KÝ TẾ * HỒI KÝ VƯỢT BIÊN ĐƯỜNG BỘ IV
"Từ đó, cứ mỗi ngày bọn lính Pol Pot đều phân công cho nhóm dân tị nạn chúng tôi làm công tác lao động khổ sai như vác củi, đào hầm hố, giao thông hào, hầm chiến lược và đi tải gạo."
Ông Trương Võ là cựu đại uý Biên Tập Viên, ngành Cảnh sát của Việt Nam Cộng Hòa. Ông Võ sinh năm 1946, tại Tây Ninh. Sau năm 1975, ông Võ là tù nhân chính trị của chế độ Cộng Sản Việt Nam. Ông đã bị giam cầm tại nhiều trại từ Nam đến Bắc Việt trong suốt năm năm (1975-1980). Vợ và con ông Võ đã vượt biển khoảng năm 1978.
Ông Võ đã ở qua các làng của Pol Pot, trại tị nạn NW 9, trại tị nạn Panatnikhom Holding Center, trại Rangsit Transit Center trước khi đi định cư tại Hoa Kỳ. Hiện nay, ông Võ đang sống tại San Jose, tiểu bang California với gia đình ông.
Sau khi được trả tự do, ông Võ liền trốn thoát bằng đường bộ vào tháng 5, năm 1980. Ông đã lọt vào khu kiểm soát của lực lượng Khmer Đỏ (Pol Pot). Bọn Pol Pot cũng tàn bạo và bất nhân không kém gì bọn Para. Chúng cũng hãm hiếp, cướp của, hành hạ và giết chóc người tị nạn đường bộ một cách tàn nhẫn và vô nhân đạo.
Trong lịch sử cận đại, lực lượng Pol Pot đã từng giết hại trên hai triệu đồng bào của họ sau năm 1975. Họ đã mang tội diệt chủng thì xá gì thân phận nhỏ nhoi của người dân Việt tị nạn, một dân tộc láng giềng vốn không thân thiện gì với họ.
Từ sau năm 1979, có nhiều người tị nạn bị giam giữ và hành hạ trong các làng và trại tù của lực lượng Pol Pot. Có rất nhiều người đã chết không lời trăn trối, không nhắm mắt vì chết oan uổng khi họ đã gần đến bến bờ tự do. Nỗi oan khiên cùng với số phận hẩm hiu của họ đang cần những người có thẩm quyền và lòng thương cứu giúp.
Cuộc Hành Trình Từ Việt Nam Đến Thái Lan.
Khi tôi được Chính quyền Cộng Sản Việt Nam trả tự do được một tháng là tôi liền vội tìm đường dây để đi vượt biên. Lúc ấy, tôi nghe nhiều người đã đi thoát cách trót lọt bằng lối đường bộ.
Trước khi đi, hồi còn ở Sàigòn, tôi thường vặn radio để nghe đài BBC và đài VOA. Tôi được biết là ở trại Non Samet và trại Non Chan, dân tị nạn thường hay bị lực lương Para của người Khmer hà hiếp. Người trưởng trại là giáo sư PNB. Đài BBC hay đài VOA có phỏng vấn ông B. bằng Anh ngữ. Nhờ nghe đài cho nên tôi mới cố gắng tìm cách đi vượt biên bằng đường bộ.
May mắn thay, tôi được biết một tổ chức của người quen đã đưa được nhiều người vượt biên đến nơi an toàn. Những người này đã viết thư về cho thân nhân ở Việt nam biết tin. Tổ chức ấy là do nghiệp đoàn xe vận tải chuyên chở gạo từ Sàigòn lên Nam Vang rồi đến Battambang để tiếp tế cho các lực lượng quân đội của Việt Cộng ở đó. Họ đã tổ chức đưa người đi từ nhiều tháng nay, nhưng chưa hề bị đổ bể và họ chỉ tuyển các người quen biết, chứ không đưa người lạ đi vì sợ lộ. Tôi cũng nhờ có người quen ân cần giới thiệu nên mới được tổ chức ấy chấp nhận.
Tiền lệ phí cho việc vượt biên là bốn lượng vàng cho mỗi đầu người. Tôi bắt đầu ra đi từ Sàigòn vào khoảng cuối tháng 5, 1980. Từ 5:00 giờ sáng, người ta bắt đầu bỏ gạo lên xe. Đến khoảng 7:00 giờ sáng, đoàn xe gồm bảy, tám chiếc bắt đầu chuyển bánh rời Sàigòn. Mỗi xe trong đoàn xe vận tải đều có tài xế chính và một người phụ xế, còn gọi là lơ xe.
Xe nào cũng có giấy tờ chính thức của chính quyền Cộng Sản cấp cho, gồm công vụ lịnh, số lượng hàng hoá để tiếp tế cho các lực lượng quân đội ở vùng biên giới Thái và Cambodia.
Dọc đường từ Sàigòn đi đến Gò Dầu, chúng tôi phải đi khoảng mười mấy trạm kiểm soát quân sự. Các trạm kiểm soát này được đặt ra để kiểm soát hàng lậu thuế, đồng thời cũng để chận bắt những kẻ muốn vượt biên giới.
Khi qua các trạm kiểm soát này, tài xế chủ xe không cho tôi ngồi ở trên xe vì sợ bị lộ. Vì thế, tôi phải đi bộ hoặc đi xe Lam (Xe Lambretta) vào những lúc trước khi đến trạm và sau khi qua khỏi trạm gác độ chừng một cây số.
Khi tới trạm kiểm soát ở Gò Dầu thì đã khoảng 12:00 giờ trưa rồi. Tới trạm Gò Dầu thì tài xế phải trình giấy tờ ở đó. Thường thì mỗi xe được quyền chở hai người: một tài xế và một phụ xế. Nếu xe nào muốn chở thêm người vượt biên thì phải làm một cái hang trong lòng xe để dấu người ta ở dưới hang ấy và bỏ gạo lên chung quanh để ngụy trang.
Từ Gò Dầu đến Soài Riêng, thuộc địa giới của Cambodia thì có một trạm kiểm soát biên phòng rất khó khăn và nguy hiểm. Trạm này nằm ở vùng Sài Phu, thuộc tỉnh Soài Riêng, cách Gò Dầu khoảng hai mươi cây số. Tại đây, rất nhiều người vượt biên bị bắt lại vì bọn lính kiểm soát rất kỹ, hễ thấy nghi ngờ là chúng tóm ngay người vượt biên.
Vì thế tổ chức này đã chuẩn bị chu đáo. Họ mua rất nhiều thùng bia và thuốc lá 555 để hối lộ cho công an biên phòng tại đó.
Trước khi đi, tổ chức này đã cho tôi biết là tôi phải đóng vai phụ xế. Vì thế, họ dạy tôi mọi cách thức để trở thành một phụ xế: xuống trình giấy ở các trạm kiểm soát ra sao, học tiếng Miên về số xe, về các câu hỏi đáp thông thường để trả lời các trạm gác Việt và Miên ở trên đường đi.
Khi đến trạm gác đầu tiên, vì chưa thực hành lần nào nên tôi hơi sợ. Tôi vội vàng nói với ông tài xế:
-Đây là lần đầu tiên, anh làm ơn chỉ tui lè lẹ coi làm cái gì trước.
Anh tài xế bảo tôi:
-Anh cứ việc xuống trình giấy thôi.
Xem chừng tôi lạng quạng trong việc đó nên anh tài xế dành làm luôn công tác trình giấy. Trong lúc ấy, tôi nghĩ nếu mình ngồi trên xe trơ trọi thì kỳ quá nên tôi giả đò chạy xuống gầm xe, chui vào dưới lườn xe để làm bộ sửa máy. Tôi còn quẹt dầu mỡ để họ tin mình là thứ thật.
Còn anh tài xế thì vừa trình giấy, vừa đưa bia hộp, bánh mì và thuốc lá để hối lộ bọn lính công an ở trạm gác đó. Sau khi công an trả lại giấy tờ, chúng tôi vội vàng leo lên xe đi tiếp. Trong xe, ngoài anh tài xế vừa là chủ xe ra, còn có tôi giả làm phụ xế, tôi mang giấy tờ và căn cước không dán hình của người phụ xế thật.
Trong chuyến đi của tôi có một thanh niên cũng đi vượt biên tên là Thuần. Thuần được chủ xe dấu ở dưới một cái hầm kiên cố có lót ván kỹ, chung quanh là các bao gạo loại một tạ (100 trăm ký lo). Thuần luôn phải nằm trong hầm đó vì thế rất lnóng và ngộp thở vì thiếu không khí.
Qua khỏi trạm kiểm soát, tôi vội vọt ra phía sau xe, la thật to để Thuần ở dưới lớp gạo có thể nghe được:
-Ê Thuần! Khỏe không mày?
Thuần đáp:
- Ngộp và nực quá anh ơi!
Tôi bèn chui tới móc các bao gạo che cái hầm, rồi vạch các lớp ván để Thuần có thể chui ra được. Cũng vì đã làm lao động nhiều khi còn ở tù, nên tôi không thấy khó khăn khi móc các bao gạo ấy. Mừng rỡ, Thuần nhảy ra khỏi hầm, mồ hôi hắn chảy ra nhễ nhại.
Rồi đến trạm khác, tôi lại vạch gạo cho Thuần chui vào hầm như cũ. Đến gần trạm độ một trăm thước thì xe ngừng lại, tôi bèn lấy hai tấm giấy có tên tài xế chánh và tài xế phụ cùng công vụ lịnh để trình cho lính Miên kiểm soát.
Tôi cũng nói bập bẹ vài tiếng Miên về số xe và lộ trình từ Sàigòn đi Battambang. Khi bọn lính Miên ra dấu cho phép xe đi, tôi ngoắc cho xe đi tới từ từ, rồi như người phụ xế thứ thật, tôi nhảy vọt lên xe khi xe đang chạy. Cứ thế, đến mỗi trạm thì anh Thuần phải nằm trong hầm, qua khỏi trạm, thì hắn lại được tôi móc lên để ngồi cho thoải mái.
Chúng tôi phải qua mặt đến mấy chục trạm, lần nào, cũng những động tác trình giấy như vậy, cũng móc Thuần lên và dấu hắn xuống hầm. Hễ đến bữa ăn thì chúng tôi được ăn uống đầy đủ. Đến tối hôm ấy thì đoàn xe chúng tôi đến phà bắc Neak Luông. Chúng tôi xuống xe và ghé quán ăn uống.
Lúc ấy, bắc Neak Luông rất kẹt xe. Trời sập tối, thừa lúc đông người lộn xộn, cả chủ xe lẫn dân vượt biên chúng tôi đều nhảy xuống xe để đi tắm mát.
Chuyến xe vận tải đó có bảy, tám chiếc và chở bảy người vượt biên trong đó. Có xe chở hai người vượt biên, như xe đang chở tôi. Nhưng cũng có xe không chở một người nào cả. Chủ xe nào gan mới dám chở người vượt biên. Như ông T., anh của Bảy Bòn. Tuần nào, ông T. cũng chở khách vượt biên. Ông này rất chịu chơi, ông ta tuyên bố là hễ bị ”bể mánh” thì ông ta vượt biên đi luôn.
Những người nào đi vượt biên theo kiểu chui dưới hầm bí mật được bao quanh bằng những bao gạo thì giá rẻ hơn, chỉ có ba cây (lượng) một người. Đi như vậy rất khổ sở vì cả buổi bị nằm chui rúc, quấn tròn, ngộp thở và khó chịu vô cùng. Xe chạy dằn nên nếu ai không khỏe thì chắc bịnh luôn. May là Thuần rất khỏe.
Ở bắc Neak Luong này, khi ăn cơm xong, những người tài xế phải trả tiền ăn bằng vàng. Người dân ở đây chê tiền Việt nam và họ thích lấy vàng hơn.
Sau đó, chúng tôi qua bắc và chạy đến Nam Vang. Lúc ấy, trời đã về khuya, chúng tôi vì có giấy tờ hợp pháp nên đi chơi Nam Vang. Thành phố này thật đẹp nhưng vì giới nghiêm nên chúng tôi không được đi chơi lâu.
Đêm hôm ấy, chúng tôi ngủ tại Nam Vang. Sáng hôm sau, xe bắt đầu hướng về tỉnh Battambang. Suốt cuộc hành trình, chúng tôi vẫn diễn lại các động tác; trình giấy, dấu Thuần dưới hầm khi đến trạm kiểm soát…
Một lần vì gặp xui nên có một đoàn lính Miên độ bốn, năm tên chỉa súng ra dấu xin đi quá giang xe của chúng tôi. Người tài xế bắt buộc phải để cho họ quá giang. Tôi bèn lo quá, vì cho quá giang là điều rất nguy hiểm. Vì thế tôi đành hy sinh, nhường chỗ ngồi ở gần tài xế cho bọn lính ngồi. Một thằng thì leo lên mui xe ngồi vắt vẻo, còn tôi ngồi ở trong xe với Thuần.
Trước đó, tôi có dặn dò Thuần rằng:
-Hễ êm xuôi thì tao móc mày lên cho đỡ ngộp, còn nếu có gì trục trặc là tao không thể móc mày lên được. Mày đừng đòi lên mà lộ đó nghe không!
Tính ra từ Sàigòn đến Battambang, chúng tôi phải đi mất ba ngày, ba đêm ròng rã. Khi đến Battambang, các tài xế cũng thường là chủ xe, đậu xe ở bến xe rồi tổ chức ăn uống. Họ chưa đem gạo đi giao mà lo đi móc nối với các người dẫn đường ở địa phương để bọn này dắt chúng tôi đi.
Nghe hai bên thảo luận giá cả thì hình như một đầu người phải trả là từ tám chỉ vàng đến một lượng để được dắt đến biên giới Thái Lan. Ở đây, tình trạng chúng tôi khá an toàn vì nhờ chủ xe buôn bán đồ lậu nên quen hết giới buôn lậu ở Sisophon. Nếu cần, chúng tôi có thể ở tạm nhà đám buôn lậu này mà không sợ bị bắt. Dân buôn lậu rất có ”máu mặt”. Bọn họ mua luôn cả lính Cộng Sản Việt ở Sisophon. Do đó, chúng tôi không sợ bị xét sổ gia đình. Chúng tôi chờ đợi tại khu chợ trời Sisophon đó suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ để chờ được dắt đi tiếp.
Khu chợ trời này ở gần Battambang. Thành phố Sisophon cũng trực thuộc tỉnh Battambang luôn. Trong khi chờ đợi, tôi đi ra phố chợ chơi vì tôi có đủ giấy tờ, công vụ lịnh và căn cước của phụ xế. Còn giấy tờ quan trọng của chính tôi thì tôi đã dấu kín ở trong xe vận tải.
Chúng tôi dắt nhau đi ăn hủ tiếu và uống Coca Cola. Ăn xong thì đưa vàng trả tiền. Bà chủ quán cắt ngay nửa cái nhẫn vàng một chỉ. Thật là đắt cắt họng. Tuy nhiên, chủ xe bao hết cho chúng tôi về các chi phí ăn uống ấy.
Đến tối, bà Miên dẫn đường tới nói chuyện đi vượt biên với chúng tôi. Bà ta nói tiếng Miên với đám tài xế chủ xe. Trong đám tài xế cũng có người biết tiếng Miên nên họ thảo luận giá cả với nhau.
Trong đám những người đi vượt biên thì có một người chưa chịu đi vì còn muốn chờ bà con từ chuyến khác đến rồi đi chung. Vì thế chỉ còn có sáu người muốn đi. Trong sáu người này thì có một anh nói tiếng Miên rất giỏi. Vì thế, bà dẫn đường đề nghị là anh ta đi đường lộ chính với bà ta, khỏi cần đi lén lút như bọn chúng tôi vì chúng tôi không biết tiếng Miên.
Tổ chức của bà Miên này rất quy mô. Sau này tôi mới biết là bà ta hoạt động kinh tài cho bọn Pol Pot. Cũng vì thế mà chúng tôi sau này đỡ bị Pol Pot hành hạ hơn những người khác. Bà Miên này có ba đệ tử là người Miên lai Tàu. Bọn họ biết tiếng Miên, Tàu và Pháp. Họ đã đưa nhiều người đi thoát rồi.
Họ hẹn đúng sáu giờ chiều hôm sau sẽ dắt chúng tôi đi tiếp. Ở vùng Sisophon và Battambang này, người ta nói chuyện đi vượt biên một cách công khai, không sợ sệt hay e dè gì cả.
Đến đúng sáu giờ chiều hôm sau, một người trong đám tài xế lấy một chiếc xe vận tải chở năm đứa tôi ra vùng ngoại ô của Sisophon. Tới một khu có cây cối rậm rạp và um tùm như rừng thì họ cho xe dừng lại.
Sau khi ngó quanh quất hai bên đường, thấy chắc ăn là không có ai qua lại, người tài xế ra lệnh cho chúng tôi xuống và chạy về phía bên tay trái và tấp ngay lùm cây rậm rạp đó thì sẽ có người đến đón. Lúc đó ở Sisophon có giới nghiêm lúc bảy giờ tối. Còn anh bạn giỏi tiếng Miên thì ở lại, đến ngày hôm sau mới đi cùng bà dẫn đường, họ dùng xe đạp đi ung dung trên đường lộ chính.
Quả thật, khi chúng tôi chạy ùa đến lùm cây thì đã thấy có ba người Miên ngồi chờ sẵn ở đó rồi. Họ thấy chúng tôi thì ôm chận lại và ra dấu cứ bình tĩnh, đừng sợ sệt gì cả. Chúng tôi thấy bọn họ đón mừng thì cũng yên tâm.
Sau đó, chúng tôi gồm tám người ngồi thảo luận dưới lùm cây, gần bờ suối. Ba người này không hề biết tiếng Việt, nhưng có một người biết tiếng Pháp. Còn năm người chúng tôi thì không ai biết tiếng Miên cả. Hồi còn trẻ, tôi có học tiếng Pháp nhưng vì lâu quá nên quên hết. Tuy vậy, khi họ nói thì hiểu chút đỉnh, nhưng lại không nói lại bằng tiếng Pháp được.
May mắn trong đám người tị nạn có anh Minh, thường được gọi là Minh Cận vì anh ta cận thị rất nặng. Anh Minh xuất thân từ trường Pháp nên tiếng Pháp của anh rất khá(Minh hiện nay ở vùng Glendale, California). Vì thế tôi rất vững dạ. Tôi bèn họp bốn người bạn đồng hành và nói:
-Trong nhóm mình, có lẽ tôi có kinh nghiệm quân sự hơn ai hết. Cho nên tôi giải thích cho các bạn lúc gặp địch thì phải đối phó như thế nào.
Sau đó, tôi giảng giải về kinh nghiệm đi xuyên rừng mà tôi đã học được trong thời gian ở quân ngũ. Tôi còn bảo Minh dùng tiếng Pháp để hỏi cặn kẽ về đường đi nước bước để nắm vững tình hình. Bọn dẫn đường nói là phải chờ mặt trời lặn đã mới dám đi. Chúng tôi đành ngồi trong lùm cây đợi khoảng một hai tiếng sau rồi mới được đi.
Trong lúc chờ đợi, tôi xúi Minh vạch kế hoạch hỏi han đủ thứ. Nào là đường đi từ đây tới biên giới Thái còn bao xa nữa. Còn nếu đi thì đến bao lâu nữa mới tới. Bọn dẫn đường trả lời là nếu đi từ tối thì đến buổi sáng mai sẽ qua khỏi tầm hoạt động của lính Cộng Sản.
Bọn họ tổ chức có vẻ đàng hoàng. Một người biết tiếng Pháp thì dẫn chúng tôi đi, còn hai người kia thì đi thám thính ở phiá trước để xem có yên không. Nếu gặp nguy hiểm thì họ sẽ trở lại để báo tin cho chúng tôi. Còn nếu họ không trở lại là vì tình hình tốt. Như vậy thì chúng tôi cứ tiếp tục đi tới. Người dẫn đường đi chung với chúng tôi thì biết đường đi nhưng anh ta phải đi chậm lại để dẫn chúng tôi.
Chúng tôi đi từ tối hôm ấy đến bảy giờ sáng hôm sau. Anh Minh bị cận thị quá nặng nên khi bỏ kiếng cận ra, anh ta không thấy đường đi, nên anh ta đi rất chậm. Các bạn khác cũng đi rất chậm vì đã quá mệt mỏi. Còn tôi cũng nhờ bị ở tù và bị hành hạ suốt 5 năm dài trong tù cải tạo nên tôi đã quen với cảnh này. Vì thế, tôi đi rất mau, vừa đi vừa thúc giục các bạn để họ đi cho kịp.
Chúng tôi không hề biết phương hướng. Chỉ biết là đi băng rừng rồi qua ruộng. Ruộng thì vừa cắt luá nên những cuống rạ đâm sước chân làm bật máu và đau nhói buốt cả tim gan. Khi vô rừng thì cỏ gai đâm nát chân. Nhưng chúng tôi cũng cố mà đi tiếp.
Khi đi vào đêm trăng sáng, mình còn thấy bóng của mình in trên mặt đất. Đến độ khoảng 10:00 giờ khuya, lúc chúng tôi đang đi trên một cánh đồng thì thình lình thấy ánh sáng của một chiếc đèn pin rọi sáng. Tôi liền quơ tay ra hiệu cho mọi người nằm sấp xuống đất. Lập tức, ba người Miên dẫn đường cũng vội vàng nằm xuống theo.
Theo quy ước, khi vô rừng thì hai người Miên đi tiền sát. Nếu đi ở đồng ruộng thì họ vẫn đi ở phía trước, nhưng chúng tôi đều nhìn thấy họ cả. Hai người Miên vội bò ngược về phiá chúng tôi. Tôi sợ quá, không biết ánh đèn đó của ai: Việt Cộng, Pol Pot hay lính Miên?
Tôi khèo Minh và bảo hắn hỏi xem người có đèn pin là ai, và có chuyện gì đáng ngại không. Bọn dẫn đường bình tĩnh trả lời rằng đó là đèn pin của những người buôn lậu. Tuy nhiên, mình cũng không nên để cho bọn người buôn lậu thấy mình. Thôi đành tạm nghỉ lại đây, chờ khuya mới đi tiếp.
Thế là cả bọn tạm kiếm chỗ nghỉ. Các bạn tôi lăn ra ngủ hết nhưng ba người dẫn đường thì chưa ngủ. Còn tôi, tôi sợ hãi nên không ngủ được. Vả lại tôi sợ ngủ quên thì bị bọn dẫn đường bỏ rơi. Tôi đã trù liệu rằng nếu gặp Việt Cộng thì tôi sẽ chạy để họ bắn với theo, còn hơn để bị bắt lại, rồi bị tù lần nữa.
Đêm qua đi chầm chậm mà tôi thì không dám ngủ. Lòng tôi bồn chồn và mất bình tĩnh nên tôi cứ thấp thỏm, nằm ngó tới ngó lui hoài. Khoảng giữa đêm khuya, khi không còn thấy ánh đèn nữa, thì chúng tôi bèn bàn nhau đi tiếp. Cũng may là anh Minh còn giữ được cái đồng hồ để xem giờ giấc.
Khi vào lại trong cánh rừng thì hai người Miên tiền sát đi trước rồi chúng tôi đi sau. Khoảng hai, ba giờ khuya, từ bên này rừng, chúng tôi đi băng qua một con đường lộ xe hơi bằng đất đỏ để qua rừng phía bên kia.
Khi qua đến phía bên kia của con đường lộ thì chúng tôi thấy có rất nhiều con đường mòn khác nhau. Các bạn tôi đi quá chậm. Trong khi ấy, hai người Miên tiền sát đã đi mất hút về trước. Thế là chúng tôi bị lạc mất, không còn thấy hai người dẫn đường ấy đâu nữa.
Đến đó, tôi sợ quá, bèn kêu người Miên dẫn đường còn lại và hỏi hắn trong ngôn ngữ quốc tế:
-Anh có thể dẫn chúng tôi đến trại tị nạn không?
Anh chàng Miên gật đầu và nói là có. Nhưng qua cách dẫn đi của hắn, đi qua lại lòng vòng, tôi đoán chắc là hắn ta không biết đường đi. Hắn lại có vẻ suy nghĩ và lo âu điều gì. Tôi nghĩ bụng:
”Có lẽ thằng qủy này không biết đường đi rồi đây!”
Cuối cùng, tên dẫn đường bèn nói thật là hắn không rành đường đi và hắn cũng đang sợ lạc. Nghe vậy, tôi lại nghĩ khác, tôi nhủ thầm:
”Chắc là bọn tôi bị chúng gạt rồi. Đúng là đem con bỏ chợ rồi. Tổ chức này là tổ chức ma rồi đây!”
Nghĩ thế, tôi bèn quay sang bàn luận với bạn bè:
-Bây giờ mạng mình còn hay mất là do nơi thằng này đây. Nếu nó trốn đi là mình chết hay bị bắt ngay. Mình phải bám sát lấy nó, đừng cho nó chạy đi. Bằng mọi giá phải nắm lấy nó!”
Thế là tôi đi bám sát lấy người Miên dẫn đường. Đến độ bốn giờ sáng, người dẫn đường dừng lại và nói rằng hắn không biết đi đường nào nữa, thôi đành chờ đến sáng thôi! Tôi phản đối ngay:
-Không được, lỡ mình nằm đây mà gặp lính Việt Cộng hành quân qua thì họ bắt tụi tui rồi làm sao?
Lúc ấy, chúng tôi cứ đi, lúc vào rừng, lúc ra ruộng. Tôi cứ dặn dò các bạn đồng hành hãy cố bám sát người dẫn đường kẻo hắn bỏ rơi mình dọc đường, nhưng dường như không ai chịu nghe lời tôi cả. Tên Miên kia đòi đi cầu, tôi lại sợ hắn lấy cớ bỏ đi nên tôi cũng làm bộ đi cầu như hắn. Thực ra, tôi không mắc cầu nhưng vì muốn theo sát hắn để canh chừng.
Trong lúc tôi sợ đến có thể điên được thì các bạn đồng hành cứ ngủ tỉnh bơ. Riêng tôi, tôi nằm mà lấy chân thò ra để đụng cho được người của tên dẫn đường để hễ hắn dang ra là tôi biết ngay.
Mỗi lần dừng chân, tôi đều nhắm hướng tây bắc, tây nam để mà kiếm cách đi qua Thái Lan. Đến khi nằm chờ ở đó thì chúng tôi lại may mắn nằm gần con đường mòn của dân đi buôn bán chợ Trời.
Khoảng sáu giờ sáng thì có tiếng gà rừng gáy, chúng tôi lại tiếp tục đi nữa. Chúng tôi gặp một con kinh đào nhưng cạn khô hết nước. Cả bọn chúng tôi leo lên đập bờ kinh đào để đi thẳng về hướng tây. Đi nửa chừng, chúng tôi gặp ba người có dáng điệu của nông dân, họ quấn xà rông. Tôi lại sợ hết hồn, bèn nghĩ thầm:
”Chết rồi, tụi này có lẽ là bọn nằm vùng, lỡ nó tố cáo mình thì chết!”
Nghĩ vậy nhưng chúng tôi vẫn đi thẳng, rồi muốn tới đâu thì tới. Đi một chập lâu, chúng tôi gặp một đoàn xe đạp đi từ Sisophon đến Thái Lan. Tôi quá mừng vì biết là con đường này đi lên biên giới rồi.
Chúng tôi tiếp tục đi men theo con đường ấy. Đi thêm độ hai ba tiếng nữa, thì người dẫn đường cho biết là đường mòn này thường hay có dân buôn lậu từ biên giới đi và về. Người ta đi lại tấp nập bằng xe đạp, còn chúng tôi thì đi bên cạnh lề đường.
Vùng này hình như thuộc vùng trái độn, là ranh giới giữa lính Việt Cộng và Pol Pot. Chúng tôi cứ cắm đầu đi mãi. Đến một lùm cây nọ, tôi thấy trong bụi cây có một toán lính gồm năm, sáu người trông giống như Việt Cộng. Họ mặc quần xà lỏn, áo đen, choàng khăn cà ma, đi dép râu và đeo súng AK.
Ngay lập tức, họ ùa ra đứng đón chận chúng tôi. Hồn vía lên mây, tôi cùng một người bạn, cũng ở trong quân đội ngày xưa bèn quay chạy ngược về phía cũ để trốn bọn lính này. Như một phản ứng dây chuyền, những người dân buôn bán chợ trời đang đi, thấy tụi tôi chạy, họ cũng hoảng hồn chạy tán loạn luôn. Tôi bèn ra dấu đón một xe đạp để xin quá giang về lại phía Sisophon, nhưng tôi bị bọn đi xe đạp đá văng luôn. Tôi la lên:
”Bòn ơi! Bòn ơi!” (Anh ơi! Anh ơi!)
Vừa chạy, tôi vừa nhìn lại để xem bọn lính có rượt theo không thì thấy họ không thèm rượt. Người dẫn đường không chạy, ba người bạn đồng hành là Thuần, Minh, và Bòn cũng không chạy. Tôi hơi mừng nên nằm trong một bụi cây để lén ngó về phía mấy người lính ấy.
Khi đó, bọn lính chỉa súng kêu ba người bạn của tôi đến để khám xét. Xét xong, bọn họ cho ba người ấy đi vào. Cùng lúc đó, người dẫn đường chạy về phiá tôi và ngoắc tôi um sùm. Tôi không dám chạy về phiá đó nên cũng ngoắc hắn lại gần. Bọn lính kia là lực lượng Pol Pot. Tôi hỏi người dẫn đường:
-Ho là lực lượng nào? Cộng sản Nam Vang hay Pol Pot?
Anh Miên trả lời:
-Đó là lực lượng Pol Pot.
-Họ có giết mình không?
-Không!
Tôi không tin lời hắn nên bắt hắn giơ tay thề là đã nói thật. Xong hắn dắt tôi với người bạn đi về phiá lính Pol Pot. Bọn lính này dắt tôi vào bụi rậm để xét hành lý của tôi. Chúng lấy hết thuốc trụ sinh của tôi, còn bình nước và nhúm lương khô thì chúng không lấy.
Sau đó, chúng bắt tôi cởi quần áo ra để chúng xét lấy vàng. Chúng banh hậu môn tôi ra để tìm của qúy. Người bạn tôi cũng bị xét như vậy. Thế rồi chúng chỉ vô phía trong rừng và nói với tôi:
”Tâu Xiêm!”, tức là đi Thái Lan.
Vì đã mỏi mệt và mất tinh thần quá rồi, nên chỉ đi độ năm trăm thước là tôi dừng lại và bàn chuyện với người đẫn đường và người bạn. Còn ba người kia đã bỏ đi mất hút về phía trước.
Tôi bèn quay lại bảo người dẫn đường bằng tiếng Pháp pha trộn:
-Tới đây rồi bây giờ anh có cách nào dắt tôi về lại Sisophon và giao tôi cho chủ cũ được không? Đi thêm nữa chắc chết quá!
Anh Miên dẫn đường cố khuyên nhủ tôi:
-Thôi đừng có dại, Pol Pot là bạn chứ không phải là thù đâu. Cứ việc đi vào đi, không có sao hết!
-Anh có bảo đảm với tôi là Pol Pot sẽ không giết tôi không?
-Thì anh thấy đó, họ đâu có giết anh đâu. Họ thả anh ra đó!
Tôi rất lo âu vì từ hồi nào đến giờ, cái tiếng xấu của Pol Pot về nạn diệt chủng thì tôi nghe đã nhiều rồi. Lại đã ở tù dưới chế độ Cộng Sản rồi nên bây giờ tôi sợ ghê lắm.
May là anh Miên dẫn đường này có giấy giới thiệu của Pol Pot nên đến trạm nào, anh ta cũng trình giấy và được đi lại dễ dàng. Anh ta là em trai của bà Miên mà bà ta lại ở trong tổ chức kinh tài của Pol Pot. Tuy nhiên, không phải vì anh ta có liên hệ với Pol Pot mà chúng tôi không bị lục xét. Có lẽ cũng nhờ hắn có liên hệ với Pol Pot mà chúng tôi không bị giết hại như nhiều người tị nạn Việt khác.
Lúc đó, chúng tôi đã đi vào làng của Pol Pot, thuộc vùng an toàn. Tôi vốn đa nghi nên nằng nặc đòi trở về Sisophon. Anh Miên kia thì cứ dỗ dành tôi đừng về vì về là dại lắm. Tôi lại quay ra bàn chuyện với người bạn đồng hành thì anh này nói:
”Thôi kệ, đã lỡ rồi, cứ đi luôn, đừng về nữa!”
Chúng tôi lại tiếp tục đi sâu vào khu làng Pol Pot. Càng đi sâu vào, tôi càng cảm thấy thân phận dân tị nạn chúng tôi còn khổ và nhục nhã thua một con chó. Cứ vài bước lại có một trạm gác. Bọn lính Pol Pot lại bắt chúng tôi cởi áo quần ra cho chúng khám xét.
Lục xét cả hậu môn. Chúng “làm thịt” chúng tôi thật kỹ. Trong lúc ấy, anh chàng Miên dẫn đường đứng chờ cho bọn chúng xét chúng tôi. Chúng tôi đã mệt quá sức và uể oải vô cùng.
Cơn khát đến làm chúng tôi chịu hết nổi. Đi dọc đường, gặp nước gì thì chúng tôi uống đại nước ấy. Có những chỗ gặp người ngồi bán nước ngọt, xi rô hay nước đá, tôi thèm nhỏ dãi. Người dẫn đường của tôi cũng thuộc loại người tử tế nên anh ta trả tiền để chúng tôi được uống nước xi rô ngọt. Uống một ly không đủ, tôi uống đến hai ly.
Càng đi sâu vào trong rừng, chúng tôi càng gặp nhiều trạm gác. Tới trạm nào, chúng tôi cũng bị lôi ra lục xét để kiếm vàng. Bị xét mãi, chúng tôi đến phát chán và cảm thấy nhục nhã. Tới đây đã thuộc vùng kiểm soát của Pol Pot. Đạn giao tranh bay ào ào, chắc là có đụng độ giữa Pol Pot và Việt Cộng.
Trên đường đi, người dẫn đường gặp rất nhiều người quen với anh. Bởi vậy, anh ta hỏi thăm tin tức người chị gái của anh, tức là người phụ nữ ở trong tổ chức. Người quen cho biết là chị của anh sắp đến rồi. Tôi nghe anh ta dịch lại lời đó thì mừng vô cùng.
Lúc còn ở Sisophon, bà này đã dặn chúng tôi là sáng hôm sau hễ chúng tôi đi tới đâu sẽ gặp bà ta tại đó. Bà này đi xe đạp với người bạn biết tiếng Miên của chúng tôi.
Tuy mừng nhưng tôi vẫn nghi anh chàng kia đặt chuyện để chúng tôi yên lòng. Chúng tôi vẫn cắm cúi đi tiếp đến độ hai giờ trưa. Lúc ấy trong bụng tôi đói cồn cào vì chưa có một hột cơm nào cả. Vừa lúc ấy, bà chị của anh dẫn đường vừa đạp xe tới cùng với người bạn đồng hành của tôi. Anh này thấy chúng tôi nhưng không dám nhìn và đạp tới trước luôn.
Thấy bà ta, tôi mừng hết lớn, bèn than van với bà ấy:
-Mệt quá, đi hết nổi rồi chị ơi!
Bà này liền đứng lại đón xe bò để chúng tôi leo lên ngồi. Người chở xe bò cũng không dám chở chúng tôi nên anh dẫn đường phải đưa giấy đi đường của Pol Pot cấp cho anh để anh xe bò xem. Bà Miên còn móc túi trả tiền xe cho chúng tôi.
Hên thật, ngồi trên xe bò, tôi duỗi thẳng chân ra và thở một hơi dài khoan khoái. Lúc ấy mới thấy thoải mái. Tôi có cảm tưởng như mình đang được đi xe hơi Mercedes vậy. Ba người bạn: Thuần, Minh và Bòn cũng leo lên xe bò đi chung.
Ngồi trên xe bò, chúng tôi vẫn không yên thân với bọn lính Pol Pot. Tới mỗi trạm, bọn lính này lại kêu lên:”Dzun!” (có nghĩa là người Việt Nam) và họ bắt chúng tôi xuống xe để họ khám xét. Mỗi lần chúng tôi bị lục xét thì người đánh xe bò cũng chịu khó đứnglại chờ chúng tôi.
Làng Mạc Của Lính Pol Pot Ở Vùng Biên Giới Thái Và Cambodia.
Đến gần tối, xe bò đưa chúng tôi vào một khu chợ trời biên giới ở trong vùng của Pol Pot kiểm soát. Khu này cách biên giới khá xa. Người Miên buôn bán tấp nập, nào là quán cơm, quán bán giày dép , vải vóc và mọi thứ tạp hóa.
Lúc ấy, tôi đã tưởng là đến biên giới Thái và Cambodia rồi nên chúng tôi mừng rỡ. Khu này có bí số là vùng 007, đó là trại Non Makmun thì phải. Đây cũng như là căn cứ địa của Pol Pot vì có nhiều lính tráng.Họ ăn mặc rất xốc xếch: quần dài, quần cụt, quần xà lỏn. Vải màu, vải dù, hoặc đồ đen nội địa. Có người thì quấn xà rông, đi dép râu và đeo súng do Trung Cộng chế tạo.
Tới đây coi như hết đường đi tiếp nên chúng tôi năm người lại gặp nhau. Bà dẫn đường lúc ấy mới kể là khuya hôm trước, khi vừa lạc chúng tôi, hai người cộng sự viên của bà đã về lại Sisophon để báo cáo rằng họ lạc mất chúng tôi. Vì thế, bà ta phải đi kiếm tìm chúng tôi. Xong, bà ta kêu cho chúng tôi năm dĩa cơm lớn để ăn. Bụng thật đói nhưng chúng tôi không ăn nhiều được.
Khi vô làng Pol Pot, chúng tôi gặp rất nhiều người tị nạn Việt Nam ở đó. Có thể xem như đó là nơi tụ họp của người tị nạn. Một chập, tôi lại thấy bọn lính tay cầm súng, đem theo một đám người mới vào trại. Rồi lại có những nhóm người khác được lần lượt đưa vào.
So sánh với những nhóm người tị nạn Việt khác thì nhóm năm người chúng tôi được ưu đãi hơn hết vì người dẫn đường của chúng tôi là tay hoạt động kinh tài cho bọn lính Pol Pot.
1/ Pol Pot ngược đãi, hành hạ và hãm hiếp người tị nạn Việt Nam.
Tuy vậy, chúng tôi cũng chịu nhiều nhục nhã, chẳng hạn như lúc đang ngồi ăn thì một thằng lính trẻ, cỡ mười ba, mười bốn tuổi đến chỉa súng khều chúng tôi đi theo để cho nó khám xét.
Lúc ra đi, mẹ tôi đưa cho tôi hai chỉ vàng để làm của hộ thân. Tôi đem theo để lỡ có bị bắt giữa đường thì đưa ra hối lộ để được đi tiếp. Còn các bạn tôi, ai cũng đem theo một hai chỉ để phòng hờ.
Khi còn ở Sisophon, chúng tôi đã dò hỏi tin tức nơi bà dẫn đường. Bà ta cho biết là đem vàng theo dọc đường vượt biên thì rất nguy hiểm. Vì thế, bà ta đề nghị chúng tôi đưa hết vàng cho bà ta giữ giùm, rồi khi đến trại tị nạn, bà ta sẽ hoàn trả lại cho chúng tôi xài sau.
Khi đến làng Pol Pot, chúng tôi thấy bọn lính xét kỹ quá nên không dám đòi số vàng từ bà kia. Nhưng trong bọn chúng tôi, có người lại tưởng là đến biên giới rồi nên mở miệng đòi vàng lại. Bà Miên không chịu trả và cho biết là ở đây chưa trả được, hãy cố đợi khi đến nơi đã. Lúc ấy, chúng tôi tất cả đều nghi rằng bà ta muốn đoạt số vàng của mình.
Ăn vừa xong thì bà Miên trả tiền cơm. Vừa lúc ấy, bọn lính Pol Pot bắt một nhóm ba bốn người để đi xét của. Nhóm có đủ đàn ông, đàn bà và con nít. Khi đi gần đến chỗ chúng tôi, các nhóm kia hỏi nhỏ và tỏ ra rất ngạc nhiên khi thấy chúng tôi được ưu đãi hơn bọn họ.
Trong khi bọn họ phải ngồi dưới đất thì chúng tôi được ngồi trên ghế, lại còn được ăn uống thỏa thuê. Một anh tị nạn tới nói nhỏ với tôi để xin cho anh ta ăn cơm. Tôi liền xin bà Miên cho họ ăn cơm. Bà ta bằng lòng cho các người ngồi gần đó ăn cơm và trả luôn tiền cơm cho bọn họ.
Sau đó vì thấy chúng tôi quá mỏi mệt, bà Miên nói với bọn lính Pol Pot để họ cho phép bà ta mướn xe đạp chở chúng tôi vô sâu trong sào huyệt của Pol Pot. Trong khi các người khác phải lội bộ đi vào trong đó thì chúng tôi được đi xe đạp. Xui cho tôi là người chở xe đạp rất dã man. Người ta thuê nó để nó chở tôi. Nay nó lại bắt tôi chở nó. Vì đã thức khuya và lo âu nhiều đêm nên tôi mệt đến muốn xỉu. Tôi đạp xe mà té liên tiếp. Thằng kia ngồi đàng sau vẫn tỉnh bơ.
Sau cùng, bà Miên thấy cảnh tình tôi quá tội nghiệp, bà ta liền kêu thằng xe kia qua đi xe của bà, còn bà ta thì đi xe của nó và chở tôi phiá sau. Đã tưởng yên thân, nào ngờ bọn lính Pol Pot trên đường đi thấy tôi ngồi phía sau, bọn chúng bắt buộc tôi phải chở bà ta chứ không cho bà ta chở tôi.
Đạp một đỗi thật xa thì chúng tôi đã vào sào huyệt của Pol Pot. Xuống xe là tôi mệt lả. Thằng lính nào thấy chúng tôi mới đến cũng xét thật kỹ. Quần áo mình đem theo, chúng lựa cái tốt lấy hết. Đôi dép râu còn tốt của tôi, chúng cũng đổi vì nghi là tôi dấu vàng trong dép. May cũng nhờ bà Miên có tiền mua chuộc bọn lính nên bà mới nhờ bọn chúng nấu cơm và mang cá khô ra cho chúng tôi ăn.
Đêm ấy, tôi trở bịnh tưởng chết rồi. Tôi chỉ ăn có một chút nhưng rồi nôn ói ra hết. Lúc ấy, tôi mới hối tiếc là đã ngu nên bị gạt để đến sào huyệt Pol Pot cho chúng giết hại mình. Cái tiếng xấu của bọn Pol Pot còn mãi từ hồi trước đến giờ.
Tôi bèn nói bà Miên xin bọn Pol Pot cho tôi thuốc để uống cầm bịnh. Lúc khoảng 11:00 giờ khuya, bọn Pol Pot lùa tất cả chúng tôi vào một cái lều để ngủ chung giữa cảnh rừng bao la. Sau đó tôi mới thấy thoải mái một chút.
Chỗ tôi ngủ đêm hôm ấy coi như là trạm đầu tiên. Sáng hôm sau, họ gởi chúng tôi đến trạm thứ hai. Nơi này được xem như một bản doanh nhỏ của lính Pol Pot. Trên đường di chuyển, tôi thấy các khu nhà của người Miên tị nạn ở rất sầm uất và đông vui.
Trở lại chuyện bà Miên dẫn đường: Khi tôi tới trại có thằng độc nhãn thì bà ta đã hết trách nhiệm vì bà ta đã giao chúng tôi cho Pol Pot. Trước khi chia tay, bà ta nói là bây giờ an toàn rồi, nên bà ta trao trả số vàng bà đã cất hộ cho tụi tôi để tụi tôi xài.
Tôi nghĩ nếu mình có lấy số vàng ấy lại thì cũng bị bọn Pol Pot cướp mất thôi, chi bằng nhờ bà ta đem số vàng ấy về giao trả lại cho gia đình tôi thì tốt hơn. Thế là tôi lên tiếng nhờ bà ấy đem hai chỉ vàng về trả cho má tôi. Các bạn tôi cũng nghĩ như thế. Cuối cùng, ai cũng nhờ bà Miên đưa vàng về lại cho người nhà của họ. Sau này, má tôi viết thư cho biết là bà Miên đã trả đủ cho má tôi số vàng ấy.
Tại trạm thứ hai này, chúng tôi thấy sợ hãi nhiều hơn. Bọn lính Pol Pot cho chúng tôi ngồi chờ trong cái chòi nhỏ từ sáng đến trưa. Trưa đến chúng đem ra cho chúng tôi một thùng cơm và vài nhúm muối. Nhìn thấy đàn ruồi bu cơm đen đặc nhưng vì đói quá nên chúng tôi bốc cơm ăn đại cho đỡ cơn đói.
Ăn xong, chúng tôi ra dấu xin nước uống, chúng bèn xách một thùng nước đục ngầu ra cho chúng tôi uống. Thế là mạnh ai nấy đều bưng cả thùng nước uống một cách ngon lành chứ chẳng ai có ly hay tô để múc nước cả.
Khoảng hai giờ chiều, sau khi ăn xong, tôi tò mò ngó nhìn quanh quất thì thấy ở phía xa có một chòi nhốt hai hay ba người tị nạn Việt Nam. Tôi nhìn qua phía khác cũng lại thấy một chòi nhốt hai ba người tị nạn khác. Đến chiều hôm ấy thì bọn Pol Pot giải một nhóm gồm chín người tới. Trong nhóm ấy chỉ có một người đàn bà, còn bao nhiêu là đàn ông và con trai. Người đàn bà ấy là chi Đ., chị là người mẹ đã lạc mất đứa con gái sáu tuổi trên đường vượt biên. Hiện nay chị Đ. ở Tulsa, Oklahoma,USA, còn con gái chị vẫn mất tích từ tháng 5,1980 đến nay.
Chiều hôm ấy, bọn Pol Pot tập trung mười bốn người tị nạn Việt lại và để cho ở chung trong một cái chòi lớn. Chúng tôi vì có đông người nên nói chuyện vui vẻ. Câu chuyện nổ như pháo rang.
Tôi được biết chị Đ. bị hãm hiếp rất nhiều lần. Thường thường thì bọn Pol Pot hãm hiếp chị tập thể, ngay trước mắt các bạn đồng hành ở hung một toán với chị ta. Nghe đâu chị Đ. bị bắt đã lâu rồi, nay mới được giải giao về trạm này để chúng làm thủ tục điều tra.
Suốt trong mấy ngày trời ở trạm này, đêm nào chị Đ. cũng bị bọn lính tới làm phiền và phá phách. Ngay đêm đầu tiên, chúng tôi xếp cho chị Đ. nằm ở giữa cái sàn, chung quanh là các cậu thanh niên nhỏ. Còn các người đàn ông lớn tuổi thì nằm chung quanh sân, nhưng nằm ở sàn đất vì cái sàn chỉ đủ chỗ cho bốn năm người ngủ mà thôi.
Ở sào huyệt này, đa số bọn ”lục thum” đều có vợ. Có một số lính cũng có vợ, nên chỉ có những thằng lính trẻ măng cỡ mười ba, mười bốn vô giáo dục, lại chưa biết gì về sinh lý thì chưa có vợ thôi. Vì thế, bọn chúng coi nạn nhân như thú vật. Chúng hành hạ và làm nạn nhân bất mãn và cảm thấy bị sỉ nhục, bị xúc phạm đến nhân cách. Chúng lại hay làm ẩu.
Vì thế, chúng tôi luôn căn dặn chị Đ. phải để đầu tóc rối bù, trét bùn vào mặt, ăn mặc xốc xếch để bọn chúng chán mà không ngó ngàng đến chị nữa thì may ra chị mới được yên thân.
Lúc đó, tuy không ai chỉ định người nào làm trưởng nhóm, nhưng tôi thấy mình có trách nhiệm. Vả lại, tôi cũng thấy mình có kinh nghiệm và sự hiểu biết chút ít nên tôi thường đứng ra chỉ dẫn, điều động và liên lạc.
Thoạt đầu, mới gặp chị Đ., tôi nhận thấy chị tơi tả, mệt nhọc, chân thì sưng phồng mọng nước nên đi không nổi mà phải lết bò, tôi đã biết chắc chắn là chị bị chúng làm nhục nhiều lần rồi. Vì thế tôi mới tìm cách sắp xếp chỗ ngủ cho chị ta.
Đã tưởng như vậy là yên, ai ngờ cỡ một, hai giờ đêm, bọn lính Pol Pot tới chòi tôi, rọi đèn pin để lùng kiếm chị Đ. Rồi đêm nào cũng vậy, bọn chúng kéo chị ta ra khỏi chòi để làm nhục chị.
Có một đêm,bọn chúng làm dữ. Thằng xếp chỉ huy bọn lính Pol Pot ở trạm đó chỉ còn có một mắt, chúng tôi thường gọi hắn là thằng Độc Nhãn. Thằng này rất hận thù Việt Cộng và quân đội của Việt Nam Cộng Hòa cũ. Đêm ấy, hắn kéo lính tới chòi của tôi để lôi kéo chị Đ. ra ngoài chòi, cách đó không xa để hãm hiếp chị.
Bọn chúng cởi quần áo chị Đ. ra để vọc chơi, đùa giỡn và phá phách như mèo vờn chuột. Tôi nằm trong chòi nghe tiếng chị Đ. khóc lóc, năn nỉ và van xin chúng tha mà tôi chịu không nổi. Đó mới chỉ là đồng bào mình chứ chẳng phải là người nhà. Nếu là người thân của mình chắc là mình phải can thiệp thôi.
Đêm ấy, chúng không hãm hiếp chị. Tôi đoán chắc là sau một thời gian cực khổ lâu dài, lại không có nước để tắm gội, lại bị làm nhục nhiều lần nên người chị ta dơ dáy và hôi hám. Vì thế bọn chúng không thèm. Khi chị Đ. được giải đến chung trong nhóm tôi, khi ngồi gần chị thí ai cũng đã ngửi toàn là mùi hôi thối rồi.
Ban ngày thì chúng tôi phải ăn bốc cơm với mắm bồ hóc. Hễ đêm đến thì sợ cho chị Đ.. Vì thế, tôi rất mong được đi sớm để đến trại tị nạn. Thường thì cứ đến chiều tối lại có một đám thanh niên người Miên đến chơi với chúng tôi.
Trong nhóm tôi có một anh biết tiếng Miên, nên chúng tôi cứ nhờ anh này dịch lại những vấn đề mà chúng tôi muốn khai thác từ những cậu thanh niên Miên ấy. Chẳng hạn như bao giờ được đi chỗ khác, rồi nếu rời trạm này thì chúng tôi sẽ còn phải đi đến những nơi nào khác nữa…
Tôi và anh Minh rất khổ sở vì cận thị phải đeo mắt kiếng. Chính vì thế, nên bị thằng Độc Nhãn điều tra kỹ hơn, vì hắn nghi những người cận thị là kẻ học cao và có chức vụ lớn hơn.
Khi mở cuộc điều tra, thằng Độc Nhãn hù chúng tôi rất nhiều. Hắn tự nhận là nhân viên của đơn vị quốc tế chứ không phải của Pol Pot. Hắn muốn chúng tôi phải khai lý lịch thật và nói hết sự thật về nguyên quán và nghề nghiệp. Hắn hù là hắn sẽ cho nhân viên của hắn ở Việt Nam tìm hiểu quá khứ của chúng tôi. Nếu khai gian sẽ bị trừng phạt nặng.
Đã chuẩn bị kỹ nên tôi sắp đặt sẵn trong đầu là khi bị thẩm vấn, tôi sẽ giả dạng là người Tàu vì tôi biết tiếng Tàu. Vì thế, khi bị hắn thẩm vấn, tôi không dám khai mình là sĩ quan của Việt Nam Cộng Hòa, mà khai là thương gia ở Sàigòn. Tôi kể rất nhiều về việc làm ăn và buôn bán cho hắn nghe. Rồi lần lượt, từng người một đều bị hắn điều tra và thẩm vấn kỹ lưỡng.
Vì bị hành hạ và khủng bố tinh thần nên có một số thanh niên tị nạn âm mưu cùng nhắm hướng Thái Lan mà trốn đi. Vô phúc, bọn Pol Pot biết được, chúng báo động rồi bao vây, bắt lại được trọn ổ. Chúng lôi các nạn nhân ra đánh cho một trận tơi bời. Hiện nay, một trong những thanh niên bị đánh gần chết đó là anh T., anh đang ở thành phố Huntington Beach, California.
Thằng Độc Nhãn làm việc trong ba ngày, ba đêm. Đến ngày thứ tư, hắn ra lịnh cho giải giao mười bốn người chúng tôi đến sào huyệt chính của Pol Pot. Đường đi rất xa, phải băng qua cả núi rừng vì sào huyệt của chúng ở gần biên giới Thái hơn.
Trên đường đi, tôi không thấy xác người chết nhưng các người đi tới trước tôi kể lại là họ đã thấy tận mắt những xác chết nằm ngổn ngang ở dọc đường. Đàn ông, đàn bà và con nít đều chết thảm khốc bởi những vết đạn. Người họ dính dầy máu khô.
Dọc đường, đa số chúng tôi mệt nên không đi nổi, nhất là chị Đ., tội nghiệp cho chị ta, chị không còn lết được. Bọn Pol Pot độc ác dã man vô cùng. Chúng ra lịnh cho chúng tôi bằng mọi giá phải đưa chị ta đi. Chúng không cho phép ai được ngồi nghỉ hay chờ đợi. Như để thị oai, chúng giơ súng bắn chỉ thiên lên trời rồi dọa bắn chết hết nhóm mười bốn người chúng tôi nếu không ai chịu cõng chị Đ. đi.
Vì sợ bị bắn chết nên tôi xung phong cõng chị Đ. đi trước. Đi độ một hay hai trăm thước, tôi mệt quá nên bỏ chị ta xuống và yêu cầu người khác cõng chị đi tiếp. Ai cũng phải cõng chị Đ. đi cả. Duy chỉ có một mình anh Minh là nhất định không chịu cõng chị ấy. Anh ta viện cớ là anh đã quá mệt, đi còn không nổi, làm sao mà cõng thêm người khác đi nữa. Chị Đ. thì đã quá sức chịu đựng. Chị không còn đi được nữa vì chân chị sưng phù lên, nước bọng đầy ở các vết sưng đó.
Theo lời kể của những người đến sau chúng tôi thì trong nhóm đó có một phụ nữ người Hoa Chợ Lớn mang theo một cô con gái và một cô cháu gái ở lứa tuổi mười bảy, mười tám. Tới đó, thằng Độc Nhãn đã hãm hiếp hai cô gái này nhiều lần. Rồi sau đấy, bọn Pol Pot thay nhau lục xét, vọc chơi và hành hạ hai cô. Cứ hàng đêm hai cô trở về chòi và khóc sướt mướt.
Khi chúng tôi được giải qua trạm sào huyệt chính của Pol Pot thì tôi gặp một anh thanh niên Việt Nam tị nạn đã ở đấy từ lâu. Chúng tôi cùng tấp vào ở chung với anh ta. Lúc này, bọn lính ở đây ra nhận chúng tôi rồi chúng chia lều cho chúng tôi ở. Sau đó, chúng dặn dò và hăm dọa chúng tôi không được đi ra khỏi vùng của chúng vì vùng này có gài mìn, nếu đi lang thang sẽ bị đạp mìn chết ngay.
Cũng nên nói thêm về sự dã man và tham lam của bọn ”lục thum” Pol Pot ở sào huyệt chính, gần biên giới Thái Lan. Ban ngày thì không sao nhưng đến đêm là bọn họ lôi chúng tôi đi tra xét để lột vàng và đồ qúy.
Khi đám chúng tôi yêu cầu bà Miên dẫn đường đem vàng của chúng tôi về trả lại cho thân nhân ở Việt Nnam thì bọn Pol Pot đều biết là chúng tôi không còn gì cả.
Nhưng có một nhóm người tị nạn đến sau nhóm năm người chúng tôi. Họ vốn là chủ xe vận tải chuyên đưa mối vượt biên và còn mang vàng bạc đi vượt biên luôn, như anh H. và anh S. tới thì bọn Pol Pot hoành hành dữ dội. Lúc vừa đến, vì là chỗ quen biết , các anh H. và S. dò hỏi thăm tôi về tình hình bọn Pol Pot xấu hay tốt. Tôi nói rằng có một ”lục thum” trẻ của Pol Pot ăn nói tử tế.
Sau đó, bọn anh H. và S. lôi vàng ra nhờ các cô gái Miên ra chợ mua giùm vài cái trứng vịt để về ăn với cơm. Từ hôm đó, đêm nào cả toán chúng tôi cũng bị lôi đi để lục xét vàng. Hễ cứ độ 12:00 giờ hay 1:00 giờ khuya là Pol Pot bắt từng người ra xét. Chúng lấy tay để thọc hậu môn mà kiếm vàng. Tôi may mắn ít bị xét hơn. Sau này, chúng tôi mới biết là có kẻ trong nhóm làm ”ăng ten”, báo cáo cho lính Pol Pot về những ai dấu vàng chưa đưa hết cho chúng.
Chúng tra xét những người mới tới mà còn dấu vàng. Chúng còn hăm dọa đòi bắn chết nếu không nộp hết vàng cho chúng. Những người tị nạn mới tới ấy cũng rất khôn. Họ lén chôn vàng ở gốc cây nhưng ngày nào cũng bị tra xét dữ dội nên cuối cùng, họ đành giao hết số vàng cho bọn lính Pol Pot.
Trường hợp anh Minh dấu vàng trong hàm răng gỉa, vậy mà bọn Pol Pot cũng tìm ra và cướp mất. Điều này chứng tỏ là có bọn ”ăng ten” ngay trong nội bộ của dân tị nạn. Trong nhóm mười bốn người chúng tôi thì có chín người không có vàng và năm người còn dấu được vàng. Vì thế, năm người này bị Pol Pot chiếu cố kỹ lưỡng.
Cứ đến khuya là bọn chúng đến chòi, rọi đèn pin vô mặt từng nạn nhân rồi lôi kéo họ đi đến chỗ khác, bắt cởi quần áo để mò và xét. Có khi chúng trói thúc ké nạn nhân và tra hỏi cho kỳ được. Chúng quần thảo nạn nhân quá sức đến độ nạn nhân chịu hết nổi mà lòi vàng ra.
2/ Lao động khổ sai tại trại tù của lực lượng Pol Pot.
Từ đó, cứ mỗi ngày bọn lính Pol Pot đều phân công cho nhóm dân tị nạn chúng tôi làm công tác lao động khổ sai như vác củi, đào hầm hố, giao thông hào, hầm chiến lược và đi tải gạo.
Chúng tôi sợ nhất là công tác tải gạo. Từ sào huyệt của Pol Pot đến nơi để lấy gạo về thì rất xa, tôi không thể biết là bao cây số, nhưng chúng tôi phải đi cả nửa ngày mới tới nơi. Đó là nơi hội HTTQT phát gạo cho dân Miên. Nơi này có rất nhiều trại tị nạn của người Miên. Gạo được phát rất nhiều, nhiều đến nỗi phải chất từng trăm bao gạo ở ngoài ruộng rồi họ lấy vải lều để đậy lên. Trông những bao gạo nhiều đến phát mê luôn.
Chúng tôi phải lội bộ mà vác gạo về. Không có bao để đựng. Vì có kinh nghiệm ở tù Cộng Sản Việt Nam nên tôi chỉ cách cho các bạn cởi quần dài ra, túm hai ống quần lại rồi bỏ gạo vô đó để vác về trạm.
Thật tội nghiệp cho các cậu thanh niên mới lớn lên. Bọn họ đi không nổi vì mệt và phải vác nặng. Họ té lên té xuống. Mỗi lần họ bị té là bọn Pol Pot cầm roi đánh túi bụi, trông họ y như một con thú vật bị chủ hành hạ.
Vác gạo bằng cách cột ống quần thì không đem về được nhiều gạo. Nhưng chúng tôi vẫn phải bị bắt buộc làm như thế. Chúng không cấp cho xe bò để chở dễ dàng hơn. Hình như chúng chỉ muốn hành hạ dân tị nạn Việt Nam cho bỏ ghét.
Lại nữa, chúng tôi rất sợ bị Việt Cộng tấn công vào khu này. Nếu họ tới thì chúng tôi không có chỗ chạy, nếu chạy lạng quạng lại bị đạp mìn. Đêm đêm chúng tôi đều nghe tiếng súng nổ rất gần. Súng nổ thật lớn, mỗi lần nghe tiếng súng nổ là chúng tôi lo thu dọn hành trang để kiếm hướng Thái Lan mà chạy trốn.
Có một lần, trong lúc làm công tác tải gạo, tôi làm quen với một người làm việc cho xe vận tải chở gạo từ Thái Lan qua. Tôi hỏi anh ta là từ đó đến Thái có xa không. Anh ta cho biết là gần lắm. Thế là tôi mang ý định trốn khỏi vòng kềm kẹp của Pol Pot.
Công tác tải gạo làm chúng tôi ớn quá, lại thêm ở trong vùng giao tranh nguy hiểm quá. Mỗi ngày thấy máy bay đi qua lại trên đầu, chúng tôi đoán là máy bay của Thái, mà Thái lại ở gần đây, hay là trốn qua Thái? Nhưng phải đi đường nào để cho trót lọt mới được.
3/ Nạn bị khủng bố tinh thần.
Tại sào huyệt này, có một tên lục thum của Pol Pot rất tử tế. Ông ta thường dỗ dành chúng tôi:
”Thôi, đừng có lo, nếu cần gì thì để tôi giúp cho!”
Trong khu ấy, có một người Miên biết tiếng Việt rất rành nên ông ta thường đến để điều tra chúng tôi. Cũng giống như ở trạm thứ hai, ông ta hỏi xem mỗi người chúng tôi làm gì, ở đâu, tên tuổi, nguyên quán, nghề nghiệp, lý lịch, thuộc thành phần nào, là quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa, cán binh Việt Cộng hay dân sự. Ông ta dụ dỗ đủ thứ và xen lẫn đe dọa nữa.
Nào là nếu ở trong ba thành phần vừa kể thì phải nói cho ra mình thuộc thành phần nào. Nếu là quân nhân VNCH thì rất hên vì họ sẽ cho qua trại tị nạn liền, qua bên đó lại còn được lương hướng nữa. Còn nếu là cán binh Việt Cộng thì cũng nên nói sự thật, sau đó cũng sẽ cho qua trại tị nạn. Còn nếu là dân sự thì sẽ bị ở đây lâu lắm, chậm được qua trại tị nạn nhất.
Khi nghe hắn nói vậy, tôi suy nghĩ nhiều. Phải đấu trí với chính mình:
”Có thể hắn dụ mình đây chăng? Hễ mình nói mình là sĩ quan VNCH chắc hắn sẽ giết mình. Có nên nói thật hay dấu tông tích? Tụi nó có nguy hiểm không? Đã có bao nhiêu người bị giết hại vì khai thật tông tích?”
Vì thế, tôi không dám đi để cho bọn Pol Pot điều tra trước mà đợi các cậu thanh niên đi trước về báo cáo xem tình hình điều tra ra sao đã. Bọn chúng điều tra một ngày chỉ có vài ba người. Ai chuẩn bị tốt thì lên làm việc sớm. Ai chưa sẵn sàng thì lên làm việc sau.
Ở toán tôi, có anh Minh có tài coi bói. Vì thế Minh thường dùng tài coi bói của mình để vừa coi bói, vừa coi cho bọn lính Miên, vừa dò hỏi xem tình hình xem ở đó có nguy hiểm hay không. Qua nhiều lần dọ hỏi khéo léo, chúng tôi được biết là toán chúng tôi là toán thứ bao nhiêu rồi không rõ, rằng đã có rất nhiều toán trước đó đã đi được qua trại tị nạn rồi.
Biết được vậy, chúng tôi rất mừng vì còn có hy vọng đến được trại tị nạn. Điều tra, khai thác tin tức từ bọn lính Miên, chúng tôi biết thêm là nếu mình khai là quân nhân VNCH thì không có gì nguy hiểm cả. Thế là tôi quyết định khai thật mình là đại úy của chế độ cũ. Tôi còn hô hào anh em bạn khai thật họ là quân nhân luôn vì đa số là quân nhân.
Trong nhóm tôi có một anh là cán binh Việt Cộng bị Pol Pot bắt. Dĩ nhiên anh này không thể nào chối cãi được tông tích của mình vì ai cũng biết anh ta là bộ đội Việt Cộng.
Khi vào điều tra, bọn Pol Pot sắp loại chúng tôi ra ba chỗ. Quân đội VNCH ở một bên. Cán binh Việt Cộng ở một bên. Còn dân sự ở một bên. Khi tôi bị thẩm vấn thì hắn hỏi tôi cấp bậc gì, làm việc ở đâu, ở vùng nào nơi Sàigòn, trước năm 1975 thì tôi làm gì và ở đâu, sau năm 1975 thì tôi làm gì và ở đâu.
Sau khi hỏi xong, hắn còn bắt tôi phải viết một tờ trình về tiểu sử cá nhân, cấp bậc, lý do tại sao mà vượt biên, rồi phải dùng lời lẽ đả phá Cộng Sản. Thế là tôi về chòi để ”vẽ” ra đủ thứ. Tôi sợ khai tên tuổi thật sẽ bị nguy hiểm nên tôi khai tên giả. Vừa viết, tôi vừa lo sợ họ sẽ dùng tờ trình của chính tôi để làm bằng chứng mà xử tử tôi vì tôi biết Pol Pot chẳng ưa gì quân đội VNCH.
Viết xong tôi đem nộp cho ông Miên biết tiếng Việt đó. Hắn nói là để hắn về nghiên cứu đã. Qua ngày sau, hắn bảo là tôi viết tốt. Xong hắn bảo tôi chiều hôm đó phải đọc tờ trình vào cuộn băng. Tôi hết hồn nên hỏi hắn:
”Đọc vào đó để làm gì vậy?”
Hắn đáp:
”Để làm tài liệu.”
Tôi run quá, nên lo sợ đủ thứ. Trong khi ấy, anh cán binh Cộng Sản cũng phải viết tờ trình và nói để thâu thanh vào băng nhựa. Tôi được cử làm đại diện cho nhóm quân nhân để đọc quyết nghị chung. Đại khái đọc tên và cấp bậc của từng người quân nhân, chửi phe Lê Duẩn (Việt Cộng). Đến lượt anh cán binh Cộng Sản cũng phải đọc lời quy thuận phe Pol Pot. Cuối cùng, nhóm dân sự cũng đọc một kiến nghị của nhóm họ.
Xong đâu đấy, tôi thừa dịp dò hỏi luôn:
-Chừng nào các anh giải chúng tôi qua trại tị nạn?
-Phải đợi ”Mấy thằng Tây”qua lãnh mới cho đi được!
Bọn họ gọi nhân viên hội HTTQT là ”Mấy thằng Tây”. Về chòi, tôi nhờ Minh nếu có dịp coi bói thì hỏi thăm bọn lính Pol Pot Miên xem có bọn ” Mấy thằng Tây” tới đây không?
Bọn họ trả lời là ”Mấy thằng Tây” cũng hay qua đây lắm.
Sau đó, bất chợt có một viên sĩ quan người Thái Lan lái xe Jeep đến trại đó chơi. Ông này trước có chiến đấu ở Việt Nam. Ông đã đóng quân ở Vũng Tàu, và biết được tiếng Việt Nam. Ông ta có vẻ vui tính, ca hát luôn miệng. Trong đó có câu hát nhái theo một bài nhạc của người Việt:
”Cô Mười, cô Chín, hai cô anh thích cô nào?”
Thấy vậy, tôi cảm thấy vững tâm hơn vì biết rằng ở đây gần Thái Lan thật, nên không đáng sợ nữa.
4/ Được hội HTTQT cứu vớt:
Vài ngày sau, một người Âu Châu tìm đến. Ông ta đậu xe ở ngoài xa, còn tên ”lục thum” chở ông ta vào trạm này bằng xe gắn máy Honda. Thấy bóng dáng một người Âu Tây thì lòng chúng tôi mừng khôn xiết vì đoán chắc là sẽ được ông ta dẫn đi qua trại tị nạn.
Bấy giờ, ”lục thum” Pol Pot và Ông Âu Tây kia lên phòng làm việc. ”Lục thum” sai một đệ tử xuống chòi kêu chúng tôi cử một người đại diện lên. Mọi người bèn đề nghị cử tôi lên nói chuyện với họ. Tôi viện cớ không biết tiếng Miên để kéo theo một anh bạn nói rất rành tiếng Miên và Việt.
Khi gặp ông Âu Tây kia mà cho đến nay tôi chưa được biết tên, thì ”lục thum” Pol Pot giới thiệu với tôi rằng ông Tây đó là người đại diện cho hội HTTQT, còn tôi là người đại diện cho người tị nạn.
Tôi bập bẹ vài câu tiếng Pháp để trao đổi câu chuyện. Qua đó, tôi biết là ”lục thum” muốn tôi phải nói cho nhân viên Hội HTTQT biết là ”lục thum” Pol Pot đối xử tốt với dân tị nạn Việt.
Tuy vậy, tôi vẫn tỉnh bơ để làm theo ý mình. Khổ nỗi vốn liếng tiếng Pháp của tôi rất ít vì tôi đã quên hết cả rồi. Vì thế, tôi hỏi nhân viên hội HTTQT có biết tiếng Anh không. Khi ông này bảo là biết tiếng Anh thì tôi bèn dùng Anh ngữ để kể lể cảnh cực khổ của dân tị nạn.
Tôi kể là chúng tôi đã phải ở tại đây gần một tháng rồi. Bữa ăn không có đồ ăn mà chỉ có cơm gạo mà thôi. Vì không có chỗ để ngủ nên chúng tôi phải vào rừng cắt lá và cưa cây để cất cái chòi mà ở. Tối đến, phải trải lá lót nằm mà cũng không đủ chỗ để ngủ.
Vào những đêm mưa thì nước chảy lênh láng, không thể nằm được nên chúng tôi phải đứng suốt đêm, người nào cũng ướt như chuột lột và lạnh run lên. Chúng tôi phải gom củi và đốt thành lửa để sưởi ấm và đánh tan cái lạnh. Mùa đó là mùa mưa nên mưa dai dẳng.
Đa số dân tị nạn vì khổ sở nên bịnh cả. Còn tôi may nhờ có sức khỏe nên chưa gục ngã. Rồi sau đó, tôi năn nỉ ông ta cứu vớt lấy chúng tôi, còn nếu để lâu chắc chúng tôi chết hết vì sự đọa đầy tâm hồn và điều kiện sinh sống quá cơ cực.
Nãy giờ thấy tôi vừa nói vừa ra dấu, cho nên dù không hiểu tiếng Anh, ”lục thum” Pol Pot cũng đoán được phần nào nội dung câu chuyện. Vì thế, anh ta xỉ ngay vào mặt tôi và gằn giọng bằng tiếng Việt:
-Đồng chí nãy giờ nói xấu tụi tui, tui cho đồng chí ở đây luôn!
Tôi nghe vậy nên sợ điếng hồn, bèn lật đật nói:
-Không! Không! nãy giờ tui đâu có nói xấu gì đồng chí đâu? Tôi nói tốt lắm, không tin đồng chí hỏi ông này đi!
Thấy tôi phản ứng lẹ quá nên đồng chí ”lục thum” có vẻ tin. Tuy vậy, hắn cũng không cho chúng tôi đi vì nhóm chúng tôi chỉ mới có mười bốn người nên chưa đủ số. Hình như hắn muốn đợi cho có đủ năm mươi người thì hắn mới giao cho Hội HTTQT.
Người nhân viên của hội HTTQT bèn nói với hắn:
-Mỗi lần qua đây đón người tị nạn thì tôi phải thuê xe cộ. Nay ông không cho họ đi, tôi cũng vẫn phải trả tiền phí tổn xe. Như vậy có lẽ còn lâu lắm, tôi mới qua được nữa.
Tôi nghe vậy nên mừng lắm, bèn tiếp tục năn nỉ ông ta làm cách nào thuyết phục ”lục thum” Pol Pot để hắn cho chúng tôi đi, bằng không thì ở đây quá sức nguy hiểm, chắc rồi chúng tôi cũng sẽ chết.
Vị nhân viên hội HTTQT bèn trở vào năn nỉ và thuyết phục tay ”lục thum” kia.”Lục thum” suy nghĩ hồi lâu rồi quyết định cho dân tị nạn đi. Nghe được điều ấy, tôi mừng không thể tả được.”Lục thum” ra lệnh cho tôi về chòi báo cho toán của tôi thu xếp hành lý để lên đường theo chân người nhân viên hội HTTQT.
Tôi vừa về đến chòi thì thấy một đám dân tị nạn Việt mới tới nữa. Đám người này phải ở lại đó đến một tháng sau mới được thả cho đến trại tị nạn. Tôi kêu các người trong đám đó lên năn nỉ xin ”lục thum” Pol Pot cho đi chung với nhóm của tôi.
“Lục thum” nói rằng vì chưa điều tra lấy lời khai của người mới tới nên hắn không cho họ đi chung với nhóm chúng tôi được. Vì qúa sức mừng vui nên chúng tôi vứt lại đồ đạc cho nhóm tị nạn vừa tới. Thế rồi, chúng tôi đi bộ thật lẹ ra chỗ giao thông hào chống chiến xa của quân đội Thái.
Tại đây, có một chiếc xe hơi hiệu Toyota gắn cờ của hội HTTQT đã chờ sẵn. Nhưng lính Thái yêu cầu tôi lập danh sách cho mười bốn người. Xong xuôi, bảy người được leo lên chiếc xe Toyota loại Wagon, có máy lạnh để đi đến trại tị nạn.
Qua đến bên kia thì có một xe cam nhông đợi sẵn. Sau đó, xe Toyota lại quay trở lại chở bảy người còn lại, trong đó có tôi. Sau 5 năm tù khổ sai dưới ách Cộng Sản, lại thêm sau một tháng trời cực khổ dưới ách của lính Pol Pot, nay được ngồi xe hơi, tôi tưởng mình đang lên thiên đường.
Kết luận.
Khi được hội HTTQT đưa nhóm chúng tôi đến trại tị nạn NW 9, tôi bỡ ngỡ vô cùng. Thoạt đầu khi thấy người tị nạn mặc toàn sà rông, tôi lại ngỡ họ là dân Thái Lan. Lúc nhìn thấy nhà cửa, lều chõng lụp xụp thì tôi nản lòng làm sao ấy.
Ngày tôi đến NW 9 là ngày 15 tháng 6, năm 1980. Dịp đó đúng là ngày ban văn nghệ trại NW 9 tổ chức mừng ngày quân lực 19, tháng 6, năm 1980. Tôi còn nhớ, ban đại diện mời họp để tổ chức mừng ngày quân lực.
Khi vào trại NW 9, tôi được cử làm trưởng đội của nhóm hai mươi người cùng nhập trại NW 9 một ngày. Khi ấy, không còn nhà trống nên chúng tôi được đưa vào ở tạm trong khu nhà hớt tóc. Thế rồi đội của tôi phải chia làm hai nhóm ở hai bên trong khu nhà đó.
Về tiêu chuẩn ăn uống thì không có đồ ăn gì cả, còn nước thì cứ một đầu người có bốn lít nước cho một ngày. Khoảng chín ngày sau, tức là ngày hai 24, tháng 6, năm 1980 thì chúng tôi cùng chạy giặc với bà con trại NW 9.
Sau đó, tôi rất được may mắn ở trong danh sách của những người có ưu tiên một vì được vợ chồng, cha mẹ và con cái bảo lãnh. Vì thế, tôi chỉ ở trại NW 9 có vỏn vẹn một tháng rưỡi rồi được qua trại Panatnikhom Holding Center, rồi qua trại Rangsit Transit Center để đi Mỹ. Tôi tới Mỹ quốc khoảng ngày 8, tháng 10, năm 1980.”
Trương Võ
http://viteuu.blogspot.ca/2013/05/hoi-ky-vuot-bien-uong-bo-ky-5.html
HỒI KÝ VƯỢT BIÊN ĐƯỜNG BỘ - KỲ 5
1 2 3 4 5 6 7 8 9
"Tôi lúc ấy đã sợ quá nên cuống quít gật đầu lia lịa, chẳng biết Lục thum là nghĩa gì mà cũng gật đầu. Thế là tôi bị bọn chúng đánh gần chết. Hai thằng thay nhau dùng báng súng đánh rồi đá và đạp tôi. Mình mẩy tôi đau đớn ê ẩm, máu me chảy đầm đìa, ướt đẫm cả áo quần. Sau đó, bọn chúng bắt tôi cởi hết quần áo để chúng lục xét. Lúc ấy, tôi chỉ còn mặc có cái quần xà lỏn mà thôi."
Ông Nguyễn Văn Thuỵ Viễn, sinh năm 1951, cựu giáo sư cấp 3, môn Toán tại trường Lê Bảo Tịnh, Sàigòn. Ông Viễn đã vượt biên vào tháng 2, năm 1980. Tới Mỹ năm 1981. Hiện ông là kỹ sư công chánh, cư ngụ tại Whittier, California. Ông đã dành thì giờ cho Kim Hà phỏng vấn vào 12, năm 1984.
Trong quyết tâm đi tìm tự do, ông Viễn đã đi vượt viên bằng đường thủy đến bảy lần nhưng đều bị thất bại. Lần đi vượt biên bằng đường bộ, ông đã thoát chết và sống qua rất nhiều trại tị nạn như Non Chan, Non Makmun, Khoa Y Dang, biên giới Thái và Cambodia. Các trại Sikiew, Panatnikhom Transit Center tại Thái Lan và trại Bataan, thuộc Phi Luật Tân.Khi đến Mỹ, ông Viễn đã định cư tại Detroit,Michigan; rồi đến Missouri; Longview, Washington State trước khi dừng bước tại thủ phủ của người Việt tị nạn, Orange County.
Ông Viễn là em rể của Kim Hà, chồng của Nguyễn Phạm Kiều-Chi. Chi là người em gái của Kim Hà, cô đã ở lại chịu trăm cay ngàn đắng để việc ra đi của Viễn và gia đình Kim Hà được trót lọt. Sau cùng, cô cũng đã đoàn tụ cùng gia đình tại Mỹ và kết hôn với Viễn vào tháng 9, năm 1982.
Thư Viết Của Viễn Từ Khao Y Dang.
Khao Y Dang ngày 30, tháng 10, năm 1980.
Chị Hà mến,
Nhận được thư chị viết cho tôi đề ngày 18 tháng 10, 1980, tôi rất mừng cho gia đình của chị. Chúa đã giúp cho gia đình chị cách riêng. Gia đình chị là một trong số rất ít người đầu tiên đi đường bộ mà nay đã đến được nước thứ ba.
Còn biết bao nhiêu người còn ở trong các trại Sikiew, Khao Y Dang và NW 9 nữa hả chị? Đó là chưa kể đến chuyện gia đình chị với một số người đông như vậy mà đi thoát được để đến trại NW 9. Chắc chị cũng như tôi đều đồng ý có Chúa giúp chúng ta. Mong rằng gia đình chị khi đến được nước Mỹ, hãy sống đạo cho thật nghiêm chỉnh, đừng làm gì lỗi đạo luật của Chúa và của Trời vì đời sau mới đáng kể.
Mong anh chị hãy hy sinh và sống đúng với những giáo điều của Chúa. Làm gương và hướng dẫn những đứa con sau này trở nên những tông đồ trong Chúa. Đừng để những cám dỗ của vật chất văn minh, những yếu đuối của thế gian tầm thường chi phối.
Riêng tôi, trong đời sống ở đây. Từ khi Chúa ban liên tiếp những phép lành cho tôi trên đường vượt biên tới đây, không tối nào là tôi không đọc năm mươi kinh để cảm tạ Chúa, để cầu nguyện cho những người còn lại ở Việt nam. Tôi đã dứt khoát ở hiện tại cũng như trong tương lai, tôi phải là một tông đồ ngoan trong tiếng gọi của Chúa.
Và tôi cũng nói một điều này, tùy chị tin hay không là thời gian gia đình chị còn ở tại trại NW 9, ở ngay biên giới Thái-Miên, không đêm nào là tôi không đọc kinh và cầu nguyện cho gia đình chị ba kinh, mong Chúa giúp cho gia đình chị đi thoát qua cảnh cơ cực lúc ấy, cùng mau chóng được định cư.
Chị Hà mến,
Đọc thư chị viết về thái độ của người ngoại quốc khinh bỉ đám dân tị nạn cơ cực Đông Dương ở trên máy bay, tôi buồn lắm. Mặc dầu tôi biết đó chỉ là một sự thật trong những sự thật tương tự đã xảy ra và đang tiếp diễn.
Biết làm sao hả chị, khi mà chúng ta đã đánh mất quê hương. Rồi đây, tôi, chị và còn rất nhiều người khác nữa sẽ còn phải chịu đựng hơn nữa và hơn nữa.
Cũng như hiện tại, tôi đã phải nhìn, phải chịu đựng biết bao cảnh trái tai gai mắt: từ những cảnh tụi Pol Pot hãm hiếp tập thể các phụ nữ Việt Nam đi vượt biên đường bộ mà chúng nó bắt đuợc. Tôi không bao giờ có thể quên được những tiếng la thét đêm ấy, tại trại Non Samet (007), khi mà tụi nó hãm hiếp một thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, ngay cách đầu chúng tôi độ ba thước. Khoảng mười thằng. Khi xong, chúng còn tống một cái đèn pin vào cửa mình của cô ấy. Tiếng la hét đau đớn ấy, hiện nay nó còn ám ảnh tôi không nguôi.
Rồi đến đời sống tại trại Khao Y Dang ở những ngày tháng đầu tiên, chỉ một lon sữa hoặc nửa ký đường, là một cô gái đàng hoàng sẵn sàng hiến thân ngay. Ngay tổ tôi ở, đã có ba, bốn cô làm như vậy.
Tôi thật ghê tởm công việc làm đó và xót thương cho họ. Đó là chưa kể những cặp vợ chồng vá víu. Chồng chưa xa gia đình dược bao lâu đã quên vợ và ngược lại. Thật tội lỗi không thể tưởng tượng được. Nhiều lúc nhìn những cảnh đó, tôi chán nản cùng cực.
Người Viêt mình như thế, bảo sao người ngoại quốc không khinh sao được? Mặc dầu tôi không dám nói tất cả những người tị nạn đều như vậy cả.
Chị Hà mến,
Hôm nay, tự nhiên tôi muốn tâm sự với chị, biết đâu đây chả là dịp cho chị ôn lại những kỷ niệm tại trại tị nạn mà gia đình chị đã trải qua.
Sống trong trại tị nạn, lúc đầu nhiều khi tôi bị khủng hoảng tưởng muốn điên lên được. Hàng ngày chứng kiến những cảnh trái tai gai mắt đó, cộng với những thiếu thốn tối cần thiết. Đến lúc này nghĩ lại vẫn còn rùng mình.
Khi mà hơn một tháng không đánh răng, ba tháng không có kem đánh răng để đánh. Khi mà suốt ngày chỉ mặc độc nhất một cái quần bộ đội. Tối thì nằm đất mà không có mùng. Khi mà hai ngày đi tắm với một thùng bốn lít nước. Tôi thèm chất ngọt, thuốc lá và đồ gia vị kinh khủng.
Cộng thêm vào đó, tình hình an ninh quá bi đát. Lúc đầu và cho đến giờ này vẫn tiếp diễn: Tụi lính Thái Lan cứ hứng chí lên là tìm cớ vào trại, bắt người này người nọ, mà đa số là thiếu nữ để đi hiếp dâm. Không ai dám hé môi khi mà sinh mạng mình không có cơ chế nào để bảo vệ.
Rồi tụi Pol Pot giả dạng dân, đêm đêm vào trại để cướp của và hiếp dâm. Có đêm báo động đến năm bảy lần. Đạn bắn trúng dân lành. Đến nay ở trại tôi ở là trại Khao Y Dang, số người lạc đạn đã năm người. Rồi lại tin đồn này nọ: trả về biên giới, bộ đội Việt cộng tấn công sang, nay mai được chuyển trại, lâu lâu lại được lá thư buồn của gia đình gửi sang. Trời ơi, tất cả những thứ đó, trong hoàn cảnh xa gia đình, nhớ nhà, nhớ người thân, tủi với những người chung quanh khi họ có tiền.
Thiếu thốn quá nhiều với những đồ cấp phát của HCR để ăn hàng ngày, tôi nhiều lúc muốn đập phá tất cả. Càng sống lâu trong trại tị nạn bao nhiêu, tôi lại càng thương mẹ của tôi quá. Có những cái thật nhỏ, lúc ở Việt nam tôi không để ý. Vậy mà khi đến đây, những cái tôi cho là nhỏ thì nó lại trở thành tối cần thiết, chị ạ.
Tôi đã tâm sự về vấn đề này với chị hơi nhiều. Nói vấn đề này để chị thấy tại sao tôi phải cầu nguyện cho gia đình chị hàng đêm. Thời điểm ấy, tôi rất lo và thương cho chị cùng các cháu lắm. Gần ngày sinh, con đông và quá nhỏ, sống làm sao đây?
Chị biết không? thời điểm ấy, tôi phải xung phong đi vác than cho ban tiếp liệu để mong xin họ thùng giấy rách và bao ni lông gói thịt về để đựng nó, gói bao gửi qua NW 9 cho chị. Và cô Huyền Chi, học trò của tôi, lúc đó đã có một hành động tuyệt vời với tôi là cho tôi mượn năm trăm baht, tức là hai mươi lăm đô la.
Nghĩ lại lúc ấy khổ quá, đi cầu không có giấy, tôi phải lấy lá để chùi. Viết những giòng chữ này, tôi chỉ muốn nói lên, để chị và tôi, chúng ta cùng ôn lại, cùng thương yêu và cùng đùm bọc nhau ở tương lai. Cùng cảm ơn Chúa đã thương yêu chúng ta, đưa chúng ta đến đây và đã ban cho chúng tôi đủ nghị lực thoát qua những cảnh khổ đó. Điều đáng nói nhất là chúng ta đã không làm gì cho Chúa buồn trong thời gian vừa qua.
Cầu xin ơn trên ban mọi ơn lành đến gia đình anh chị.
Thân Mến,
Nguyễn văn Thụy Viễn
Cuộc Hành Trình Từ Việt Nam Đến Thái Lan
“Liên tiếp thất bại bảy lần bằng đi vượt biên đường thủy, nên tôi chọn đi bằng đường bộ. Như sóng cồn, phong trào đường bộ lúc ấy đang thịnh hành, nhiều người bàn tán, đi qua lại buôn bán; lại thêm nhiều công nhân viên nhà nước qua lại làm việc ở Cambodia. Vì thế, tôi nghĩ việc xâm nhập biên giới cũng đỡ phần nguy hiểm. Tôi bèn đánh bạo để thử thời vận, may ra có thể thành công.
Tôi không nhớ đã ra đi ngày nào theo Tây lịch, có lẽ 27 tháng 2, năm 1980, nhưng nhớ rõ lúc ấy là ngày mùng tám Tết, năm Canh Thân (1980). Sau khi đã tìm hiểu đường dây vượt biên, chúng tôi, Nhật và tôi, cùng với người dẫn đường dự định từ Sàigòn sẽ ra bến xe Lục tỉnh đi thẳng xuống tỉnh Châu Đốc.
Tuy nhiên, vì sự di chuyển khó khăn và vì sợ lộ, chúng tôi phải đi hai chặng xe. Từ Sàigòn đến Cần Thơ ở lại một đêm rồi hôm sau mới từ Cần Thơ đi Châu Đốc. Số người đi gồm anh Nhật là học trò của tôi, tôi và người dẫn đường.
Khi tới Châu Đốc, người dẫn đường tên Dũng đưa chúng tôi tới nhà người quen để ngủ đỡ rồi chờ đến đêm sẽ qua biên giới để đến tỉnh Tà Keo của địa giới Cambodia. Khoảng 3:00 giờ đêm, tên Dũng đưa hai chúng tôi vượt sông và đi bộ khoảng hai dặm dưới bóng đêm. Chúng tôi lầm lũi băng qua các cánh đồng để tìm đến tỉnh Tà Keo.
Tới nơi, chúng tôi phải nằm ở nhà người quen của tên Dũng hai ngày để hắn có thể móc nối xe đò đi Nam Vang. Trước khi lên xe đò, chúng tôi phải ăn mặc giả làm dân buôn: áo sơ mi rằn, quần đen, khăn choàng cà ma, một loại khăn thông dụng của người dân Miên.
Từ Tà Keo đi xe đến Nam Vang mất khoảng hai hay ba tiếng đồng hồ. Khi đến Nam Vang, anh chàng Dũng đòi chúng tôi đưa thêm tiền. Như đã quy định, mỗi đầu người chúng tôi sẽ trả bốn cây vàng. Từ Sàigòn đến Nam Vang, mỗi người sẽ giao một cây vàng cho người dẫn đường. Từ Nam Vang đến Sisophon, sẽ giao thêm một cây nữa.
Khi chúng tôi thành công, chúng tôi sẽ giao tín hiệu về Sàigòn thì lúc ấy, người nhà chúng tôi sẽ giao thêm hai cây cuối cùng. Như vậy mới chắc ăn. Thế mà nay hắn đã đòi chúng tôi giao hết. Vì thế, chúng tôi nhất định không chịu giao.
Trên đường đi từ Châu Đốc đến Nam Vang, tôi quan sát thấy Dũng không rành đường đi từ Nam Vang đến biên giới; vì thế chúng tôi sợ nên không giao hết. Thế là hắn bỏ rơi chúng tôi ngay tại chỗ và trốn đi.
Lúc ấy tâm trạng chúng tôi rất hoang mang: Nếu về thì không biết đường về, mà nếu đi lại không biết lối đi. Cũng may, lúc ấy ở Nam Vang có rất đông công nhân viên và dân buôn người Việt. Họ xài tiền Việt nam luôn, chỉ có nơi hẻo lánh mới dùng vàng để trao đổi và buôn bán.
Chúng tôi bèn đánh bạo ở lại đó hai ngày để đi vòng quanh, tìm hiểu và móc nối đường dây để mà đi tiếp. Nếu không móc nối được thì sẽ đi về lại Sàigòn, còn nếu tìm được đường khác thì sẽ đi tiếp.
Sau hai ngày, tôi có một nhận xét là có một số người dù đã cải trang vẫn có thể biết là họ đi vượt biên. Chỉ cần nhìn đôi mắt và dáng điệu lấm lét là biết ngay. Vì thế tôi đã đi theo họ để kiếm lối đi tiếp. Tôi để ý là hễ ăn xong thì cả bọn đều ra bờ sông Nam Vang, kế một cái chợ lớn và kế một bến xe vận tải để ngủ. Thế là hai chúng tôi cũng đi theo ngủ ké theo họ ở ngay các vỉa hè.
Sáng hôm sau, khoảng 3:00 giờ sáng, họ ơi ới gọi nhau cùng lên xe. Chúng tôi thấy họ leo lên xe thì cũng leo lên xe ngồi. Các tài xế và lơ xe của đoàn xe vận tải thì đã có sự toa rập với người vượt biên để đưa họ đi trốn và lấy tiền thù lao.
Khi xe đi từ Nam Vang ra ngoại ô độ mười cây số thì ngừng lại đến hai ngày và không đi tiếp nữa. Tôi đoán có lẽ đoạn đường phía trước đang có giao tranh nên họ sợ nguy hiểm. Lúc này mọi người đều đi xuống ăn uống và nghỉ ngơi.
Trong lúc đó, tôi bèn đi vòng các làng ven đường để quan sát sự sinh hoạt của người dân Cambodia. Họ bị lệ thuộc rất nhiều ở chính quyền Việt Nam. Người bộ đội Việt Nam rất có uy quyền, giống y như sự đô hộ của quân đội Pháp đối với nước Việt Nam ngày trước.
Trong hai ngày chờ đợi đó, người lơ xe liên lạc với chúng tôi để đòi tiền chuyên chở. Họ bảo là sẽ đưa chúng tôi đến một tỉnh giáp vùng Sisophon là tỉnh Battambang với giá sáu chỉ vàng cho một đầu người.
Chúng tôi lúc ấy không biết khoảng cách từ Battambang đến Sisophon là bao xa, nhưng chỉ biết càng đến gần biên giới là hy vọng càng cao. Vì thế, chúng tôi đánh liều đi đại. Sau khi năn nỉ, giá họ chịu lấy là bốn chỉ cho một đầu người.
Trong cuộc hành trình, khi đến các trạm không nguy hiểm thì chúng tôi vẫn ngồi yên trên xe. Xe chứa khoảng từ hai mươi đến ba mươi người. Những người vượt biên thì ngồi ở bên trong, còn dân địa phương buôn bán thì ngồi ở ngoài. Tới các trạm có lính Cambodia kiểm soát thì người lơ xe trao đổi tiền bạc và hàng hoá. Điều này cho thấy là họ cũng làm ăn chia chác với nhau cả.
Khi tới các trại có bộ đội Việt Nam canh gác thì người lơ xe không dám để người vượt biên ngồi trên xe. Họ dặn chúng tôi hãy xuống đi bộ hình chữ nhật, tức là đi vòng trong đường ruộng để tránh các trạm kiểm soát. Người tài xế xe vận tải ngừng xe cho chúng tôi xuống cách trạm cỡ một dặm và quá trạm một dặm để đón chúng tôi lên xe đi tiếp. Họ rất tử tế vì họ có thể bỏ rơi chúng tôi bất cứ lúc nào nhưng họ đã không bỏ rơi. Có khi họ phải đợi chúng tôi từ nửa tiếng đến một tiếng đồng hồ.
Tôi không biết đoạn đường từ Nam Vang đến Battambang dài bao nhiêu cây số, nhưng chỉ biết có khoảng một trăm trạm kiểm soát trên lộ trình ấy, vì cỡ một trăm thước là có một trạm kiểm soát. Từ Nam Vang đi Battambang phải mất ba ngày đường. Số lính người Miên kiểm soát ở các trại lại ít hơn số lính bộ đội người Việt.
Đường lộ rất xấu và hư hại rất nhiều. Có nhiều đoạn đường hầu như không có nhựa. Bụi đỏ bay mù mịt, xe cứ nhảy nhổm như muốn hất người ngồi rớt xuống đất.
Trên chuyến xe đó, rất hên là tôi gặp một bà người Miên gốc Việt Nam. Chồng bà là giáo viên người Miên. Bà ta hình như biết chúng tôi là dân vượt biên nên mở lời trước. Cứ đến mỗi trạm, thì xe ngừng để mọi người mua nước uống và đồ ăn. Chúng tôi không dám xuống vì sợ lộ, nên chỉ ngồi trên xe ăn bánh mì cầm hơi.
Thấy vậy, bà này cứ săn đón và mời chúng tôi mua đồ ăn rồi lần mò hỏi chuyện. Bà ta hỏi có phải chúng tôi là dân Việt Nam không, có phải chúng tôi có ý định vượt biên không, rồi bà hỏi đủ chi tiết về chúng tôi. Khi tiếp xúc, tôi nhận xét rằng bà này muốn giúp đỡ chứ không phải soi mói. Bà ta còn mời chúng tôi uống nước dừa Thốt Nốt. Đây là loại nước phổ thông nhất ở Cambodia, nước đựng ở trong một đốt tre. Thế là hai đứa chúng tôi có một đốt tre nước Thốt Nốt, rồi ăn bánh tét và bánh bò trắng.
Sau khi ăn và nghỉ ngơi, chúng tôi lại tiếp tục lên xe đi. Tôi có thú thật với ba ta về ý định vượt biên của chúng tôi. Tôi tả cảnh bị bỏ rơi và bị lừa. Nghe xong, bà ta tỏ ý thương hại và hứa sẽ đưa chúng tôi về nhà để bà kiếm đường giúp đỡ cho.
Sau khi xe ngừng tại bến xe ở Battambang. Chúng tôi theo bà này về nhà bà. Nhà bà ở cách bến xe độ hai cây số. Lúc ấy, vì tỉnh Battambang tương đối sôi động và đầy không khí chiến tranh nên bà không cho chúng tôi ra đường. Vì thế, chúng tôi chỉ quanh quẩn ở lại nhà bà. Bà ta lo cho chúng tôi ăn uống rất chu đáo.
Chồng bà ta cũng vui vẻ, mỗi khi ông ta hỏi thăm xã giao thì bà ta lại thông dịch lại. Bà ta hứa thêm là sẽ liên lạc với người em chồng để hắn ta dẫn chúng tôi vượt biên giới.
Thế là chúng tôi đành nằm chờ tại đó đến ba ngày vì người em chồng của bà chủ nhà đi buôn bán ở Nam Vang chưa về. Khi anh này về lại nhà, anh ta hỏi xem chúng tôi còn bao nhiêu tiền. Chúng tôi góp lại còn một lượng và một chỉ vàng.
Anh ta bèn giải thích là phải mua ít nhất là hai xe đạp cho hai chúng tôi để đạp xe đi tiếp. Nếu đi từng người thì không bị lộ, nhưng nếu chở đôi trên chiếc xe đạp thì rất dễ bị lộ. Mà với một lượng và một chỉ thì không đủ mua hai xe đạp. Nếu không đủ thì nên đi bộ. Chúng tôi bối rối nên đành chờ anh này quyết định thôi. Cuối cùng, anh ta đề nghị rằng anh và bạn anh sẽ dùng xe đạp chở hai chúng tôi đến tỉnh Sisophon rồi sau đó sẽ đi bộ qua biên giới.
Sáng sớm hôm sau, khoảng 4:00 giờ sáng, anh này chở tôi trên một xe đạp. Người bạn anh thì chở Nhật, cậu học trò của tôi, trên một chiếc xe đạp khác. Chúng tôi đi từ Battambang từ lúc bốn giờ sáng thì đến tỉnh Sisophon lúc 2:00 giờ trưa. Đoạn đường này tương đối an toàn cho chúng tôi.
Tại tỉnh Sisophon, chúng tôi mua đồ ăn và nước uống . Anh dẫn đường căn dặn rằng đêm nay, khi vượt biên giới sẽ rất gian khổ, vì thế phải ăn uống đầy đủ để chuẩn bị đi. Đoạn đường đi bộ sẽ dài khoảng ba mươi cây số. Khi tới trại sẽ có hội HTTQT cứu giúp. Anh còn cho biết rằng họ sẽ chở chúng tôi đi khoảng mười cây số nữa thì sẽ đi qua bờ đê vào biên giới Cambodia và Thái Lan. Cách bìa rừng biên giới, sẽ có một trạm kiểm soát. Đây cũng là trạm quyết định vì đã có nhiều người vượt biên bị bắt tại trạm đó.
Khoảng 4:00 giờ chiều hôm ấy, trời đã trở lành lạnh, chúng tôi lại ra đi. Thường thường thì người dẫn đường chở tôi đi trước. Nhưng hôm ấy không hiểu sao, bạn anh ta lại chở Nhật đi xe đạp lên trước, còn chúng tôi đi ở phía sau cách khoảng hai trăm thước.
Khi tới trại kiểm soát, nhóm lính bộ đội Việt Nam chạy ra đường chặn xe đạp chở Nhật lại. Chúng tôi vội ngừng ngay lại ở đàng xa và không dám đi tiếp nữa. Vì ở khá xa nên tôi không biết họ đã đối đáp ra sao. Chỉ thấy họ dùng báng súng đập lên người Nhật, rồi đá Nhật té lên té xuống, rớt xuống mặt đường. Họ trói và còng Nhật. Tôi không rõ có phải trói không nhưng tay Nhật bị bẻ quặt ra đàng sau và động tác trói đó rất lâu, có đến mười phút.
(Anh Nhật bị bắt giam ở Nam Vang nửa tháng, rồi bị đưa về nhốt ở trại giam Chí Hòa ở Sàigòn trên một năm. Cuối cùng anh ta lại trốn đi bằng đường biển và thành công. Hiện anh ta đang ở Texas, USA. Tuy nhiên, gia đình Nhật đã nhắn tin chửi tôi rất nhiều, vì nghĩ rằng tôi âm mưu hại Nhật bị bắt. Sau này, khi họ tỉnh ngộ, họ đã tìm đến xin lỗi tôi ở Mỹ.)
Sau đó, người dẫn đường đã bỏ xe đạp ở bên đường, rồi anh ta dẫn tôi vào một bụi rậm và dặn dò tôi ở lại đó, nhớ đừng đi ra. Anh ta sẽ quan sát đường để xem có nên đi tiếp không hay phải ngưng lại. Thế là anh ta băng đường đi sâu vào ruộng. Một lúc sau, không còn thấy bóng dáng anh ta đâu nữa.
Tôi ngồi chờ trong sự hồi hộp và nóng ruột. Mãi đến hai tiếng đồng hồ sau, anh ta trở về bụi rậm tìm tôi và dẫn tôi đi tiếp. Lúc ấy khoảng sáu giờ chiều, anh ta đi trước và dẫn xe đạp, còn tôi thì lò dò theo sau.
Chúng tôi đi sâu vào bìa rừng. Cỡ khoảng một lúc lâu, cách bìa rừng độ một trăm thước, tôi thấy nhiều đám cháy sáng rực, người dẫn đường bảo tôi ngồi cạnh đám lửa để lấy than đen bôi lên mặt mũi và tay chân tôi vì da tôi trắng quá, trông không giống người bản xứ.
Khi chúng tôi khởi sự đi tiếp thì trời đã tối mịt. Tôi không còn định được phương hướng nữa. Chúng tôi đi khoảng ba hay bốn tiếng trong rừng. Sau cùng vì quá kiệt sức, hai chúng tôi nằm đại dưới đất và ngủ giữa rừng.
Lúc ấy, vì mệt nên tôi ngủ rất ngon. Khi tôi tỉnh dậy thì mặt trời chói chang, ánh sáng gay gắt. Khi đó cũng khoảng 9:00 giờ hay 10:00 giờ sáng. Người dẫn đường bèn mở cơm và cá khô cho tôi ăn, rồi anh ta đem bình nước cho tôi uống. Ăn uống xong, anh ta lại bọc hết đồ ăn lại, đeo lên vai và chúng tôi tiếp tục đi nữa. Chúng tôi vượt các trạm kiểm soát, lên lại lề đường cái, rồi lại dùng đường ruộng, rồi lại lên lề đường. Dần dần, chúng tôi đến một chợ biên giới. Tại đây, người ta đi lại buôn bán rất nhiều. Ra khỏi chợ độ ba cây số, chúng tôi đến lại một bờ đê, rồi lại ra khỏi bờ đê để đến một vùng trái độn.
Nơi này rất nguy hiểm vì gồm có đủ lực lượng quân sự như Cộng sản Việt Nam, Thái Lan, Para Miên, Pol Pot... Anh dẫn đường bập bẹ nói tiếng Việt Nam cho tôi biết sự nguy hiểm của vùng đất này. Qua ngôn ngữ và sự diễn tả của anh, tôi được biết rằng vùng này thuộc quyền kiểm soát của lực lượng Khmer Đỏ, tức là Pol Pot. Họ có thể chém đầu người tị nạn Việt Nam bất cứ lúc nào.
Khi nghe xong, tôi mất bình tĩnh ngay vì biết rằng tính mạng mình có thể mất một cách dễ dàng. Tinh thần tôi căng thẳng. Cũng vì sợ hãi quá mà sau này tôi mới hối hận.Khi ấy, tôi thấy một con đường moon. Ở hai bên có những lực lượng Pol Pot dọc đường. Họ mặc đồng phục màu đen hay màu xanh da trời, đầu đội nón lá rộng vành. Người dẫn đường của tôi đi trước qua những trạm gác của Pol Pot khoảng độ vài trăm mét. Khi nhắm tình hình bất an thì anh ta về lại và cho biết tình hình không ổn, phải đi bọc vòng.
Chúng tôi đi bọc vòng qua được ba trạm. Người dẫn đường đạp xe đi trước, rồi đợi tôi vượt qua trạm gác để chở x echo tôi đi tiếp. Khi đến trạm kiểm soát thứ tư thì hắn ta đi trước, còn tôi đi vòng nhưng mắt vẫn hướng về con đường mòn để nhớ vị trí trạm gác.
Trong khu rừng rậm rạp, khi tôi đi xa khỏi đường mòn thì thấy bọn lính Pol Pot chạy về phía trước để chận đầu tôi và ngăn đường chạy ra của tôi. Thấy nguy hiểm, tôi vội vàng chạy ngược lại về hướng cũ. Thế là bọn chúng xả súng bắn liên tiếp.
Lúc ấy, tôi hoàn toàn mất bình tĩnh, tôi càng chạy thì chúng càng bắn. Hình như có ba đứa bắn liên hồi. Tôi cố chạy để tránh tầm đạn bằng cách chạy từ gốc cây này qua gốc cây khác. Có những lúc hình như tôi bị hoa mắt nên thấy các lằn đạn nổ tóe lửa trước đám cây trước mặt. Cứ như thế, tôi chạy cho đến khi không còn nghe tiếng súng nữa. Cuối cùng tôi lạc mất phương hướng. Khi tôi càng tìm lối ra thì càng lạc sâu vào rừng rậm khác.
Thế là tôi đành lang thang cả đêm trong rừng. Lúc ấy tôi mới định thần nhìn lại thì tất cả bình nước, cơm khô, cá khô, nón, khăn cà ma để hóa trang đều đã rớt hết sạch sành sanh. Trong người tôi chỉ còn sót một bộ đồ và đôi dép Bình Trị Thiên. Sau cùng vì quá mệt và đuối sức, tôi đánh một giấc ngủ dài để giải quyết sự mệt mỏi.
Hình như tôi đã ngủ trên mười hai tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy, tôi lại đi lòng vòng nhưng không tìm được lối ra. Tôi lại lạc trong rừng thêm một ngày nữa mà vẫn không tìm thấy lối đường mòn để đi ra. Cơn khát nóng bỏng cổ, tôi tưởng mình có thể chết được.
Đêm hôm sau, tôi lại ngủ trong rừng. Cái khát càng gia tăng cao độ. Tôi bèn lượm các chiếc lá mục nát rớt xuống đất đã lâu nên mục và ướt rồi nắm đám lá cây vắt chặt để kê vào miệng cho hơi nóng trong miệng bốc hơi, mong cho cơn khát dịu xuống để chận sự nóng bỏng cổ.
Trong lúc lang thang trong rừng, tôi cố moi óc để nhớ lại cách đây hai ngày, người dẫn đường chỉ mặt trời rồi ra dấu là khi mặt trời lặn thì mình sẽ tới bìa rừng. Từ đó, tôi cứ canh hướng mặt trời lặn để tìm lối ra con đường mòn. Tôi leo lên cây cỡ mười thước để tìm xem hướng mặt trời buổi sáng mọc ở đâu thì các cành cây phía sau hướng mặt trời sẽ có rêu xanh nhiều.
Sau khi quan sát, tôi quyết định đi theo hướng mặt trời lặn. Rốt cuộc tôi lần mò tìm được đường mòn vào lúc gần tối. Tôi suy nghĩ có lẽ mình mà đi ra đường vào buổi tối thì nguy hiểm vì có thể bị bọn cướp giết. Còn nếu đi ban ngày thì dân buôn đi lại nhiều nên đỡ nguy hiểm hơn. Suy đi tính lại rồi, tôi không dám ra vì trời quá tối. Thế là tôi lại ngủ.
Sáng hôm sau, tôi leo lên cây để quan sát phía đường mòn. Từng đoàn xe đạp đi lui tới tấp nập. Tôi đã quá chán nản nên bỏ ý định đi Thái Lan rồi. Vì thế tôi bắt đầu đi ra đường mòn để trở về Việt Nam. Vì muốn trở về nhà nên tôi không thèm trốn tránh bọn lính Pol Pot nữa. Lạ một điều là bọn nó chỉ ngó tôi chứ không hỏi han hay chận bắt tôi nữa. Tôi biết chắc là bọn chúng biết tôi là người Việt Nam vì lúc ấy đồ hoá trang trên người tôi đã rớt mất cả rồi.
Khi tôi đi ngược về phía bìa rừng thì thấy một đoàn xe bò đi ngược đường với tôi. Lúc ấy vì qúa khát nên tôi mất hết lòng tự trọng, tôi bèn chắp tay vái lạy bọn họ rồi ra dấu xin nước uống. Đoàn xe bò đầu tiên không cho tôi nước mà cứ lấm lét nhìn tôi. Sau này tôi mới hiểu lý do là vì họ đang chứa người vượt biên trên xe bò nên họ sợ. Những xe tiếp cũng tỉnh bơ, không cho tôi nước uống.
Sau cùng chỉ có xe cuối ngừng lại. Tôi lại lạy xin nước và ra dấu chỉ cái nhẫn vàng rằng tôi sẽ đưa cho họ nếu họ cho tôi nước uống. Người đi xe bò bèn cho tôi nước uống. Khi uống xong, tôi đưa vàng cho họ nhưng họ không lấy. Thấy họ quá tử tế, tôi sợ đường còn xa nên xin luôn cái bình nước. Anh này vẫn cho tôi cái bình mà không lấy một chút vàng nào của tôi.
Tôi cám ơn và lầm lũi đi. Hơn một tiếng đồng hồ sau, tôi lại gặp bờ đê. Nơi đây, tôi thấy có một nhóm người bán nước Thốt Nốt và bánh trái. Tôi bèn bỏ vàng ra mua đồ ăn và nước uống. Ăn uống xong, tôi tới bờ đê và ngủ thêm một giấc.
Trong giấc ngủ, tôi cảm thấy có một bàn tay đang lay tôi dậy. Khi định thần tỉnh giấc, tôi thấy rõ ràng là người dẫn đường đã lạc tôi từ năm hôm trước, nay anh ta đang ở trước mặt tôi để đánh thức tôi dậy. Tội nghiệp! anh đã đi tìm tôi khắp nơi nay mới gặp lại. Gặp được anh, tôi mừng qúa, tay bắt mặt mừng.
Sau đó, anh ta lại bắt tôi ngồi sau xe đạp và anh ta đạp tiếp. Anh ta an ủi tôi rằng nếu thoát ách bọn lính Pol Pot thì sẽ thoát luôn, còn qua bọn lính Para thì không sao vì anh ta là người làm kinh tài cho Para.
Lúc này, anh ta đạp xe chở tôi vượt các trạm kiểm soát của Pol Pot. Đến khi tới vùng kiểm soát của Para thì anh ta bảo tôi ngồi đợi ở góc bìa rừng để anh ta liên lạc với Para. Trước khi đi, anh ta không quên bảo tôi giao hết vàng để anh đưa cho Para. Nếu có vàng, bọn Para sẽ đối đãi tốt hơn. Thế là còn bao nhiêu, tôi bèn đưa hết cho anh ta đem đi.
Sau đó, không biết tại sao, tôi nghe có nhiều tiếng súng. Có lẽ lại đụng trận giao tranh giữa các phe phái. Lúc ấy, tôi đang ngồi ở bên lề của đường mòn, tôi sợ quá nên lại chạy sâu vào rừng để tránh sự di chuyển của đoàn quân. Khi chạy sâu độ ba trăm mét, tôi lại nghe từng loạt súng ở phía sau bắn tới. Tôi lại chạy ngược hướng đó. Chạy lòng vòng một quãng thì tôi bị bọn lính Para bắt giữ. Bọn chúng nghi ngờ tôi là Việt Cộng nên tra hỏi đủ thứ. Lúc đầu tôi lầm tưởng họ là lực lượng Thái Lan nhưng sau mới biết họ là lực lượng Para của Sihanouk.
Xui cho tôi là khi ấy, tôi mặc đồ của sinh viên học đường có cầu vai, vì thế, bọn họ tưởng tôi là ông lớn Cộng sản nên hỏi tía lia:” Lục thum? Lục thum?”.
Tôi lúc ấy đã sợ quá nên cuống quít gật đầu lia lịa, chẳng biết Lục thum là nghĩa gì mà cũng gật đầu. Thế là tôi bị bọn chúng đánh gần chết. Hai thằng thay nhau dùng báng súng đánh rồi đá và đạp tôi. Mình mẩy tôi đau đớn ê ẩm, máu me chảy đầm đìa, ướt đẫm cả áo quần. Sau đó, bọn chúng bắt tôi cởi hết quần áo để chúng lục xét. Lúc ấy, tôi chỉ còn mặc có cái quần xà lỏn mà thôi.
Cuối cùng, chúng bắt tôi cởi hết quần lót để chúng xét trong hậu môn tôi xem còn vàng hay không. Sau khi xét kỹ lưỡng, bọn chúng trói gộp tôi lại rồi chuyển tôi về doanh trại của chúng để giải quyết.
Bị Bắt Vào Đồn Para, Tại Biên Giới Thái-Miên
Tại trại của Para, bọn chúng hỏi tôi bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Lúc ấy, vốn liếng tiếng Anh của tôi quá kém. Tôi bèn cố gắng giải thích cho chúng rõ là tôi vốn là giáo sư Toán, vì không thích chế độ Cộng sản nên tôi muốn trốn đi Mỹ. Đến đây, tôi móc đồ ra lấy một giấy bảo lãnh của mẹ vợ tôi gửi từ Mỹ về, rồi tôi lấy giấy chứng nhận giáo sư có hình để chứng minh cho chúng biết rằng tôi không nói láo.
Khi xem xong giấy tờ chứng minh lý lịch của tôi, Para thay đổi hẳn thái độ và cách đối xử. Chúng trở nên tử tế và tốt hơn. Chúng hỏi tôi nếu dạy môn toán thì hãy vẽ một đường biểu diễn. Thế rồi một tên sĩ quan mang súng ngắn bảo một tên lính đi theo có mang máy truyền tin đưa giấy tờ cho tôi vẽ đường biểu diễn.
Tôi còn nhớ chúng bắt tôi giải một phương trình hữu tỳ. Lúc tôi vẽ xong, bọn chúng nhìn ngắm rồi tỏ ý tin tưởng tôi hơn truớc. Sau này tôi mới biết là bọn chúng là Para, còn tên sĩ quan kia là chỉ huy lớn nhất của vùng biên giới.
Vì tin tưởng rồi nên chúng kêu lính đem cơm và một hộp cá sốt cà chua ra cho tôi ăn. Đến 5 năm rồi, tôi mới lại được ăn món cá hộp này. Họ còn cho tôi một chai nước ngọt màu xanh loại lớn cỡ một lít. Tôi mừng quá, chỉ dám uống chút ít, còn lại để dành cho những ngày tới. Đây là bữa cơm qúy nhất và thịnh soạn nhất từ ngày tôi đi vượt biên.
Sau khi hoàn tất thủ tục, tên chỉ huy bảo một tên lính chở tôi đi sâu vào doanh trại bộ chỉ huy vì ở ngoài này nguy hiểm hơn. Tên lính đạp xe đưa tôi đi. Độ hai tiếng sau thì đến một trại rất lớn. Trại này có chợ, có nhà và lều xanh rải rác khắp nơi.
Khuôn viên trại rộng vô cùng, quanh vòng rào có các bồn nước bằng thiếc, có hàng rào ngăn nắp. Cuối cùng, tên lính dừng lại ở một căn nhà có một giếng sâu để cho tôi được tắm rửa. Tôi múc nước lên bằng thùng dầu bốn lít để tắm. Cả chục ngày chưa tắm nên lúc này, tôi rất mừng khi được tắm rửa mát mẻ và sạch sẽ.
Đang tắm, tôi nhìn ra đường thì thấy một xe Toyota có vẽ bảng hiệu Thập tự nhỏ. Tôi biết ngay là xe của hội HTTQT. Trên xe có người Âu Mỹ ngồi. Xe đi qua nhanh quá nên tôi không thể chạy theo. Tôi bèn nuôi hy vọng vì biết là xe hội HTTQT sẽ chạy qua đây nhiều lần.
Tắm xong, tôi bèn ngồi đợi cho quần áo khô và cũng để ngóng xe hội HTTQT. Khoảng bốn, năm giờ sau, tôi để ý và thấy xe hội trở lại đến vì bụi bay mù mịt. Khi thấy xe chạy xa cỡ năm trăm thước, tôi bèn chạy hối hả ra đường để chận đầu xe của hội lại. Xe ngừng trước mặt tôi độ một trăm thước rồi hai mươi thước, một người đàn ông người Pháp nhảy xuống xe, còn một người đàn bà Thụy Sĩ, bà Denyse Betchov ngồi trên xe.
Tôi bèn chạy tới gần họ rồi bập bẹ nói. Họ không hiểu tôi muốn nói gì. Vì thế, tôi bèn lôi hết giấy tờ bảo lãnh và giấy học tập của giáo sư ra để chỉ tên và hình của tôi cho họ xem. Cả hai vừa xem vừa gật gù rồi cho tôi lên xe chạy.
Lúc ấy, thằng lính Para đã chở tôi đi tắm, vừa chạy ra và đứng nhìn một cách tức tối. Hắn có thể bắn tôi nhưng hắn không dám. Tôi biết là Para có lẽ không giết tôi nhưng tôi vẫn cảm thấy không an toàn ở lại với họ. Còn tên lính Para hình như còn được lệnh để chở tôi đi đâu đó, nhưng tôi bỏ chạy theo hội. Vì thế, hắn nhìn theo xe có vẻ rất bực tức.
Trại Tị Nạn Non Chan
Xe của Hội đưa tôi đi lòng vòng, sau cùng họ đưa tôi đến một khu bệnh viện. Ở đây tôi phải khai lý lịch. Bà Denyse hứa với tôi là sẽ đến vào hai ngày sau để “bốc”chúng tôi đi. Thế là tôi phải ở lại khu nhà lá ở Non Chan. Tại đây đã có sẵn một số người tị nạn gồm một cựu Thiếu Tá Việt Nam Cộng Hòa, hai đại úy và một người đàn bà có hai con, và hai cô thiếu nữ.
Chúng tôi chen chúc ở trong dãy nhà có mái tranh và nằm ngủ ngay ở sàn đất. Lúc ấy, trong bọn có một tên làm ”ăng ten” cho bọn lính Para. Hắn biết tiếng Việt, có thể nói và hiểu tiếng Việt. Hắn nằm tại đây để quan sát xem ai còn vàng hay không để rồi báo cáo cho Para. Những người đi trước đều biết dã tâm của hắn, nhưng không dám báo động cho những người đi sau.
Khi tôi vừa nhập trại, hắn cũng mon men tới hỏi han và dò xét. Tôi bèn tả oán là hết tiền. Mà thật sự, tôi cũng đã trắng tay rồi. Tuy vậy ban chỉ huy của Para cũng kêu tôi lên để xét lại một lần nữa. Hai ngày sau, có một tốp người Tàu ở Việt nam đến. Họ ba hoa khoe là không mất tiền. Ngay chiều hôm đó, họ bị kêu lên xét và cướp hết tiền. Họ buồn rầu và hối hận vì đã lỡ dại khoe khoang.
Bà Denyse hứa đón chúng tôi sau hai ngày, nhưng mãi đến bốn ngày sau, bà ta mới đến đón. Bà ta cho biết đây là lần đón người tị nạn cuối cùng vì sau đó, biên giới sẽ đóng cửa, không chấp nhận người tị nạn đường bộ từ Việt Nam đến nữa. Ngày đóng cửa sẽ là 25, tháng 3, năm 1980.
Sau ngày này, trại Sikiew sẽ không nhận người tị nan, mà cả trại Khao Y Dang cũng không nhận người tị nạn nữa. Sau đó, bà Denyse gửi chúng tôi ở trại Non Makmun, gần biên giới Thái. Nơi này do lính Thái đóng giữ.
Trại Tị Nạn Non Makmun
Cuộc sống của người tị nạn tại đây là cuộc sống của chủ nhân và đám nô lệ. Đồn lính được rào bằng kẽm gai. Họ không cho dân xâm nhập đồn lính. Họ cho dân ở vòng ngoài rồi rào kẽm gai lần nữa. Nếu có bị Cộng sản tấn công thì lũ người tị nạn ở vòng ngoài sẽ chết trước.
Lúc ấy có khoảng một trăm người tị nạn Việt ở trong đó. Mọi người phải ăn ở, tiêu tiểu tại chỗ, chỉ trong vòng rào giam mà thôi, không được đi ra ngoài.
Sau một tuần chúng tôi ở đó thì vấn đề vệ sinh trở nên trầm trọng vô cùng. Mùi hôi thối bay khủng khiếp, ruồi nhặng sinh sản mau lẹ vô cùng. Mỗi ngày chỉ có hai lần là chúng tôi được qua khu trại Thái Lan để múc nước từ giếng bơm tắm rửa và giặt giũ.
Lính Thái rất giới hạn về giờ giấc lấy nước, chỉ từ 9:00 giờ sáng đến 11:00 giờ sáng và từ 3:00 giờ đến 5:00 giờ chiều. Mỗi lần qua tắm chỉ được một người thôi. Như vậy cho dù một người tắm có mười lăm phút, thì cũng chỉ giải quyết bốn người trong một giờ, bốn giờ chỉ có mười sáu người. Thế là chỉ có một số ít được tắm.
Không thể kéo dài tình trạng đó, bà con tị nạn bèn bàn nhau là để cho các thanh niên nhịn tắm, và nên dành cho đàn bà con nít tắm rửa mà thôi. Vấn đề này cũng bất ổn nên sau đó, các thanh niên lực lưỡng sang trại lính Thái Lan xách nước đem về rồi phân phối cho các tổ xài. Sau này khi sống qua nhiều trại như Khao Y Dang, Sikiew và Bataan, tôi mới thấy là ở trại Non Makmun có chế độ ăn uống sướng nhất. Mỗi ngày cứ hai người là có một hộp cá Tuna tròn cỡ 8 ounces. Còn gạo thì nấu ăn tự do.
Tóm lại, từ khi rời Việt Nam đến khi đến trại Non Makmun là mười bốn ngày. Ở Non Chan có ba ngày, ở Non Makmun mười ngày, rồi tôi được chuyển giao qua trại Khao Y Dang ở nội địa Thái Lan.
Trại Tị Nạn Khao Y Dang
Trại này nằm gần chân núi Khao Y Dang. Đây là trại định cư lớn nhất vùng Đông nam Á. Trại này vốn không phải dành cho dân tị nạn Việt mà là trại tạm cư của dân Cambodia. Họ ở tạm nơi đây để chờ các vị lãnh đạo cũ của Cambodia như Sihanouk, Sonn San... về để giải phóng đất nước khỏi tay Cộng sản Việt và Miên và đưa dân chúng về quê cũ. Trại này đặt dưới quyền kiểm soát của bộ Nội Vụ Thái Lan và Cao Ủy tị nạn Liên hiệp Quốc (UNHCR).
Dân số của trại này gồm 123 ngàn người. Đại đa số là người Miên. Tất cả có hai mươi ba khu (sections). Mỗi khu chứa năm ngàn người. Sở dĩ sau này họ phải chứa thêm người Việt nam vì trại Sikiew đóng cửa, biên giới Thái đóng cửa, nên nạn ứ đọng người tị nạn lên cao.
Số người tị nạn Việt Nam không thể lên trại Sikiew, cũng không thể về lại biên giới nên được chuyển giao đến trại Khao Y Dang. Người Việt tị nạn được dồn vào khu 13. Khu này chia làm hai phần. Một phần còn là người Miên, một phần là người Việt nam tị nạn. Số người Việt nam tị nạn khoảng 1,500 người. Mỗi khu có một ban đại diện độc lập, gồm một trưởng trại, một phó trưởng trại, một ủy viên phụ trách an ninh, một ủy viên phụ trách hành chánh, một trưởng ban ẩm thực.
A. Vấn đề lương thực:
Các khẩu phần giữa người Miên và Việt đều giống nhau. Mỗi tuần, thì cứ hai người được một hộp cá sốt cà chua nhỏ cỡ 4 ounces, trong hộp chỉ có hai con cá nhỏ. Cứ mỗi tuần thì hai người được một cánh gà. Không phải nguyên cái cánh mà chỉ là phần xương của cánh gà mà thôi. Mỗi tuần một đầu người được 200 gramsrau tươi. Đôi khi khẩu phần cá hộp được thay thế bằng vài con cá khô mặn. Bà con ai cũng thích cá khô vì số lượng nhiều hơn cá hộp.
Lúc đầu, ai muốn ăn bao nhiêu dầu ăn, đậu xanh và gạo thì cứ việc lên kho mà lấy. Nhưng sau tháng 4, năm 1980 thì số này được phân phối lại như sau: mỗi đầu người có 400 grams gạo, 200 grams đậu xanh. Cứ một tổ thì được một thùng dầu ăn bốn lít, tức là một gallon dầu. Tuy vậy, số này vẫn dư ăn.
B. Vấn đề nước uống:
Đây là một sự thiếu thốn rất trầm trọng. Hai tháng đầu khi tôi ở trại thì nước rất thiếu. Bốn người được một sô nước hai mươi lít. Nhưng khi nước được xịt vào thì đầy, khi nước lắng lại thì chỉ còn có mười sáu lít nước thôi.
Vì thế, một đầu người chỉ có bốn lít nước mỗi ngày để tự nấu ăn, tắm rửa và uống. Với bốn lít, trừ việc nấu cơm ra, còn lại không đủ uống. Ai muốn mát thì phải nhúng khăn lau mình chứ không đủ nước để tắm. Suốt hai tháng trời, tôi sống rất cực khổ, thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mùng, mền và chiếu. Tôi còn thiếu tất cả mọi nhu cầu vệ sinh tối thiểu như xà bông, kem đánh răng, giấy đi cầu hay lược chải tóc.
C. Nhu cầu thiết yếu khác:
Trong hai tháng đầu, không ai có mùng, mền hay chiếu. Sau đó, cứ hai người có một chiếc chiếu đơn, phải nằm ép vào nhau mới đủ. Vấn đề tiêu tiểu quá mất vệ sinh, nên nạn ruồi muỗi sinh sản mau lẹ đến độ trầm trọng. Từ đó, trại phải tổ chức chiến dịch giết ruồi muỗi.
Sau đó cứ hai người được chia một cái mùng. Vì thế, bà con phải nằm chung với nhau. Từ đó xảy ra nhiều chuyện cười ra nước mắt. Hễ cứ gần tối là bà con có chia mùng mền chung phải đi kiếm nhau để ngủ chung. Vào mùa hè, đường gần trại được phá ra, nên đất đỏ có bụi rất nhiều, nếu không nằm mùng thì bụi sẽ bay bám đầy người.
Khi đến mùa lạnh thì cứ hai người được một cái mền chiếc. Có nhiều cậu độc thân ghiền thuốc và cà phê nên lén đem bán mùng và mền để mua thuốc lá và cà phê. Vì thế xảy ra nhiều vụ đánh lộn, ăn cắp và kiện thưa. Lại vì sự chia chác nên có khi một người đàn ông lại được chia chung mùng mền với một người đàn bà. Làm sao đây? Do đó, nhiều người anh hùng rơm nhường hết đồ dùng cho người con gái, còn mình thì đi nằm ké hết chỗ này qua chỗ khác.
D. Kỷ luật trại Khao Y Dang
Trại có lệnh cấm chợ búa và cấm bài bạc hay đĩ điếm. Với số lượng người tị nạn quá đông: 123 ngàn người. Đời sống rất khó khăn. Nếu ai không thích ứng sẽ có thể bị bịnh mà chết. Vì số lượng lương thực rất hạn chế nên người dân Miên phải cố gắng tự túc thực phẩm. Họ nuôi gà vịt và trồng rau cỏ như mướp, rau muống, xà lách... Họ còn ra sau núi để hái lá giang về bán cho người trong trại để mà kiếm tiền. Họ còn biến chế thực phẩm từ chỗ có dư dầu ăn, gạo và đậu xanh, họ làm bánh chiên để bán.
Cho dù lính Thái Lan cấm họp chợ, họ vẫn lén lút họp. Khi lính Thái bắt được thì chúng đánh dân tị nạn rất dã man. Đã có nhiều người trốn ra vòng rào và bị bắn chết.
Tôi ở đó khoảng mười một tháng mà đã chứng kiến khoảng mười người Miên bị bắn vì lén đi ra ngoài vòng rào buôn bán chợ đen. Nếu lính Thái bắt được ở vòng rào trại thì họ đánh đập dân chúng rất tàn nhẫn, đến nỗi mình mẩy đầy máu me lai láng, rồi họ đưa đám nạn nhân này đi lên xe, có lẽ để đem đến chân núi bắn và hủy xác nạn nhân luôn.
Trở lại câu chuyện của Dũng, người dẫn đường đã bỏ rơi chúng tôi ở Nam Vang. Sau đó, hắn dùng tiền của chúng tôi để đi vượt biên. Cuối cùng tôi gặp lại hắn ở Khao Y Dang, sau khi tôi đến nơi độ một tháng. Dũng vẫn nào tật ấy, hắn xài tiền quen nhưng nhịn không quen.
Sau đó, hắn móc nối với đám dân tị nạn ở trại để tìm cách trốn ra khỏi trại đi buôn chợ đen. Hắn đi trót lọt được hai chuyến, đến chuyến thứ ba thì bị bắn chết ở ngay vòng rào trại. Hắn bị lính Thái bắn khi đang chuyển hàng vào, chỉ cách vòng rào có mười thước. Bọn cùng đi chỉ có Dũng bị chết, một người khác bị thương. Sau đó, ban đại diện có làm lễ để cúng cô hồn, mong cho Dũng sớm siêu thoát. Ở đó, hễ ai lén đi buôn mà bị lính Thái bắt được là bọn chúng sẵn sàng đá nát đồ ăn và đánh đấm người một cách dã man. Phần lớn nguồn hàng chợ đen ở Khao Y Dang là do người Miên trong trại lén vượt rào, hoặc chui bò qua các hàng rào kẽm gai để đi buôn.
Cứ tối tối, họ bò vào trại cỡ 2:00 giờ hay 3:00 giờ sáng. Họ bó tất cả đồ mua được vào người của họ. Mỗi chuyến đi buôn chỉ gồm độ bốn chai xì dầu, hai ký đường và một cây thuốc lá Samit. Số lời hàng ngày chỉ khiêm nhượng đủ để gia đình họ ăn trong vòng một ngày, kể gia đình chỉ gồm bốn người mà thôi.
Vì thế, cứ hai, ba giờ sáng là có tiếng súng bắn. Rồi người bị chết, người bị thương. Người Miên đã quá đói kém, vì thế dù biết nguy hiểm, một số con buôn vẫn liều trốn ra buôn bán để kiếm ăn qua ngày. Với cảnh sống cơ cực mà còn bị chèn ép, nên có một số người Miên bất mãn. Họ làm đơn xin UNHCR để cho họ về quê cũ. Họ xin trước rồi được gọi trình diện.
Khi họ hồi hương thì dọc cổng trại có từng đoàn xe vận tải chờ sẵn. Xe tuần tự chở người hồi hương và hàng hóa. Hội UNHCR hỏi lại lần cuối xem có ai đổi ý để ở lại không. Nếu không đổi ý, thì cứ hai mươi hay ba mươi người được gọi lên xe. Trước khi lên xe, mỗi người được tặng một gói quà gồm gạo và thực phẩm khô.
Trong thời gian tôi ở trại thì có hai đợt hồi hương. Sau đó, việc hồi hương được ngưng luôn, có thể vì việc biên giới bị tấn công và đánh phá. Đa số người Miên hồi hương là đàn bà và trẻ con, hay người già yếu và bịnh hoạn.
Cho dù lệnh cấm đánh bạc nhưng tại trại Khao Y Dang có rất nhiều sòng bạc đánh lớn và có người canh cửa để báo động. Còn về phần đĩ điếm thì rất nhiều. Ở đây có cả hệ thống tú bà, bắt mối và đĩ điếm.
Có nhiều cô phải bán thân vì quá nghèo đói. Ở khu tị nạn Việt Nam thì có sáu cô gái Việt Nam được đưa về khu Việt Nam để đọc bản án tội trạng, nếu còn tái phạm thì sẽ trục xuất về biên giới. Khi bị bêu xấu, cả sáu người đều chỉ biết cúi đầu và khóc lóc.
Lúc ấy tôi đang cộng tác với cha Tom, cha là người Hòa Lan. Cha rất tốt và luôn cứu trợ người tị nạn. Cha xem xét tình hình để cứu giúp. Có nghĩa là gia cảnh nghèo mà đông con thì có thể được cha cho 500 bahts một tháng. Nếu gia cảnh ít con hơn thì được phát 200 bahts cho một gia đình. Còn độc thân thì được lãnh 100 bahts.
Nhân lúc các cô gái đi làm điếm bị xỉ nhục, tôi lấy tư cách là đại điện nhóm Công giáo nên đi tiếp xúc và tìm hiểu lý do tại sao các cô ấy lại làm nghề nhơ nhuốc đó. Trong số ấy, có một cô khai là cô đã bán ”bar” ở Việt nam từ lâu, nay thiếu tiền nên tự động đi làm nghề này để kiếm tiền sinh sống. Còn bốn cô kia thì vì chán đời, vì đã bị Para làm nhục, lại vì nhu cầu vệ sinh tối thiểu như không có băng vệ sinh cho những ngày hành kinh, không có kem đánh răng, không có áo quần để thay đổi khi đồ dơ và hôi thối. Có một cô mà chồng đã bị bắt dọc đường, con cô thèm thuồng quá nên cô phải lén lút làm nghề này để nuôi con.
Theo như tôi được biết thì các tổ chức buôn lậu, đánh bạc và chứa điếm đều được lính Thái đỡ đầu, tham gia và cộng tác. Người lính Thái ăn chia đến cả trung đội và đại đội. Sau đó, vì ăn chia không đều nên nội bộ lủng củng, mới đổ bể ra cho cả trại cùng biết.
Nếu ai phạm kỷ luật ở ngoài vòng rào thì ban lãnh đạo Thái Lan xử lý. Nếu ai phạm kỷ luật trong khu section thì ban đại diện của section sẽ xử lý. Nếu không xử lý được thì sẽ đưa cho ban lãnh đạo người Thái Lan.
Theo tôi, bản án nặng nhất là một nhóm người đóng kịch, ca múa bài hát ” Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Sau đó, họ bị ban an ninh bắt và bị trả về trại tị nạn NW 9. Còn những tội nhẹ thì giao cho lính Thái. Họ có thể cạo trọc đầu người phạm tội hay là nhốt vào chuồng cọp. Đây là một chuồng giam có những song sắt. Người bị giam sẽ chỉ được mặc một quần xà lỏn và bị phơi nắng. Phần lớn người bị giam là thanh niên, chứ không có phụ nữ.
E. Các sinh hoạt tại trại Khao Y Dang
Sinh hoạt hàng ngày:
Người tị nạn Việt Nam ở đây rất nghèo khổ, nhưng người dân Miên thì đỡ hơn vì họ có thể tự sinh sống bằng hai nghề: đi buôn lậu và dẫn đường cho người dân ở Việt nam đi vượt biên.
Những dân Miên ở đây lâu thì có lợi. Con cái họ gia nhập các lực lượng lính Para. Còn họ móc nối đường dây đi từ Khao Y Dang để về Tây Ninh hay Châu Đốc dẫn người Việt đi vượt biên. Vì thế họ có thể sống thoải mái nhờ số vàng kiếm được.
Một hạng người nữa cũng sống rất ung dung, đó là nhóm người Hoa ở Cambodia. Họ biết tiếng Miên, lại biết cách dấu vàng bạc nên ít bị xét, mà nếu bị xét, họ cũng có cách dấu vàng bằng cách nuốt rồi đi cầu ra, lượm lại cất.
Về sinh hoạt điển hình trong ngày thì cứ mỗi ngày bà con phải lo vấn đề lãnh nước và lãnh thực phẩm. Giờ còn lại thì đi học thêm Anh văn. Lúc đầu, trại có tổ chức bốn lớp cho dân chúng học thêm.
Về sau thì dẹp lớp Anh Văn chỉ còn những lớp tư nhân mà thôi. Mỗi tuần thầy dạy Anh văn dạy sáu giờ, chi phí từ 100 bahts đến 150 bahts ( từ năm đô la đến bảy đô la rưỡi). Giá cả đều tùy thầy giáo quyết định. Nếu ai quá nghèo thì đành phải tự học hoặc mượn bạn bè sách vở để chép mà học.
Ở trại Khao Y Dang vì có diện tích lớn rộng nên người tị nạn có quyền đi lòng vòng từ section này đến section kia, miễn là đừng ra ngoài vòng rào thì thôi. Vì thế, bà con thường có thói quen: cứ chiều chiều là từng nhóm đi vòng quanh trại để cho giãn gân cốt, hoặc đi cho khuây khỏa và có dịp để suy nghĩ hay suy g
ẫm các lời Kinh Thánh.
Bà con thường tổ chức nấu ăn chung cho đỡ tốn. Cứ ba, bốn người thì họp lại để nấu ăn với nhau vì lẽ nấu ăn riêng thì không đủ ăn.
Sinh hoạt tinh thần:
Mỗi ngày Chúa Nhật thì người tị nạn Công giáo đi lễ ở một nhà thờ mà họ tự xây cất. Hàng tuần có các tu sĩ Hòa Lan hay cha Tom đến dâng lễ. Cha Tom còn tìm cách đổi ngân phiếu (check), chuyển thư tín hay chuyển qùa từ trại này đến trại khác. Cuộc sống ở đây bình thản nhưng mọi người rất nôn nóng để được đi định cư. Trong mười tháng tôi ở kẹt tại trại, tôi thấy tình cảm trai gái trong trại phát sinh rất nhiều. Có ít nhất là hai đám cưới chính thức ở nhà thờ. Có khoảng năm đám cưới không chính thức. Còn thì rất nhiều đôi lứa quyết định sống chung nên mời bạn bè đến, rồi nấu một nồi chè đậu xanh để ra mắt và đãi đằng bà con.
Trong trại cũng có một số ít khai man lý lịch của mình. Hễ trung sĩ thì khai mình là đại úy hay thiếu tá. Nếu y tá thì khai mình là bác sĩ. Đã có trường hợp một bác sĩ thật lại không được ban điều hành trọng dụng. Còn một ông y tá ở Cần Thơ thì khi tới trại lại khai mình là bác sĩ và được dân chúng tin tưởng.
Lúc đầu cả hai đều được làm việc ở phòng y tế, nhưng về sau, ông bác sĩ thật lại bị truất phế, còn ông bác sĩ giả lại được chọn làm trưởng ban y tế. Mãi đến khi ông này lên đến trại Pananikhom ở Chonburi thì bị lộ hình tướng.
Thư tín và báo chí:
Về thư tín thì mỗi tuần hai lần, vào ngày thứ hai và thứ sáu, là người tị nạn được nhận thư. Hầu hết các thư đều có tiền hay chi phiếu của các thân nhân trên thế giới gửi về. Có khi thư từ Việt nam gửi qua. Đây là món ăn tinh thần vui sướng nhất của trại tị nạn. Ở đây bà con đâm ra siêng năng viết thư, hoặc viết thư ra ngoại quốc để xin tiếp tế, hoặc gửi thư về Việt Nam để bày tỏ lòng thương nhớ của mình.
Ngoài ra, báo chí cũng rất được bà con coi trọng và giữ kỹ. Hễ ai có báo chí tiếng Việt từ Hoa Kỳ, Pháp hay Canada gửi qua thì họ chuyền tay nhau đọc cho đến nỗi tờ báo nhàu nát và mờ hết chữ mới thôi.
Trong bốn tháng đầu, trại có nạn ăn chận thư tín. Hễ thư về hôm trước thì đến tay ban lãnh đạo. Rồi sau đó ban đại diện trại lên lãnh thư về. Họ không chịu phát ngay mà đợi đến tối để rọi lá thư lên đèn dầu. Hễ thấy thư có kèm tiền hay ngân phiếu (check) thì họ dùng mọi cách để lấy tiền. Có khi lấy tiền xong thì họ thủ tiêu luôn lá thư. Về sau dân chúng khám phá ra nên tệ nạn này mới chấm dứt.
Nạn bè phái:
Những người có quyền hành thì ăn chận đủ mọi cách để rút khẩu phần xuống. Cuối cùng mọi sự đều công khai hóa nên tệ trạng mới biến dần.
Nước là một nhu cầu thiết yếu vì thế nếu các người tị nạn có chút quyền thế thì lập bè phái này nọ để chia nhau ăn chận nước rồi bán nước lấy tiền. Thôi thì hết trưởng ban này đến trưởng ban nọ đến lấy nước. Rốt cuộc đến dân đen thì gần hết số nước.
Vật dụng dành cho người tị nạn:
Khi các quần áo được cấp phát, ban điều hành lo chọn các bộ quần áo vừa kích thước của họ rồi cất đi, còn lại những áo quần không đúng kích thước hay không hợp thời trang thì đưa ra cho dân tị nạn bốc thăm. Có nhiều chuyện buồn cười xảy ra như thanh niên thì bốc thăm được cái áo đầm. Cụ già thì lãnh cái quần cao bồi. Đàn bà rút được cái quần đùi. Nhiều thanh niên lãnh áo đầm thì mặc vào rồi nhảy nhót, múa hát, trông vừa buồn cười mà vừa chua xót.
Việc nhà cửa:
Trong bốn tháng đầu tôi ở thì nhà cửa sơ sài. Ai tới trại trước thì được ở những nhà đã cất sẵn. Còn kẻ tới sau thì nằm vất vưởng ở các sân cỏ, gần thùng nước hay ngay lối ra vào.
Về sau UNHCR cho thêm tiêu chuẩn tre để làm sườn nhà và lá tranh để lợp nhà, thêm vải nhựa xanh để lót cho đỡ dột. Từ đó, người tị nạn làm bồn chứa nước để đựng nước để dành. Hễ cứ một nhà rộng cỡ ba thước và dài cỡ sáu thước thì ở được mười người. Về sau bà con cất nhà lấy để ở hoặc nhờ người quen hay người Miên cất nhà ở cho mình.
F. Thảm cảnh của người tị nạn ở trại Khao Y Dang
Về tệ nạn hãm hiếp:
Có thể nói hầu như 90% phụ nữ tị nạn bị hãm hiếp. Ở trại có một phái đoàn Y khoa thường kêu gọi các cô gái hễ có thai bất đắc dĩ thì họ sẽ giúp cho phá thai, hay nếu ai bị bịnh giao hợp cần chữa trị thì nên khai, không nên vì mắc cở mà dấu diếm. Lúc đầu chỉ có một hay hai cô khai mà thôi. Cuối cùng vì xảy ra một trường hợp khá nghiêm trọng nên ban y tế phải cưỡng bách việc khám nghiệm.
Số là có một cô gái bi bịnh giang mai do bọn lính Para truyền qua. Cô ấy vì quá mắc cở và sợ sệt nên dấu, không chịu khai bịnh. Về sau, cô ta nổi điên loạn, nói lung tung. Đến một buổi trưa, cô ta ngất xỉu. Khi phòng y tế khám phá ra thì cửa mình cô ta đã hư hại hoàn toàn.
Sau đó, phòng y tế xuống kêu từng cô gái để khám riêng. Đây là một việc bí mật vì nếu không, các nạn nhân sẽ mắc cở và cảm thấy nhục nhã. Sau kết quả khám nghiệm thì hầu như đại đa số đều bị mắc bịnh hoa liễu. Còn một số thì có thai bất đắc dĩ.
Có một trường hợp là chồng đi thoát đến trại Sikiew còn vợ thì đến sau ở trại Khao Y Dang. Trên đường đi, cô vợ bị hãm hiếp bởi bọn Para. Sau đó, cô dấu chồng việc ấy nhưng rồi chồng cô biết được nhưng không thông cảm cho cô. Cô ta hỏi xin tiền chồng nhưng chồng cô lờ luôn, cũng không thư từ qua lại. Từ đó, cô sống rất thác loạn. Đôi khi vì chỉ có nửa ký đường hay một hộp sữa mà cô bán dâm một cách công khai. Hầu như các thanh niên ở trại này đều biết danh cô ta.
Một trường hợp khác, người chồng ở trại NW 9, còn vợ ở Khao Y Dang. Chi này nghe tin chồng ở bên kia bê bối nên ở đây chị cũng rất lăng nhăng.
Ở một trại nhỏ này, đời sống tình cảm của nam và nữ rất thác loạn. Có nhiều cô gái nhìn phong cách rất gương mẫu, cách nói năng rất đàng hoàng, có lẽ cô phải sống trong gia đình có giáo dục. Tới trại, các cô sống phóng túng có lẽ vì đã bị nạn hãm hiếp, nay lại sống xa gia đình, thoát sự gò bó của cha mẹ nên không còn ai kiềm chế, cá tính lãng mạn của các cô bộc phát nên các cô tung hoành.
Có một số ông tự xưng mình là bác sĩ, kỹ sư hay giáo sư nay chỉ vì một thùng nước hay một con cá khô mà hạ mình nịnh bợ những kẻ không ra gì hoặc hổ trợ chúng làm những việc thất nhân tâm.
Có một số người tị nạn khác vì sau khi gặp mọi nguy hiểm và khủng hoảng trên đường đi mà thoát được. Khi đến trại, họ cảm ơn Thượng Đế vì các ơn lành của Ngài nên họ trở nên ngoan đạo, lập thành các nhóm đọc kinh cầu nguyện chăm chỉ, và làm các công tác tông đồ cách đắc lực.
G. Các trẻ em bị lạc gia đình.
Lúc tôi ở trại thì có khoảng sáu em lạc cha mẹ hoặc ra đi với người quen, còn cha mẹ các em thì còn lại Việt Nam. Một em cùng đi với cha mẹ, nhưng bị lạc cha mẹ nên không biết họ còn sống hay không. Tới trại, em có nhờ hội HTTQT kiếm nhưng không tìm được cha mẹ ở các trại tị nạn khác.
Có hai em khác thì đi cùng với người dẫn đường để đến trại. Cha mẹ các em còn lại ở Việt nam để thu xếp và đi sau. Khi tới trại, người dẫn đường xua đuổi và ruồng rẫy hai em này. Số còn lại thì đi với anh hoặc chị. Giữa đường thì anh chị chết.
Cha Tom rất chăm lo săn sóc cho các em thiếu nhi mất gia đình này. Cha cho các em quy tụ và sống chung để có một số người lo giáo dục và hướng dẫn các em. Anh trưởng ca đoàn của ban Công giáo tại trại Khao Y Dang thì lo giáo dục các em về thể thao và văn nghệ. Còn tôi đặc trách về tài vụ. Cứ mỗi tuần, tiền chợ búa cho các em ăn tiêu là do tôi đề nghị qũy của cha Tom xuất chi.
H. Bà cụ già nhất ở trại tị nạn.
Trong số những tị nạn Việt nam ở trại Khao Y Dang có một bà cụ già đến 91 tuổi. Cụ bà được các cháu cõng đi. Cụ già người gốc Chàm và quê ở Châu Đốc. Cụ là bà nội của ông Phụng Hoàng Vân, ông Vân ở trong ban cố vấn sắc tộc thiểu số đời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cụ cũng là bà của ông Tôn thất Liêm. Cụ đã được thâu hình và phỏng vấn bởi đài truyền hình Thụy Sĩ vì cụ là người tị nạn già nhất ở trong trại.
Tóm lại, trại Khao Y Dang tương đối an toàn hơn các trại tị nạn ở vùng biên giới vì nó ở trong nội địa Thái Lan. Trại còn được đặt dưới quyền kiểm soát của Liên Hiệp Quốc và Hội HTTQT.
Trại Tị Nạn Sikiew
Từ trại Khao Y Dang có khoảng tám trăm người đã lần lượt được chuyển sang trại Panatnikhom, ở tỉnh Chonburi, Thái Lan. Số còn lại độ năm trăm người gồm đại đa số là thanh niên độc thân và không có người bảo lãnh thì được chuyển sang trại Sikiew vào cuối tháng 11, năm 1980. Đây cũng là đợt chót mà dân tị nạn được chuyển đi, thế là toàn thể section 13, section đặc biệt của người Việt tại trại Khao Y Dang được xoá bỏ hoàn toàn vào cuốt tháng 11, năm 1980.
Trại Sikiew ở sâu trong đất Thái Lan, và nằm trên vùng cao nguyên của Thái Lan, khí hậu mát giống như Đà lạt. Đây là một trại tù không hơn không kém. Trại gồm có chín buildings, gồm hai tầng lầu. Mỗi building dài năm mươi thước, ngang năm thước, chứa khoảng từ 280 người đến 300 người. Mỗi người có một diện tích chỉ đủ để đặt thân mình ngủ, bề ngang độ nửa thước, còn bề dài chỉ độ hơn một thước rưỡi.
Trong chín buildings thì có hai buildings là nhà tù, một building giam bộ đội Cộng sản Việt Nam, một building giam người tị nạn Việt Nam. Ngoài ra còn có một building trống.
A. Cơ cấu nhân sự:
Mỗi building có một trưởng building có quyền kiểm soát toàn building. Tiếp đó là một trưởng phòng trên lầu, một trưởng phòng dưới lầu, một trưởng ban an ninh, một trưởng ban thư tín, một trưởng ban ẩm thực, một trưởng ban chia nước và một trưởng ban xã hội và thể thao.
Toàn thể các trưởng buildings họp lại thành trưởng ban lãnh đạo. Ban lãnh đạo làm việc dưới quyền một thiếu tá quân đội Thái. Phó trưởng trại là một nhân viên quốc gia hành chánh của Thái. Các trưởng buildings có quyền được ra phố xá Thái chơi hàng tuần và được quyền lợi về thực phẩm và nước uống nhiều hơn các người tị nạn khác.
Các buildings cách nhau bởi những hàng rào cho nên mỗi building như một lãnh địa riêng.
B. Tệ trạng quan liêu hống hách.
Ban an ninh trong trại Sikiew là những người Miên gốc Hoa được chọn lựa ra làm việc. Có thể nói là hầu hết người trong ban an ninh là thành phần bất hảo, lợi dụng quyền hành để bắt nạt dân đen.
Mỗi ngày, dân tị nạn phải tụ tập ở sân để chào cờ hai lần vào buổi sáng và buổi tối. Nếu ai trốn chào cờ hay chào cờ không nghiêm chỉnh thì sẽ bị thi hành kỷ luật như bị cạo trọc, hay bị nhốt trong tù. Ai cũng phải tỏ ra nghiêm trang khi nghe quốc ca Thái và nhìn quốc kỳ Thái lên cao. Mỗi building đều có hai người trong ban an ninh trại đứng kiểm soát. Thường thì tác phong của những người này rất tồi tệ.
Sân để chào cờ rất chật hẹp nên bà con phải chen chúc để đứng chào cờ. Sân dài độ sáu mươi thước, rộng mười lăm thước. Dân trong từng building đứng nơi sân của mình. Từ building này đến building kia rất khó vì mỗi building đều có tường xây, ở giữa có rào kẽm gai. Tiếng nhạc chào cờ được vang lên trong loa phóng thanh.
Tại đây luôn có bầu không khí căng thẳng. Diện tích sân và lầu đều quá chật hẹp cho nên bà con thường đi đứng lang thang ở trên lầu hay sân hoặc chen chúc nhau để lãnh nước và lãnh thực phẩm. Loa phóng thanh ồn ào suốt ngày để thông báo về nội quy, kỷ luật của trại. Tiếng ồn ào này làm cho người tị nạn không có thể học Anh văn hay đọc sách được. So với Khao Y Dang thì ở Sikiew rất tù túng và thiếu sự thoải mái.
Nói chung, các tệ trạng của Sikiew phát xuất từ các thành viên trong ban an ninh. Những người này đã sống lâu trong trại. Họ rất biết lấy lòng quan thầy lãnh đạo Thái nên họ được nhiều độc quyền buôn bán và kiếm ăn.
Họ có rất nhiều độc quyền như: Phân phối nước đá, thuốc lá, nước. Ban an ninh làm việc để thâu tiền cho người Thái và để được ăn chia chút đỉnh. Họ chia ra nhiều phe phái: phe thì dựa oai trưởng trại, phe khác dựa oai phó trưởng trại. Thế rồi hai phe kèn cựa nhau, thanh toán nhau bằng cách đâm chém. Họ là những kẻ nịnh bợ người Thái và là con cờ của chúng. Cuối cùng nếu họ vì đánh nhau mà xảy ra chuyện thì ban lãnh đạo Thái cũng cứ lờ đi. Người Thái không vì con cờ mà làm mất lòng nhau.
Ban an ninh còn lạm dụng quyền thế để mua tre dựng lều ở các khoảng trống rồi mở các quán cà phê kiếm lợi. Họ vặn nhạc ồn ào cả ngày với đủ loại nhạc Thái, Tàu và Việt.
Vòng rào như một phương tiện để canh giữ những tù nhân. Vì thế mỗi buổi sáng từ 8:00 giờ đến 11:00 giờ thì chỉ có mười người đại diện cho mười tổ để ra ngoài đi mua đồ ăn. Ngày hôm sau, đến mười người khác được đi.
C. Tình trạng lương thực và nước uống trong trại.
Trong thời gian tôi ở trại Sikiew gần hai tháng, tôi thấy đồ ăn ở đây rất ít. Tình trạng thiếu thốn lương thực đã làm bà con khốn khổ. Đồ ăn do nhà thầu đem đến. Vào mỗi buổi trưa và chiều, loa kêu gọi các tổ trưởng trong buildings mang sô hay thùng qua nhận đồ ăn cho tổ của mình.
Ngày nào cũng chỉ có mỗi một món duy nhất là canh bí. Canh bí gồm bí không lột vỏ được bầm nát ra để nấu với vài cái chân gà, cánh gà hay cổ gà. Có khi bí được nấu với vài miếng thịt heo lèo bèo. Cho dù là cánh gà hay thịt heo thì tiêu chuẩn thịt cũng rất ít. Trong building gồm có khoảng ba trăm người mà sô canh chỉ có vỏn vẹn hai hay ba cánh gà.
Về phần cơm thì mỗi người được hai chén nhựa. Cơm thì có bữa khô, bữa nhão,khê hay nát. Vì thế nếu ai không có tiền tiếp tế của thân nhân từ ngoại quốc gửi đến thì rất khổ cực.
Về nước thì cứ hai buildings có một hồ nước xây bằng xi măng. Cứ hai người được một sô nước mỗi ngày. Nếu lỡ hai ba ngày mà không có nước vào thì dân chúng sống rất khổ cực. Từ đó còn có thêm tệ nạn bán nước với giá cắt cổ. Thường thì những người Thái có quyền hành bỏ tiền ra thuê xe nước đem vào trại rồi bán lại cho dân tị nạn để kiếm lời. Tuy giá bán cắt cổ nhưng dân tị nạn vẫn phải mua để mà dùng.
Tại trại Sikiew có nhiều hàng quán và chợ búa. Ông trưởng trại cho người thầu để ăn hoa hồng. Hàng hóa rẻ và nhiều, gồm đủ loại: từ vải vóc, xà bông đến đồ ăn uống. Dân tị nạn có thể đặt hàng rồi họ đem hàng đến ngày hôm sau. Hàng hóa ở đây rẻ hơn ở Khao Y Dang.
D. Thư tín và thánh lễ:
Cứ ba lần trong tuần thì ban lãnh đạo Thái lãnh thư về và đưa cho ban thư tín của building để phát cho dân. Người tị nạn cũng có thể gửi qùa về Việt Nam hay đi các nước khác bằng cách giao cho ban thư tín đi ra phố Thái để gửi đi.
Mỗi ngày Chúa Nhật đều có cha Namvong, người Thái gốc Việt đến để giúp người tị nạn chuyển thư hay đổi những chi phiếu cho dân tị nạn. Cha biết nói tiếng Việt và rất tử tế, cha đã từng xây nhà thờ ở trại Sikiew và tìm cách giúp đỡ tài chánh cho những người thiếu thốn trong trại.
Cứ mỗi ngày Chúa Nhật, người nào theo đạo Công giáo thì được đi ra khỏi vòng rào để dự Thánh lễ. Họ phải xếp hàng một để đi qua cổng. Khi gặp người Thái canh gác thì phải chắp tay cúi đầu để chào theo kiểu nhà Phật. Hễ ai cố tình lờ đi thì bị phạt rất nặng.
E. Sinh hoạt chung tại trại:
Ở trại này có điện, mỗi người dân ở trong từng building phải góp nhau mua bóng đèn. Mỗi building có từ mười đến mười hai bóng đèn nê-ông. Bà con có thể thắp từ chặp tối đến sáng. Còn ở Khao Y Dang thì không có điện nên bà con phải dùng dầu ăn và vải để làm bấc thắp đèn.
Mỗi tháng, ban lãnh đạo người Thái có những buổi chiếu phim có tính cách bắt buộc. Ai cũng phải đem mùng mền ra xem và ngủ ở ngoài sân vận động. Thường phim được trình chiếu là phim Tàu về quyền cước hay tình cảm. Nghe nói sau này còn có những phim tục tĩu, khiêu dâm. Phim chiếu từ tối đến năm, sáu giờ sáng. Có khi chiếu đến năm, sáu cuốn phim. Có người ra để xem phim, nhưng có số khác ra để cặp bồ bịch hay ân ái.
Ngày chiếu phim là ngày vui cho cả trại vì bà con đua nhau mặc quần áo đẹp. Còn các hàng quán thì mọc ra như nấm để được dịp kiếm tiền. Ban an ninh còn được dịp để khai thác và thâu lợi trong việc ăn uống.
Ở Sikiew có hai cảnh sống trái ngược và mâu thuẫn nhau. Kẻ nào có người nhà ở ngoại quốc tiếp tế hay kẻ ấy biết “mánh mung” thì rất sướng. Trái lại phần lớn dân tị nạn rất khổ vì họ bị nạn bè phái, cá lớn nuốt cá bé nên khổ cực trăm bề.
Tệ nạn bài bạc và mãi dâm:
Các tệ nạn bài bạc, mãi dâm, lừa gạt , đánh lộn, chèn ép đầy dẫy ở trại này. Các người trong ban an ninh, phần lớn là người Tàu lai Miên thường tụ tập bài bạc rồi lấy tiền xâu góp cho ban lãnh đạo người Thái.
Ở building số năm nổi tiếng về tệ nạn mãi dâm. Building này có nhiều người Tàu. Các cô gái Lào từ mười lăm tuổi đến hai mươi tuổi thường là rất đẹp: da trắng và má hồng. Vì phải ở lâu trong trại nên sinh ra đói khát. Các cô này đành phải bán dâm để kiếm ăn.
Các cô gái Việt Nam cũng không kém gì. Họ bị vật chất quyến rũ, lại thêm những tai họa trên đường đi. Từ đó họ sinh ra chán nản,buông thả và bất cần đời. Cảnh lấy vợ, ghép chồng rất nhiều. Họ cần tiền và cần sự giúp đỡ nên lấy nhau rồi bỏ nhau như cơm bữa.
Tệ nạn lừa gạt: Tìm bạn bốn phương.
Ở trại này có một tệ trạng nổi tiếng là nạn: “Tìm bạn bốn phương”. Đây là một tình trạng lừa gạt có hệ thống và tính toán. Các thanh niên độc thân ở building chín thường là những bộ đội Cộng sản Việt nam đào ngũ trốn đi.
Khi qua đến Thái Lan, họ lại bị chính quyền Thái bắt nhốt ở đây quá lâu.Từ đó, họ nảy sinh ra việc đăng báo ở ngoại quốc. Họ giả làm các cô gái, tạo ra những câu chuyện thật thương tâm để làm các nam độc giả ở ngoại quốc xiêu lòng gửi tiền qua trại Sikiew giúp đỡ cho họ.
Các thanh nên này vì đã ở đây ba, bốn năm nên họ không sợ thư gửi qua bị lạc vì người nhận đã đi định cư. Họ còn bắt liên lạc với những người chụp hình để làm ăn. Những người có máy hình chỉ việc đi vòng quanh trại, thấy cô gái nào đẹp là chụp hình và không lấy tiền. Sau đó, họ rửa hình cất đi để làm ăn, đôi khi họ cho các cô đã chụp hình một vài tấm có hình cô ta. Vì thế, các cô này rất thích cho họ chụp hình, nhưng sau này, việc đổ bể nên họ mới dè dặt.
Tôi đã được biết rất rõ những trường hợp giả mạo này ở building chín trong mục tìm bạn bốn phương. Các cậu này lấy những tên con gái thật đẹp và thật kêu để ngụy tạo. Họ tạo những lá thư tả oán thật đáng tội nghiệp, chẳng hạn như cảnh: ”Nàng đi với chồng, rồi chồng bị giết, nay bơ vơ cần tìm người quảng đại và tử tế để lập lại cuộc đời.” Hay cảnh: ” Nàng đi với gia đình rồi gia đình bị chết, nay cô đơn cần người an ủi.” Rồi thì đến cảnh: ”Các cô cựu nữ sinh Gia Long hay Trưng Vương buồn nhiều trong cảnh ngộ vượt biên, cần tìm bạn an ủi, bảo trợ và giúp đỡ tài chánh.”
Từ đó, các thư hồi âm về trại rất nhiều. Có thư kèm theo những chi phiếu hai trăm đô la hay một trăm đô la. Có một lúc, một cậu giả làm một cô gái được rất nhiều thư có tiền đến cùng một lúc. Thế là anh chàng sống phè phỡn và đế vương.
Ở ngoại quốc, những người đã gửi tiền qua bèn xin hình để biết mặt người đẹp. Thế là các anh này đi móc nối với nhóm chụp hình để mua hình các cô gái đẹp và gửi đi lừa những người ở ngoại quốc. Giá hình cũng tùy thuộc theo cô gái trong hình xấu hay đẹp.
Thế là trong trại nảy sinh ra nghề viết thư mướn. Ai viết chữ đẹp và giống chữ con gái thì được người chủ mưu tìm bạn bốn phương thuê để viết thư theo ý họ muốn. Công viết một lá thư là từ năm đô la trở lên. Mỗi lá thư viết lâu từ mười lăm phút đến hai mươi phút.
Có lúc tệ trạng này bị đổ bể vì ở ngoại quốc có một anh viết thư cho ban đại diện building đó để hỏi xem có cô gái nào tên này, tên kia ở trong building chín không. Ban đại diện trả lời là trong building đó chỉ toàn là đàn ông mà không có đàn bà. Anh chàng bèn tức giận, đăng nghi vấn lên báo chí ở ngoại quốc. Rồi anh ta viết thư chửi cô gái giả mạo nọ. Nàng giả mạo bèn viết thư qua kể lể rằng: ” Em chính là con gái, nhưng vì người trưởng building của em muốn ”cua” em, em không đồng ý nên họ đặt điều để phá em. Nếu anh không tin thì cứ gửi quần áo về trại, em sẽ mặc để chụp hình gửi cho anh sau.”
Anh kia bán tín bán nghi nên sắm một thùng quà toàn áo đầm, quần jeans và áo thung gửi qua trại ngay. Cô gái giả mạo bèn đi tìm cho được cô gái đã chụp hình để nói láo rằng gia đình hắn gửi quà cho em gái hắn. Nay em gái hắn còn kẹt lại ở các trại biên giới Thái-Miên nên không mặc được. Rồi hắn tặng cho cô ta thùng quà đó.
Cô ta mừng rỡ nhận ngay. Thế rồi hắn đòi cô ta cho hắn được chụp vài hình làm kỷ niệm. Cô gái kia thật thà cho chụp hình ngay. Sau đó, hắn gửi hình cô ra ngoại quốc để thanh minh với anh chàng kia. Anh kia bèn gửi thêm một lá thư cho ban đại diện building để chửi họ. Thế là mọi sự mới đổ bể ra.
Bọn bất lương này đã làm giàu nhờ việc giả mạo để chơi mục ”Tìm bạn bốn phương”. Bọn họ rất phe phỡn. Họ tuyên bố rằng họ có thể mua xe hơi ngay tại Thái, nhưng họ sẽ để dành tiền để ra ngoại quốc sống.
Sau này, vì tò mò, tôi mới tìm hiểu và được biết rằng đây là một tổ chức có quy mô, từ trên xuống dưới, đều chia nhau ăn. Ban lãnh đạo người Thái thường đi ra lãnh thư. Khi đi, có cả ban an ninh đi theo. Hễ thư của anh nào mang tên con gái thì ban an ninh nhận hết về phần họ.
Khi về, tùy theo số tiền gửi trong thư nhiều hay ít thì cô gái giả mạo kia phải chia tiền cho người Thái và ban an ninh. Ví dụ thường thì một trăm đô la đổi được hai ngàn bahts. Nay một trăm đô chỉ đổi được một ngàn hai trăm bahts hay một ngàn năm trăm bahts. Người trưởng trại Thái nhận đổi theo kiểu này.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao ban an ninh biết mà không ăn chận thư ngay mà lại đưa trả cho kẻ chủ sự việc này? Câu trả lời là họ muốn ăn dài lâu nên không thèm ăn chận một lần. Họ cố tình nuôi dưỡng vấn đề này để cùng ăn chia dài dài.
Ban lãnh đạo người Việt tuy biết tệ trạng này nhưng không có thực quyền nên đành làm ngơ. Nếu làm ra chuyện, họ sẽ có thể bị chụp mũ là Cộng sản và bị nhiều điều bất lợi cho cá nhân họ. Có nhiều người bị ghét nên bị ghép tội rồi bị bắn chết.
Tôi được nghe rằng vào năm 1979, có người tị nạn bị người Thái ghét nên họ đem ra hàng rào bắn chết vào ban đêm rồi gắn tội cho anh ta là tình báo trốn ra ngoài nên bị bắn khi đang chui hàng rào ra.
Vì làm ăn khấm khá nên những cô gái giả mạo này cứ cố tình trì hoãn để khỏi phải chuyển trại. Họ muốn ở lại Sikiew mãi để làm tiền những người ở ngoại quốc.
Tóm lại, đời sống ở Sikiew rất tù túng và gò bó. Tệ nạn tại đây cũng nhiều hơn các nơi khác. So với các trại tị nạn khác thì trại Sikiew này chính là trại tù khổ cực nhất và đầy dẫy sự bất công.”
Nguyễn Văn Thụy Viễn
1 2 3 4 5 6 7 8 9
HỒI KÝ VƯỢT BIÊN ĐƯỜNG BỘ - KỲ 6
1 2 3 4 5 6 7 8 9
"Tiếng gọi nhau xen lẫn với tiếng rít của pháo nghe rợn người. Chúng tôi lại đổ xô lên nhau mà thoát ra cổng chính. Tất cả 4,473 người chen chúc ra bằng một cánh cổng rộng không quá năm thước. Người ta chen lấn và đè lên nhau để tìm lối thoát. Có kẻ đã phá rào để thoát ra, hòa chung với dân Khmer đang di tản bên ngoài. Mặc dù lính Thái vẫn chưa cho vào đất họ, chúng tôi đã phải dìu dắt nhau mà chạy vì nhiều cụ già, em bé, nhất là các phụ nữ đã té hay bị xây xát trong khi thoát ra khỏi trại. "
Bài viết của Ông Lâm Quản Nhân"
Ông Lâm Quản Nhân, Một Người Tị Nạn Đường Bộ Viết Về Trại Tị Nạn Dongrek
Lời Nói Đầu: Sau đây là lá thư của ông Lâm Quản Nhân gửi cho tác giả Kim Hà ngày 11, tháng1, năm 1985, sau khi các người tị nạn đường bộ ở Dongrek đã được xem loạt bài về
”Hành Trình Đường Bộ Tìm Tự Do” của Kim Hà, đăng trên báo Tin Việt vào các năm 1984, 1985 và 1986.
Kim Hà đã đưa bản chính của lá thư này cho nhà văn Quyên Di, để đăng trên báo Đường Sống, vào trung tuần tháng 1, năm 1985.
Dongrek, Đêm Không Ngủ
Dongrek vẫn ngủ vùi, mặc dù tiếng pháo vẫn nghe rõ mồn một từ phía Ampil.
Ngày 7, tháng 1, năm 1985.
Buổi sáng hôm nay đầy sương mù. Mọi hoạt động đã bắt đầu. Trong khi các trận đánh của quân kháng chiến Khmer tự do và Cộng quân vẫn diễn ra một cách ác liệt. Nơi đó, cách Dongrek không quá ba cây số đường chim bay.
Dongrek đang lên cơn sốt từ mấy hôm nay. Mọi nguồn cung cấp từ biên giới Thái đều bị giới hạn. Các xe cứu thương của cơ quan MSD cũng như các xe nước đều bị giới hạn. Xe nước giảm xuống từ mùng 5 đến mùng 7 tháng 1 năm 1985. Tiếng thông báo từ chiếc loa của ban đại diện vang lên trong không gian. Hôm nay, chúng tôi không được phép ra khỏi trại vì dân Khmer sẽ biểu tình và tuần hành bên cạnh trại chúng tôi vì ngày 7 tháng 1 là ngày Quốc Khánh của bọn bù nhìn Hen Samrin.
Thế là chúng tôi, những người Việt nam vô tội lại nhận chịu những quả dưa thối, những hòn đá hay những lon cá được ném vào từ phía ngoài.
Khoảng 7:00 giờ sáng, khi mọi sinh hoạt gần bình thường, bất chợt, những tiếng dội xé không gian, cách trại chúng tôi không xa. Những xe nước hôm nay không vào. Chúng tôi hầu như bị cô lập hoàn toàn. Dongrek được nối với thế giới tự do bên ngoài chỉ bằng một cánh cổng mà chúng tôi thường gọi là ”công lôi”. Chỉ một vài chiếc xe của ICRC (HTTQT, chữ tắt của International Committee of Red Cross) được phép vào và xuất hiện trên đường sau khi đạn pháo đã ngừng hẳn. Đó cũng là một biểu tượng duy nhất của mối liên lạc bên ngoài.
Nước! Nước! Một nhu cầu cấp thiết ở một vùng cao nguyên không tìm ra một giọt nước này. Chúng tôi hoàn toàn không có nước dự trữ, vì trong tình trạng bình thường, mỗi đầu người chỉ có 9 lít nước cho mỗi ngày.
Chúng tôi vội vã ăn những hột cơm trong lo âu và sợ sệt, rồi sắp xếp lại đồ đạc để đề phòng những quả pháo sẽ bất chợt đến viếng thăm vào ban đêm trong dịp lễ Quốc Khánh của họ.
Đúng như dự đoán, khi mặt trời vừa khuất bên kia dãy núi Dongrek. Đêm đen dần, hàng loạt quả pháo lại nổ tung cách chúng tôi không xa. Chúng tôi phải nằm và phải bò, mặc dù chúng tôi chưa bao giờ bước chân đến quân trường.
Tiếng gọi nhau xen lẫn với tiếng rít của pháo nghe rợn người. Chúng tôi lại đổ xô lên nhau mà thoát ra cổng chính. Tất cả 4,473 người chen chúc ra bằng một cánh cổng rộng không quá năm thước. Người ta chen lấn và đè lên nhau để tìm lối thoát. Có kẻ đã phá rào để thoát ra, hòa chung với dân Khmer đang di tản bên ngoài. Mặc dù lính Thái vẫn chưa cho vào đất họ, chúng tôi đã phải dìu dắt nhau mà chạy vì nhiều cụ già, em bé, nhất là các phụ nữ đã té hay bị xây xát trong khi thoát ra khỏi trại.
Trại rộng khoảng gần một cây số vuông. Ngày trước phải chen chúc nhau mà ở. Bây giờ vắng lạnh, không một bóng người. Tất cả đã vào rừng hay vào sâu tận chân núi để ẩn nấp. Đồ vật văng tung tóe khắp nơi trong sân trại.
Cảnh màn trời chiếu đất lại tái diễn với chúng tôi. Trời đầy sương mù, bóng đêm như đe dọa và uy hiếp. Từng nhóm người tụ nhau lại trên sân cỏ, trên đá, dưới ánh trăng mờ nhạt. Những nét đau khổ, sợ hãi hiện rõ trên từng gương mặt. Chiến tranh là thế đấy!
Chúng tôi đã đánh đổi tất cả những gì yêu qúy nhất của một con người để tìm lấy một cảnh đời mới với hy vọng sẽ hưởng được chút ánh sáng của tự do. Nhưng trớ trêu thay, chiến tranh vẫn đuổi theo chúng tôi. Ngay cả khi chúng tôi đang đứng trước ngưỡng cửa tự do.
Liệu khi Cộng quân tấn công vào đây, chúng tôi có được phép di tản vào đất Thái hay một nơi nào an toàn khác không hay vẫn sống với nhóm dân Khmer đang rực lửa căm hờn và sẵn sàng hành hung chúng tôi? Ban ngày chúng tôi có thể bám víu vào Chúa thôi.
Những hình ảnh Cộng quân tràn ngập Dongrek, cảnh chết chóc hay những tấm plastic xanh dưới bầu trời rực lửa như đe dọa và uy hiếp chúng tôi. Mang tâm trạng hãi hùng, chúng tôi qua một đêm.
Sáng ngày 8 tháng 1, năm 1985.
Chúng tôi được phép về trại, mặc dù tiếng súng vẫn còn vang lên cách chúng tôi không xa. Với tư thế sẵn sàng, chúng tôi phải đương đầu với mối khó khăn khác: Nước, mỗi đầu người chỉ được hai lít để nấu nướng, uống và tắm giặt.
Sáng hôm nay, nơi được khách thăm viếng đông nhất sau đêm qua là OPD (Outpatient Department), các bệnh nhân đến. Kẻ nằm chờ, kẻ đứng đợi, đông như kiến. Nhưng thuốc men thì rất tiếc, không đủ để cung ứng.
Cứ với không khí căng thẳng đó, chúng tôi trải qua đến tối, thời điểm các đợt pháo thường viếng khu vực này. Chúng tôi vai gồng vai gánh cùng nhau ra sân banh, gần cổng chính để ngủ hầu chạy dễ dàng hơn.
Một số lính Para Miên, thuộc phe kháng chiến tự do của Sonn San không chính phủ, lúc bấy giờ được di chuyển vào vùng này. Lợi dụng tình hình khẩn trương đó, họ vào trại bắt phụ nữ hãm hiếp, cướp đoạt tài sản và hành hung một số người.
Sau lưng, Cộng quân đang đe dọa. Trước mặt cảnh hãm hiếp lại diễn ra. Chúng tôi là những người Việt Nam tị nạn, nào có tội tình gì đâu? Có chăng là cái tội ”Tìm tự do” thôi. Sao chúng tôi lại nhận chịu những cảnh thương tâm đến thế này. Suốt đêm không ai ngủ được. Sương mù vẫn dầy đặc và đạn pháo vẫn nổ không xa.
Ngày 9 tháng 1, năm 1985.
Sáng đến, khi ánh mặt trời đã xua tan đi bóng đêm cùng những lo âu và sợ hãi, chúng tôi thở phào như trút được gánh nặng. Mọi mệt mỏi hầu như tan biến, chỉ có những gia đình gặp điều bất hạnh thì còn đau khổ. Chúng tôi trở về nơi ở với những bước chân rã rời sau một đêm không ngủ.
Cứ thế, mỗi buổi chiều, chúng tôi lại di tản tạm ra sân banh để ngủ, nhất là các cô gái thì tình trạng rất căng thẳng. Biên giới vẫn đóng cửa. Nạn thiếu nước vẫn đe dọa. Bệnh hoạn mặc sức tung hoành. Đạn pháo và nạn hãm hiếp vẫn đe dọa hằng đêm. Mọi người phải sống với một tinh thần bịnh hoạn. Chúng tôi phải chịu đựng cảnh tượng này đến bao giờ?
Hơn hai năm nay, chúng tôi đã chịu đựng quá nhiều đau khổ, thế mà tương lai vẫn là một viễn tượng xa vời. Liệu khi Cộng quân tấn công vào Dongrek, chúng tôi có thoát khỏi các họng súng tàn ác của kẻ thù không?
Ngược giòng thời gian, khi Non Chan thất thủ vào tháng 12 năm 1983 và rồi Non Chan bỏ chạy vào tháng 3, năm 1983, người dân tị nạn chúng tôi đã xem như được tái sinh một lần rồi.
Chúng tôi đã không sống được với Cộng sản là vì chúng tôi ghê tởm sự tàn bạo của chính sách cưỡng bức của họ. Chúng tôi tìm tự do, tìm tự do! ba tiếng ấy sao nghe chua xót đối với chúng tôi thế nào ấy. biết bao nhiêu đồng bào tôi đã phải chết một cách oan ức và tăm tối. Và không biết bao nhiêu cô gái Việt nam đã bị giày vò dọc theo biên giới này.
Chúng tôi, những người theo đuổi lý tưởng tự do và hiện đang đứng trước ngưỡng cửa tự do, chẳng lẽ chúng tôi lại bị tự do chối bỏ sao? Chúng tôi tin tưởng vào các nước tự do vì họ đặt nền tảng trên căn bản” Tự do và nhân ái”. Chúng tôi tin tưởng vào cộng đồng người Việt của chúng ta, những người may mắn đang hưởng không khí tự do ở các nước phương Tây, sẽ nghe tiếng kêu cứu của chúng tôi, những con người đang hấp hối trong chiến tranh, dọc theo biên giới tối tăm này và đang chờ đợi vòng tay tự do ấp ủ.
Tiếng đạn pháo vẫn nghe rõ mồn một và nắng vẫn gay gắt hơn bao giờ hết.
Tái bút: Tính đến nay, trong khoảng 4,473 người tị nạn ở đây, chỉ có hơn hai ngàn người đã được các nước sơ vấn vào tháng 12 năm 1984. Riêng những người bất hạnh ở trên hai năm thì bị sót tên rất nhiều, đến hơn một nửa tổng số.“
Lâm Quản Nhân, 9/1/1985
"Ngay từ những tiếng pháo đầu tiên, khu vực Site I dành cho dân Miên đã di tản vào Site II, còn chúng tôi chạy theo dân Miên ở Site A hướng về Site II. Đến nửa đường, lính Thái bảo chúng tôi dừng lại ngủ qua đêm ở đó.
Gần sáng ai cũng hy vọng Cộng quân đã ngưng đánh. Một số người trở về Site A để lấy đồ đạc. Bất ngờ, Cộng sản dùng ”Pháo bầy” bủa xuống hướng Dongrek cũ. Dân tị nạn tốc cả đồ đạc, bỏ gạo, bỏ hành lý để chạy lấy thân. Có người lạc cả vợ con."
Bài Viết Của Ông Lê Văn Hưng
Ông Lê Văn Hưng: một người tị nạn đường bộ ở các trại Non Chan, Non Samet, Dongrek và Site II.
Lời nói đầu: Anh Lê văn Hưng là em ruột của ông Lê Bá B. Theo lời kể của ông B. thì Lê văn Hưng trước là sinh viên đại học Văn khoa ban Anh văn, năm thứ hai. Sau năm 1975, khi Việt Nam đổi chủ, anh Hưng học hỏi và nghiên cứu về Thiền (Yoga) và Thông Thiên học.
Sau đó, anh Hưng bị bắt và bị nhốt chung với những người bị tù về tội vượt biên ở tại Vũng Tàu. Gia đình Hưng phải lo lót mất năm ngàn đồng Việt để anh được trả tự do. Khi ông B. đi, ông có rủ Hưng đi chung nhưng Hưng không dám đi.
Cuối cùng vì phải trốn tránh và tù tội nhiều nên Hưng mới vượt biên bằng đường bộ sau ông B. Anh Lê văn Hưng đến trại Non Chan ngày 24 tháng 9, năm 1982 và bị nhốt ở trại tù Non Chan. Được ít lâu thì bộ đội Việt nam tổ chức một trận đánh đại quy mô để tấn công Non Chan. Và Non Chan bị đánh tan tành.
Nhân đó, Hưng và các bạn đồng cảnh ngộ phải phá trại tù để chạy bừa đi, nếu không sẽ bị bắn hay bị Việt cộng giải về các nhà tù ở Việt nam. Hưng chạy bừa qua vùng Ancelar, cách đó vài cây số. Sau đó, Hưng được chuyển tới trại Non Samet, ở sát trại NW 82, nhưng lúc ấy trại đã được giải tán rồi.
Sau đó, trại Non Samet bị giải tán và tất cả dân tị nạn ở đây đều bị đẩy lùi vào sâu trong đất Cambodia thêm ba cây số. Tên của trại mới này là Phnom Dangrek or Dongrek.
Ở nơi đây cũng có sự hiện diện của hội HTTQT. Dân tị nạn Việt và Miên bị chở đến trại mới này bằng xe GMC. Có một số người chống cự thì bị lính Thái đánh đập. Còn những người mưu toan trốn đi thì bị bắn chết. Lính Thái còn dọa là sẽ trả họ về biên giới Việt nam. Đó là một điều đáng sợ vì họ có thể chết dưới lằn đạn ở vùng biên giới.
Hiện nay, sau năm năm trời sống triền miên trong đau khổ và tủi cực, anh Lê văn Hưng đã định cư ở Orange County, California vào năm 1987. Anh có sưu tầm rất nhiều hình ảnh và tài liệu về các trại tị nạn mà anh đã sống qua. Anh Hưng đã cho phép Kim Hà sử dụng các bài viết của anh và hình ảnh để giúp cho tập hồi ký chung của người tị nạn được phong phú và đa dạng hơn.
Ngoài ra, Ông Lê bá B. đã cho phép Kim Hà đăng lá thư kể lại chuyến vượt biên nguy hiểm của anh Lê văn Hưng, do chính anh Hưng viết gửi cho gia đình. Anh Hưng viết dưới dạng kể chuyện về một người tên Lê.
Cuộc Hành Trình Gian Khổ
Non Samet ngày 28, tháng 7, 1983.
Khởi hành từ Sàigòn vào sáng sớm, Lê đáp xe đò tại xa cảng miền Tây để đi Châu Đốc. Xế chiều thì đến nơi. Đoạn đường đi cũng khá vất vả: nhiều ổ gà và nắng nôi... Trọ một đêm tại nhà một người quen của người dẫn đường. Chiều hôm sau đi đò ngang qua Tân Châu rồi đi xe lôi đến bến đò Tân Châu.
Từ đây, đò nhỏ sẽ đưa khách ra đò máy neo giữa sông. Đến gần đêm đò mở máy đi về hướng Nam Vang sau khi chất đầy hàng hóa. Đò đã vượt nhiều trạm xét để tránh né sự kiểm soát nguy hiểm. Lê chỉ biết là mình đã vào lãnh thổ Miên khi nghe người lính xuống xét đò nói bằng tiếng Miên trong đêm tối.
Khoảng 10:00 giờ sáng hôm sau thì đò tiến vào địa phận Nam Vang. Từ xa đã thấy mái ngói đỏ của Thành ông vua, tức là dinh của Hoàng tử Sihanouk xưa kia. Trong suốt cuộc hành trình trên sông, Lê phải vấn khăn mà người Miên gọi là Kroma hay kàma để che mặt và nằm co quắp lại cho giống một đứa trẻ hầu cho công an chìm không nhận diện được.
Bốn người dẫn đường và Lê đi xe lôi qua cầu Sàigòn, tên một cầu lớn ở Nam Vang, về ở nhà một người quen của các người dẫn đường khoảng năm ngày để chờ đường xá êm và chờ có xe để đi Battambang. Đường đi Battambang cũng hư nát nhiều chỗ, nên xe chạy bị xóc, đi hết một ngày tròn mới đến nơi.
Tại bến xe, bọn Công an chìm của Miên đầy rẫy nên rất dễ bị bắt. Phải lên xe, xuống xe, nói chung là phải hành động thật ăn khớp với dấu hiệu của người dẫn đường. Tiếng Việt trong lúc ấy thật nguy hiểm, khi tối cần thiết mới dùng đến mà phải nói thật nhỏ, thật kín đáo. Còn tất cả phương tiện thông tin là ánh mắt và dấu hiệu bằng tay. Cứ như là một phim trinh thám.
Xuống khỏi xe đò, len lỏi trong đám đông rồi phóng lên một xe lôi thật nhanh, đi về nhà một người quen của các người dẫn đường. Chờ đến tối mới về nhà của họ ở sâu trong rẫy.
Trong khi chờ đợi, Lê xin chủ nhà đi tắm cấp tốc để tẩy đi cả kí lô đất bụi và mồ hôi bám trên người. Tối đến, mẹ của người dẫn đường, độ 70 tuổi, ra dẫn Lê về nhà họ. Vì đường đi mất an ninh, Lê phải ở đó cả nửa tháng. Thật bực bội! Ăn rồi phải bó chân trong một căn buồng cỡ ba thước vuông trên nhà sàn cất theo lối người Miên. Khi muốn tắm và đại tiện thì phải chờ đến tối mới được xuống nhà sàn và ra ngoài, nhưng phải thật lẹ!
Đến ngày đi, cả nhà thức dậy sớm, lo hóa trang cho Lê bằng cách bôi lọ nồi lên mặt cho đen bớt, rồi họ chỉ cho Lê cách vấn khăn cho đúng và cách xức bùa. Xong Lê lội ruộng ra bến xe Battambang cùng với bà cụ 70 tuổi và hai người cháu của bà.
Cuộc mạo hiểm đến giai đoạn này gay go hơn trước. Thường thì người tị nạn bị bắt ở đây. Đi xe đò từ Battambang đến Swai, Sisophon. Tới bến xe Swai, đi xe ngựa, vào một con đường núi, có nhà dân rải rác hai bên đường.
Theo chương trình, bọn người dẫn Lê có hẹn với một người đánh xe bò khác tại khúc đường rầy, nên cả bọn vào một quán nước nhỏ bên lề đường để chơ đợi. Người dân chung quanh nhìn Lê một cách tò mò, soi mói đến rợn tóc gáy! Thật không ổn, người cháu trai bèn dẫn Lê vào một bụi rậm trong ruộng, bảo ngồi nấp ở đó, chờ y trở lại. Nếu y muốn bỏ rơi Lê lúc đó thì thật dễ như trở bàn tay!
Ngồi đó khá lâu mà không thấy y trở lại, Lê bắt đầu lo. Bất chợt một người đàn ông từ xa rẽ bụi rậm tiến ngay lại nơi Lê nấp. Y bảo Lê đứng dậy và theo y. Thế là xong! chắc về Chí Hòa quá(Chí Hòa là nhà tù ở Sàigòn, Việt Nam). Nhưng về đến nhà, y bảo Lê nằm trên bộ ván ngựa và ngủ đi. Còn y sẽ đi canh bắt người dẫn đường và giao họ cho công an vì những người này, theo y, đã bỏ rơi Lê. Đứa con gái của y, trông cũng dễ thương và nhí nhảnh, nhưng khá lễ phép, cười trấn an Lê và ra dấu bảo không sao đâu.
Khoảng một tiếng sau, người đàn ông ấy dẫn các người dẫn đường về. Hai bên bàn bạc với nhau bằng tiếng Miên. Người đàn ông ấy là người Chàm, ông ta bằng lòng che dấu Lê, chờ đến tối Lê sẽ lên đường.
Theo sự thỏa thuận từ trước, Lê chỉ đưa tín hiệu về khi nào tới trại và chụp hình gửi về kèm với tín hiệu để gia đình Lê đưa tiền. Nhưng tới đây, người cháu trai của bà cụ 70 tuổi phân trần, nài nỉ Lê viết tín hiệu, và nói lần trước gia đình người anh của Lê cũng đưa tín hiệu tại một làng Miên chứ chưa tới trại tị nạn. Quan trọng là tin tưởng nhau và uy tín của lần trước đủ để bảo đảm cho lần này. Sau khi cân nhắc lợi hại và kèm theo một chút liều, Lê đành viết tín hiệu.
Người cháu trai ấy bảo Lê sẽ đi theo hai người Khmer khác, còn y sẽ đạp xe đạp theo một đường khác công khai, vì y biết tiếng Miên. Y nói là vào sáng hôm sau, Lê sẽ vào trại người Miên ở một ngày, hôm sau y sẽ thuê người dẫn Lê đến trại người Việt. Tại đó, Lê sẽ được phát quần áo, bàn chải đánh răng và khăn.
Đến tối, trời mưa lất phất, Lê theo hai người thanh niên Khmer khác lần mò xuống ruộng nước. Khi thì Lê phải bương theo đám cỏ gai và cây mắc cở. Chân tay bị đâm nát bấy, có lúc phải bị dính lùng bùng trong ấy rất lâu mới gỡ ra được. Khi thì Lê phải lội qua nơi nước sâu qúa đầu, Lê lại không biết bơi, phải bám vào một cái thùng bằng nhựa để cố gắng bám theo hai người Khmer ấy.
Trong đoạn đường lội nước đó, Lê uống nước sình khá nhiều và bị đỉa đeo cũng dữ. Lê không quen đi trên bờ ruộng trơn trợt. Hơn nữa, đêm tối đen như mực, tay giơ lên không thấy, nên Lê té lên té xuống nơi ruộng sình lầy hàng trăm lần. Hai ống quyển bị va vào các ụ mối nhỏ trên bờ ruộng đau đến tê tái.
Có lúc Lê phải lội qua những cánh đồng cỏ ngập nước, cỏ ba khía bén như dao cạo đã cứa nát các kẽ ngón chân. Các bắp thịt ở háng và hông đã rã rời, không còn tính dẻo dai nữa, cho nên cử động rất khó khăn. Có lúc Lê phải đi ngang như cua, có lúc đi giống một người què, có lúc không cất nổi chân lên một độ cao chỉ mười phân. Lê bị vướng vào cỏ, té nhào xuống, không muốn ngồi dậy nữa.
Chàng cứ thế mà nằm dụi xuống dưới lớp bùn, nếu không có sự thúc hối của hai tên dẫn đường. Bộ não không còn làm việc, chỉ còn một ý tưởng duy nhất trong đầu là: ”Gắng đi tới!”
Đêm thì mù mịt, không biết bao giờ mới sáng. Nhưng không hiểu lúc ấy Lê mong sáng để làm gì? Vấn đề không phải là sáng hay tối, mà là chấm hết con đường. Trong khi ruộng nước bao la, đi hoài không thấy hết. Xỉu lên xỉu xuống cả trăm lần, hai tên dẫn đường có khi phải xốc nách Lê mà lôi đi.
Sức đã kiệt! Nhiều lúc trên đường đi, Lê không dám nghĩ rằng mình có thể vượt qua sự thử thách kinh khủng này, rằng mình có thể đi hết con đường tị nạn. Hai tên dẫn đường đi rất nhanh, cứ bỏ xa Lê hàng chục thước trong đêm tối. Lâu lâu, Lê phải ngồi thụp xuống, căng mắt ra để cố phân biệt hai bóng đen mờ, nhấp nhô của hai tên dẫn đường với các bóng cây in trên nền trời mờ mờ xám.
Quan sát thái độ ấy của hai tên Khmer, một ý nghĩ đến với Lê lần thứ hai làm tim chàng co thắt lại:
”Cứ cái đà này thì chúng sẽ bỏ rơi mình!”
Đang đi thì có hai tiếng pháo kích lớn, đạn bay qua đầu gần đó. Đến gần sáng, hai tên Khmer đi nhanh hơn, càng lúc càng xa, Lê không dò theo chúng được. Ý nghĩ bị bỏ rơi càng đậm nét trong đầu, Lê cố gắng ho và lắng giọng, rồi giẫm chân mạnh xuống để tạo tiếng động, hy vọng không phải hai tên ấy muốn bỏ rơi, mà là chỉ đi lạc, sẽ nghe theo tiếng động ấy mà đứng lại đợi chàng.
Nhưng chúng đã đi luôn. Lê không thể tả nổi sự kinh hoàng và tuyệt vọng mà Lê có lúc ấy! Đứng giữa trời đêm đó, Lê lớn tiếng cầu nguyện và nghiến răng chờ trời sáng. Chàng tin rằng Thượng Đế sẽ chỉ cho Lê một con đường đúng.
Đến sáng, Lê càng bàng hoàng khi thấy quanh mình chỉ toàn là ruộng nước mênh mông. Ruộng nước chạy mãi đến chân trời, không có lấy một mái nhà. Nhưng không thể đứng đó chờ chết được! Lê đi đại về một phiá, lạc vào một rừng thông xơ xác. Lê quay lại và đi theo một hướng khác, rồi nhiều hướng khác nữa.
Chợt thấy từ xa có mấy người nông dân Miên vác cuốc đi lại, đồng thời có tiếng máy phóng thanh. Chắc chắn gần đây có dân ở, có ”phum”, tiếng Miên dùng để chỉ làng. Những người Miên ngoắc Lê lại và ra dấu hỏi, vì nhìn mặt chàng là họ dư biết chàng là ”Dzun”, tiếng Miên dùng để chỉ người Việt một cách khinh bỉ.
Sau đó, họ bảo chàng với hảo ý rằng hãy lấy khăn quấn lên đầu và che mặt, tay áo buông xuống để che nước da trắng hầu khỏi bị du kích Miên bắt và họ chỉ hướng để chàng đi vào ”phum” của họ. Tại đó, Lê vào nấp trong một căn nhà của một bà cụ Miên. Bà đã cho chàng ăn cơm.
Chàng đã tận dụng khả năng Miên ngữ cũng như khả năng thông tin bằng tay chân, giống như một người câm để thuyết phục các người dân ở đó dẫn chàng đi tiếp tới trại Non Chan. Họ hỏi Lê có nhẫn vàng không, Lê bảo không. Thế là họ cười xòa và lắc đầu. Mặc dù Lê có dấu trong lưng quần, nhưng không dám đưa ra vì sợ họ giết và cướp.
Thất bại trong việc thuyết phục, Chàng bảo họ đưa chàng ra đầu thú tại đồn công an địa phương, họ bảo đừng làm như thế. Ở lại cũng chết, đi cũng chết. Thôi thì cứ tận nhân lực. Lê quyết định đi về phía lùm cây mà đàng xa có tiếng máy phóng thanh. Càng tới gần, chàng càng có hy vọng nhiều hơn.
Chàng thấy có những đám đen nhỏ di chuyển một cách trơn tru trên một đường chỉ. Có lẽ đó là những chiếc xe đạp chạy trên đường. Cứ thế, Lê đi tới và cố tránh chạm mặt với dân địa phương trên đường đi. Tới nơi, Lê thấy có nhiều người, vừa đi bộ, vừa đi bằng xe đạp, mang theo nhiều bao hàng hóa đi về cùng một hướng.
Sau này chàng mới biết đó là dân buôn lậu từ Thái về đất Miên. Chàng bặp bẹ mấy tiếng Miên để hỏi đường về Battambang. Sau khi tính toán nát óc, chàng thấy đây là con đường duy nhất khả dĩ cứu được mạng sống của mình.
Không biết tiếng Miên, không biết đường, không có tiền, bụng đói và khát, nước da khác hẳn với nước da của dân địa phương. Chung quanh đường độc đạo dẫn về Battambang không có hàng quán hoặc nhà cửa. Cứ thế, chàng cứ lê từng bước nặng nề đi.
Tới khi sắp ngất đi vì mệt và đói, Lê xuống bờ ruộng dọc theo đường để uống đầy một bụng nước ruộng mà lấy sức đi tiếp. Nhưng chàng quên rằng càng uống no thì lại càng không thể đi xa được. Trên đường đi có nhiều đoạn bị nước xoi đứt cả hai hay ba thước, bộ hành phải lội qua.
Bầu trời chiều thật xanh, nhưng sao nó cứ chạy giật lùi ra xa, có lẽ tại mắt mình hoa rồi, chàng nhủ thầm. Dân buôn đi qua mặt, quay lại nhìn và xầm xì với nhau:”Dzun”. Có một người đi xe đạp, cột một nải chuối be bé, từ trước mặt chạy tới, Lê chận lại xin mua một riel (tiền Miên do một dân buôn trên đường cho), y đưa cho Lê hai trái. Ăn xong, Lê còn thấy đói hơn lúc chưa ăn.
Lạ thật! Đầu óc đang suy nghĩ cách tìm thức ăn để có thể đi tiếp, nếu không có lẽ sẽ chết trên đường vắng nầy đêm nay, thì thấy một người lính Việt Nam vượt qua mặt...( bỏ một đoạn)...
... Do một sự việc, Lê mất chiếc nhẫn dấu trong quần, nhưng lại có 40 riels. Đêm đó, Lê được ngủ trên giường đàng hoàng, có hai dĩa cơm, canh cá và hai ly rượu đế, có cả bánh ngọt và kẹo để ăn nữa!
Sáng sớm hôm sau, Lê đáp xe ngựa từ chỗ ấy, Sla Cahom tức là Trường đỏ, để ra bến xe Swai Sisophon, qua nhiều trạm gác mà người Miên gọi là Controle, một cách an toàn. Đúng thật là trời cứu.
Tới nơi, Lê lại dùng tiếng Miên mà chàng mới học hôm sáng từ một người... để hỏi tài xế xe đò, và trả giá về Battambang, nhưng xui là hôm ấy, không có một xe nào về Battambang cả. Thêm một rắc rối.
Lê quay sang một tài xế xe Honda ôm. Y đồng ý đi về Battambang với giá 30 riels. Lê chỉ còn 30 riels chót. Mười riels đã trả cho xe thổ mộ ban sáng rồi. Đường ngược về Battambang rất an toàn và ít xét hỏi. Người ta chỉ xét những người từ Battambang về Swai mà thôi, vì đó là đường ra biên giới để vượt biên.
May mắn thế nào, người tài xế xe Honda bỏ Lê xuống ngay nơi bến xe Battambang, gần ngõ dẫn vào dãy nhà của người dẫn đường, đúng như kế hoạch thoát hiểm của Lê dự định trong đầu. Chàng lội tới, lội lui hàng chục lần dưới trời nắng chói chang để tìm nhà, nhưng không thấy.
Đường rất lầy lội. Quần áo của Lê lấm lem. Dân hai bên đường chú ý. Da mặt chàng cháy đỏ vì chói nắng. Khi đi từ nhà người dẫn đường ra bến xe trong đêm tối hôm ấy, Lê có để ý quan sát một số chi tiết quan trọng của con đường, bây giờ vẫn còn nhớ. Thú thật, đêm hôm ấy, Lê chớm có ý nghĩ về trường hợp phải đi tìm lại nhà người dẫn, nếu bị bỏ rơi.
Đúng là con đường này, mà sao không thấy căn nhà ấy đâu cả? Lê đánh bạo ngoắc một xe thồ chỉ đường đến nhà người quen của người dẫn đường đã cho Lê tắm hôm mới đến, mặc dù túi không có tiền. Lê tìm mãi không ra vì lộn đường. Nguy quá, Lê chỉ đại một con đường khác, may sao lần này tìm thấy.
Lê xuống xe vào nhà xin tiền. Năm riels để trả tiền xe. Sau đó, chàng nhờ nhà này dẫn về nhà của người dẫn đường . Tìm một vòng cũng không thấy, Lê quay lại nhà quen ấy thì bị họ la lên một cách bực bội vì căn nhà đối diện là nơi công an hay tụ tập.
Lê vội chạy ra và đi tìm một mình. Khi chàng đi lang thang trong xóm, có một số người dân tốt bụng đã cho chàng bánh tét và nước uống. Ăn xong, Lê đi tìm tiếp và đã tìm được. Sự vui mừng lớn biết chừng nào!
Cả gia đình của người dẫn đường có mặt đầy đủ. Họ tròn mắt ngạc nhiên, vì tưởng rằng Lê đã đi mất đất rồi. Hai hôm sau, họ thuyết phục Lê lên đường tiếp. Lần này sẽ có hai người trong gia đình đi kèm với chàng để tránh trường hợp bị bỏ rơi.
Cả người chàng đau nhức như dần, nhưng phải chấp nhận lên đường. Lại đáp xe đò đi Swai để vào đường núi chờ tối rồi xuống ruộng nước lội suốt đêm. Chàng chịu đựng giống y như lần trước: ngất xỉu nhiều lần, gai và cỏ cắt đứt chân tay. Những con đỉa trâu to có bề ngang to bằng ba ngón tay, bám vào thân người hút máu, đến sau này còn để lại nhiều vết sẹo, rồi lại bị muỗi rừng châm chích.
Gần sáng, cả bọn tới ”phum” Sang. Sức của Lê thật sự kiệt rồi. Không cách gì cất bước nổi. Họ dấu Lê trong một gò mối giữa ruộng nước cao độ một thước, rộng độ ba thước vuông trong một ngày trời.
Tại đây, Lê suýt bị lộ, một người dân Miên đi đốn cây, cứ đốn quanh quẩn ở gò mối. Có lần y leo lên cả lên gò, nhưng khi không thấy chàng nên hắn bỏ đi. Đến tối, người dẫn đường thuê hai thanh niên khác dẫn Lê đi tiếp và bảo đảm với Lê là không có chuyện bỏ rơi nữa đâu.
Cuộc hành trình tiếp tục, Lê cố gắng đi tới ”phum” Roun thì không thể tiếp tục được nữa. Họ dấu Lê trong nhà một ngày để chàng dưỡng sức. Đến tối, họ chở Lê đi bằng xe bò (tiếng Miên gọi là Rơ-te-ku) đến thẳng trại tị nạn Non Chan rồi tài xế xe bò đi về tự nhiên.
Tới nơi, chàng bị tù sáu tháng thật cực khổ. Chỉ tới đây mới thấy các lời quảng cáo đều láo khoét cả: nào là trại tị nạn Việt Nam, trại tị nạn Miên, dò danh sách, bàn chải đánh răng, quần áo... Không có kẻ nào dám vào Non Chan để dò danh sách cả, vào là bị còng đầu ngay.
Ở đây chỉ có đói lạnh, hãm hiếp, đánh đập và lao động. Nếu không có vụ chạy khỏi Non Chan thì có lẽ suốt đời Lê không thấy ánh sáng văn minh. Lê đã cám ơn Thượng Đế đã cho Lê sống lại.
Ở Non Chan, hội HTTQT, mà dân ở đó thường gọi là Pờ-Răng (France, Pháp), không có thực quyền gì cả. Cho nên việc can thiệp và trao đổi với nhà cầm quyền ở đó để lấy người tị nạn ra rất là khó khăn. Đến bây giờ thì kể như không hy vọng. Cho nên người Việt Nam không nên đi nữa. Đi là chết. Người Thái cũng không muốn sự có mặt của người tị nạn Việt nam trên đất nước họ. Chúng ta chỉ là gánh nặng cho họ thôi.
Đến bây giờ, con đường này vẫn còn nhiều phức tạp. Lê vẫn phải ở trại tị nạn trong một thời gian vô hạn định, chưa biết bao giờ được giải quyết. Anh của Lê trước kia phải ở trong một kỷ luật sắt thật sự, hơn cả kỷ luật nhà binh rồi mới được đi.
Còn Lê, gần một năm rồi, chàng hết ở khu rừng này tới khu rừng khác, mùa khô thiếu cả nước uống. Không biết bao giờ chàng mới tìm thấy an bình, cả đời sống bên ngoài lẫn đời sống nội tâm.
Hành Lang Tự Do Về Đâu? Trại Site II
Sau đây là một trong các lá thư mà anh Lê văn Hưng viết về một trong những trại mà anh đã sống.
Thư đề ngày 17 tháng 3, năm 1985.
“Ở vùng biên giới Thái và Miên này, hai tiếng ”mùa khô” dù được nói lên bằng một giọng dịu dàng và nhẹ nhàng thế mấy cũng vẫn mang một âm hưởng đe dọa, một âm hưởng có khả năng tạo kinh hoàng cho dân tị nạn Việt Miên.
Mùa khô năm 1983, tôi đứng bên bờ đập O Bychon, dưới mây trời nắng lóa. Toàn vùng chỉ là một cánh đồng cỏ tranh bị đốt cháy đến tận gốc. Dân tị nạn ngơ ngác đứng chờ đợi cơn pháo kế tiếp đuổi theo từ sau lưng.
Bên này là khốn khổ, là chết chóc, còn bên kia là tự do, là an bình. Hai bên chỉ cách nhau có một bờ đất cao một thước. Tôi và đồng bào tôi ở bên này đứng ngóng cổ nhìn sang bên kia với những đôi mắt thèm khát. Ôi những tàn cau lung lay trước gió, những tàu dừa lả ngọn, những thôn xóm ẩn hiện sau lũy tre kia. Chúng tôi đã tìm thấy ở đó hình ảnh quê hương thanh bình thuở trước.
Mùa khô năm 1984, tại Non Samet, chúng tôi lo âu lắng nghe tiếng ”depart” của Việt cộng và nhìn theo những lằn đạn pháo bay qua đầu, rơi vào đất Thái. Chúng tôi, những người làm ở phòng y tế (Việt Nam Outpatient Department) lo di tản những người bệnh nặng và tàn tật đi trước, vì ARC (American Red Cross?) được biết Việt cộng đã dàn xe tăng chuẩn bị tấn công lớn vào chỗ dân tị nạn Việt Miên.
Chúng tôi thức hầu như suốt đêm trong đợt tấn công mùa khô 1984. Sự ồn ào cũng như sự yên tĩnh làm chúng tôi lo sợ và bực bội trong tình huống ấy.
Hạnh phúc đối với tôi bây giờ thật là đơn giản và nhỏ nhoi. Tôi không mơ đi định cư. Tôi cũng không mơ những tiện nghi vật chất. Tôi đang chờ hứng đủ một xô nước để dội mạnh đi những mồ hôi và đất cát đã bám trên cơ thể sau một ngày và một đêm chạy giặc từ Dongrek Platform (Site A) rồi sau đó nằm dài trên mặt đất ngủ để lấy lại sức.
Dưới ánh nắng gay gắt của buổi chiều, dân tị nạn Việt lẫn Miên bu đen nghẹt quanh những bồn nước của UNBRO. Suốt một ngày và một đêm, chúng tôi không có một hạt cơm hay một giọt nước để uống.
Những đôi mắt héo hắt nhìn một cách vô-cảm-ứng về những diễn biến chung quanh vì quá mệt mỏi. Chúng tôi đi lấy nước vì thấy mọi người lũ lượt đi, và vì một ý thức mờ mờ chứ không rõ ràng, rằng đi lấy nước cốt để làm việc này hay việc kia.
Ngay từ những tiếng pháo đầu tiên, khu vực Site I dành cho dân Miên đã di tản vào Site II, còn chúng tôi chạy theo dân Miên ở Site A hướng về Site II. Đến nửa đường, lính Thái bảo chúng tôi dừng lại ngủ qua đêm ở đó.
Gần sáng ai cũng hy vọng Cộng quân đã ngưng đánh. Một số người trở về Site A để lấy đồ đạc. Bất ngờ, Cộng sản dùng ”Pháo bầy” bủa xuống hướng Dongrek cũ. Dân tị nạn tốc cả đồ đạc, bỏ gạo, bỏ hành lý để chạy lấy thân. Có người lạc cả vợ con.
Tiếng pháo lúc gần, lúc xa, kéo dài đến khoảng trưa. Dân tị nạn đã tiến về tới Site II. Xế chiều, chúng tôi lo ổn định lều ở tạm. Vài ngày sau, ban đại diện phân lô và sắp xếp lều thành đường lối.
Mặc dù thỉnh thoảng vẫn còn nghe tiếng súng và có nhiều tin đồn không lành rằng Việt Cộng sẽ đánh vào Site II để lùa dân về đất Cambodia, chính quyền Thái vẫn cho rào trại Việt và Miên lại một cách quy mô bằng trụ xi măng và kẽm gai. Một hình thức trại tù theo khuôn mẫu NW 82 chăng?
Nhiều lần tôi hỏi các giới chức hội HTTQT về tình hình an ninh ở Site II, họ trấn an rằng:
”Đây là đất Thái rồi, anh cứ yên tâm!”
Nhưng dân Việt nam chúng ta đã có quá nhiều kinh nghiệm về Cộng sản rồi, làm sao chúng ta tin rằng Cộng sản sẽ tôn trọng lằn biên? Hằng đêm chúng tôi cứ sống trong lo sợ và phập phồng. Không biết ngày nào Site II lại phải bỏ chạy dưới lằn đạn pháo.
Đầu mùa khô năm 1985, chúng tôi cũng sống trong lo âu như thế. Dân chúng bỏ nhà, bỏ cửa lên ODP, nhà CARE, và ban đại diện để ngủ cùng với hành lý vì họ sợ rằng nếu ở quá xa ngoài bìa trại, họ sẽ khó thoát ra ngoài khi bị pháo kích.
Có lần mọi người la hét một cách kinh hoàng vì họ nghe thấy tiếng xe tăng, nhưng sau đó, lính Thái đến xác nhận đó là xe tăng của Thái. Có đêm chúng tôi bỏ chạy vào chân núi khi có tiếng pháo, vì lúc chiều có tin báo cho biết Cộng sản chuẩn bị tấn công. Vị trí của chúng chỉ cách Dongrek có hai hay ba cây số.
Nhưng chiến tranh đã không xảy ra mãi đến một buổi chiều thật yên tĩnh. Vào lúc 5 giờ chiều hôm đó, mọi người đang lo sửa soạn ăn tối, thì sau một hai tiếng ”depart”, đạn đã rơi chớp nhoáng vào Dongrek.
Trại Việt nam chỉ bị pháo xung quanh, ông già Nê đã cầm loa đốc thúc mọi người ra khỏi trại. Dân tị nạn đã theo con đường độc nhất vào đất Thái. Đến nửa đêm, Thái ra lệnh ngừng lại chờ lệnh trên. Suốt đêm ấy, hội HTTQT đã phái cô Eureka và Dr. Ian đi cứu thương ở Dongrek. Chỉ có mội ít người bị thương nhẹ về phía Việt nam. Một người Việt ra khu Miên chơi, bị trúng pháo và chết trên trại Khao Y Dang.
Về phía Khmer thì có khoảng ba mươi người chết. Đến trưa hôm sau, có một số người được đi Panatnikhom Transit Center. Họ được tập trung tại bãi đất trống trong rừng rồi đi bộ qua Site II. Ở đó, xe buýt đón họ đi Panatnikhom. Tình trạng đó đã làm những người ở lại tủi thân và xuống tinh thần.
Trước khi Dongrek mất, tôi đã gửi một lá thư để có đôi lời biết ơn các vị ân nhân đã lên tiếng nói giúp đỡ trại Dongrek, và một thư kêu cứu, báo động rằng Dongrek đang hấp hối. Bây giờ thì Dongrek đã thực sự chết, và những người ở Dongrek còn sống sót sau cơn bão lửa đang chờ đợi một phát ân huệ. Dân tị nạn đang sống trong ngắc ngoải vì chờ được định cư quá lâu, vì đau khổ ở biên giới, vì bệnh tật, vì thiếu dinh dưỡng.
Còn một nơi chốn nào để dân tôi đến hay không? Thế giới tự do hãy nói đi! Hãy cho chúng tôi biết một cách thành thật về lý tưởng, quan đểm của quý vị đi. Chúng tôi là những người yêu tự do đã từ chối Cộng sản và cũng đã bị Cộng sản từ chối, không lẽ cũng bị đồng minh mình từ chối nốt hay sao?
Tôi tin tưởng nơi thế giới tự do và nhất là người Mỹ, vì người Mỹ có liên hệ trực tiếp vào cuộc chiến Việt Nam. Người Mỹ phải có trách nhiệm đối với dân tị nạn ba nước Đông Dương. Chúng tôi ngày nay phải lãnh chịu những cơ cực thế này, một phần cũng vì chính sách buông tay của người Mỹ.
Tuy là tin tưởng vậy, nhưng không khỏi có những lúc tôi phải băn khoăn, liên tưởng đến câu nói của thủ tướng Sirik Matak của Cambodia lúc mà ông từ chối chạy trốn khỏi nước:
”Chúng tôi cầu chúc qúy vị được vui vẻ hạnh phúc. Chúng tôi chỉ phạm một lỗi, đó là lỗi quá tin tưởng nơi người Mỹ!”
Ở đây, chúng tôi cũng xin cầu chúc Mỹ quốc được hạnh phúc, bình an, để trong sự yên vui ấy, người Mỹ sẽ có đủ lòng quảng đại và quay nhìn lại một trách nhiệm mà họ đã lơ là: đó là trách nhiệm đối với dân tị nạn Đông Dương nói chung và dân tị nạn đường bộ Việt nam ở Dongrek nói riêng.
Cuối thư, tôi xin gửi đến thế giới tự do lời kêu cứu này:
-Nếu Dongrek không được giải quyết sớm, e rằng đồng bào tị nạn sẽ gánh chịu một trận chiến lùa dân, và lần này ai có thể cả quyết rằng chúng tôi sẽ may mắn hơn những lần trước? Nếu Cộng sản thành công, một thảm kịch O'Smack năm 1982 lại tái diễn như cảnh một đoàn tị nạn bị xâu thành xâu bằng giây kẽm gai, lùa xuống bunker rồi bị ném lựu đạn giết chết.
Tôi biết rằng dù việc ấy có xảy ra cũng chẳng có một tổ chức nào đụng đến lông chân của các nước tự do. Nhưng tôi nghĩ rằng LƯƠNG TÂM của các vị lãnh đạo, của từng người dân tự do, là lịch sử thế giới trong cuối thế kỷ 20 này sẽ đeo đưổi phê phán những người có trách nhiệm đến muôn niên.
Xin qúy vị cầu bình an cho đồng bào tị nạn chúng tôi tại trại Site II này!”
(Lê Văn Hưng)
"Sau đó, chúng dắt chúng tôi vào một trại tị nạn. Thoạt đầu, chúng tôi tưởng bở, lòng mừng rỡ vì ý nguyện đã thành tựu. Trại tị nạn đây rồi! Ôi ba chữ ” Trại tị nạn” sao nghe vui tai và hay ho đến thế. Nhưng hỡi ôi! khi đến nơi mà gọi là trại tị nạn thì đó chỉ là một nhà tù nhỏ làm bằng tranh, chung quanh đóng cột gỗ và có hàng rào đầy thép gai." Hồi Ký Của Ông Lê Bá B., Một Người Tị Nạn Đường Bộ
Ông Lê Bá B.đã cùng với gia đình đi trốn bằng đường bộ. Họ đã trải qua hơn mười sáu tháng trời sống trong tủi cực và đau khổ tại các trại tù của bọn lính Para, người Khmer. Gia đình ông đã ở trại tù ở vùng Non Chan, rồi trại Non Samet, trại NW 82 và trại Panatnikhom Transit Center ở đất Thái Lan.
Cuối cùng, gia đình ông được chuyển sang trại Bataan ở nước Phi luật Tân. Gia đình ông Lê Bá B. đến định cư tại Orange County, California vào ngày 22 tháng 8, năm 1983.
Ông Lê Bá B. đã tha thiết kêu gọi đồng bào ở hải ngoại hãy kêu cứu và giúp đỡ cho những đồng bào Việt nam còn kẹt lại và sống khắc khoải tại các trại tị nạn. Ông đã dành thì giờ cho chúng tôi phỏng vấn và cho phép chúng tôi xuất bản câu chuyện của ông sau này.
Sau đây là phần kể chuyện của ông Lê Bá B.:
CUỘC HÀNH TRÌNH VƯỢT BIÊN ĐẦY GIAN KHỔ
Sau rất nhiều lần mưu tính vượt biên bằng đường thủy bị thất bại, chúng tôi đành quyết định đi vượt biên bằng đường bộ để tìm đến Thái lan.
Sau khi tìm được mối xong, chúng tôi thỏa thuận giá cả. Cuối cùng, chúng tôi phải đóng mỗi đầu người hai cây (lượng) vàng cho người dẫn đường. Ba người là sáu cây. Chúng tôi phải trả trước một nửa số vàng là ba cây. Nếu đến trại tị nạn thành công thì chúng tôi sẽ viết mật hiệu về nhà ở Sàigòn thì người nhà của tôi sẽ trả đủ số vàng cho người dẫn đường.
Ngày khởi hành: Ngày 6, tháng 4, năm 1982.
Khởi đầu, chúng tôi từ Sàigòn đến xa cảng miền Tây để đi về Châu Đốc. Từ Châu Đốc, chúng tôi theo người dẫn đường lên tàu gỗ rồi ngược giòng sông Mêkông để đến Nam Vang (Phnom Penh). Có lẽ nhờ sự hoá trang khéo và nhờ ơn trên che chở nên trên đoạn đường từ Châu Đốc đến Nam Vang, chúng tôi không bị trở ngại gì cả, dù có rất nhiều trạm kiểm soát của Cộng sản Việt và Khmer ở dọc giòng sông.
Khi đến Nam Vang, chúng tôi ở lại nhà người dẫn đường trong khoảng một tuần lễ để họ dò đường kỹ rồi mới dẫn chúng tôi đi tiếp. Ngày khởi hành, chị họ tôi và cháu nhỏ thì đi xe đò, còn tôi được người dẫn đường dẫn đi bằng xe lửa lên thành phố Battambang để tránh sự kiểm soát và dòm ngó.
Khi chúng tôi vừa đến ga xe lửa ở Nam Vang thì bị một tên Miên mặc thường phục nhận ra tôi không phải là người Miên nên hắn chận tôi lại để làm khó dễ. Hắn hỏi tôi bằng một tràng tiếng Miên, thế là lộ ngay. ”Thừa nước đục thả câu,” hắn bắt bí tôi rồi vặn hỏi tôi xem ai là người dẫn đường cho tôi đi. Buộc lòng, tôi phải chỉ người dẫn đường ra. Thế là anh chàng dẫn đường plhải dắt hắn qua toa xe lửa gần đó để hối lộ cho hắn. Vì thế hắn làm ngơ cho chúng tôi đi.
Sau đó, hai chúng tôi ngồi ở toa chở hàng sát đầu máy xe lửa. Toa này không có mui và được chất đầy hàng hóa. Trong chuyến đi ấy, tôi thấy rất nhiều bộ đội Việt Nam nên tôi phải trùm khăn để che mặt cho khỏi lộ diện. Nhưng nếu ai chịu khó chú ý kỹ sẽ thấy rõ sự khác biệt giữa người Việt và người Miên từ nét mặt, màu da đến bàn tay và bàn chân.
Ở trên xe lửa, mỗi lần ghé trạm ga dọc đường, tôi đều được người dẫn đường dắt đi ăn uống một cách vội vã. Lần đầu tiên ăn đồ ăn Miên, ngửi mùi đồ ăn tanh quá nên tôi ăn không nổi. Nhưng khi nghĩ ra là mình phải ăn nhiều cho có sức chịu đựng gian khổ nên tôi cố gắng ăn và nuốt trộng cho đầy cái bao tử.
Ăn xong, thấy chậu nước dơ, có mẻ dừa múc nước đã đóng rêu xanh, tôi ngần ngại không dám uống. Nhưng dần dần, thấy mọi người múc nước đó uống lấy uống để, nên tôi cũng uống đại.
Khi ăn xong, chúng tôi lại leo lên xe lửa, quanh tôi có bộ đội Việt Nam rất nhiều. Vừa leo lên toa xe lửa, thì tôi bị một tên người Miên biết tiếng Việt lõm bõm chận lại. Hắn trừng mắt nhìn tôi và hỏi vặn tôi bằng tiếng Việt:
-Việt Nam hả, đi đâu? Đi Thái Lan hả?
Tôi hoảng quá, kiếm cách chống chế:
-Tôi đi với người anh em bạn lên Battambang chơi.
Hắn không tin nên hỏi tiếp:
-Không phải đâu! Đi Thái Lan, đi Mỹ mà!
Thế là cả đám người ngồi trong toa xe nhốn nháo đứng lên rồi dáo dác nhìn tôi. Tôi sợ quá vì một bọn đồng bọn với hắn bu đến. ”Không khá rồi!” Nhanh trí, tên dẫn đường nói ngay một tràng tiếng Miên rồi móc túi, lấy ra một gói thuốc lá hiệu Samit để mời bốn năm người ấy và các người khác trong toa cùng hút.
Thật là lạ, vừa hút xong có hai hơi thuốc, cả bọn tản mạn đi hết. Còn những người khác ngồi trong toa cũng im lặng hẳn đi, chẳng còn đếm xiả gì đến tôi nữa. Sau này, hỏi chuyện kỹ ra, tôi mới biết là tên dẫn đường này đã dùng gói thuốc lá có trộn bùa ngải để sai khiến bọn người kia.
Trông thấy tận mắt, tôi mới thấy bùa ngãi của người Miên linh thật. Trọn một ngày, chúng tôi ngồi chịu trận dưới cơn nắng. Mãi đến 4:00 giờ chiều thì tới trạm ga Pursat, một tỉnh lớn nằm giữa đoạn đường từ Nam Vang đi Battambang.
Khi đến Pursat, người dẫn đường vội vàng dắt tôi vào một nhà người Miên ở gần ga xe lửa để dấu tôi nằm ở đấy. Trên đường đi từ ga đến chỗ tạm trú, tôi thấy rất nhiều người Việt vượt biên bị bộ đội Việt Cộng bắt. Họ đứng quây quần thành một đám đông. Theo sự quan sát và kinh nghiệm của người tị nạn thì có thể nói đến tám mươi phần trăm (80%) người Việt đi vượt biên bị bắt giữ tại ga Pursat này.
Nói chung, có rất nhiều người vì bị người dẫn đường bỏ rơi tại đây nên họ đứng xớ rớ, không biết phải làm sao, “Tiến thoái lưỡng nan.” Thế là sớm hay muộn, họ cũng bị bộ đội Việt cộng bắt được để giải về lại Việt nam rồi vào tù. Thấy họ khóc lóc và sầu khổ bi thương, tôi không ngăn được giòng lệ rơi. Thương cho họ mà sợ cho mình nên tôi phải vội vã quày qủa đi như chạy để khỏi bị phát hiện và để dấu những giọt nước mắt của mình.
Đến nhà người Miên chủ nhà trọ của tôi thì tôi càng sợ đến rụng rời tay chân vì ông này kể rằng vừa mới rồi, có ba người Việt vì bị bỏ rơi nên họ bơ vơ không biết đi về đâu, cuối cùng họ bị bắt. Tin ấy làm cho tim tôi đập loạn cả lên, còn tay chân thì run lẩy bẩy, mặt thì tái xanh lại. Thế là sau khi ăn qua loa bữa cơm chiều, tôi dấu mình trong xó kẹt nhà trọ để mong được yên thân.
Sáng hôm sau, khoảng 7:00 giờ sáng, khi xe lửa chuẩn bị khởi hành thì có một lực lượng công an Miên Việt hỗn hợp túa ra đi lên các toa xe lửa xét lục kỹ lưỡng. Rối họ bao vây quanh chiếc xe lửa. Thế là lại có một số người Việt tị nạn bị bắt giữ nữa.
Vì đã có kinh nghiệm, nên người dẫn đường ra dấu bảo tôi núp mình trong khu nhà dân cư để chờ bọn chúng xét xong xuôi. Đến khi tàu lửa vừa chạy là chúng tôi phóng lên toa xe thật mau. Tôi vốn có tật ở chân nhưng không hiểu sao lúc ấy, tôi chạy lẹ đến thế.
Trên xe lửa, tôi cố gắng giả đò ngủ hay ngó đi hướng khác để tránh sự tiếp xúc hay phải trò chuyện với đám hành khách người Miên. Cơn nắng thiêu đốt, cơn khát bỏng cổ. Cơn sợ hãi đầy tràn. Đến khoảng trưa thì xe lửa đến Battambang. Người dẫn đường và tôi là hai hành khách nhảy xuống đất đầu tiên ở ga đó. Tôi phải thu hết can đảm để đưa trình vé cho người soát vé. Nếu chậm trễ thì sẽ bị công an hay bộ đội Miên Việt bắt giữ.
Sau đó, anh Miên dẫn đường đưa tôi đi bộ thẳng về nhà anh ta. Anh dặn dò tôi ở lại Battambang để anh về lại Nam Vang đón chị và cháu tôi lên Battambang luôn. Chỉ ngày hôm sau thì mọi người đã tề tựu ở nhà anh ta tại Battambang. Gia đình tôi gặp lại nhau tại đó, kể cả mẹ và em gái người dẫn đường cũng đến từ Nam Vang.
Lúc ấy là 12 tháng 4, năm 1982, đúng và dịp tết của người Miên. Vì thế, gia đình người dẫn đường tổ chức ăn uống và đánh bạc tưng bừng, đến nỗi họ chẳng còn đả động đến chuyện đưa gia đình tôi đi tiếp để đến biên giới Thái.
Chúng tôi lo sợ vô cùng vì đã giao hết vàng cho họ rồi. Chúng tôi cứ nhấp nhỏm như ngồi trên đống lửa, bụng bảo dạ chắc là họ không muốn giúp mình đi tiếp nữa. Nhắc nhở vặn vẹo hoài thì sợ họ giận mà im thì lòng bồn chồn và lo lắng.
Cuối cùng, tôi hỏi lại lần nữa thì bọn họ giải thích rằng bây giờ là tết Miên, ai cũng nghỉ ở nhà để ăn tết nên không ai đi buôn bán ở biên giới. Nếu mình mà đi là lộ ngay vì bọn lính kiểm soát rất kỹ trong mấy ngày tết. Bởi vậy chúng tôi ngậm cay nuốt đắng để nằm chờ tại Battambang.
Qua ngày tết Miên thì người dẫn đường bắt đầu đi dò đường để kiếm xe đi tiếp. Tôi có dặn anh từ trước rằng tôi bị tật ở chân nên không thể đi bộ lâu được. Đến mấy ngày sau, anh ta trở về và nói là thuê xe không được vì họ đòi giá quá cao. Thế là, chị em tôi nghi là hắn kiếm chuyện để đòi thêm tiền. Chị tôi bèn rút hết số vàng đem theo là một chỉ rưỡi để đưa luôn cho hắn.
Nhờ vậy hôm sau nữa, hắn mới thuê được xe. Gia đình tôi ba người và gia đình anh dẫn đường đều chất lên một chiếc xe của bộ đội Miên. Bọn bộ đội này dùng công xa để mánh mung chở hàng hoá và đồ ăn như rau, cá, gạo... cho thường dân Miên rồi lấy tiền chia chác bỏ vào túi riêng. Vì là xe của bộ đội, nên qua bao nhiêu trạm là bọn lính gác ở các trạm đều mở cổng cho xe đi, nên chúng tôi đỡ phải lo nạn bị bắt. Còn bọn dẫn đường vì đã quen cái trò đưa người đi nên họ giả đò dẫn gia đình riêng của họ gồm mẹ, em gái và các cháu nhỏ để đánh lạc sự nghi ngờ của mọi người.
Tất cả các phụ nữ và con nít thì ngồi trong xe, còn tôi, người dẫn đường và các đàn ông Miên thì phải ngồi trên nóc mui xe. Đoạn đường đi từ Battambang đến Sway (Soai) đầy ổ gà nên xe dằn quá sức, chịu không nổi. Riêng tôi, tôi mệt đến độ có thể chết ngay tại đó. Nắng, khát, bụi đất, đường ổ gà dằn làm tôi mệt lả người.
Lúc ấy, tôi chẳng còn tha thiết điều gì nữa. Chân tôi tê cứng lại nên tôi đành phải tháo đôi dép cao su cho đỡ đau. Hễ mỗi lần tôi tháo dép ra là người dẫn đường lại vội vàng lượm dép mang vô lại trong chân tôi. Vì tôi mang giày nhiều nên chân rất trắng, nay nếu bỏ dép ra thì lòi đôi chân trắng, khác biệt ngay với những người Miên ngồi chung xe. Vì thế, tôi đành mang dép để che đôi chân trắng của mình.
Khi tới Sway, chúng tôi đều mệt nhừ tử. Ở đó, người dẫn đường bắt liên lạc được với một người quen của anh, hình như anh ta cũng đến từ Battambang.
Trong khi người dẫn đường đi thuê xe bò thì tôi được giao cho một xe đạp cũ để cùng người dẫn đường thứ hai, mà tôi sẽ gọi là Su, đạp xe tới lui trong vùng đó cho khỏi ai nghi ngờ.
Chúng tôi tạm chia ra hai cánh: gia đình tôi và gia đình người dẫn đường đi bộ tới một góc đường đứng chờ. Tôi và Su thì đi xe đạp. Còn người đưa đường kia thì đi cùng với bọn người lái xe bò lượn tới lượn lui. Chờ đến thời điểm thích hợp, chiếc xe bò đang từ đường nhựa, quẹo gấp lại vào con đường đất đỏ. Thế là gia đình tôi từ hai cánh được ngồi lên cùng một xe bò.
Tới đây, gia đình người dẫn đường từ giã ra về. Họ nói là nhiệm vụ của họ đã hết, còn những người đi trên các xe bò là những người chuyên môn đi qua biên giới nên họ sẽ đưa chúng tôi đi tới Thái. Lúc ấy, chúng tôi hoang mang và hồi hộp vô cùng.
Hành trang của gia đình chỉ gồm có hai giỏ chứa đủ thứ thuốc men và quần áo. Thế mà lúc ấy, chúng tôi chỉ còn có một giỏ thôi vì giỏ thứ hai thì bị bọn người dẫn đường giữ giùm và lấy luôn.
Anh dẫn đường đạp xe đạp đi đường khác và hẹn sẽ gặp lại gia đình tôi sau. Khi ấy chỉ còn một người đánh xe bò, vợ anh đang bồng con nhỏ của chị. Gia đình tôi thì lớ ngớ, lòng muốn hỏi thăm tình hình đường xá ra sao nhưng không biết tiếng bản xứ để hỏi, mà họ thì không biết tiếng Việt. Đành chịu chết!
Lúc đó trời đã xế chiều, trên xe bò chỉ gồm có một chiếc chiếu rách còn thì trống trơn. Xe bò vừa đi được khoảng nửa cây số thì đến một trạm gác của du kích Miên. Xui quá, xe vừa vượt qua khỏi cổng thì bọn lính Miên kêu giật lại. Chúng nói một tràng tiếng Miên với người đánh xe bò. Anh chàng này lắc đầu, ý như anh không biết gì cả còn bọn chúng muốn làm gì thì làm.
Thế là bọn du kích Miên kêu nạt lớn chúng tôi một câu:
-Xuống xe!
Chúng tôi y lệnh theo chúng vào nhà. Chúng ra lệnh cho chúng tôi cởi hết đồ để lục xét, xong rồi chúng lấy hết tất cả đồ đạc trong giỏ của chúng tôi gồm thuốc men, khăn rằn, quần áo, đến cả cây viết ”Bic” nữa. Từ đấy, chúng tôi chẳng còn gì ngoài một bộ đồ cũ ở trên người. Chị tôi vừa lo sợ vừa đau khổ nên khóc tức tưởi. Đứa cháu nhỏ của tôi cũng khóc nức nở. Còn tôi, cơn đau làm tôi uất ức, kêu trời không thấu. Tôi nghĩ thôi thế là hết.
Màn đêm đã bao trùm khắp nơi, nếu ở đây là còn sợ chúng hãm hiếp chị tôi nữa. Bọn chúng lôi súng ống và dao búa ra dọa nạt chúng tôi và đòi phải lột vàng ra để giao hết cho chúng thì mới được đi tiếp. Chúng còn ra lệnh cho anh đánh xe bò đánh xe đi. Chúng tôi tuyệt vọng đến tột độ rồi. Chắc đời tàn tại đây thôi. Thật kêu trời cũng không thấu nữa.
May thay có một người Miên đi bộ theo xe bò đem một nắm tiền Miên tới giao cho bọn chúng và ra dấu chỉ còn chừng đó thôi. Tôi nghĩ có lẽ đây là tay chân của người dẫn đường kia. Bọn lính Miên làm bộ khó dễ một hồi, rồi hất tay la lên:
”Đi!”
Chúng tôi mừng rỡ, lật đật bước đi. Tôi bèn đưa tay lấy lại chiếc khăn quàng của tôi thì bị chúng giật khăn lại. Nhưng chúng cho lại chị tôi một chiếc khăn quàng cũ rách để chị đội trên đầu.
Trời lại đổ mưa tầm tã. Cháu tôi chỉ còn một chiếc áo mỏng trên người. Chúng tôi đi lần tìm về phía xe bò ở xa xa. Lòng buồn não nuột lại hoang mang vô vàn, phần khác lại lo sợ cho đứa cháu có thể mắc bịnh vì trúng mưa. Sau này, tôi được biết trạm này rất nguy hiểm vì đã có rất nhiều người Việt bị chận bắt tại đây. May cho chúng tôi là không có bộ đội Việt nam ở trạm kia trong giây phút ấy. Mọi ngày vẫn có quân đội Việt nam ở đó. Họ không ăn hối lộ ít như lính Miên mà ăn rất nhiều. Nếu không có tiền thì tiêu đời.
Trở lại chuyện gia đình tôi lúc ấy, chị tôi vẫn khóc rưng rức trong cơn mưa triền miên. Chúng tôi ngồi chịu trận dưới cơn mưa đêm. Ai cũng run cầm cập. Lại muốn hỏi nhưng đành chịu vì ngôn ngữ bất đồng. Anh đánh xe bò cũng muốn nói với tôi điều gì đó nhưng rồi anh cũng im lặng luôn.
Cứ thế, chúng tôi vừa lạnh run, vừa lo âu. Chúng tôi ngồi trên xe bò đi suốt đêm. Tiếng xe bò lạch cạch vang lên trong đêm vắng cộng với tiếng khóc thổn thức của chị tôi, càng làm cho lòng tôi lo sợ và bâng khuâng:
”Mình sẽ đi về đâu? Tới bến bờ tự do hay bị bỏ rơi giữa đường?”
Xe bò băng qua một cánh đồng để đến một cái vườn hoang có trồng dừa và nhiều loại cây cối. Tự nhiên, chiếc xe bò đứng dừng lại như để chờ đợi một điều gì. Xa xa có tiếng súng nổ dòn, có ánh lửa sáng rực, có làng mạc nhà cửa, và có các luỹ tre rậm rạp...
Trong lúc đó, chúng tôi thắc mắc vô cùng nhưng không thể hiểu được. Khi ấy, người đánh xe bò ra hiệu cho chúng tôi xuống xe đi tiểu. Còn anh thì chạy vào bụi rậm, lấy mấy đống rơm cho trâu bò ăn. Số rơm còn lại thì anh ta bỏ lên xe bò để lót cho chúng tôi ngồi. Hình như anh ta đã quá quen với lộ trình đi, với nơi dấu rơm và cách dấu rơm.
Sau đó, chúng tôi tiếp tục đi suốt đêm. Chị tôi và cháu nhỏ được ngồi lại trên xe bò. Còn tôi phải đi bộ với người Miên khác và theo một lộ trình khác. Gia đình tôi lại phải xé lẻ ở đoạn đường đó, để chia làm hai nhóm. Theo lối diễn tả của họ thì nếu tôi mà ngồi chung với gia đình là bị lộ ngay lập tức.
Từ khi ấy, tôi và người Miên dẫn đường phải lội sình lầy qua các cánh đồng đầy nước. Về sau này, tôi mới biết rằng cái làng xa xa đó là làng mạc của Khmer Đỏ, tức là lực lượng Pol Pot. Do đó, tên dẫn đường cứ tìm cách dắt tôi tránh né ngôi làng của Khmer Đỏ.
Mỗi khi có tiếng súng nổ là tên dẫn đường lại dừng ngay lại để nghe ngóng, còn tôi thì hồi hộp lo lắng, vì không biết điều gì sẽ xảy tới cho mình. Đêm như dài vô tận. tôi phần sợ lạc gia đình, phần hoang mang lo âu, phần mệt mỏi vì phải đi bộ suốt đêm trường, qua các vũng sình lầy nước đọng nên tôi cứ đi như lết theo dấu chân người dẫn đường.
Chương II-
1b: Hồi Ký Của Ông Lê Bá B., Một Người Tị Nạn Đường Bộ (b)
(tiếp) Khuya hôm ấy, tôi được dẫn vào một làng của người Khmer Đỏ. Trong làng tối đen như mực. Người ta di chuyển trong làng đều phải dùng đèn pin. Mỗi khi có ánh đèn pin lóe lên là tôi sợ điếng hồn vì ngỡ rằng công an hay bộ đội Miên bắt mình.
Cũng tại làng ấy, tôi gặp được chiếc xe bò đã chở gia đình tôi. Lòng mừng thầm vì tôi nghĩ rằng mình sẽ được leo lên xe bò đi tiếp thay vì phải đi bộ. Ai ngờ xe bò lại đi tiếp về phía trước, còn tôi phải lẽo đẽo theo sau và giữ khoảng cách độ mười thước.
Tới một trạm gác, có một tên lính Miên chận xe bò lại và nói một tràng tiếng Miên. Lập tức, chiếc xe bò phải ngừng lại. Nhanh như cắt, tên dẫn đường kéo tôi đi tách ngay qua đường khác liền. Tôi sợ run lên vì nghĩ rằng chị và cháu tôi có thể bị phát hiện và bị giam giữ tại đó rồi. Trời thương nên tôi không ngồi trên xe bò ấy.
Dù đi lối khác để tránh sự dòm ngó, nhưng tôi luôn phải chạy theo người dẫn đường. Chúng tôi đi lạc vào một bãi gò mồ ma. Nơi này có đầy phân và nước tiểu. Mỗi bước đi là đạp lên phân. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc làm tôi muốn ói. Tuy vậy chúng tôi không còn cách chọn lựa nào khác an toàn và tốt hơn cả.
Chúng tôi cứ lần mò mãi trong đêm đen như những người mù. Cuối cùng, tôi được dắt vào một nhà sàn có lầu cao. Hình như đó là nhà của một nhân viên cao cấp Khmer Đỏ, có liên hệ bà con với bọn dẫn đường. Sau đó, họ lấy mì sợi cho tôi ăn để lấy lại sức. Nhưng tôi vì mỏi mệt quá lại căng thẳng đầu óc nên ăn không nổi, mà chỉ xin uống thuốc thôi.
Cũng tại ngôi nhà này, tôi gặp lại chị và cháu tôi. Cả hai người đang nằm sẵn từ hồi nào rồi. Thì ra lúc xe bò chận lại thì bọn lính chỉ hỏi han qua loa rồi cho đi qua chứ không bắt lại. Cả ba chúng tôi mừng rỡ vì được đoàn tụ, còn sống sót mà nhìn thấy nhau là vui rồi.
Thế rồi, chị em tôi bảo nhau đi ngủ cho đủ sức mà đi tiếp nữa. Còn bọn người Miên trong nhà thì nói chuyện nho nhỏ vì nơi này nguy hiểm, đó thuộc vùng kiểm soát của Khmer Đỏ. Nếu bị lộ thì mất đầu như chơi.
Nơi đây, chúng tôi cũng gặp lại người đẫn đường đã đưa chúng tôi từ Sàigòn đến Nam Vang và Battambang. Anh ta nói tiếng Việt với chúng tôi rằng:
-Bây giờ đã đến nơi an toàn rồi. Coi như anh chị đã thành công rồi. Vậy xin anh chị hãy viết mật mã cho tôi về Sàigòn lãnh số vàng còn lại. Vì khi ở trại tị nạn, chúng tôi không dám đến đó để lãnh tiền. Ở đó có Hội Thiện Quốc Tế, ai mà dám đòi tiền nong và mật mã?
Chị em tôi bàn tính thiệt hơn. Đây đâu đã phải là trại tị nạn mà chỉ mới là vùng của Khmer Đỏ kiểm soát. Mình sống chết chưa biết lúc nào, làm sao mà dám viết thư về nhà để giao tiền hết cho họ?
Tuy nhiên, sau khi thảo luận, chị em tôi đều đồng ý viết đúng nội dung mật hiệu mà chúng tôi đã thỏa thuận với người nhà ở Việt nam để họ có thể về lấy tiền. Chúng tôi nghĩ:
”Mình cứ lấy lòng ngay thẳng mà đối với họ rồi Ơn Trên sẽ giúp đỡ và che chở cho mình.”
Vì thế, tôi liền viết mật hiệu vào tờ giấy như sau:
”Anh, B., Sơn đã khỏi bịnh.”
Anh là tên của chị tôi, B. là tên của tôi, còn Sơn là tên của cháu tôi. Nếu tôi viết mật hiệu có nội dung khác như:
”Ba chị em tôi đã đến Mỹ,”
Thì làm sao hắn biết được? Mà về đến Việt Nam thì người nhà tôi dứt khoát không bao giờ giao tiền cả vì hai mật hiệu hoàn toàn khác biệt.
Sau khi giao mật hiệu cho anh ta, gia đình tôi ngủ đỡ độ chừng một, hai tiếng đồng hồ cho đỡ mệt. Đến lờ mờ sáng thì bọn họ đánh thức chúng tôi dậy đi tiếp. Anh dẫn đường kia đã đi về hướng Việt Nam để lãnh tiền. Từ đó trở đi, chúng tôi chỉ đi với bọn dẫn đường khác mà thôi.
Lần này cả ba chúng tôi phải đi bộ băng qua các khu gò mồ mả. Đi một lúc lâu, cháu nhỏ của tôi mệt quá nên đi không nổi nữa. Người dẫn đuờng phải cõng nó mà đi tiếp. Chúng tôi băng đồi mà đi mãi. Khi đến một khu rừng âm u vắng vẻ, chúng tôi cùng người dẫn đuờng đứng tại đó để chờ xe bò.
Chờ thật lâu mà xe bò không thấy tới, chúng tôi bồn chồn nóng ruột vô cùng. Người dẫn đường cũng lo âu không kém. Hắn nhìn tới nhìn lui, chép miệng và nói một tràng tiếng Miên. Tôi đoán rằng anh ta bực mình nên phàn nàn về việc chiếc xe bò đã đi lạc hướng rồi. Những phút chờ đợi dài lê thê. Rốt cục, chúng tôi nghe tiếng xe bò lọc cọc đi tới.
Khi xe bò đến nơi, người đánh xe bò vẫn là người cũ, nhưng người ngồi trên xe bò phiá sau lại là người lạ. Người đánh xe bò dừng xe lại rồi trả tiền cho người lạ kia. Chúng tôi đoán chừng anh ta dẫn dường cho anh chủ xe bò đi lọt qua các trạm gác. Anh nọ nhận tiền là đi ngay, bóng anh mất hút về phía đường khác.
Đến bấy giờ, ba chúng tôi lại được ngồi trên xe bò cùng với chủ xe và anh dẫn đường để đi tiếp. Lần này xe bò đi vào rừng chứ không còn cảnh đồi hay ruộng nữa. Xe đi băng rừng mãi cho đến khoảng 9:00 giờ sáng. Tiếng chim hót thật hay lạ lùng và làm vui tai người nghe. Rừng thật yên tĩnh hoang vu, không một bóng người, không có cả tiếng động, ngoài tiếng xe bò đi lọc cọc và tiếng chim ríu rít hót líu lo.
Cảnh rừng thật đẹp và hùng vĩ nhưng tôi chẳng còn lòng dạ đâu mà thưởng thức cảnh đẹp nữa, chỉ toàn thấy hồi hộp và lo âu. Đi thật lâu trong khu rừng vắng mà không thấy động tĩnh gì, nên chúng tôi tạm yên tâm.Trong khi đó, anh dẫn đường chỉ tay về phía trước và nói:
”Thái Lan, Thái Lan!”
Chúng tôi mừng vì nghĩ là chắc sắp tới nơi an toàn rồi, có lẽ trại tị nạn chỉ còn vài bước nữa thôi. Thình lình, từ trong đám bụi cây, có ba người lính bộ đội Việt Nam, đầu đội ba chiếc nón cối nhảy xổ ra đột ngột làm cho chúng tôi giật nẩy mình.
“Ôi thôi, bộ đội Việt Nam rồi!”
Chúng tôi rụng rời tay chân, lòng thầm nghĩ:
”Thế là hết, đã đến nơi mà gặp bộ đội thì đời tàn rồi. Tiền đã hết, làm gì có mà hối lộ cho họ nữa chứ? Họ lại bắt mình về Việt Nam rồi. Ôi! Uổng cho công sức, uổng cho tiền bạc đã mất đi. Thế là mất tất cả rồi! Không còn gì nữa hết rồi!”
Chúng tôi tuyệt vọng và sợ hãi đến tột độ. Ba người bộ đội hỏi chúng tôi bằng giọng Bắc nặng và quê của những người Bắc vào miền Nam sau năm 1975, chứ không phải những giọng Bắc của những người Bắc di cư năm 1954:
-Mấy người đi đâu?
Bọn người Miên đứng im lặng không trả lời đã đành, còn chúng tôi cũng im lặng luôn, giả bộ là người Miên, không hiểu tiếng Việt. Lính bộ đội hỏi tiếp:
-Rõ ràng mấy người vượt biên mà. Người Việt Nam sao không trả lời?
Thôi, lộ tẩy rồi! còn gì nữa mà giả bộ không hiểu. Chúng tôi bắt buộc phải trả lời:
-Bọn tôi là người Việt Nam.
Họ hỏi tiếp:
- Mấy người đi đâu thế?
-Bọn tôi định đi Thái Lan thăm người bà con.
-Vượt biên chứ Thái Lan, Thái liếc gì! Xuống! Xuống xe hết!
Chúng tôi ngán ngẩm, vội bước xuống xe hết. Họ lại hỏi:
-Tại sao đi vượt biên?
Chị tôi khóc lóc thảm thiết và trả lời:
-Dạ tại khổ quá nên chúng tôi phải đi.
-Biết khổ sao còn đi? Bây giờ có tiền không? Không tiền là không đi đâu hết!
Thế là bọn họ tách chúng tôi ra hai nhóm để lục xét. Họ bắt chúng tôi cởi quần áo ra để họ lục soát kỹ xem có vàng bạc hay tiền nong gì không. Sau đó họ định hãm hiếp chị tôi ngay tại đó. Chị tôi sợ run rồi khóc nức nở. Vừa khóc, chị vừa năn nỉ và van xin thật lâu:
-Các anh cũng đáng tuổi em của tui, xin làm ơn tha cho tui đi.
Cuối cùng, họ tha cho chị. Họ xét rất kỹ mà chẳng kiếm được cái gì, vì còn gì nữa đâu mà họ lấy? Rốt cuộc, họ giật hai mẩu bánh mì trên tay cháu tôi. Hai mẩu bánh mì này là do quà của anh dẫn đường cho cháu tôi. Bọn họ bảo:
-Chắc là có dấu đồ trong bánh mì rồi. Có phải dấu đồ trong bánh mì không?
Tôi nghĩ chắc họ ở đây cũng thèm bánh mì nên mới lấy bánh mì của cháu tôi để mà ăn. Thế rồi họ cứ kéo dài việc lục soát. Chúng tôi sợ càng kéo dài càng nguy hiểm vì lỡ đồng bọn họ kéo tới thêm nữa thì còn khó mà thoát hơn. Lúc ấy, tôi chợt nhớ ra là trong cổ tôi còn có một tượng Phật bằng ngà bọc vàng tây. Tôi đeo tượng Phật để mong được Phật độ trì và che chở. Tôi dùng sợi dây tròn trắng mà binh lính thường đeo thẻ số quân để đeo tượng vào cổ. Cũng may là bọn Miên cướp đường lúc trước đã xét lục mà chưa tìm ra. Tượng đeo trên cổ, lẫn vào cổ áo mà chúng đã không thấy, kể cũng là lạ thật! Bọn lính cố dùng dằng tìm kiếm đồ quý hay tiền vàng trong quần áo chúng tôi hoặc để cho chúng tôi sợ hãi và sốt ruột mà thòi đồ quý ra cho họ.
Tôi bèn năn nỉ:
-Xin các anh cho chúng tôi đi, bao nhiêu vàng tôi đã giao cho bọn dẫn đường. Còn tiền bạc và đồ qúy giá thì bọn Miên cướp đường lần trước đã lấy hết. Không tin mấy anh hỏi bọn dẫn đường này mà xem.
Nhóm bộ đội nạt lớn:
-Mấy thằng Mán rừng đó làm sao mà hỏi nó được? Nó có biết tiếng Việt gì đâu mà hỏi?
Tuy nói thế nhưng bọn họ cũng tới nạt hỏi bọn người Miên dẫn đường. Họ chỉ lắc đầu quầy quậy chứ chẳng chịu hối lộ tiền cho nhóm bộ đội Việt Nam kia. Tôi thầm nghĩ:
“Mình phải tìm cách đi chứ kéo dài mãi thì chết.”
Thế là tôi nói:
-Tôi còn tượng Phật này, các anh lấy đỡ rồi cho tôi đi!
Vừa nói, tôi vừa tháo gỡ tượng Phật giao cho mấy anh bộ đội để họ cho đi. Cầm tượng Phật xong, họ liền hất hàm ra lệnh:
-Thôi đi đi! Mấy người sao mà gan vậy? Đường này toàn gài mìn hết cả rồi! Bây giờ anh chỉ bọn Miên đi đường bên trái kia kìa. Nếu đi đường bên phải là tiêu luôn đó nghe!
Tôi trả lời:
-Mấy anh làm ơn nói hộ với nhóm người Miên cho họ hiểu, chứ tôi đâu có biết tiếng Miên mà nói với họ?
Bọn họ liền nói một tràng tiếng Miên với những người dẫn đường và chỉ trỏ các lối đi an toàn cho chúng tôi đi. Khi đó, chúng tôi mừng quá vì đã thoát nạn nên vội leo lên xe bò ngay. Xe vừa chuyển bánh thì ba người bộ đội dặn vói:
-Đằng trước còn nhiều trạm bộ đội Việt Nam nữa. Nếu họ có chận hỏi thì làm bộ giả người Miên, nhớ đừng trả lời. Hễ trả lời là chết đó! Thôi đi lẹ lên!
Tôi thầm nghĩ:
”Làm sao mà giả người Miên được? Họ nhìn là biết ngay mình là người Việt. Dấu làm sao được? Từ khuôn mặt đến dáng điệu, nhìn là biết liền.”
Chúng tôi cám ơn họ rối rít rồi đi tiếp. Xe băng rừng và đi độ thêm một hai tiếng đồng hồ gì đó thì chúng tôi gặp một đám lính mặc đồ rằn ri, có mang súng ống đầy đủ. Chúng tôi thoạt đầu mừng quá vì nghĩ rằng chắc đây là:
”Quân ta đây rồi! Đồ quân phục của lính Dù, lính Biệt Động Quân đây mà! Ôi, màu áo quen thuộc, thân thương của quân ta đây!”
Nhưng lúc đến gần, chúng tôi mới biết là lính dù Người Miên. Chúng có cái tên quen thuộc là Para. Chúng là lính của quân đội giải phóng Miên. Bọn chúng xúm lại, kéo chúng tôi khỏi xe bò để dắt vào lùm cây mà xét và cướp của lần nữa. Mặt mũi của bọn Para ra này thật dữ dằn và hung tợn. Thằng nào cũng xâm hình tượng Phật nhỏ đầy mặt, đầy cổ và đầy người. Chúng còn đeo tượng Phật và bùa đỏ đầy trên cổ.
Bọn Para trao đổi lời lẽ với những người đi xe bò dẫn đường và muốn đuổi họ đi. Nhưng bọn họ không đi mà cứ đứng nấn ná đợi chúng tôi. Bọn Para thì cứ xua tay đuổi bọn kia đi để chúng dễ bề xét người và cướp của trên người của chúng tôi.
Chúng chia nhỏ toán quân và dò xét quanh vùng. Một vài tên lính Para biết tiếng Việt lõm bõm, chúng bèn hỏi chúng tôi với giọng lơ lớ và sai văn phạm, nghe thấy thật buồn cười:
-Có gặp bộ đội Việt Nam không? Bộ đội Việt Nam đông không? Họ có những súng gì?
Rồi chúng lại tiếp tục xét người chúng tôi. Chúng tôi lại phải bị lột quần áo và đứng tơ hơ. Tụi này khám rất kỹ, kể cả hậu môn và chỗ kín chúng cũng không bỏ qua. Lại một thằng Para Miên lấy súng lục kê cạnh tai tôi và hỏi gằn:
-Bộ đội Việt Nam phải không? Bộ đội hay nhân dân Việt nam?
Tôi sợ quá, run cầm cập mà trả lời:
-Tôi là dân Việt Nam đi vượt biên, chứ không phải bộ đội Việt Nam.
Hắn hỏi gằn đi gằn lại:
-Thiệt không? Nói láo bị bắn chết ngay! Khai thiệt đi, nhanh lên!
Cứ thế, nó dọa nạt tôi đủ thứ. Lúc ấy, trong túi quần tôi còn một cái dụng cụ ngoáy tai bằng bạc mà tôi giữ làm kỷ niệm đã lâu. Thằng Para này đòi lấy, tôi cũng đưa luôn. Tiếc gì nữa mà giữ lại? Cháu nhỏ của tôi còn một tượng Phật bằng bạc, chúng nó cũng đoạt lấy luôn.
Tìm tòi mãi mà chẳng có gì đáng giá, chúng bèn ra lệnh cho chúng tôi mặc quần áo lại mà đi tiếp với toán quân của chúng. Đi một chập, chúng tôi gặp lại chiếc xe bò cũ, bọn Para lại trao đổi, mặc cả và trả giá gì đó với bọn đi xe bò. Cuối cùng chúng lại đuổi bọn xe bò đi.
Thế là từ đấy, chúng tôi không còn gặp lại chiếc xe bò đó nữa. Trong lòng lo lắng và sợ hãi, chúng tôi chỉ sợ bọn người rừng rú này làm bậy và hãm hiếp chị tôi. Nhưng Trời thương, chúng không hãm hiếp.
Khi đến một nơi tiền đồn, có giao thông hào và đồn phòng thủ, chúng bèn giao chúng tôi cho một toán quân ở nơi đó và bảo đưa chúng tôi đến Non Chan. Bọn lính sau này gặp một xe bò chở nước, chúng nhảy lên xe bò ngồi và cho phép cháu nhỏ của tôi leo lên xe theo. Tay chúng lăm lăm ghìm súng chỉ vào người chúng tôi như muốn sẵn sàng nả đạn vào gia đình tôi.
Trong lúc đó, chị tôi và tôi phải chạy bộ theo dấu xe bò mà đi. Vừa mệt, vừa sợ lạc mất đứa cháu, vừa khát khô cổ nhưng chúng tôi vẫn phải bương bả chạy theo xe bò mà đi. Cơn nắng lên cao, cơn đói khát, nỗi sợ hãi làm chúng tôi mệt đến có thể ngất xỉu ngay tại đó.
Ôi! đường đến với tự do sao quá khổ sở, đầy gian nan thử thách và đầy nguy hiểm như thế này? Chúng tôi lần mò đi để tìm đến vùng Non Chan. Một bước ngoặt của đoạn đời mới đầy tủi nhục và đau thương bắt đầu từ đây!
Chương II-2a.
Trại Tù Ở Non Chan, Khu Thứ Nhất
Khi chúng tôi tới Non Chan là vào buổi trưa ngày 22, tháng 4, năm 1982. Từ xa, chúng tôi thấy những căn nhà lụp xụp làm bằng cỏ tranh, trên có che những tấm ni lông màu xanh da trời. Xa xa, tôi thấy một lá cờ của lính giải phóng Miên, có màu xanh, đỏ và một hình tháp chính giữa. Tôi vì quá mệt nên cũng không còn đủ sức mà nhìn rõ xem màu sắc và hình vẽ của lá cờ như thế nào.
Khi đến nơi, tôi nghĩ là mình đã đến vùng tự do rồi nên lòng mừng khấp khởi. Thế nhưng lại bị một bọn lính Para khám xét nữa để cướp đồ quý. Bọn chúng hỏi tôi bằng một tràng tiếng Miên. Tôi không hiểu mà chỉ ra dấu rằng tôi quá khát và cần nước uống. Nhưng thay vì cho tôi uống nước, chúng lại bắt chúng tôi cởi quần áo để chúng moi móc tìm mọi chỗ, kể cả chỗ kín trong người.
Lúc ấy tôi chỉ còn vỏn vẹn có một bộ đồ mặc trong người và một đôi dép râu quai bố (loại dép Bình Trị Thiên). Dù vậy, bọn Para cũng không tha vì chúng nghĩ rằng tôi có thể dấu vàng bạc ở đôi dép ấy. Chúng lấy luôn đôi dép râu của tôi và trao cho tôi một đôi dép Nhật khá tốt.
Sau này, tôi đã khốn khổ vì đôi dép ấy trong những tháng ngày dài sống thiếu thốn ở trại tù Non Chan và trại tị nạn NW 82. Đôi dép cũ mòn hư hao. Tôi đã phải tìm mọi cách để cột đôi quai dép lại cho có thể đi tạm được. Đi chân trần khổ lắm, vừa đau, vừa đạp gai, đạp miểng chai, sâu bọ hay phân người. Tôi cứ tiếc hùi hụi cho đôi dép râu bền chắc đã bị bọn Para lấy mất.
Bọn Para mới dữ dằn vô cùng. Chúng hạch hỏi đủ thứ, kể cả ngày sinh tháng đẻ và cả nơi sinh của chúng tôi để làm thủ tục giấy tờ. Bà chị tôi lúc ấy quá sức sợ hãi nên khai bậy bạ. Chị khai nhiều tuổi hơn tuổi thật. Chị khai lộn xộn hết mà từ đó, tôi không dám điều chỉnh lời khai nữa vì sợ chúng nghĩ rằng mình có ý man trá nên khai tầm bậy. Chính vì thế mà kẹt luôn cho đến khi khai để xin được bảo lãnh, tôi cũng phải khai như lời chị khai.
Làm thủ tục xong, bọn chúng lại giao chúng tôi cho một tên lính dắt đi đến một văn phòng khác ở rất xa. Chúng tôi đi mãi, băng qua một khu chợ. Ở đấy, người ta che các căn nhà lụp xụp bằng lớp cỏ tranh hay bằng tấm vải ni lông xanh.
Khi tới một văn phòng khác của Para, chúng tôi phải ngồi chờ rất lâu ở đó. Thế rồi lại một màn cởi quần áo để khám xét kỹ lưỡng nữa. Bao nhiêu nỗi tủi nhục và cực lòng làm chúng tôi đau đớn vô cùng. Thân phận mình còn bị bạc đãi và coi thường hơn một con chó hay con kiến nữa.
Sau đó, chúng dắt chúng tôi vào một trại tị nạn. Thoạt đầu, chúng tôi tưởng bở, lòng mừng rỡ vì ý nguyện đã thành tựu. Trại tị nạn đây rồi! Ôi ba chữ ” Trại tị nạn” sao nghe vui tai và hay ho đến thế. Nhưng hỡi ôi! khi đến nơi mà gọi là trại tị nạn thì đó chỉ là một nhà tù nhỏ làm bằng tranh, chung quanh đóng cột gỗ và có hàng rào đầy thép gai.
Nhìn vào trong nhà thì thấy rất nhiều người đứng lố nhố, đặc biệt là đàn ông và con nít đều ở trần. Mọi người đứng trong vòng rào kẽm gai nhìn ra. Trông ai cũng đen đúa như một đám mọi đen đói vì ai cũng ốm dơ xương ra. Tôi thấy mình chới với ngay:
”Trại tị nạn gì mà kỳ cục quá, khủng khiếp quá!”
Hình ảnh thực tế của trại tù Non Chan đập mạnh vào mắt tôi.
”Đây là trại tị nạn đó sao? Trại chỉ toàn kẽm gai và đám người bị tù túng, đói khổ như thế này! Thôi rồi, thiên đường của dân tị nạn đường bộ là đây sao?”
Mộng ước sụp đổ tan tành ngay lập tức. Chúng tôi bị xúc động về hình ảnh đau thương trước mắt. Chúng tôi không thể mở miệng mà hỏi han hay nói chuyện với ai cả, chỉ còn biết đứng ngây ra nhìn mà thôi. Sự thật phũ phàng quá! Bao nhiêu cực khổ dọc đường không làm cho chúng tôi chán ngán bằng hình ảnh cái trại tù Non Chan ấy.
Liền đó, tên lính mở dây xích khóa cửa tù để tống ba chúng tôi vào đó. Tống giam xong, hắn cẩn thận khóa cửa để đi về. Địa ngục là đây rồi! Lúc ấy, nhằm lúc bọn tù đàn ông đi làm lao động hết rồi, chỉ còn bọn tù đàn bà, con nít và một số đàn ông bịnh hoạn ở lại trại giam này mà thôi.
Khi chúng tôi bị tống vào trại, trong đó ai cũng nhìn chúng tôi bằng đôi mắt thương hại. Họ ở đó lâu qúa rồi, và họ đã nếm đủ mùi cực khổ rồi. Bây giờ chúng tôi cũng lại lao đầu vào chốn địa ngục trần gian ấy nên họ thương hại.
Lúc chúng tôi nhập trại thì trời đã quá trưanên ai cũng ăn cơm hết rồi. Theo lời họ kể thì cơm là do bọn tù đàn ông đi làm lao động khổ sai rồi để dành cơm đem về cho vợ con ở kẹt trong tù. Cơm chỉ ăn với muối trắng mà thôi.
Chúng tôi quá tuyệt vọng và mỏi mệt nên chẳng ăn được mà chỉ khát nước mà thôi. Một vài người đàn bà tốt bụng đã cho chúng tôi vài ngụm nước. Sau này tôi mới thấy rằng họ đã quá tốt với chúng tôi, vì nước trong tù rất hiếm và qúy còn hơn là vàng nữa.Tình đồng hương, đồng cảnh ngộ thật đáng ngợi khen. Ở trong tù không có nước, không có muối và không có đồ ăn. Mỗi bữa mọi người chỉ được ăn cháo do bọn lính Para phát cho mà thôi.
Uống vài ngụm cũng chưa đã khát, nên sau đó chúng tôi được các bà ấy rót nước cẩn thận ra ba lon sữa bò và trao cho ba chúng tôi. Hết thẩy mọi người ở đó đều nhìn chúng tôi với sự xót thương, nhưng không ai vội vàng kể cho chúng tôi những chuyện khổ cực trong tù. Có lẽ họ nghĩ rằng chúng tôi vừa mới đến nơi, kể ngay sợ chúng tôi đau khổ sớm.
Trong nhà tù ấy rất dơ dáy, toàn là đất bụi, chiếu thì rách te tua. Người ở trong tù đã quá quen với cảnh dơ bẩn đó, còn chúng tôi thì còn ngại dơ nên đứng lóng ngóng ở đó và không dám ngồi. Mọi người cứ mời chúng tôi ngồi mãi. Cuối cùng chúng tôi đành ngồi nhẹ xuống vì ngồi mạnh lại sợ dơ.
Sau đó chúng tôi mới hỏi thăm tình hình trong nhà tù và được biết rằng căn nhà tù này rất nhỏ, mỗi cạnh độ chừng bốn thước mà được ngăn làm hai: Một bên chứa người Miên hay lính Miên phạm pháp. Một bên chứa người Việt tị nạn. Số người Miên bị giam chiếm hai phần ba, còn số người Việt chiếm một phần ba dân số.
Trước đó, phiá giam người Việt tị nạn có đến bốn mươi hay năm mươi người. Lúc tôi đến thì có khoảng hai mươi hay ba mươi người. Mọi người chen chúc sống trong căn nhà chật hẹp. Khổ một nỗi là ngay trong phòng có một cầu tiêu, chiếm một phần tư diện tích căn phòng. Người ta bài tiết ngay ở đó, mà lại không có nước để dội. Vì thế, mùi hôi thối bay ra nồng nặc, lại thêm ruồi bọ nhiều như ong. Ruồi nhiều đến nỗi chúng bu vô cơm, cá khô và tất cả mọi thứ. Con nít đi tiêu chảy tung tóe đến nỗi phân dính đầy trên chiếu.
Tối đến, chúng tôi cũng vẫn phải ngủ trên chiếc chiếu có dính phân. Phòng vừa chật vừa hôi thối, người ta chen chúc như nêm cối. Lúc đầu, chúng tôi thấy phòng dơ, ruồi nhiều nên không dám ăn cơm nữa vì chưa ăn đã ớn và sợ đến tận cổ rồi. Cơm nước thì do bọn dân tù nấu ở một nhà bếp làm phía ngoài. Mấy ngày đầu chúng tôi mới đến thì bọn Para cho ăn vài bữa cơm. Sau thì toàn cho ăn toàn là cháo trắng và muối hột mà thôi.
Sau đó, bọn Para cho tôi nhập vào đám tù đàn ông để làm công tác nặng như đào giếng, làm đường, cưa cây xẻ gỗ, làm nhà, đào mìn hay gỡ mìn. Còn đàn bà thì làm những việc nhẹ chung quanh trại. Khổ một điều là đàn bà bị hãm hiếp thường xuyên. Ban ngày, bọn Para kéo đàn bà vào ngay văn phòng của chúng để hành lạc tập thể. Ban đêm lại còn kinh khủng hơn vì chúng lôi phụ nữ đi hãm hiếp từng đêm.
Bọn chỉ huy của Para thường mang danh là chống Cộng, là lực lượng giải phóng, nhưng thực chất, chúng chỉ là bọn thảo khấu, ăn cướp và hãm hiếp phụ nữ mà thôi. Chính những tên được gọi là ”Ông lớn”, hay ”Lục thum” là những tên tai quái nhất.
Ban đêm chúng cho người đem một mảnh giấy gọi hết cô này đến cô kia lên văn phòng cho ”Ông lớn điều tra”. Như vậy ai cũng hiểu là chuyện gì sẽ xảy ra cho những cô gái ấy rồi. Ở văn phòng các ”ông lớn” thường có sẵn bốn, năm tên lính Para ngồi chờ. Khi các cô trở về thường là đi hết nổi, có cô bại liệt hẳn và phải có người dắt nách hai bên.
Còn những tên lính ”tép riu” Para thì hay làm càn. Chúng kéo các cô vào cầu tiêu ngay trong phòng. Có khi chúng hãm hiếp các cô gái ngay trước mặt bọn tù tị nạn người Việt. Cả con nít cũng phải chứng kiến cảnh đốn mạt ấy. Hội Hồng Thập Tự Quốc tế (HTTQT)có can thiệp xin lãnh mọi người tị nạn, đặc biệt là xin cho các cô gái được dời đi đến các trại khác, nhưng lính Para cũng không tha cho họ ra đi.
Thường thường thì các cô gái đẹp mà không có chồng hay không có gia đình đi chung thì bị chúng giữ lại rất lâu để hành lạc. Tôi có quen hai cô gái tị nạn. Sau này một cô được chấp nhận cho tới Mỹ, còn một cô được đi Canada. Hai cô này bị hãm hiếp hàng đêm đến nỗi trở thành ngơ ngẩn nhưng may mà chưa điên. Đàn ông khỏe mạnh thì bị giữ lại ở trại tù rất lâu để làm lao công. Cơ hội đi thoát cũng rất là khó.
Gia đình tôi kể ra là may mắn nhất. Chúng tôi ở trại tù khoảng một tháng rồi được chuyển qua một khu khác gần nhà thương Non Chan. Tụi Para chơi bùa nhiều nên có đứa ngán, không dám hãm hiếp vợ người vì sợ bùa hành. Do đó những gia đình có vợ và con nhỏ thường dễ được đi nhanh hơn các trường hợp khác. Chúng tôi khai là vợ chồng có con nhỏ nên được hội HTTQT can thiệp mạnh và cho đi sớm.
Mỗi tuần, vào sáng thứ tư là ngày hội Hồng thập Tự Quốc tế tới. Ở trong tù, ai cũng mong đợi cho mau đến ngày thứ tư. Đến ngày ấy, không ai phải đi làm lao động cả mà chỉ ở nhà nằm chờ cho hội HTTQT đến lấy danh sách tên tuổi của người tị nạn. Lấy danh sách là một chuyện còn khi nào bọn Para Miên cho đi thì hội HTTQT mới có thể ”bốc” dân tù tị nạn đi được. Nếu bọn Para không cho dân tị nạn đi thì đành phải chờ cho dù mấy tháng, mấy năm vẫn phải chịu.
Như thế số phận dân tị nạn như cá nằm trong rọ, sống khắc khoải dưới sự đàn áp và cưỡng bức tàn bạo của bọn Para. Có nhiều người đã phải chờ cả hai năm. Có người bị giết chết cách tức tưởi nên chẳng bao giờ còn dịp gặp được hội HTTQT cả.
Những người tị nạn nào đã được gặp hội HTTQT thì vẫn tiếp tục đi làm. Còn những người khác vì lý do nào đó như gái đẹp, trai khỏe mạnh, hay tỏ ý chống cự lại bọn Para thì đến ngày hội HTTQT đến, bọn Para bắt họ đứng riêng, không cho gặp mặt nhân viên của hội.
Cũng có người bị bọn Para nghi là Cộng sản, gián điệp, không thành thật hay còn giấu diếm tiền bạc, vàng nên không được chúng cho gặp nhân viên hội HTTQT. Đã có hai người đến trước chúng tôi khoảng mấy tháng và ở trong trường hợp bị chúng tách riêng không cho gặp nhân viên hội HTTQT. Chúng giữ hai người này cả năm trường. Hai ông này rất sợ hãi vì không biết bị bọn chúng đập đầu giết chết lúc nào.
Một điều lạ là bọn Para Miên ghét Cộng sản Miên đã đành , nhưng chúng cũng rất ghét sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa của chế độ cũ. Các vị cựu sĩ quan như đại tá hay trung tá mà vượt biên đến đó cũng bị bọn chúng chúng hành hạ, đầy ải đến nỗi họ ăn ngủ không yên. Tinh thần họ bị khủng hoảng vô cùng. Vì thế tôi lấy làm thắc mắc, chẳng hiểu lý tưởng của bọn Para như thế nào nữa.
Ở trong tù mà không biết tiếng Miên thì thật là khổ. Như trường hợp của tôi: Hôm đó có một đám lính Para tới phòng tôi và nói một tràng tiếng Miên. Chúng tôi chẳng hiểu gì cả, may mà có một phụ nữ tị nạn biết tiếng Miên nên dịch ra tiếng Việt cho chúng tôi hiểu. Chúng bảo:
”Ai có gia đình thì ở lại phòng này, còn ai không có gia đình thì qua bên phòng kia ở với tù người Miên.“
Vì thế, chúng tôi yên trí ở lại phòng đó. Tối đến lại có một nhóm Para khác đến cũng nói một tràng tiếng Miên. Tôi cũng không biết chúng nói gì. Thế là một lần nữa, người đi qua, kẻ ở lại, còn chúng tôi ngơ ngác đứng xớ rớ. Liền đó, một thằng Para giận dữ đá ngay vào mặt tôi và nạt lớn. Sau đó, nó còn đá bồi vào ngực vào lưng tôi rồi kéo đầu tôi qua phía phòng bên kia.
Những người ở cùng phòng hoảng hốt hét to:
”Đi ra đi! Đi ra đi!”
Tôi hốt hoảng và chạy ”dọt” ra ngoài. Như vậy là đàn ông dù có gia đình hay không gia đình đều phải qua phòng đó. Thế là chúng muốn tách tất cả đàn ông ra một phòng riêng.
Tôi vội vàng chạy chúi đầu vào phòng của người Miên và không dám ngóc đầu lên nữa. Tối đó, tôi phải nằm trên một chỗ đất lồi lõm, không bằng phẳng mà ngủ. Vì vào phòng sau cùng, nên ai cũng dành chỗ tốt hơn, còn tôi chỉ có chỗ nằm tệ nhất thôi.
Đêm hôm đó, tôi đau lưng cả đêm, lại thêm bị tức ngực và đau mặt ê ẩm vì những cái đá của thằng lính Para độc ác. Dù đau và nằm không thoải mái, tôi cũng chịu trận vì hễ trở mình, lỡ đụng bọn tù Miên bên cạnh là chúng đạp lại và đánh tôi ngay. Thật là khổ ải, hết bị bọn này hành hạ lại đến bọn khác đánh đập. Ngay cả đến chút nước uống của mình, bọn tù Miên cũng cướp lấy, không cho chúng tôi uống.
Ban ngày, đàn ông tù tị nạn đi làm, được nấu cơm ăn bên ngoài. Ăn xong, bọn họ gói cơm và để dành nước đem về cho tù đàn bà và con nít ở nhà. Cứ chiều đến, những người tù ở nhà đứng bu bên cạnh hàng rào kẽm gai, ngóng mắt chờ mong những người tù nam về để xin cơm và nước mà sống qua ngày.
Vì sống trong cảnh khổ đau cùng cực nên chúng tôi thương yêu nhau như trong tình gia đình: chia cho nhau từng chén cơm và ngụm nước. Lúc ấy mới thấy thấm thía câu ca dao:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.”
Khi đám tù đàn ông chúng tôi đi ra ngoài làm lao động, chúng tôi vẫn tiếp xúc với dân chúng Miên. Họ có vẻ thông cảm và thương hại chúng tôi. Hình như họ cũng bị ép buộc ở vùng đó. Họ cũng buôn bán cò con, lẻ tẻ như dân nghèo Việt nam. Họ bán ổi, xoài, kẹo và bánh. Đôi khi vì thấy chúng tôi quá cực khổ nên họ lén cho chúng tôi một trái xoài hay một cây kẹo.
Nhiều người Miên ở đấy biết tiếng Việt nhưng không dám nói tiếng Việt với chúng tôi vì họ sợ bọn Para ghét. Cho đến nay tôi vẫn còn thương một người lính Miên tên là Khíp. Mẹ anh ta là người Việt. Có lẽ vì thế mà anh thương bọn tù chúng tôi. Đôi lúc, anh ta cho chúng tôi ít nước uống hay dấm dúi cho con nít vài cái kẹo. Khíp không hề đánh dân tị nạn Việt mà còn giúp chúng tôi những thứ lặt vặt trong khả năng của anh ta nữa.
Có lần vì thấy bọn tù chúng tôi ở dơ, không có nước tắm nên anh Khíp xin cấp trên cho anh dẫn từng năm người đi tắm. Không hiểu anh này có biết tiếng Việt hay không, có thể anh ta biết nhưng vì sợ bị bọn Para kia kiếm chuyện nên không dám nói tiếng Việt với chúng tôi.
Các câu chuyện về lao động khổ sai:
Có nhiều trường hợp mà dân tị nạn phải đi gỡ mìn và chết oan vì mìn nổ. Một người bạn của tôi tên là Dũng. Dũng và người anh trai cùng đi vượt biên đường bộ và cùng bị tù ở Non Chan. Tại đây, có một phái đoàn Phục quốc người Việt đến chiêu mộ binh sĩ. Người anh của Dũng đã tình nguyện gia nhập đoàn quân phục quốc, còn Dũng thì ở lại, chịu cảnh làm lao động khổ sai.
Dũng còn trẻ là học sinh, cả đời không biết gì về súng đạn hay bom mìn gì cả. Một hôm Dũng đang làm lao động thì bọn Para kêu anh ta ngồi riêng ra một chỗ. Rồi bọn chúng cho Dũng ăn một nồi cơm nguội và cá khô. Điều này rất hiếm vì ở trong tù chỉ được ăn cháo trắng, đôi khi còn không có muối mà ăn chứ đừng nói đến chuyện ăn cá khô.
Khi Dũng ăn no nê xong, chúng còn cho Dũng ngồi nghỉ thật lâu và còn cho hút thuốc lá nữa. Dũng rất ngạc nhiên nên cứ thắc mắc mãi. Chừng một lát sau, mười tên lính Para Miên đội mười quả mìn từ đâu đến để trước mặt Dũng. Rồi thằng chỉ huy Para vừa nói vừa ra dấu cho Dũng cách thức tháo ngòi nổ. Hắn nói bằng tiếng Miên nên Dũng không hiểu mà chỉ biết nhìn theo cách hắn dạy để làm thôi.
Tên Para lấy một cái búa và một cái đục để ra dấu chỉ cho Dũng đục qủa mìn theo hình chữ thập. Phải đục thật cẩn thận và khéo léo. Đục xong thì cậy lên để tháo ngòi nổ. Sau đó rút chốt quả lựu đạn rồi nhét và qủa mìn. Cần nhất là làm nhẹ nhàng kẻo mìn nổ.
Sau khi nhắc đi nhắc lại nhiều lần, bọn lính Para chạy dạt ra xa hết vì sợ nổ. Thế là còn lại chỉ có Dũng với mười trái mìn. Nhát búa đầu tiên mà Dũng đóng vào quả mìn làm tim anh nhói lên vì sợ hãi. Anh sợ vì lỡ nó nổ thì anh ta chết tan xác ngay. Anh ta cố gắng đến tột độ nên làm xong quả mìn đầu tiên thì người Dũng ướt đẫm hết vì mồ hôi toát ra như tắm.
Chương II-
3. Trại Tị Nạn Ở Gần Nhà Thương Non Chan, Khu Thứ Hai
Lúc ấy là ngày thứ tư 22 tháng 5, năm 1982. Từ trại tù đến nhà thương Non Chan chỉ độ một cây số. Nhà thương này được hội HTTQT cấp thuốc men và y sĩ để chữa bịnh cho nhân dân Miên. Khu trại chứa dân tị nạn Việt Nam này nằm ở sát bên cạnh nhà thương, nhưng ở về phía sau của nhà thương.
Trại này chứa những người tị nạn từ các trại tù ở Non Chan hay ở Pnom Chat mà đã được bọn Para chấp thuận cho hội HTTQT mang đi. Tại trại mới này có một nhân viên hội HTTQT người Thái rất tốt. Ông ta căn dặn chúng tôi chớ nên ra khỏi vòng rào trại vì nếu ra đó sẽ bị bọn Para bắt nhốt vào tù là khỏi đi được nữa.
Chỉ có một số những người tị nạn người Việt gốc Miên, thường được gọi là ”Chrom” là có thể lén ra đi lại vì họ biết tiếng Miên nên không ai biết họ là dân tị nạn. Số người Việt gốc Miên này đã bị bọn Para dụ dỗ để ở lại đó làm việc cho chúng. Để làm cho họ vững tâm ở lại, Para đồn là ở trại NW 82 cũng rất khổ cực, lại không được cứu xét cho đi Mỹ, rằng đã có người ở trại NW 82 mấy năm vẫn không được đi, vậy thì đến đó để làm gì? Rồi lại còn bị nạn lính Thái hành hạ nữa.
Chính vì đòn tâm lý ấy nên một số đông người Việt gốc Miên đã ở lại làm việc cho bọn Para. Nếu họ chọn ở lại với chúng mà sau này họ trốn đi thì cũng bị Para giết chết.
Tại trại tị nạn gần nhà thương Non Chan này, lúc đầu chúng tôi tưởng là đã an toàn hơn nhưng khi nghe ông nhân viên HTTQT tên là Kông, người Thái Lan dặn dò là con gái không nên sửa soạn son phấn, không nên đi ra ngoài và cũng không nên nằm sát cửa là chúng tôi sợ rồi. Ông Kông lo nhiệm vụ phát mền, chiếu, thực phẩm cho dân tị nạn.
Thế là ảo tưởng tan tành rồi, những tưởng là có tai mắt của Hội HTTQT thì đỡ hơn. Nơi này, từ 4:00 giờ chiều trở đi, khi nhân viên hội HTTQT rút về biên giới Thái, thì lại thuộc quyền sinh sát của bọn Para người Miên.
Y như rằng, tối hôm ấy, bọn Para vào lều lôi kéo và bắt phụ nữ đi hãm hiếp. Nơi trại này có một tên Para phụ trách an ninh tên là Thi. Hắn nổi tiếng là hung thần. Hễ nghe đến tên hắn là dân tị nạn ”tản thần”, sợ rởn tóc gáy. Thi chuyên môn ”điều tra” vào ban đêm, ngay lúc nửa khuya. Cũng nên hiểu việc ”điều tra” là hãm hiếp, hành hạ, đánh đập để thỏa mãn thú tính và để khảo của.
Hễ nửa đêm là giờ quỷ sống Para tung hoành. Đối với tù nhân đến từ Non Chan qua thì ít bị đánh đập và khảo của vì chúng đã lột sạch tiền của từ lâu rồi. Nhưng đối với những nạn nhân tị nạn từ các nơi khác đến như từ Pnom Chat hay những trại khác thì bị chúng đánh đập tàn nhẫn để cướp tiền và khảo của. Chúng dùng đinh đóng vào thân thể người ta để tra tấn cho bao giờ thò vàng và tiền ra mới thôi.
Các phụ nữ tị nạn bị hãm hiếp như cơm bữa, nhưng phụ nữ người Miên gốc Hoa thì đỡ bị hành hạ hơn. Cứ đêm đến là những tiếng khóc than nổi lên nghe ai oán và ghê rợn. Nhiều nạn nhân có con nhỏ, khi họ bị lôi kéo để bọn Thi hãm hiếp thì con cái họ khóc la dậy trời.
Hành tung của Thi và đồng bọn thật kinh tởm và khủng khiếp. Đồng bọn của hắn gồm thêm bốn, năm đứa nữa. Vẻ mặt Thi rất dữ dằn. Hắn vừa là y tá trưởng của nhà thương Non Chan, lại vừa là người phụ trách an ninh. Có thể hắn làm việc cho hội HTTQT nên mới giữ được chức vụ y tá trưởng. Nhưng hội không hề biết gì về bộ mặt sát nhân và đểu cáng của hắn khi đêm đến.
Mỗi khi có nhóm dân tị nạn Việt Nam mới tới là bọn lính Para tổ chức hội họp và ra thông cáo. Mục đích của chúng là để nhìn mặt xem nếu có cô thiếu nữ nào đẹp thì ban đêm, chúng sẽ vào lôi kéo để thỏa mãn thú tính. Khi mắt chúng láo liên đảo quanh thì không có con mồi nào thoát khỏi nanh vuối độc hiểm của chúng.
Nạn nhân phụ nữ từ trại tù Non Chan qua cũng vẫn chưa được buông tha. Có một cô gái ở trại tù đã bị chúng hãm hiếp nhiều lần đến bại chân. Nay cô qua trại này và được đi bệnh viện và chữa lành. Còn nhiều cô gái khác thì trở nên bất bình thường vì khủng hoảng tâm lý.
Gia đình tôi sống lây lất nơi trại Non Chan này được khoảng một tháng nhưng cứ tưởng như thiên thu vì bị khủng hoảng đến phát bịnh. Chẳng hiểu tại sao mà Para đối xử tàn tệ với người tị nạn như là kẻ thù truyền kiếp của chúng. Trong khi ấy, các dân tị nạn người Miên gốc Hoa hay người Miên thì được đối đãi tử tế hơn. Chúng luôn luôn đe dọa người Việt tị nạn như sau:
”Hễ Việt cộng mà tấn công thì tụi bay biết tay chúng tao!”
Ngày chúng tôi đến trại này thì nhân số tị nạn chỉ có khoảng hai mươi người. Dần dần nhân số tăng lên rất mau vì dân tị nạn từ các nơi khác đến. Cũng có người may mắn được người dẫn đường đưa thẳng tới khu trại ở gần nhà thương Non Chan nên không phải ở tù như chúng tôi. Nói chung, dù từ bất cứ từ nơi nào đến trại này, kể cả từ các trại của lính Sihanouk, Sonn San hay Pol Pot đều bị chung số phận đen tối như nhau.
Khi gia đình tôi rời trại Non Chan để qua trại NW 82 thì nhân số tị nạn đã lên đến hơn 200 người.
Chương II-4. Trại Tị Nạn North West 82 (NW 82)
Trại này cách trại NW 9 (nơi Kim Hà và gia đình đã từng ở) khoảng ba, bốn cây số đường chim bay. Khi nhân số dân tị nạn ở trại NW 9 đã được giải quyết cho đi đến các trại nằm trong nội địa Thái hay cho đi định cư tới các nước vào cuối năm 1981 thì toàn bộ nhà cửa của trại NW 9 đã bị thiêu cháy để tẩy uế. Nhưng rồi người tị nạn lại tiếp tục đến nên trại NW 82 được thành lập. (Lời của tác giả Kim Hà)
Chúng tôi rời khu nhà thương Non Chan để đến trại NW 82 vào ngày 16 tháng 6, năm 1982. Phải kể là gia đình tôi là những người may mắn nhất vì tới sau mà đi trước nhất. Đã có những người ở tại trại tù Non Chan cả năm rưỡi mà vẫn chưa được đi chỉ vì họ là gái đẹp hay thanh niên cường tráng.
Khi đến nơi, chúng tôi vẫn không được vào trại NW 82, mà phải nằm nơi nhà thương Non Samet, bên cạnh trại NW 82. Nơi này thuộc quyền kiểm soát của lính Thái Lan. Chúng tôi phải nằm chờ một đêm, phải thi tiếng Việt, nếu thi đậu mới cho vào trại NW 82.
Đêm hôm ấy, 16 tháng 6, 1982, mội tên chỉ huy phó lo về an ninh ở trại NW 82 đi qua nhà thương Non Samet để truy lùng xem ai là người đẹp. Hắn tên là Chon nhưng dân tị nạn gọi hắn là Cọp vì bản chất hắn rất dữ dằn, mặt mũi hắn thì đầy râu ria. Hắn muốn đánh ai thì đánh, muốn đá ai thì đá, không cần có lý do gì cả. Vì thế dân tị nạn rất sợ hắn. Tên Cọp này nổi tiếng là hung thần của trại NW 82 này.
Sáng hôm sau, 17 tháng 6, 1982, tên Cọp chở tất cả những người mới tới đến một cái lều mới dựng ở bìa rừng để lục xét tìm kiếm của cải, vàng bạc. Nhưng hoài công, vì dân dị nạn đã bị lục xét cả trăm lần nên chẳng còn gì.
Tiếp đó, ban đại diện người Việt cũng tới đó và kêu từng người tị nạn mới đến để thi tiếng Việt. Việc này có thể do bọn lính Thái đặt ra nhằm mục đích làm tiền. Cũng có thể là do họ muốn loại bớt những thành phần người Miên giả làm người Việt.
Trong số các người thi tiếng Việt, cũng có một số người thi rớt vì nói tiếng Việt không rành hay vì đọc chữ Việt không được. Tuy nhiên cũng có những người không viết được tiếng Việt hay không nói rành thì vẫn thi đậu nếu biết đút lót vài ba chỉ vàng. Có thể họ đưa vàng cho ban đại diện người Việt Nam hay đưa cho lính Thái.
Một trường hợp oan uổng:
Một ông đã làm việc nhiều năm cho tòa đại sứ Mỹ ở Việt nam, đi cùng với bốn con nhỏ từ sáu, bảy tuổi trở xuống. Ông ta không có vợ đi chung. Sau khi thi thì ông ta bị rớt nên năm cha con phải ở lại nhà thương Non Samet, chứ không được đến trại NW 82.
Những người thi tiếng Việt bị rớt thì ở trại Non Samet, không được giải quyết cho đi định cư. Khi mà trại NW 82 được giải quyết cho đi một lúc thì những người ở Non Samet vẫn còn kẹt lại.
Trại NW 82 ở cách giao thông hào khoảng một cây số, còn nhà thương Non Samet thì cách trại NW 82 chỉ có một hàng rào tre. Lúc trước thì trại NW 9 ở sát bờ giao thông hào. Nhưng trại này đã được giải tỏa và thiêu cháy ra tro từ năm 1981.
Khoảng tháng 2, 1983, nhờ có sự vận động can thiệp từ mọi nơi trên thế giới, nên số dân tị nạn gồm gần 1800 người ở NW 82 được giải quyết cho chuyển trại và được di chuyển thanh nhiều đợt, cách nhau vài ngày để đến các trại khác.
Chỉ có một số nhỏ dân tị nạn ở NW 82, gồm gần 150 người vì không có quốc gia nào nhận nên bị chuyển đến trại Khao Y Đang để chờ đợi. Trại này cách biên giới Thái khoảng mười hai cây số. Nghe nói sau này, nhóm người đó cũng được giải quyết cho đi. Còn những người thi rớt tiếng Việt thì vẫn ở lại Non Samet để tiếp tục chờ đợi nữa.
Chương II-I. Lề lối sinh hoạt của trại NW 82
1. Về thực phẩm:
Mỗi đầu người dân nhận được 200 grams gạo mỗi ngày, nhưng gạo được đưa cho nhà bếp để nấu cơm và phát cho dân. Mỗi tuần một đầu người được phát nửa lon cá Sardine hình trụ, đường kính cỡ năm phân, chiều cao cỡ mười phân. Lâu lâu được phát thêm một loại bột cá để ăn thêm, loại boat này được dùng để nuôi gia súc.
Về sau, bột cá cũng không có, người ta mới phát cho dân tị nạn một loại cá trích khô và mặn như muối. Giòi bọ bò lúc nhúc trong đám cá khô này. Trung bình mỗi đầu người được nhận năm con cá khô một ngày. Nhưng chỉ có mỗi một ngày Chúa nhật trong tuần là được ưu tiên lãnh cá thôi.
Người dân tị nạn thích loại cá khô này hơn cá hộp vì họ có thể để dành và ăn dè sẻn được vài ngày. Họ dùng dầu để chiên cá, nướng cá, hay nấu canh với một nhúm đậu xanh để ăn cho mát. Trong lúc đó, cá hộp không thể để lâu được vì sợ độc. Số lượng cá hộp cũng ít, ăn không đủ thiếu gì cả.
Mỗi lần được lãnh cá khô, người ta xâu dây kẽm qua mắt cá để phơi khô. Chỗ nào cũng có xâu cá, ruồi bu lại dầy đặc. Hễ phái đoàn báo chí nào đi tới thấy xâu cá đầy ruồi bu là họ chụp hình ngay.
Muối cũng rất hiếm, một đầu người được lãnh một muỗng muối cho một tuần. Họ không hề được phát rau cỏ gì cả. Mỗi đầu người được lãnh gần một lon đậu xanh và bốn muỗng canh dầu ăn cho một tuần. Ở NW 82, có chương trình Dinh Dưỡng (Feeding) để bồi dưỡng cho thiếu nhi, người già và phụ nữ mang thai.
2. Về nước dùng:
Mỗi đầu người được tám lít nước một ngày dùng để ăn uống, tắm giặt và mọi nhu cầu khác. Dân tị nạn không đủ đồ đựng nước nên họ kiếm bao ni lông có trong các bao gạo để cột túm lại rồi họ treo tòn ten nơi các cột trụ hoặc gần các chiếu nằm. Từ từ các bao treo đầy trong các lều trại, lâu dần, các bao này đóng rêu xanh lại.
Sô nước cũng không được phát. Có người thì lén mua sô để chứa nước. Còn có kẻ không có gì đựng thì lãnh nước ra là tắm ào một cái rồi nhịn khát sau đó.
3. Vật dụng hàng ngày:
Trại không phát nồi soong gì cả. May là khi chúng tôi còn ở tù ở Non Chan, khi bị cưỡng bách đi làm lao động ở ngoài nhà tù, chúng tôi có đi lượm ở trong các đống rác và tìm được những vỏ thùng dầu ăn loại bốn lít, có dấu hiệu hai bàn tay bắt nhau (loại viện trợ từ Mỹ quốc). Vì thế, chúng tôi mang theo và dùng để nấu ăn ở trại NW 82 này. Khi nấu ăn, người ta dùng bốn cái vỏ lon cá hộp loại nhỏ được cột chung với nhau để nấu ăn hay dùng vỏ lon sữa bò.
Xà bông giặt thì cứ năm người được một cục xà bông để xài cho một tháng. Còn quần áo và dép thì không được phát, ngoại trừ có lần một linh mục tên Tom đã quyên được của người Công giáo và phát cho mỗi đầu người một bộ quần áo.
Đa số dân tị nạn bị cướp hết tiền nên không thể mua dép. Ai cũng đi lượm dép cũ rồi họ ghép hai ba chiếc dép lại, dùng dây kẽm gai buộc lại để đi tạm. Nhiều lúc vô ý đạp lên chân nhau là nạn nhân bị thuơng ở chân ngay vì kẽm gai làm cho sước máu.
Một sự kiện cười ra nước mắt là khi chúng tôi được chấp nhận đến Mỹ, chúng tôi vẫn hiên ngang mang những đôi dép cọc cạch có buộc kẽm gai ấy lên phi cơ để ngồi chung với các hành khách giầu có khác.
Hội HTTQT có phát mùng cho dân tị nạn nhưng rất nhiều người vẫn bị sốt rét rừng vì muỗi rừng nhiều vô số. Tội nghiệp cháu nhỏ của tôi cũng bị sốt rét này. Rất nhiều người chết vì bịnh ấy.
Chương II-II. Cách cấu tạo trại NW 82
1. Nội quy trại:
Trại có khoảng ba mươi lều ghi từ số 1 đến số 30. Lều khá lớn, có màu xanh rêu của quân đội. Cứ giữa hai lều thì có một khoảng cách độ chừng một thước. Chung quanh các lều là một hàng cọc tre sơn màu đỏ để bao bọc tất cả chu vi trại. Dân tị nạn bị cấm đi ra khỏi các hàng cọc tre ấy. Cách hàng cọc sơn đỏ độ một thước là hàng rào tre. Hễ ai mà vượt ra vòng rào là bị lính Thái đánh đập ngay.
Cạnh hàng rào tre có một cái chuồng như kiểu chuồng súc vật, cao hơn nửa thước, có mỗi cạnh độ chừng hai thước. Chuồng có hình vuông và sơn màu đỏ. Người ta gọi là chuồng cọp vì nó được dùng để nhốt người tị nạn phạm tội hay phạm kỷ luật. Tuy nhiên có khi dân tị nạn chẳng có tội lỗi gì cũng bị giam cầm. Đa số nạn nhân là đàn ông. Báo chí ngoại quốc khi vào thăm trại đều chú ý chụp hình cái chuồng cọp này.
Ban đại diện người tị nạn tuy có hiện diện nhưng cũng như bù nhìn, lơ mơ cũng bị ăn đòn như dân thường. Hễ lính Thái bảo làm gì thì làm nấy. Trong trại cũng có thành lập một ban trật tự, mục đích để giữ gìn an ninh, để thi oai, đối chọi với dân tị nạn chứ không phải để chống chọi với lính Thái. Một nhân viên trong ban đại diện tị nạn vì tỏ ý phản đối việc lính Thái bắt một cô gái có liên hệ với ông ta nên ngay hôm sau, ông này bị lính Thái đánh đập tàn nhẫn.
Ở đây, lính Thái ra lệnh cấm mua hay bán bất cứ một món hàng gì. Nếu trái lệnh sẽ bị ghép là có tội và bị trừng phạt ngay. Xin đan cử một vài trường hợp sau:
-Một người tị nạn lén mua một bó rau muống do người dân Miên đem bán ở cạnh hàng rào. Bất ngờ, lính Thái bắt được qủa tang, hắn ra lệnh cho người này phải ăn sống ngay bó rau muống tại chỗ.
-Một người khác vì thèm thuốc rê và thuốc lá nên lén mua ít thuốc lá. Lính Thái bắt được bèn xé nhỏ thuốc lá rồi quậy xác thuốc trong tô nước. Sau đó hắn bắt anh ta phải ăn xác thuốc và uống tô nước đầy xác thuốc lá.
-Một bà tìm mua một gói đường cát. Lính Thái bắt được bèn trộn đường chung với đất cát rồi bắt bà ta ăn cả đường lẫn đất cát.
-Một bà bầu thèm ăn loại bánh cóng làm bằng bột gạo, có nhân đậu xanh chiên lên. Lính Thái bắt được bèn đổ bánh xuống đất, rồi lấy giày ”bốt đờ sô” chà đạp nát và bắt bà ta ăn cho kỳ hết.
Khi chúng tôi gần được cho đi định cư thì luật lệ được nới ra. Dân được mua bán rau muống. Ngoài ra họ cũng có thể tập hợp để sinh hoạt văn nghệ bỏ túi.
2. Tên hung thần nổi tiếng của trại NW 82.
Trở lại chuyện tên sĩ quan chỉ huy phó lo về an ninh của Thái, có biệt danh là Cọp. Cọp rất tàn ác và hiểm độc. Hễ thấy hắn là dân tị nạn phải ngó tránh đi chỗ khác. Nếu để hắn bắt được mình đang nhìn hắn là hắn đánh ngay. Hễ hắn muốn đánh ai là hắn có toàn quyền đánh, không cần có lý do chính đáng. Vì thế hễ thấy hắn lảng vảng đến lều bên cạnh là ai nấy lo chạy trốn trước kẻo bị đòn oan.
Rất nhiều lần dù dân tị nạn không hề phạm lỗi gì thì hắn vẫn kiếm cớ để đánh đập họ. Có nhiều người đang ngồi trong lều cũng bị tên Cọp này kêu ra và ”dợt” võ chơi. Hắn xem dân tị nạn như những bao cát dài để hắn tập dợt những thế quyền Anh của hắn. Hắn đá vô mặt, cổ, ngực, lưng và bao tử của từng người. Tôi đã từng chứng kiến cảnh tên Cọp đá vô bao tử của một số nạn nhân. Nhìn họ đau đớn đến gập người xuống, tự nhiên tôi cảm thấy lòng mình quặn đau y như người trong cuộc.
Có nhiều lần, tên Cọp đánh người tị nạn bằng cây gậy hay bằng báng súng. Có lần nạn nhân bị hắn đánh gẫy tay, có lần nạn nhân khác bị hắn đánh gãy xương sườn. Phòng Y Tế của trại không đủ phương tiện chữa trị cho nạn nhân xấu số ấy.
Mặt khác, hội HTTQT lại không dám chở nạn nhân đi chữa trị ở bịnh viện Khao Y Đang vì sợ đụng chạm đến tên Cọp và sợ lòi ra tội đánh người mang thương tích của hắn. Vì không được chữa trị đúng mức nên nạn nhân gầy mòn và đau đớn từng ngày. Sau đó không biết số phận các nạn nhân ra sao nữa.
Tại trại NW 82, vì đa số dân tị nạn hết tiền nên họ không thể thuê người cắt tóc. Giá tiền để cắt tóc là 1 baht hay hai baht. Một baht Thái tương đương năm xu của Mỹ. Một đô la Mỹ trị giá 20 baht. Mà hễ để tóc dài thì cũng bị tên Cọp đánh hay bắt phạt.
Một hôm có một người đàn ông vì tóc để dài đến tận vai nên bị tên Cọp phạt bằng cách bắt ông ta lội dưới mương đầy sình lầy, phân và nước tiểu. Hắn bắt ông ta lội sấp rồi lội ngửa ở dưới mương và phải vục mặt vào chỗ đầy phân và nước tiểu ấy. Hễ ông ta định ngóc đầu lên để thở là bị tên Cọp đánh đập ngay. Khi tên Cọp cho phép đứng lên thì trông ông ta như một vật gì chứ không phải là con người nữa vì khắp cơ thể đã bị sình lầy, phân và bùn phủ kín và che lấp hết, chỉ còn có hai con mắt rục rịch mà thôi.
Sự đối xử tàn ác của lính Thái đối với dân tị nạn thật là khủng khiếp và tồi tệ. Về sau khi tôi kể lại cho bạn bè ở các trại Bataan và ở Mỹ nghe, không ai dám tin đó là sự thật nữa.
3. Tình trạng hãm hiếp:
Tình trạng hãm hiếp vẫn có nhưng ít hơn và bớt lộ liễu hơn bọn lính Para người Miên. Mức độ thì vẫn khủng khiếp không kém. Bọn lính Thái còn dùng tiền để mua chuộc hay dùng áp lực để dọa nạt và đòi sự thỏa mãn xác thịt.
4. Tình trạng sa sút tinh thần của người tị nạn ở NW 82.
Trong suốt thời gian chúng tôi ở trại này, không ai thấy tương lai được đi định cư. Không hề nghe có ai hứa hẹn giải quyết việc cho định cư cả. Chỉ nghe là định cư tại chỗ, hoặc cho mọi người trở về Việt nam, hoặc là nằm đây chờ, hoặc là ra ngoài ở chung với người dân Miên.
Lúc tôi gần rời trại NW 82 thì có pháo kích. Nghe đâu Việt cộng đánh vào Non Chan, đạn pháo kích nổ ầm ầm nhưng chưa vào chu vi trại NW 82. Hàng đêm, đàn bà và trẻ con được lệnh ra nằm ngoài khu vực trại, gần bờ đập giao thông hào. Nếu ai chạy lạng quạng đến bờ đập thì bị lính Thái bắn, còn chạy ra ngoài thì bị lính Para Miên bắn.
Tinh thần chúng tôi bị khủng hoảng vì không biết tương lai mình ra sao. Tin đồn từng ngày là trại này không được giải quyết, rằng trại NW 9 là trại tị nạn cuối cùng được giải quyết thôi. Có thể phải ở trại này đến ba, bốn năm nữa. Các tin đồn, tin vịt và dự đoán làm cho bà con lên ruột. Ngồi buồn, bà con dựng chuyện lên rồi truyền khẩu đủ thứ tin vịt. Lâu lâu lại đồn ”gần rồi”, có nghĩa là trại gần được giải quyết cho đi.
Khi cha Tom phát cho dân tị nạn một bộ đồ quần áo thì có tin đồn là gần được đi nên cha mới phát đồ cho để có quần áo mà mặc khi đổi trại. Họ còn bàn tán là ở trại NW 9, lúc sắp được giải tán người ta cũng phát đồ, dép và bàn chải đánh răng để chuyển trại. Thế là mọi người lại lên tinh thần., bàn tán hươu vượn và hy vọng dài dài.
Lâu dần, từ ngữ ”gần rồi” được lập lại nhiều lần một cách khôi hài, tiếu ngạo và đùa cợt. Nó trở thành một lối nói chuyện khôi hài giữa các đồng bào tị nạn. “Gần rồi” có nghiã là không bao giờ có hay sắp được đi rồi.
Thế rồi, lâu lâu lại có người đem tin giật gân và sốt dẻo đến bằng cách chìa lá thư của thân nhân anh ta ở ngoại quốc đến và nói là ở bên ấy, người ta đang lập phong trào tranh đấu để trại này sắp được giải quyết. Thế là bà con lại phấn khởi và lên tinh thần.
Nhưng rồi cơn phấn khởi và hồ hởi ấy chỉ khơi động lên một lát thì lại có một người nữa đem lá thư khác của thân nhân từ ngoại quốc gởi đến, nội dung thư này trái ngược với tin của thư trước. Thế là bà con lại xuống tinh thần ngay. Như thế đủ hiểu là tinh thần người tị nạn bất ổn, bị giao động mạnh, cứ lên xuống như trái banh khi căng lên, khi bị xì hơi thì xiù xuống.
Từ đó, trại NW 82 lại có thêm từ ngữ ”thua” và ”thắng”. Hễ nghe tiếng ”Thua, thua rồi!”có nghĩa là trại không được giải quyết cho đi, là bà con giật thót người lên, bụng quặn đau, rồi xôn xao lắng nghe thử thua như thế nào. Còn ”thắng” thì có nghĩa là trại sắp giải quyết cho đi thì bà con lại nhảy lên, bàn tán và mừng rỡ.
Có lần, chúng tôi được đọc một lá thư của một người tị nạn hồi trước ở trại NW 9 và đã đi định cư tại Úc. Ông này viết thư kể lại kinh nghiệm của ông hồi ở trại NW 9, cứ mỗi lần nghe tin đồn đủ thứ là lo sợ và mất tinh thần. Nhưng giờ này ông ta cũng đã được định cư như bao nhiêu người khác. Vậy thì mong bà con đừng lo sợ về chuyện tin đồn, cứ kiên tâm bình tĩnh mà chờ đợi. Lá thư ấy giúp bà con ổn định tinh thần được phần nào. Có lần, nghe nói trại NW 82 sắp được giải quyết, bà con tị nạn mừng rỡ, cười nói tíu tít. Một hôm, ông trưởng trại tuyên bố là ngày mai sẽ có một phái đoàn đến thăm và sẽ cho biết là dân ở đây được đi định cư hay bị trả về nguyên quán. Thế là cả trại xôn xao và chuẩn bị đón rước.
Đường đi trong trại được quét sạch và tưới nước cho khỏi bay bụi. Trẻ con được sắp thành hàng ngũ chỉnh tề nhưng quần áo các cháu thì rách mướp. Cả trại đứng đợi chờ từ sáng đến trưa dưới cơn nắng rực lửa. Ai cũng khát nước đến muốn xỉu. Trông thật tội nghiệp cho mọi người, nhất là các trẻ con.
Khi phái đoàn đến, hội HTTQT mừng rỡ chạy xe đến trại báo tin trước để dân chúng chuẩn bị cho chu đáo. Phái đoàn vừa đến là một đoàn con nít đồng cất tiếng hát. Các em hát rất nhiều bài mà tôi không nhớ được, nhưng cảm động nhất là bài hát ”Việt Nam, Việt Nam”. Mình là người trong cuộc nên cảm động đến chảy nước mắt, cả người nổi gai ốc lên trước cảnh tượng một bầy trẻ con, quần áo rách bươm, đứng dưới cơn nắng thiêu đốt để gân cổ lên hát chào mừng phái đoàn, những người có thể gọi là ân nhân vì có thể họ giúp đỡ cho dân tị nạn được đi sớm.
Khi phái đoàn đi ra về thì các em hát bài”Tạm biệt”. Có rất nhiều trong phái đoàn tỏ ra rất cảm động. Một trong những người của phái đoàn ấy là bà Mai Khôi, người Việt Nam. Bà là vợ của một sĩ quan tùy viên quân sự Mỹ ở Thái Lan. Bà này rất đẹp và có lòng thương người đồng hương. Bà đặc trách về vấn đề tị nạn. Trước đó, trại NW 9 cũng được bà Mai Khôi giúp đỡ rất nhiều trong việc cho dân tị nạn định cư sớm.
Chúng tôi được thông báo là phái đoàn đến thăm có khoảng mười một nước nhưng hôm đó chỉ có độ năm, bảy người đến thăm mà thôi. Họ đi ra rồi đi vào, chẳng nói năng hay tuyên bố điều gì mới lạ cả. Trước khi ra về, họ nói là:
”Phái đoàn chúng tôi chỉ đi thăm thôi chứ không có vấn đề gì khác!”
Khi họ về rồi, tất cả chúng tôi đau khổ, thất vọng và buồn chán vô cùng. Lúc ấy, sự mệt mỏi và chán nản làm mọi người buồn phiền và tuyệt vọng. Khi chờ đón thì hy vọng và vui mừng bao nhiêu thì khi tiễn khách về thì đau khổ và chán chường bấy nhiêu.
Chính lính Thái cũng muốn cho dân tị nạn Việt được sớm đi định cư. Vì thế họ đã căn dặn chúng tôi không được ăn đồ ăn ngon mà phải ăn đồ ăn tồi để phái đoàn quốc tế thấy khổ cực mà cho đi sớm.
Tuy vậy, sau đó hai tháng, cả trại chúng tôi được từ từ giải quyết cho đi. Điều đó cũng là nhờ sự can thiệp của phái đoàn quốc tế hôm ấy.
Từ đấy, cứ từng đợt được chuyển đến Panatnikhom Transit Center ở Chonburi, Thái Lan. Gia đình tôi được rời trại NW 82 vào ngày 4 tháng 2, năm 1983. Có được thoát khỏi NW 82, mới biết chắc là mình còn sống.
Ngày chúng tôi được đi định cư, bà con tị nạn còn lại khóc lóc thảm thiết vì chậm đi một ngày là thêm một ngày khổ sở và nguy hiểm, vì tai họa đến từ đủ mọi phía. Thật là trên đe dưới búa. Ngay cả hội HTTQT cũng không hề hứa hẹn hay nói những gì cho mình hy vọng cả. Hội chỉ cho nước uống và thực phẩm để dân tị nạn sống tạm qua ngày. Họ chỉ ghé đến trại NW 82 trên đường đi đến Non Chan vào ban ngày rồi buổi chiều là họ đi về.
Tình hình ở trại NW 82 rất mất an ninh. Việt cộng có thể đến tấn công bất cứ lúc nào. Dân chúng thì đông lúc nhúc, chỉ cần một trái pháo kích là đủ chết như rạ vì họsẽ dẫm bừa lên nhau mà chạy thoát thân.
5. Tình trạng thư tín:
Lính Thái phong tỏa, kiểm duyệt và thủ tiêu hầu hết các thư từ ngoại quốc gửi đến. Có người ở trại cả một năm trời mà không hề nhận được một lá thư của thân nhân. Có người thì đến sáu bảy tháng không có thư, nhưng khi nhận thì một lúc có hai, ba cái.
Lính Thái kiểm soát và muốn để “ngâm tôm” cho mất thời gian tính rồi mới giao cho người nhận. Thư có tiền đều bị lính Thái cướp đoạt hết. Do đó, ai cũng nghèo như nhau, quần áo rách tả tơi và hôi như cú.
Về sau, chính sách được nới lỏng. Nếu ai may mắn nhận được 50 đô trong thư thì lính Thái đòi đổi và đưa cho người nhận chỉ có 200 baht, tức là trị giá có 10 đô, còn 40 đô thì chúng ăn cướp tay trên. Rồi chúng đưa địa chỉ của chúng cho dân tị nạn và nói rằng chúng sẽ gởi tiền cho họ sau khi họ lên trại Panatnikhom. Còn nếu là ngân phiếu (check) thì chúng bảo ngân phiếu còn mới quá, chưa đổi ngay được nên ông lớn đưa cho mượn tạm 200 baht. Ai cũng bị chúng ăn cướp, ăn chận kiểu đó. Hiện nay tôi còn giữ địa chỉ của một tên trưởng trại người Thái ấy.
6.Tình trạng vệ sinh:
Vệ sinh trong trại thì dơ bẩn quá sức. Chu vi trại quá nhỏ mà có đến 30 lều san sát và gần 2 ngàn người chen chúc. Cầu tiêu ở sát bên lều nên ruồi bọ lúc nhúc, mùi hôi thối bốc lên khủng khiếp.
Vào mùa mưa thì đất trở nên lầy lội. Mỗi người tị nạn chỉ có một khoảng diện tích nhỏ hơn miếng ván hòm. Trời mưa lạnh đến cắt da, có lẽ vì chúng tôi ăn đói nên cảm thấy lạnh. Đêm đến, gió rừng thổi ào ào nghe như tiếng mưa bão. Thật là sầu thối ruột, buồn áo não.
(Vượt biên đường bộ tìm tự do)
Kim Hà
Chương II-III Cảm Tưởng Của Ông Lê Bá B
Chúng tôi chỉ ở trại Panatnikhom có bốn mươi lăm ngày rồi phải rời Thái Lan để đến trại Bataan ở Phi Luật Tân vào ngày 22, tháng 3, năm 1983. Chính phủ Thái Lan đã ra hạn với các phái đoàn là họ chỉ muốn chứa dân tị nạn trong vòng 45 ngày ở tại Chonburi mà thôi.
Sau đó chúng tôi ở tại trại Bataan, Phi Luật Tân trong năm tháng. Tại đây có nhiều người Mỹ thiện nguyện đến dạy Anh văn cho dân tị nạn.
Tuy chúng tôi đã được định cư tại California, nhưng chúng tôi vẫn lo lắng và thương xót cho số phận những người tị nạn đường bộ còn bị kẹt lại ở nhà thương Non Samet. hoặc vì họ không thi đậu tiếng Việt, hoặc vì họ đi vượt biên sau khi trại NW 82 đóng cửa.
Số người đến sau lại phải nằm chờ đợi trong suốt những năm tháng dài dằng dặc, trong các trại tị nạn và sống chung với người tị nạn Cambodia, trong điều kiện kém an ninh, mất vệ sinh và mất tất cả những điều kiện sinh sống tối thiểu.
Hiện nay trong những người tị nạn bất hạnh ấy có cả em trai ruột của tôi là Lê văn Hưng. Tôi sẽ cho chị Kim Hà thêm chi tiết về cuộc vượt biên của em tôi. Có điều đáng buồn là hầu như báo chí ở trên thế giới đều tưởng là ở các trại này đã hết người tị nan Việt nam rồi mà chỉ còn có người dân Miên mà thôi.
Tôi rất mong mỏi rằng chính phủ Mỹ cũng như chính phủ các nước tự do sẽ lưu tâm cứu giúp những người tị nạn đường bộ còn ở tại các trại tị nạn như trại Dongrek và Site II.
1 2 3 4 5 6 7 8 9
No comments:
Post a Comment