KÝ SỰ TRONG TÙ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA - KỲ 7
12345678
CHƯƠNG 8 RA KHỎI TRẠI TẬP TRUNG
Ánh sáng ngoài đường hầm.
Từ lúc ở trại tập trung Yên Bái, cứ vài ba ngày thì bộ chỉ huy trại cho mượn vài tờ báo Nhân Dân để đọc, và các bạn trong lán giao tôi trách nhiệm điểm và đọc báo cho anh em trong lán nghe sau cơm chiều. Khi chuyển đến trại tập trung Nam Hà này, các bạn trong buồng giam số 1 cũng giao tôi trách nhiệm điểm và đọc báo. Hằng tuần có được ba hay bốn ngày có báo, mỗi lần có ba bốn số báo thì anh Nguyễn Hữu Vị với anh Bửu Uy cùng đọc với tôi sau khi cửa buồng giam đóng lại. Khi điểm bài báo nên đọc, tôi đánh số thứ tự để luân phiên giữa ba anh em chúng tôi lần lượt đọc.
Hôm ấy là ngày 5 tháng 8 năm 1987, trên tờ Nhân Dân của đảng cộng sản Việt Nam có mẫu tin mà sau khi đọc xong chúng tôi phải ngưng lại vì các bạn bàn luận rất sống động. Mẫu tin có nội dung thế này:
“Ngày 2 và 3 tháng 8 năm 1987, Tướng hồi hưu Vessey, với tư cách Đặc Sứ của Tổng Thống Hoa Kỳ sang Việt Nam, gặp Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch. Hai bên thỏa thuận đầu tiên về hợp tác đẩy mạnh công cuộc tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam, và vấn đề trả tự do cho những người học tập cải tạo để cùng gia đình được xuất ngoại sang Hoa Kỳ theo nguyện vọng”..
Đại để mẫu tin chỉ có thế, nhưng quá đủ để anh em chúng tôi bàn luận đến nửa đêm mới dừng lại để ngủ. Cho dẫu mức độ lạc quan như thế nào đi nữa, rõ ràng là hình ảnh những đoàn tù chính trị ra khỏi nhà tù có cơ đang thành tựu. Tôi nói “có cơ thành tựu” vì tuần vừa qua, có một toán Công An nghe nói thuộc cơ quan A16 từ Bộ Công An đến trại này và đang công tác ở đây. Toán này đã gọi một số bạn ra ngoài trại “làm việc”, tức là hỏi mỗi người chúng tôi một số vấn đề theo nhu cầu của họ. Những năm trước đây đã có những lần Công An từ Hà Nội đến đây gọi “làm việc”, nhưng lần này đang trong thời gian gọi “làm việc” cùng lúc có bài báo nói trên nên anh em chúng tôi có lòng tin “cơ hựu thành tựu”. Hôm qua, họ cũng gọi tôi, và nội dung “làm việc” như thế này:
“Chào anh. Anh có phải là Phạm Bá Hoa không?”
“Đúng, tôi là Phạm Bá Hoa”.
“Anh mạnh khỏe chứ?”
“Cám ơn cán bộ, tôi vẫn khỏe”.
“Tôi hỏi anh: Nếu như nhà nước cho anh về, anh có đi nước ngoài không?”
“Tôi đi nếu nhà nước cho phép, vì tất cả các con tôi đều ở Mỹ”.
“Nếu anh đoàn tụ với các con anh ở Mỹ, anh có chống lại nhà nước Việt Nam không?”
“Khi tôi ở ngoại quốc làm sao chống lại nhà nước được cán bộ”.
“Anh có cam kết là anh không chống lại nhà nước Việt Nam không?”
“Tôi cam kết”.
“Được. Anh mang tờ giấy này vào trại viết tóm tắt lý lịch của anh, tóm tắt hoạt động của anh, và cuối cùng là anh cam kết không tham gia các tổ chức chính trị chống lại nhà nước Việt Nam. Chiều mai đưa lại tôi”.
“Cán bộ vào lấy hay tôi ra đây đưa cán bộ?”
“Sẽ có cán bộ vào trại nhận”.
Tôi nghĩ, chính trị vẫn là chính trị, mà chính trị thì không như khoa học hay toán học, 1 với 1 là 2. Với chính trị, 1 với 1 có thể là 1, cũng có 1 thể là 1 rưởi, cũng có thể là 2. Tại Việt Nam tôi cam kết là một việc, còn làm việc gì khi tôi ở Hoa Kỳ là việc khác. Với lại họ bảo tôi cam kết không tham gia các tổ chức chính trị chớ đâu có cam kết không tham gia các tổ chức khác.
Toán Công An đó gọi khoảng 200 anh em tù chính trị chúng tôi ra làm việc, tức khoảng một nửa tù chính trị tại trại Nam Hà A.
Đến trước ngày cuối tháng 08/1987, họ gọi tôi ra hỏi:
“Anh có xác định là anh không vượt biên chứ?”
“Có”.
Chữ có mà tôi dùng ở đây, có thể hiểu theo hai nghĩa: Có xác định, cũng là có vượt biên.
Lần này họ chỉ hỏi câu duy nhất đó. Tôi không biết hắn có hỏi các bạn khác hay không. Tôi lại bàn luận với cụ Hoàng Văn Úy, chẳng lẻ chúng nó lại hỏi một câu gần như vô nghĩa như vậy. Phải chăng chúng nó hình dung đến lúc nào đó bỗng dưng tôi biến mất ở Sài Gòn chăng? Tôi với Cụ Úy và anh Đinh Tiến Dũng, ăn cơm chung từ năm 1985.
“Có vẻ chúng nó nghi ngờ ông điều gì đó. Cẩn thận nghe”.
Sau khi toán Công An đó về Hà Nội, trong anh em chúng tôi có biết bao đồn đoán nhưng không phải là hoàn toàn vô căn cứ, chẳng hạn như:
“Tụi hậu cần mới chở về kho 246 bộ quần áo mà nguồn tin nói rõ là áo chemise trắng, và quần áo này sẽ phát cho những anh được trả tự do”.
“Nói nghe như thiệt vậy mấy cha”.
“Nghe sao thì thuật lại các anh cùng nghe để xem có những nguồn tin khác nữa không, có gì đâu mà nói như móc họng vậy”.
“Tôi nghe nói có nhóm quay phim của Bộ Công An xuống đến trại rồi, và họ sẽ vào trại thu hình anh em chúng mình đó”.
“Bạn nào có được gọi làm việc kỳ này đều có hi vọng được về thôi”.
“Các anh bệnh hoạn già yếu chắc về nhiều, vì vài hôm nay tụi y tế lập hồ sơ và tái khám hầu hết số anh đau yếu đấy”.
“Và vân vân”.
Trên đây là tóm tắt rất nhiều đồn đoán trong buồng giam số 1 chúng tôi.
Và rồi nhóm quay phim từ Hà Nội xuống thiệt. Họ xuống khu trồng rau thu hình một vài Đội Rau Xanh. Còn trong trại thì họ thu hình một số sinh hoạt trong buồng giam số 1 và số 2. Thu hình ở chỗ đọc sách bên Tổ Văn Hoá. Họ bảo chúng tôi đá banh cho họ thu hình nữa.
Chiều ngày 1 tháng 9 năm 1987, tên Sáng, cán bộ giáo dục:
“Anh Hoa, phái đoàn Bộ Công An mang lệnh tha đến trại rồi, nhưng các phong bì còn niêm kín nên Ban Giám Thị cũng như các cán bộ chưa ai biết gì cả. Tối nay, anh sẳn sàng với các anh trong tổ văn hoá, khi có lệnh thì sang hội trường cắt dán khẩu hiệu biểu ngữ và các công tác cần thiết khác”.
Đêm đó, tôi, anh Đinh Tiến Dũng, anh Đặng Hoàng Long, anh Phan Văn Đệ, và vài anh nữa, uống cà phê, hết cà phê đến uống trà, chờ lệnh. Nhưng mãi đến nửa đêm, chẳng thấy gọi gì hết nên chúng tôi dẹp và chui vô mùng.
Sáng hôm sau, 2 tháng 9, anh Dũng và hai bạn của tổ văn nghệ, được lệnh lên nhà tên Hán trại trưởng để trang trí. Trong lúc đó, tên Dục -phụ tá giáo dục- cầm danh sách vào trại đưa tôi:
“Anh Hoa, anh đi gọi các anh có tên trong danh sách này, bảo ăn mặc tươm tất, phải nhanh tay càng sớm càng tốt sang tập trung tại hội trường để lên nhà ông trại trưởng nghe đọc lệnh tha”.
Vừa nhanh chân vừa lẹ mắt lướt nhanh trên danh sách, tôi vui sướng khi thấy tên mình trên trang cuối cùng. Lần lượt tôi đi gần như chạy đến các buồng giam, đọc tên xong là lặp lại câu của tên Dục bảo chuẩn bị nhanh để sang hội trường rồi lên nhà trại trưởng. Riêng danh sách có 9 vị Tướng được ra trại thì tên quản giáo buồng giam số 3 mang vào đọc. Tổng số là 92 người được trả tự do chớ không phải hơn 200 như đồn đoán căn cứ theo số người mà toán Công An đã gọi làm việc, cũng như số lượng bộ quần áo nghe nói tụi hậu cần mang về trại.
Tất cả rời hội trường trong trại lên nhà trại trưởng. Lưu Văn Hán cầm danh sách đọc tên cùng vài nét lý lịch của từng người. Đọc xong, tên Niệm -cán bộ giáo dục trại- gọi anh Hoàng Thọ Nhu (Đại Tá Biệt Động Quân, Tỉnh Trưởng cuối cùng của Plei Ku) thay mặt những người được trả tự do, phát biểu cảm tưởng. Thật ra anh Nhu đã được chỉ định trước chớ không phải tự nhiên mà họ gọi anh phát biểu. Rất có thể vì anh Hoàng Thọ Nhu là bà con với tên Hoàng Thọ Đan, Giám Đốc Công An Nam Định nên được họ chỉ định thay mặt chúng tôi chăng, dù rằng trong bao năm qua tại trại này chúng tôi thấy anh Nhu chẳng hưởng ưu tiên gì cả. Khoảng năm 1981 hay 1982, trong đoàn quay phim của Bộ Công An đến trại Nam Hà quay cuốn phim “Tình Và Tội”, có cô Hoàng Thọ Thanh Mai, con của Hoàng Thọ Đan thăm anh Nhu. Còn thay mặt cho các vị Tướng được trả tự do thì Trung Tướng Nguyễn Hữu Có được họ chỉ định phát biểu.
Xong. Chúng tôi vào trại làm thủ tục ra trại vì toán Công An làm thủ tục đang chờ tại hội trường của trại. Tôi bị chỉ định trách nhiệm liên lạc giữa anh em chúng tôi với toán Công An áp tải chúng tôi trên chuyến xe lửa về Sài Gòn.
Ngày hôm sau, chúng tôi nhận lại đồ vật ký gởi, kể cả tiền. Tôi còn lại được 15.000 đồng.
Theo ý kiến của một số anh đau yếu, tôi gặp cán bộ Quí, tên này phụ trách mua vé xe lửa cho chúng tôi:
“Cán bộ có thể mua giúp anh em chúng tôi càng nhiều càng tốt số vé có giường nằm, giúp các anh già yếu bệnh hoạn, chúng tôi sẽ hoàn lại phần tiền sai biệt cho cán bộ, được không?”
“Được. Để tôi lên Hà Nội mới rõ”.
Kết quả là 2/3 số người rời trại ngày 09/09, và số anh em còn lại rời trại ngày 10/09 (1987). Số vé nằm dành cho chuyến đầu 15 vé, chuyến sau 5 vé. Vậy là trong chuyến rời trại ngày 9, tất cả 9 vị Tướng đều có vé nằm và 6 vé còn lại dành cho các anh già yếu bệnh hoạn như anh Đàm Quang yêu, anh Hồ Tiêu, Thượng Tọa Thích Thanh Long, …
Chiều hôm ấy -02/09- nhân có vợ và con trai của anh Nguyễn Viết Tân (Đại Tá Hải Quân) đang thăm anh ấy, giúp tôi gởi điện tín về Sài Gòn cho vợ tôi biết là chiều ngày 12 tháng 9 tôi sẽ về đến Sài Gòn bằng xe lửa tốc hành. Anh Tân vẫn trong tình trạng bại liệt. Khi anh được ra trại với chúng tôi, cũng là lúc vợ và con trai của anh đến thăm, thế là anh được gia đình đón ra trại và chăm sóc trên đường về Sài Gòn.
Sau khi bàn giao Tổ Văn Hoá cho anh Nguyễn Hữu Vị (Trung Tá Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo), tôi dọn sang buồng giam số 4. Tất cả anh em được ra trại đều dọn sang buồng 4 chờ ngày rời trại. Tin đồn đoán về mấy trăm bộ quần áo nói là phát cho những người ra trại, thật ra không có gì hết. Còn đến mấy ngày nữa mới rời trại nên xem như rảnh, tôi thử kiểm lại đôi nét đặc biệt của một số bạn cùng bị giam trong trại Nam Hà A này:
Về tuổi tác. Cụ Nguyễn Chấn Á 84 tuổi là tuổi cao nhất, nguyên là Thiếu Tướng trong quân đội Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Cụ về Việt Nam giữ chức Cố Vấn ngành Chiến Tranh Chính Trị. Suốt thời gian trong tù, sáng nào cũng vây, mùa đông cũng như mùa hè, Cụ đều tắm nước lạnh sau bài tập thể dục. Cụ được sự kính nễ của các vị Tướng trong cùng buồng giam, và hầu hết anh em trong trại này. Cụ nói tiếng Việt không rành, nhưng vui tính và tốt bụng.
Nhỏ tuổi nhất là Nguyễn Minh Chí, vừa tròn 30 tuổi tính đến năm 1987. Bị bắt năm 1976 khi tham gia tổ chức Phục Quốc do Công An trá hình tổ chức. Sau thời gian bị biệt giam ở trại Mễ (Phủ Lý) trở về, vì cô đơn nên bất mãn quậy phá anh em. Khi trại trưởng Bùi Dênh hỏi tôi có nhận anh bạn trẻ này vào Tổ Văn Hoá không vì không Đội nào chịu nhận cả. Tôi bằng lòng nhận, vì tôi quan niệm ai cũng có cái hay lẫn cái dở, và tôi cố gắng sử dụng cái hay của anh bạn trẻ này. Thế là Nguyễn Minh Chí thay chỗ cho anh bạn trẻ Đinh Vượng đã ra trại hồi tháng 4 năm 1985. Nguyễn Minh Chí học không nhiều nhưng thông minh. Thật ra sự thông minh này một phần do bẩm sinh, và phần khác là do thời gian bụi đời trước năm 1975 mà có. Minh Chí tựa vào tên Vượng -cán bộ an ninh- nhờ vào vật chất do Chí vào trong trại xin cho hắn, nhất là xin anh Phạm Kim Qui nên bạn trẻ này được xem là “có thế lực” trong sự liên lạc giữa anh em trong trại với cán bộ an ninh. Những anh em nào giúp cho Chí món gì để cung phụng cho tên Vượng, ít nhiều cũng được tên Vượng đền bù qua những “ưu tiên” gì đó từ quyền hạn của hắn.
Về sức khỏe. Anh Lâm Minh Chánh (Phủ Đặc Ủy Tình báo), ít tuổi mà bệnh hoạn nặng nhất và lâu nhất. Anh bị suyển rất nặng, gần như cấp cứu thường xuyên ở trạm xá. Anh chưa được ra trại trong đợt này. Người nhiều tuổi mà tưởng chừng tắt thở đôi ba lần là anh Hồ Tiêu (Đại Tá Nhẩy Dù). Anh tròm trèm 70 (1987) nhưng vẫn tập tạ, sau lần thăm gặp gia đình thì sức khỏe suy kém nhanh không thể tưởng, giờ thì suy nhược hẳn rồi. Anh cùng ra trại trong đợt này với chúng tôi. Cụ Hoàng Văn Úy bị bệnh phổi, cứ mùa đông đến Cụ cũng khốn khổ như các anh bệnh bao tử. Rất nhiều anh bị những bệnh khó trị, như bệnh trỉ, bệnh gan, bệnh bao tử, bệnh suyển, thậm chí có cả bệnh ung thư nữa. Vào mùa đông, những anh bệnh bao tử với bệnh suyển là khốn khổ nhất. Bệnh bao tử thường phải cúi gập người xuống cho giảm cơn đau, còn bệnh suyển thì lúc nào cũng như người ngộp thở vậy. Hầu hết những anh bị bệnh khó trị đều ở buồng giam số 7.
Nhớ đến cái chết của cựu Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng, một thời ông là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Đang lúc rửa vài cái chén sau bữa ăn chiều, ông cảm thấy mệt và vào chỗ nằm trong buồng giam số 3. Một lúc thì ông chết. Đến cái chết của anh Trần Hữu Dụng (Đại Tá, bị cộng sản bắt khi Ban Mê Thuột thất thủ). Một buổi sáng khi điểm danh ra cửa, tên Lực trực trại nói với anh trực buồng:
“Còn thiếu một anh. Anh vào xem lại ngay”.
Anh trực buồng vào buồng giam thấy anh Dụng còn nằm trong mùng, đến lay anh dậy thì người anh lạnh ngắt. Hoảng quá:
“Báo cáo cán bộ, anh Dụng chết rồi”.
Tên Lực vào xem. Quả thật anh Dụng đã tắt thở. Hắn bảo anh trực buồng:
“Anh cho anh nào xuống trạm xá kêu anh Quýnh lên xem”.
Bác sĩ Quýnh được dẫn vào vì đôi mắt bác sĩ Quýnh rất mờ. Anh Quýnh nói:
“Anh nào vô buồng sờ dưới đít anh Dụng xem có ướt không?”
Chỗ đít anh Dụng trên sàn xi măng ướt nhẹp, bác sĩ Quýnh kết luận:
“Báo cáo cán bộ, vậy là anh Dụng chết vì trúng gió”.
Thế là anh em khiêng xác anh Dụng xuống trạm xá lo chôn cất trong khi anh Trần Hữu Pháp (em ruột) và anh Trần Hữu Từ (em bà con) được lệnh kiểm lại đồ đạc của anh Dụng để sau này trao lại gia đình. Phải công nhận rằng, trong số hằng mấy chục anh em tù chính trị chúng tôi chết tại trại Nam Hà A này, cho đến lúc ấy, duy nhất chỉ có anh Dụng được trại cho phép chúng tôi tẩn liệm mai táng và chôn cất rất chu đáo. Lúc tẩn liệm, khiêng xác anh cho vào quan tài không lọt vì cái quan tài nhỏ quá, phải để xác anh nghiêng một bên, Thượng Tọa Thích Thanh Long nói như đang thật sự nói với anh Dụng:
“Thôi, làm khó anh em chi vậy, ráng thu nhỏ bề ngang một chút để nằm ngửa ra cho anh em còn lo tiếp nữa chứ”.
Anh em, nhất là anh Tạ Đình Siêu (Đại Tá Thiết Giáp) sốt sắng lắm. Anh Siêu lắc lắc mãi, cuối cùng thì thi hài anh Dụng cũng nằm ngửa được. Hương linh anh Dụng được nghe lời kinh cầu nguyện của Thượng Tọa Thích Thanh Long. Khi chôn, đám Công An trực trại cho 11 anh em chúng tôi khiêng quan tài anh đến bên kia triền núi, nơi có đào huyệt cũng do anh em chúng tôi đào. Khi chuyển quan tài, tôi cầm bình hương, thầy Thanh Long theo đọc kinh. Anh Siêu trách nhiệm điều hợp anh em từ lúc rời trại đến lúc chôn cất xong. Có cắm miếng ván nhỏ viết mấy dòng chữ thay mộ bia cho anh.
Viết đến đây tôi chợt nhớ đến anh Đỗ Xuân Sinh (Đại Tá Quân Nhu) lúc ở trại tập trung trên Yên Bái. Anh bị suyển nặng lắm. Vợ anh từ bên Pháp gởi thuốc cho anh thật nhiều. Anh biết bệnh trạng của anh, nên những thuốc anh thường dùng đều ngay trên đầu nằm để khi cần là lấy cho kịp. Nhưng rồi anh chết ngay trên cái vạt giường bằng cây chổm chỉ vì anh không lấy kịp thuốc. Đến anh Lê Minh Luân (Đại Tá Không Quân) cũng chết trên Yên Bái. Trước ngày chết, anh vẫn kêu gào ly cà phê mà lúc ấy làm sao có cà phê. Với lại anh nằm ở trạm xá thuộc Liên Trại 1 trong khi chúng tôi ở trại 2 (thuộc Liên Trại 1), nhưng đâu có cách nào tìm cho anh được ly cà phê! Lại nhớ đến anh Nguyễn Bá Thình tự Long, có lẽ anh là người tù chính trị cấp Đại Tá chết đầu tiên tại trạm xá của Đoàn 776 tại thị xã Yên Bái, sau khi từ trại Tam Hiệp (Biên Hòa) chuyển ra đây. Khi ở trại Tam Hiệp, xương chân phải của anh bị thúi, có thể là anh bị ung thư xương nhưng họ có đưa đi khám nghiệm gì đâu mà biết. Người chết sau đó cũng tại trạm xá Đoàn 776 là anh Huỳnh Hữu Ban (Đại Tá, Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu). Các anh chết trong trại 2 và trại 3, nghe nói chôn ở đồi “Cây Khế”, thật ra chúng tôi không ai biết vị trí chính xác đồi Cây Khế ở đâu, cón những anh chết ờ bệnh xá Đoán 776 tại Yên Bái thì tôi không rõ chôn ở đâu.
Người mà tôi xem như đặc biệt nhất là bác sĩ Trương Văn Quýnh. Ông gần như bị mù nhưng chẩn đoán bệnh đến mức bác sĩ cộng sản ở bệnh viện Phủ Lý cũng nễ ông. Bác sĩ Quýnh chẩn đoán bằng đôi tay, bằng cách hỏi bệnh nhân, và bằng sự mô tả của anh phụ tá là Trần Xuân Đức (Đại Tá, Sở Kỹ Thuật/Bộ Tổng Tham Mưu). Chính ông đã kết luận đầu tiên Tiến Sĩ Nguyễn Duy Xuân bị ung thư di căn, anh Nguyễn Lương Bằng (Phủ Đặc Ủy Tình Báo) bị ung thư lưỡi (chết trước ông Xuân), và anh Nguyễn Phát Lộc bị ung thư máu.
Kể chuyện giải sầu. Rất nhiều anh có tài này. Anh Nguyễn Phát Lộc (Phủ Đặc Ủy Tình Báo) có tài kể truyện chưởng, truyện phim ngoại quốc, truyện trinh thám qua sách báo. Anh rất nghiêm chỉnh khi kể, trong khi anh Nguyễn Kim Tây (Đại Tá Biệt Động Quân) là cây kể truyện chưởng mà chúng tôi gọi là “chưởng thời đại” rất ư là tiếu lâm. Khi anh Tây kể chuyện làm cho người nghe đôi khi cười đến ôm bụng, cười ra nước mắt, có anh cười đến té đ…, chẳng hạn như truyện chưởng mà có bắn súng thay vì đánh võ đánh kiếm, đi xe du lịch thay vì cưỡi ngựa. “Máu tiếu lâm” của anh Tây thường giúp người nghe giải sầu tức khắc, tuy có lúc nghe “hơi tục mà thanh” cứ như nghe thơ của bà Hồ Xuân Hương vậy. Anh Lê Minh Chúc (Đại Tá) kể truyện dưới dạng vừa dịch vừa kể truyện ngoại quốc cho anh em trong buồng giam nghe, chẳng hạn như quyển “Hãy Để Ngày Ấy Lụi Tàn” của tác giả người Anh, viết về một chuyện tình giữa người thanh niên da trắng với người phụ nữ da đen, sinh ra đứa con “trắng nhiều hơn đen”. Chuyện xảy ra trên đất nước Nam Phi dưới thời Anh Quốc cai trị. Thời ấy “kỳ thị chủng tộc” là chính sách rất tồi tệ. Thật ra không phải cứ ai kể chuyện vui mà mọi người cười hết đâu, cần có chút “khoa ăn nói” nữa. Anh Tây kể chuyện thì y như rằng, anh em trong buồng giam đều cười vui vẻ.
Nguồn chuyện kể giải sầu riết rồi cũng cạn, lúc ấy đến lượt tôi, nhưng chuyện mà tôi kể không phải chuyện vui mà là chuyện để suy ngẫm. Chuyện bắt đầu khi tôi lên tiếng:
“Các bạn ơi! Tôi thử kể chuyện này, nếu các bạn nghe được thì tôi kể tiếp. Nếu không thì tôi chấm dứt ở đó”.
“Anh kể đi. Chưa kể thì biết đâu mà nghe được với không được”. Một bạn lên tiếng.
Tôi bắt đầu kể về những lệnh mà tôi nhận, những việc mà tôi làm, và những nhận xét của tôi từ những lệnh và những việc làm đó trong cuộc Đảo Chánh ngày 01/11/ 1963. Lúc ấy khuya lắm rồi, tôi kể chưa hết nhưng chừng như chẳng còn ai thức, nên tôi lặng lẽ chui vào mùng. Hai ba anh cùng lên tiếng một lúc:
“Trời ơi! Sao đến đó rồi ngưng ngang vậy anh?”
“Ô! Tôi tưởng các anh ngủ hết rồi nên tôi ngưng. Nếu chưa ngủ thì tôi kể tiếp”.
“Chuyện hấp dẫn như vậy mà ngủ sao được. Mai là chủ nhật, kể nữa đi”.
Thế là từ đêm đó, cứ sau khi cửa buồng giam khóa “crắc” một cái là tôi bắt đầu kể chuyện. Lần lượt đến cuộc Đảo Chánh ngày 30/01/1964, cuộc Biểu Dương Lực Lượng ngày 13/09/1964, cuộc Đảo Chánh ngày 19/02/1965, quân đội lãnh đạo quốc gia từ ngày 19/06/1965, cuộc Khủng Hoảng miền Trung từ ngày 09/03/1966, Phước Long vào tay cộng sản ngày 07/01/1975, Ban Mê Thuột mất ngày 13/03/1975, rút bỏ các tỉnh Cao Nguyên ngày 17/03/1975, và Giờ Thứ 25 của cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ. Tôi kể liên tục trong 9 đêm thì hết chuyện.
Khi kể lại, tôi có hai điều lợi: Thứ nhất là nhân vật trong chuyện kể có cựu Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao và cựu Đại Tá Đàm Quang Yêu. Cả hai vị này cùng trong cuộc khủng hoảng miền Trung. Kể xong chuyện đó, tôi hỏi hai vị thấy tôi có điều gì sai sót xin vui lòng cho biết. Anh Yêu nói “thế là đủ rồi”, trong khi ông Cao chỉ cười cười mà không nói gì hết. Điều lợi thứ hai là khi tôi kể, cùng lúc ký ức tôi nhận lại. Như vậy, xem như tôi cập nhật hóa những gì mà ký ức tôi lưu giữ. Cũng nhờ vậy mà tôi lén lút viết lại và “gởi chui” về Sài Gòn vợ tôi cất giấu.
Về đàn hát. Anh Đào văn Ba và anh Nguyễn Văn Quí, được anh em xếp vào “bậc thầy” về guitare với những bài tân nhạc, nhưng về nhạc cổ điển có lẽ không ai hơn anh Phạm Kim Qui, kế đó là anh Đặng Hoàng Long. Hát nhạc ngoại quốc, khó anh nào đương nỗi với anh Phạm Gia Đại với anh Bửu Uy. Anh Phạm Kim Tấn cũng là “cây hát” nhạc tây nhưng giọng anh “rè quá” nên khó xếp hạng được. Hát nhạc Việt Nam, phải công nhận là giọng của anh Đinh Tiến Dũng với anh Nguyễn Dũng là hấp dẫn nhất. Nét đặc biệt của anh Nguyễn Dũng là chui vào mùng hát. Trong số các anh hát hay, phải kể đến anh Phạm Văn Hòa (Trung Tá Không Quân) là ca sĩ số một với giọng “người Mỹ hát nhạc Việt”.
Về đá banh. Anh Phạm Kim Tấn và anh Chu Mạnh Bích (Đại Úy Không Quân) là đá có kỹ thuật nhất. Anh Vũ Quang Tỉnh mà chúng tôi thường gọi là “Quách Tỉnh” một nhân vật trong truyện chưởng Trung Hoa thời phong kiến, thì đá theo sức mạnh. Anh Nguyễn Văn Hóa (Đại Úy Không Quân) di tản tháng 4 năm 1975, nhưng lại theo tàu Việt Nam Thương Tín trở về nên bị bắt nhốt chung với chúng tôi. Anh cùng ra trại trong đợt này. Anh đứng hàng hậu vệ là số một. Anh Cao Văn Ủy (Đại Tá Biệt Động Quân) thủ môn thuộc hạng khá của đội “lão tướng” nhưng phải tùy hứng. Anh bạn trẻ Đinh Vượng cũng là thủ môn có hạng. Khi vào sân là anh bạn trẻ này liều mạng lắm. Anh bạn trẻ khác là Nguyễn Minh Chí, khắp sân chỗ nào cũng có mặt, cứ có banh là đá còn trái banh muốn đi đâu thì đi.
Về tướng số tử vi. Anh Nguyễn Phát Lộc, trước năm 1975 đã xuất bản hai quyển sách về loại này. Có lần anh nói với tôi và các bạn:
“Tôi không thể giải đáp cho lá số của chính tôi. Theo lá số, tôi không chết trong trại tù, cũng không chết ở nhà”.
Sau khi tôi ra trại khoảng 6 tháng thì trại Nam Hà có đợt tha, và trong số đó có anh Lộc. Điều mà anh Lộc không có giải đáp cho lá số của anh, thì ngay trong đợt tha dường như là tháng 04/1988 có giải đáp, nhưng tiếc là tự anh không xác định được. Theo thư của anh Nguyễn Hữu Vị gởi cho tôi, khi anh Lộc nhận được lệnh tha ra trại cùng lúc có cô em gái út đến thăm. Vì sức khỏe quá kém, nên trực trại cho anh em khiêng anh ra nhà thăm nuôi để gặp gia đình, và rồi anh Lộc chết tại đây. Vậy là lá số của anh rất đúng, vì anh không chết tại nhà cũng không chết tại trại, cầm giấy ra trại trong tay để rồi chết tại nhà thăm nuôi (Khi về Sài Gòn, tôi thường gởi thư chui cho anh Vị kể những chuyện của anh em chúng tôi, và những oái oăm trong xã hội xã hội chủ nghĩa).
Anh Đoàn Túc (cựu Trung Tá) cũng là một “nhà bói toán” có hạng. Anh bói cho một số anh liên quan đến chuyện nhà, ngay cả chuyện các anh ấy được về trong khoảng thời gian nào, đa số đều đúng.
Trở lại chuyện tôi ra trại. Trong những ngày chờ lên xe lửa, anh em chúng tôi chung góp được 23.000 đồng để giúp hai bạn tù cùng về:
- Anh thứ nhất được 13.000 đồng là anh Lê Văn Khương (Phó Quản Đốc Nhà Lao Côn Sơn). Trong thời gian bị giam ở trại “Cổng Trời” sát biên giới với Trung Hoa cộng sản, đã bị chúng nó hành hạ đến mức không đi được nữa nên không thể cùng đi xe lửa với chúng tôi, mà trại chờ người nhà đến đón mới cho ra trại. Anh Huỳnh Kim Bình (Đại Úy) và vợ, nhận trách nhiệm mang tiền đến trao cho gia đình anh Khương, đồng thời chị Bình sẽ hướng dẫn gia đình này ra trại Nam Hà đón anh ấy về, vì nhà anh chị Bình cùng ở Long Xuyên. Cũng may là chị Bình khi đến trại thăm thì biết tin anh Bình được ra trại, nên chúng tôi nhờ tên Quí (Công An, phụ trách vận chuyển của trại) mua vé để anh chị được về cùng chuyến xe lửa. Về đến Sài Gòn, gia đình anh Trang Văn Ngọ (Trung Tá Không Quân) gởi cho gia đình anh Khương thêm 11.000 đồng nữa để đủ cho hai người ra đón anh Khương.
- Anh thứ hai là anh Huệ được 10.000 đồng. Anh Huệ lúc bị giam ở trại Tam Hiệp tự xưng là “Thiếu Tướng Nguyễn Huệ, Tư Lệnh Sự Đoàn 23B”, vì anh bị thần kinh nên Đại Đức Thích Minh Tâm (cùng ra trại) nhận anh ấy về chùa ở Hóc Môn tạm trú, sau đó sẽ hướng dẫn về quê dường như cũng ở Long Xuyên thì phải.
Ngày 09/09/1987, trại cho chúng tôi bữa cơm trưa, có thịt có rau, nhưng ai cũng nôn nóng ra khỏi cái trại hắc ám này nên có ăn được bao nhiêu đâu. 11 giờ trưa bắt đầu ra cổng. Tôi đi sau cùng, nhưng không dám quay lại nhìn các bạn đứng bên trong cổng. Nếu tôi nhìn vào trại, rất có thể tôi không cầm được nước mắt! Sau 3 tiếng đồng hồ, ba chiếc xe già cỗi cà rịch cà tang trên con đường đá từ trại ra Phủ Lý, quẹo phải sang quốc lộ 1 để xuống ga Nam Định. Tại đây có tổ quay phim thu hình chúng tôi, và nghe nói nhóm quay phim này sẽ theo chúng tôi vào Sài Gòn tiếp tục thu hình nữa. Chắc chắn là những thước phim đó, họ sẽ sử dụng để “quảng cáo” trong quốc nội lẫn quốc tế về điều mà bọn họ gọi là khoan hồng nhân đạo với thành phần mà họ gọi là ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn.
4 giờ 30 chiều ngày 9 tháng 9 năm 1987, chuyến xe lửa tốc hành Hà Nội-Sài Gòn rời ga Nam Định. Chúng tôi ngồi chung trong một toa. Sau khi rời Nam Định một lúc, hai anh mặc đồng phục công nhân xe lửa đến đứng giữa toa, một anh giới thiệu:
“Đây là anh Trưởng Tàu” (người miền Bắc gọi là tàu lửa, người miền Nam gọi là xe lửa).
Vừa nói anh ta vừa chỉ anh đứng cạnh. Và anh “trưởng tàu” bắt đầu:
“Mấy chú được dành toa đặc biệt này trên đường về nhà…”
Một bạn ngắt ngang: “Thế nào là đặc biệt vậy anh?”
“Đặc biệt vì toa này có đèn điện, với lại tương đối sạch so với các toa kia”.
“Vậy hành khách trên các toa kia tối đen à?”
“Các toa kia dùng đèn dầu xách tay”.
“Sao các băng ngồi chỉ trơ gỗ mà không có nệm vậy anh?”
“Mấy chú đi cải tạo lâu quá nên không hiểu gì về những sinh hoạt trong xã hội bây giờ. Tôi nói cho mấy chú biết là khi về nhà, mấy chú không nên thắc mắc bất cứ điều gì với địa phương, vì không có lợi cho mấy chú đâu?”
“Sao kỳ vậy?”
“Mấy chú nên nghe tôi. Còn muốn biết tại sao thì về nhà một thời gian mấy chú sẽ hiểu. Những toa này do Ấn Độ viện trợ, nhưng chỉ 24 tiếng đồng hồ sau thì tất cả những gì tháo gỡ được đều mất hết, ngay cả thắng xe cũng bị mất cắp nữa, chỉ còn trơ lại toa tàu thôi. Nếu họ đem toa tàu đi được thì chẳng còn toa nào đâu”.
“Sao tệ quá vậy?”
“Tôi nhắc lại. Khi về địa phương, mấy chú đừng nên thắc mắc gì cả, mọi việc rồi mấy chú cũng quen như mọi người thôi. Tôi nói thêm: Khi tàu gần đến Quảng Trị, mấy chú phải đóng cửa sổ lại, vì có những đám thanh niên ném đá hoặc bắn đá vào xe đó. Đã có những hành khách bị thương rồi”.
“Xã hội chủ nghĩa ghê thiệt!”
Anh trưởng tàu nhìn về hướng phát ra âm thanh đó, chừng như anh ta không có ý tìm ai nói mà chỉ quay về hướng đó để nhắc lại lời khuyên của anh ta:
“Một lần nữa tôi nhắc mấy chú, về địa phương đừng bao giờ thắc mắc gì hết, thấy vậy hay vậy là tốt. Chẳng hạn như thắc mắc vừa rồi, mấy chú sẽ bị ghép vào tội chống đối nhà nước đấy. Mấy chú ráng nhớ giùm tôi”.
Nói xong là anh ta xoay lưng đi ngay, chừng như sợ phải nghe tiếp những thắc mắc tương tự.
Thật lòng mà nói, sau hơn 12 năm trong các trại tập trung từ trong Nam ra đất Bắc, ngay ngày đầu tiên bước vào xã hội xã hội chủ nghĩa, chỉ với những sinh hoạt ngay trên chuyến xe lửa thuộc loại “tốc hành” này, đã trở nên lạ lẫm với tôi rồi. Lúc chiều, anh trưởng tàu nói đây là toa xe đặc biệt mà lại nệm ngồi không có, nệm tựa lưng cũng không có, cầu tiêu thì dơ ơi là dơ! Đêm đầu tiên, tôi lần qua các toa tìm đến toa hàng ăn để uống ly cà phê, mới nhận ra nỗi khổ của hành khách đi xe lửa dù là xe lửa tốc hành, tức là chỉ dừng lại những ga chính thôi. Dưới ánh sáng lờ mờ của những ngọn đèn dầu leo lét, thật khó mà tưởng tượng! Hai băng ngồi đối diện, một băng 3 người. Hai băng phía bên kia lối đi, mỗi băng 2 người ngồi. Hai đầu trên của hai băng 6 người ngồi, máng được 3 cái võng cho 3 người nằm, 1 người nằm co quắp trên sàn xe đen đúa nhầy nhụa giữa 2 băng đối diện, và 2 người còn lại cũng nằm co quắp trên 2 băng ngồi.
Nếu nhìn toàn cảnh của toa xe sẽ thấy, băng ngồi đầy người nằm, những chiếc võng bé xíu che kín trên đầu băng, cả lối đi vốn dĩ đã nhỏ hẹp cũng đầy người nằm chen lẫn trong đống hành lý thật hổn độn. Những bà vợ thăm chồng, mang theo hằng trăm kí lô, biết bao là nhọc nhằn gian khổ! Cứ mỗi bước đi phải chen từng bước chân giữa người với hành lý, vì ngay cửa vào cầu tiêu cũng chật kín người. Vậy mà, không đụng chân cũng chạm tay, có lúc lại đạp nhầm lên gói hành lý nữa, trong khi hai tay phải khép sát vào ngực mới mong tránh va chạm vào những người nằm trên cái võng bé xíu từ đầu băng bên này sang đầu băng bên kia. Đến cuối toa xe đứng nhìn lại, cái cảnh tượng thật là buồn cho đất nước Việt Nam mình bất hạnh quá!
Giả thử, nếu những ông chồng như anh em chúng tôi chứng kiến những hành khách nằm cong queo trong cái gọi là chiếc võng kia, hay co quắp giữa những gói quà đầy ấp tình thương trên sàn xe nhớp nhúa đó, là những bà vợ của mình, liệu có cầm được nước mắt không? Tôi nghĩ, nghe nói lại, nghe thuật lại, ông chồng nào cũng đớn đau thương cảm cho tình cảnh những bà vợ quanh năm gánh gạo nuôi chồng! Nhưng không có đớn đau thương cảm nào có thể đem cân bằng nỗi đớn đau thương cảm của những bà vợ trọn tình vẹn nghĩa như vậy được cả!
Từ hình ảnh này tôi chợt nghĩ đến những chuyến vợ tôi cùng những chị bạn, lăn lốc trên những toa xe như thế này trong khi mang theo hằng trăm kí lô hành lý thức ăn thuốc uống, vất vả biết ngần nào! Đâu đã hết, theo lời vợ tôi kể lại, vì muốn rút ngắn thời gian khỏi phải lên Hà Nội rồi quay trở xuống, nên “hối lộ” 200 đồng cho anh trưởng tàu khi ngang Phủ Lý xe chạy chậm lại, lúc ấy vợ tôi nhảy xuống cùng với vài thùng hàng, phần còn lại trên xe nhờ các chị bạn đẩy xuống giùm. Vợ tôi lần lượt gom lại, chờ xe trại đi công tác về ngang chở vào trại với một số tiền nhất định chớ không phải họ chở giùm đâu. Cái giá để gọi là sòng phẳng, là từ 50 đến 100 hay 200 tùy lượng hàng nhiều hay ít. Thuật lại quí vị quí bạn nghe đơn giản lắm, nhưng thật ra rất gian nan khi đi dọc theo đường xe lửa, bưng từng gói từng thùng gom lại. Có một lần vì trời chưa sáng hẳn, có những bóng đen lấy những gói hàng chạy mất vào bóng tối. Đành chịu thôi! Với những gian truân nguy hiểm như vậy mà vợ tôi đã lặn lội từ Sài Gòn ra trại tập trung Nam Hà thăm nuôi tôi từ giữa năm 1979 đến đầu năm 1987 là 17 lần! Tình yêu chồng và tình thương con đã cho vợ tôi một nghị lực mà tôi đánh giá là phi thường!
Đó là nỗi khổ trên xe lửa, bây giờ mới quí vị quí bạn theo chân tôi đi tắm, mới cảm nhận được nỗi khổ của phụ nữ nói chung, và các bà vợ của tù chính trị chúng tôi nói riêng, khi đi tắm. Trước khi rời trại, tôi chuẩn 3 bộ đồ lót loại có thể cho “về hưu” mà không thương tiếc để mỗi khi tắm xong là bỏ lại tại chỗ. Xe ngừng, tôi vừa đi vừa chạy tìm chỗ tắm. Mua thùng nước 200 đồng, xách vội vào khu vực tắm tìm chỗ trống. Vừa máng cái khăn và áo quần lót lên vách thì tiếng phụ nữ bên ngoài ơi ới:
“Lẹ lẹ lên các anh chị ơi, cho tôi tắm với”.
Nhìn thấy một bà sồn sồn và hai cô gái, tôi xách thùng nước với áo quần trở ra:
“Chị vào đây tắm đi, tôi tắm bên ngoài”.
“Cám ơn anh quá”. Cả ba phụ nữ cùng tắm.
Tắm xong, tôi bỏ áo quần ướt lại đó như dự tính, có điều là lúc dự tính tôi không nghĩ “chúng nó về hưu” trong tình cảnh ướt nhẹp như vậy. Tôi mua thùng nước khác xách lại xe lửa để anh Trà tắm trên xe. Chuyện là tôi với anh Nguyễn Đình Trà ngồi cạnh nhau, và chúng tôi phân công mỗi khi đến ga Huế, Qui Nhơn, Nha Trang, tôi đưa tiền anh Trà chạy mua thức ăn, tôi tắm xong đem về anh thùng nước. Khi xe chạy, anh tắm. Xong, hai chúng tôi cùng ăn.
Trở lại với chuyến về của anh em chúng tôi. Có hai Công An -một nam một nữ-theo áp giải chúng tôi về Sài Gòn. Nam tên Đính và nữ tên Ngân, cô ta là y tá. Tại nhà ga Nam Định, tên Đính bảo tôi:
“Anh Hoa. Anh thu lại tất cả Giấy Ra Trại đưa tôi. Khi hoàn tất thủ tục tại Chí Hòa xong tôi sẽ trao lại các anh”.
“Thủ tục gì mà phải làm ở khám Chí Hòa cán bộ?”
“Về đến thành phố, các anh còn phải vào Chí Hòa, sau đó mới tự do. Anh biết vậy là được rồi, đừng có hỏi nữa”.
“Vì cán bộ nói lững lờ như vậy làm tôi thêm thắc mắc. Cán bộ có thế cho tôi biết sự thể như thế nào không?”
“Anh đừng hỏi nữa. Tôi chỉ được lệnh của trên như vậy thôi”.
Trong số anh em chúng tôi có một số bạn có gia đình ở Huế, Đà Nẳng, Nha Trang muốn ghé nhà trước khi vào Sài Gòn trình diện, vì theo trong giấy đến hết tháng 9 mới hết hạn trình diện, nhưng nói cách gì hắn cũng không chịu. Vì vậy mà anh em chúng tôi đồng ý với nhau, không mời hai đứa nó ăn uống gì hết mà khi rời trại, tôi và vài anh có ý định mời họ ăn uống với chúng tôi trên hành trình Nam Định-Sài Gòn.
Từ Biên Hòa về đến Sài Gòn, tôi lấy làm lạ là trên quảng đường này, từng bao hàng loại 50 kí lô được thả xuống vệ đường, có thể nói giống như trường hợp vợ tôi đẩy những gói những thùng xuống Phủ Lý vậy. Có điều là những bao hàng này khi xuống đường là có người đến nhận bỏ lên xe hai bánh chở đi ngay.
Trước khi đến Hòa Hưng (Sài Gòn), Công An Đính bảo tôi khi xe vào nhà ga, tất cả anh em chúng tôi phải tập trung một chỗ để xe đưa vào nhà giam Chí Hòa làm thủ tục trước khi ra về.
6 giờ chiều 12 tháng 9 năm 1987, chuyến “xe lửa tốc hành” sau 70 giờ 30 phút chạy tà tà trên quảng đường dài 1.736 cây số, cuối cùng cũng vào nhà ga Hòa Hưng. Rất đông thân nhân chúng tôi đứng đầy bên ngoài nhà ga. Khi xe lửa dừng hẳn, bà con ra sát bên hông xe mong gặp người thân. Đón tôi có vợ tôi và vợ chồng đứa em thứ tư của vợ tôi là Triệu Văn Lễ từ Vĩnh Long lên. Tôi đưa vợ tôi cái túi xách đựng đồ lặt vặt, trong khi cái “ba lô” với tất cả áo quần và đồ dùng thường ngày vẫn trên lưng, vì tôi phải đề phòng không biết bọn họ nói chúng tôi vào nhà giam Chí Hòa làm thủ tục hay lại nhốt chúng tôi nữa, lúc ấy có mà dùng. Tôi nói:
“Em ơi! Bây giờ tụi Anh còn phải vào làm thủ tục gì đó ở nhà giam Chí Hòa mới về được. Em đem cái túi xách về nhà trước, còn Lễ đến chờ Anh ở cổng nhà giam Chí Hòa”.
Vợ tôi với chút sợ hãi:
“Liệu họ có nói đúng không Anh?”
“Biết làm sao được Em. Cứ tạm tin là họ chỉ làm thủ tục thôi. Nếu có gì khác thì mọi người đứng chờ bên ngoài sẽ biết được mà. Em với Nhung (vợ của Lễ) về trước nhé!”
Thế rồi xe của nhà giam đưa chúng tôi vào Chí Hòa. Tên Công An nào đó giảng giải về chính sách nhân đạo, về thủ tục xin thẻ “chứng minh nhân dân”, phải thi hành tốt những lệnh của địa phương, ..v..v… Điều mà họ nói làm thủ tục là như vậy, lúc ấy tên Đính trả Giấy Ra Trại cho chúng tôi. Và chúng tôi thật sự ra về.
Ra đến cổng, em tôi đang chờ ở đó, đưa tôi về nhà bằng xe Honda. “Giấy ra Trại” của tôi số 122 với mã số hồ sơ là “00087801342” do tên Thượng Tá Công An Lưu Văn Hán, trưởng trại Nam Hà ký ngày 09/09/1987, do căn cứ Quyết Định tha số 18 ngày 31/08/1987 của Bộ Công An. Trong giấy này ghi tôi can tội “Đại Tá, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận Bộ Tổng Tham Mưu”. Xã hội xã hội chủ nghĩa có những cái tội nghe quá ư là “kỳ cục”! Bị bắt ngày 24/10/1975 theo án lệnh “tập trung cải tạo”. Sau án 3 năm đầu, tôi bị tăng án đến 3 lần, mỗi lần 3 năm. Cũng trong Giấy Ra Trại ghi họ bắt tôi ngày 24/10/1975 mà thật ra là ngày 14/6/1975. Số tù của tôi là 968 mà họ gọi là số danh bạ.
Vậy là, khi vào trại tập trung, con tôi đưa tôi bằng xe Honda 2 bánh từ nhà đến trình diện cộng sản tại khu đại học xá Minh Mạng. Khi từ trại tập trung trở về, em tôi đón cũng bằng xe Honda 2 bánh từ nhà tù Chí Hòa về nhà. Chuyện ngẫu nhiên lại có vẻ như “đâu vào đó” vậy!
Tính đến lúc ấy, tôi là tù chính trị 12 năm 2 tháng 27 ngày và 6 tiếng đồng hồ! Nếu số ngày tính tròn là 28 ngày!
Vào nhà rất đông đủ người thân: Ngoài vợ tôi, có Ba Má tôi, Dượng tôi (Dì tôi đã chết), vợ chồng của em vợ tôi (Lễ & Nhung), một bà Cô (Cô Bảy), và một số bạn bè hàng xóm. Tôi rất vui mừng khi thấy Má tôi đứng và đi được từng bước. Mừng, vì Má tôi bị đứt mạch máu và liệt nửa người bên trái từ năm 1985. Vợ tôi đưa Má tôi về Sài Gòn, và theo chỉ dẫn của chị Nhan Minh Trang -cũng bị liệt nửa người- hằng ngày vợ tôi đưa Má tôi đến nhà một người ở gần trường đua Phú Thọ mà hàng xóm gọi là “Thầy Năm” để bấm huyệt. Chỉ một tuần sau đó Má tôi đứng được, và xem là tốt như tình trạng hiện giờ.
Ngay sau đó, vợ chồng tôi sang nhà cái bà có cái chức “Tổ Trưởng Tổ Dân Phố” để trình diện. Ngày hôm sau, vợ chồng tôi đến trình diện Công An “khu vực”, tiếp đó Công An Phường 25, Quận 10, ở ngay trong cư xá Bắc Hải. Tại đây, tôi phải chờ tên Phó Công An Phường phụ trách chính trị ký xác nhận trên giấy ra trại, mới được x em là hợp lệ. Vài hôm sau tôi mới nhận ra quyền lực của “Công An khu vực” gần như “Công An trực trại” trong trại tập trung. Bà Tổ trưởng tổ dân phố là vợ của đại tá cộng sản cùng với tên Công An khu vực, là “hai tên cộng sản quyền lực” đối với gia đình cựu tù chính trị chúng tôi trong khu vực này. Riêng với gia đình tôi, từ sau khi các con chúng tôi vượt biển đến Hoa Kỳ an toàn, bà ta trở nên thù hằn nhất mà bằng chứng là thường xuyên gây khó khăn đến mức không cho Ba Má tôi từ Sa Đéc lên ở trị bệnh. Nhưng vợ tôi cứ liều mạng rồi mọi việc vẫn êm xuôi.
Làm thủ tục tại địa phương xong, vợ chồng tôi đến bưu điện gởi điện tín cho các con chúng tôi ở Houston, Texas, Hoa Kỳ, rằng tôi thật sự về đến nhà. Thật ra khi vợ tôi nhận được điện tín khi tôi chưa rời trại Nam Hà, đã gởi điện tín sang các con chúng tôi rồi, nhưng các con chúng tôi cần cái điện tín xác nhận. Các con chúng tôi vượt biển sáu bảy năm trước đó, nhưng có lẽ vẫn còn nhớ câu nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu hồi đầu năm 1968: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỷ những gì cộng sản làm”, vì vậy khi nhận điện tín báo tin tôi về nhưng vẫn không tin, nên cần được xác nhận để biết là thật.
Đâu đã xong quí vị quí bạn ơi! Tôi và các bạn phải đến Sở Công An để làm thủ tục “nhập hộ khẩu”. Thủ tục này nhiêu khê lắm, vì đây là loại giấy tờ thuộc vào hàng “sinh tử” trong xã hội xã hội chủ nghĩa, vì bất cứ có việc gì cần đến cơ quan hành chánh hay Công An đều phải mang theo cái giấy này. Hồ sơ xin nhập cái gọi là “hộ khẩu” gồm: Đơn của tôi + bản tóm tắt lý lịch 3 đời + giấy ra trại + tờ hộ khẩu + đơn của vợ tôi đồng ý cho nhập hộ khẩu + và hôn thú của vợ chồng tôi. Một tháng sau mới nhận được tờ giấy nhỏ xíu xác nhận hợp lệ, lại mang đến Phòng Quản Lý Hành Chánh & Trật Tự Xã Hội Quận 10, mua một lô các mẫu đơn xin nhập hộ khẩu tại Quận 10. Chưa hết, khi nộp đống hồ sơ này tôi phải viết “bản kiểm điểm” với đại ý là tôi chưa có hành vi nào chống đối chế độ xã hội chủ nghĩa. Một tuần sau nữa, tôi nhận được tờ hộ khẩu có tên tôi.
Thế là xong một loại “giấy hộ mạng” thứ nhất, đến “giấy hộ mạng thứ hai là “chứng minh nhân dân”. Lại phải đến Sở Công An, lại phải làm thủ tục với một đống hồ sơ nữa để xin cái giấy ấy. Mãi đến cuối năm 1987, tôi có trong tay hai cái “giấy hộ mạng”. Công An tại Sở này cho biết, anh em chúng tôi mà họ gọi là ngụy quân nguỵ quyền cao cấp do trung ương của họ quản trị mà họ gọi là quản lý. Với chính sách đó, cho thấy là họ vẫn sợ chúng tôi nên nắm chắc phần theo dõi, thay vì địa phương. Ấy vậy mà lúc học tập chính trị tại trại tập trung Long Giao hồi tháng 09/1975, tên Công An gọi là giáo viên nói như con vẹt, rằng:
“…Đội ngũ sĩ quan các anh là cái đám người nắng không ưa mưa không chịu, nhát gió kỵ mù sương, nắng ngủ mưa nghỉ, mát trời đi chơi ….”
Khoảng 2.000 anh em chúng tôi ngồi bệt trên sàn xi măng dơ dáy, có tiếng nói khơi khơi:
“Phải rồi. Chúng tôi chỉ có ăn chơi mà hai chục năm mới chiếm được đất đai của chúng tôi”.
“Anh nào phát biếu đó?”
Anh em chúng tôi êm re, dại gì làm “anh hùng rơm” mà lên tiếng. Hắn tức lắm, nhưng làm gì được ai.
CHƯƠNG 9 XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM. (1988-1990)
- chín-
Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
(1988-1990)
*****
Từ nhà tù nhỏ là các trại tập trung, tôi bước vào nhà tù lớn là xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi có giấy “chứng minh nhân dân”, còn thật sự tôi có phải là “công dân xã hội chủ nghĩa” hay không, lại là việc khác.
Đằng sau cánh cửa sắt trại tập trung, tôi chỉ vươn tầm nhìn vào xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhìn ra thế giới, ngang qua đài phát thanh Hà Nội ngày được nghe năm bảy ngày không, và tờ báo Nhân Dân. Cả hai phương tiện truyền thông này cũng như tất cả những gì gọi là truyền thông báo chí đều của đảng với nhà nước cộng sản. Hoàn toàn không có bất cứ một phương tiện truyền thông nào của tư nhân cả. Vì vậy mà lượng thông tin vừa ít ỏi vừa nặng về tuyên truyền, mà tuyên truyền thì không đúng sự thật. Ngoài nguồn tin tức đó, thỉnh thoảng anh em chúng tôi nhận tin từ thân nhân hoặc từ các bạn ở ngoại quốc gởi về, bằng cách chọn lọc những trang báo có bài cần cho chúng tôi trong tù đọc, dùng gói quà gởi về Việt Nam. Đám Công An đâu biết những bài báo đó nói gì, vì có những bài bằng Anh ngữ, cũng có những bài bằng Việt ngữ, nhưng những trang báo sau hành trình nửa vòng trái đất, trang báo đã bèo nhèo hết trơn nên họ cho vào trại.
Giờ đây, sống trong xã hội xã hội chủ nghĩa hay là nhà tù lớn, đang trong thời kỳ gọi là cởi trói báo chí, tôi hy vọng có thể nhận ra nền giáo dục Việt Nam cộng sản, vì tôi hiểu rằng, giáo dục là nền tảng đào tạo con người, từ đó dẫn đến xây dựng và phát triển quốc gia.
Chuyện nhà đất.
Nhà và đất, là một trong những mục tiêu trước mắt của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam từ trung ương đến tận các địa phương, tranh đoạt từ bất cứ ai là công dân Việt Nam Cộng Hòa cũ mà họ dùng những gian trá mánh khóe như nhà rộng, nhà vắng chủ, nhà nước mượn, nhà nước quản lý, ..v..v.., để cướp đoạt làm tài sản riêng, dù rằng không ít trường hợp họ ẩn dưới danh nghĩa như là lợi ích xã hội chủ nghĩa, mà lợi ích xã hội chủ nghĩa là gì thì họ cũng chẳng giải thích được.
Trước hết là một số sự kiện gian trá cướp đoạt đó ngay trong cư xá Bắc Hải chúng tôi. Nhớ lại những ngày giữa tháng 05/1975, Công An Phường 15 với Công An Quận 10, đã chiếm đoạt 174 căn nhà của các vị Tướng Lãnh và sĩ quan di tản, mặc dầu trong những nhà đó vẫn còn thân nhân của những người di tản. Sau khi tất cả sĩ quan cư ngụ trong cư xá đều vào trại tập trung, Công An Phường 15, Công An Quận 10 và cơ quan nhà đất Quận 10, hợp nhau hết đuổi đi mà họ gọi là vận động, đến đe dọa chiếm đoạt tịch thu bất cứ nhà nào họ muốn. Đợt chiếm đoạt đó không được bao nhiêu nhà vì các chị chống đối dữ dội, nói cho đúng là liều mạng mà chống lại lệnh của họ rồi ra sao thì ra, cho nên họ quay sang cách khác cũng gọi là “vận động” bằng cách dụ dỗ hiến nhà cho nhà nước thì chồng trong trại tập trung được về sớm. Cách này xem chừng họ thành công hơn đợt trấn lột trong những tháng cuối năm 1975.
Ở những khu khác như thế nào không rõ, chớ trong cư xá Bắc Hải chúng tôi phải công nhận cái “tinh thần trấn lột của cộng sản rất kiên trì”. Nhiều gia đình của các bạn tôi thật sự “trúng kế dụ dỗ” của họ, nên đã đổi nhà lớn trong cư xá nhận nhà nhỏ ở nơi nào đó hoặc hiến nhà cho chúng nó, như gia đình cựu Đại Tá Phan Xuân Nhuận, cựu Đại Tá Đinh Xuân Kế, cựu Đại Tá Nguyễn Văn Huấn, cựu Trung Tá Giang Văn Trọng, ..v..v.. Có trường hợp bi thảm hơn nữa như gia đình cựu Trung Tá Trần Chí Thẩm. Chị Thẩm cũng là người rất cương quyết giữ lại căn nhà để ở, vì vậy mà bị Công An khu vực và Công An Phường 15 Quận 10 bắt chị hằng ngày phải đến văn phòng họ ngồi đó, từ đầu giờ đến cuối giờ làm việc, và liên tục như vậy suốt mấy tháng liền. Một hôm chị đến thăm tôi, nhân đó chị kể cho tôi nghe nỗi đau của chị khi bị chúng nó gạt:
“Anh nghĩ coi. Suốt mấy tháng đó tôi nhất quyết không đưa hồ sơ nhà cho họ, nhưng một hôm họ nói với tôi là đưa giấy tờ nhà cho họ coi để họ giải quyết dứt khoát. Tôi cứ tưởng họ thay đổi ý kiến. Tôi lấy hồ sơ từ trong túi xách ra đưa cho họ. Xem xong, lập tức họ bỏ vào tủ khóa lại, rồi ra một cáilệnh mà khi nghe xong tôi cứ tưởng họ nói với ai vậy anh. Tên Công An Phường gần như hét::
“Ngày mai chị phải dọn ra khỏi nhà”. Nói xong là nó đuổi tôi ra và đóng cửa văn phòng”.
Đến đây chị ngưng lại vì xúc động! Một lúc sau:
“Tôi kể tiếp anh nghe. Khi tôi bị họ gạt lấy hồ sơ chủ quyền nhà, uất ức quá, tôi lảo đảo về nhà và gần như gục ngã trước cửa! Khi tỉnh lại, mẹ con tôi mua cây mua lá che cái mái ngay trong sân tầng trệt chắn một phần lối lên tầng trên mà ở. Nấu nướng tạm bợ cũng được, nhưng tắm giặt phải nhờ nhà chị bạn ở đầu dãy. Khổ lắm anh ơi! Lát nữa anh theo tôi đến xem cái gọi là cái nhà mà mẹ con tôi ở sau khi dọn ra khỏi nhà tôi.”
“Vâng. Tôi theo chị đến “cái nhà” mà chị và các cháu đang ở”.
Quí vị quí bạn có thể nhớ lại đoạn tôi kể cái lán trại của trại tập trung Yên Bái lợp bằng cây chổm, nằm trên vạt giường cũng bằng cây chổm nhìn lên trần nhà thấy cả bầu trời đầy sao và cả mây bay gió thổi nữa, nhưng giọt mưa không rơi xuống. Còn “cái gọi là nhà” của chị Thẩm mà tôi đang đứng xem, mái nhà trống trải nên nhìn rõ gió thổi mây bay, và có bao nhiêu giọt mưa rơi trên cái mái nhà thì ngần ấy giọt mưa xuống hẳn bên trong nhà chị. Tất cả đều ướt! Đầu năm 1988, anh Thẩm ra trại và cùng ở nơi đây!
Khi vào trại tập trung, trong thời gian đầu cứ như “điếc không sợ súng” nên tôi đối đầu với những toán thẩm vấn, dần dần đối đầu với đám Công An cai tù. Thật lòng mà nói, nếu như từ đầu tôi “không điếc nên biết sợ súng” thì chưa chắc tôi có chút kinh nghiệm đối đầu với cộng sản lúc còn trong trại tập trung cũng như bây giờ đã ra khỏi nó, dù rằng bây giờ tôi đang ở trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà bất cứ ai từng là nạn nhân cộng sản, đều gọi là “trại tập trung lớn”.
Nhân lúc anh chị tôi từ Sa Đéc lên Sài Gòn làm hồ sơ để lấy lại căn nhà số X12bis cũng trong cư xá Bắc Hải, mà anh chị tôi theo lời dụ dỗ gian trá mà họ gọi là “vận động” đã gởi căn nhà cho họ để về quê hồi năm 1976, nay chuẩn bị dọn trở về đây. Chỉ riêng cái sự kiện “gởi nhà cho nhà nước” cũng là cái chính sách lạ kỳ của nhà nước cộng sản.
Vì anh chị tôi bận nên tôi giúp lo giấy tờ. Khi trong nhà tù nhỏ, đối đầu với nhóm sĩ quan quân đội và công an cộng sản cấp trung ương “do điếc không sợ súng” mới có được bài học kinh nghiệm, bây giờ tôi muốn thử xem mức độ gian trá trấn lột trong nhà tù lớn này ra sao. Tôi đến cái cơ quan có tên là “Quản Lý Nhà Đất Quận 10. Trong góc phòng, một nhóm “viên chức nhà nước cộng sản” đang kể chuyện đêm qua xem phim dù lúc ấy đã hơn 10 giờ sáng, một cô nhỏ nhắn trong số đó bước đến hỏi tôi trong khi gở tay anh chàng có nét mặt hơi thô đang quàng lên vai cô ta:
“Anh có việc gì?”
Con gái Sài Gòn xã hội chủ nghĩa bây giờ ăn nói cụt ngủn, với lại cái giọng nói sao mà khó ưa quá.
“Tôi nộp hồ sơ giùm anh chị tôi xin lấy lại căn nhà đã gởi cho nhà nước”.
Cô ta ỏng ẹo:
“Đâu có nhà nào gởi mà lấy với không lấy. Chúng tôi chỉ nhận nhà hiến thôi. Đưa hồ sơ coi”.
Cô ta lật qua lật lại mà tôi nghĩ là cô ta chẳng hiểu nội dung gì cả, rồi vào phòng trong đưa cho anh chàng có lẽ là trưởng phòng. Cửa phòng không đóng, tôi thấy hắn cũng lật qua lật lại đọc tới đọc lui, hắn đưa tay ngoắc tôi vào:
“Đã hiến rồi, không xét”.
Tôi đáp: “Anh xem biên bản đi, anh chị tôi gởi chớ đâu có hiến”.
“Gởi hay hiến cũng vậy thôi”.
“Anh nói vậy mà anh nghe được à! Trong tự điển Việt Nam mình chữ gởi với chữhiến hoàn toàn khác nghĩa. Gởi có nghĩa là sẽ lấy lại, còn hiến là không lấy lại. Chữ với nghĩa rất rõ ràng, sao anh nói vậy?”
Hắn lườm tôi một lúc, tương tự như Công An Thịnh “khuỳnh” trại tập trung Nam Hà A lườm tôi lúc xét quà của tôi vậy:
“Tôi nói rồi. Không xét là không xét. Chừng nào anh chị của anh có hộ khẩu ở đây tôi mới xét”.
“Gì kỳ vậy. Anh không trả nhà làm sao về đây ở được mà anh đòi hộ khẩu. Anh đại diện cho nhà nước về nhà đất ở Quận mà anh trả lời như vậy dân làm sao nghe cho thông”.
Tôi với hắn có hơi lớn tiếng làm cho những người bên ngoài vẫn còn kể chuyện phim, có lúc cười lớn tiếng, vài người trong số họ bước đến cửa, nhìn tôi. Tôi nhìn họ một lượt, rồi quay ra. Hắn phán một câu cộc lốc:
“Anh để đơn đó. Về đi. Xét sau”
“Chừng nào anh trả lời cho người đứng đơn?”
“Khi nào xét xong sẽ trả lời”.
“Anh cho tôi biên nhận để anh chị tôi hoặc tôi mang đến làm bằng chứng nói chuyện mới được chớ”.
“Sợ mất thì mang về mà giữ”.
“Tôi không sợ mất, nhưng thông cáo trên báo là các cơ quan nhà nước mỗi khi nhận đơn đều có biên nhận để dân tiện liên lạc khi cần. Tôi chỉ làm theo hướng dẫn của nhà nước thôi”.
Cô bé lúc nảy: “Viết cho ổng đi, ở đó mà đôi co cho lắm chuyện ”.
Khi ra đến cửa, tôi nghe tiếng con bé nào đó:
“Ông già này hổng phải thứ vừa đâu nghe. Lần sau phải để ý ổng”.
Qua lần đó, chỉ mới đụng chạm sơ sơ thôi, tôi thấy nền giáo dục xã hội chủ nghĩa 20 năm trên đất Bắc và 15 năm trên toàn cõi Việt Nam, đã tạo nên những con người không một chút tử tế nào cả. Họ ăn nói theo cái tư tưởng dối trá trấn lột mà không cần cái lý cái lẽ trong văn chương chữ nghĩa Việt Nam. Nói càn nói đại miễn là đạt được mục đích cho họ, trường hợp bị chất vấn đến mức không tìm được cách tránh né, lúc ấy họ liền nhân danh đảng với nhà nước cộng sản của họ để “áp đảo” người đối diện. Từ Bắc vào Nam, bài bản của họ y chang như vậy.
Dự định của tôi là thông qua báo chí và từ các bạn ra trại tập trung trước tôi, để tìm hiểu về các lãnh vực trong xã hội mà trọng tâm là lãnh vực giáo dục, kinh tế, và tư pháp. Nhớ lại ngay sau đại hội của đảng cộng sản hồi cuối 1986, ông Nguyễn Văn Linh nhân danh Tổng Bí Thư tuyên bố cởi trói cho báo chí nói thật về những chuyện trong xã hội mà trước đây bị cấm, cho nên có những bài báo phải công nhận là “bạo” với những bài viết thẳng thừng. Nhưng chẳng bao lâu sau đó, ông ta ra lệnh ngăn cấm gay gắt hơn trước nữa. Nhờ vào thời gian cởi trói báo chí mà tôi thu thập được một số bài báo về các lãnh vực mà tôi đặt trọng tâm tìm hiểu, nhất là lãnh vực giáo dục.
Giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Thưa quí vị quí bạn, trong bối cảnh xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một xã hội mà toàn bộ các sinh hoạt trong tình trạng suy sụp, ngay cả đạo đức cũng vậy. Ngành giáo dục, một ngành mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam trao trách nhiệm trăm năm trồng người lại là tệ hại hơn tất cả! Lỗi của học sinh sinh viên chăng? Tôi nghĩ, một phần nhỏ. Lỗi của phụ huynh chăng? Tôi nghĩ, một phần nhỏ. Lỗi của xã hội chăng? Tôi nghĩ, một phần nhỏ. Nguồn gốc tội ác này là nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam trong bộ chính trị, cái cơ quan có toàn quyền hoạch định mọi đường lối chính sách và thúc đẩy thực hiện những hoạch định đó. Chính họ đưa ra chính sách giáo dục, chính họ chỉ thị soạn sách giáo khoa, cũng chính họ duyệt nội dung sách giáo khoa và đưa vào học đường. Và khi họ đã quyết định thì không một ai có quyền đề nghị thay đổi, ngay cả sai lầm cũng không được phủ nhận.
Đi trước một khoảng thời gian. Tôi đến Houston đầu tháng 04/1991 trong đợt HO 5. Tháng 06/1991, tôi sang Westminster (Nam California) làm trong tiệm “Hang Nga Beauty Supply” cùng với anh Võ Hồng Lạc. Theo lời anh Lạc, anh là Hiệu Trưởng Trường Trung Học Mạc Đỉnh Chi (Phú Lâm, Sài Gòn) đến cuối cùng. Ngay sau ngày 30/04/1975, một phụ nữ cộng sản từ ngoài rừng vào đô thị ngồi vào ghế Hiệu Trưởng thay anh, và anh trở về vị trị “giáo sư sử địa”. Câu chuyện khá dài, như lời tâm sự của người giáo sư sử địa bị bắt buộc phải dạy những điều hoàn toàn trái ngược với môn sử địa Việt Nam. Tôi tóm tắt như sau:
Bài viết về sông Cửu Long trong sách giáo khoa như thế này: “Sông Cửu Long có đoạn chảy ngang Sài Gòn …” Anh cứ tưởng mình sẽ được khen tặng vì chứng minh sự sai lầm khi anh cầm cuốn sử địa xin gặp “bà Hiệu Trưởng”. Anh Lạc nói với bà ta là sách giáo khoa này viết không đúng, vì sông Cửu Long không có đoạn nào chảy ngang Sài Gòn cả. Nói xong, anh lấy làm lạ về sự kinh hãi của bà cộng sản hiệu trưởng khi nghe anh phê bình sách giáo khoa. Bà ta dẫn anh vào gặp người cộng sản đàn ông mà anh nghe xưng hô là Bí Thư chi bộ đảng của trường. Cái anh bí thư này cũng kinh hãi, rồi ú ớ hẹn 3 giờ chiều anh Lạc đến trình diện.
Đúng giờ, anh Lạc đến., bị bí thư quát cho một trận:
“Anh dám phê bình lãnh đạo đảng?”
“Không. Tôi chỉ nói sự thật. Sông Cửu Long đâu có đoạn nào chảy ngang Sài Gòn. Nếu tôi dạy không đúng thì học sinh sẽ hiểu không đúng, rất là hại”.
“Sách giáo khoa này đảng đã duyệt, mà khi đảng đã duyệt thì không có gì sai cả”.
“Trên địa thế không phải như viết trong sách, làm sao tôi dạy học sinh được. Nếu vậy, tôi xin nghỉ dạy”.
“Anh chống đối đảng hả? Anh viết kiểm điểm rồi trình tôi”.
Anh Lạc lặng lẽ ra về mà lòng ấm ức. Chỉ xin nghỉ việc cũng bị ghép vào tội chống đối. Cảm thấy nguy hiểm, khi nộp bản kiểm điểm, anh xuống nước giải bày sự kiện. Và cuối cùng anh cũng được yên thân và nghỉ việc.
Đến đây là hết phần tóm tắt câu chuyện của giáo sư Võ Hồng Lạc. Nhưng sự kiện này góp phần chứng minh về sự ngu muội của các tầng lớp cán bộ đảng viên. Sự kiện này làm tôi nhớ lại lúc bị giam trong trại tập trung trong rừng già quận Trấn Yên, tỉnh Hoàng Liên Sơn những năm 1976-1978. Tên Trung Uý Khảm, quản giáo Tổ có tôi trong đó, với vẻ mặt kiêu hãnh khi hắn nói:
“Năm 1964, khi đế quốc Mỹ dùng Hạm Đội 7 tấn công các hải đảo của ta, phi công cách mạng rất linh hoạt sáng tạo, đã bay thấp xuống và chui dưới đáy tàu Mỹ qua bên kia trồi lên bay tiếp, nên súng đạn Mỹ không làm gì được”.
Quí vị quí bạn nghe có được không? Chiếc phi cơ khu trục được sản xuất cho dù từ nước Nga cộng sản hay nước nào trên thế giới, đâu có khả năng lặn dưới nước mà vẫn bay như bay trong không gian vậy. Thế mà hắn vênh mặt lên như thế anh em chúng tôi từ hành tinh khác mới đến địa cầu vậy.
Chưa hết. Đến chuyện phi cơ tắt máy phục kích trên tầng mây. Cũng tên Khảm, quản giáo Tổ chúng tôi. Tối hôm ấy, hắn vào “lán” chúng tôi kể chuyện về Đại Hội 4 đảng cộng sản của hắn với tổng kết sơ khởi có 4.000.000 (4 triệu) thanh niên miền bắc chết trong chiến tranh. Ý của hắn cho là tại chúng tôi chống cái chế độ độc tài của hắn nên nhiều triệu thanh niên xã hội chủ nghĩa mới chết như vậy. Xong hắn lại khoe khoang cũng xoay quanh cái việc phi công của hắn linh hoạt sáng tạo, nhưng lần này không phải lặn xuống biển mà là phục kính trên trời. Hắn có vẻ sung sướng khi nói với chúng tôi:
“Trong thời gian B52 đế quốc Mỹ thả bom rải thảm miền Bắc, phi công anh hùng Phạm Tuân đã vọt lên không trung, chui vô mây, tắt máy phục kích. Chờ B52 bay phía dưới, anh hung Phạm Tuân rồ máy tấn công B52 từ trên cao”.
Hắn là Trung Úy chớ có phải là lính dốt nát ngu đần đâu, mà hắn nói như thiệt vậy quí vị quí bạn à! Trên tầng mây cao, phi cơ tắt máy phục kích …Trời ơi! Sao người cộng sản lại ngu muội đến như vậy!
Thời phong kiến xa xưa được học qua sử sách, các quan trong triều từ nhỏ đến lớn khiếp sợ vua đến nhũn người, nhất cử nhất động đều phải vái lạy vua tạ ơn vua, kể cả lúc vua trừng phạt cũng vậy. Bây giờ, nền giáo dục của cộng sản Việt Nam từ năm 1954 trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và từ năm 1975 trên toàn cõi Việt Nam, chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục đảng, tuân phục đến nhũn người như thời phong kiến hằng trăm hằng ngàn năm trước! Tuân phục đến mức đảng của họ nói sông Cửu Long có đoạn chảy ngang Sài Gòn, máy bay lặn xuống biển chui dưới đáy chiến hạm, máy bay chui vô mây tắt máy phục kích … mà họ vẫn cúi đầu chấp nhận! Quả thật ông Hồ và đàn em đàn cháu của ông, đã “thành công trong nỗi đớn đau của lịch sử” về cái chính sách trăm năm trồng người của họ, và vẫn tiếp tục thực hiện công cuộc “trồng” nên những lớp người ngu muội, dẫn đến một xã hội suy tàn đạo đức!
Chung qui từ giáo dục mà ra. Mời quí vị quí bạn theo dõi cuộc hội thảo về giáo dục, trong giai đoạn ngắn ngủi gọi là “cởi trói” cho báo chí phản ảnh sinh hoạt xã hội. Đây là tóm lược bài viết của Vũ Hạnh đăng trong báo Công An ngày 31/05/1989 tại Sài Gòn.
Trung tuần tháng 05/1989, Viện Nghiên Cứu Giáo Dục phía Nam và Ban Khoa Giáo thành ủy Sài Gòn mà họ gắn cái tên ông Hồ vào đó, phối hợp tổ chức cuộc hội thảo tại số 36 đường Lê Thánh Tôn, với sự tham dự của giáo viên giáo sư từ các trường học và từ các cơ quan nghiên cứu giáo dục. Mục đích, tìm hiểu sự suy đồi đạo đức học đường. Bà Tôn Thuyết Dung, được đánh giá là nhà giáo dũng cảm khi nhận trách nhiệm nghiên cứu và trình bày đề tài “Tìm hiểu nhược điểm và khuyết điểm của sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy đạo đức cho học sinh”.
Bà Dung nhận định:
“Sách giáo khoa đang sử dụng đã lỗi thời vì nó được soạn ra trong thời kỳ chiến tranh, và chỉ nhắm vào lớp trẻ sống ở nông thôn miền Bắc. Tất cả chỉ phục vụ mà không quan tâm đến đạo đức, chuyên chở những chủ đề mà tầng lớp thanh thiếu niên không dễ gì cảm nhận được chứ nói gì đến học hỏi. Chẳng hạn như “cá thể với tập thể, đả đảo với ủng hộ, ngụy quyền với chánh quyền, đế quốc với cách mạng, phản động với trung thành, ..v..v..”. Sách giáo khoa lại tham lam khi đề cập nhiều vấn đề, nội dung phản lại giáo dục ở điểm trưng dẫn những sự kiện xấu mà không chỉ dạy cách sửa đổi. Sách không đào tạo con người trước khi nói đến chủ nghĩa cộng sản. Về các câu hỏi để học sinh trả lời không nhắm vào chủ đề rõ rệt, không giúp học sinh phát huy nhận thức, trái lại gò ép học sinh trả lời một cách dối trá”.
Cũng trong hội thảo này, ông Xuân Diệu (không biết có phải là nhà thơ Xuân Diệu hay không) nhận xét thật ngắn nhưng rất sâu sắc:
“Một trong những thiếu sót quan trọng là giáo dục không đào tạo con người, nên rốt cuộc xã hội chúng ta chỉ có thần dân mà không có công dân”.
Lại một nhận thức sâu sắc khác:
“Giáo dục phải nhắm mục đích tạo nên con người dân chủ từ bé, phải chống lại sự tha hóa lớn nhất hiện nay là sự quanh co dối trá, sự thiếu thành thật giữa con người với nhau…”.
Tiếp đây là bài viết trên báo Tuổi Trẻ: Tại buổi lễ cuối năm học 1988-1989 tổ chức vào ngày cuối tháng 05/1989 tại một trường trung học phổ thông Quận 1, khi một nữ sinh lớp 9 đang phát biểu một cách trôi chảy rằng:
“Nhờ ơn bác dẫn dắt, nhờ ơn đảng soi đường, nhờ ơn đoàn chắp cánh cho em bay lên, ….”
Nghe đến đây ông đại diện Quận 1 hỏi Bí thư đoàn thanh niên của trường đang ngồi bên cạnh:
“Con bé rất tiến bộ. Vậy nó đã vào Đoàn chưa?
Anh bí thư đáp:
“Nó không chịu vào đoàn. Môn văn của nó khá lắm nên nó trình bày rất hay, nhưng cứ mỗi lần vận động vào đoàn thì nó trả lời, vào đoàn chỉ mất thì giờ chớ chẳng có lợi gì hết. Thành ra nó nói vậy chớ không phải vậy”.
Cũng trong tờ báo này, có mẫu tin liên quan đến câu “nói vậy nhưng không phải vậy” trên đây. Trong buổi thi cuối lục cá nguyệt, thầy giáo chấm bài đã hết lời khen ngợi bài luận về “Gia đình em trong cuộc sống hôm nay” của một nữ sinh lớp 8, vì bài viết rất thực, rất sống động về cuộc sống nghèo nàn gian khổ. Nhưng thầy rất đau lòng khi nói với học sinh của mình rằng:
“Em viết rất hay, rất thật, nhưng thầy khuyên em, nếu như em muốn tiếp tục học nữa, em phải viết theo bài học, vì bài luận này trình lên Sở thì em không thể học nữa đâu. Thầy thật lòng khuyên em như vậy”.
Tác giả bài báo thêm một câu vắn tắt rằng:
“Từ lâu lắm rồi, dốí trá là nấc thang trong học đường, và liệu bao giờ giáo dục mới thoát khỏi cái văn hoá dối trá đó?”
Và đây là tóm tắt báo cáo của Sở Giáo Dục ngày 7/10/1989 đăng trong báo Tuổi Trẻ ngày 10/10/1989:
“Tình hình giáo dục vẫn trong tình trạng yếu kém trên toàn quốc. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này rất nhiều, nhưng có thể qui vào các điểm:
Thứ nhất, ngân sách giáo dục toàn quốc chỉ 4 đến 4.5%, riêng tại thành phố đạt đến 10% nhưng không thỏa mãn tối thiếu về nhu cầu lương cho thầy giáo cô giáo, cho nên giáo viên không thể tập trung vào dạy và học, vì phải đi làm thêm để kiếm sống. Tệ hơn nữa, các Quận ven thành phố thường là nợ lương giáo viên từ 3 đến 4 tháng. Cũng vì vậy mà Sở Giáo Dục hằng năm chỉ tuyển được 50% giáo viên trong tổng số nhu cầu.
Thứ hai, “chất lượng” giáo dục rất tệ. Chỉ có 5% học sinh được xếp vào hạng giỏi. Số học sinh từ lớp 1 đến lớp 12 bỏ học đến 80%”. Về lương giáo viên, nhân Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/1988, lãnh đạo của thành phố chỉ thị Quận/Huyện trực thuộc phải trích ngân sách để tăng lương cho giáo viên từ 40.000 đồng/tháng lên 80.000 đồng/tháng. Quận/Huyện la lên ngân sách không gánh vác nỗi, và quay sang bắt dân gánh chịu bằng cách đóng tiền học hằng tháng mà nguyên tắc trường công là không học phí. Quận/Huyện qui định mỗi học sinh từ lớp 1 đến lớp 3 đóng 1.000 đồng. Lớp 4 lớp 5 đóng 2 kí lô gạo, mỗi học sinh cấp 2 (tức trung học đệ nhất cấp) đóng 3 kí lô gạo, và học sinh cấp 3 (tức trung học đệ nhị cấp) đóng 4 kí lô gạo. Tất cả những kí lô gạo đó đều qui ra tiền khi nộp cho nhà trường.
Thứ ba, trường học ngày càng cũ kỹ mà không được tu bổ đúng mức. Trong đài truyền hình Cần Thơ có tiết mục “Chuyện Xã Tôi” từ năm 1988 mà báo chí Sài Gòn lẫn Hà Nội đều khâm phục là rất can đảm, đã dám đưa lên màn ảnh nhỏ một sự thật ở cấp xã thuộc tỉnh Hậu Giang, đó là ngôi trường học xiêu vẹo, dột nát, chỉ có mái lợp mà không có tấm vách nào bao bọc chung quanh che gió chắn mưa. Thê thảm hơn nữa là không có cái bàn học nào cả, ngoại trừ cái bàn và cái ghế duy nhất của giáo viên. Học sinh phải đem theo manh chiếu để ngồi và mảnh ván nhỏ để trên nền đất, học sinh trong thế nửa ngồi nửa nằm mà viết”.
Thưa quí vị quí bạn, tôi xin tách ra chữ “can đảm” ở đoạn trên đây để giải bày cho rõ thêm. Thuở ấy là “thời cởi trói” cho truyền thông nhà nước do ông Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh đưa ra, nên ông phóng viên nào đó của nhà nước Cần Thơ mới dám đưa cái hoạt cảnh giáo dục xã hội chủ nghĩa lên truyền hình. Tôi thường xem tiết mục “mỗi tuần một chuyện” trên đài truyền hình Cần Thơ. Nhiều chuyện khác nhau trong sinh hoạt nông thôn nhưng tôi chỉ chú trọng những chuyện liên quan đến giáo dục. Nhưng rồi cái thời cởi trói ấy chỉ “tự do” được trong thời gian ngắn ngủi, tất cả bị trói lại và trói chặt hơn trước, chỉ vì trong thời gian cởi trói mà nhiều tệ trạng trong xã hội xã hội chủ nghĩa phơi bày ra ánh sáng. Chưa phải là tất cả, nhưng quá đủ để lãnh đạo cộng sản Việt Nam trong bộ chính trị kinh hãi rồi!
Cũng trong giáo dục. Trên màn ảnh đài truyền hình Sài Gòn tối 20/07/1989, có bài tường thuật hội nghị tổng kết năm học 1988-1989 riêng cho các tỉnh phía Nam, từ Thừa Thiên/Huế xuống đến Cà Mau, như sau:
“Hội nghị nhận định học sinh tiểu học là đầu mối quan trọng của hệ thống giáo dục, có trình độ rất kém. Kém đến mức học sinh lớp 1 chỉ có 20% biết đọc bập bẹ, còn lại 80% chẳng biết gì cả. Hội nghị đã gióng nhiều hồi chuông báo động trong toàn diện hệ thống giáo dục, ít nhất là giáo dục tại các tỉnh miền Nam. Đặc biệt là hồi chuông báo động về sự suy đồi đạo đức”.
Trong bài tường thuật, tôi không thấy hội nghị đưa ra biện pháp nào để chỉnh đốn những hồi chuông báo động đó, mà là kết thúc theo kiểu bỏ ngõ như vậy.
Thưa quí vị quí bạn, theo tôi, giáo dục là lãnh vực quan trọng bậc nhất trong xây dựng con người, từ đó dẫn đến phát triển đất nước. Vì vậy mà tôi chỉ ghi lại đây một vài góc cạnh về giáo dục trong 14 năm xã hội chủ nghĩa, 1975-1989 .
Đến nay là năm 2007, giáo dục trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không có gì khá hơn suốt chiều dài 32 năm qua. Bằng chứng là ông Bộ Trưởng Giáo Dục & Đào Tạo, trong buổi điều trần tại cơ quan gọi là Quốc Hội cộng sản Việt Nam hồi cuối năm 2006, ông cho rằng:
“… Có 7 vấn đề cấp bách trong hệ thống giáo dục Việt Nam tồn tại từ lâu nay, là: (1) Bệnh thành tích. (2) Tiêu cực trong thi cử. (3) Bằng cấp giả mạo. (4) Cần cải tổ chương trình cấp phổ thông. (5) Biên soạn và ấn hành sách giáo khoa. (6) Phẩm chất giáo dục mà ông gọi là “chất lượng giáo dục”. (7) Giúp sinh viên tìm việc làm…. “
Ông nêu 7 vấn đề như là cấp bách của Bộ Giáo Dục & Đào Tạo, nhưng không thấy ông cho biết đã thực hiện chưa, nếu đang thực hiện thì diễn tiến ra sao, mà ông chỉ nói suông thôi.
Ông cũng cho biết là Thủ Tướng của ông đã chấp thuận thành lập thêm 5 trường đại học công và 15 trường đại học tư. Số lượng 20 trường đại học này sẽ thành lập tại: Tỉnh Hòa Bình 1 trường + đồng bằng Sông Hồng 7 trường + Miền Trung 4 trường + 8 trường còn lại thành lập tại đồng bằng sông Cửu Long và Sài Gòn.
Tôi vào trang Web về giáo dục của cộng sản Việt Nam, có rất nhiều lãnh vực, nhưng thực chất đó chỉ là hình thức, còn nội dung bên trong không giúp gì cho sự nghiên cứu, chẳng hạn như:
- Có những ô những cột mà bên trong hoàn toàn trống rỗng.
- Có những bài viết chung chung, không nói lên được góc cạnh nào rõ nét cả.
- Có bài viết nhưng lỗi thời, vì những dữ kiện của sáu bảy năm về trước. Điển hình bây giờ là năm 2007 mà trang Web của họ chỉ có tài liệu năm 1997. Theo đó, năm học 1996-1997, toàn cõi Việt Nam có 22.000.000 học sinh tiểu học, 17.500.000 học sinh trung học, 26.000 sinh viên cao đẳng và đại học.
Với con số học sinh sinh viên ghi nhận trên đây, nếu nhìn theo khía cạnh dân số thì Việt Nam là một dân số trẻ, nếu nhìn theo khía cạnh giáo dục thì những thế hệ này tiếp tục bị chế độ nhận chìm trong chính sách giáo dục một chiều đào tạo “những thế hệ thần dân”, và đây là mối quan tâm bậc nhất của những vị lãnh đạo Việt Nam thời hậu cộng sản trong mục đích đào tạo những thế hệ công dân trong xã hội dân chủ pháp trị trong tương lai.
Cũng trong trang Web đảng và chánh phủ Việt Nam cộng sản, đặt giáo dục và phát triển khoa học kỹ thuật lên hàng chiến lược nhưng không thấy nói cách thực hiện chiến lược giáo dục như thế nào, mà họ chỉ cho biết hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay trong tình trạng rất nhiều khó khăn. Chẳng hạn như nhiều trường học không được bảo trì đúng mức, dụng cụ trang bị học đường lỗi thời, sách giáo khoa chỉ cải tiến ở trên ngọn chớ chưa cải tiến nền tảng, giáo viên không đủ phẩm chất mà họ gọi là chất lượng giảng dạy, và hằng triệu học sinh bỏ học, và ..v..v...
Theo giáo sư tiến sĩ Trần Văn Hiến, giảng dạy tại đại học Houston ở thành phố Clear Lake, ông thường được trường đề cử sang Việt Nam giảng dạy bộ môn kinh tế tài chánh, và phụ trách các chương trình giúp sinh viên Việt Nam sang du học Hoa Kỳ. Ông trả lời phỏng vấn của đài Á Châu Tự Do, khi được hỏi về sự đánh giá của thế giới về nền giáo dục Việt Nam hiện nay, ông nói:
“Năm 2006, giáo dục Việt Nam ở thứ hạng 90/135 quốc gia. Nếu Việt Nam không nhanh chóng cải tổ giáo dục thích nghi với sức phát triển chung của thế giới, thì kinh tế Việt Nam chỉ làm gia công cho các nhà đầu tư ngoại quốc”.
Thưa quí vị quí bạn, xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau 15 năm 1975-1990, tất cả lãnh vực sinh hoạt quốc gia đều suy đồi thảm hại, nhất là giáo dục, trong khi giáo dục là nền tảng xây dựng con người để từ đó xây dựng quê hương đất nước. Thế nhưng, từ năm 1990 cho mãi đến bây giờ là năm 2010, bộ máy điều hành xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vẫn là lớp “thần dân” chỉ biết tuân phục đảng và nhà nước cộng sản của họ. Trong khi một lớp người có tư cách công dân, đứng lên đòi hỏi quyền được sống và quyền mưu cầu hạnh phúc cho xã hội mà Hiến Pháp năm 1992 của họ thừa nhận, thì họ nhân danh đảng nhân danh nhà nước đàn áp trừng phạt. Hiến Pháp do chính cộng sản soạn thảo ban hành, nhưng nó chỉ được sử dụng để che chắn cái bản chất độc tài gian manh dối trá của họ chớ không bảo vệ người dân. Vậy mà, họ thường huênh hoang con người là vốn quí, được sống trong chế độ ưu việt, chế độ không có người bóc lột người, họ là đại diện của giai cấp công nhân nông dân, ..v..v...”
Suy cho cùng, lãnh đạo cộng sản Việt Nam nói đúng. Đúng ở chỗ, “không có người bóc lột người, mà chỉ có đảng cộng sản bóc lột dân thôi, vì giữa dân với nhau có ai bóc lột ai đâu, phải không quí vị quí bạn?
12345678
KÝ SỰ TRONG TÙ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA - KỲ CUỐI
12345678
CHƯƠNG 10 XUẤT NGOẠI TỊ NẠN TẠI HOA KỲ
Hai chữ HO.
Trước khi theo dõi hệ thống thủ tục mà chúng tôi phải hoàn tất, mời quí vị quí bạn xem qua nguyên văn bức thư của cựu Đại Tướng John W. Vessey, đặc phái viên của Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan, gởi anh Hội Trưởng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Minnesota khi ông được mời tham dự đại hội H.O. tại địa phương ông cư ngụ. Trong thư, ông giải thích rõ về nguồn gốc hai chữ H.O.
Cũng qua thư của cựu Đại Tướng Vessey, chúng ta càng hiểu sâu thêm về điều mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam gọi là khoan hồng nhân đạo đối với quân nhân, viên chức, cán bộ, Việt Nam Cộng Hòa cũ ra khỏi các trại tập trung từ năm 1987. Thật ra, chúng tôi ra khỏi trại tập trung là do sự trao đổi giữa Hoa Kỳ với Việt Nam cộng sản. Tuy trong thư cựu Đại Tướng Vessey không nói trao đổi như thế nào, nhưng rõ ràng là từ đó, cộng sản Việt Nam từng bước đến gần, và cuối cùng là bắt tay được với Hoa Kỳ, và từng bước hội nhập vào cộng đồng thế giới.
General USA (retired)
John W. Vessey
June 10, 1997
To Mr. Nguyen xuan Huan
President, Association of Former Political Detainees in Minnesota.
1030 University Avenue
ST. Paul, MN 55104.
Dear Mr. Huan.
Because I am unable to attend your important meeting on Saturday, June 21, I ask that this letter be read on my behalf to your members and guests.
It is important to honor all those who served the cause of freedom in Vietnam and Indochina. It is also important to recognize and assist those who suffered under Communist rule for their prior service to the Republic of Vietnam. Political detainees under the Communist regime after 1975 had served their country and their people in the honorable and esteemed tradition of parriotism, putting service to country above self during a long and arduous war.
The sacrifices of all who served and fought in the Vietnam war, Vietnam, Americans, and other Allies, made a difference for the important human ideals of freedom and personal dignity. The world was changed through a collective effort. The spread of Communist in Asia was harted by the sacrifices in Vietnam, Laos, and Cambodia, and with the help of other nations of Southeast Asia. All who participated in that effort can be proud of their contributions.
When President Reagan call me back from military retirement in 1987 to be his Presidential Emissary to Hanoi, one of the highest priority tasked he assigned me was to seek the release of our former South Vietnamese comrades who had been detained in the, so-called, "reeducation camps". I was authorized to assure the Hanoi government that the United States would accept and welcome those detainees and their families in this country.
Because, at the time of the original negotiations, there was no hope of any immediate political resolution between the two nations, all actions taken in furtherance of the agreements reached were termed "Humannitarian Operations". Consequently, the term H.O. has been used within the Vietnamese-American community to refer to former political detainees who are now resident in the United States.
To me, the term H.O. is a badge of courage, service and sacrifice, and all those who fall within that context of the term are the among the true heroes of our time.
My very best wishes to all attending your event.
Sincerely yours.
John W. Vessey.
Người dịch bản văn nói trên là Ông/Bà Nguyễn T. Ngọc Châu. Trước khi vào bản Việt ngữ, dịch giả viết đôi dòng như sau: “Trong mục đích phổ biến để quí vị chung vui niềm vinh dự của các H.O. vì đây là vinh dự không phải của riêng các anh H.O. tại Minnesota, mà là của tất cả các H.O. định cư tại Hoa Kỳ”.
“Vinh danh những người đã phụng sự cho chính nghĩa tự do ở Việt Nam và Đông Dương là một điều quan trọng. Việc công nhận và trợ giúp những người đã bị chế độ cộng sản ngược đãi vì đã phục vụ cho Việt Nam Cộng Hòa, cũng không kém phần quan trọng. Những tù nhân chính trị dưới chế độ cộng sản sau năm 1975, là những người đã từng phục vụ quê hương và đồng bào với truyền thống yêu nước cao cả và đáng kính, đã vì nước quên mình trong suốt cuộc chiến tranh lâu dài và ác liệt.
“Lòng hi sinh của tất cả những ai đã từng phục vụ và chiến đấu trong chiến tranh Việt Nam, người Việt, người Mỹ, và những Đồng Minh khác, đã đem lại một ý nghĩa đặc biệt hơn cho lý tưởng của con người về tự do và nhân vị. Thế giới đã thay đổi nhờ một nỗ lực tập thể. Sự bành trướng của cộng sản ở Á Châu đã bị ngăn chận bởi những sự hi sinh ở Việt Nam, Lào, và Cam Bốt, cùng với sự hỗ trợ của các nước Đông Nam Á. Tất cả những ai đã tham gia vào nỗ lực đó, có thể tự hào về những đóng góp của mình.
“Năm 1987, khi đang hồi hưu, tôi được Tổng Thống Reagan cử làm Đặc Phái Viên đi Hà Nội thương thuyết. Một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu mà tôi được Tổng Thống giao phó là phải tìm cách giải thoát những cựu chiến hữu Việt Nam đang bị giam giữ trong những cái gọi là “trại cải tạo”. Tôi cũng được quyền bảo đảm với chánh phủ Hà Nội rằng, Hoa Kỳ sẳn sàng chấp nhận và đón tiếp những người tù cải tạo cùng gia đình họ sang Hoa Kỳ”.
“Trong những cuộc thương thuyết sơ khởi, chúng tôi không hi vọng hai bên sẽ có ngay những giải pháp chính trị, cho nên tất cả những hành động mở đường cho những thỏa ước tương lai đều mang danh “chiến dịch nhân đạo” (Humanitarian Operations), gọi tắt Anh ngữ là H.O. Do vậy mà danh từ H.O. được Cộng Đồng Việt Mỹ sử dụng, để nói về những cựu tù nhân chính trị Việt Nam đang sinh sống trên đất Hoa Kỳ.
“Riêng với tôi, danh từ H.O. là biểu tượng của lòng dũng cảm, tinh thần phục vụ, và lòng hi sinh. Tất cả những ai được gọi là H.O. đều là những anh hùng thực sự trong thời đại chúng ta”.
Thủ tục rời Việt Nam.
Thưa quí vị quí bạn,
Chương trình HO dành cho những cựu tù chính trị trong các trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo với thời gian bị cộng sản giam giữ từ 3 năm trở lên. Trong chương trình này có hai thành phần:
Thứ nhất là cựu tù chính trị không có thân nhân từ Hoa Kỳ bảo lãnh. Thành phần này được cơ quan IOM ứng trước mọi chi phí để đến Hoa Kỳ, và khi đến Hoa Kỳ được hưởng tiền trợ cấp sinh sống trong thời gian đầu tiên do chánh phủ Hoa Kỳ cấp ngang qua tổ chức thiện nguyện nào đó. Một năm sau mới có thẻ thường trú thường gọi là “thẻ xanh”. Số tiền ứng trước sẽ trả góp hằng tháng cho cơ quan nói trên.
Thứ hai là cựu tù chính trị có thân nhân tại Hoa Kỳ bảo lãnh. Thành phần này do thân nhân trách nhiệm mọi chi phí từ lúc làm thủ tục tại Việt Nam đến khi đặt chân trên đất Mỹ, đồng thời phụ trách nơi ăn chốn ở và mọi chi phí khác. Thẻ thường trú (thẻ xanh) làm ngay tại phi trường đầu tiên khi đến Mỹ, vài tuần sau là nhận được.
Vợ chồng tôi thuộc thành phần thứ hai do con chúng tôi từ Houston, Hoa Kỳ, bảo lãnh. Đây là diễn tiến:
- Tháng 03/1988, tại Hoa Kỳ, con chúng tôi nộp mẫu I-130 bảo lãnh. Ba tháng sau nhận được giấy báo chấp nhận hồ sơ. Con tôi gởi giấy này cùng với mẫu I-130 về Sài Gòn, chúng tôi kèm trong hồ sơ xin xuất ngoại mà họ gọi là xuất cảnh nộp cho Quận 10 vào tháng 08/1988. Đầu năm 1989, Công An Quận 10 cho biết hồ sơ đã chuyển lên Sở Công An.
- Tháng 11/1989, ký hợp đồng với dịch vụ xin passport. Cơ quan dịch vụ này toàn là Công An phụ trách, chúng tôi phải trả cho toán Công An dường như 540.000 đồng (tương đương với 4 chỉ vàng) dưới tên gọi “lệ phí”. Nhiệm vụ của họ ngồi trong cơ quan Công An hay ngồi trong cơ quan có cái tên “Dịch Vụ Xuất Cảnh” ngay trước cổng bên kia đường, không có gì khác nhau, nhưng ngồi trong cơ quan này thì nhận khoản tiền theo từng hồ sơ do chính họ qui định. Vắn tắt là Công An nhận tiền của người có nhu cầu mà theo họ là “danh chánh ngôn thuận” chớ không phải hối lộ, nhưng thật sự là “hối lộ công khai”. Xã hội xã hội chủ nghĩa không giống ai hết quí vị quí bạn à!
- Cuối tháng 02/1990, vợ chồng tôi nhận passport. Cũng hôm ấy, chúng tôi nhận được danh sách phỏng vấn HO5 với số thứ tự 742. Hai tháng sau đó, chúng tôi nhận giấy thông báo của cơ quan ODP tại Bangkok (Thái Lan) cho biết chuẩn bị phỏng vấn.
- Cuối tháng 07/1990, đến Sở Ngoại Vụ để phía Việt Nam sơ vấn. Cách hỏi của họ chẳng khác một hình thức thẩm vấn, vì họ hỏi tôi những câu thế này: Họ tên, cấp (bậc) chức (vụ)? Ở tù mà họ gọi là cải tạo bao lâu? Có vi phạm nội qui trong trại không? Ai bảo lãnh? Sang Mỹ ở đâu? Tài sản ở Việt Nam có những gì? Ước lượng trị giá bao nhiêu tiền? Sang Mỹ mỗi tháng lãnh bao nhiêu tiền? Có chống lại cộng sản mà họ gọi là “cách mạng” không? Và vân vân … Thật lòng là tôi không hiểu họ sử dụng những thông tin đó vào việc gì, vì gộp những câu đó lại không nói lên được mục đích gì rõ rệt cả, ngoại trừ họ hỏi vòng vo nhưng thật ra họ muốn biết tôi để lại tài sản gì khi tôi rời Việt Nam? Trấn lột là một thủ đoạn gian manh của cộng sản mà.
- Giữa tháng 08/1990, vợ chồng tôi cũng đến Sở Ngoại Vụ gặp viên chức Hoa Kỳ. Tôi với viên chức này nói với nhau vài câu chuyện trước khi chánh thức phỏng vấn. Khi biết vợ chồng tôi sẽ định cư tại Houston, anh ta cho biết gia đình anh ta cũng đang ở đó, và nói thêm Houston vừa lớn vừa đẹp so với những thành phố lớn khác của Hoa Kỳ. Vào phỏng vấn, anh ta chỉ hỏi tôi ở tù bao lâu, và bây giờ sẳn sàng để sang Hoa Kỳ chưa? Thế là xong buổi phỏng vấn. Sau đó là khám sức khỏe và chích ngừa.
- Hạ tuần tháng 10/1990, con chúng tôi nộp cho cơ quan IOM 1.834 mỹ kim, chi phí cho hành trình của vợ chồng tôi từ Sài Gòn-Bangkok-Houston (Hoa Kỳ).
- Thượng tuần tháng 02/1991, họ bảo chúng tôi đến ghi chuyến bay mà họ gọi là đăng ký chuyến bay.
- Ngày 28/02/1991, tôi đến công ty dịch vụ tư nhân ký hợp đồng để họ lo mọi thủ tục linh tinh liên quan đến Công An, Quan Thuế, phi trường. Giữa cơ quan dịch vụ với các cơ quan liên hệ có những “qua lại” với nhau nên họ liên lạc hoàn tất suông sẻ, chớ tự mình mà “lội” vào khu rừng thủ tục giấy tờ đó chỉ riêng địa điểm các cơ quan không thôi cũng đủ lạc rồi. Hợp đồng này giá 381.000 đồng, gồm: (1) Gia hạn passport 6.000 đồng. (2) Thị thực xuất ngoại 2.000. (3) Lệ phí phi trường 30.000. (4) Lệ phí quan thuế 10.000. (5) Hồ sơ hợp lệ nhà đất 18.000. (6) Cân hành lý 35.000. (7) Lấy vé phi cơ 80.000. (8) Xe đưa ra phi trường 100.000. Và tiền công dịch vụ 100.000 đồng.
- Ngày 26/03/1991 chúng tôi mang hành lý đem gởi theo bắt buộc của họ. Tôi phải bày ra tất cả giống hệt như khi tôi chuyển từ trại tập trung Yên Bái xuống trại tập trung Nam Hà vậy. Họ căn cứ vào danh sách tôi đưa, họ xem từng món theo từng số lượng mà lục lọi từng ly từng tí xem tôi có mang theo giấy tờ hay bất cứ thứ gì mà họ cho là nguy hại cho họ không. Do kinh nghiệm qua nhiều lần bị Công An lục soát trong các trại tập trung, nên tôi chuẩn bị tư tưởng như vậy khi mang hành lý đến một nhà kho trong khu vực Tân Sơn Nhất để họ xét. Hơn 1.600 trang giấy viết tay trong 7 tập thu nhỏ với chữ viết thật nhỏ mà tôi lén lút ghi nhận những sự kiện trong các trại tập trung, cùng với những sự kiện trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi tôi ra khỏi trại tập trung, tôi đóng gói cẩn thận và giấu lại nhà bà nhạc tôi. (Sau này trong những lần về thăm bà con xóm làng, Ba tôi đem qua cho tôi tất cả). Do vậy mà tôi rất tỉnh khi họ lục soát toàn bộ những gì vợ chồng tôi mang theo trên đường xa xứ.
Trong vài ngày còn lại Sài Gòn, chúng tôi đến thăm người bạn ở Tân Định, tình cờ gặp anh Lê Hữu Tiền (Đại Tá Truyền Tin). Anh Tiền cũng là bạn tù với tôi, anh kể tôi nghe về chuyện cái nhà mà gia đình anh đang ở, và đang lo vấn đề “hợp lệ nhà đất” để rời Sài Gòn nhưng tôi không hỏi anh đi trong đợt HO mấy. Do môi giới của Sở Quản Lý Nhà Đất, anh đến gặp tên Giám Đốc, tên này bảo anh gặp Phó Giám Đốc. Chỉ vài ba câu chuyện, tên Phó Giám Đốc hướng dẫn như một phán quyết:
“Cái nhà của Anh trị giá 60 lượng vàng mà họ gọi là 60 cây. Anh có hai người anh ở nước ngoài cho nên anh chia làm 3 phần. Anh phải nộp 40 lượng vàng của hai người ở nước ngoài cho nhà nước giữ. Còn 20 lượng về phần anh, anh phải nộp lệ phí 20% cho Sở Quản Lý Nhà Đất”.
Sau khi nghe “phán xong vụ chia chác” mà họ tính toán rất “bài bản”, từ 60 lượng vàng chỉ còn 16 lượng nên anh Tiền và gia đình quyết định không bán nhà, và mang theo giấy tờ khi rời Sài Gòn, còn cái nhà chúng làm gì thì làm.
Đến lượt nhà tôi. Do chỉ dẫn từ con của bạn chúng tôi mà một tên cộng sản nghe nói là chánh văn phòng của cái gọi là Ủy Ban Nhân Dân thành phố, sẽ chiếm ngụ nhà tôi khi chúng tôi rời Sài Gòn. Cũng qua con của người bạn, hắn ngỏ ý muốn dùng xe của hắn đưa vợ chồng tôi ra phi trường. Cùng lúc hắn nói muốn đưa vợ chồng tôi 5 lượng vàng với điều kiện chúng tôi đưa giấy chủ quyền nhà cho hắn. Nói cách khác, hắn muốn mua giấy chủ quyền nhà chúng tôi với giá 5 lượng vàng. Chúng tôi trả lời không cần xe của hắn, cũng không cần 5 lượng vàng của hắn, và dứt khoát không có việc mua bán gì cả. Thật ra, hồ sơ chủ quyền ngôi nhà này và chủ quyền mẫu vườn ở Vĩnh Long, em trai tôi đã đem sang Hoa Kỳ đầu năm 1990 nhân chuyến về thăm Ba tôi với bà con xóm làng, trước khi Ba tôi sang định cư Hoa Kỳ vào những tháng cuối năm 1990 do các em tôi bảo lãnh.
Quí vị quí bạn hình dung bây giờ là chiều 28 tháng 03 năm 1991, các em tôi từ Vĩnh Long lên chật nhà. Cùng lúc tên sắp chiếm nhà tôi dẫn 4 thanh niên đến. Hắn nói:
“Vì sợ sáng mai anh chị đi sớm có người vào tranh đoạt hoặc đập phá, xin anh cho mấy người này ngủ đây đêm nay”.
“Tôi đồng ý, nhưng các anh chỉ được ngủ ở tầng trệt này. Tôi không muốn thấy bất cứ anh nào lên lầu. Chúng tôi cần được tự do trong ngày cuối cùng trước khi chúng tôi rời Việt Nam ”.
Hắn xoay qua mấy người của hắn:
“Các đồng chí ngủ ở đây, đừng quấy rầy anh chị và mọi người trong nhà. Sáng mai tôi đến”.
Kể ra hắn có lý khi hắn sợ có người vào tranh đoạt lúc vợ chồng tôi ra khỏi nhà, vì trong xã hội xã hội chủ nghĩa, người cộng sản nào cũng có sẳn những cách trấn lột cướp đoạt tài sản của người khác làm tài sản của mình. Cùng là cộng sản, nên hắn đề phòng là phải.
Ngày 29 tháng 03 năm 1991, vợ chồng tôi ra phi trường Tân Sơn Nhất, với đông đảo các em và bà con bè bạn tiễn đưa.
Ngay trước khi phi cơ lăn bánh ra phi đạo, tôi quá đổi ngạc nhiên khi thấy hai hành khách không còn ghế ngồi và cô tiếp viên phi hành dẫn họ đến ngồi bệt trên lối đi ở cuối hàng ghế sau cùng. Hỏi ra mới biết là trên các chuyến bay của hàng không Việt Nam cộng sản, thường khi có số hành khách nhiều hơn số ghế. Nhìn cảnh này giống như hành khách đi xe đò vậy quí vị quí bạn à!
Đến phi trường dường như là Don Muang (Bangkok), lên xe bus về tạm trú trong khu trại nghe nói trước kia là nhà tù.
Những ngày ở đây, chúng tôi được hướng dẫn về cuộc sống trên đất Mỹ. Về thực đơn hằng ngày của chúng tôi, ngoài cơm ra thì trứng luộc là món ăn chánh. Sáng trứng luộc chiều trứng luộc. Nếu nhìn theo góc độ chính trị, cái trứng luộc trong những ngày tạm trú nơi đây rất có ý nghĩa, trong khi cái trứng luộc xã hội chủ nghĩa Việt Nam đơn thuần chỉ là kinh tế, mà là kinh tế nghèo nàn kiệt quệ! Cũng những ngày ở đây, người Thái Lan đến gạ mua vàng và trả bằng mỹ kim. Anh em chúng tôi bán từng chỉ vàng, dùng tiền đó mua trái cây và vài thức ăn khác do người Thái mang đến bán bên ngoài trại. Phải công nhận nhiều loại trái cây ở đây ngon hơn Việt Nam mình, nhất là nhản.
Chúng tôi rời Bangkok bằng phi cơ của Japan Airlines vào nửa đêm ngày 04 rạng 5/4/1991. Tại Tokyo, chúng tôi chuyển sang phi cơ của Northwest Airlines đến Seattle (Washington State). Chúng tôi lại chuyển phi cơ cũng của NA và đến Houston lúc 6 giờ chiều ngày 5 tháng 4 năm 1991, được con chúng tôi, em chúng tôi, và bạn chúng tôi đón.
LỜI NÓI CUỐI
Thưa quí vị quí bạn,
Vậy là quí vị quí bạn vừa xem Mười Chương về chuyện mà tôi kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 -ngày mà chế độ tự do Việt Nam Cộng Hòa chúng ta sụp đổ- sau đó tôi bị giam trong các trại tập trung Long Giao (Long Khánh) Tam Hiệp (Biên Hòa), Yên Bái (Hoàng Liên Sơn), Nam Hà (Hà Nam Ninh), cộng chung là 12 năm 2 tháng 27 ngày và 18 tiếng đồng hồ trong nhà tù nhỏ, cộng với 3 năm 6 tháng 15 ngày sống trong nhà tù lớn, đến ngày 29/3/1991 rời Việt Nam vàngày 5 tháng 4 năm 1991, vợ chồng tôi đặt chân trên đất Hoa Kỳ trong đợt HO 5.
Tôi nhận thức được gì trong 5.818 ngày kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975:
Giai đoạn một: 46 ngày kể từ 30/04/1975, giai đoạn trước ngày vào trại tập trung, tôi nhận thức rằng:
- Qua một số hành động trong sinh hoạt thường ngày của cộng sản Việt Nam từ Hà Nội và từ rừng núi vào Sài Gòn, cho phép suy đoán sinh hoạt trong xã hội xã hội chủ nghĩa 20 năm của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (lãnh thổ miền bắc) kém Việt Nam Cộng Hòa chúng ta ít nhất từ 25 đến 30 năm.
- Với thái độ của một số đồng bào nhất là đồng bào chạy nạn cộng sản từ năm 1954-1955 từ bắc vào nam, cho thấy đồng bào vẫn không chấp nhận chế độ cộng sản.
- Với một số hành động chận bắt cũng như tìm bắt một số sĩ quan viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ, trong khi hệ thống truyền thông của họ ngày đêm ra rả về điều mà họ gọi là khoan hồng nhân đạo. Nói vậy mà không phải vậy.
- Họ tìm mọi cách mà họ gọi là vận động kết hợp với cưỡng bách, chiếm đoạt nhà cửa của những chủ nhân di tản hoặc nhà rộng, để làm tài sản riêng của họ.
Giai đoạn hai: 4.479 ngày kể từ 14/6/1975, tức giai đoạn bị giam trong các trại tập trung từ nam ra bắc, tôi nhận thức sự gian trá của họ trong cai trị:
- Không qua một cơ quan tư pháp nào, họ đã bắt giam ít nhất là 222.809 sĩ quan viên chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa cũ đem giam giữ trong các trại tập trung mà họ gọi là khoan hồng nhân đạo cho đi học tập cải tạo, trong khi ông Phạm Văn Đồng, Thủ Tướng cộng sản gọi tù chính trị chúng tôi là những kẻ tội ác tày trời không thể tha thứ. .
- Đày đọa tù chính trị trong những cánh rừng già tây bắc Hà Nội. Đánh lừa các phái đoàn ngoại quốc dù là cộng sản hay tư bản về mọi góc cạnh sinh hoạt trong các trại tập trung, như thể họ giam giữ chúng tôi chỉ để học về lịch sử Việt Nam trong khi họ bắt buộc chúng tôi khai báo chi tiết từng người trong dòng họ ba đời ông bà, cha mẹ, bản thân và gia đình, kể cả nguyên nhân tại sao chết dù đã chết hằng năm bảy chục năm về trước. Hằng chục ngàn tù chính trị chúng tôi bị chết do kiệt sức vì thiếu dinh dưỡng, do hành hạ đọa đày, do bị bức tử, nhưng gia đình không được thông báo.
- Người dân xã hội chủ nghĩa 20 năm trên đất nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thật sự là nghèo khổ, mức sống xã hội thật sự thua kém Việt Nam Cộng Hòa rất xa, xa đến hai ba chục năm hoặc hơn nữa.
- Đánh quỵ toàn bộ sinh hoạt xã hội Việt Nam Cộng Hòa cũ xuống ngang bằng xã hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nghèo khổ, qua khẩu hiệu ăn cướp “nhân dân làm chủ, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý”, chung qui tất cả tài sản của dân lẫn của quốc gia đều trong tay đảng cộng sản ngang qua bộ máy nhà nước. Mức sống người dân nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ngày càng suy sụp, so với mức sống người dân Việt Nam Cộng Hòa năm 1975, nhất là quyền con người hoàn toàn bị tước đoạt.
- Tập trung mọi phương tiện trong hệ thống truyền thông vào tay đảng, quân đội, Công An, những tổ chức ngoại vi, đến những người gọi là phóng viên truyền thông báo chí đều trong tổ chức của đảng. Nói chung là bộ máy đảng với bộ máy nhà nước nắm giữ toàn bộ từ phương tiện đến não bộ con người, trong khi họ tự cho là dân chủ gấp ngàn lần dân chủ tư bản.
- Phá nát những tinh hoa văn hoá dân tộc để thay vào đó cái gọi là văn hoá mới con người mới xã hội nghĩa, chỉ biết nghe theo đảng, làm theo đảng, và chết cho đảng, mà đảng chỉ là một nhóm người trong Bộ Chính Trị.
- Bộ Chính Trị lãnh đạo đất nước chỉ do một nhóm hơn 100 đảng viên đã được chọn lọc đảm nhiệm vai trò cử tri bầu lên. Ra cái điều dân chủ khi huênh hoang Quốc Hội là cơ quan quyền lực cao nhất, nhưng lại do đảng cộng sản chọn trước rồi qui định danh sách “ứng viên” mới đến dân bầu. Khi trở thành “đại biểu Quốc Hội” mọi biểu quyết theo lệnh của Bộ Chính Trị, các tòa án nhất là những vụ án mà họ cho là nguy hại chế độ, cũng phải nhận lệnh Bộ Chính Trị trước khi xử, chánh phủ cũng nhận lệnh từ Bộ Chính Trị về mọi vấn đề quan trọng. Bộ Chính Trị là cơ quan quyền lực tuyệt đối, toàn quyền hoạch định mọi đường lối chính sách và điều khiễn bộ máy mà nhà nước với bộ máy Công An thực hiện, nhưng không có bất kỳ cơ quan nào giám sát họ. Những đảng viên được chọn vào Bộ Chính Trị phải tuyệt đối trung thành với đảng cộng sản độc tài.
Do vậy mà họ đẩy toàn bộ sinh hoạt xã hội Việt Nam đến sát bờ vực thẳm chỉ sau 10 năm (từ năm 1975) cai trị toàn cõi Việt Nam dưới tên gọi nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, và phải gục đầu quy lụy các nước tư bản, nhất là Hoa Kỳ mà họ từng “chửi rủa Mỹ là tên đế quốc đang dẫy chết tại dinh lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản” để mong được cứu vớt tồn tại.
Giai đoạn ba: 1.293 ngày kể từ 12 tháng 9 năm 1987, tức giai đoạn chờ sang Hoa Kỳ tị nạn, tôi nhận thức rằng:
- Những gian trá trấn lột đất đai cướp đoạt nhà cửa, gian trá trong kinh doanh thương mãi dịch vụ, tham ô nhũng lạm len lỏi vào mọi ngóc ngách xã hội, từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng cấu trúc lãnh đạo, tất cả trở thành “một nếp” trong văn hoá xã hội chủ nghĩa ngày nay. Đây là nỗi đau cao nhất trong dòng lịch sử Việt Nam từ thời xa xưa đến thời đương đại. Và nỗi đau này của lịch sử, chính là tội ác của cộng sản Việt Nam.
- Tội ác của cộng sản Việt Nam không sao kể xiết, từ chính sách cai trị bằng bao tử, cướp đoạt nhà cửa ruộng vườn cơ sở kinh doanh sản xuất thương mãi dịch vụ, đến đày đọa những ai không cùng quan điểm chính trị độc tài với họ trong hệ thống nhà tù khắc nghiệt, đến bịt mắt bịt tai bịt miệng tất cả mọi người kể cả hàng ngũ đảng viên cộng sản. Nhưng tội ác nặng nhất, tàn bạo nhất, dã man nhất với lịch sử, với dân tộc, là tội ác về giáo dục. Bởi chính sách giáo dục của lãnh đạo cộng sản Việt Nam chỉ đào tạo những thế hệ “thần dân” để tuân phục họ chẳng khác những triều đại vua quan phong kiến hằng trăm hằng ngàn năm trước! Giáo dục đã tạo cho người dân trước uy lực của những người công sản nhân danh lãnh đạo, trở thành một loại phương tiện đa dụng của họ trong khi ông Hồ và “từng đàn cháu ngoan của ông” luôn miệng rao giảng “con người là vốn quí”.
- Hậu quả suy đồi đạo đức, giáo dục một chiều, nói chung là một xã hội thảm hại hiện nay sẽ còn còn kéo dài cho đến ngày mà chế độ cộng sản độc tài sụp đổ, ít nhất phải hai thế hệ sau đó mới hi vọng khôi phục lại được những tinh hoa trong đời sống văn hoá dân tộc. Do chính sách giáo dục thần dân của cộng sản để phá nát xã hội, cho nên Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ qua không có những công dân để xây dựng một xã hội tử tế, để phát triển một quốc gia tử tế trong một thế giới văn minh, hợp tác, và phát triển bền vững. Nhưng suy cho cùng, đã là cộng sản, làm gì có con người tử tế, làm gì có xã hội tử tế, nếu tử tế thì làm gì có đất cho cộng sản dung thân mà tàn phá con người, tàn phá xã hội.
Vậy, chỉ có con đường duy nhất là triệt tiêu chế độ cộng sản độc tài, từ đó đào tạo những thế hệ tử tế để xây dựng một xã hội tử tế trên quê hương Việt Nam ngày mai.
Nhìn chung trong 5.818 ngày kể từ ngày 30 tháng 04 năm 1975 đến ngày cuối tháng 03 năm 1991, cộng thêm thời gian đến nay là tháng 11 năm 2010, dưới nét nhìn của tôi, các nhóm lãnh đạo nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là những nhóm người không phục vụ tổ quốc dân tộc, họ chỉ phục vụ quyền lợi của đảng cộng sản mà quyền lợi của đảng cộng sản chính là quyền lợi của nhóm nhân danh lãnh đạo. Sự kiện điển hình tồi tệ và là tội ác đối với tổ quốc dân tộc là cuối năm 1999 lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã cắt 789 cây số vuông dọc biên giới Việt-Trung, và cuối năm 2000 lại xén 11.362 cây số vuông trong vịnh Bắc Việt dâng tặng lãnh đạo Trung Hoa cộng sản để được tiếp tục lãnh đạo đất nước, chẳng khác những thế kỷ trước, vua quan Việt Nam triều cống vua quan Trung Hoa để được phong vương trên ngôi vị, trong khi họ vẫn bịt mắt bịt tai bịt miệng 86.000.000 (86 triệu) người trên toàn cõi Việt Nam, mà tấm ảnh Công An bịt miệng Linh mục Nguyễn Văn Lý ngay trong phiên tòa tại Huế hồi tháng 03/2007 hoàn toàn theo nghĩa đen của ngôn ngữ, là một chứng minh cho toàn thế giới nhận rõ thêm bản chất của lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Hơn thế nữa, cộng sản là thảm họa của nhân loại mà biểu tượng của thảm họa này là Tượng Đài Nạn Nhân Cộng Sản Thế Giới đã được khánh thành ngày 12 tháng 06 năm 2007 tại Washington DC do Tổng Thống Hoa Kỳ chủ tọa, với sự tham dự của các phái đoàn từ 25 quốc gia đã và đang là nạn nhân của cộng sản.
Thưa quí vị quí bạn,
Những gì tôi cần kể lại với quí vị quí bạn về bản thân và gia đình tôi, mà tôi nghĩ là hằng trăm ngàn gia đình đồng môn đồng đội của tôi cũng trong hoàn cảnh tương tự, trong những ngàn ngày sống với xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ trong nhà tù nhỏ -các trại tập trung- và trong nhà tù lớn -xã hội xã hội chủ nghĩa- tôi đã viết vào quyển ký sự này. Thật ra còn nhiều vấn đề khác nhưng tôi không viết vào đây, vì trước khi bắt đầu gõ vào phiếm chữ trên máy computer, tôi xác định một lằn ranh thật đậm nét “dân chủ tự do không thể hòa giải và hòa hợp với cộng sản độc tài bất cứ hình thức nào trừ khi có một Gorbatchev Việt Nam, nhưng điều này chưa nhìn thấy bóng dáng Gorbatchev nào trong hàng ngũ xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay”.
Đến đây tôi xin hết lời, và kính chào quí vị quí bạn.
Houston, Texas, Hoa Kỳ.
Viết xong ngày 19 tháng 6 năm 2007.
Duyệt lại ngày 23/11/2010
Đại Tá Phạm Bá Hoa
Cựu tù nhân chính trị
H.O. 5
TÁC GIẢ
Phạm Bá Hoa, sinh năm 1930 tại làng Đại Ngãi, quận Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Nhập ngũ ngày 12 tháng 5 năm 1954 vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, thuộc tài nguyên sĩ quan trừ bị khóa 5. Vì không đủ cơ sở, được gởi lên học Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Trở về Thủ Đức dự lễ tốt nghiệp khóa Vì Dân cuối tháng 1 năm 1955, với cấp bậc Thiếu Úy.
Lần lượt giữ các chức vụ:
Trung Đội Trưởng/Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân.
Đại Đội Trưởng/Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân.
Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 35/Sư Đoàn 12 Khinh Chiến.
Trưởng Ban 3 Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 35/Sư Đoàn 12 Khinh Chiến.
Trưởng Ban Hành Quân, rồi Phó Phòng 3/Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân/Bộ Tổng Tham Mưu.
Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Chánh Văn Phòng Tổng Trưởng Quốc Phòng.
Chánh Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng.
Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh (Cần Thơ).
Chánh Sở Kế Hoạch/Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ Tổng Tham Mưu .
Chỉ Huy Phó Bộ Chỉ Huy 4 Tiếp Vận.
Cục Trưởng Cục Mãi Dịch.
Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.
Thăng cấp:
Trung Úy, tháng 2 năm 1957.
Đại Úy, tháng 11 năm 1961.
Thiếu Tá, tháng 11 năm 1963.
Trung Tá, tháng 12 năm 1965.
Đại Tá, tháng 9 năm 1969.
Theo học:
Khóa Đại Đội Trưởng, chi nhánh Trường Võ Bị Liên Quân/Đà Lạt 1956.
Khóa Tham Mưu, Trường Đại Học Quân Sự/Sài Gòn 1960.
Khóa Chỉ Huy&Tham Mưu Cao Cấp, Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp/Đà Lạt 1970.
Tham dự các khóa hội thảo:
Tiếp Vận Miền Tây Thái Bình Dương 1971, Okinawa, Nhật Bản.
Quản Trị Quốc Phòng 1971, Trường Cao Đẳng Quốc Phòng, Sài Gòn.
Phát Triển Quốc Gia 1973, Trường Cao Đẳng Quốc Phòng, Sài Gòn.
Công du:
Nhật Bản và Đại Hàn 1963, Thái Lan 1966, Đài Loan 1970, Okinawa 1971, và Singapore 1973.
Tù chính trị:
Từ tháng 6 năm 1975 đến tháng 9 năm 1987, trong các trại tù Long Giao tỉnh Long Khánh, Tam Hiệp tỉnh Biên Hòa, Yên Bái tỉnh Hoàng Liên Sơn, và Nam Hà tỉnh Hà Nam Ninh.
Định cư.
Tại thành phố Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ, từ tháng 4 năm 1991 trong đợt HO 5.
Sinh hoạt Cộng Đồng:
Tham gia Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức tại Houston từ năm 1995 đến năm 2000.
Tham gia Tổng Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức Hải Ngoại: Nhiệm kỳ 1 (2000-2002) họp tại Houston, Hoa Kỳ. Nhiệm kỳ 2 (2002-2004) họp tại Toronto, Canada. Nhiệm kỳ 3 (2004-2006) họp tại Brisbane, Australia. Và nhiệm kỳ 4 (2006-2008+2009) họp tại San Jose, Hoa Kỳ.
Tham gia nhóm phát thưởng học sinh giỏi từ lớp 5 đến lớp 12 từ năm học 1997-1998 đến năm học 2003-2004.
Tham gia ban phát thanh Phật Giáo/Houston từ tháng 4 năm 1998 đến hết tháng 1 năm 2008, trong thời gian đó đã đọc trên làn sóng đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam (VOVN) hơn 80 bài của các tác giả viết về Phật Giáo trong đời sống.
Phụ trách chương trình thời sự “Những Vấn Đề Hôm Nay” trên làn sóng đài TNT/Houston từ tháng 9 năm 2001 đến cuối tháng 1 năm 2006, đã viết và đọc trong 349 bài phát thanh với chủ đề hỗ trợ công cuộc dân chủ hóa chế độ chính trị trên quê hương Việt Nam.
Tham gia sinh hoạt trên NET với 75 bài viết về lập trường chính trị đối nghịch với chế độ cộng sản độc tài đã và đang cai trị Việt Nam.
Tham gia hội Ái Hữu Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Sa Đéc tại Houston, từ năm 2005 .....
Tham gia chương trình “Tản Mạn Lịch Sử 1960-1975” trên đài truyền hình VAN TV 55.2 Houston từ tháng 07/2009 đến tháng 02/2011.
Từ tháng 1/2010, bắt đầu chuyển những bài thời sự về trong nước ngang qua Diễn Đàn Nước Việt Quốc Nội.
Tác phẩm:
“Đôi Dòng Ghi Nhớ”, hồi ký chính trị Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1963 đến năm 1975. Nhà xuất bản Ngày Nay ấn hành lần 1 năm 1994, lần hai năm 1995, lần 3 năm 1998, và lần 4 năm 2007. Dài 386 trang (cở chữ 11).
“Ký Sự Trong Tù”, tâm sự và nhận thức của Một Tù Nhân Chính Trị trong các trại tập trung Long Giao tỉnh Long Khánh, Tam Hiệp tỉnh Biên Hòa, Yên Bái tỉnh Hoàng Liên Sơn, Nam Hà tỉnh Hà Nam Ninh, từ tháng 6 năm 1975 đến tháng 9 năm 1987, và trong thời gian ở Sài Gòn chờ xuất ngoại. Ấn hành tháng 7 năm 2008, dài 534 trang (cở chữ 11).
“Tôi là Một H.O.”, tâm sự của Một H.O. và đóng góp nhỏ nhoi vào sinh hoạt Cộng Đồng tị nạn cộng sản từ tháng 4 năm 1991 đến tháng 5 năm 2010, dài 679 trang (cở chữ 10). Ấn loát lưu giữ trong gia đình. Chưa ấn hành.
“Quê Hương & Quân Ngũ”, tâm sự Người Lính gắn liền với quê hương & quân ngũ trong giai đoạn chiến tranh giữ nước từ năm 1954 đến năm 1975. Dài 463 trang (cở chữ 10). Ấn loát lưu giữ trong gia đình. Chưa ấn hành.
“Thời Sự Việt Nam 2001-2006”, nỗi lòng của người H.O. chưa tròn trách nhiệm với dân với nước, nhờ làn sóng phát thanh tại Houston từ tháng 9/2001 đến tháng 1/2006 chuyển tải chủ đề hỗ trợ dân chủ hóa Việt Nam. Sách dài 627 trang (cở chữ 10). Ấn loát lưu giữ trong gia đình. Chưa ấn hành.
Tình trạng gia đình đến cuối năm 2010: Vợ và năm con (4 trai 1 gái) có gia đình, với chín cháu Nội Ngoại (5 cháu gái và 4 cháu trai). Đầu năm 2010, kỷ niệm 52 năm hôn lễ.
12345678
12345678
CHƯƠNG 8 RA KHỎI TRẠI TẬP TRUNG
Ánh sáng ngoài đường hầm.
Từ lúc ở trại tập trung Yên Bái, cứ vài ba ngày thì bộ chỉ huy trại cho mượn vài tờ báo Nhân Dân để đọc, và các bạn trong lán giao tôi trách nhiệm điểm và đọc báo cho anh em trong lán nghe sau cơm chiều. Khi chuyển đến trại tập trung Nam Hà này, các bạn trong buồng giam số 1 cũng giao tôi trách nhiệm điểm và đọc báo. Hằng tuần có được ba hay bốn ngày có báo, mỗi lần có ba bốn số báo thì anh Nguyễn Hữu Vị với anh Bửu Uy cùng đọc với tôi sau khi cửa buồng giam đóng lại. Khi điểm bài báo nên đọc, tôi đánh số thứ tự để luân phiên giữa ba anh em chúng tôi lần lượt đọc.
Hôm ấy là ngày 5 tháng 8 năm 1987, trên tờ Nhân Dân của đảng cộng sản Việt Nam có mẫu tin mà sau khi đọc xong chúng tôi phải ngưng lại vì các bạn bàn luận rất sống động. Mẫu tin có nội dung thế này:
“Ngày 2 và 3 tháng 8 năm 1987, Tướng hồi hưu Vessey, với tư cách Đặc Sứ của Tổng Thống Hoa Kỳ sang Việt Nam, gặp Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch. Hai bên thỏa thuận đầu tiên về hợp tác đẩy mạnh công cuộc tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam, và vấn đề trả tự do cho những người học tập cải tạo để cùng gia đình được xuất ngoại sang Hoa Kỳ theo nguyện vọng”..
Đại để mẫu tin chỉ có thế, nhưng quá đủ để anh em chúng tôi bàn luận đến nửa đêm mới dừng lại để ngủ. Cho dẫu mức độ lạc quan như thế nào đi nữa, rõ ràng là hình ảnh những đoàn tù chính trị ra khỏi nhà tù có cơ đang thành tựu. Tôi nói “có cơ thành tựu” vì tuần vừa qua, có một toán Công An nghe nói thuộc cơ quan A16 từ Bộ Công An đến trại này và đang công tác ở đây. Toán này đã gọi một số bạn ra ngoài trại “làm việc”, tức là hỏi mỗi người chúng tôi một số vấn đề theo nhu cầu của họ. Những năm trước đây đã có những lần Công An từ Hà Nội đến đây gọi “làm việc”, nhưng lần này đang trong thời gian gọi “làm việc” cùng lúc có bài báo nói trên nên anh em chúng tôi có lòng tin “cơ hựu thành tựu”. Hôm qua, họ cũng gọi tôi, và nội dung “làm việc” như thế này:
“Chào anh. Anh có phải là Phạm Bá Hoa không?”
“Đúng, tôi là Phạm Bá Hoa”.
“Anh mạnh khỏe chứ?”
“Cám ơn cán bộ, tôi vẫn khỏe”.
“Tôi hỏi anh: Nếu như nhà nước cho anh về, anh có đi nước ngoài không?”
“Tôi đi nếu nhà nước cho phép, vì tất cả các con tôi đều ở Mỹ”.
“Nếu anh đoàn tụ với các con anh ở Mỹ, anh có chống lại nhà nước Việt Nam không?”
“Khi tôi ở ngoại quốc làm sao chống lại nhà nước được cán bộ”.
“Anh có cam kết là anh không chống lại nhà nước Việt Nam không?”
“Tôi cam kết”.
“Được. Anh mang tờ giấy này vào trại viết tóm tắt lý lịch của anh, tóm tắt hoạt động của anh, và cuối cùng là anh cam kết không tham gia các tổ chức chính trị chống lại nhà nước Việt Nam. Chiều mai đưa lại tôi”.
“Cán bộ vào lấy hay tôi ra đây đưa cán bộ?”
“Sẽ có cán bộ vào trại nhận”.
Tôi nghĩ, chính trị vẫn là chính trị, mà chính trị thì không như khoa học hay toán học, 1 với 1 là 2. Với chính trị, 1 với 1 có thể là 1, cũng có 1 thể là 1 rưởi, cũng có thể là 2. Tại Việt Nam tôi cam kết là một việc, còn làm việc gì khi tôi ở Hoa Kỳ là việc khác. Với lại họ bảo tôi cam kết không tham gia các tổ chức chính trị chớ đâu có cam kết không tham gia các tổ chức khác.
Toán Công An đó gọi khoảng 200 anh em tù chính trị chúng tôi ra làm việc, tức khoảng một nửa tù chính trị tại trại Nam Hà A.
Đến trước ngày cuối tháng 08/1987, họ gọi tôi ra hỏi:
“Anh có xác định là anh không vượt biên chứ?”
“Có”.
Chữ có mà tôi dùng ở đây, có thể hiểu theo hai nghĩa: Có xác định, cũng là có vượt biên.
Lần này họ chỉ hỏi câu duy nhất đó. Tôi không biết hắn có hỏi các bạn khác hay không. Tôi lại bàn luận với cụ Hoàng Văn Úy, chẳng lẻ chúng nó lại hỏi một câu gần như vô nghĩa như vậy. Phải chăng chúng nó hình dung đến lúc nào đó bỗng dưng tôi biến mất ở Sài Gòn chăng? Tôi với Cụ Úy và anh Đinh Tiến Dũng, ăn cơm chung từ năm 1985.
“Có vẻ chúng nó nghi ngờ ông điều gì đó. Cẩn thận nghe”.
Sau khi toán Công An đó về Hà Nội, trong anh em chúng tôi có biết bao đồn đoán nhưng không phải là hoàn toàn vô căn cứ, chẳng hạn như:
“Tụi hậu cần mới chở về kho 246 bộ quần áo mà nguồn tin nói rõ là áo chemise trắng, và quần áo này sẽ phát cho những anh được trả tự do”.
“Nói nghe như thiệt vậy mấy cha”.
“Nghe sao thì thuật lại các anh cùng nghe để xem có những nguồn tin khác nữa không, có gì đâu mà nói như móc họng vậy”.
“Tôi nghe nói có nhóm quay phim của Bộ Công An xuống đến trại rồi, và họ sẽ vào trại thu hình anh em chúng mình đó”.
“Bạn nào có được gọi làm việc kỳ này đều có hi vọng được về thôi”.
“Các anh bệnh hoạn già yếu chắc về nhiều, vì vài hôm nay tụi y tế lập hồ sơ và tái khám hầu hết số anh đau yếu đấy”.
“Và vân vân”.
Trên đây là tóm tắt rất nhiều đồn đoán trong buồng giam số 1 chúng tôi.
Và rồi nhóm quay phim từ Hà Nội xuống thiệt. Họ xuống khu trồng rau thu hình một vài Đội Rau Xanh. Còn trong trại thì họ thu hình một số sinh hoạt trong buồng giam số 1 và số 2. Thu hình ở chỗ đọc sách bên Tổ Văn Hoá. Họ bảo chúng tôi đá banh cho họ thu hình nữa.
Chiều ngày 1 tháng 9 năm 1987, tên Sáng, cán bộ giáo dục:
“Anh Hoa, phái đoàn Bộ Công An mang lệnh tha đến trại rồi, nhưng các phong bì còn niêm kín nên Ban Giám Thị cũng như các cán bộ chưa ai biết gì cả. Tối nay, anh sẳn sàng với các anh trong tổ văn hoá, khi có lệnh thì sang hội trường cắt dán khẩu hiệu biểu ngữ và các công tác cần thiết khác”.
Đêm đó, tôi, anh Đinh Tiến Dũng, anh Đặng Hoàng Long, anh Phan Văn Đệ, và vài anh nữa, uống cà phê, hết cà phê đến uống trà, chờ lệnh. Nhưng mãi đến nửa đêm, chẳng thấy gọi gì hết nên chúng tôi dẹp và chui vô mùng.
Sáng hôm sau, 2 tháng 9, anh Dũng và hai bạn của tổ văn nghệ, được lệnh lên nhà tên Hán trại trưởng để trang trí. Trong lúc đó, tên Dục -phụ tá giáo dục- cầm danh sách vào trại đưa tôi:
“Anh Hoa, anh đi gọi các anh có tên trong danh sách này, bảo ăn mặc tươm tất, phải nhanh tay càng sớm càng tốt sang tập trung tại hội trường để lên nhà ông trại trưởng nghe đọc lệnh tha”.
Vừa nhanh chân vừa lẹ mắt lướt nhanh trên danh sách, tôi vui sướng khi thấy tên mình trên trang cuối cùng. Lần lượt tôi đi gần như chạy đến các buồng giam, đọc tên xong là lặp lại câu của tên Dục bảo chuẩn bị nhanh để sang hội trường rồi lên nhà trại trưởng. Riêng danh sách có 9 vị Tướng được ra trại thì tên quản giáo buồng giam số 3 mang vào đọc. Tổng số là 92 người được trả tự do chớ không phải hơn 200 như đồn đoán căn cứ theo số người mà toán Công An đã gọi làm việc, cũng như số lượng bộ quần áo nghe nói tụi hậu cần mang về trại.
Tất cả rời hội trường trong trại lên nhà trại trưởng. Lưu Văn Hán cầm danh sách đọc tên cùng vài nét lý lịch của từng người. Đọc xong, tên Niệm -cán bộ giáo dục trại- gọi anh Hoàng Thọ Nhu (Đại Tá Biệt Động Quân, Tỉnh Trưởng cuối cùng của Plei Ku) thay mặt những người được trả tự do, phát biểu cảm tưởng. Thật ra anh Nhu đã được chỉ định trước chớ không phải tự nhiên mà họ gọi anh phát biểu. Rất có thể vì anh Hoàng Thọ Nhu là bà con với tên Hoàng Thọ Đan, Giám Đốc Công An Nam Định nên được họ chỉ định thay mặt chúng tôi chăng, dù rằng trong bao năm qua tại trại này chúng tôi thấy anh Nhu chẳng hưởng ưu tiên gì cả. Khoảng năm 1981 hay 1982, trong đoàn quay phim của Bộ Công An đến trại Nam Hà quay cuốn phim “Tình Và Tội”, có cô Hoàng Thọ Thanh Mai, con của Hoàng Thọ Đan thăm anh Nhu. Còn thay mặt cho các vị Tướng được trả tự do thì Trung Tướng Nguyễn Hữu Có được họ chỉ định phát biểu.
Xong. Chúng tôi vào trại làm thủ tục ra trại vì toán Công An làm thủ tục đang chờ tại hội trường của trại. Tôi bị chỉ định trách nhiệm liên lạc giữa anh em chúng tôi với toán Công An áp tải chúng tôi trên chuyến xe lửa về Sài Gòn.
Ngày hôm sau, chúng tôi nhận lại đồ vật ký gởi, kể cả tiền. Tôi còn lại được 15.000 đồng.
Theo ý kiến của một số anh đau yếu, tôi gặp cán bộ Quí, tên này phụ trách mua vé xe lửa cho chúng tôi:
“Cán bộ có thể mua giúp anh em chúng tôi càng nhiều càng tốt số vé có giường nằm, giúp các anh già yếu bệnh hoạn, chúng tôi sẽ hoàn lại phần tiền sai biệt cho cán bộ, được không?”
“Được. Để tôi lên Hà Nội mới rõ”.
Kết quả là 2/3 số người rời trại ngày 09/09, và số anh em còn lại rời trại ngày 10/09 (1987). Số vé nằm dành cho chuyến đầu 15 vé, chuyến sau 5 vé. Vậy là trong chuyến rời trại ngày 9, tất cả 9 vị Tướng đều có vé nằm và 6 vé còn lại dành cho các anh già yếu bệnh hoạn như anh Đàm Quang yêu, anh Hồ Tiêu, Thượng Tọa Thích Thanh Long, …
Chiều hôm ấy -02/09- nhân có vợ và con trai của anh Nguyễn Viết Tân (Đại Tá Hải Quân) đang thăm anh ấy, giúp tôi gởi điện tín về Sài Gòn cho vợ tôi biết là chiều ngày 12 tháng 9 tôi sẽ về đến Sài Gòn bằng xe lửa tốc hành. Anh Tân vẫn trong tình trạng bại liệt. Khi anh được ra trại với chúng tôi, cũng là lúc vợ và con trai của anh đến thăm, thế là anh được gia đình đón ra trại và chăm sóc trên đường về Sài Gòn.
Sau khi bàn giao Tổ Văn Hoá cho anh Nguyễn Hữu Vị (Trung Tá Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo), tôi dọn sang buồng giam số 4. Tất cả anh em được ra trại đều dọn sang buồng 4 chờ ngày rời trại. Tin đồn đoán về mấy trăm bộ quần áo nói là phát cho những người ra trại, thật ra không có gì hết. Còn đến mấy ngày nữa mới rời trại nên xem như rảnh, tôi thử kiểm lại đôi nét đặc biệt của một số bạn cùng bị giam trong trại Nam Hà A này:
Về tuổi tác. Cụ Nguyễn Chấn Á 84 tuổi là tuổi cao nhất, nguyên là Thiếu Tướng trong quân đội Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Cụ về Việt Nam giữ chức Cố Vấn ngành Chiến Tranh Chính Trị. Suốt thời gian trong tù, sáng nào cũng vây, mùa đông cũng như mùa hè, Cụ đều tắm nước lạnh sau bài tập thể dục. Cụ được sự kính nễ của các vị Tướng trong cùng buồng giam, và hầu hết anh em trong trại này. Cụ nói tiếng Việt không rành, nhưng vui tính và tốt bụng.
Nhỏ tuổi nhất là Nguyễn Minh Chí, vừa tròn 30 tuổi tính đến năm 1987. Bị bắt năm 1976 khi tham gia tổ chức Phục Quốc do Công An trá hình tổ chức. Sau thời gian bị biệt giam ở trại Mễ (Phủ Lý) trở về, vì cô đơn nên bất mãn quậy phá anh em. Khi trại trưởng Bùi Dênh hỏi tôi có nhận anh bạn trẻ này vào Tổ Văn Hoá không vì không Đội nào chịu nhận cả. Tôi bằng lòng nhận, vì tôi quan niệm ai cũng có cái hay lẫn cái dở, và tôi cố gắng sử dụng cái hay của anh bạn trẻ này. Thế là Nguyễn Minh Chí thay chỗ cho anh bạn trẻ Đinh Vượng đã ra trại hồi tháng 4 năm 1985. Nguyễn Minh Chí học không nhiều nhưng thông minh. Thật ra sự thông minh này một phần do bẩm sinh, và phần khác là do thời gian bụi đời trước năm 1975 mà có. Minh Chí tựa vào tên Vượng -cán bộ an ninh- nhờ vào vật chất do Chí vào trong trại xin cho hắn, nhất là xin anh Phạm Kim Qui nên bạn trẻ này được xem là “có thế lực” trong sự liên lạc giữa anh em trong trại với cán bộ an ninh. Những anh em nào giúp cho Chí món gì để cung phụng cho tên Vượng, ít nhiều cũng được tên Vượng đền bù qua những “ưu tiên” gì đó từ quyền hạn của hắn.
Về sức khỏe. Anh Lâm Minh Chánh (Phủ Đặc Ủy Tình báo), ít tuổi mà bệnh hoạn nặng nhất và lâu nhất. Anh bị suyển rất nặng, gần như cấp cứu thường xuyên ở trạm xá. Anh chưa được ra trại trong đợt này. Người nhiều tuổi mà tưởng chừng tắt thở đôi ba lần là anh Hồ Tiêu (Đại Tá Nhẩy Dù). Anh tròm trèm 70 (1987) nhưng vẫn tập tạ, sau lần thăm gặp gia đình thì sức khỏe suy kém nhanh không thể tưởng, giờ thì suy nhược hẳn rồi. Anh cùng ra trại trong đợt này với chúng tôi. Cụ Hoàng Văn Úy bị bệnh phổi, cứ mùa đông đến Cụ cũng khốn khổ như các anh bệnh bao tử. Rất nhiều anh bị những bệnh khó trị, như bệnh trỉ, bệnh gan, bệnh bao tử, bệnh suyển, thậm chí có cả bệnh ung thư nữa. Vào mùa đông, những anh bệnh bao tử với bệnh suyển là khốn khổ nhất. Bệnh bao tử thường phải cúi gập người xuống cho giảm cơn đau, còn bệnh suyển thì lúc nào cũng như người ngộp thở vậy. Hầu hết những anh bị bệnh khó trị đều ở buồng giam số 7.
Nhớ đến cái chết của cựu Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng, một thời ông là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Đang lúc rửa vài cái chén sau bữa ăn chiều, ông cảm thấy mệt và vào chỗ nằm trong buồng giam số 3. Một lúc thì ông chết. Đến cái chết của anh Trần Hữu Dụng (Đại Tá, bị cộng sản bắt khi Ban Mê Thuột thất thủ). Một buổi sáng khi điểm danh ra cửa, tên Lực trực trại nói với anh trực buồng:
“Còn thiếu một anh. Anh vào xem lại ngay”.
Anh trực buồng vào buồng giam thấy anh Dụng còn nằm trong mùng, đến lay anh dậy thì người anh lạnh ngắt. Hoảng quá:
“Báo cáo cán bộ, anh Dụng chết rồi”.
Tên Lực vào xem. Quả thật anh Dụng đã tắt thở. Hắn bảo anh trực buồng:
“Anh cho anh nào xuống trạm xá kêu anh Quýnh lên xem”.
Bác sĩ Quýnh được dẫn vào vì đôi mắt bác sĩ Quýnh rất mờ. Anh Quýnh nói:
“Anh nào vô buồng sờ dưới đít anh Dụng xem có ướt không?”
Chỗ đít anh Dụng trên sàn xi măng ướt nhẹp, bác sĩ Quýnh kết luận:
“Báo cáo cán bộ, vậy là anh Dụng chết vì trúng gió”.
Thế là anh em khiêng xác anh Dụng xuống trạm xá lo chôn cất trong khi anh Trần Hữu Pháp (em ruột) và anh Trần Hữu Từ (em bà con) được lệnh kiểm lại đồ đạc của anh Dụng để sau này trao lại gia đình. Phải công nhận rằng, trong số hằng mấy chục anh em tù chính trị chúng tôi chết tại trại Nam Hà A này, cho đến lúc ấy, duy nhất chỉ có anh Dụng được trại cho phép chúng tôi tẩn liệm mai táng và chôn cất rất chu đáo. Lúc tẩn liệm, khiêng xác anh cho vào quan tài không lọt vì cái quan tài nhỏ quá, phải để xác anh nghiêng một bên, Thượng Tọa Thích Thanh Long nói như đang thật sự nói với anh Dụng:
“Thôi, làm khó anh em chi vậy, ráng thu nhỏ bề ngang một chút để nằm ngửa ra cho anh em còn lo tiếp nữa chứ”.
Anh em, nhất là anh Tạ Đình Siêu (Đại Tá Thiết Giáp) sốt sắng lắm. Anh Siêu lắc lắc mãi, cuối cùng thì thi hài anh Dụng cũng nằm ngửa được. Hương linh anh Dụng được nghe lời kinh cầu nguyện của Thượng Tọa Thích Thanh Long. Khi chôn, đám Công An trực trại cho 11 anh em chúng tôi khiêng quan tài anh đến bên kia triền núi, nơi có đào huyệt cũng do anh em chúng tôi đào. Khi chuyển quan tài, tôi cầm bình hương, thầy Thanh Long theo đọc kinh. Anh Siêu trách nhiệm điều hợp anh em từ lúc rời trại đến lúc chôn cất xong. Có cắm miếng ván nhỏ viết mấy dòng chữ thay mộ bia cho anh.
Viết đến đây tôi chợt nhớ đến anh Đỗ Xuân Sinh (Đại Tá Quân Nhu) lúc ở trại tập trung trên Yên Bái. Anh bị suyển nặng lắm. Vợ anh từ bên Pháp gởi thuốc cho anh thật nhiều. Anh biết bệnh trạng của anh, nên những thuốc anh thường dùng đều ngay trên đầu nằm để khi cần là lấy cho kịp. Nhưng rồi anh chết ngay trên cái vạt giường bằng cây chổm chỉ vì anh không lấy kịp thuốc. Đến anh Lê Minh Luân (Đại Tá Không Quân) cũng chết trên Yên Bái. Trước ngày chết, anh vẫn kêu gào ly cà phê mà lúc ấy làm sao có cà phê. Với lại anh nằm ở trạm xá thuộc Liên Trại 1 trong khi chúng tôi ở trại 2 (thuộc Liên Trại 1), nhưng đâu có cách nào tìm cho anh được ly cà phê! Lại nhớ đến anh Nguyễn Bá Thình tự Long, có lẽ anh là người tù chính trị cấp Đại Tá chết đầu tiên tại trạm xá của Đoàn 776 tại thị xã Yên Bái, sau khi từ trại Tam Hiệp (Biên Hòa) chuyển ra đây. Khi ở trại Tam Hiệp, xương chân phải của anh bị thúi, có thể là anh bị ung thư xương nhưng họ có đưa đi khám nghiệm gì đâu mà biết. Người chết sau đó cũng tại trạm xá Đoàn 776 là anh Huỳnh Hữu Ban (Đại Tá, Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu). Các anh chết trong trại 2 và trại 3, nghe nói chôn ở đồi “Cây Khế”, thật ra chúng tôi không ai biết vị trí chính xác đồi Cây Khế ở đâu, cón những anh chết ờ bệnh xá Đoán 776 tại Yên Bái thì tôi không rõ chôn ở đâu.
Người mà tôi xem như đặc biệt nhất là bác sĩ Trương Văn Quýnh. Ông gần như bị mù nhưng chẩn đoán bệnh đến mức bác sĩ cộng sản ở bệnh viện Phủ Lý cũng nễ ông. Bác sĩ Quýnh chẩn đoán bằng đôi tay, bằng cách hỏi bệnh nhân, và bằng sự mô tả của anh phụ tá là Trần Xuân Đức (Đại Tá, Sở Kỹ Thuật/Bộ Tổng Tham Mưu). Chính ông đã kết luận đầu tiên Tiến Sĩ Nguyễn Duy Xuân bị ung thư di căn, anh Nguyễn Lương Bằng (Phủ Đặc Ủy Tình Báo) bị ung thư lưỡi (chết trước ông Xuân), và anh Nguyễn Phát Lộc bị ung thư máu.
Kể chuyện giải sầu. Rất nhiều anh có tài này. Anh Nguyễn Phát Lộc (Phủ Đặc Ủy Tình Báo) có tài kể truyện chưởng, truyện phim ngoại quốc, truyện trinh thám qua sách báo. Anh rất nghiêm chỉnh khi kể, trong khi anh Nguyễn Kim Tây (Đại Tá Biệt Động Quân) là cây kể truyện chưởng mà chúng tôi gọi là “chưởng thời đại” rất ư là tiếu lâm. Khi anh Tây kể chuyện làm cho người nghe đôi khi cười đến ôm bụng, cười ra nước mắt, có anh cười đến té đ…, chẳng hạn như truyện chưởng mà có bắn súng thay vì đánh võ đánh kiếm, đi xe du lịch thay vì cưỡi ngựa. “Máu tiếu lâm” của anh Tây thường giúp người nghe giải sầu tức khắc, tuy có lúc nghe “hơi tục mà thanh” cứ như nghe thơ của bà Hồ Xuân Hương vậy. Anh Lê Minh Chúc (Đại Tá) kể truyện dưới dạng vừa dịch vừa kể truyện ngoại quốc cho anh em trong buồng giam nghe, chẳng hạn như quyển “Hãy Để Ngày Ấy Lụi Tàn” của tác giả người Anh, viết về một chuyện tình giữa người thanh niên da trắng với người phụ nữ da đen, sinh ra đứa con “trắng nhiều hơn đen”. Chuyện xảy ra trên đất nước Nam Phi dưới thời Anh Quốc cai trị. Thời ấy “kỳ thị chủng tộc” là chính sách rất tồi tệ. Thật ra không phải cứ ai kể chuyện vui mà mọi người cười hết đâu, cần có chút “khoa ăn nói” nữa. Anh Tây kể chuyện thì y như rằng, anh em trong buồng giam đều cười vui vẻ.
Nguồn chuyện kể giải sầu riết rồi cũng cạn, lúc ấy đến lượt tôi, nhưng chuyện mà tôi kể không phải chuyện vui mà là chuyện để suy ngẫm. Chuyện bắt đầu khi tôi lên tiếng:
“Các bạn ơi! Tôi thử kể chuyện này, nếu các bạn nghe được thì tôi kể tiếp. Nếu không thì tôi chấm dứt ở đó”.
“Anh kể đi. Chưa kể thì biết đâu mà nghe được với không được”. Một bạn lên tiếng.
Tôi bắt đầu kể về những lệnh mà tôi nhận, những việc mà tôi làm, và những nhận xét của tôi từ những lệnh và những việc làm đó trong cuộc Đảo Chánh ngày 01/11/ 1963. Lúc ấy khuya lắm rồi, tôi kể chưa hết nhưng chừng như chẳng còn ai thức, nên tôi lặng lẽ chui vào mùng. Hai ba anh cùng lên tiếng một lúc:
“Trời ơi! Sao đến đó rồi ngưng ngang vậy anh?”
“Ô! Tôi tưởng các anh ngủ hết rồi nên tôi ngưng. Nếu chưa ngủ thì tôi kể tiếp”.
“Chuyện hấp dẫn như vậy mà ngủ sao được. Mai là chủ nhật, kể nữa đi”.
Thế là từ đêm đó, cứ sau khi cửa buồng giam khóa “crắc” một cái là tôi bắt đầu kể chuyện. Lần lượt đến cuộc Đảo Chánh ngày 30/01/1964, cuộc Biểu Dương Lực Lượng ngày 13/09/1964, cuộc Đảo Chánh ngày 19/02/1965, quân đội lãnh đạo quốc gia từ ngày 19/06/1965, cuộc Khủng Hoảng miền Trung từ ngày 09/03/1966, Phước Long vào tay cộng sản ngày 07/01/1975, Ban Mê Thuột mất ngày 13/03/1975, rút bỏ các tỉnh Cao Nguyên ngày 17/03/1975, và Giờ Thứ 25 của cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ. Tôi kể liên tục trong 9 đêm thì hết chuyện.
Khi kể lại, tôi có hai điều lợi: Thứ nhất là nhân vật trong chuyện kể có cựu Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao và cựu Đại Tá Đàm Quang Yêu. Cả hai vị này cùng trong cuộc khủng hoảng miền Trung. Kể xong chuyện đó, tôi hỏi hai vị thấy tôi có điều gì sai sót xin vui lòng cho biết. Anh Yêu nói “thế là đủ rồi”, trong khi ông Cao chỉ cười cười mà không nói gì hết. Điều lợi thứ hai là khi tôi kể, cùng lúc ký ức tôi nhận lại. Như vậy, xem như tôi cập nhật hóa những gì mà ký ức tôi lưu giữ. Cũng nhờ vậy mà tôi lén lút viết lại và “gởi chui” về Sài Gòn vợ tôi cất giấu.
Về đàn hát. Anh Đào văn Ba và anh Nguyễn Văn Quí, được anh em xếp vào “bậc thầy” về guitare với những bài tân nhạc, nhưng về nhạc cổ điển có lẽ không ai hơn anh Phạm Kim Qui, kế đó là anh Đặng Hoàng Long. Hát nhạc ngoại quốc, khó anh nào đương nỗi với anh Phạm Gia Đại với anh Bửu Uy. Anh Phạm Kim Tấn cũng là “cây hát” nhạc tây nhưng giọng anh “rè quá” nên khó xếp hạng được. Hát nhạc Việt Nam, phải công nhận là giọng của anh Đinh Tiến Dũng với anh Nguyễn Dũng là hấp dẫn nhất. Nét đặc biệt của anh Nguyễn Dũng là chui vào mùng hát. Trong số các anh hát hay, phải kể đến anh Phạm Văn Hòa (Trung Tá Không Quân) là ca sĩ số một với giọng “người Mỹ hát nhạc Việt”.
Về đá banh. Anh Phạm Kim Tấn và anh Chu Mạnh Bích (Đại Úy Không Quân) là đá có kỹ thuật nhất. Anh Vũ Quang Tỉnh mà chúng tôi thường gọi là “Quách Tỉnh” một nhân vật trong truyện chưởng Trung Hoa thời phong kiến, thì đá theo sức mạnh. Anh Nguyễn Văn Hóa (Đại Úy Không Quân) di tản tháng 4 năm 1975, nhưng lại theo tàu Việt Nam Thương Tín trở về nên bị bắt nhốt chung với chúng tôi. Anh cùng ra trại trong đợt này. Anh đứng hàng hậu vệ là số một. Anh Cao Văn Ủy (Đại Tá Biệt Động Quân) thủ môn thuộc hạng khá của đội “lão tướng” nhưng phải tùy hứng. Anh bạn trẻ Đinh Vượng cũng là thủ môn có hạng. Khi vào sân là anh bạn trẻ này liều mạng lắm. Anh bạn trẻ khác là Nguyễn Minh Chí, khắp sân chỗ nào cũng có mặt, cứ có banh là đá còn trái banh muốn đi đâu thì đi.
Về tướng số tử vi. Anh Nguyễn Phát Lộc, trước năm 1975 đã xuất bản hai quyển sách về loại này. Có lần anh nói với tôi và các bạn:
“Tôi không thể giải đáp cho lá số của chính tôi. Theo lá số, tôi không chết trong trại tù, cũng không chết ở nhà”.
Sau khi tôi ra trại khoảng 6 tháng thì trại Nam Hà có đợt tha, và trong số đó có anh Lộc. Điều mà anh Lộc không có giải đáp cho lá số của anh, thì ngay trong đợt tha dường như là tháng 04/1988 có giải đáp, nhưng tiếc là tự anh không xác định được. Theo thư của anh Nguyễn Hữu Vị gởi cho tôi, khi anh Lộc nhận được lệnh tha ra trại cùng lúc có cô em gái út đến thăm. Vì sức khỏe quá kém, nên trực trại cho anh em khiêng anh ra nhà thăm nuôi để gặp gia đình, và rồi anh Lộc chết tại đây. Vậy là lá số của anh rất đúng, vì anh không chết tại nhà cũng không chết tại trại, cầm giấy ra trại trong tay để rồi chết tại nhà thăm nuôi (Khi về Sài Gòn, tôi thường gởi thư chui cho anh Vị kể những chuyện của anh em chúng tôi, và những oái oăm trong xã hội xã hội chủ nghĩa).
Anh Đoàn Túc (cựu Trung Tá) cũng là một “nhà bói toán” có hạng. Anh bói cho một số anh liên quan đến chuyện nhà, ngay cả chuyện các anh ấy được về trong khoảng thời gian nào, đa số đều đúng.
Trở lại chuyện tôi ra trại. Trong những ngày chờ lên xe lửa, anh em chúng tôi chung góp được 23.000 đồng để giúp hai bạn tù cùng về:
- Anh thứ nhất được 13.000 đồng là anh Lê Văn Khương (Phó Quản Đốc Nhà Lao Côn Sơn). Trong thời gian bị giam ở trại “Cổng Trời” sát biên giới với Trung Hoa cộng sản, đã bị chúng nó hành hạ đến mức không đi được nữa nên không thể cùng đi xe lửa với chúng tôi, mà trại chờ người nhà đến đón mới cho ra trại. Anh Huỳnh Kim Bình (Đại Úy) và vợ, nhận trách nhiệm mang tiền đến trao cho gia đình anh Khương, đồng thời chị Bình sẽ hướng dẫn gia đình này ra trại Nam Hà đón anh ấy về, vì nhà anh chị Bình cùng ở Long Xuyên. Cũng may là chị Bình khi đến trại thăm thì biết tin anh Bình được ra trại, nên chúng tôi nhờ tên Quí (Công An, phụ trách vận chuyển của trại) mua vé để anh chị được về cùng chuyến xe lửa. Về đến Sài Gòn, gia đình anh Trang Văn Ngọ (Trung Tá Không Quân) gởi cho gia đình anh Khương thêm 11.000 đồng nữa để đủ cho hai người ra đón anh Khương.
- Anh thứ hai là anh Huệ được 10.000 đồng. Anh Huệ lúc bị giam ở trại Tam Hiệp tự xưng là “Thiếu Tướng Nguyễn Huệ, Tư Lệnh Sự Đoàn 23B”, vì anh bị thần kinh nên Đại Đức Thích Minh Tâm (cùng ra trại) nhận anh ấy về chùa ở Hóc Môn tạm trú, sau đó sẽ hướng dẫn về quê dường như cũng ở Long Xuyên thì phải.
Ngày 09/09/1987, trại cho chúng tôi bữa cơm trưa, có thịt có rau, nhưng ai cũng nôn nóng ra khỏi cái trại hắc ám này nên có ăn được bao nhiêu đâu. 11 giờ trưa bắt đầu ra cổng. Tôi đi sau cùng, nhưng không dám quay lại nhìn các bạn đứng bên trong cổng. Nếu tôi nhìn vào trại, rất có thể tôi không cầm được nước mắt! Sau 3 tiếng đồng hồ, ba chiếc xe già cỗi cà rịch cà tang trên con đường đá từ trại ra Phủ Lý, quẹo phải sang quốc lộ 1 để xuống ga Nam Định. Tại đây có tổ quay phim thu hình chúng tôi, và nghe nói nhóm quay phim này sẽ theo chúng tôi vào Sài Gòn tiếp tục thu hình nữa. Chắc chắn là những thước phim đó, họ sẽ sử dụng để “quảng cáo” trong quốc nội lẫn quốc tế về điều mà bọn họ gọi là khoan hồng nhân đạo với thành phần mà họ gọi là ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn.
4 giờ 30 chiều ngày 9 tháng 9 năm 1987, chuyến xe lửa tốc hành Hà Nội-Sài Gòn rời ga Nam Định. Chúng tôi ngồi chung trong một toa. Sau khi rời Nam Định một lúc, hai anh mặc đồng phục công nhân xe lửa đến đứng giữa toa, một anh giới thiệu:
“Đây là anh Trưởng Tàu” (người miền Bắc gọi là tàu lửa, người miền Nam gọi là xe lửa).
Vừa nói anh ta vừa chỉ anh đứng cạnh. Và anh “trưởng tàu” bắt đầu:
“Mấy chú được dành toa đặc biệt này trên đường về nhà…”
Một bạn ngắt ngang: “Thế nào là đặc biệt vậy anh?”
“Đặc biệt vì toa này có đèn điện, với lại tương đối sạch so với các toa kia”.
“Vậy hành khách trên các toa kia tối đen à?”
“Các toa kia dùng đèn dầu xách tay”.
“Sao các băng ngồi chỉ trơ gỗ mà không có nệm vậy anh?”
“Mấy chú đi cải tạo lâu quá nên không hiểu gì về những sinh hoạt trong xã hội bây giờ. Tôi nói cho mấy chú biết là khi về nhà, mấy chú không nên thắc mắc bất cứ điều gì với địa phương, vì không có lợi cho mấy chú đâu?”
“Sao kỳ vậy?”
“Mấy chú nên nghe tôi. Còn muốn biết tại sao thì về nhà một thời gian mấy chú sẽ hiểu. Những toa này do Ấn Độ viện trợ, nhưng chỉ 24 tiếng đồng hồ sau thì tất cả những gì tháo gỡ được đều mất hết, ngay cả thắng xe cũng bị mất cắp nữa, chỉ còn trơ lại toa tàu thôi. Nếu họ đem toa tàu đi được thì chẳng còn toa nào đâu”.
“Sao tệ quá vậy?”
“Tôi nhắc lại. Khi về địa phương, mấy chú đừng nên thắc mắc gì cả, mọi việc rồi mấy chú cũng quen như mọi người thôi. Tôi nói thêm: Khi tàu gần đến Quảng Trị, mấy chú phải đóng cửa sổ lại, vì có những đám thanh niên ném đá hoặc bắn đá vào xe đó. Đã có những hành khách bị thương rồi”.
“Xã hội chủ nghĩa ghê thiệt!”
Anh trưởng tàu nhìn về hướng phát ra âm thanh đó, chừng như anh ta không có ý tìm ai nói mà chỉ quay về hướng đó để nhắc lại lời khuyên của anh ta:
“Một lần nữa tôi nhắc mấy chú, về địa phương đừng bao giờ thắc mắc gì hết, thấy vậy hay vậy là tốt. Chẳng hạn như thắc mắc vừa rồi, mấy chú sẽ bị ghép vào tội chống đối nhà nước đấy. Mấy chú ráng nhớ giùm tôi”.
Nói xong là anh ta xoay lưng đi ngay, chừng như sợ phải nghe tiếp những thắc mắc tương tự.
Thật lòng mà nói, sau hơn 12 năm trong các trại tập trung từ trong Nam ra đất Bắc, ngay ngày đầu tiên bước vào xã hội xã hội chủ nghĩa, chỉ với những sinh hoạt ngay trên chuyến xe lửa thuộc loại “tốc hành” này, đã trở nên lạ lẫm với tôi rồi. Lúc chiều, anh trưởng tàu nói đây là toa xe đặc biệt mà lại nệm ngồi không có, nệm tựa lưng cũng không có, cầu tiêu thì dơ ơi là dơ! Đêm đầu tiên, tôi lần qua các toa tìm đến toa hàng ăn để uống ly cà phê, mới nhận ra nỗi khổ của hành khách đi xe lửa dù là xe lửa tốc hành, tức là chỉ dừng lại những ga chính thôi. Dưới ánh sáng lờ mờ của những ngọn đèn dầu leo lét, thật khó mà tưởng tượng! Hai băng ngồi đối diện, một băng 3 người. Hai băng phía bên kia lối đi, mỗi băng 2 người ngồi. Hai đầu trên của hai băng 6 người ngồi, máng được 3 cái võng cho 3 người nằm, 1 người nằm co quắp trên sàn xe đen đúa nhầy nhụa giữa 2 băng đối diện, và 2 người còn lại cũng nằm co quắp trên 2 băng ngồi.
Nếu nhìn toàn cảnh của toa xe sẽ thấy, băng ngồi đầy người nằm, những chiếc võng bé xíu che kín trên đầu băng, cả lối đi vốn dĩ đã nhỏ hẹp cũng đầy người nằm chen lẫn trong đống hành lý thật hổn độn. Những bà vợ thăm chồng, mang theo hằng trăm kí lô, biết bao là nhọc nhằn gian khổ! Cứ mỗi bước đi phải chen từng bước chân giữa người với hành lý, vì ngay cửa vào cầu tiêu cũng chật kín người. Vậy mà, không đụng chân cũng chạm tay, có lúc lại đạp nhầm lên gói hành lý nữa, trong khi hai tay phải khép sát vào ngực mới mong tránh va chạm vào những người nằm trên cái võng bé xíu từ đầu băng bên này sang đầu băng bên kia. Đến cuối toa xe đứng nhìn lại, cái cảnh tượng thật là buồn cho đất nước Việt Nam mình bất hạnh quá!
Giả thử, nếu những ông chồng như anh em chúng tôi chứng kiến những hành khách nằm cong queo trong cái gọi là chiếc võng kia, hay co quắp giữa những gói quà đầy ấp tình thương trên sàn xe nhớp nhúa đó, là những bà vợ của mình, liệu có cầm được nước mắt không? Tôi nghĩ, nghe nói lại, nghe thuật lại, ông chồng nào cũng đớn đau thương cảm cho tình cảnh những bà vợ quanh năm gánh gạo nuôi chồng! Nhưng không có đớn đau thương cảm nào có thể đem cân bằng nỗi đớn đau thương cảm của những bà vợ trọn tình vẹn nghĩa như vậy được cả!
Từ hình ảnh này tôi chợt nghĩ đến những chuyến vợ tôi cùng những chị bạn, lăn lốc trên những toa xe như thế này trong khi mang theo hằng trăm kí lô hành lý thức ăn thuốc uống, vất vả biết ngần nào! Đâu đã hết, theo lời vợ tôi kể lại, vì muốn rút ngắn thời gian khỏi phải lên Hà Nội rồi quay trở xuống, nên “hối lộ” 200 đồng cho anh trưởng tàu khi ngang Phủ Lý xe chạy chậm lại, lúc ấy vợ tôi nhảy xuống cùng với vài thùng hàng, phần còn lại trên xe nhờ các chị bạn đẩy xuống giùm. Vợ tôi lần lượt gom lại, chờ xe trại đi công tác về ngang chở vào trại với một số tiền nhất định chớ không phải họ chở giùm đâu. Cái giá để gọi là sòng phẳng, là từ 50 đến 100 hay 200 tùy lượng hàng nhiều hay ít. Thuật lại quí vị quí bạn nghe đơn giản lắm, nhưng thật ra rất gian nan khi đi dọc theo đường xe lửa, bưng từng gói từng thùng gom lại. Có một lần vì trời chưa sáng hẳn, có những bóng đen lấy những gói hàng chạy mất vào bóng tối. Đành chịu thôi! Với những gian truân nguy hiểm như vậy mà vợ tôi đã lặn lội từ Sài Gòn ra trại tập trung Nam Hà thăm nuôi tôi từ giữa năm 1979 đến đầu năm 1987 là 17 lần! Tình yêu chồng và tình thương con đã cho vợ tôi một nghị lực mà tôi đánh giá là phi thường!
Đó là nỗi khổ trên xe lửa, bây giờ mới quí vị quí bạn theo chân tôi đi tắm, mới cảm nhận được nỗi khổ của phụ nữ nói chung, và các bà vợ của tù chính trị chúng tôi nói riêng, khi đi tắm. Trước khi rời trại, tôi chuẩn 3 bộ đồ lót loại có thể cho “về hưu” mà không thương tiếc để mỗi khi tắm xong là bỏ lại tại chỗ. Xe ngừng, tôi vừa đi vừa chạy tìm chỗ tắm. Mua thùng nước 200 đồng, xách vội vào khu vực tắm tìm chỗ trống. Vừa máng cái khăn và áo quần lót lên vách thì tiếng phụ nữ bên ngoài ơi ới:
“Lẹ lẹ lên các anh chị ơi, cho tôi tắm với”.
Nhìn thấy một bà sồn sồn và hai cô gái, tôi xách thùng nước với áo quần trở ra:
“Chị vào đây tắm đi, tôi tắm bên ngoài”.
“Cám ơn anh quá”. Cả ba phụ nữ cùng tắm.
Tắm xong, tôi bỏ áo quần ướt lại đó như dự tính, có điều là lúc dự tính tôi không nghĩ “chúng nó về hưu” trong tình cảnh ướt nhẹp như vậy. Tôi mua thùng nước khác xách lại xe lửa để anh Trà tắm trên xe. Chuyện là tôi với anh Nguyễn Đình Trà ngồi cạnh nhau, và chúng tôi phân công mỗi khi đến ga Huế, Qui Nhơn, Nha Trang, tôi đưa tiền anh Trà chạy mua thức ăn, tôi tắm xong đem về anh thùng nước. Khi xe chạy, anh tắm. Xong, hai chúng tôi cùng ăn.
Trở lại với chuyến về của anh em chúng tôi. Có hai Công An -một nam một nữ-theo áp giải chúng tôi về Sài Gòn. Nam tên Đính và nữ tên Ngân, cô ta là y tá. Tại nhà ga Nam Định, tên Đính bảo tôi:
“Anh Hoa. Anh thu lại tất cả Giấy Ra Trại đưa tôi. Khi hoàn tất thủ tục tại Chí Hòa xong tôi sẽ trao lại các anh”.
“Thủ tục gì mà phải làm ở khám Chí Hòa cán bộ?”
“Về đến thành phố, các anh còn phải vào Chí Hòa, sau đó mới tự do. Anh biết vậy là được rồi, đừng có hỏi nữa”.
“Vì cán bộ nói lững lờ như vậy làm tôi thêm thắc mắc. Cán bộ có thế cho tôi biết sự thể như thế nào không?”
“Anh đừng hỏi nữa. Tôi chỉ được lệnh của trên như vậy thôi”.
Trong số anh em chúng tôi có một số bạn có gia đình ở Huế, Đà Nẳng, Nha Trang muốn ghé nhà trước khi vào Sài Gòn trình diện, vì theo trong giấy đến hết tháng 9 mới hết hạn trình diện, nhưng nói cách gì hắn cũng không chịu. Vì vậy mà anh em chúng tôi đồng ý với nhau, không mời hai đứa nó ăn uống gì hết mà khi rời trại, tôi và vài anh có ý định mời họ ăn uống với chúng tôi trên hành trình Nam Định-Sài Gòn.
Từ Biên Hòa về đến Sài Gòn, tôi lấy làm lạ là trên quảng đường này, từng bao hàng loại 50 kí lô được thả xuống vệ đường, có thể nói giống như trường hợp vợ tôi đẩy những gói những thùng xuống Phủ Lý vậy. Có điều là những bao hàng này khi xuống đường là có người đến nhận bỏ lên xe hai bánh chở đi ngay.
Trước khi đến Hòa Hưng (Sài Gòn), Công An Đính bảo tôi khi xe vào nhà ga, tất cả anh em chúng tôi phải tập trung một chỗ để xe đưa vào nhà giam Chí Hòa làm thủ tục trước khi ra về.
6 giờ chiều 12 tháng 9 năm 1987, chuyến “xe lửa tốc hành” sau 70 giờ 30 phút chạy tà tà trên quảng đường dài 1.736 cây số, cuối cùng cũng vào nhà ga Hòa Hưng. Rất đông thân nhân chúng tôi đứng đầy bên ngoài nhà ga. Khi xe lửa dừng hẳn, bà con ra sát bên hông xe mong gặp người thân. Đón tôi có vợ tôi và vợ chồng đứa em thứ tư của vợ tôi là Triệu Văn Lễ từ Vĩnh Long lên. Tôi đưa vợ tôi cái túi xách đựng đồ lặt vặt, trong khi cái “ba lô” với tất cả áo quần và đồ dùng thường ngày vẫn trên lưng, vì tôi phải đề phòng không biết bọn họ nói chúng tôi vào nhà giam Chí Hòa làm thủ tục hay lại nhốt chúng tôi nữa, lúc ấy có mà dùng. Tôi nói:
“Em ơi! Bây giờ tụi Anh còn phải vào làm thủ tục gì đó ở nhà giam Chí Hòa mới về được. Em đem cái túi xách về nhà trước, còn Lễ đến chờ Anh ở cổng nhà giam Chí Hòa”.
Vợ tôi với chút sợ hãi:
“Liệu họ có nói đúng không Anh?”
“Biết làm sao được Em. Cứ tạm tin là họ chỉ làm thủ tục thôi. Nếu có gì khác thì mọi người đứng chờ bên ngoài sẽ biết được mà. Em với Nhung (vợ của Lễ) về trước nhé!”
Thế rồi xe của nhà giam đưa chúng tôi vào Chí Hòa. Tên Công An nào đó giảng giải về chính sách nhân đạo, về thủ tục xin thẻ “chứng minh nhân dân”, phải thi hành tốt những lệnh của địa phương, ..v..v… Điều mà họ nói làm thủ tục là như vậy, lúc ấy tên Đính trả Giấy Ra Trại cho chúng tôi. Và chúng tôi thật sự ra về.
Ra đến cổng, em tôi đang chờ ở đó, đưa tôi về nhà bằng xe Honda. “Giấy ra Trại” của tôi số 122 với mã số hồ sơ là “00087801342” do tên Thượng Tá Công An Lưu Văn Hán, trưởng trại Nam Hà ký ngày 09/09/1987, do căn cứ Quyết Định tha số 18 ngày 31/08/1987 của Bộ Công An. Trong giấy này ghi tôi can tội “Đại Tá, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận Bộ Tổng Tham Mưu”. Xã hội xã hội chủ nghĩa có những cái tội nghe quá ư là “kỳ cục”! Bị bắt ngày 24/10/1975 theo án lệnh “tập trung cải tạo”. Sau án 3 năm đầu, tôi bị tăng án đến 3 lần, mỗi lần 3 năm. Cũng trong Giấy Ra Trại ghi họ bắt tôi ngày 24/10/1975 mà thật ra là ngày 14/6/1975. Số tù của tôi là 968 mà họ gọi là số danh bạ.
Vậy là, khi vào trại tập trung, con tôi đưa tôi bằng xe Honda 2 bánh từ nhà đến trình diện cộng sản tại khu đại học xá Minh Mạng. Khi từ trại tập trung trở về, em tôi đón cũng bằng xe Honda 2 bánh từ nhà tù Chí Hòa về nhà. Chuyện ngẫu nhiên lại có vẻ như “đâu vào đó” vậy!
Tính đến lúc ấy, tôi là tù chính trị 12 năm 2 tháng 27 ngày và 6 tiếng đồng hồ! Nếu số ngày tính tròn là 28 ngày!
Vào nhà rất đông đủ người thân: Ngoài vợ tôi, có Ba Má tôi, Dượng tôi (Dì tôi đã chết), vợ chồng của em vợ tôi (Lễ & Nhung), một bà Cô (Cô Bảy), và một số bạn bè hàng xóm. Tôi rất vui mừng khi thấy Má tôi đứng và đi được từng bước. Mừng, vì Má tôi bị đứt mạch máu và liệt nửa người bên trái từ năm 1985. Vợ tôi đưa Má tôi về Sài Gòn, và theo chỉ dẫn của chị Nhan Minh Trang -cũng bị liệt nửa người- hằng ngày vợ tôi đưa Má tôi đến nhà một người ở gần trường đua Phú Thọ mà hàng xóm gọi là “Thầy Năm” để bấm huyệt. Chỉ một tuần sau đó Má tôi đứng được, và xem là tốt như tình trạng hiện giờ.
Ngay sau đó, vợ chồng tôi sang nhà cái bà có cái chức “Tổ Trưởng Tổ Dân Phố” để trình diện. Ngày hôm sau, vợ chồng tôi đến trình diện Công An “khu vực”, tiếp đó Công An Phường 25, Quận 10, ở ngay trong cư xá Bắc Hải. Tại đây, tôi phải chờ tên Phó Công An Phường phụ trách chính trị ký xác nhận trên giấy ra trại, mới được x em là hợp lệ. Vài hôm sau tôi mới nhận ra quyền lực của “Công An khu vực” gần như “Công An trực trại” trong trại tập trung. Bà Tổ trưởng tổ dân phố là vợ của đại tá cộng sản cùng với tên Công An khu vực, là “hai tên cộng sản quyền lực” đối với gia đình cựu tù chính trị chúng tôi trong khu vực này. Riêng với gia đình tôi, từ sau khi các con chúng tôi vượt biển đến Hoa Kỳ an toàn, bà ta trở nên thù hằn nhất mà bằng chứng là thường xuyên gây khó khăn đến mức không cho Ba Má tôi từ Sa Đéc lên ở trị bệnh. Nhưng vợ tôi cứ liều mạng rồi mọi việc vẫn êm xuôi.
Làm thủ tục tại địa phương xong, vợ chồng tôi đến bưu điện gởi điện tín cho các con chúng tôi ở Houston, Texas, Hoa Kỳ, rằng tôi thật sự về đến nhà. Thật ra khi vợ tôi nhận được điện tín khi tôi chưa rời trại Nam Hà, đã gởi điện tín sang các con chúng tôi rồi, nhưng các con chúng tôi cần cái điện tín xác nhận. Các con chúng tôi vượt biển sáu bảy năm trước đó, nhưng có lẽ vẫn còn nhớ câu nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu hồi đầu năm 1968: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỷ những gì cộng sản làm”, vì vậy khi nhận điện tín báo tin tôi về nhưng vẫn không tin, nên cần được xác nhận để biết là thật.
Đâu đã xong quí vị quí bạn ơi! Tôi và các bạn phải đến Sở Công An để làm thủ tục “nhập hộ khẩu”. Thủ tục này nhiêu khê lắm, vì đây là loại giấy tờ thuộc vào hàng “sinh tử” trong xã hội xã hội chủ nghĩa, vì bất cứ có việc gì cần đến cơ quan hành chánh hay Công An đều phải mang theo cái giấy này. Hồ sơ xin nhập cái gọi là “hộ khẩu” gồm: Đơn của tôi + bản tóm tắt lý lịch 3 đời + giấy ra trại + tờ hộ khẩu + đơn của vợ tôi đồng ý cho nhập hộ khẩu + và hôn thú của vợ chồng tôi. Một tháng sau mới nhận được tờ giấy nhỏ xíu xác nhận hợp lệ, lại mang đến Phòng Quản Lý Hành Chánh & Trật Tự Xã Hội Quận 10, mua một lô các mẫu đơn xin nhập hộ khẩu tại Quận 10. Chưa hết, khi nộp đống hồ sơ này tôi phải viết “bản kiểm điểm” với đại ý là tôi chưa có hành vi nào chống đối chế độ xã hội chủ nghĩa. Một tuần sau nữa, tôi nhận được tờ hộ khẩu có tên tôi.
Thế là xong một loại “giấy hộ mạng” thứ nhất, đến “giấy hộ mạng thứ hai là “chứng minh nhân dân”. Lại phải đến Sở Công An, lại phải làm thủ tục với một đống hồ sơ nữa để xin cái giấy ấy. Mãi đến cuối năm 1987, tôi có trong tay hai cái “giấy hộ mạng”. Công An tại Sở này cho biết, anh em chúng tôi mà họ gọi là ngụy quân nguỵ quyền cao cấp do trung ương của họ quản trị mà họ gọi là quản lý. Với chính sách đó, cho thấy là họ vẫn sợ chúng tôi nên nắm chắc phần theo dõi, thay vì địa phương. Ấy vậy mà lúc học tập chính trị tại trại tập trung Long Giao hồi tháng 09/1975, tên Công An gọi là giáo viên nói như con vẹt, rằng:
“…Đội ngũ sĩ quan các anh là cái đám người nắng không ưa mưa không chịu, nhát gió kỵ mù sương, nắng ngủ mưa nghỉ, mát trời đi chơi ….”
Khoảng 2.000 anh em chúng tôi ngồi bệt trên sàn xi măng dơ dáy, có tiếng nói khơi khơi:
“Phải rồi. Chúng tôi chỉ có ăn chơi mà hai chục năm mới chiếm được đất đai của chúng tôi”.
“Anh nào phát biếu đó?”
Anh em chúng tôi êm re, dại gì làm “anh hùng rơm” mà lên tiếng. Hắn tức lắm, nhưng làm gì được ai.
CHƯƠNG 9 XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM. (1988-1990)
- chín-
Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
(1988-1990)
*****
Từ nhà tù nhỏ là các trại tập trung, tôi bước vào nhà tù lớn là xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi có giấy “chứng minh nhân dân”, còn thật sự tôi có phải là “công dân xã hội chủ nghĩa” hay không, lại là việc khác.
Đằng sau cánh cửa sắt trại tập trung, tôi chỉ vươn tầm nhìn vào xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhìn ra thế giới, ngang qua đài phát thanh Hà Nội ngày được nghe năm bảy ngày không, và tờ báo Nhân Dân. Cả hai phương tiện truyền thông này cũng như tất cả những gì gọi là truyền thông báo chí đều của đảng với nhà nước cộng sản. Hoàn toàn không có bất cứ một phương tiện truyền thông nào của tư nhân cả. Vì vậy mà lượng thông tin vừa ít ỏi vừa nặng về tuyên truyền, mà tuyên truyền thì không đúng sự thật. Ngoài nguồn tin tức đó, thỉnh thoảng anh em chúng tôi nhận tin từ thân nhân hoặc từ các bạn ở ngoại quốc gởi về, bằng cách chọn lọc những trang báo có bài cần cho chúng tôi trong tù đọc, dùng gói quà gởi về Việt Nam. Đám Công An đâu biết những bài báo đó nói gì, vì có những bài bằng Anh ngữ, cũng có những bài bằng Việt ngữ, nhưng những trang báo sau hành trình nửa vòng trái đất, trang báo đã bèo nhèo hết trơn nên họ cho vào trại.
Giờ đây, sống trong xã hội xã hội chủ nghĩa hay là nhà tù lớn, đang trong thời kỳ gọi là cởi trói báo chí, tôi hy vọng có thể nhận ra nền giáo dục Việt Nam cộng sản, vì tôi hiểu rằng, giáo dục là nền tảng đào tạo con người, từ đó dẫn đến xây dựng và phát triển quốc gia.
Chuyện nhà đất.
Nhà và đất, là một trong những mục tiêu trước mắt của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam từ trung ương đến tận các địa phương, tranh đoạt từ bất cứ ai là công dân Việt Nam Cộng Hòa cũ mà họ dùng những gian trá mánh khóe như nhà rộng, nhà vắng chủ, nhà nước mượn, nhà nước quản lý, ..v..v.., để cướp đoạt làm tài sản riêng, dù rằng không ít trường hợp họ ẩn dưới danh nghĩa như là lợi ích xã hội chủ nghĩa, mà lợi ích xã hội chủ nghĩa là gì thì họ cũng chẳng giải thích được.
Trước hết là một số sự kiện gian trá cướp đoạt đó ngay trong cư xá Bắc Hải chúng tôi. Nhớ lại những ngày giữa tháng 05/1975, Công An Phường 15 với Công An Quận 10, đã chiếm đoạt 174 căn nhà của các vị Tướng Lãnh và sĩ quan di tản, mặc dầu trong những nhà đó vẫn còn thân nhân của những người di tản. Sau khi tất cả sĩ quan cư ngụ trong cư xá đều vào trại tập trung, Công An Phường 15, Công An Quận 10 và cơ quan nhà đất Quận 10, hợp nhau hết đuổi đi mà họ gọi là vận động, đến đe dọa chiếm đoạt tịch thu bất cứ nhà nào họ muốn. Đợt chiếm đoạt đó không được bao nhiêu nhà vì các chị chống đối dữ dội, nói cho đúng là liều mạng mà chống lại lệnh của họ rồi ra sao thì ra, cho nên họ quay sang cách khác cũng gọi là “vận động” bằng cách dụ dỗ hiến nhà cho nhà nước thì chồng trong trại tập trung được về sớm. Cách này xem chừng họ thành công hơn đợt trấn lột trong những tháng cuối năm 1975.
Ở những khu khác như thế nào không rõ, chớ trong cư xá Bắc Hải chúng tôi phải công nhận cái “tinh thần trấn lột của cộng sản rất kiên trì”. Nhiều gia đình của các bạn tôi thật sự “trúng kế dụ dỗ” của họ, nên đã đổi nhà lớn trong cư xá nhận nhà nhỏ ở nơi nào đó hoặc hiến nhà cho chúng nó, như gia đình cựu Đại Tá Phan Xuân Nhuận, cựu Đại Tá Đinh Xuân Kế, cựu Đại Tá Nguyễn Văn Huấn, cựu Trung Tá Giang Văn Trọng, ..v..v.. Có trường hợp bi thảm hơn nữa như gia đình cựu Trung Tá Trần Chí Thẩm. Chị Thẩm cũng là người rất cương quyết giữ lại căn nhà để ở, vì vậy mà bị Công An khu vực và Công An Phường 15 Quận 10 bắt chị hằng ngày phải đến văn phòng họ ngồi đó, từ đầu giờ đến cuối giờ làm việc, và liên tục như vậy suốt mấy tháng liền. Một hôm chị đến thăm tôi, nhân đó chị kể cho tôi nghe nỗi đau của chị khi bị chúng nó gạt:
“Anh nghĩ coi. Suốt mấy tháng đó tôi nhất quyết không đưa hồ sơ nhà cho họ, nhưng một hôm họ nói với tôi là đưa giấy tờ nhà cho họ coi để họ giải quyết dứt khoát. Tôi cứ tưởng họ thay đổi ý kiến. Tôi lấy hồ sơ từ trong túi xách ra đưa cho họ. Xem xong, lập tức họ bỏ vào tủ khóa lại, rồi ra một cáilệnh mà khi nghe xong tôi cứ tưởng họ nói với ai vậy anh. Tên Công An Phường gần như hét::
“Ngày mai chị phải dọn ra khỏi nhà”. Nói xong là nó đuổi tôi ra và đóng cửa văn phòng”.
Đến đây chị ngưng lại vì xúc động! Một lúc sau:
“Tôi kể tiếp anh nghe. Khi tôi bị họ gạt lấy hồ sơ chủ quyền nhà, uất ức quá, tôi lảo đảo về nhà và gần như gục ngã trước cửa! Khi tỉnh lại, mẹ con tôi mua cây mua lá che cái mái ngay trong sân tầng trệt chắn một phần lối lên tầng trên mà ở. Nấu nướng tạm bợ cũng được, nhưng tắm giặt phải nhờ nhà chị bạn ở đầu dãy. Khổ lắm anh ơi! Lát nữa anh theo tôi đến xem cái gọi là cái nhà mà mẹ con tôi ở sau khi dọn ra khỏi nhà tôi.”
“Vâng. Tôi theo chị đến “cái nhà” mà chị và các cháu đang ở”.
Quí vị quí bạn có thể nhớ lại đoạn tôi kể cái lán trại của trại tập trung Yên Bái lợp bằng cây chổm, nằm trên vạt giường cũng bằng cây chổm nhìn lên trần nhà thấy cả bầu trời đầy sao và cả mây bay gió thổi nữa, nhưng giọt mưa không rơi xuống. Còn “cái gọi là nhà” của chị Thẩm mà tôi đang đứng xem, mái nhà trống trải nên nhìn rõ gió thổi mây bay, và có bao nhiêu giọt mưa rơi trên cái mái nhà thì ngần ấy giọt mưa xuống hẳn bên trong nhà chị. Tất cả đều ướt! Đầu năm 1988, anh Thẩm ra trại và cùng ở nơi đây!
Khi vào trại tập trung, trong thời gian đầu cứ như “điếc không sợ súng” nên tôi đối đầu với những toán thẩm vấn, dần dần đối đầu với đám Công An cai tù. Thật lòng mà nói, nếu như từ đầu tôi “không điếc nên biết sợ súng” thì chưa chắc tôi có chút kinh nghiệm đối đầu với cộng sản lúc còn trong trại tập trung cũng như bây giờ đã ra khỏi nó, dù rằng bây giờ tôi đang ở trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà bất cứ ai từng là nạn nhân cộng sản, đều gọi là “trại tập trung lớn”.
Nhân lúc anh chị tôi từ Sa Đéc lên Sài Gòn làm hồ sơ để lấy lại căn nhà số X12bis cũng trong cư xá Bắc Hải, mà anh chị tôi theo lời dụ dỗ gian trá mà họ gọi là “vận động” đã gởi căn nhà cho họ để về quê hồi năm 1976, nay chuẩn bị dọn trở về đây. Chỉ riêng cái sự kiện “gởi nhà cho nhà nước” cũng là cái chính sách lạ kỳ của nhà nước cộng sản.
Vì anh chị tôi bận nên tôi giúp lo giấy tờ. Khi trong nhà tù nhỏ, đối đầu với nhóm sĩ quan quân đội và công an cộng sản cấp trung ương “do điếc không sợ súng” mới có được bài học kinh nghiệm, bây giờ tôi muốn thử xem mức độ gian trá trấn lột trong nhà tù lớn này ra sao. Tôi đến cái cơ quan có tên là “Quản Lý Nhà Đất Quận 10. Trong góc phòng, một nhóm “viên chức nhà nước cộng sản” đang kể chuyện đêm qua xem phim dù lúc ấy đã hơn 10 giờ sáng, một cô nhỏ nhắn trong số đó bước đến hỏi tôi trong khi gở tay anh chàng có nét mặt hơi thô đang quàng lên vai cô ta:
“Anh có việc gì?”
Con gái Sài Gòn xã hội chủ nghĩa bây giờ ăn nói cụt ngủn, với lại cái giọng nói sao mà khó ưa quá.
“Tôi nộp hồ sơ giùm anh chị tôi xin lấy lại căn nhà đã gởi cho nhà nước”.
Cô ta ỏng ẹo:
“Đâu có nhà nào gởi mà lấy với không lấy. Chúng tôi chỉ nhận nhà hiến thôi. Đưa hồ sơ coi”.
Cô ta lật qua lật lại mà tôi nghĩ là cô ta chẳng hiểu nội dung gì cả, rồi vào phòng trong đưa cho anh chàng có lẽ là trưởng phòng. Cửa phòng không đóng, tôi thấy hắn cũng lật qua lật lại đọc tới đọc lui, hắn đưa tay ngoắc tôi vào:
“Đã hiến rồi, không xét”.
Tôi đáp: “Anh xem biên bản đi, anh chị tôi gởi chớ đâu có hiến”.
“Gởi hay hiến cũng vậy thôi”.
“Anh nói vậy mà anh nghe được à! Trong tự điển Việt Nam mình chữ gởi với chữhiến hoàn toàn khác nghĩa. Gởi có nghĩa là sẽ lấy lại, còn hiến là không lấy lại. Chữ với nghĩa rất rõ ràng, sao anh nói vậy?”
Hắn lườm tôi một lúc, tương tự như Công An Thịnh “khuỳnh” trại tập trung Nam Hà A lườm tôi lúc xét quà của tôi vậy:
“Tôi nói rồi. Không xét là không xét. Chừng nào anh chị của anh có hộ khẩu ở đây tôi mới xét”.
“Gì kỳ vậy. Anh không trả nhà làm sao về đây ở được mà anh đòi hộ khẩu. Anh đại diện cho nhà nước về nhà đất ở Quận mà anh trả lời như vậy dân làm sao nghe cho thông”.
Tôi với hắn có hơi lớn tiếng làm cho những người bên ngoài vẫn còn kể chuyện phim, có lúc cười lớn tiếng, vài người trong số họ bước đến cửa, nhìn tôi. Tôi nhìn họ một lượt, rồi quay ra. Hắn phán một câu cộc lốc:
“Anh để đơn đó. Về đi. Xét sau”
“Chừng nào anh trả lời cho người đứng đơn?”
“Khi nào xét xong sẽ trả lời”.
“Anh cho tôi biên nhận để anh chị tôi hoặc tôi mang đến làm bằng chứng nói chuyện mới được chớ”.
“Sợ mất thì mang về mà giữ”.
“Tôi không sợ mất, nhưng thông cáo trên báo là các cơ quan nhà nước mỗi khi nhận đơn đều có biên nhận để dân tiện liên lạc khi cần. Tôi chỉ làm theo hướng dẫn của nhà nước thôi”.
Cô bé lúc nảy: “Viết cho ổng đi, ở đó mà đôi co cho lắm chuyện ”.
Khi ra đến cửa, tôi nghe tiếng con bé nào đó:
“Ông già này hổng phải thứ vừa đâu nghe. Lần sau phải để ý ổng”.
Qua lần đó, chỉ mới đụng chạm sơ sơ thôi, tôi thấy nền giáo dục xã hội chủ nghĩa 20 năm trên đất Bắc và 15 năm trên toàn cõi Việt Nam, đã tạo nên những con người không một chút tử tế nào cả. Họ ăn nói theo cái tư tưởng dối trá trấn lột mà không cần cái lý cái lẽ trong văn chương chữ nghĩa Việt Nam. Nói càn nói đại miễn là đạt được mục đích cho họ, trường hợp bị chất vấn đến mức không tìm được cách tránh né, lúc ấy họ liền nhân danh đảng với nhà nước cộng sản của họ để “áp đảo” người đối diện. Từ Bắc vào Nam, bài bản của họ y chang như vậy.
Dự định của tôi là thông qua báo chí và từ các bạn ra trại tập trung trước tôi, để tìm hiểu về các lãnh vực trong xã hội mà trọng tâm là lãnh vực giáo dục, kinh tế, và tư pháp. Nhớ lại ngay sau đại hội của đảng cộng sản hồi cuối 1986, ông Nguyễn Văn Linh nhân danh Tổng Bí Thư tuyên bố cởi trói cho báo chí nói thật về những chuyện trong xã hội mà trước đây bị cấm, cho nên có những bài báo phải công nhận là “bạo” với những bài viết thẳng thừng. Nhưng chẳng bao lâu sau đó, ông ta ra lệnh ngăn cấm gay gắt hơn trước nữa. Nhờ vào thời gian cởi trói báo chí mà tôi thu thập được một số bài báo về các lãnh vực mà tôi đặt trọng tâm tìm hiểu, nhất là lãnh vực giáo dục.
Giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Thưa quí vị quí bạn, trong bối cảnh xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một xã hội mà toàn bộ các sinh hoạt trong tình trạng suy sụp, ngay cả đạo đức cũng vậy. Ngành giáo dục, một ngành mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam trao trách nhiệm trăm năm trồng người lại là tệ hại hơn tất cả! Lỗi của học sinh sinh viên chăng? Tôi nghĩ, một phần nhỏ. Lỗi của phụ huynh chăng? Tôi nghĩ, một phần nhỏ. Lỗi của xã hội chăng? Tôi nghĩ, một phần nhỏ. Nguồn gốc tội ác này là nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam trong bộ chính trị, cái cơ quan có toàn quyền hoạch định mọi đường lối chính sách và thúc đẩy thực hiện những hoạch định đó. Chính họ đưa ra chính sách giáo dục, chính họ chỉ thị soạn sách giáo khoa, cũng chính họ duyệt nội dung sách giáo khoa và đưa vào học đường. Và khi họ đã quyết định thì không một ai có quyền đề nghị thay đổi, ngay cả sai lầm cũng không được phủ nhận.
Đi trước một khoảng thời gian. Tôi đến Houston đầu tháng 04/1991 trong đợt HO 5. Tháng 06/1991, tôi sang Westminster (Nam California) làm trong tiệm “Hang Nga Beauty Supply” cùng với anh Võ Hồng Lạc. Theo lời anh Lạc, anh là Hiệu Trưởng Trường Trung Học Mạc Đỉnh Chi (Phú Lâm, Sài Gòn) đến cuối cùng. Ngay sau ngày 30/04/1975, một phụ nữ cộng sản từ ngoài rừng vào đô thị ngồi vào ghế Hiệu Trưởng thay anh, và anh trở về vị trị “giáo sư sử địa”. Câu chuyện khá dài, như lời tâm sự của người giáo sư sử địa bị bắt buộc phải dạy những điều hoàn toàn trái ngược với môn sử địa Việt Nam. Tôi tóm tắt như sau:
Bài viết về sông Cửu Long trong sách giáo khoa như thế này: “Sông Cửu Long có đoạn chảy ngang Sài Gòn …” Anh cứ tưởng mình sẽ được khen tặng vì chứng minh sự sai lầm khi anh cầm cuốn sử địa xin gặp “bà Hiệu Trưởng”. Anh Lạc nói với bà ta là sách giáo khoa này viết không đúng, vì sông Cửu Long không có đoạn nào chảy ngang Sài Gòn cả. Nói xong, anh lấy làm lạ về sự kinh hãi của bà cộng sản hiệu trưởng khi nghe anh phê bình sách giáo khoa. Bà ta dẫn anh vào gặp người cộng sản đàn ông mà anh nghe xưng hô là Bí Thư chi bộ đảng của trường. Cái anh bí thư này cũng kinh hãi, rồi ú ớ hẹn 3 giờ chiều anh Lạc đến trình diện.
Đúng giờ, anh Lạc đến., bị bí thư quát cho một trận:
“Anh dám phê bình lãnh đạo đảng?”
“Không. Tôi chỉ nói sự thật. Sông Cửu Long đâu có đoạn nào chảy ngang Sài Gòn. Nếu tôi dạy không đúng thì học sinh sẽ hiểu không đúng, rất là hại”.
“Sách giáo khoa này đảng đã duyệt, mà khi đảng đã duyệt thì không có gì sai cả”.
“Trên địa thế không phải như viết trong sách, làm sao tôi dạy học sinh được. Nếu vậy, tôi xin nghỉ dạy”.
“Anh chống đối đảng hả? Anh viết kiểm điểm rồi trình tôi”.
Anh Lạc lặng lẽ ra về mà lòng ấm ức. Chỉ xin nghỉ việc cũng bị ghép vào tội chống đối. Cảm thấy nguy hiểm, khi nộp bản kiểm điểm, anh xuống nước giải bày sự kiện. Và cuối cùng anh cũng được yên thân và nghỉ việc.
Đến đây là hết phần tóm tắt câu chuyện của giáo sư Võ Hồng Lạc. Nhưng sự kiện này góp phần chứng minh về sự ngu muội của các tầng lớp cán bộ đảng viên. Sự kiện này làm tôi nhớ lại lúc bị giam trong trại tập trung trong rừng già quận Trấn Yên, tỉnh Hoàng Liên Sơn những năm 1976-1978. Tên Trung Uý Khảm, quản giáo Tổ có tôi trong đó, với vẻ mặt kiêu hãnh khi hắn nói:
“Năm 1964, khi đế quốc Mỹ dùng Hạm Đội 7 tấn công các hải đảo của ta, phi công cách mạng rất linh hoạt sáng tạo, đã bay thấp xuống và chui dưới đáy tàu Mỹ qua bên kia trồi lên bay tiếp, nên súng đạn Mỹ không làm gì được”.
Quí vị quí bạn nghe có được không? Chiếc phi cơ khu trục được sản xuất cho dù từ nước Nga cộng sản hay nước nào trên thế giới, đâu có khả năng lặn dưới nước mà vẫn bay như bay trong không gian vậy. Thế mà hắn vênh mặt lên như thế anh em chúng tôi từ hành tinh khác mới đến địa cầu vậy.
Chưa hết. Đến chuyện phi cơ tắt máy phục kích trên tầng mây. Cũng tên Khảm, quản giáo Tổ chúng tôi. Tối hôm ấy, hắn vào “lán” chúng tôi kể chuyện về Đại Hội 4 đảng cộng sản của hắn với tổng kết sơ khởi có 4.000.000 (4 triệu) thanh niên miền bắc chết trong chiến tranh. Ý của hắn cho là tại chúng tôi chống cái chế độ độc tài của hắn nên nhiều triệu thanh niên xã hội chủ nghĩa mới chết như vậy. Xong hắn lại khoe khoang cũng xoay quanh cái việc phi công của hắn linh hoạt sáng tạo, nhưng lần này không phải lặn xuống biển mà là phục kính trên trời. Hắn có vẻ sung sướng khi nói với chúng tôi:
“Trong thời gian B52 đế quốc Mỹ thả bom rải thảm miền Bắc, phi công anh hùng Phạm Tuân đã vọt lên không trung, chui vô mây, tắt máy phục kích. Chờ B52 bay phía dưới, anh hung Phạm Tuân rồ máy tấn công B52 từ trên cao”.
Hắn là Trung Úy chớ có phải là lính dốt nát ngu đần đâu, mà hắn nói như thiệt vậy quí vị quí bạn à! Trên tầng mây cao, phi cơ tắt máy phục kích …Trời ơi! Sao người cộng sản lại ngu muội đến như vậy!
Thời phong kiến xa xưa được học qua sử sách, các quan trong triều từ nhỏ đến lớn khiếp sợ vua đến nhũn người, nhất cử nhất động đều phải vái lạy vua tạ ơn vua, kể cả lúc vua trừng phạt cũng vậy. Bây giờ, nền giáo dục của cộng sản Việt Nam từ năm 1954 trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và từ năm 1975 trên toàn cõi Việt Nam, chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục đảng, tuân phục đến nhũn người như thời phong kiến hằng trăm hằng ngàn năm trước! Tuân phục đến mức đảng của họ nói sông Cửu Long có đoạn chảy ngang Sài Gòn, máy bay lặn xuống biển chui dưới đáy chiến hạm, máy bay chui vô mây tắt máy phục kích … mà họ vẫn cúi đầu chấp nhận! Quả thật ông Hồ và đàn em đàn cháu của ông, đã “thành công trong nỗi đớn đau của lịch sử” về cái chính sách trăm năm trồng người của họ, và vẫn tiếp tục thực hiện công cuộc “trồng” nên những lớp người ngu muội, dẫn đến một xã hội suy tàn đạo đức!
Chung qui từ giáo dục mà ra. Mời quí vị quí bạn theo dõi cuộc hội thảo về giáo dục, trong giai đoạn ngắn ngủi gọi là “cởi trói” cho báo chí phản ảnh sinh hoạt xã hội. Đây là tóm lược bài viết của Vũ Hạnh đăng trong báo Công An ngày 31/05/1989 tại Sài Gòn.
Trung tuần tháng 05/1989, Viện Nghiên Cứu Giáo Dục phía Nam và Ban Khoa Giáo thành ủy Sài Gòn mà họ gắn cái tên ông Hồ vào đó, phối hợp tổ chức cuộc hội thảo tại số 36 đường Lê Thánh Tôn, với sự tham dự của giáo viên giáo sư từ các trường học và từ các cơ quan nghiên cứu giáo dục. Mục đích, tìm hiểu sự suy đồi đạo đức học đường. Bà Tôn Thuyết Dung, được đánh giá là nhà giáo dũng cảm khi nhận trách nhiệm nghiên cứu và trình bày đề tài “Tìm hiểu nhược điểm và khuyết điểm của sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy đạo đức cho học sinh”.
Bà Dung nhận định:
“Sách giáo khoa đang sử dụng đã lỗi thời vì nó được soạn ra trong thời kỳ chiến tranh, và chỉ nhắm vào lớp trẻ sống ở nông thôn miền Bắc. Tất cả chỉ phục vụ mà không quan tâm đến đạo đức, chuyên chở những chủ đề mà tầng lớp thanh thiếu niên không dễ gì cảm nhận được chứ nói gì đến học hỏi. Chẳng hạn như “cá thể với tập thể, đả đảo với ủng hộ, ngụy quyền với chánh quyền, đế quốc với cách mạng, phản động với trung thành, ..v..v..”. Sách giáo khoa lại tham lam khi đề cập nhiều vấn đề, nội dung phản lại giáo dục ở điểm trưng dẫn những sự kiện xấu mà không chỉ dạy cách sửa đổi. Sách không đào tạo con người trước khi nói đến chủ nghĩa cộng sản. Về các câu hỏi để học sinh trả lời không nhắm vào chủ đề rõ rệt, không giúp học sinh phát huy nhận thức, trái lại gò ép học sinh trả lời một cách dối trá”.
Cũng trong hội thảo này, ông Xuân Diệu (không biết có phải là nhà thơ Xuân Diệu hay không) nhận xét thật ngắn nhưng rất sâu sắc:
“Một trong những thiếu sót quan trọng là giáo dục không đào tạo con người, nên rốt cuộc xã hội chúng ta chỉ có thần dân mà không có công dân”.
Lại một nhận thức sâu sắc khác:
“Giáo dục phải nhắm mục đích tạo nên con người dân chủ từ bé, phải chống lại sự tha hóa lớn nhất hiện nay là sự quanh co dối trá, sự thiếu thành thật giữa con người với nhau…”.
Tiếp đây là bài viết trên báo Tuổi Trẻ: Tại buổi lễ cuối năm học 1988-1989 tổ chức vào ngày cuối tháng 05/1989 tại một trường trung học phổ thông Quận 1, khi một nữ sinh lớp 9 đang phát biểu một cách trôi chảy rằng:
“Nhờ ơn bác dẫn dắt, nhờ ơn đảng soi đường, nhờ ơn đoàn chắp cánh cho em bay lên, ….”
Nghe đến đây ông đại diện Quận 1 hỏi Bí thư đoàn thanh niên của trường đang ngồi bên cạnh:
“Con bé rất tiến bộ. Vậy nó đã vào Đoàn chưa?
Anh bí thư đáp:
“Nó không chịu vào đoàn. Môn văn của nó khá lắm nên nó trình bày rất hay, nhưng cứ mỗi lần vận động vào đoàn thì nó trả lời, vào đoàn chỉ mất thì giờ chớ chẳng có lợi gì hết. Thành ra nó nói vậy chớ không phải vậy”.
Cũng trong tờ báo này, có mẫu tin liên quan đến câu “nói vậy nhưng không phải vậy” trên đây. Trong buổi thi cuối lục cá nguyệt, thầy giáo chấm bài đã hết lời khen ngợi bài luận về “Gia đình em trong cuộc sống hôm nay” của một nữ sinh lớp 8, vì bài viết rất thực, rất sống động về cuộc sống nghèo nàn gian khổ. Nhưng thầy rất đau lòng khi nói với học sinh của mình rằng:
“Em viết rất hay, rất thật, nhưng thầy khuyên em, nếu như em muốn tiếp tục học nữa, em phải viết theo bài học, vì bài luận này trình lên Sở thì em không thể học nữa đâu. Thầy thật lòng khuyên em như vậy”.
Tác giả bài báo thêm một câu vắn tắt rằng:
“Từ lâu lắm rồi, dốí trá là nấc thang trong học đường, và liệu bao giờ giáo dục mới thoát khỏi cái văn hoá dối trá đó?”
Và đây là tóm tắt báo cáo của Sở Giáo Dục ngày 7/10/1989 đăng trong báo Tuổi Trẻ ngày 10/10/1989:
“Tình hình giáo dục vẫn trong tình trạng yếu kém trên toàn quốc. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này rất nhiều, nhưng có thể qui vào các điểm:
Thứ nhất, ngân sách giáo dục toàn quốc chỉ 4 đến 4.5%, riêng tại thành phố đạt đến 10% nhưng không thỏa mãn tối thiếu về nhu cầu lương cho thầy giáo cô giáo, cho nên giáo viên không thể tập trung vào dạy và học, vì phải đi làm thêm để kiếm sống. Tệ hơn nữa, các Quận ven thành phố thường là nợ lương giáo viên từ 3 đến 4 tháng. Cũng vì vậy mà Sở Giáo Dục hằng năm chỉ tuyển được 50% giáo viên trong tổng số nhu cầu.
Thứ hai, “chất lượng” giáo dục rất tệ. Chỉ có 5% học sinh được xếp vào hạng giỏi. Số học sinh từ lớp 1 đến lớp 12 bỏ học đến 80%”. Về lương giáo viên, nhân Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/1988, lãnh đạo của thành phố chỉ thị Quận/Huyện trực thuộc phải trích ngân sách để tăng lương cho giáo viên từ 40.000 đồng/tháng lên 80.000 đồng/tháng. Quận/Huyện la lên ngân sách không gánh vác nỗi, và quay sang bắt dân gánh chịu bằng cách đóng tiền học hằng tháng mà nguyên tắc trường công là không học phí. Quận/Huyện qui định mỗi học sinh từ lớp 1 đến lớp 3 đóng 1.000 đồng. Lớp 4 lớp 5 đóng 2 kí lô gạo, mỗi học sinh cấp 2 (tức trung học đệ nhất cấp) đóng 3 kí lô gạo, và học sinh cấp 3 (tức trung học đệ nhị cấp) đóng 4 kí lô gạo. Tất cả những kí lô gạo đó đều qui ra tiền khi nộp cho nhà trường.
Thứ ba, trường học ngày càng cũ kỹ mà không được tu bổ đúng mức. Trong đài truyền hình Cần Thơ có tiết mục “Chuyện Xã Tôi” từ năm 1988 mà báo chí Sài Gòn lẫn Hà Nội đều khâm phục là rất can đảm, đã dám đưa lên màn ảnh nhỏ một sự thật ở cấp xã thuộc tỉnh Hậu Giang, đó là ngôi trường học xiêu vẹo, dột nát, chỉ có mái lợp mà không có tấm vách nào bao bọc chung quanh che gió chắn mưa. Thê thảm hơn nữa là không có cái bàn học nào cả, ngoại trừ cái bàn và cái ghế duy nhất của giáo viên. Học sinh phải đem theo manh chiếu để ngồi và mảnh ván nhỏ để trên nền đất, học sinh trong thế nửa ngồi nửa nằm mà viết”.
Thưa quí vị quí bạn, tôi xin tách ra chữ “can đảm” ở đoạn trên đây để giải bày cho rõ thêm. Thuở ấy là “thời cởi trói” cho truyền thông nhà nước do ông Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh đưa ra, nên ông phóng viên nào đó của nhà nước Cần Thơ mới dám đưa cái hoạt cảnh giáo dục xã hội chủ nghĩa lên truyền hình. Tôi thường xem tiết mục “mỗi tuần một chuyện” trên đài truyền hình Cần Thơ. Nhiều chuyện khác nhau trong sinh hoạt nông thôn nhưng tôi chỉ chú trọng những chuyện liên quan đến giáo dục. Nhưng rồi cái thời cởi trói ấy chỉ “tự do” được trong thời gian ngắn ngủi, tất cả bị trói lại và trói chặt hơn trước, chỉ vì trong thời gian cởi trói mà nhiều tệ trạng trong xã hội xã hội chủ nghĩa phơi bày ra ánh sáng. Chưa phải là tất cả, nhưng quá đủ để lãnh đạo cộng sản Việt Nam trong bộ chính trị kinh hãi rồi!
Cũng trong giáo dục. Trên màn ảnh đài truyền hình Sài Gòn tối 20/07/1989, có bài tường thuật hội nghị tổng kết năm học 1988-1989 riêng cho các tỉnh phía Nam, từ Thừa Thiên/Huế xuống đến Cà Mau, như sau:
“Hội nghị nhận định học sinh tiểu học là đầu mối quan trọng của hệ thống giáo dục, có trình độ rất kém. Kém đến mức học sinh lớp 1 chỉ có 20% biết đọc bập bẹ, còn lại 80% chẳng biết gì cả. Hội nghị đã gióng nhiều hồi chuông báo động trong toàn diện hệ thống giáo dục, ít nhất là giáo dục tại các tỉnh miền Nam. Đặc biệt là hồi chuông báo động về sự suy đồi đạo đức”.
Trong bài tường thuật, tôi không thấy hội nghị đưa ra biện pháp nào để chỉnh đốn những hồi chuông báo động đó, mà là kết thúc theo kiểu bỏ ngõ như vậy.
Thưa quí vị quí bạn, theo tôi, giáo dục là lãnh vực quan trọng bậc nhất trong xây dựng con người, từ đó dẫn đến phát triển đất nước. Vì vậy mà tôi chỉ ghi lại đây một vài góc cạnh về giáo dục trong 14 năm xã hội chủ nghĩa, 1975-1989 .
Đến nay là năm 2007, giáo dục trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không có gì khá hơn suốt chiều dài 32 năm qua. Bằng chứng là ông Bộ Trưởng Giáo Dục & Đào Tạo, trong buổi điều trần tại cơ quan gọi là Quốc Hội cộng sản Việt Nam hồi cuối năm 2006, ông cho rằng:
“… Có 7 vấn đề cấp bách trong hệ thống giáo dục Việt Nam tồn tại từ lâu nay, là: (1) Bệnh thành tích. (2) Tiêu cực trong thi cử. (3) Bằng cấp giả mạo. (4) Cần cải tổ chương trình cấp phổ thông. (5) Biên soạn và ấn hành sách giáo khoa. (6) Phẩm chất giáo dục mà ông gọi là “chất lượng giáo dục”. (7) Giúp sinh viên tìm việc làm…. “
Ông nêu 7 vấn đề như là cấp bách của Bộ Giáo Dục & Đào Tạo, nhưng không thấy ông cho biết đã thực hiện chưa, nếu đang thực hiện thì diễn tiến ra sao, mà ông chỉ nói suông thôi.
Ông cũng cho biết là Thủ Tướng của ông đã chấp thuận thành lập thêm 5 trường đại học công và 15 trường đại học tư. Số lượng 20 trường đại học này sẽ thành lập tại: Tỉnh Hòa Bình 1 trường + đồng bằng Sông Hồng 7 trường + Miền Trung 4 trường + 8 trường còn lại thành lập tại đồng bằng sông Cửu Long và Sài Gòn.
Tôi vào trang Web về giáo dục của cộng sản Việt Nam, có rất nhiều lãnh vực, nhưng thực chất đó chỉ là hình thức, còn nội dung bên trong không giúp gì cho sự nghiên cứu, chẳng hạn như:
- Có những ô những cột mà bên trong hoàn toàn trống rỗng.
- Có những bài viết chung chung, không nói lên được góc cạnh nào rõ nét cả.
- Có bài viết nhưng lỗi thời, vì những dữ kiện của sáu bảy năm về trước. Điển hình bây giờ là năm 2007 mà trang Web của họ chỉ có tài liệu năm 1997. Theo đó, năm học 1996-1997, toàn cõi Việt Nam có 22.000.000 học sinh tiểu học, 17.500.000 học sinh trung học, 26.000 sinh viên cao đẳng và đại học.
Với con số học sinh sinh viên ghi nhận trên đây, nếu nhìn theo khía cạnh dân số thì Việt Nam là một dân số trẻ, nếu nhìn theo khía cạnh giáo dục thì những thế hệ này tiếp tục bị chế độ nhận chìm trong chính sách giáo dục một chiều đào tạo “những thế hệ thần dân”, và đây là mối quan tâm bậc nhất của những vị lãnh đạo Việt Nam thời hậu cộng sản trong mục đích đào tạo những thế hệ công dân trong xã hội dân chủ pháp trị trong tương lai.
Cũng trong trang Web đảng và chánh phủ Việt Nam cộng sản, đặt giáo dục và phát triển khoa học kỹ thuật lên hàng chiến lược nhưng không thấy nói cách thực hiện chiến lược giáo dục như thế nào, mà họ chỉ cho biết hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay trong tình trạng rất nhiều khó khăn. Chẳng hạn như nhiều trường học không được bảo trì đúng mức, dụng cụ trang bị học đường lỗi thời, sách giáo khoa chỉ cải tiến ở trên ngọn chớ chưa cải tiến nền tảng, giáo viên không đủ phẩm chất mà họ gọi là chất lượng giảng dạy, và hằng triệu học sinh bỏ học, và ..v..v...
Theo giáo sư tiến sĩ Trần Văn Hiến, giảng dạy tại đại học Houston ở thành phố Clear Lake, ông thường được trường đề cử sang Việt Nam giảng dạy bộ môn kinh tế tài chánh, và phụ trách các chương trình giúp sinh viên Việt Nam sang du học Hoa Kỳ. Ông trả lời phỏng vấn của đài Á Châu Tự Do, khi được hỏi về sự đánh giá của thế giới về nền giáo dục Việt Nam hiện nay, ông nói:
“Năm 2006, giáo dục Việt Nam ở thứ hạng 90/135 quốc gia. Nếu Việt Nam không nhanh chóng cải tổ giáo dục thích nghi với sức phát triển chung của thế giới, thì kinh tế Việt Nam chỉ làm gia công cho các nhà đầu tư ngoại quốc”.
Thưa quí vị quí bạn, xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau 15 năm 1975-1990, tất cả lãnh vực sinh hoạt quốc gia đều suy đồi thảm hại, nhất là giáo dục, trong khi giáo dục là nền tảng xây dựng con người để từ đó xây dựng quê hương đất nước. Thế nhưng, từ năm 1990 cho mãi đến bây giờ là năm 2010, bộ máy điều hành xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vẫn là lớp “thần dân” chỉ biết tuân phục đảng và nhà nước cộng sản của họ. Trong khi một lớp người có tư cách công dân, đứng lên đòi hỏi quyền được sống và quyền mưu cầu hạnh phúc cho xã hội mà Hiến Pháp năm 1992 của họ thừa nhận, thì họ nhân danh đảng nhân danh nhà nước đàn áp trừng phạt. Hiến Pháp do chính cộng sản soạn thảo ban hành, nhưng nó chỉ được sử dụng để che chắn cái bản chất độc tài gian manh dối trá của họ chớ không bảo vệ người dân. Vậy mà, họ thường huênh hoang con người là vốn quí, được sống trong chế độ ưu việt, chế độ không có người bóc lột người, họ là đại diện của giai cấp công nhân nông dân, ..v..v...”
Suy cho cùng, lãnh đạo cộng sản Việt Nam nói đúng. Đúng ở chỗ, “không có người bóc lột người, mà chỉ có đảng cộng sản bóc lột dân thôi, vì giữa dân với nhau có ai bóc lột ai đâu, phải không quí vị quí bạn?
12345678
KÝ SỰ TRONG TÙ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA - KỲ CUỐI
12345678
CHƯƠNG 10 XUẤT NGOẠI TỊ NẠN TẠI HOA KỲ
Hai chữ HO.
Trước khi theo dõi hệ thống thủ tục mà chúng tôi phải hoàn tất, mời quí vị quí bạn xem qua nguyên văn bức thư của cựu Đại Tướng John W. Vessey, đặc phái viên của Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan, gởi anh Hội Trưởng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Minnesota khi ông được mời tham dự đại hội H.O. tại địa phương ông cư ngụ. Trong thư, ông giải thích rõ về nguồn gốc hai chữ H.O.
Cũng qua thư của cựu Đại Tướng Vessey, chúng ta càng hiểu sâu thêm về điều mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam gọi là khoan hồng nhân đạo đối với quân nhân, viên chức, cán bộ, Việt Nam Cộng Hòa cũ ra khỏi các trại tập trung từ năm 1987. Thật ra, chúng tôi ra khỏi trại tập trung là do sự trao đổi giữa Hoa Kỳ với Việt Nam cộng sản. Tuy trong thư cựu Đại Tướng Vessey không nói trao đổi như thế nào, nhưng rõ ràng là từ đó, cộng sản Việt Nam từng bước đến gần, và cuối cùng là bắt tay được với Hoa Kỳ, và từng bước hội nhập vào cộng đồng thế giới.
General USA (retired)
John W. Vessey
June 10, 1997
To Mr. Nguyen xuan Huan
President, Association of Former Political Detainees in Minnesota.
1030 University Avenue
ST. Paul, MN 55104.
Dear Mr. Huan.
Because I am unable to attend your important meeting on Saturday, June 21, I ask that this letter be read on my behalf to your members and guests.
It is important to honor all those who served the cause of freedom in Vietnam and Indochina. It is also important to recognize and assist those who suffered under Communist rule for their prior service to the Republic of Vietnam. Political detainees under the Communist regime after 1975 had served their country and their people in the honorable and esteemed tradition of parriotism, putting service to country above self during a long and arduous war.
The sacrifices of all who served and fought in the Vietnam war, Vietnam, Americans, and other Allies, made a difference for the important human ideals of freedom and personal dignity. The world was changed through a collective effort. The spread of Communist in Asia was harted by the sacrifices in Vietnam, Laos, and Cambodia, and with the help of other nations of Southeast Asia. All who participated in that effort can be proud of their contributions.
When President Reagan call me back from military retirement in 1987 to be his Presidential Emissary to Hanoi, one of the highest priority tasked he assigned me was to seek the release of our former South Vietnamese comrades who had been detained in the, so-called, "reeducation camps". I was authorized to assure the Hanoi government that the United States would accept and welcome those detainees and their families in this country.
Because, at the time of the original negotiations, there was no hope of any immediate political resolution between the two nations, all actions taken in furtherance of the agreements reached were termed "Humannitarian Operations". Consequently, the term H.O. has been used within the Vietnamese-American community to refer to former political detainees who are now resident in the United States.
To me, the term H.O. is a badge of courage, service and sacrifice, and all those who fall within that context of the term are the among the true heroes of our time.
My very best wishes to all attending your event.
Sincerely yours.
John W. Vessey.
Người dịch bản văn nói trên là Ông/Bà Nguyễn T. Ngọc Châu. Trước khi vào bản Việt ngữ, dịch giả viết đôi dòng như sau: “Trong mục đích phổ biến để quí vị chung vui niềm vinh dự của các H.O. vì đây là vinh dự không phải của riêng các anh H.O. tại Minnesota, mà là của tất cả các H.O. định cư tại Hoa Kỳ”.
“Vinh danh những người đã phụng sự cho chính nghĩa tự do ở Việt Nam và Đông Dương là một điều quan trọng. Việc công nhận và trợ giúp những người đã bị chế độ cộng sản ngược đãi vì đã phục vụ cho Việt Nam Cộng Hòa, cũng không kém phần quan trọng. Những tù nhân chính trị dưới chế độ cộng sản sau năm 1975, là những người đã từng phục vụ quê hương và đồng bào với truyền thống yêu nước cao cả và đáng kính, đã vì nước quên mình trong suốt cuộc chiến tranh lâu dài và ác liệt.
“Lòng hi sinh của tất cả những ai đã từng phục vụ và chiến đấu trong chiến tranh Việt Nam, người Việt, người Mỹ, và những Đồng Minh khác, đã đem lại một ý nghĩa đặc biệt hơn cho lý tưởng của con người về tự do và nhân vị. Thế giới đã thay đổi nhờ một nỗ lực tập thể. Sự bành trướng của cộng sản ở Á Châu đã bị ngăn chận bởi những sự hi sinh ở Việt Nam, Lào, và Cam Bốt, cùng với sự hỗ trợ của các nước Đông Nam Á. Tất cả những ai đã tham gia vào nỗ lực đó, có thể tự hào về những đóng góp của mình.
“Năm 1987, khi đang hồi hưu, tôi được Tổng Thống Reagan cử làm Đặc Phái Viên đi Hà Nội thương thuyết. Một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu mà tôi được Tổng Thống giao phó là phải tìm cách giải thoát những cựu chiến hữu Việt Nam đang bị giam giữ trong những cái gọi là “trại cải tạo”. Tôi cũng được quyền bảo đảm với chánh phủ Hà Nội rằng, Hoa Kỳ sẳn sàng chấp nhận và đón tiếp những người tù cải tạo cùng gia đình họ sang Hoa Kỳ”.
“Trong những cuộc thương thuyết sơ khởi, chúng tôi không hi vọng hai bên sẽ có ngay những giải pháp chính trị, cho nên tất cả những hành động mở đường cho những thỏa ước tương lai đều mang danh “chiến dịch nhân đạo” (Humanitarian Operations), gọi tắt Anh ngữ là H.O. Do vậy mà danh từ H.O. được Cộng Đồng Việt Mỹ sử dụng, để nói về những cựu tù nhân chính trị Việt Nam đang sinh sống trên đất Hoa Kỳ.
“Riêng với tôi, danh từ H.O. là biểu tượng của lòng dũng cảm, tinh thần phục vụ, và lòng hi sinh. Tất cả những ai được gọi là H.O. đều là những anh hùng thực sự trong thời đại chúng ta”.
Thủ tục rời Việt Nam.
Thưa quí vị quí bạn,
Chương trình HO dành cho những cựu tù chính trị trong các trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo với thời gian bị cộng sản giam giữ từ 3 năm trở lên. Trong chương trình này có hai thành phần:
Thứ nhất là cựu tù chính trị không có thân nhân từ Hoa Kỳ bảo lãnh. Thành phần này được cơ quan IOM ứng trước mọi chi phí để đến Hoa Kỳ, và khi đến Hoa Kỳ được hưởng tiền trợ cấp sinh sống trong thời gian đầu tiên do chánh phủ Hoa Kỳ cấp ngang qua tổ chức thiện nguyện nào đó. Một năm sau mới có thẻ thường trú thường gọi là “thẻ xanh”. Số tiền ứng trước sẽ trả góp hằng tháng cho cơ quan nói trên.
Thứ hai là cựu tù chính trị có thân nhân tại Hoa Kỳ bảo lãnh. Thành phần này do thân nhân trách nhiệm mọi chi phí từ lúc làm thủ tục tại Việt Nam đến khi đặt chân trên đất Mỹ, đồng thời phụ trách nơi ăn chốn ở và mọi chi phí khác. Thẻ thường trú (thẻ xanh) làm ngay tại phi trường đầu tiên khi đến Mỹ, vài tuần sau là nhận được.
Vợ chồng tôi thuộc thành phần thứ hai do con chúng tôi từ Houston, Hoa Kỳ, bảo lãnh. Đây là diễn tiến:
- Tháng 03/1988, tại Hoa Kỳ, con chúng tôi nộp mẫu I-130 bảo lãnh. Ba tháng sau nhận được giấy báo chấp nhận hồ sơ. Con tôi gởi giấy này cùng với mẫu I-130 về Sài Gòn, chúng tôi kèm trong hồ sơ xin xuất ngoại mà họ gọi là xuất cảnh nộp cho Quận 10 vào tháng 08/1988. Đầu năm 1989, Công An Quận 10 cho biết hồ sơ đã chuyển lên Sở Công An.
- Tháng 11/1989, ký hợp đồng với dịch vụ xin passport. Cơ quan dịch vụ này toàn là Công An phụ trách, chúng tôi phải trả cho toán Công An dường như 540.000 đồng (tương đương với 4 chỉ vàng) dưới tên gọi “lệ phí”. Nhiệm vụ của họ ngồi trong cơ quan Công An hay ngồi trong cơ quan có cái tên “Dịch Vụ Xuất Cảnh” ngay trước cổng bên kia đường, không có gì khác nhau, nhưng ngồi trong cơ quan này thì nhận khoản tiền theo từng hồ sơ do chính họ qui định. Vắn tắt là Công An nhận tiền của người có nhu cầu mà theo họ là “danh chánh ngôn thuận” chớ không phải hối lộ, nhưng thật sự là “hối lộ công khai”. Xã hội xã hội chủ nghĩa không giống ai hết quí vị quí bạn à!
- Cuối tháng 02/1990, vợ chồng tôi nhận passport. Cũng hôm ấy, chúng tôi nhận được danh sách phỏng vấn HO5 với số thứ tự 742. Hai tháng sau đó, chúng tôi nhận giấy thông báo của cơ quan ODP tại Bangkok (Thái Lan) cho biết chuẩn bị phỏng vấn.
- Cuối tháng 07/1990, đến Sở Ngoại Vụ để phía Việt Nam sơ vấn. Cách hỏi của họ chẳng khác một hình thức thẩm vấn, vì họ hỏi tôi những câu thế này: Họ tên, cấp (bậc) chức (vụ)? Ở tù mà họ gọi là cải tạo bao lâu? Có vi phạm nội qui trong trại không? Ai bảo lãnh? Sang Mỹ ở đâu? Tài sản ở Việt Nam có những gì? Ước lượng trị giá bao nhiêu tiền? Sang Mỹ mỗi tháng lãnh bao nhiêu tiền? Có chống lại cộng sản mà họ gọi là “cách mạng” không? Và vân vân … Thật lòng là tôi không hiểu họ sử dụng những thông tin đó vào việc gì, vì gộp những câu đó lại không nói lên được mục đích gì rõ rệt cả, ngoại trừ họ hỏi vòng vo nhưng thật ra họ muốn biết tôi để lại tài sản gì khi tôi rời Việt Nam? Trấn lột là một thủ đoạn gian manh của cộng sản mà.
- Giữa tháng 08/1990, vợ chồng tôi cũng đến Sở Ngoại Vụ gặp viên chức Hoa Kỳ. Tôi với viên chức này nói với nhau vài câu chuyện trước khi chánh thức phỏng vấn. Khi biết vợ chồng tôi sẽ định cư tại Houston, anh ta cho biết gia đình anh ta cũng đang ở đó, và nói thêm Houston vừa lớn vừa đẹp so với những thành phố lớn khác của Hoa Kỳ. Vào phỏng vấn, anh ta chỉ hỏi tôi ở tù bao lâu, và bây giờ sẳn sàng để sang Hoa Kỳ chưa? Thế là xong buổi phỏng vấn. Sau đó là khám sức khỏe và chích ngừa.
- Hạ tuần tháng 10/1990, con chúng tôi nộp cho cơ quan IOM 1.834 mỹ kim, chi phí cho hành trình của vợ chồng tôi từ Sài Gòn-Bangkok-Houston (Hoa Kỳ).
- Thượng tuần tháng 02/1991, họ bảo chúng tôi đến ghi chuyến bay mà họ gọi là đăng ký chuyến bay.
- Ngày 28/02/1991, tôi đến công ty dịch vụ tư nhân ký hợp đồng để họ lo mọi thủ tục linh tinh liên quan đến Công An, Quan Thuế, phi trường. Giữa cơ quan dịch vụ với các cơ quan liên hệ có những “qua lại” với nhau nên họ liên lạc hoàn tất suông sẻ, chớ tự mình mà “lội” vào khu rừng thủ tục giấy tờ đó chỉ riêng địa điểm các cơ quan không thôi cũng đủ lạc rồi. Hợp đồng này giá 381.000 đồng, gồm: (1) Gia hạn passport 6.000 đồng. (2) Thị thực xuất ngoại 2.000. (3) Lệ phí phi trường 30.000. (4) Lệ phí quan thuế 10.000. (5) Hồ sơ hợp lệ nhà đất 18.000. (6) Cân hành lý 35.000. (7) Lấy vé phi cơ 80.000. (8) Xe đưa ra phi trường 100.000. Và tiền công dịch vụ 100.000 đồng.
- Ngày 26/03/1991 chúng tôi mang hành lý đem gởi theo bắt buộc của họ. Tôi phải bày ra tất cả giống hệt như khi tôi chuyển từ trại tập trung Yên Bái xuống trại tập trung Nam Hà vậy. Họ căn cứ vào danh sách tôi đưa, họ xem từng món theo từng số lượng mà lục lọi từng ly từng tí xem tôi có mang theo giấy tờ hay bất cứ thứ gì mà họ cho là nguy hại cho họ không. Do kinh nghiệm qua nhiều lần bị Công An lục soát trong các trại tập trung, nên tôi chuẩn bị tư tưởng như vậy khi mang hành lý đến một nhà kho trong khu vực Tân Sơn Nhất để họ xét. Hơn 1.600 trang giấy viết tay trong 7 tập thu nhỏ với chữ viết thật nhỏ mà tôi lén lút ghi nhận những sự kiện trong các trại tập trung, cùng với những sự kiện trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi tôi ra khỏi trại tập trung, tôi đóng gói cẩn thận và giấu lại nhà bà nhạc tôi. (Sau này trong những lần về thăm bà con xóm làng, Ba tôi đem qua cho tôi tất cả). Do vậy mà tôi rất tỉnh khi họ lục soát toàn bộ những gì vợ chồng tôi mang theo trên đường xa xứ.
Trong vài ngày còn lại Sài Gòn, chúng tôi đến thăm người bạn ở Tân Định, tình cờ gặp anh Lê Hữu Tiền (Đại Tá Truyền Tin). Anh Tiền cũng là bạn tù với tôi, anh kể tôi nghe về chuyện cái nhà mà gia đình anh đang ở, và đang lo vấn đề “hợp lệ nhà đất” để rời Sài Gòn nhưng tôi không hỏi anh đi trong đợt HO mấy. Do môi giới của Sở Quản Lý Nhà Đất, anh đến gặp tên Giám Đốc, tên này bảo anh gặp Phó Giám Đốc. Chỉ vài ba câu chuyện, tên Phó Giám Đốc hướng dẫn như một phán quyết:
“Cái nhà của Anh trị giá 60 lượng vàng mà họ gọi là 60 cây. Anh có hai người anh ở nước ngoài cho nên anh chia làm 3 phần. Anh phải nộp 40 lượng vàng của hai người ở nước ngoài cho nhà nước giữ. Còn 20 lượng về phần anh, anh phải nộp lệ phí 20% cho Sở Quản Lý Nhà Đất”.
Sau khi nghe “phán xong vụ chia chác” mà họ tính toán rất “bài bản”, từ 60 lượng vàng chỉ còn 16 lượng nên anh Tiền và gia đình quyết định không bán nhà, và mang theo giấy tờ khi rời Sài Gòn, còn cái nhà chúng làm gì thì làm.
Đến lượt nhà tôi. Do chỉ dẫn từ con của bạn chúng tôi mà một tên cộng sản nghe nói là chánh văn phòng của cái gọi là Ủy Ban Nhân Dân thành phố, sẽ chiếm ngụ nhà tôi khi chúng tôi rời Sài Gòn. Cũng qua con của người bạn, hắn ngỏ ý muốn dùng xe của hắn đưa vợ chồng tôi ra phi trường. Cùng lúc hắn nói muốn đưa vợ chồng tôi 5 lượng vàng với điều kiện chúng tôi đưa giấy chủ quyền nhà cho hắn. Nói cách khác, hắn muốn mua giấy chủ quyền nhà chúng tôi với giá 5 lượng vàng. Chúng tôi trả lời không cần xe của hắn, cũng không cần 5 lượng vàng của hắn, và dứt khoát không có việc mua bán gì cả. Thật ra, hồ sơ chủ quyền ngôi nhà này và chủ quyền mẫu vườn ở Vĩnh Long, em trai tôi đã đem sang Hoa Kỳ đầu năm 1990 nhân chuyến về thăm Ba tôi với bà con xóm làng, trước khi Ba tôi sang định cư Hoa Kỳ vào những tháng cuối năm 1990 do các em tôi bảo lãnh.
Quí vị quí bạn hình dung bây giờ là chiều 28 tháng 03 năm 1991, các em tôi từ Vĩnh Long lên chật nhà. Cùng lúc tên sắp chiếm nhà tôi dẫn 4 thanh niên đến. Hắn nói:
“Vì sợ sáng mai anh chị đi sớm có người vào tranh đoạt hoặc đập phá, xin anh cho mấy người này ngủ đây đêm nay”.
“Tôi đồng ý, nhưng các anh chỉ được ngủ ở tầng trệt này. Tôi không muốn thấy bất cứ anh nào lên lầu. Chúng tôi cần được tự do trong ngày cuối cùng trước khi chúng tôi rời Việt Nam ”.
Hắn xoay qua mấy người của hắn:
“Các đồng chí ngủ ở đây, đừng quấy rầy anh chị và mọi người trong nhà. Sáng mai tôi đến”.
Kể ra hắn có lý khi hắn sợ có người vào tranh đoạt lúc vợ chồng tôi ra khỏi nhà, vì trong xã hội xã hội chủ nghĩa, người cộng sản nào cũng có sẳn những cách trấn lột cướp đoạt tài sản của người khác làm tài sản của mình. Cùng là cộng sản, nên hắn đề phòng là phải.
Ngày 29 tháng 03 năm 1991, vợ chồng tôi ra phi trường Tân Sơn Nhất, với đông đảo các em và bà con bè bạn tiễn đưa.
Ngay trước khi phi cơ lăn bánh ra phi đạo, tôi quá đổi ngạc nhiên khi thấy hai hành khách không còn ghế ngồi và cô tiếp viên phi hành dẫn họ đến ngồi bệt trên lối đi ở cuối hàng ghế sau cùng. Hỏi ra mới biết là trên các chuyến bay của hàng không Việt Nam cộng sản, thường khi có số hành khách nhiều hơn số ghế. Nhìn cảnh này giống như hành khách đi xe đò vậy quí vị quí bạn à!
Đến phi trường dường như là Don Muang (Bangkok), lên xe bus về tạm trú trong khu trại nghe nói trước kia là nhà tù.
Những ngày ở đây, chúng tôi được hướng dẫn về cuộc sống trên đất Mỹ. Về thực đơn hằng ngày của chúng tôi, ngoài cơm ra thì trứng luộc là món ăn chánh. Sáng trứng luộc chiều trứng luộc. Nếu nhìn theo góc độ chính trị, cái trứng luộc trong những ngày tạm trú nơi đây rất có ý nghĩa, trong khi cái trứng luộc xã hội chủ nghĩa Việt Nam đơn thuần chỉ là kinh tế, mà là kinh tế nghèo nàn kiệt quệ! Cũng những ngày ở đây, người Thái Lan đến gạ mua vàng và trả bằng mỹ kim. Anh em chúng tôi bán từng chỉ vàng, dùng tiền đó mua trái cây và vài thức ăn khác do người Thái mang đến bán bên ngoài trại. Phải công nhận nhiều loại trái cây ở đây ngon hơn Việt Nam mình, nhất là nhản.
Chúng tôi rời Bangkok bằng phi cơ của Japan Airlines vào nửa đêm ngày 04 rạng 5/4/1991. Tại Tokyo, chúng tôi chuyển sang phi cơ của Northwest Airlines đến Seattle (Washington State). Chúng tôi lại chuyển phi cơ cũng của NA và đến Houston lúc 6 giờ chiều ngày 5 tháng 4 năm 1991, được con chúng tôi, em chúng tôi, và bạn chúng tôi đón.
LỜI NÓI CUỐI
Thưa quí vị quí bạn,
Vậy là quí vị quí bạn vừa xem Mười Chương về chuyện mà tôi kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 -ngày mà chế độ tự do Việt Nam Cộng Hòa chúng ta sụp đổ- sau đó tôi bị giam trong các trại tập trung Long Giao (Long Khánh) Tam Hiệp (Biên Hòa), Yên Bái (Hoàng Liên Sơn), Nam Hà (Hà Nam Ninh), cộng chung là 12 năm 2 tháng 27 ngày và 18 tiếng đồng hồ trong nhà tù nhỏ, cộng với 3 năm 6 tháng 15 ngày sống trong nhà tù lớn, đến ngày 29/3/1991 rời Việt Nam vàngày 5 tháng 4 năm 1991, vợ chồng tôi đặt chân trên đất Hoa Kỳ trong đợt HO 5.
Tôi nhận thức được gì trong 5.818 ngày kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975:
Giai đoạn một: 46 ngày kể từ 30/04/1975, giai đoạn trước ngày vào trại tập trung, tôi nhận thức rằng:
- Qua một số hành động trong sinh hoạt thường ngày của cộng sản Việt Nam từ Hà Nội và từ rừng núi vào Sài Gòn, cho phép suy đoán sinh hoạt trong xã hội xã hội chủ nghĩa 20 năm của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (lãnh thổ miền bắc) kém Việt Nam Cộng Hòa chúng ta ít nhất từ 25 đến 30 năm.
- Với thái độ của một số đồng bào nhất là đồng bào chạy nạn cộng sản từ năm 1954-1955 từ bắc vào nam, cho thấy đồng bào vẫn không chấp nhận chế độ cộng sản.
- Với một số hành động chận bắt cũng như tìm bắt một số sĩ quan viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ, trong khi hệ thống truyền thông của họ ngày đêm ra rả về điều mà họ gọi là khoan hồng nhân đạo. Nói vậy mà không phải vậy.
- Họ tìm mọi cách mà họ gọi là vận động kết hợp với cưỡng bách, chiếm đoạt nhà cửa của những chủ nhân di tản hoặc nhà rộng, để làm tài sản riêng của họ.
Giai đoạn hai: 4.479 ngày kể từ 14/6/1975, tức giai đoạn bị giam trong các trại tập trung từ nam ra bắc, tôi nhận thức sự gian trá của họ trong cai trị:
- Không qua một cơ quan tư pháp nào, họ đã bắt giam ít nhất là 222.809 sĩ quan viên chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa cũ đem giam giữ trong các trại tập trung mà họ gọi là khoan hồng nhân đạo cho đi học tập cải tạo, trong khi ông Phạm Văn Đồng, Thủ Tướng cộng sản gọi tù chính trị chúng tôi là những kẻ tội ác tày trời không thể tha thứ. .
- Đày đọa tù chính trị trong những cánh rừng già tây bắc Hà Nội. Đánh lừa các phái đoàn ngoại quốc dù là cộng sản hay tư bản về mọi góc cạnh sinh hoạt trong các trại tập trung, như thể họ giam giữ chúng tôi chỉ để học về lịch sử Việt Nam trong khi họ bắt buộc chúng tôi khai báo chi tiết từng người trong dòng họ ba đời ông bà, cha mẹ, bản thân và gia đình, kể cả nguyên nhân tại sao chết dù đã chết hằng năm bảy chục năm về trước. Hằng chục ngàn tù chính trị chúng tôi bị chết do kiệt sức vì thiếu dinh dưỡng, do hành hạ đọa đày, do bị bức tử, nhưng gia đình không được thông báo.
- Người dân xã hội chủ nghĩa 20 năm trên đất nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thật sự là nghèo khổ, mức sống xã hội thật sự thua kém Việt Nam Cộng Hòa rất xa, xa đến hai ba chục năm hoặc hơn nữa.
- Đánh quỵ toàn bộ sinh hoạt xã hội Việt Nam Cộng Hòa cũ xuống ngang bằng xã hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nghèo khổ, qua khẩu hiệu ăn cướp “nhân dân làm chủ, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý”, chung qui tất cả tài sản của dân lẫn của quốc gia đều trong tay đảng cộng sản ngang qua bộ máy nhà nước. Mức sống người dân nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ngày càng suy sụp, so với mức sống người dân Việt Nam Cộng Hòa năm 1975, nhất là quyền con người hoàn toàn bị tước đoạt.
- Tập trung mọi phương tiện trong hệ thống truyền thông vào tay đảng, quân đội, Công An, những tổ chức ngoại vi, đến những người gọi là phóng viên truyền thông báo chí đều trong tổ chức của đảng. Nói chung là bộ máy đảng với bộ máy nhà nước nắm giữ toàn bộ từ phương tiện đến não bộ con người, trong khi họ tự cho là dân chủ gấp ngàn lần dân chủ tư bản.
- Phá nát những tinh hoa văn hoá dân tộc để thay vào đó cái gọi là văn hoá mới con người mới xã hội nghĩa, chỉ biết nghe theo đảng, làm theo đảng, và chết cho đảng, mà đảng chỉ là một nhóm người trong Bộ Chính Trị.
- Bộ Chính Trị lãnh đạo đất nước chỉ do một nhóm hơn 100 đảng viên đã được chọn lọc đảm nhiệm vai trò cử tri bầu lên. Ra cái điều dân chủ khi huênh hoang Quốc Hội là cơ quan quyền lực cao nhất, nhưng lại do đảng cộng sản chọn trước rồi qui định danh sách “ứng viên” mới đến dân bầu. Khi trở thành “đại biểu Quốc Hội” mọi biểu quyết theo lệnh của Bộ Chính Trị, các tòa án nhất là những vụ án mà họ cho là nguy hại chế độ, cũng phải nhận lệnh Bộ Chính Trị trước khi xử, chánh phủ cũng nhận lệnh từ Bộ Chính Trị về mọi vấn đề quan trọng. Bộ Chính Trị là cơ quan quyền lực tuyệt đối, toàn quyền hoạch định mọi đường lối chính sách và điều khiễn bộ máy mà nhà nước với bộ máy Công An thực hiện, nhưng không có bất kỳ cơ quan nào giám sát họ. Những đảng viên được chọn vào Bộ Chính Trị phải tuyệt đối trung thành với đảng cộng sản độc tài.
Do vậy mà họ đẩy toàn bộ sinh hoạt xã hội Việt Nam đến sát bờ vực thẳm chỉ sau 10 năm (từ năm 1975) cai trị toàn cõi Việt Nam dưới tên gọi nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, và phải gục đầu quy lụy các nước tư bản, nhất là Hoa Kỳ mà họ từng “chửi rủa Mỹ là tên đế quốc đang dẫy chết tại dinh lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản” để mong được cứu vớt tồn tại.
Giai đoạn ba: 1.293 ngày kể từ 12 tháng 9 năm 1987, tức giai đoạn chờ sang Hoa Kỳ tị nạn, tôi nhận thức rằng:
- Những gian trá trấn lột đất đai cướp đoạt nhà cửa, gian trá trong kinh doanh thương mãi dịch vụ, tham ô nhũng lạm len lỏi vào mọi ngóc ngách xã hội, từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng cấu trúc lãnh đạo, tất cả trở thành “một nếp” trong văn hoá xã hội chủ nghĩa ngày nay. Đây là nỗi đau cao nhất trong dòng lịch sử Việt Nam từ thời xa xưa đến thời đương đại. Và nỗi đau này của lịch sử, chính là tội ác của cộng sản Việt Nam.
- Tội ác của cộng sản Việt Nam không sao kể xiết, từ chính sách cai trị bằng bao tử, cướp đoạt nhà cửa ruộng vườn cơ sở kinh doanh sản xuất thương mãi dịch vụ, đến đày đọa những ai không cùng quan điểm chính trị độc tài với họ trong hệ thống nhà tù khắc nghiệt, đến bịt mắt bịt tai bịt miệng tất cả mọi người kể cả hàng ngũ đảng viên cộng sản. Nhưng tội ác nặng nhất, tàn bạo nhất, dã man nhất với lịch sử, với dân tộc, là tội ác về giáo dục. Bởi chính sách giáo dục của lãnh đạo cộng sản Việt Nam chỉ đào tạo những thế hệ “thần dân” để tuân phục họ chẳng khác những triều đại vua quan phong kiến hằng trăm hằng ngàn năm trước! Giáo dục đã tạo cho người dân trước uy lực của những người công sản nhân danh lãnh đạo, trở thành một loại phương tiện đa dụng của họ trong khi ông Hồ và “từng đàn cháu ngoan của ông” luôn miệng rao giảng “con người là vốn quí”.
- Hậu quả suy đồi đạo đức, giáo dục một chiều, nói chung là một xã hội thảm hại hiện nay sẽ còn còn kéo dài cho đến ngày mà chế độ cộng sản độc tài sụp đổ, ít nhất phải hai thế hệ sau đó mới hi vọng khôi phục lại được những tinh hoa trong đời sống văn hoá dân tộc. Do chính sách giáo dục thần dân của cộng sản để phá nát xã hội, cho nên Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ qua không có những công dân để xây dựng một xã hội tử tế, để phát triển một quốc gia tử tế trong một thế giới văn minh, hợp tác, và phát triển bền vững. Nhưng suy cho cùng, đã là cộng sản, làm gì có con người tử tế, làm gì có xã hội tử tế, nếu tử tế thì làm gì có đất cho cộng sản dung thân mà tàn phá con người, tàn phá xã hội.
Vậy, chỉ có con đường duy nhất là triệt tiêu chế độ cộng sản độc tài, từ đó đào tạo những thế hệ tử tế để xây dựng một xã hội tử tế trên quê hương Việt Nam ngày mai.
Nhìn chung trong 5.818 ngày kể từ ngày 30 tháng 04 năm 1975 đến ngày cuối tháng 03 năm 1991, cộng thêm thời gian đến nay là tháng 11 năm 2010, dưới nét nhìn của tôi, các nhóm lãnh đạo nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là những nhóm người không phục vụ tổ quốc dân tộc, họ chỉ phục vụ quyền lợi của đảng cộng sản mà quyền lợi của đảng cộng sản chính là quyền lợi của nhóm nhân danh lãnh đạo. Sự kiện điển hình tồi tệ và là tội ác đối với tổ quốc dân tộc là cuối năm 1999 lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã cắt 789 cây số vuông dọc biên giới Việt-Trung, và cuối năm 2000 lại xén 11.362 cây số vuông trong vịnh Bắc Việt dâng tặng lãnh đạo Trung Hoa cộng sản để được tiếp tục lãnh đạo đất nước, chẳng khác những thế kỷ trước, vua quan Việt Nam triều cống vua quan Trung Hoa để được phong vương trên ngôi vị, trong khi họ vẫn bịt mắt bịt tai bịt miệng 86.000.000 (86 triệu) người trên toàn cõi Việt Nam, mà tấm ảnh Công An bịt miệng Linh mục Nguyễn Văn Lý ngay trong phiên tòa tại Huế hồi tháng 03/2007 hoàn toàn theo nghĩa đen của ngôn ngữ, là một chứng minh cho toàn thế giới nhận rõ thêm bản chất của lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Hơn thế nữa, cộng sản là thảm họa của nhân loại mà biểu tượng của thảm họa này là Tượng Đài Nạn Nhân Cộng Sản Thế Giới đã được khánh thành ngày 12 tháng 06 năm 2007 tại Washington DC do Tổng Thống Hoa Kỳ chủ tọa, với sự tham dự của các phái đoàn từ 25 quốc gia đã và đang là nạn nhân của cộng sản.
Thưa quí vị quí bạn,
Những gì tôi cần kể lại với quí vị quí bạn về bản thân và gia đình tôi, mà tôi nghĩ là hằng trăm ngàn gia đình đồng môn đồng đội của tôi cũng trong hoàn cảnh tương tự, trong những ngàn ngày sống với xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ trong nhà tù nhỏ -các trại tập trung- và trong nhà tù lớn -xã hội xã hội chủ nghĩa- tôi đã viết vào quyển ký sự này. Thật ra còn nhiều vấn đề khác nhưng tôi không viết vào đây, vì trước khi bắt đầu gõ vào phiếm chữ trên máy computer, tôi xác định một lằn ranh thật đậm nét “dân chủ tự do không thể hòa giải và hòa hợp với cộng sản độc tài bất cứ hình thức nào trừ khi có một Gorbatchev Việt Nam, nhưng điều này chưa nhìn thấy bóng dáng Gorbatchev nào trong hàng ngũ xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay”.
Đến đây tôi xin hết lời, và kính chào quí vị quí bạn.
Houston, Texas, Hoa Kỳ.
Viết xong ngày 19 tháng 6 năm 2007.
Duyệt lại ngày 23/11/2010
Đại Tá Phạm Bá Hoa
Cựu tù nhân chính trị
H.O. 5
TÁC GIẢ
Phạm Bá Hoa, sinh năm 1930 tại làng Đại Ngãi, quận Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Nhập ngũ ngày 12 tháng 5 năm 1954 vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, thuộc tài nguyên sĩ quan trừ bị khóa 5. Vì không đủ cơ sở, được gởi lên học Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Trở về Thủ Đức dự lễ tốt nghiệp khóa Vì Dân cuối tháng 1 năm 1955, với cấp bậc Thiếu Úy.
Lần lượt giữ các chức vụ:
Trung Đội Trưởng/Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân.
Đại Đội Trưởng/Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân.
Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 35/Sư Đoàn 12 Khinh Chiến.
Trưởng Ban 3 Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 35/Sư Đoàn 12 Khinh Chiến.
Trưởng Ban Hành Quân, rồi Phó Phòng 3/Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân/Bộ Tổng Tham Mưu.
Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Chánh Văn Phòng Tổng Trưởng Quốc Phòng.
Chánh Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng.
Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh (Cần Thơ).
Chánh Sở Kế Hoạch/Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ Tổng Tham Mưu .
Chỉ Huy Phó Bộ Chỉ Huy 4 Tiếp Vận.
Cục Trưởng Cục Mãi Dịch.
Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.
Thăng cấp:
Trung Úy, tháng 2 năm 1957.
Đại Úy, tháng 11 năm 1961.
Thiếu Tá, tháng 11 năm 1963.
Trung Tá, tháng 12 năm 1965.
Đại Tá, tháng 9 năm 1969.
Theo học:
Khóa Đại Đội Trưởng, chi nhánh Trường Võ Bị Liên Quân/Đà Lạt 1956.
Khóa Tham Mưu, Trường Đại Học Quân Sự/Sài Gòn 1960.
Khóa Chỉ Huy&Tham Mưu Cao Cấp, Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp/Đà Lạt 1970.
Tham dự các khóa hội thảo:
Tiếp Vận Miền Tây Thái Bình Dương 1971, Okinawa, Nhật Bản.
Quản Trị Quốc Phòng 1971, Trường Cao Đẳng Quốc Phòng, Sài Gòn.
Phát Triển Quốc Gia 1973, Trường Cao Đẳng Quốc Phòng, Sài Gòn.
Công du:
Nhật Bản và Đại Hàn 1963, Thái Lan 1966, Đài Loan 1970, Okinawa 1971, và Singapore 1973.
Tù chính trị:
Từ tháng 6 năm 1975 đến tháng 9 năm 1987, trong các trại tù Long Giao tỉnh Long Khánh, Tam Hiệp tỉnh Biên Hòa, Yên Bái tỉnh Hoàng Liên Sơn, và Nam Hà tỉnh Hà Nam Ninh.
Định cư.
Tại thành phố Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ, từ tháng 4 năm 1991 trong đợt HO 5.
Sinh hoạt Cộng Đồng:
Tham gia Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức tại Houston từ năm 1995 đến năm 2000.
Tham gia Tổng Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức Hải Ngoại: Nhiệm kỳ 1 (2000-2002) họp tại Houston, Hoa Kỳ. Nhiệm kỳ 2 (2002-2004) họp tại Toronto, Canada. Nhiệm kỳ 3 (2004-2006) họp tại Brisbane, Australia. Và nhiệm kỳ 4 (2006-2008+2009) họp tại San Jose, Hoa Kỳ.
Tham gia nhóm phát thưởng học sinh giỏi từ lớp 5 đến lớp 12 từ năm học 1997-1998 đến năm học 2003-2004.
Tham gia ban phát thanh Phật Giáo/Houston từ tháng 4 năm 1998 đến hết tháng 1 năm 2008, trong thời gian đó đã đọc trên làn sóng đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam (VOVN) hơn 80 bài của các tác giả viết về Phật Giáo trong đời sống.
Phụ trách chương trình thời sự “Những Vấn Đề Hôm Nay” trên làn sóng đài TNT/Houston từ tháng 9 năm 2001 đến cuối tháng 1 năm 2006, đã viết và đọc trong 349 bài phát thanh với chủ đề hỗ trợ công cuộc dân chủ hóa chế độ chính trị trên quê hương Việt Nam.
Tham gia sinh hoạt trên NET với 75 bài viết về lập trường chính trị đối nghịch với chế độ cộng sản độc tài đã và đang cai trị Việt Nam.
Tham gia hội Ái Hữu Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Sa Đéc tại Houston, từ năm 2005 .....
Tham gia chương trình “Tản Mạn Lịch Sử 1960-1975” trên đài truyền hình VAN TV 55.2 Houston từ tháng 07/2009 đến tháng 02/2011.
Từ tháng 1/2010, bắt đầu chuyển những bài thời sự về trong nước ngang qua Diễn Đàn Nước Việt Quốc Nội.
Tác phẩm:
“Đôi Dòng Ghi Nhớ”, hồi ký chính trị Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1963 đến năm 1975. Nhà xuất bản Ngày Nay ấn hành lần 1 năm 1994, lần hai năm 1995, lần 3 năm 1998, và lần 4 năm 2007. Dài 386 trang (cở chữ 11).
“Ký Sự Trong Tù”, tâm sự và nhận thức của Một Tù Nhân Chính Trị trong các trại tập trung Long Giao tỉnh Long Khánh, Tam Hiệp tỉnh Biên Hòa, Yên Bái tỉnh Hoàng Liên Sơn, Nam Hà tỉnh Hà Nam Ninh, từ tháng 6 năm 1975 đến tháng 9 năm 1987, và trong thời gian ở Sài Gòn chờ xuất ngoại. Ấn hành tháng 7 năm 2008, dài 534 trang (cở chữ 11).
“Tôi là Một H.O.”, tâm sự của Một H.O. và đóng góp nhỏ nhoi vào sinh hoạt Cộng Đồng tị nạn cộng sản từ tháng 4 năm 1991 đến tháng 5 năm 2010, dài 679 trang (cở chữ 10). Ấn loát lưu giữ trong gia đình. Chưa ấn hành.
“Quê Hương & Quân Ngũ”, tâm sự Người Lính gắn liền với quê hương & quân ngũ trong giai đoạn chiến tranh giữ nước từ năm 1954 đến năm 1975. Dài 463 trang (cở chữ 10). Ấn loát lưu giữ trong gia đình. Chưa ấn hành.
“Thời Sự Việt Nam 2001-2006”, nỗi lòng của người H.O. chưa tròn trách nhiệm với dân với nước, nhờ làn sóng phát thanh tại Houston từ tháng 9/2001 đến tháng 1/2006 chuyển tải chủ đề hỗ trợ dân chủ hóa Việt Nam. Sách dài 627 trang (cở chữ 10). Ấn loát lưu giữ trong gia đình. Chưa ấn hành.
Tình trạng gia đình đến cuối năm 2010: Vợ và năm con (4 trai 1 gái) có gia đình, với chín cháu Nội Ngoại (5 cháu gái và 4 cháu trai). Đầu năm 2010, kỷ niệm 52 năm hôn lễ.
12345678
2 comments:
Dịch vụ làm bằng đại học uy tín giá rẻ tại tphcm - hà nội
Làm bằng đại học
Làm bằng đại học uy tín
Làm bằng đại học giá rẻ
Làm bằng đại học tại tphcm
Làm bằng đại học tại hà nội
Làm bằng đại học không cần đặt cọc
Dịch vụ làm bằng đại học uy tín giá rẻ tại tphcm - hà nội
Làm bằng đại học
Làm bằng đại học uy tín
Làm bằng đại học giá rẻ
Làm bằng đại học tại tphcm
Làm bằng đại học tại hà nội
Làm bằng đại học không cần đặt cọc
Post a Comment