.






Vào đầu tháng 5-1975, tôi quyết định đi một vòng để thăm bạn bè và có dịp gập gỡ một số bạn đồng nghiệp còn ở lại trong đó có một chị người Trung Hoa nói tiếng Việt rất ít nên chúng tôi thường phải đối thoại bằng Anh Ngữ. Câu chuyện của chị kể đã khẳng định điều nhận định của tôi là đúng.






Chị A.L cho tôi biết là người cố vấn Mỹ đang thuê nhà của chị nói rằng Tòa Đại Sứ vừa triệu tập khẩn cấp các cố vấn Mỹ đang ở trong thành phố hay đang làm việc tại các Nhà An Toàn phải vào trong Sứ Quán ngay lập tức nội sáng ngày 29-4.






Tay cố vấn này có hỏi chị muốn đi hay không, chị A.L trả lời là chị đang chờ cố vấn của Đoàn Liên Lạc HK thông báo xem sẽ tập trung ở đâu. Người Mỹ này nói là không còn kịp nữa đâu mà chờ đợi.






Nhờ có tay cố vấn ấy mà cả hai mẹ con chị mới vào được trong Tòa Đại Sứ yên ổn ngay sáng ngày 29-4.


Tôi thắc mắc là tại sao hai mẹ con chị đã vào bên trong yên ổn rồi mà còn ở lại đây Sàigòn giờ này? Chị nói đúng là con người ta không ai học được chữ ngờ và quả là con người ta đi đứng đều có số mạng.






Bởi tối hôm 29-4, ai có mặt trong Tóa Đại Sứ cũng đều biết rằng đó là buổi tối cuối cùng vì ngày mai trực thăng sẽ không còn vào đón người di tản nữa từ trên nóc của sứ quán.






Vì lẽ đó mà thiên hạ chen nhau một cách hỗn loạn, leo lên từng bậc thang một để lên trên sân thượng nơi trực thăng đang chờ -lý do là mỗi chuyến trực thăng chỉ đón một số người nhất định có tên trên manifest mà thôi.






Chị A.L dẫn mẹ già nên chậm hơn mọi người. Khi chị lên đến nóc tòa nhà và chuẩn bị chui vào chiếc trực thăng đã được chỉ định thì mới hốt hoảng không thấy mẹ mình đâu. Hóa ra bà cụ đã vừa mới đứng phía sau chị bên cạnh cầu thang thì đã bị người ta xô đẩy tuốt về phía sau từ hồi nào. Chị vội quay xuống dẫn cụ lên lại tới nơi thì chiếc trực thăng đó không thể chờ được và đã cất cánh.


Chị kiên nhẫn đứng chờ các chuyến sau nhưng vẫn bị từ chối vì không còn chỗ, và cứ thế chờ suốt đêm đến sáng rồi đành ra về khi toán TQLC cuối cùng rút lui - không còn một dấu vết gì nữa của người Mỹ đã hiện diện ở đây ngày hôm qua.






Những người không đi được còn lại ở bên trong và một số ở bên ngoài quá bất mãn đã phá tung cánh cửa và ùa vào phá hết các đồ đạc tủ bàn ghế bên trong. Một số người nữa từ các nơi ngoài đường thấy cổng mở cũng túa vào. Họ đập nát các tủ sắt lấy đi những gì còn có thể lấy được. Đó là vì sao mà các mảnh vụn của cửa kính văng xa ra tới tận ngoài đường.






Ngày 30-4, ngày mất miền Nam thì cái dinh thự to lớn và bề thế của Tòa Đại Sứ Mỹ trên đường Thống Nhất cũng chỉ còn là một cái xác nhà tan hoang.






Tôi nhìn lại tòa nhà đó một lần chót, không thể ai tin được rằng cái dinh thự ấy mới đây còn là nơi yểm trợ cho công cuộc chống Cộng của chế độ VNCH của miền Nam Tự Do, nay đứng chơ vơ xác xơ như thân cây ruỗng mục.


Trên đường phố chung quanh Tòa Đại Sứ tôi nhìn thấy bao cảnh dở khóc dở cười của những người hôi của. Họ chạy xe gắn máy các loại và thòng dây kéo theo các chiến lợi phẩm như những chiếc ghế xoay rồi cột trên đó thêm cái máy lạnh, cái quạt máy, hay cái máy đánh chữ.


Xe của họ phải chạy chầm chậm vì nhanh một chút nữa là chiếc ghế xoay kia sẽ đổ ụp xuống đường.


Tôi lái xe ngược trở về nhà Mẹ tôi để thu xếp đưa gia đình về lại căn nhà tôi đang ở trong Phú Lâm vùng ngoại ô.






Tất cả đã hết thật rồi và hy vọng cũng tan tành như mây khói.






Những người bạn Mỹ ngày nào vẫn cùng nhau sát cánh bao nhiêu năm giờ đây đã rời xa nghìn trùng không còn một dấu vết.






Các bạn đồng nghiệp như tôi hay toàn bộ bên Phủ Đặc Ủy hay các Phủ Bộ khác của chế độ VNCH cũng đang phải đối diện với một ngày mai không thấy gì là sáng sủa trước mặt một kẻ thù cực kỳ hiểm độc và tàn ác không lường.






Thôi cứ về nhà chờ rồi sẽ hay, cái gì đến sẽ phải đến.


Có khác chăng, trước kia tôi chờ trong niềm vui và hạnh phúc là người Mỹ sẽ đón đi di tản cùng với gia đình, còn bây giờ là chờ người của họ sẽ đến tìm bắt mình ngay tại nhà.






Thành phố Sài Gòn không còn nữa, tất cả những ngày tháng êm đềm mang đầy kỷ niệm trên mọi ngả đường thân yêu trong cái thành phố mang tên Hòn Ngọc Viễn Đông đó không còn nữa.






Lịch sử vừa sang qua một trang mới đầy sắt máu, hãi hùng, bi thương; và bên cạnh đó là một nền văn minh huy hoàng bắt đầu bị kẻ chiến thắng hủy diệt ngay trong thủ đô thân yêu mang tên Sàigòn.






Phần XXII: Ngày Trở Về (2)










Cuộc sống của chúng tôi trong bốn năm tại Hàm Tân Z-30D có nhiều cái mới lạ và cũng nhiều cái khó hiểu.



Mới lạ vì trước đó chưa hề xẩy ra bao giờ trong mười mấy năm lưu đầy thí dụ như chúng tôi được ưu đãi trong vài phương diện hơn hẳn tù hình sự. Khó hiểu vì sau hai đợt thả lớn vào tháng Chín một chín tám bẩy và Tết đầu năm một chín tám tám tại trại Ba Sao Nam Hà thì việc thả tù đột nhiên ngưng lại, rồi việc chuyển hết chín mươi người tù cuối cùng ngoài Bắc bằng xe lửa vào miền Nam. Tại sao không thả hết ở ngoài Bắc đi vì số lượng chỉ còn chín mười người tù mà phải chuyển trại họ vào Nam rồi thả rải rác đến bốn năm nữa mới xong? Chúng tôi chỉ có thể nghĩ rằng Cộng Sản - những người từ trong hang núi ra chiếm lấy thành phố - họ có cách suy nghĩ tính toán riêng của họ mà thôi.






Khi vào đến Hàm Tân tỉnh Thuận Hải, tổng số lên tới hơn một trăm năm mươi người tù chính trị cuối cùng còn lại trên toàn quốc đã hội tụ ở đây, nếu Hà Nội muốn thả thì quá dễ, cao lắm chỉ vài tháng là xong.






Thế nhưng chúng tôi đã lầm, vấn đề thả tù vẫn nhỏ giọt như thể phía Bộ Nội Vụ đang chờ đợi một cái gì từ phía Tây Phương hay nói rõ hơn là từ phía Hoa Kỳ thì mới mở cổng ra để thả hết tù .






Bởi vậy có sống với Cộng Sản thì mới hiểu Cộng Sản, và khi nào bước chân ra khỏi nhà tù thì mới biết là ra khỏi trại giam, hoặc khi bước chân về ngưỡng cửa nhà mình thì mới biết là đã về đến nhà - vì trại giam họ có thể dễ dàng nại ra bất cứ lý do nào đó để giữ người tù ở lại.


Cho nên người tù còn trong tay họ thì không có một cái gì là chắc chắn cả.






Một cái khó hiểu nữa là tình hình lao động nặng nề mà trại giao cho chúng tôi ngay từ khi mới chân ướt chân ráo vào Hàm Tân, nếu so với điều kiện sinh hoạt rất cởi mở dành cho chúng tôi là tù chính trị thì hai trạng thái này hoàn toàn trái ngược nghịch lý với nhau.






Việc lao động căng thẳng mà trại áp dụng từ phía hình sự qua cho chúng tôi đã làm chúng tôi hao hụt nhiều sức khỏe. Một điểm khác nữa về lao động là tù nhân ở miền Bắc một ngày xuất trại hai lần sáng và chiều ra khu lao động và trưa thì về trại nghỉ ngơi, còn ở Hàm Tân thì đi lao động nguyên ngày, xuất trại buổi sáng, trưa nghỉ tại lán để lao động cho đến chiều xong rồi đi tắm suối.






Bên hình sự thì đa số còn trẻ trong lứa tuổi hai ba mươi, nhưng chúng tôi người trẻ nhất cũng đã ngoài tứ tuần và cao niên là trên lục tuần cả rồi nên bắt lao động như thế trong giai đoạn này là một sự cưỡng bức không thể chấp nhận được. Trong lúc đó thì trại lớn tiếng tuyên bố là các anh về đây để chờ được thả và trại "tạo điều kiện" cho các anh được mau về với gia đình là điều vô lý.






Chính vì thế mà đã bùng nổ ra một cuộc biểu tình của đội 20 chống lại cái lao động khổ sai đó. Toàn thể anh em trong đội đã phản đối bằng cách không di chuyển nữa ngay trên đường ra khu lao động mới xa tới vài cây số đi bộ, nơi mà anh em phải trồng các loại hoa mầu và cây công nghiệp cùng với các đội tù hình sự.






Mọi người đều đồng lòng ngồi nghỉ trên cái cán cuốc của mình, hút điếu thuốc hay nói chuyện với nhau một cách bình tĩnh, trước con mắt vừa tức tối vừa ngạc nhiên của tay quản giáo là Hợp "chuột", anh em trong đội đặt cho anh ta bí danh này vì khuôn mặt giống chuột nhắt, dáng hay loắt choắt, và luôn rình rập chúng tôi tại các khu vực lao động.






Cuối cùng thì phải tạ Ơn Trên vì phía trại họ đã nhượng bộ cho chúng tôi được về lại khu lao động cũ gần hơn, và áp dụng chế độ lao động mới nhẹ nhàng hơn. Đội 23 là đội dành cho các anh trên 55 tuổi cũng lao động trong khả năng của mình chứ không còn thúc bách như trước nữa. Chúng tôi đều thở ra một cách nhẹ nhõm vì không ngờ mình đánh một nước cờ liều thí xe mà thắng được ván cờ đang vào chỗ bí.






Sự kiện này là một biến cố lớn trong lịch sử của trại tù Hàm Tân vì họ chưa bao giờ nhượng bộ tù hình sự hay chính trị lần nào. Điều đó cho chúng tôi một bài học là nếu biết tranh đấu đúng thời điểm thì chúng ta sẽ thành công.






Đúng vào thời điểm bấy giờ ở bên ngoài, tù chính trị đang chuẩn bị ra đi theo chương trình H.O., và có lẽ trại biết rằng chúng tôi cũng sẽ lần lượt ra về chứ không phải ở mãi trong tù để làm công cụ sản xuất lao động cho họ hoài được. Chính vì thế mà họ xả luôn cả về mặt lao động.






Bên cạnh cái chông gai lao động mà chúng tôi vừa tranh đấu thắng lợi là những nét mới lạ độc nhất vô nhị của trại Hàm Tân.






Trước hết, là sự thoải mái trong nếp sống và cách thức sinh hoạt của trại giam này dành cho chúng tôi.


Ngoài việc được ăn mặc thường phục ở trong trại hay khi ra ngoài lao động là sự sử dụng tiền mặt một cách tự nhiên mà họ gọi là tiền "ngân", như khi ra mua thức ăn gì tại "căng tin" thì móc túi trả tiền mặt một cách công khai chứ không phải nhìn trước nhìn sau. Tôi cũng bắt đầu làm quen với loại tiền giấy của họ trong lúc mua bán.


Nhớ lại lần đi lưu diễn đến trại giam hình sự tại Cây Số 60 ở Hà Sơn Bình gần mười năm trước, lúc lấy tiền ra để trả cho cô chủ quán ấm trà và gói thuốc lào thì tôi lúng túng mãi không biết đồng nào là một hào hay mười hào, năm chục hào và đành chìa ra hết để cô chủ quán lựa lấy cho đủ số tiền.






Trong bốn năm này, dù vẫn phải xuất trại hàng ngày ra lao động với cuộc sống đều đặn và nhàm chán như tiếng tíc tắc của kim đồng hồ, nhưng riêng tôi có một cảm giác rất lạ lùng rằng thân mình tuy còn trong tù nhưng Tâm của mình đã vượt được ra khỏi vòng rào của tù tội, và như thể bốn bức tường chung quanh không còn khả năng vây hãm, không còn khả năng gây khốn đốn cho chúng tôi nữa.






Như thể những nặng nề u ám, những lớp mây mù dầy đặc phủ chụp lên chúng tôi bao nhiêu năm qua đã dần tan biến đi để lộ ra một ngày mai tươi sáng trong ánh nắng hanh vàng.






Có thể rằng khi cái Nghiệp lực đã lùi ra xa thì mọi việc đều hanh thông chăng. Ngay cả những tay tự giác hay trật tự của trại thường liên lạc với chúng tôi cũng là những anh thuộc viên chức hay sĩ quan chế độ cũ trong nhóm tù cuối cùng hay bị bắt những năm sau ngày Sàigòn sụp đổ cho nên mấy anh trật tự cũng dần dần thành thân quen, và không khí trở nên dễ chịu nhiều.


Các cụ thường nói quan xa bản nha gần quả là đúng vì lấy được cảm tình của các anh trật tự này -giống như tấm đệm giữa chúng tôi và cán bộ trại- thì mọi việc trong sinh hoạt cũng thuận lợi hơn.






Bên cạnh đó, tại khu thăm nuôi, những tay cán bộ phụ trách thường tỏ ra thông cảm và dễ dãi chứ không tìm cách làm khó dễ, hạch sách người tù khi cho họ ra thăm thân nhân như ở các trại giam ngoài Bắc.






Tôi thấy các chị khi nói chuyện với những cán bộ này thì rất là tự nhiên hoặc xã giao, cho họ bao thuốc lá "ngoại" hay gói thuốc lào ba số tám một cách công khai và có thể nhìn thấy sự vui mừng của những cán bộ hay các anh trật tự khi được các chị cho quà.






Tôi tin là phía cán bộ phụ trách đã được chỉ thị từ cấp trên của họ để mở cửa cho việc gia đình đến thăm chúng tôi tại Hàm Tân, bỏ đi những thủ tục rườm rà hay quy định hạn chế ba tháng mới được thăm một lần.






Khi cần các chị có thể vào thăm các anh hầu như bất cứ lúc nào và càng về sau thì khu thăm nuôi càng tiếp đón các người vợ tù này và gia đình một cách thân thiện hơn, thêm vào đó chính những người vợ tù đã khiến cho khuôn mặt của khu thăm nuôi trở thành náo nhiệt và vui tươi.






Một đặc biệt trong sinh hoạt của người tù trong ba năm đầu tại Hàm Tân là buổi tối thì mãi đến chín giờ mới đóng cửa buồng giam để cho chúng tôi có thì giờ nhiều hơn, đi ra sân, ngồi uống trà với nhau hay đi bách bộ hít thở không khí trong lành, trong khi phía hình sự thì vẫn sáu giờ là đóng cửa buồng.






Sự cởi mở này còn được nới ra hơn nữa khi họ thả gần hết và chỉ còn lại hai mươi người, số tù chính trị ít ỏi cuối cùng . Trại đã lấy lại hai buồng giam lớn để giam tù hình sự và cho chúng tôi qua bên nhà kho làm buồng ngủ với giường cá nhân cho mỗi người và chỉ có hai cánh cửa ra vào nhưng không có khoá.






Mỗi tối, chúng tôi đều nhớ khoảng chín giờ thì mười mấy người trong căn phòng nhà kho bảo nhau rút vào trong rồi khép hai cánh cửa lại trước khi lên giường. Nếu quên thì có vài cán binh đi tuần ngoài hàng rào bên khu hình sự lại nhắc chúng tôi vào buồng bằng cách ra dấu một cách nhẹ nhàng.






Năm một chín chín mươi, cả trại giam giống như một xã hội nhỏ cũng lên cơn sốt về giải Túc Cầu Thế Giới và lần đầu tiên nửa đêm trại cho mở cửa hai buồng giam cho anh em chúng tôi ra xem các trận tranh tài này trên truyền hình.






Tôi nhớ anh Dậu Trung Tá Mũ Xanh ngày xưa, cũng thích Túc Cầu, và tôi cùng vài người bạn ngồi uống trà với nhau chờ nữa đêm ra xem chứ không ngủ. Điều này nói lên phía bên họ không còn lo sợ việc trốn trại và phía chúng tôi cũng thấy được là vào đến Hàm Tân thì ngày về không còn xa nữa.






Điều làm cho tôi có lẽ vui và tự hào về tù chính trị là các buổi chiếu phim tại hội trường lớn.






Thiếu Tá Nhu là trưởng trại và ông ta đã cho khai thác "căng tin" mua bán với tù nhân và gia đình họ khi đến thăm, và cho bán vé mỗi tối để thâu thêm tiền.






Bên hình sự, cả nam lẫn nữ đều nô nức rủ nhau ra mua vé mỗi chiều khi vừa vào trại để đi xem phim "chưởng" hàng đêm, đa số là phim Tầu kiếm hiệp của Hồng Kông hay Đài Loan. Mỗi tuần, các cán bộ trại lại về Saìgòn để mướn các phim "chưởng" loại này đem về Hàm Tân chiếu thu tiền. Chúng tôi muốn xem tối chiếu phim gì và phim hay dở cứ hỏi các cô cậu bên hình sự là biết hết. Những phim ảnh của phe xã hội chủ nghiã sau này đều bị "dẹp tiệm" chả ai buồn đi coi vì phim đã dở, đóng không hay, mà cốt truyện toàn tuyên truyền khô khan không hấp dẫn được khán giả, trại đã thử chiếu vài lần thất bại đành chuyển hướng kinh doanh qua phim "chưởng" thì đúng là hốt bạc.






Phía chúng tôi thì anh trật tự, cũng là một Thiếu Úy QLVNCH ngày trước thông báo chính thức là "Ban" Nhu mời các bác các anh lên hội Trường xem không phải mua vé. Ban đầu có vài anh còn nghi ngờ nhưng lên hội trường xem thì đúng là không cần vé.






Hầu như mỗi tối ngày thường là có chiếu phim, một nhóm anh em chúng tôi trong đó có tôi và anh Dậu luôn đi cùng nhau, tay phe phẩy cái quạt nan thả bộ về phía Hội Trường. Khi đến cửa, các anh trật tự đang soát vé các đội bên hình sự, nhìn thấy chúng tôi đến thì đều chào hỏi rất lịch sự và bước sang một bên nhường chỗ cho chúng tôi vào hai dẫy ghế đầu dành riêng bên trên, và chỉ một lát sau là cả ngàn hình sự nam nữ ngồi đầy nghẹt hết chung quanh nói chuyện ồn ào như một cái chợ.






Có hôm tụi tôi vào trễ nhưng vẫn thấy hai hàng ghế bên trên còn trống để dành cho chúng tôi chứ tù hình sự vẫn ngồi từ hàng thứ ba trở xuống. Một cử chỉ nhỏ đó cũng đủ cho tôi thấy được là ít nhiều thì trại hay "Ban" Nhu đã tỏ ra nể vì và ưu đãi một chút những người tù cuối cùng này.






Có những lúc vô tình chạm trán tay Thiếu Tá trưởng trại, chúng tôi đều chào ông ta, ông ta chào lại và không tỏ thái độ gì là còn thù hận sự kiện đội 20 đã dám biểu tình chống đối lao động tức là chống lại ông ta - bởi trong trại kể cả tù hình sự lẫn cán bộ dưới quyền, họ sợ ông ta như sợ cọp.






Những kỷ niệm ấy tôi chẳng bao giờ quên được bởi lẽ nó là những gì một thoáng tự hào của người tù chính trị so với tù hình sự, một cái gì cô đọng lại nhất sau mười hai năm lưu đầy phương Bắc.






Giống như Mẹ tôi vẫn thường nói một cách hãnh diện với mọi bà con họ hàng thân quen cũng như nói thẳng với Phường Khóm rằng các con trai của Mẹ đi tù là tù Ông tù Cha chứ không phải tù bình thường; tại địa phương Phường Khóm Trương Minh Giảng ở Sàigòn chúng nó tức lắm nhưng cũng không làm gì được.






Vì có đầu óc kinh doanh và thực tế nên khi về làm trưởng trại Hàm Tân, Thiếu Tá Nhu đã đặt vấn đề kiếm tiền lên hàng đầu, nguồn lợi to lớn đó từ nhiều phía đem lại như các toán khai thác lâm sản, những dịch vụ "căng tin", dịch vụ thăm nuôi và chiếu phim "chưởng" hợp với thị hiếu của đám trẻ tù hình sự nam nữ.






Đó là chưa kể chủ trương của tất cả trại giam trong các nhà tù của Cộng Sản là sử dụng tối đa năng lực của tù nhân nam cũng như nữ, là vắt hết sức lực còn sót lại của họ nhằm mục đích làm tiền thật nhiều cho trại qua những từ ngữ lừa bịp và khuôn sáo như "tạo ra của cải vật chất" cho trại hay "lao động là vinh quang".






Nhưng vì hai chữ "vinh quang" ấy mà hàng ngàn hàng vạn tù nhân đã phơi xác ngoài cánh đồng hay trong trại tập trung vì kiệt sức, vì bệnh tật không thuốc men, vì khẩu phần ăn quá thiếu thốn sau bao nhiêu năm tháng lao động cật lực vì sức khoẻ họ đã bị vắt kiệt.






Nhiều trại đã trở thành giầu có và đám cán bộ chỉ huy tham lam đã có túi đầy tiền, trong đó có trại Hàm Tân Z-30D, nhờ giam giữ thường xuyên một nguồn lao động dồi dào hàng ngàn tù nhân.






Các nữ tù có sắc đẹp ở trại này thì được tuyển chọn để phục vụ ở "căng-tin" và được đi lại khá tự do như những tự giác; mấy cán binh còn tiết lộ là các nữ tù này, đặc biệt một cô đẹp nhất tên M. còn phải phục vụ riêng cho "Ban" Nhu mỗi khi có yêu cầu tại nhà riêng của ông ấy gần đó nữa.






Hàng ngàn tù hình sự nam nữ, đa số là trẻ tuổi đều thích được ra sân sau giờ điểm danh để ăn diện quần áo và nhiều cô có dịp dồi phấn thoa son. Họ thường cặp với nhau thành từng đôi tíu tít nói cười, họ kéo nhau đi mua vé, trò truyện rất là vui mắt. Tôi có hỏi thăm thì được biết đa số nữ vào tù là tội mãi dâm, biển thủ, lường gạt, chỉ rất ít là tội sát nhân; một số nói là họ vô tội nhưng bị dùng làm con vật thí thân đưa vào tù để ém nhẹm việc cấp trên của họ đã biển thủ cả tiền triệu của công ty.






Nhiều tù nữ có bạn trai là tù nam, mỗi buổi chiều ra gập nhau truyện trò với nhau hai mái đầu sát vào nhau trên ghế đá công viên rất là tình tứ và lãng mạn. Nhìn họ vui cười bên nhau một cách vô tư tôi tự hỏi không biết khi vào buồng giam rồi xa cách nhau họ có buồn không? Họ có nghĩ rằng họ là nạn nhân của cái chế độ phi nhân bản này không?






Nếu miền Nam không sụp đổ, nếu chế độ Cộng Hoà còn tồn tại thì những người trẻ ở đây đã là các cô Tú cậu Tú hay sinh viên đại học hay những công nhân viên chức sĩ quan của chính phủ VNCH, những tương lai của đất nước chứ đâu có phải mang thân tù tội oan uổng như vậy.






Cộng Sản quả thật đi đến đâu thì tàn phá và đem hoang tàn đổ nát đến đó. Chúng tôi là những viên chức sĩ quan chế độ cũ đã thất trận nên phải chịu sự trả thù đầy thủ đoạn tàn nhẫn và hèn hạ của kẻ mang danh là chiến thắng chứ các người trẻ tuổi này họ đâu có tội tình gì mà cũng vướng vào vòng lao lý? Chính cái xã hội do chế độ Cộng Sản tạo ra đã đẩy những người trẻ tuổi này vướng vào vòng "pháp luật", đẩy họ xuống hố.






Lòng tôi không khỏi bùi ngùi và thương xót cho những thiếu nữ còn quá trẻ, nét mặt còn thơ ngây mà đã bị rơi vào vòng tù tội. Và bên ngoài trại tù còn có bao nhiêu ngàn thiếu nữ khác cũng đang rơi vào những thảm cảnh tăm tối cùng đường trong một cái xã hội mà nền tảng gia đình đang bị phá hoại, trong một xã hội mà đạo đức đang bị lung lay tới tận gốc rễ bởi Cộng Sản cai trị miền Nam gây ra hàng chục năm nay.






Tôi không thể quên được hình ảnh các em bé vị thành niên khoảng mười đến mười bẩy tuổi trong trung tâm Thanh Xuân ở Hà Sơn Bình ngoài Bắc, là nơi giam giữ các trẻ phạm pháp. Đa số bị bắt vì tội ăn cắp, đánh nhau gây thương tích, một ít vì mãi dâm mà chịu những án tù rất nặng tới ba năm, năm hay bẩy năm, nhưng tựu trung lại thì các em cũng chính là nạn nhân của xã hội chủ nghĩa nghèo đói, bần cùng đã dậy cho con người biết lường gạt, biết ăn gian nói dối để sống còn . Và với chủ nghiã vô thần, các em đã bị nhôì sọ chỉ biết đến Đảng mà thôi, không cần cha mẹ hay nhà thờ và chùa chiền.






Nhiều lần tôi đã gập các em xúm nhau vào ì ạch đẩy chiếc xe "cải tiến" nặng nề chất đầy củi hay hoa mầu trên đường về trại. Xe "cải tiến" là loại xe mà trước kia do bò kéo nay được cải tiến lại để cho người kéo - (vậy mà họ lúc nào cũng hãnh diện là ta nay có xe "cải tiến".) Nhìn các em đi chân đất với thân hình gầy gò ốm yếu, xanh xao mà các em còn cực khổ hơn trâu bò, các em phải nai lưng ra lao động mỗi ngày để làm ra của cải cho trại, lòng tôi không khỏi quặn đau.






Trong thời gian ở Hàm Tân, trong ký ức tôi còn nhớ một trường hợp khá lạ lùng về một cô bé bên đội hình sự bị ma dấu.






Khi đó vào một buổi chiều trong lúc nhập trại thì thấy phía cổng bỗng xôn xao và nhiều người chạy lung tung, hoá ra là một đội nữ thiếu mất một người.






Các cán bộ và cán binh túa ra đi lùng sục tìm kiếm khắp nơi chung quanh khu vực lao động và xa hơn nữa ở ngoài trại và phải mất hàng giờ sau mới lôi được về một nữ hình sự rất nhỏ người và nhỏ tuổi, miệng cô ta đầy đất bùn - nghe nói cô ta bị ma nhát và dấu dưới một gốc cây Buông.






Tôi thì chưa thấy trường hợp ma ám nào nhưng phải công nhận là Thổ Thần rất linh thiêng y như lời thầy của tôi đã chỉ dậy lúc trước là núi có chủ và đất sông ngòi cũng có chủ.






Một hôm trên đường về trại cùng đội 20, lúc đi ngang qua một lùm cây, chiếc đồng hồ đeo tay của tôi bị rơi mất từ lúc nào. Tôi cố tìm chung quanh sân cỏ và trong bụi cây vì biết rằng nó chỉ rơi đâu gần đây thôi nhưng không thấy đâu cả, chợt tôi nhớ lời thầy dậy bảo, tôi cầu xin Thổ Thần, xin cho tôi laị chiếc đồng hồ vì tôi rất cần nó.


Vừa cầu xong thì tôi nhìn thấy cái đồng hồ đang treo tòng teng trên một nhánh cây nhỏ ngay trước mắt tôi, chỗ này tôi đã tìm hai ba lần mà có thấy nó đâu, sao bây giờ nó lại hiện ra lạ kỳ như vậy?






Đây là điều chỉ có thể lý giải bằng tâm linh chứ không bằng khoa học được, cũng giống như nhiều lần vị Thổ thần đã báo mộng trong khu buồng giam hay tại khu thăm nuôi cho một số anh có tên thả về và các anh đều tả vị Thần này như là một cụ già thấp nhỏ người, râu tóc bạc phơ và chống cây gậy trúc.






Nói đến thăm nuôi thì phải công nhận rằng không trại nào qua được Hàm Tân Z-30D bốn năm cuối chúng tôi ở đó.


Việc mở cửa cho thăm nuôi, nhất là cho tù chính trị đã đem lại nguồn lợi mới cho trại. Khu này đã được "thiết kế" với những căn nhà tranh xinh xắn, xa khu trại giam và dành cho các gia đình ở lại. Dọc theo đó là con suối và hai hàng cây tỏa bóng mát rất yên tĩnh. Dãy nhà này được xây dựng lên khi chúng tôi vừa vào đến miền Nam.


Nếu chúng ta tạm thời quên đi thực tế là các căn nhà tranh đơn sơ này tuy ở ngoài bốn bức tường trại giam nhưng vẫn còn nằm trên phần đất của Hàm Tân Z-30D., thì chúng giống như là một khu nghỉ mát với vẻ đẹp thật nên thơ và gần với thiên nhiên.






Nhờ có các người vợ tù vào thăm chồng thường xuyên nên chúng tôi biết được nhiều về tình hình bên ngoài, những kiến thức này rất cần thiết và có thể xem như một sự chuẩn bị cho những người tù trở lại xã hội và gia đình. Đặc biệt tin tức liên quan đến chương trình mà chúng tôi đều đang mong đợi là H.O. - một chương trình nhân đạo có thật của chính phủ Mỹ chứ không là tin đồn đãi như khi chúng tôi còn ở miền Bắc.






Việc thăm nuôi đã diễn ra cả chục năm nay rồi nhưng chưa bao giờ lại nhộn nhịp, chưa bao giờ thực sự đem lại nhiều niềm vui và phấn khởi cho người tù như bốn năm này tại Hàm Tân, có lẽ vì ở gần hơn, phương tiện xe đò thuận tiện hơn cho gia đình đến thăm, và vì chế độ thăm nuôi đã mở ngỏ cho tù chính trị chế độ cũ.






Bởi vậy chúng tôi được thăm nom liên tục, các công sức của người vợ tù như con thoi đi thăm chồng nơi chốn lao tù đã không hề uổng phí vì đem lại cho người tù thêm sức khoẻ cả về thể chất lẫn tinh thần và nhìn những người tù cuối cùng này, tôi thấy ai cũng lấy lại phong độ nhanh chóng và sự tinh anh như trở lại trên khuôn mặt của mỗi người.






Về tướng mạo mà nói thì có lẽ nhờ ý chí phấn đấu không mệt mỏi của họ và nhờ vào lòng thương yêu vô bờ bến của những người vợ trung trinh, của các thân nhân trong gia đình, mà đã giúp những người tù này tẩy xóa dần đi được các nét u ám tù tội đã bám vào người mình từ bao nhiêu năm nay, hay vì họ đã trả xong cái nợ của người dân khi mất nước hay họ đã can trường chiến thắng được bao nhiêu là sự trả thù tàn độc của kẻ thù vừa là kẻ chiến thắng tựa như những ngọn roi sắt quất trên thân hình tiêu tụy của họ?






Điều này làm tôi liên tưởng lúc mới mất miền Nam vào đầu tháng Năm năm một chín bẩy lăm, trong lúc chờ đi tù tập trung "cải tạo" tôi đến thăm gia đình một đồng nghiệp tại Sàigòn thì bà Mẹ của cô là người Hoa biết về tướng số nói rằng sắc diện của tôi lúc đó rất là xấu và ám đen trên khuôn mặt.






Điều bà nói ám chỉ việc tôi sẽ vào tù, điều này cũng dễ hiểu thôi vì tôi và hàng mấy trăm ngàn viên chức sĩ quan chế độ cũ đều đang chờ đợi cái viễn ảnh đen tối không tương lai đó, nhưng chính tôi cũng không ngờ là thời gian đã kéo dài lê thê đến hãi hùng như vậy.






Lúc sa chân vào vòng tù tội và khi đích thực hiểu được thế nào là Cộng Sản, thế nào là chủ nghĩa xã hội thì quá trễ rồi và tôi chỉ còn biết nhìn lên Trời cầu xin Ơn Trên cho mình và các bạn tù còn sống sót để có ngày ra khỏi trại giam mà thôi.






Có ra đến khu thăm nuôi của Hàm Tân, có gập mặt các người vợ tù, nói chuyện tâm sự với các chị thì mới nhận chân được phần nào cái cao quí, sự quả cảm và lòng hy sinh đến tột cùng của người vợ dành cho chồng.






Nếu phải tuyên dương các người vợ tù như chúng ta thường tuyên dương các chiến sĩ QLVNCH anh hùng chiến thắng Cộng Sản từ chiến trường trở về thành phố Sàigòn thì tôi nghĩ rằng chúng ta chưa có một huy chương nào xứng đáng và có đủ ý nghĩa để tặng cho những người vợ tù đáng quí này.






Có lẽ trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc Việt Nam, chưa có bao giờ mà vai trò người vợ, người phụ nữ Việt lại phải đối phó hầu như đơn độc trước những thử thách to lớn của cuộc sống như dưới ách cai trị vô nhân tính của chế độ Cộng Sản tại Việt Nam sau tháng Tư năm một chín bẩy lăm tại miền Nam.






Nhìn các bạn tù đã trải qua mười mấy năm trong trại giam tôi cũng phải nể sợ sức bền bỉ chịu đựng của họ, nhưng khi gặp các người vợ tù yếu đuối ở khu thăm nuôi và hiểu được các hoàn cảnh gay go cam khổ và bơ vơ trong một xã hội đầy thù nghịch và kỳ thị mà các chị đã phải sống qua bao nhiêu năm khi người chồng đã vào tù, thì tôi không khỏi thốt lên những lời cảm phục đối với các chị.






Quả thật các người vợ tù đã tạo nên một huyền thoại có một không hai trong lịch sử hiện đại, các chị đã viết lên một trang sử đầy những kỳ tích về sức người, về tình nghiã vợ chồng đã giúp các chị vượt lên trên được mọi gian khổ trầm luân và ngăn cách để đi đến được tới hạnh phúc và đoàn tụ ở tận cuối con đường đầy chông gai đó.


Không phải tất cả tù nhân đều có gia đình mà nhiều người vì còn trẻ hay còn mải mê với những công trận của đời lính mà còn độc thân khi Sàigòn thất thủ. Một điểm nữa có lẽ nhìn thấy ngày về không còn xa cho nên thân nhân của các người tù này đã tìm cách cho họ lập gia đình.






Một câu chuyện tình thật đẹp là của một bạn tù rất thân với tôi dù là anh lớn hơn tôi một con giáp.






Gia đình đã đưa một cô giáo ở Sàigòn quen với các em gái của anh lên trại để thăm anh. Cô giáo vốn đã có nhiều cảm tình với anh trai bạn mình, một người hùng của BĐQ ngày trước, một đại tá hiếm hoi của QLVNCH vẫn còn đơn lẻ, nên tuy trong lòng nhiều e thẹn nhưng cô đã quyết định đi theo gia đình đến Hàm Tân thăm anh.






Cả hai như bị tiếng sét aí tình ngay phút đầu gập gỡ giữa trai anh hùng gái thuyền quyên nên sau đó thì cô giáo thay mặt gia đình lên thăm anh luôn và mồi tình đã có một kết thúc hạnh phúc. Một đám cưới đơn sơ và trang trọng có một không hai đã được tổ chức tại nhà của anh tại Sàigòn. Cô dâu trong áo voan cưới mầu trắng bên cạnh họ hàng hai bên nhưng không có chú rể bởi lẽ lúc đó chú rể còn trong trại giam.






Khi được xem tấm ảnh cưới với một mình cô dâu đứng lễ trước bàn thờ gia tiên trong ngày cưới mà không có chú rể, tôi thật là xúc động nhìn anh vừa vui và vừa buồn cho niềm vui chưa được trọn vẹn của anh.






Khoảng một năm sau thì anh được thả về và đoàn tụ trong hạnh phúc bên cạnh người vợ hiền đã kiên tâm chờ đợi anh sau ngày cưới.



Khu thăm nuôi, các mái nhà tranh, các con đường đất sỏi đá rợp bóng mát bao quanh, con suối lững lờ trôi từ phía trước và chẩy siết ở phía sau khu nhà tranh, chiếc cầu bắc ngang qua khu "căng-tin", những chuyến xe đò Sàigòn-Hàm Tân, đã là chứng nhân cho bao nhiêu câu chuyện về tình nghĩa vợ chồng tuyệt đẹp về những cuộc tình thật nên thơ và đẹp như trong mộng của những người tù cuối cùng.






Đẹp như trong mộng vì lẽ chúng tôi ở tù chẳng bao giờ biết được có một ngày nào đó có một người đẹp thương mến mình mà cất công vào tận khu rừng lá Buông để thăm những người chiến sĩ VNCH năm xưa, những tù nhân cuối cùng - những người đã ở tù mười lăm mười bẩy năm sau khi chiến tranh đã chấm dứt. Sự kiện có một người đẹp từ thành phố đến thăm mình sau mười mấy năm là một hạnh ngộ hoàn toàn bất ngờ và lý thú bởi vì chính các tù nhân này tưởng lầm rằng xã hội bên ngoài đã lãng quên mình.



Những người đẹp ấy là các người vợ tù đi thăm chồng, là những phụ nữ với tấm lòng cao cả như cô giáo, là người con gái một thời để yêu và một thời để nhớ có tên là Phượng đã ghé thăm tôi ngày nào bên dòng suối mơ.



Cuộc sống của chúng tôi trong bốn năm tại Hàm Tân Z-30D có nhiều cái mới lạ và cũng nhiều cái khó hiểu.



Mới lạ vì trước đó chưa hề xẩy ra bao giờ trong mười mấy năm lưu đầy thí dụ như chúng tôi được ưu đãi trong vài phương diện hơn hẳn tù hình sự. Khó hiểu vì sau hai đợt thả lớn vào tháng Chín một chín tám bẩy và Tết đầu năm một chín tám tám tại trại Ba Sao Nam Hà thì việc thả tù đột nhiên ngưng lại, rồi việc chuyển hết chín mươi người tù cuối cùng ngoài Bắc bằng xe lửa vào miền Nam. Tại sao không thả hết ở ngoài Bắc đi vì số lượng chỉ còn chín mười người tù mà phải chuyển trại họ vào Nam rồi thả rải rác đến bốn năm nữa mới xong? Chúng tôi chỉ có thể nghĩ rằng Cộng Sản - những người từ trong hang núi ra chiếm lấy thành phố - họ có cách suy nghĩ tính toán riêng của họ mà thôi.






Khi vào đến Hàm Tân tỉnh Thuận Hải, tổng số lên tới hơn một trăm năm mươi người tù chính trị cuối cùng còn lại trên toàn quốc đã hội tụ ở đây, nếu Hà Nội muốn thả thì quá dễ, cao lắm chỉ vài tháng là xong.






Thế nhưng chúng tôi đã lầm, vấn đề thả tù vẫn nhỏ giọt như thể phía Bộ Nội Vụ đang chờ đợi một cái gì từ phía Tây Phương hay nói rõ hơn là từ phía Hoa Kỳ thì mới mở cổng ra để thả hết tù .






Bởi vậy có sống với Cộng Sản thì mới hiểu Cộng Sản, và khi nào bước chân ra khỏi nhà tù thì mới biết là ra khỏi trại giam, hoặc khi bước chân về ngưỡng cửa nhà mình thì mới biết là đã về đến nhà - vì trại giam họ có thể dễ dàng nại ra bất cứ lý do nào đó để giữ người tù ở lại.


Cho nên người tù còn trong tay họ thì không có một cái gì là chắc chắn cả.






Một cái khó hiểu nữa là tình hình lao động nặng nề mà trại giao cho chúng tôi ngay từ khi mới chân ướt chân ráo vào Hàm Tân, nếu so với điều kiện sinh hoạt rất cởi mở dành cho chúng tôi là tù chính trị thì hai trạng thái này hoàn toàn trái ngược nghịch lý với nhau.






Việc lao động căng thẳng mà trại áp dụng từ phía hình sự qua cho chúng tôi đã làm chúng tôi hao hụt nhiều sức khỏe. Một điểm khác nữa về lao động là tù nhân ở miền Bắc một ngày xuất trại hai lần sáng và chiều ra khu lao động và trưa thì về trại nghỉ ngơi, còn ở Hàm Tân thì đi lao động nguyên ngày, xuất trại buổi sáng, trưa nghỉ tại lán để lao động cho đến chiều xong rồi đi tắm suối.






Bên hình sự thì đa số còn trẻ trong lứa tuổi hai ba mươi, nhưng chúng tôi người trẻ nhất cũng đã ngoài tứ tuần và cao niên là trên lục tuần cả rồi nên bắt lao động như thế trong giai đoạn này là một sự cưỡng bức không thể chấp nhận được. Trong lúc đó thì trại lớn tiếng tuyên bố là các anh về đây để chờ được thả và trại "tạo điều kiện" cho các anh được mau về với gia đình là điều vô lý.






Chính vì thế mà đã bùng nổ ra một cuộc biểu tình của đội 20 chống lại cái lao động khổ sai đó. Toàn thể anh em trong đội đã phản đối bằng cách không di chuyển nữa ngay trên đường ra khu lao động mới xa tới vài cây số đi bộ, nơi mà anh em phải trồng các loại hoa mầu và cây công nghiệp cùng với các đội tù hình sự.






Mọi người đều đồng lòng ngồi nghỉ trên cái cán cuốc của mình, hút điếu thuốc hay nói chuyện với nhau một cách bình tĩnh, trước con mắt vừa tức tối vừa ngạc nhiên của tay quản giáo là Hợp "chuột", anh em trong đội đặt cho anh ta bí danh này vì khuôn mặt giống chuột nhắt, dáng hay loắt choắt, và luôn rình rập chúng tôi tại các khu vực lao động.






Cuối cùng thì phải tạ Ơn Trên vì phía trại họ đã nhượng bộ cho chúng tôi được về lại khu lao động cũ gần hơn, và áp dụng chế độ lao động mới nhẹ nhàng hơn. Đội 23 là đội dành cho các anh trên 55 tuổi cũng lao động trong khả năng của mình chứ không còn thúc bách như trước nữa. Chúng tôi đều thở ra một cách nhẹ nhõm vì không ngờ mình đánh một nước cờ liều thí xe mà thắng được ván cờ đang vào chỗ bí.






Sự kiện này là một biến cố lớn trong lịch sử của trại tù Hàm Tân vì họ chưa bao giờ nhượng bộ tù hình sự hay chính trị lần nào. Điều đó cho chúng tôi một bài học là nếu biết tranh đấu đúng thời điểm thì chúng ta sẽ thành công.






Đúng vào thời điểm bấy giờ ở bên ngoài, tù chính trị đang chuẩn bị ra đi theo chương trình H.O., và có lẽ trại biết rằng chúng tôi cũng sẽ lần lượt ra về chứ không phải ở mãi trong tù để làm công cụ sản xuất lao động cho họ hoài được. Chính vì thế mà họ xả luôn cả về mặt lao động.






Bên cạnh cái chông gai lao động mà chúng tôi vừa tranh đấu thắng lợi là những nét mới lạ độc nhất vô nhị của trại Hàm Tân.






Trước hết, là sự thoải mái trong nếp sống và cách thức sinh hoạt của trại giam này dành cho chúng tôi.


Ngoài việc được ăn mặc thường phục ở trong trại hay khi ra ngoài lao động là sự sử dụng tiền mặt một cách tự nhiên mà họ gọi là tiền "ngân", như khi ra mua thức ăn gì tại "căng tin" thì móc túi trả tiền mặt một cách công khai chứ không phải nhìn trước nhìn sau. Tôi cũng bắt đầu làm quen với loại tiền giấy của họ trong lúc mua bán.


Nhớ lại lần đi lưu diễn đến trại giam hình sự tại Cây Số 60 ở Hà Sơn Bình gần mười năm trước, lúc lấy tiền ra để trả cho cô chủ quán ấm trà và gói thuốc lào thì tôi lúng túng mãi không biết đồng nào là một hào hay mười hào, năm chục hào và đành chìa ra hết để cô chủ quán lựa lấy cho đủ số tiền.






Trong bốn năm này, dù vẫn phải xuất trại hàng ngày ra lao động với cuộc sống đều đặn và nhàm chán như tiếng tíc tắc của kim đồng hồ, nhưng riêng tôi có một cảm giác rất lạ lùng rằng thân mình tuy còn trong tù nhưng Tâm của mình đã vượt được ra khỏi vòng rào của tù tội, và như thể bốn bức tường chung quanh không còn khả năng vây hãm, không còn khả năng gây khốn đốn cho chúng tôi nữa.






Như thể những nặng nề u ám, những lớp mây mù dầy đặc phủ chụp lên chúng tôi bao nhiêu năm qua đã dần tan biến đi để lộ ra một ngày mai tươi sáng trong ánh nắng hanh vàng.






Có thể rằng khi cái Nghiệp lực đã lùi ra xa thì mọi việc đều hanh thông chăng. Ngay cả những tay tự giác hay trật tự của trại thường liên lạc với chúng tôi cũng là những anh thuộc viên chức hay sĩ quan chế độ cũ trong nhóm tù cuối cùng hay bị bắt những năm sau ngày Sàigòn sụp đổ cho nên mấy anh trật tự cũng dần dần thành thân quen, và không khí trở nên dễ chịu nhiều.


Các cụ thường nói quan xa bản nha gần quả là đúng vì lấy được cảm tình của các anh trật tự này -giống như tấm đệm giữa chúng tôi và cán bộ trại- thì mọi việc trong sinh hoạt cũng thuận lợi hơn.






Bên cạnh đó, tại khu thăm nuôi, những tay cán bộ phụ trách thường tỏ ra thông cảm và dễ dãi chứ không tìm cách làm khó dễ, hạch sách người tù khi cho họ ra thăm thân nhân như ở các trại giam ngoài Bắc.






Tôi thấy các chị khi nói chuyện với những cán bộ này thì rất là tự nhiên hoặc xã giao, cho họ bao thuốc lá "ngoại" hay gói thuốc lào ba số tám một cách công khai và có thể nhìn thấy sự vui mừng của những cán bộ hay các anh trật tự khi được các chị cho quà.






Tôi tin là phía cán bộ phụ trách đã được chỉ thị từ cấp trên của họ để mở cửa cho việc gia đình đến thăm chúng tôi tại Hàm Tân, bỏ đi những thủ tục rườm rà hay quy định hạn chế ba tháng mới được thăm một lần.






Khi cần các chị có thể vào thăm các anh hầu như bất cứ lúc nào và càng về sau thì khu thăm nuôi càng tiếp đón các người vợ tù này và gia đình một cách thân thiện hơn, thêm vào đó chính những người vợ tù đã khiến cho khuôn mặt của khu thăm nuôi trở thành náo nhiệt và vui tươi.






Một đặc biệt trong sinh hoạt của người tù trong ba năm đầu tại Hàm Tân là buổi tối thì mãi đến chín giờ mới đóng cửa buồng giam để cho chúng tôi có thì giờ nhiều hơn, đi ra sân, ngồi uống trà với nhau hay đi bách bộ hít thở không khí trong lành, trong khi phía hình sự thì vẫn sáu giờ là đóng cửa buồng.






Sự cởi mở này còn được nới ra hơn nữa khi họ thả gần hết và chỉ còn lại hai mươi người, số tù chính trị ít ỏi cuối cùng . Trại đã lấy lại hai buồng giam lớn để giam tù hình sự và cho chúng tôi qua bên nhà kho làm buồng ngủ với giường cá nhân cho mỗi người và chỉ có hai cánh cửa ra vào nhưng không có khoá.






Mỗi tối, chúng tôi đều nhớ khoảng chín giờ thì mười mấy người trong căn phòng nhà kho bảo nhau rút vào trong rồi khép hai cánh cửa lại trước khi lên giường. Nếu quên thì có vài cán binh đi tuần ngoài hàng rào bên khu hình sự lại nhắc chúng tôi vào buồng bằng cách ra dấu một cách nhẹ nhàng.






Năm một chín chín mươi, cả trại giam giống như một xã hội nhỏ cũng lên cơn sốt về giải Túc Cầu Thế Giới và lần đầu tiên nửa đêm trại cho mở cửa hai buồng giam cho anh em chúng tôi ra xem các trận tranh tài này trên truyền hình.






Tôi nhớ anh Dậu Trung Tá Mũ Xanh ngày xưa, cũng thích Túc Cầu, và tôi cùng vài người bạn ngồi uống trà với nhau chờ nữa đêm ra xem chứ không ngủ. Điều này nói lên phía bên họ không còn lo sợ việc trốn trại và phía chúng tôi cũng thấy được là vào đến Hàm Tân thì ngày về không còn xa nữa.






Điều làm cho tôi có lẽ vui và tự hào về tù chính trị là các buổi chiếu phim tại hội trường lớn.






Thiếu Tá Nhu là trưởng trại và ông ta đã cho khai thác "căng tin" mua bán với tù nhân và gia đình họ khi đến thăm, và cho bán vé mỗi tối để thâu thêm tiền.






Bên hình sự, cả nam lẫn nữ đều nô nức rủ nhau ra mua vé mỗi chiều khi vừa vào trại để đi xem phim "chưởng" hàng đêm, đa số là phim Tầu kiếm hiệp của Hồng Kông hay Đài Loan. Mỗi tuần, các cán bộ trại lại về Saìgòn để mướn các phim "chưởng" loại này đem về Hàm Tân chiếu thu tiền. Chúng tôi muốn xem tối chiếu phim gì và phim hay dở cứ hỏi các cô cậu bên hình sự là biết hết. Những phim ảnh của phe xã hội chủ nghiã sau này đều bị "dẹp tiệm" chả ai buồn đi coi vì phim đã dở, đóng không hay, mà cốt truyện toàn tuyên truyền khô khan không hấp dẫn được khán giả, trại đã thử chiếu vài lần thất bại đành chuyển hướng kinh doanh qua phim "chưởng" thì đúng là hốt bạc.






Phía chúng tôi thì anh trật tự, cũng là một Thiếu Úy QLVNCH ngày trước thông báo chính thức là "Ban" Nhu mời các bác các anh lên hội Trường xem không phải mua vé. Ban đầu có vài anh còn nghi ngờ nhưng lên hội trường xem thì đúng là không cần vé.






Hầu như mỗi tối ngày thường là có chiếu phim, một nhóm anh em chúng tôi trong đó có tôi và anh Dậu luôn đi cùng nhau, tay phe phẩy cái quạt nan thả bộ về phía Hội Trường. Khi đến cửa, các anh trật tự đang soát vé các đội bên hình sự, nhìn thấy chúng tôi đến thì đều chào hỏi rất lịch sự và bước sang một bên nhường chỗ cho chúng tôi vào hai dẫy ghế đầu dành riêng bên trên, và chỉ một lát sau là cả ngàn hình sự nam nữ ngồi đầy nghẹt hết chung quanh nói chuyện ồn ào như một cái chợ.






Có hôm tụi tôi vào trễ nhưng vẫn thấy hai hàng ghế bên trên còn trống để dành cho chúng tôi chứ tù hình sự vẫn ngồi từ hàng thứ ba trở xuống. Một cử chỉ nhỏ đó cũng đủ cho tôi thấy được là ít nhiều thì trại hay "Ban" Nhu đã tỏ ra nể vì và ưu đãi một chút những người tù cuối cùng này.






Có những lúc vô tình chạm trán tay Thiếu Tá trưởng trại, chúng tôi đều chào ông ta, ông ta chào lại và không tỏ thái độ gì là còn thù hận sự kiện đội 20 đã dám biểu tình chống đối lao động tức là chống lại ông ta - bởi trong trại kể cả tù hình sự lẫn cán bộ dưới quyền, họ sợ ông ta như sợ cọp.






Những kỷ niệm ấy tôi chẳng bao giờ quên được bởi lẽ nó là những gì một thoáng tự hào của người tù chính trị so với tù hình sự, một cái gì cô đọng lại nhất sau mười hai năm lưu đầy phương Bắc.






Giống như Mẹ tôi vẫn thường nói một cách hãnh diện với mọi bà con họ hàng thân quen cũng như nói thẳng với Phường Khóm rằng các con trai của Mẹ đi tù là tù Ông tù Cha chứ không phải tù bình thường; tại địa phương Phường Khóm Trương Minh Giảng ở Sàigòn chúng nó tức lắm nhưng cũng không làm gì được.






Vì có đầu óc kinh doanh và thực tế nên khi về làm trưởng trại Hàm Tân, Thiếu Tá Nhu đã đặt vấn đề kiếm tiền lên hàng đầu, nguồn lợi to lớn đó từ nhiều phía đem lại như các toán khai thác lâm sản, những dịch vụ "căng tin", dịch vụ thăm nuôi và chiếu phim "chưởng" hợp với thị hiếu của đám trẻ tù hình sự nam nữ.






Đó là chưa kể chủ trương của tất cả trại giam trong các nhà tù của Cộng Sản là sử dụng tối đa năng lực của tù nhân nam cũng như nữ, là vắt hết sức lực còn sót lại của họ nhằm mục đích làm tiền thật nhiều cho trại qua những từ ngữ lừa bịp và khuôn sáo như "tạo ra của cải vật chất" cho trại hay "lao động là vinh quang".






Nhưng vì hai chữ "vinh quang" ấy mà hàng ngàn hàng vạn tù nhân đã phơi xác ngoài cánh đồng hay trong trại tập trung vì kiệt sức, vì bệnh tật không thuốc men, vì khẩu phần ăn quá thiếu thốn sau bao nhiêu năm tháng lao động cật lực vì sức khoẻ họ đã bị vắt kiệt.






Nhiều trại đã trở thành giầu có và đám cán bộ chỉ huy tham lam đã có túi đầy tiền, trong đó có trại Hàm Tân Z-30D, nhờ giam giữ thường xuyên một nguồn lao động dồi dào hàng ngàn tù nhân.






Các nữ tù có sắc đẹp ở trại này thì được tuyển chọn để phục vụ ở "căng-tin" và được đi lại khá tự do như những tự giác; mấy cán binh còn tiết lộ là các nữ tù này, đặc biệt một cô đẹp nhất tên M. còn phải phục vụ riêng cho "Ban" Nhu mỗi khi có yêu cầu tại nhà riêng của ông ấy gần đó nữa.






Hàng ngàn tù hình sự nam nữ, đa số là trẻ tuổi đều thích được ra sân sau giờ điểm danh để ăn diện quần áo và nhiều cô có dịp dồi phấn thoa son. Họ thường cặp với nhau thành từng đôi tíu tít nói cười, họ kéo nhau đi mua vé, trò truyện rất là vui mắt. Tôi có hỏi thăm thì được biết đa số nữ vào tù là tội mãi dâm, biển thủ, lường gạt, chỉ rất ít là tội sát nhân; một số nói là họ vô tội nhưng bị dùng làm con vật thí thân đưa vào tù để ém nhẹm việc cấp trên của họ đã biển thủ cả tiền triệu của công ty.






Nhiều tù nữ có bạn trai là tù nam, mỗi buổi chiều ra gập nhau truyện trò với nhau hai mái đầu sát vào nhau trên ghế đá công viên rất là tình tứ và lãng mạn. Nhìn họ vui cười bên nhau một cách vô tư tôi tự hỏi không biết khi vào buồng giam rồi xa cách nhau họ có buồn không? Họ có nghĩ rằng họ là nạn nhân của cái chế độ phi nhân bản này không?






Nếu miền Nam không sụp đổ, nếu chế độ Cộng Hoà còn tồn tại thì những người trẻ ở đây đã là các cô Tú cậu Tú hay sinh viên đại học hay những công nhân viên chức sĩ quan của chính phủ VNCH, những tương lai của đất nước chứ đâu có phải mang thân tù tội oan uổng như vậy.






Cộng Sản quả thật đi đến đâu thì tàn phá và đem hoang tàn đổ nát đến đó. Chúng tôi là những viên chức sĩ quan chế độ cũ đã thất trận nên phải chịu sự trả thù đầy thủ đoạn tàn nhẫn và hèn hạ của kẻ mang danh là chiến thắng chứ các người trẻ tuổi này họ đâu có tội tình gì mà cũng vướng vào vòng lao lý? Chính cái xã hội do chế độ Cộng Sản tạo ra đã đẩy những người trẻ tuổi này vướng vào vòng "pháp luật", đẩy họ xuống hố.






Lòng tôi không khỏi bùi ngùi và thương xót cho những thiếu nữ còn quá trẻ, nét mặt còn thơ ngây mà đã bị rơi vào vòng tù tội. Và bên ngoài trại tù còn có bao nhiêu ngàn thiếu nữ khác cũng đang rơi vào những thảm cảnh tăm tối cùng đường trong một cái xã hội mà nền tảng gia đình đang bị phá hoại, trong một xã hội mà đạo đức đang bị lung lay tới tận gốc rễ bởi Cộng Sản cai trị miền Nam gây ra hàng chục năm nay.






Tôi không thể quên được hình ảnh các em bé vị thành niên khoảng mười đến mười bẩy tuổi trong trung tâm Thanh Xuân ở Hà Sơn Bình ngoài Bắc, là nơi giam giữ các trẻ phạm pháp. Đa số bị bắt vì tội ăn cắp, đánh nhau gây thương tích, một ít vì mãi dâm mà chịu những án tù rất nặng tới ba năm, năm hay bẩy năm, nhưng tựu trung lại thì các em cũng chính là nạn nhân của xã hội chủ nghĩa nghèo đói, bần cùng đã dậy cho con người biết lường gạt, biết ăn gian nói dối để sống còn . Và với chủ nghiã vô thần, các em đã bị nhôì sọ chỉ biết đến Đảng mà thôi, không cần cha mẹ hay nhà thờ và chùa chiền.






Nhiều lần tôi đã gập các em xúm nhau vào ì ạch đẩy chiếc xe "cải tiến" nặng nề chất đầy củi hay hoa mầu trên đường về trại. Xe "cải tiến" là loại xe mà trước kia do bò kéo nay được cải tiến lại để cho người kéo - (vậy mà họ lúc nào cũng hãnh diện là ta nay có xe "cải tiến".) Nhìn các em đi chân đất với thân hình gầy gò ốm yếu, xanh xao mà các em còn cực khổ hơn trâu bò, các em phải nai lưng ra lao động mỗi ngày để làm ra của cải cho trại, lòng tôi không khỏi quặn đau.






Trong thời gian ở Hàm Tân, trong ký ức tôi còn nhớ một trường hợp khá lạ lùng về một cô bé bên đội hình sự bị ma dấu.






Khi đó vào một buổi chiều trong lúc nhập trại thì thấy phía cổng bỗng xôn xao và nhiều người chạy lung tung, hoá ra là một đội nữ thiếu mất một người.






Các cán bộ và cán binh túa ra đi lùng sục tìm kiếm khắp nơi chung quanh khu vực lao động và xa hơn nữa ở ngoài trại và phải mất hàng giờ sau mới lôi được về một nữ hình sự rất nhỏ người và nhỏ tuổi, miệng cô ta đầy đất bùn - nghe nói cô ta bị ma nhát và dấu dưới một gốc cây Buông.






Tôi thì chưa thấy trường hợp ma ám nào nhưng phải công nhận là Thổ Thần rất linh thiêng y như lời thầy của tôi đã chỉ dậy lúc trước là núi có chủ và đất sông ngòi cũng có chủ.






Một hôm trên đường về trại cùng đội 20, lúc đi ngang qua một lùm cây, chiếc đồng hồ đeo tay của tôi bị rơi mất từ lúc nào. Tôi cố tìm chung quanh sân cỏ và trong bụi cây vì biết rằng nó chỉ rơi đâu gần đây thôi nhưng không thấy đâu cả, chợt tôi nhớ lời thầy dậy bảo, tôi cầu xin Thổ Thần, xin cho tôi laị chiếc đồng hồ vì tôi rất cần nó.


Vừa cầu xong thì tôi nhìn thấy cái đồng hồ đang treo tòng teng trên một nhánh cây nhỏ ngay trước mắt tôi, chỗ này tôi đã tìm hai ba lần mà có thấy nó đâu, sao bây giờ nó lại hiện ra lạ kỳ như vậy?






Đây là điều chỉ có thể lý giải bằng tâm linh chứ không bằng khoa học được, cũng giống như nhiều lần vị Thổ thần đã báo mộng trong khu buồng giam hay tại khu thăm nuôi cho một số anh có tên thả về và các anh đều tả vị Thần này như là một cụ già thấp nhỏ người, râu tóc bạc phơ và chống cây gậy trúc.






Nói đến thăm nuôi thì phải công nhận rằng không trại nào qua được Hàm Tân Z-30D bốn năm cuối chúng tôi ở đó.


Việc mở cửa cho thăm nuôi, nhất là cho tù chính trị đã đem lại nguồn lợi mới cho trại. Khu này đã được "thiết kế" với những căn nhà tranh xinh xắn, xa khu trại giam và dành cho các gia đình ở lại. Dọc theo đó là con suối và hai hàng cây tỏa bóng mát rất yên tĩnh. Dãy nhà này được xây dựng lên khi chúng tôi vừa vào đến miền Nam.


Nếu chúng ta tạm thời quên đi thực tế là các căn nhà tranh đơn sơ này tuy ở ngoài bốn bức tường trại giam nhưng vẫn còn nằm trên phần đất của Hàm Tân Z-30D., thì chúng giống như là một khu nghỉ mát với vẻ đẹp thật nên thơ và gần với thiên nhiên.






Nhờ có các người vợ tù vào thăm chồng thường xuyên nên chúng tôi biết được nhiều về tình hình bên ngoài, những kiến thức này rất cần thiết và có thể xem như một sự chuẩn bị cho những người tù trở lại xã hội và gia đình. Đặc biệt tin tức liên quan đến chương trình mà chúng tôi đều đang mong đợi là H.O. - một chương trình nhân đạo có thật của chính phủ Mỹ chứ không là tin đồn đãi như khi chúng tôi còn ở miền Bắc.






Việc thăm nuôi đã diễn ra cả chục năm nay rồi nhưng chưa bao giờ lại nhộn nhịp, chưa bao giờ thực sự đem lại nhiều niềm vui và phấn khởi cho người tù như bốn năm này tại Hàm Tân, có lẽ vì ở gần hơn, phương tiện xe đò thuận tiện hơn cho gia đình đến thăm, và vì chế độ thăm nuôi đã mở ngỏ cho tù chính trị chế độ cũ.






Bởi vậy chúng tôi được thăm nom liên tục, các công sức của người vợ tù như con thoi đi thăm chồng nơi chốn lao tù đã không hề uổng phí vì đem lại cho người tù thêm sức khoẻ cả về thể chất lẫn tinh thần và nhìn những người tù cuối cùng này, tôi thấy ai cũng lấy lại phong độ nhanh chóng và sự tinh anh như trở lại trên khuôn mặt của mỗi người.






Về tướng mạo mà nói thì có lẽ nhờ ý chí phấn đấu không mệt mỏi của họ và nhờ vào lòng thương yêu vô bờ bến của những người vợ trung trinh, của các thân nhân trong gia đình, mà đã giúp những người tù này tẩy xóa dần đi được các nét u ám tù tội đã bám vào người mình từ bao nhiêu năm nay, hay vì họ đã trả xong cái nợ của người dân khi mất nước hay họ đã can trường chiến thắng được bao nhiêu là sự trả thù tàn độc của kẻ thù vừa là kẻ chiến thắng tựa như những ngọn roi sắt quất trên thân hình tiêu tụy của họ?






Điều này làm tôi liên tưởng lúc mới mất miền Nam vào đầu tháng Năm năm một chín bẩy lăm, trong lúc chờ đi tù tập trung "cải tạo" tôi đến thăm gia đình một đồng nghiệp tại Sàigòn thì bà Mẹ của cô là người Hoa biết về tướng số nói rằng sắc diện của tôi lúc đó rất là xấu và ám đen trên khuôn mặt.






Điều bà nói ám chỉ việc tôi sẽ vào tù, điều này cũng dễ hiểu thôi vì tôi và hàng mấy trăm ngàn viên chức sĩ quan chế độ cũ đều đang chờ đợi cái viễn ảnh đen tối không tương lai đó, nhưng chính tôi cũng không ngờ là thời gian đã kéo dài lê thê đến hãi hùng như vậy.






Lúc sa chân vào vòng tù tội và khi đích thực hiểu được thế nào là Cộng Sản, thế nào là chủ nghĩa xã hội thì quá trễ rồi và tôi chỉ còn biết nhìn lên Trời cầu xin Ơn Trên cho mình và các bạn tù còn sống sót để có ngày ra khỏi trại giam mà thôi.






Có ra đến khu thăm nuôi của Hàm Tân, có gập mặt các người vợ tù, nói chuyện tâm sự với các chị thì mới nhận chân được phần nào cái cao quí, sự quả cảm và lòng hy sinh đến tột cùng của người vợ dành cho chồng.






Nếu phải tuyên dương các người vợ tù như chúng ta thường tuyên dương các chiến sĩ QLVNCH anh hùng chiến thắng Cộng Sản từ chiến trường trở về thành phố Sàigòn thì tôi nghĩ rằng chúng ta chưa có một huy chương nào xứng đáng và có đủ ý nghĩa để tặng cho những người vợ tù đáng quí này.






Có lẽ trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc Việt Nam, chưa có bao giờ mà vai trò người vợ, người phụ nữ Việt lại phải đối phó hầu như đơn độc trước những thử thách to lớn của cuộc sống như dưới ách cai trị vô nhân tính của chế độ Cộng Sản tại Việt Nam sau tháng Tư năm một chín bẩy lăm tại miền Nam.






Nhìn các bạn tù đã trải qua mười mấy năm trong trại giam tôi cũng phải nể sợ sức bền bỉ chịu đựng của họ, nhưng khi gặp các người vợ tù yếu đuối ở khu thăm nuôi và hiểu được các hoàn cảnh gay go cam khổ và bơ vơ trong một xã hội đầy thù nghịch và kỳ thị mà các chị đã phải sống qua bao nhiêu năm khi người chồng đã vào tù, thì tôi không khỏi thốt lên những lời cảm phục đối với các chị.






Quả thật các người vợ tù đã tạo nên một huyền thoại có một không hai trong lịch sử hiện đại, các chị đã viết lên một trang sử đầy những kỳ tích về sức người, về tình nghiã vợ chồng đã giúp các chị vượt lên trên được mọi gian khổ trầm luân và ngăn cách để đi đến được tới hạnh phúc và đoàn tụ ở tận cuối con đường đầy chông gai đó.


Không phải tất cả tù nhân đều có gia đình mà nhiều người vì còn trẻ hay còn mải mê với những công trận của đời lính mà còn độc thân khi Sàigòn thất thủ. Một điểm nữa có lẽ nhìn thấy ngày về không còn xa cho nên thân nhân của các người tù này đã tìm cách cho họ lập gia đình.






Một câu chuyện tình thật đẹp là của một bạn tù rất thân với tôi dù là anh lớn hơn tôi một con giáp.






Gia đình đã đưa một cô giáo ở Sàigòn quen với các em gái của anh lên trại để thăm anh. Cô giáo vốn đã có nhiều cảm tình với anh trai bạn mình, một người hùng của BĐQ ngày trước, một đại tá hiếm hoi của QLVNCH vẫn còn đơn lẻ, nên tuy trong lòng nhiều e thẹn nhưng cô đã quyết định đi theo gia đình đến Hàm Tân thăm anh.






Cả hai như bị tiếng sét aí tình ngay phút đầu gập gỡ giữa trai anh hùng gái thuyền quyên nên sau đó thì cô giáo thay mặt gia đình lên thăm anh luôn và mồi tình đã có một kết thúc hạnh phúc. Một đám cưới đơn sơ và trang trọng có một không hai đã được tổ chức tại nhà của anh tại Sàigòn. Cô dâu trong áo voan cưới mầu trắng bên cạnh họ hàng hai bên nhưng không có chú rể bởi lẽ lúc đó chú rể còn trong trại giam.






Khi được xem tấm ảnh cưới với một mình cô dâu đứng lễ trước bàn thờ gia tiên trong ngày cưới mà không có chú rể, tôi thật là xúc động nhìn anh vừa vui và vừa buồn cho niềm vui chưa được trọn vẹn của anh.






Khoảng một năm sau thì anh được thả về và đoàn tụ trong hạnh phúc bên cạnh người vợ hiền đã kiên tâm chờ đợi anh sau ngày cưới.






Khu thăm nuôi, các mái nhà tranh, các con đường đất sỏi đá rợp bóng mát bao quanh, con suối lững lờ trôi từ phía trước và chẩy siết ở phía sau khu nhà tranh, chiếc cầu bắc ngang qua khu "căng-tin", những chuyến xe đò Sàigòn-Hàm Tân, đã là chứng nhân cho bao nhiêu câu chuyện về tình nghĩa vợ chồng tuyệt đẹp về những cuộc tình thật nên thơ và đẹp như trong mộng của những người tù cuối cùng.






Đẹp như trong mộng vì lẽ chúng tôi ở tù chẳng bao giờ biết được có một ngày nào đó có một người đẹp thương mến mình mà cất công vào tận khu rừng lá Buông để thăm những người chiến sĩ VNCH năm xưa, những tù nhân cuối cùng - những người đã ở tù mười lăm mười bẩy năm sau khi chiến tranh đã chấm dứt. Sự kiện có một người đẹp từ thành phố đến thăm mình sau mười mấy năm là một hạnh ngộ hoàn toàn bất ngờ và lý thú bởi vì chính các tù nhân này tưởng lầm rằng xã hội bên ngoài đã lãng quên mình.






Những người đẹp ấy là các người vợ tù đi thăm chồng, là những phụ nữ với tấm lòng cao cả như cô giáo, là người con gái một thời để yêu và một thời để nhớ có tên là Phượng đã ghé thăm tôi ngày nào bên dòng suối mơ.






NGƯỜI TÙ CUỐI CÙNG


Tôi có bạn đồng môn
Chu văn An khi trước
Chịu thiệt thòi nhiều hơn
Ngay sau khi mất nước

17 năm ngục tù
Vây kín bởi quân thù
Thân gầy gò ốm yếu
Đời vô vọng âm u

Bao nhiêu là ước vọng
Với tương lai đẹp tươi
Giờ còn chi trông ngóng
Xa vắng nhửng nụ cười

Lưu đầy nam tới bắc
Xa mái ấm vợ con
Lòng quặn đau như thắt
Niềm tin vẫn sắt son

Chính nghĩa vẫn sáng ngời
Trước phục vụ một thời
Dấn thân đầy nhiệt huyết
Miền Nam yêu dấu ơi!

Hồi ký người tù lâu
làm rơi hàng lệ châu
Cảm thông người cùng khổ
Mà thương mến cho nhau

Người tù về cuối cùng
Đời coi như tan nát
Nhưng dòng máu anh hùng
Vẫn ca lên khúc hát

Việt Nam Cộng Hòa ơi!
Quốc Gia vẫn trong tôi
Mong một ngày quang phục
Quê hương lại sáng tươi

Ngày toàn dân mở hội
Trung Nam Bắc hỷ hoan...
Ngày Việt Nam khải hoàn
Cờ vàng bay phất phới...

Thân tặng PGĐẠI
(ngày họp mặt CVA Bắc Cali 12/11/2010)

Phạm hữu Diến


Phần XXIII: Ngày Trở Về (3)










(Lời Tác Giả: Ba phần của "Ngày Trở Về" (XXI, XXII và XXIII) đã được tác giả viết lại với đầy đủ chi tiết hơn so với bài "Ngày Trở Về" của TG đã đăng trên Việt Báo trước kia, nên có một vài chi tiết trùng hợp. Phần XXIII là đoạn kết của chương "Ngày Trở Về" nhưng Hồi Ký còn hai chương nữa mới hết. Sau phần XXIII này TG xin tạm ngưng đăng Hồi Ký trên các DĐ để tập trung hoàn tất cuốn Hồi Ký này.)










Buổi sáng hôm ấy là một buổi sáng mà tôi khó có thể quên được trong cuộc đời của mình.






Một buổi sáng cũng bình thường như mọi buổi sáng trong trại Hàm Tân, nhưng nó đã trở nên khác thường, sáng ngời, đầy ánh bình minh và tràn đầy niềm vui khi chúng tôi từ trong hội trường bước ra và trên tay mỗi người cầm một tờ "Giấy Ra Trại".






Đó là ngày 29 tháng Tư năm một chín chín hai, đánh dấu chấm dứt mười bẩy năm trong trại giam tập trung và những người tù cuối cùng đang chuẩn bị rời trại, rời cuộc sống tăm tối không có ngày mai để trở về với xã hội bên ngoài.






Tôi nhìn tờ giấy ra trại, một miếng giấy chỉ to hơn hai lòng bàn tay một chút hay hai phần ba tờ giấy đánh máy, mầu xám đậm trông mất cảm tình vì còn thua tờ giấy báo gói hàng hoá ngoài chợ. Nếu không phải là tờ giấy trả lại tự do cho chúng tôi thì chắc là tôi ném nó vào thùng rác.


Chúng tôi rảo bước vội về buồng để gom các đồ đạc và vật dụng cá nhân. Còn một hai anh vẫn cứ đứng ngay cửa hội trường, tay cầm tờ giấy nhìn xuống đất như suy nghĩ điều gì hay vì còn đang xúc động và bàng hoàng?


Trong lòng tôi thật nhiều cảm xúc lẫn lộn. Tôi vừa vui vì cái ngày mà mình chờ đợi bấy lâu nay đã tới, đã thành sự thật và vừa suy nghĩ, vừa lo lắng về cuộc sống mới bên ngoài của mình sẽ ra sao. Tôi nhìn qua các bạn mình thì thấy họ như vẫn giữ được sự bình tĩnh, nhưng tôi biết rằng trong tâm trí họ cũng giống như tôi đang có những đợt sóng trào dâng.






Tôi đã từng đứng nhìn có lẽ hàng trăm lần các bạn tù cùng trại được thả về với tờ giấy này trên tay, nhưng tên mình chẳng bao giờ có; tôi đã âm thầm tuyệt vọng với nỗi buồn ray rứt trong tâm hồn khi trở vào buồng giam để tiếp tục nữa kiếp tù đày trên con đường đi mãi không đến đó.






Có ngờ đâu khi mà chúng tôi chờ đợi đã quá lâu rồi, khi mà chúng tôi đã quá chán chường để nghĩ tới niềm hy vọng được thả, khi mà chẳng ai còn thiết tha nghĩ tới...ngày về nữa thì đùng một cái được thả ra như ngày hôm nay, chúng tôi tựa như trên trời rơi xuống.






Từ hội trường về căn phòng tôi đang ở chỉ khoảng hơn trăm mét mà sao tôi thấy nó có vẻ dài hơn mọi ngày. Có lẽ khi cầm tờ giấy ra trại trên tay thì ý nghĩ đầu tiên loé trong đầu tôi là : phải thu dọn thật nhanh đồ đạc của mình để ra khỏi chỗ này sớm giây phút nào tốt giây phút ấy vì chẳng còn cái gì mà lưu luyến thêm . Bên cạnh đó, chúng tôi tuy không nói nhưng ai cũng sợ lần chần mãi lỡ mà họ đổi ý thâu tờ giấy này lại thì khổ.






Bởi có sống dưới chế độ Cộng Sản và có nằm nhiều năm trong trại tù của Cộng Sản thì mới thấy được tận đáy những đau thương gây ra do sự lừa bịp và xảo trá ẩn bên trong những từ ngữ mị dân được đánh bóng của họ.


Nắng đã bắt đầu lên cao chiếu rọi vào căn phòng, chúng tôi vội vã gom các thứ cần thiết cho nhanh để bước ra khỏi căn phòng nơi chúng tôi mới dọn vào ở mấy tháng nay. Có anh còn bỏ quên vài đồ đạc ngoài khu lao động nên không hiểu có xin chạy ra đó hay không. Chắc là hơi mất bình tĩnh chứ vài cái soong nồi lặt vặt thì xá gì mà cất công chạy ra nữa vì nếu trễ giờ họ bỏ lại thì khóc hận.






Riêng tôi khi ra đi mang theo duy nhất một cái ba lô của lính thì nay trở về cũng chỉ đem về cái ba lô thân thương đó mà thôi, nó trông vẫn y hệt như ngày nào tôi xách vào trường Chu Văn An, Chợ Lớn, gối đầu lên nó nằm chờ xe cam nhông chở đi "cải tạo", chỉ có cái khác là ba lô bị thủng một vài chỗ do bị chuột đục và tôi đã vá lại rồi.






Tất cả các đồ hộp và thức ăn dự trữ tôi nhét hết vào một cái thùng sắt tây có nắp, tôi chỉ bỏ phòng hờ vài thức ăn trong ba lô đem theo bên mình thôi, vì kinh nghiệm sống trong trại giam là chỉ khi nào bước chân về đến ngưỡng cửa nhà mình thì mới yên tâm là đã về nhà. Tôi bê thùng sắt tây này lên phòng bốn ông tướng để lại cho các anh, vì hôm đó chỉ mười sáu anh em chúng tôi được thả. Bốn anh tướng còn ở lại , sau đó khoảng năm ngày thì bốn anh mới có giấy ra trại. Lòng dạ của Cộng Sản thật là khó hiểu và tính toán như vậy đó, chỉ còn có hai mươi người cuối cùng trong tù mà họ cũng tách ra làm hai lần, thả cách nhau mấy ngày.






Căn phòng nhỏ hẹp của chúng tôi bỗng huyên náo và nhộn nhịp hẳn lên với mọi người tại giường cá nhân của mình, người thì đang cuốn mùng mền, người thì lo đóng gói các vật dụng lại cho gọn ghẽ để ra về gấp rút giống như cuộc hành quân vậy.






Mấy tay trật tự của trại cũng vào và chia vui với chúng tôi, tôi bước ra bắt tay họ và chúc họ ở lại mạnh khoẻ sớm về với gia đình. Bốn ông tướng từ căn phòng trên tam cấp cũng bước xuống hỏi han chúng tôi tíu tít và chúc ra về vui vẻ. Tôi bỗng dưng thật xúc động nghĩ đến các anh còn ở lại, tôi bắt tay các anh thật lâu và chúc các anh sẽ ra về nay mai.






Anh Di vẫn nụ cười tươi siết chặt tay tôi, anh Giai vẫn dáng gật gù ra chiều đắc ý khi thấy chúng tôi chuẩn bị ra khỏi trại, anh Thân cười hiền hậu vẫy tay chào và anh Đảo đến bắt tay từng người. Dù bốn anh bề ngoài trông bình tĩnh nhưng vẫn có một thoáng buồn trên nét mặt . Chúng tôi càng ở tù lâu với nhau thì càng hiểu nhau và có tình thương gắn bó hơn. Nay chúng tôi ra về mà bốn anh còn ở lại thì tránh sao không khỏi bùi ngùi.






Bên ngoài thì trại đang thúc dục chúng tôi ra đón xe đò về Sàigòn. Tôi vẫy tay chào bốn anh lần chót rồi vác ba lô lên vai cùng với các bạn ra tập trung phía cổng trại. Tôi nhìn lại căn phòng lần nữa để kiểm soát xem có còn bỏ sót lại gì không nhưng căn phòng đã trống trơn và chỉ còn bao bì giấy má vứt lung tung trên đất.






Nhìn chung quanh thật không ngờ là tôi đã sống bốn năm ở đây từ năm một chín tám tám, lúc còn hơn một trăm năm mươi người đến hai mươi người và bây giờ tụi tôi đang rời trại chỉ còn bốn ông tướng trên căn phòng tam cấp.






Thời gian trong tù nhiều lúc thật là chậm y như trái đất không còn quay nữa nhưng bây giờ thì thật nhanh và cái cổng trại đang ở trước mặt chúng tôi.






Mới ngày nào mười sáu năm trước đang ngủ trong buồng giam của trại Cải Huấn Thủ Đức, chúng tôi bị đánh thức dậy khi trời chưa sáng để gấp rút rời trại di chuyển ra Bắc bắt đầu cuộc sống lưu đầy; bây giờ mười sáu năm sau, chúng tôi cũng mau chóng quải hành lý để rời trại nhưng với trạng thái hân hoan thơ thới của những người vừa được trả tự do.






Vĩnh biệt những cuốc với xẻng, vĩnh biệt những năm tháng tù tội lao động khổ sai, vĩnh biệt luôn cái địa ngục trần gian kinh hoàng đã giam hãm và đầy ải những người tù suốt mười bẩy năm qua.






Chúng tôi vừa tập họp xong thì được lệnh xuất trại vì thủ tục khám xét rất nhanh chóng và chỉ làm cho có lệ.






Một lúc sau thì chúng tôi đã leo lên xe đò và cái cổng trại bằng sắt của Hàm Tân Z-30D đã nặng nề khép lại đàng sau lưng. Tôi muốn nhìn nó lần cuối nhưng người tù có một cái tin dị đoan là ngày có giấy thả về và bước chân ra khỏi cổng trại giam rồi thì không bao giờ nên ngoái lại.


Cánh cửa tù đã đóng, đóng lại cả một quãng đời đen tối trong đó hàng ngàn người tù đã lần lượt ngã xuống: bị xử bắn, bị tra tấn, bị kiên giam, bị bỏ đói, bị bệnh tật hành hạ thân xác cho đến chết; và những người còn lại thì vẫn tiến về phiá trước như những bóng ma bên cạnh cuộc đời.






Hôm nay là một ngày đặc biệt trong đời, tôi có cái cảm giác lâng lâng như thể mình đang sống trong mơ chứ đây không phải là thực tế nếu không có những cái sóc của xe lăn bánh trên con đường toàn đá sỏi đôi lúc làm nẩy người tôi lên. Cũng con đường này bốn năm trước chúng tôi đi ngược chiều từ ngoài lộ vào đây và bước vào trại với bao ưu tư trong đầu về cái trại giam mới này.






Tôi nhớ lời thầy tôi nói trước khi hai thầy trò chia tay nhau để thầy trở về ngôi chùa thân yêu Thới Hòa ở Sàigòn và tôi thì ở lại, lúc mà tất cả các vị Tuyên Úy của các tôn giáo đều được thả về vào tháng Chín một chín tám bẩy tại trại Ba Sao Nam Hà tỉnh Hà Nam Ninh: "Sau này mỗi khi nghĩ lại, con sẽ thấy như là một cơn ác mộng".






Quả thực mười bẩy năm là một cơn ác mộng dài đầy hãi hùng và chúng tôi cũng không ai nghĩ rằng mình còn sống sót được sau bao nhiêu năm thiên nan vạn nan ấy.


Bây giờ tôi đây đang là những người cuối cùng ra khỏi trại giam và đó là sự thật.






Tôi ngồi gần cửa sổ, cái ba lô dưới chân, nhìn những hàng cây hai bên đường từ từ lui về sau. Tôi sờ khung cửa sổ và cái thành ghế ngồi rồi nhìn các hành khách khác trên xe để biết chắc rằng đây không phải là giấc mơ.






Chúng tôi đang rời xa dần trại giam Hàm Tân, xa dần khu rừng lá Buông nhiều kỷ niệm, hướng ra Quốc Lộ để xuôi nam về thành phố. Nhiều hành khách trong đó có các cụ già, các chị buôn thúng bán bưng, các em nhỏ, cứ tròn xoe mắt nhìn chúng tôi vì họ không tin là mười bẩy năm sau khi hết chiến tranh mà tù chính trị chế độ cũ vẫn còn bị giam giữ trong trại tù.






Những hành khách trên xe đều tỏ thiện cảm với những người tù vừa được trả tự do, mỗi người hỏi một câu tạo thành một không khí thật là ấm cúng như trong đại gia đình vậy, có các cô bác còn cho chúng tôi trái cam trái quít hay chiếc bánh lá. Nhìn chiếc bánh lá lòng tôi lại chợt nhớ đến cô bé tại ga Diêu Trì ngày nào trên chuyến tầu chúng tôi xuôi về Nam đã biếu không cho chúng tôi nguyên thúng bánh lá của cô rồi quầy quả chạy xuống toa tầu mất hút vào đám đông.






Làm sao tìm gập lại được người con gái bé nhỏ có tấm lòng vàng ấy để cám ơn?






Các chị buôn bán ngồi trên xe đò nghe nói chúng tôi là người chế độ cũ thì tin tưởng hơn và kể ra nhiều câu chuyện khó khăn và đau thương ngoài xã hội lúc đó cũng muôn vàn gian truân sau khi chúng tôi vừa vào tù:






- "Các anh biết không lúc đó khổ lắm, dân cũng không có cơm mà ăn, toàn là bo bo không à, riết rồi chịu hổng nổi mới kéo nhau ra biển vượt biên đó."






- "Nào là nó đổi tiền rồi nó đánh tư sản, đi kinh tế mới, ôi thôi người dân nào cũng mất hết tài sản. Cái mạng mình còn sống là may phước lắm rồi."






Có chị còn rành về thời sự:






- "Nhưng thôi nói chi nhiều, mấy ổng về Sàigòn rồi thì cũng chuẩn bị đi nước ngoài với gia đình chứ còn ở đây nữa đâu."






Tôi chỉ nhìn các chị cười thông cảm tuy không nói gì nhưng trong lòng vui vui vì đây là lần đầu tiên sau mười bẩy năm tôi có dịp ngồi nói chuyện trực tiếp với người dân và nhận thấy rằng họ vẫn còn mang trong lòng một ấn tượng đẹp đẽ về chế độ cũ VNCH và sau nhiều năm sống dưới sự kìm kẹp áp bức và bần cùng hoá của chế độ mới người dân đã quá lầm than nên nhận chân được bộ mặt thực bịp bợm của cái gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa.






Khi người dân đã nhận ra được sự thực thì không còn ai tin nữa và chế độ Cộng Sản này coi như đã bị cứa đứt ngay tại gốc rễ rồi.



Ngồi trên xe đò mà hồn tôi như để tận đâu đâu trong khi xe đang lăn bánh trên quốc lộ. Tôi cũng chẳng hiểu vì sao mình ốm yếu như thế mà còn sống sót được? Nhìn hàng cây bên đường, những ngôi nhà, những vườn tược đang chạy lùi lại phía sau, mắt tôi mờ dần trở về với ký ức không bao giờ quên được cái cảm giác lạnh trong xương sống lúc một giờ sáng một ngày tại trại cô nhi Long Thành mười sáu năm trước. Những khuôn mặt lạnh lùng chĩa các họng súng AK, CKC vào chúng tôi khi gạn lọc ra những thành phần "nguy hiểm cho chế độ" phải tức khắc di chuyển một cách âm thầm trong đêm tối ra Bắc.






Rồi ba ngày sau đó, cái cảm giác hãi hùng bơ vơ và tuyệt vọng khi biết mình đã bước chân xuống phi trường Gia Lâm, Hà Nội của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, khi biết mình đã bị tách khỏi miền Nam thân yêu bắt đâu cuộc sống lưu đầy nơi rừng thiêng nước độc. Lúc đó, chúng tôi không khác gì những con cá đang nằm trên thớt chờ đợi cơn thịnh nộ của tên đao phủ.






Một tay cán bộ của Bộ Nội Vụ ra đón chúng tôi tại sân bay và nói huyênh hoang rằng các anh sẽ được ở nhà ngói có điện và có "điều kiện để cải tạo tốt" mau sum họp với gia đình. Họ đang đưa chúng tôi vào cõi chết trong những nhà giam tồi tàn nhất thế giới của một nước cũng nghèo nàn và lạc hậu nhất trên thế giới mà vẫn nói được những lời giáo điều dối trá như vậy.






Thực tế là chúng tôi được chở về giam ở những buồng không có điện. Ban đêm tối như hũ nút ngửa bàn tay ra cũng không thấy vì tuy có điện nhưng họ cúp các buồng giam tù chính trị, và họ cũng không cấp cho một ngọn đèn dầu nào.






Họ tạo điều kiện cho chúng tôi "cải tạo" tốt bằng cách cho ăn cầm hơi nhưng lao động quá sức người để từ từ mà kiệt lực.






Người tù phải khiêng những tảng đá to nhỏ đủ cỡ, do bên hình sự bắn ra từ trong núi, trên đôi vai gầy mòn mỏi dần đi theo tháng ngày, để tiến hành việc xây dựng và mở rộng trại giam đón thêm nhiều tù mới.






Người tù áo rách tả tơi vì mồ hôi và khiêng đất đá, còn hai tay và hai chân thì rã rời sau mỗi ngày lao động, cho nên sau vài năm khổ sai như vậy với tình trạng thiếu ăn thiếu mặc, bệnh dịch lây lan không có thuốc men, sức khoẻ thì suy nhược, chúng tôi cũng không biết lúc nào Thần Chết sẽ đến rước mình đi.






Mùa Đông thì rất lạnh và rét mướt, phải nói là quá lạnh đối với những người tù thiếu ăn uống, không quần áo ấm, mỗi người chỉ được cấp một cái mền đỏ của Tầu. Có anh quấn trong người từ trong ra ngoài là mười tám lớp toàn là giấy báo mà đêm đến lạnh quá không nằm xuống được nên ngủ ngồi dựa vào tường trong thế co ro mà vẫn run bần bật.






Bởi thế bi thuốc lào hay điếu thuốc lá là thứ không thể thiếu được trong đời sống người tù nhất là trong thời tiết băng giá. Tôi chẳng biết điếu cầy là cái gì mà cũng phải tập hút để chống lạnh, riết rồi quen, quen rồi khó bỏ nó đúng như các cụ nói: "đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên".






Nhưng cái khó khăn là lấy đâu ra lửa để mà hút thuốc? Cho nên cái khó nẩy ra cái khôn và không biết ai là người nghĩ cách chẻ một que diêm ra làm bốn với một lưỡi lam mài thật sắc.






Người tù phải hết sức tập trung khi một tay cầm lưỡi lam, tay kia cầm que diêm thật vững thì mới chẻ được nó ra làm hai rồi từ hai thành bốn mà que diêm không bị gẫy và diêm sinh chẻ ra làm bốn vẫn ngay ngắn, không bị vỡ vụn ra.






Nhờ đó mà kéo dài được mấy hộp diêm quẹt đem từ trong Nam ra. Mỗi lần sắp sửa đánh một que diêm thì hô cho cả buồng chuẩn bị "nạp đạn"- nghĩa là sẵn sàng nạp bi thuốc lào vào các điếu cầy để cả buồng châm lửa cùng hút một lúc.






Bữa ăn mà trại phát cho thì chỉ tạm dằn cơn đói xuống chứ lưng bát cơm hay cái bánh bột hấp, lưng chén bo bo vào bao tử chẳng thấy nó đâu, bởi vậy bi thuốc lào hay điếu thuốc lá là người bạn an ủi nhất cho người tù sau mỗi bữa ăn.






Mỗi tháng trại cấp cho ba đồng tiêu vặt thì ngoài kem đánh răng ra là để dành mua thuốc lá thuốc lào loại sản xuất nội địa như "Sa-Pa" hay "Tam Đảo" vì căng-tin trại cũng chẳng có gì để mua nữa.






Những mặt hàng nhu yếu phẩm đều khan hiếm và lẽ dĩ nhiên không bao giờ đến tay người tù.






Chỉ khi nào có phái đoàn ngoại quốc đến thăm thì trại mới dàn cảnh rất khôi hài là đặt trên mỗi gối của tù nhân một hộp sữa đặc trong lúc họ đang đi lao động bên ngoài xa trại và sau khi phái đoàn ra khỏi cổng thì trại họ thu các hộp sữa đó lại.






Trong các sự thiếu thốn lúc ban đầu phải kể đến hạt muối. Vì trại cấm lưu trữ muối sợ tù dùng muối để bẻ song sắt buồng giam trốn trại, nên ngoài bát lưng cơm hay khoai sắn ngày hai bữa là một ít nước muối loãng rưới lên cơm để ăn vậy thôi. Sau này họ cũng bỏ luôn không cho nước muối loãng nữa.






Có anh nói với tôi rằng khi nào ở tù ăn hạt muối mà ngọt như hạt đường thì mới là đã ở tù.






Quả là như vậy, từ trong Nam ra Bắc tôi còn trữ được muối vào hai ống Aspirine nhỏ xíu và không ngờ sau đó nó quí như vàng. Mỗi khi ăn cơm tôi gọi vài bạn thân đến và rắc cho mỗi người tí ti muối trên cơm là hạnh phúc rồi.


Lúc ấy, nhấm hạt muối không còn thấy nó mặn nữa mà lạ lùng một điều là nó lại trở nên đậm đà và hơi ngòn ngọt.


Một kỷ niệm khó quên nữa trong tôi là : đội lao động của tù chính trị tên là đội 20.






Đội 20 khi tôi chuyển trại về Nam Hà năm một chín tám ba và đội cũng tên 20 khi chúng tôi vào Hàm Tân năm năm sau đó.






Khi về Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh, chúng tôi được biết rằng đội 20, gồm nhiều anh em trẻ thuộc thành phần Phục Quốc bị bắt sau tháng Tư 1975, đã anh dũng đứng lên biểu tình chống lại chế độ hà khắc của trại giam và sau đó các anh em này đã bị trả thù tàn bạo trong khu kiên giam.






Cũng đội 20 mà tôi đã sống qua hơn ba năm trời tại Hàm Tân, miền Nam, chúng tôi đã đồng loạt biểu tình dưới hình thức bất bạo động chống lại lao động khổ sai, nhưng may mắn nhờ Ơn Trên chúng tôi đã thắng.






Tên đội 20 như đã đi vào lịch sử và mang theo nhiều kỷ niệm đau thương lẫn tự hào với hình ảnh các người tù chính trị đã hiên ngang và công khai, tay không đứng lên chống lại cái chế độ bạo quyền của hệ thống trại giam Cộng Sản.






Tôi đang miên man theo dòng tư tưởng lùi về dĩ vãng, một dĩ vãng đầy thương đau và tủi nhục, thì tiếng động lao xao trên xe đò đưa tôi về thực tại.






Tôi rùng mình một cái ra khỏi cơn ác mộng, hoá ra mình vừa hồi tưởng lại những năm trước còn trong tù, bây giờ tôi ngồi đây và chỉ hơn tiếng đồng hồ nữa là về đến thành phố, tôi như con chim đã xổ lồng đang tập vỗ đôi cánh để sắp bay đi thật xa đến chân trời mơ ước.






Tiếng người nói lao xao vì xe đò bỗng chết máy phải dừng lại với tiếng vừa càu nhàu vừa diễu của tài xế:






-"Tại các ông ấy ở tù lâu quá nên làm cho xe đò của tui bị "pan" chứ xe nầy ngon lắm có bao giờ ngừng ẩu như vậy đâu. Chắc tại học bài không thuộc chứ gì nên mới đi học tập lâu dữ dzậy."






Bình thường thì tôi rất không ưa ai dùng chữ "học tập" hay "cải tạo" để chỉ cái lao động khổ sai trong tù tập trung của Cộng Sản nhưng tôi chỉ cười không nói gì vì biết sau mười mấy năm người dân đã quen với các từ ngữ tuyên truyền của Cộng Sản rồi, nay bảo họ sửa lại cũng không phải là dễ.






Riêng chúng tôi thì tuyệt đối không dùng các từ ngữ lừa bịp đó của họ.






Sau khi khoảng mười lăm phút kiểm soát lại máy lóc dầu nhớt, máy xe nổ trở lại và bác tài xế cười rất tươi nhe ra mấy cái răng vàng, ông ta ngoái đầu lại nhìn chúng tôi nheo mắt một cái rồi lái xe trực chỉ Sàigòn.






Đúng là tuýp người miền Nam chân thật và hiền hoà.


Hai tiếng Sàigòn làm tim tôi đập nhanh hơn bởi vì trong suốt mười bẩy năm xa Sàigòn, xa miền Nam, trong lòng tôi lúc nào cũng nhớ không bao giờ quên được những kỷ niệm thật êm đềm và những năm tháng tôi lớn lên và trưởng thành ở thành phố thân yêu này. Vì mất miền Nam mà tôi phải xa thành phố ấy mười bẩy năm qua nhưng giờ đây tôi đang trên chuyến xe đò này xuôi về thành phố và cái gì tôi cũng thấy lạ, từ phong cảnh dọc theo Quốc Lộ, đến nhà cửa, phố xá bên đường. Chắc là về đến Sàigòn thì tôi sẽ lạc đường vì đường xá đều đã đổi tên và ngay cả tên thành phố "Sàigòn" cũng không còn nữa.






Nói đến hai chữ Sàigòn thì khi chúng tôi lần đầu tiên ở ngoài Bắc khoảng đầu năm một chín bẩy chín được viết thư về gia đình để xin tiếp tế, nhiều anh đã suýt nữa không được gửi thư vì anh nhất định đề tên thành phố nơi đến là Sàigòn, không chịu viết là thành phố HCM. Sau cùng anh em bảo nhau là "chấp kinh thì phải tòng quyền" và sức khoẻ của mình là trên hết, không nên chấp những tiểu tiết, nhất là việc liên lạc với gia đình sau bốn năm biệt tin là điều quan trọng, thì anh mới chịu viết tên thành phố HCM vào mà trên gương mặt còn đỏ lên vì tức giận.






Về đến Sàigòn thì tôi sẽ làm gì trước? Chắc là tôi phải nhờ người chạy xuống Phú Lâm báo cho hai con tôi biết.


Hai con tôi chắc mừng lắm nghe tin Bố nó đã về, dầu sao tôi cũng còn may mắn vì cả hai cháu đều hiếu thảo và đều thương tôi và hơn một năm gần đây khi toàn bộ Mẹ và các em tôi đã qua Mỹ thì hai cháu vẫn thường cắp giỏ vào thăm tôi trong tù. Ngoài ra cả hai cháu đều được nhiều bạn tôi rất là thương mến. Có nhiều anh còn muốn làm thông gia với tôi vì con gái tôi vừa đẹp người vừa đẹp nết và cậu con trai cũng bảnh nữa.






Một kỷ niệm khó quên là lúc con gái tôi tên Trâm mới lên mười ba ra Bắc thăm tôi cùng mẹ cháu, tôi đã ngầm liên lạc được với hai mẹ con và dặn cháu ngày mai qua bên đội đem các thư "chui" về dùm cho các bác. Hôm sau cháu mặc một váy đầm xoè rất đẹp dài gần đến cổ chân, mau mắn chạy qua chỗ lao động của đội gạch và thâu hết các thư từ mà bạn bè trong đội muốn gửi về gia đình. Lúc cháu nhét thư vào đầy hai túi quần rồi cột một mớ nữa vào hai chân xong vội chạy về khu thăm nuôi thì đã có vài cậu trước kia là Thiếu Úy còn độc thân đã nửa đùa nửa thật gọi tôi bằng Bố làm bỗng dưng tôi thấy mình già.






Việc thứ hai là tôi sẽ đánh điện thư ngay qua Mỹ cho Mẹ và các em tôi mừng. Tất cả công lao của toàn thể gia đình bao gồm cả vợ chồng anh ba và vợ chồng cô bẩy ở bên Mỹ đã gửi tiền cùng quà về VN và nhất là Mẹ tôi luôn nắm giữ cán cân suốt mười bốn năm qua trong việc thăm nuôi tôi đã đơm hoa kết trái với ngày tôi trở về còn tương đối mạnh khoẻ.






Nói đến ngày trở về làm tôi liên tưởng tới tác phẩm :"Khi Người Tù Trở Về" của đại văn hào Pháp Andre Malreau.


Câu chuyện về một nhóm tù binh Pháp được trả tự do sau Thế Chiến, khi quân Đức bại trận.






Trên chuyến xe lửa trở về quê hương, một viên sĩ quan trẻ khoe với các bạn anh về người vợ tuyệt vời của mình và anh ta sẽ làm gì trong giây phút đầu tiên được đoàn tụ trong niềm mơ ước, anh phác thảo một viễn ảnh sum họp thật hạnh phúc của vợ chồng anh dưới mái ấm gia đình như ngày xưa. Tuy nói vậy nhưng trong lòng anh lại tương phản với ý nghĩ rằng không biết vợ mình có còn chờ đợi mình hay không?






Khi anh về đến ngôi nhà cũ, anh không vào thẳng nhà mà đi vòng chung quanh để quan sát bữa cơm chiều xem vợ mình có sống với ai không. Núp sau bụi cây sau nhà, anh thấy người vợ gầy ốm hơn xưa nhưng đang rất tươi vui lăng xăng bầy biện hai phần ăn, hai chiếc muỗng, hai chiếc nĩa thì anh lầm tưởng rằng vợ mình đang sống với người khác nên hai giòng nước mắt anh tuôn ra và anh lủi thủi đi mất.






Trong khi ấy người vợ được tin chồng mình sẽ trở về nên đã nấu ngay món súp đặc biệt cho chồng nhưng chờ mãi mà không bao giờ thấy người chồng trở về nữa.






Hoàn cảnh của tôi thì khác nên tôi không thể trở về mái nhà xưa trong Phú Lâm, Quận Sáu mà tôi sẽ về tạm thời ở chung với gia đình anh Minh là ông anh thứ hai của tôi trên đường Trương Minh Ký, bây giờ chả biết là tên đường gì nữa, nhưng tôi cũng chẳng quan tâm vì mục tiêu trước mắt của tôi là tiến hành thật nhanh thủ tục nộp đơn ra đi theo chương trình H.O. vì an ninh cho bản thân mình và vì tương lai cho hai đứa con.






Tôi tự biết rằng những người tù cuối cùng như chúng tôi sở dĩ có được ngày trở về là do sự can thiệp mạnh mẽ của các cá nhân, các hội đoàn Việt-Mỹ, của chính phủ Mỹ và trên thế giới nữa đã tranh đấu liên tục không mỏi mệt cho tù chính trị bao nhiêu năm trời, tranh đấu cho đến khi Hà Nội phải lui bước và phải thả hết các tù nhân ở ngoài Bắc sau đó là thả hết các tù trong Nam.






Sự bền gan tranh đấu ấy là một nghĩa cử thật cao quí mà suốt đời tôi không bao giờ quên.






Điều này một lần nữa khẳng định rằng nếu chúng ta tích cực và bền bỉ tranh đấu chống Cộng Sản đúng lúc thì Cộng Sản sẽ buộc phải lui.






Biểu tượng của các hội đoàn tranh đấu mạnh nhất là hội gia đình các tù nhân chính trị của bà Khúc Minh Thơ.


Một ân nhân mà tôi luôn ghi nhớ trong lòng là Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan, vị Tổng Thống anh hùng không những đã cứu chúng tôi ra khỏi tù mà còn đẩy lùi sự bành trướng của Cộng Sản trên thế giới, đưa nó đến chỗ diệt vong ở Nga va các nước Đông Âu.






Tôi nhìn qua các bạn ngồi trên xe đò, thấy những nét vui mừng hân hoan xen lẫn chút tư lự hiện trên những khuôn mặt của những người đang hít thở bầu không khí tự do lần đầu tiên sau bao nhiêu năm bị cầm tù. Tối nay sẽ là một ngày trọng đại của vợ con họ - ngày trở về của người tù cuối cùng - ngày gia đình thực sự đoàn tụ với một tương lai đầy hứa hẹn.






Một anh bạn ngồi bên tôi hỏi tôi còn thuốc lá hay không, tôi lục trong ba lô còn nguyên gói Kent bèn đưa hết cho anh vì sau một trận ốm nặng tưởng không gượng dậy nổi ở ngoài Bắc, tôi đã quyết định không bao giờ sờ đến điếu thuốc nữa.






Gia đình biết tôi đã bỏ hút thuốc nhưng vẫn gửi vào vài gói cho tôi để xã giao.






Chiếc xe đò vẫn lăn bánh bon bon trên đường nhựa mà sao tôi thấy như nó chạy quá chậm có lẽ vì tôi quá nôn nóng chăng, nhưng rốt cuộc thì chúng tôi cũng vào đến thành phố.






Quang cảnh thật nhiều thay đổi nhất là nhìn đâu cũng chỉ thấy xe đạp, xe gắn máy thì ít thôi và tuy tiềm năng giầu có của miền Nam đã giúp cho cuộc sống người dân đỡ phần cơ cực nhưng tựu trung vẫn còn nghèo rất nhiều so với miền Nam trước năm một chín bẩy lăm.






Phố xá quán hàng, cửa hiệu, chợ búa dần hiện ra trước mắt, tôi như một người từ cõi chết trở về, nhìn cái gì cũng lạ lùng và có cảm giác lạc lõng tựa như mình không phải là người thuộc về cái xã hội này.



Chiếc xe đò phải ngừng tại bến, không thể chở chúng tôi về từng căn nhà được. Tôi xách ba lô xuống xe, các bạn tôi cũng xuống tụ tập một chỗ bên đường. Chúng tôi nhìn nhau lần cuối, siết tay nhau xong rồi mỗi đứa đi một ngả vội vã tìm đường trở về với gia đình.






Suốt mười mấy năm sống bên nhau, no đói có nhau, bệnh hoạn có nhau, mồ hôi cùng đổ


xuống lên bao cánh đồng, bao khu rừng, bao nương rẫy suốt chiều dài của đất nước, từng chia sẻ vui buồn cùng nhau, cùng vượt qua bao gian nguy của đời người tù khổ sai trên bước đường lưu đầy, tất cả đã hình thành trong chúng tôi một thứ tình cảm gắn bó mật thiết mang tính thiêng liêng và nhân bản của những người đồng cảnh ngộ.



Thế rồi, ngày hôm nay chúng tôi như những con chim được xổ lồng bay đi khắp nơi và không còn bên nhau nữa đã cho tôi cảm giác mất mát một cái gì thật quý giá về tinh thần về tình bạn.Tôi nghe mắt mình cay cay khi nhìn các bạn mình dần khuất trên các ngả đường, thôi đành chia tay các bạn nhé rồi hy vọng chúng ta sẽ gập lại nhau nơi phương trời xa xăm kia trong bầu không khí Tự Do.



Tôi vội xua đi nhiều ý tưởng hiện lên trong đầu vì việc cần lúc này là tìm phương tiện về nhà trước đã.



Tôi vẫy một chiếc xe Honda ôm, giở trang giấy viết tay trong cuốn sổ nhỏ ghi địa chỉ của ông anh hai tôi rồi đưa cho anh lái xe xem, xong leo lên ngồi đàng sau, ba lô khoác trên vai.



Tôi bỏ cuốn sổ vào túi quần, đó là một cuốn sổ nhỏ ghi lại địa chỉ của một số bạn thân trong tù mà tôi hứa là sẽ đến thăm gia đình họ khi có thì giờ thuận tiện. Trong cuốn sổ ấy cũng có ghi địa chỉ của một người con gái ở tận bên Quận Tám đã một thời làm trái tim tôi rung động và nhung nhớ.






Từ sáng đến giờ bao nhiêu là biến chuyển đã làm thay đổi cuộc đời tôi từ một người tù "không có bản án" trở thành một người tự do đang trở về với xã hội bên ngoài nên tôi không nghĩ đến Phượng. Nhưng khi tìm điạ chỉ nhà người anh thì mắt tôi vô tình lướt qua đường nhà Phượng và hình ảnh của Phượng bỗng hiện lên rõ nét trong trí nhớ của tôi, hình bóng ấy như thật gần mà lung linh như hư ảo.






Đã hai năm rồi cuộc tình ấy tưởng đã chìm vào quên lãng, hai năm rồi tôi không nhận được một hồi âm nào của Phượng và tôi vẫn sống như một chiếc bóng suốt thời gian đó, ôm ấp một chuyện tình dang dở.



Tôi biết nàng buồn lắm và tự ái nữa nhưng tôi nào có vui gì.






Bây giờ Phượng còn ở nơi đó nữa không, nàng còn chờ tôi hay đã bước thêm bước nữa?






Nếu nàng đã đi lấy chồng thì tôi không hề phiền trách gì vì đã hai năm trường chúng tôi không còn liên lạc với nhau và nàng cũng cần một nơi nương tựa. Chỉ cầu xin cho nàng một bến đỗ bình an và hạnh phúc.






Tôi để tay lên đùi chỗ cuốn sổ nằm trong túi quần và tự nhủ rằng thế nào tôi cũng phải đến thăm nàng.






Phượng ơi! Hôm nay anh đã là người tự do không còn trong bốn bức tường của trại giam.






Tiếc rằng không có mặt em ngay bây giờ để chia sẻ niềm vui với anh.



Phượng thương yêu của anh,






Thế nào anh cũng đến thăm em để nói cho em biết rằng anh chân thành cám ơn tấm lòng tốt của em: Em đã vào tận trong tù thăm anh.



Em biết không em,



Em đã đem đến cho anh những yêu thương ngọt ngào để con tim anh bừng sống lại khi nó đang khô héo trong sầu úa.



Em đã mang tình em vỗ về đời anh khi anh bị đầy ải nơi suối rừng cô liêu hoang dã không có tình người.



Em đã cho anh những giây phút thật êm đềm, thật hạnh phúc khi anh đang ở nơi chỉ có đau thương và khổ nhục.


Và anh cũng muốn nói với em rằng... anh vẫn còn nhớ em, anh vẫn rất nhớ em như ngày nào mình còn bên nhau, trong khu rừng lá Buông,



trên chiếc ghế đá công viên trước mái nhà tranh, ngồi bên nhau em nép vào vai anh và nói những lời an ủi làm ấm áp tâm hồn băng giá của anh, mình tay trong tay không rời.






Anh vẫn còn nhớ tiếng nói và giọng cười hồn nhiên của em, và mỗi khi ra căng-tin đón xe đò về em thường ngoái đầu lại nhìn anh nói thật dịu dàng và âu yếm:



- ”Em sẽ lên thăm anh nhưng chưa biết ngày nào, anh đừng mong tội nghiệp”.



Anh muốn nói với em rằng anh còn thương yêu em, thương em rất nhiều dù cho kỷ niệm của chúng mình đã phần nào phai nhòa theo năm tháng.






(Hết Chương NGÀY TRỞ VỀ)






1 2 3 4 5 6 7



















No comments: