Tuesday, October 20, 2015

PHẠM BÁ HOA * HỔI KÝ CHÍNH TRỊ II,


 MỤC LỤC


Lời trần tình
Lời nói đầu
Một. Đảo Chánh ngày 01/11/1963
-Đảo chánh Ngô Đình Diệm
Hai. Đảo Chánh ngày 30/01/1964
-Đảo chánh Dương Văn Minh
Ba. Biểu Dương Lực Lượng ngày 13/09/1964:
: Dương Văn Đúc, Huỳnh Văn Tồn
Bốn. Đảo chánh ngày 19/02/1965
- Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo
Năm. Quân Đội Lãnh Đạo Quốc Gia từ ngày 19/06/1965
-Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ
Sáu. Khủng Hoảng Chính Trị từ ngày 09/03/1966
-Nguyễn Chánh Thi
Bảy. Vài Sự Kiện Quan Trọng
:Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân”
Tám. Những Tháng Cuối Cùng 01- 04/1975
Tỉnh Phước Long thất thủ
Tỉnh Darlac thất thủ
Rút bỏ Cao Nguyên
Chín. Những Ngày Cuối Cùng 21--28/04/1974
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức
Di tản
Tổng Thống Hương bàn giao cho Đại Tướng Minh
Trước Giờ Thứ 25
Mười .  Giờ thư 25

KẾT






CHƯƠNG II. Đảo Chánh ngày 30 tháng 1 năm 1964


Công du Nam Hàn (South Korea)

Đầu tháng 12/1963, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm gọi tôi vào văn phòng:


“Chú thích đi du lịch không?”
“Rất thích, nhưng chưa có cơ hội thưa Trung Tướng”.

“Bây giờ có rồi. Chú liên lạc sang văn phòng Trung Tướng Đôn (Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng) làm thủ tục đi Đại Hàn (South Korea) với tôi”.


Không ngờ là cơ hội tốt đến với tôi trong hoàn cảnh đang vui, nên tôi xúc tiến ngay. Sau đó, tôi mới biết đây là phái đoàn thay mặt chánh phủ sang Đại Hàn (Nam Triều Tiên) dự lễ nhậm chức của Tổng Thống Pak Chung Hi vào ngày 17 tháng 12 năm 1963 tại thủ đô Seoul. Phái đoàn chánh thức gồm: (1) Ông Phạm Đăng Lâm, Tổng Trưởng Ngoại Giao, Trưởng phái đoàn. (2) Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, thành viên. (3) Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, thành viên. (4) Đại Tá Linh Quang Viên, Bộ Quốc Phòng, thành viên. (5) Và tôi, Thiếu Tá Phạm Bá Hoa, Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, thành viên.


Ngoài ra còn có gia đình của Trung Tướng Khiêm và gia đình của Thiếu Tướng Thiệu, thêm Đại Úy Nguyễn Hữu Có, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Khiêm, và Đại Úy Nhan Văn Thiệt, sĩ quan tùy viên của Thiếu Tướng Thiệu.



Trong nhóm đi đầu là Đại Tá Linh Quang Viên, và tôi. Chúng tôi rời Sài Gòn ngày 08/12/1963, dừng lại Tokyo 5 ngày chuẩn bị nơi ăn chốn ở cho hai gia đình của Trung Tướng Khiêm và Thiếu Tướng Thiệu, sẽ ngoạn cảnh và mua sắm trong khi chờ các vị dự lễ bên Seoul trở lại. Chúng tôi đến Seoul trưa ngày 13/12/1963 khi nhiệt độ nơi đây xuống đến 5 độ dưới không độ C. Tạm thời chúng tôi ở khách sạn Bando tại trung tâm thủ đô Seoul. Với sự giúp đỡ của tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại đây, chúng tôi hoàn thành công tác chuẩn bị: Đại Tá Viên đã xong bản tường trình về tình hình chính trị trước và sau ngày bầu cử Tổng Thống Đại Hàn. Và tôi đã có đầy đủ tin tức cũng như chương trình chi tiết trong ngày lễ, cùng những ngày sau đó dành cho phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa.


Cũng qua những buổi thuyết trình ngắn của tòa đại sứ, chúng tôi hiểu thêm đôi nét về cựu Tổng Thống Lý Thừa Vãng trong thời gian lãnh đạo quốc gia này. Theo đó, nếu so với bà Ngô Đình Nhu nặng về chính trị, thì hoạt động của bà Lý Thừa Vãng nghiêng về kinh tế, và khách sạn Bando là một trong rất nhiều cơ sở kinh doanh của đệ nhất phu nhân họ Lý. Khi ông Lý Thừa Vãng lưu vong, Đại Tướng Pak Chung Hi nhân danh quân đội lên cầm quyền. Ông có vị Cố Vấn phảng phất ông Ngô Đình Nhu lúc đương thời, đó là ông Kim Jong Pil. Vì vậy mà khi Đại Tướng Pak Chung Hi chánh thức tuyên bố ứng cử Tổng Thống, ông Cố Vấn của Đại Tướng Pak Chung Hi đã theo khuyến cáo của Hoa Kỳ, xuất ngoại để trấn an dư luận như là ông không dính dáng đến chính trị, nhưng thật ra ông đã chuẩn bị xong công tác tổ chức bầu cử trước khi xuất ngoại. Sau đó, cuộc bầu cử đã diễn tiến như dự định và Đại Tướng Pak Chung Hi đắc cử. Ông Kim Jong Pil lại trở về Seoul, vẫn trong chức vụ Cố Vấn.


Phần chánh của phái đoàn đến phi trường Kimpo, thủ đô Seoul, trưa ngày 17/12/1963, tức là ngày Đại Hàn cử hành lễ nhậm chức Tổng Thống của Đại Tướng Pak Chung Hi. Cả phái đoàn đầy đủ được hướng dẫn lên khu Walker Hill cách Seoul khoảng 8 cây số về phía bắc, một khu thắng cảnh rất đẹp của Đại Hàn, chỉ dành cho khách ngoại quốc để thu ngoại tệ. Cả một vùng rừng núi được biến thành khu du lịch với những khách sạn, nhà hàng, các khu giải trí với nhiều môn khác nhau, xây dựng bên các sườn núi mà hầu hết là nhìn xuống sông Hàn (Han river) uốn khúc dưới chân. Vào mùa này, nước sông Hàn đóng băng trắng xóa, trông rất đẹp.


Đến nơi, vừa mang hành lý vào phòng là Trung Tướng Khiêm gọi tôi:
“Mấy giờ bắt đầu lễ vậy chú?”
“Dạ 3 giờ chiều, thưa Trung Tướng”.


Ông nhìn đồng hồ:
“Ngay bây giờ, chú chạy đi tìm mua cho tôi "cặp lon 3 sao", vì trong cặp tôi chỉ có "3 sao" cho một bên áo thôi”.
“Vâng”.


Chẳng hiểu Đại Úy Nguyễn Hữu Có ở Tokyo, khi chuẩn bị hành lý cho "sếp" lại gấp gáp thế nào mà chiếc áo đại lễ của Trung Tướng Khiêm chỉ có một bên 3 ngôi sao, nghĩa là thiếu 3 ngôi sao cho cầu vai bên kia (cấp hiệu Trung Tướng biểu hiện bằng 3 ngôi sao mỗi bên cầu vai).


Nhận lệnh của Trung Tướng Khiêm là như vậy, nhưng tôi chưa biết phải làm sao mua cho kịp. Chợt nhớ anh sĩ quan Công Binh tại Bộ Quốc Phòng Đại Hàn, Thiếu Tá Choi, sĩ quan tùy viên cho phái đoàn chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa và anh ta trình diện Đại Tá Linh Quang Viên tại sân bay trước khi phái đoàn chánh thức đến. Ra phòng khách, tôi nói với anh về nhu cầu gấp rút đó và hy vọng anh ta giúp tôi được.


Anh ta hỏi: “Anh sẳn sàng chưa?”
“Sẳn sàng”.
Thế là chúng tôi lên xe của phái đoàn có cắm cờ Việt Nam Cộng Hòa và cờ Đại Hàn, do xe Cảnh Sát của Đại Hàn dẫn đường chạy xuống Seoul. Quanh co một lúc, cả hai xe đậu ngoài đường cái, tôi theo Thiếu Tá Choi trên con đường hẽm vào gian hàng nhỏ ơi là nhỏ nằm sâu trong con đường thưa vắng người qua lại. Mua ngay "cặp lon 3 sao" mà không cần trả giá. Chúng tôi về đến Walker Hill vừa vặn cùng phái đoàn lên xe xuống Seoul dự lễ.


Seoul chiều ngày 17 tháng 12 năm 1963, đang trong thời tiết 5 độ dưới không độ C. Bầu trời u ám bao trùm thủ đô, một thành phố toàn cây trụi lá giữa mùa đông xám xịt. Quan khách của 25 quốc gia và viên chức của quốc gia sở tại, ngồi chật cả khán đài không mái che ngay trước tòa nhà Quốc Hội. Lễ nhậm chức của Tổng Thống Pak Chung Hi cử hành đúng 3 giờ chiều trong một không khí không được trang nghiêm khả dĩ tương xứng cho buổi lễ quan trọng này. Một phần vì thời tiết quá lạnh, một phần do dân chúng tham dự không nhiều, và phần khác là có một số người tập trung bên kia đường hô hào chống đối một cách lạc lỏng, họ cáo buộc cuộc bầu cử vừa rồi là gian lận. Cảnh Sát chỉ đứng sát lòng đường để giữ trật tự mà không có hành động nào với nhóm người biểu tình.


Ngay sau lễ, các phái đoàn được hướng dẫn đến nhà hát xem trình diễn văn nghệ cổ truyền của Đại Hàn. Rồi buổi dạ tiệc trọng thể, tổ chức trong khuôn viên dinh Tổng Thống mừng ngày trọng đại của Đại Hàn Dân Quốc, khoản đãi các phái đoàn đại diện 25 quốc gia. Đại Hàn Dân Quốc là tên gọi của quốc gia phía nam của Triều Tiên theo chế độ dân chủ tự do, trong khi quốc gia phía bắc theo chế độ cộng sản độc tài, ranh giới giữa hai quốc gia này là vĩ tuyến 38. Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai chấm dứt (năm 1945), cũng là lúc ba quốc gia trên thế giới bị chia đôi: Đó là Đức Quốc chia làm hai quốc gia theo chiều Đông Tây, Triều Tiên và Việt Nam chúng ta chia làm bốn quốc gia theo chiều Nam Bắc.


Riêng hoàn cảnh chính trị của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) có khác so với Việt Nam Cộng Hòa và Đại Hàn Dân Quốc về địa lý, nhưng hoàn cảnh chính trị là cùng chống chiến tranh ý thức hệ cộng sản, có lẽ vì vậy mà những ngày sau đó, phải thừa nhận là chánh phủ Đại Hàn đã dành cho phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa chúng ta và phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc, sự đón tiếp rất nồng hậu gần như riêng biệt trong số 25 phái đoàn quốc tế tham dự. Tổng Thống Đại Hàn -theo lời của Bộ Ngoại Giao Đại Hàn- chỉ tiếp phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa và phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc. Khi tiếp phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa, Tổng Thống Pak Chung Hi nói tiếng Đại Hàn và ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa nói tiếng Pháp. Tôi rất ngạc nhiên về điều này, vì theo thông thường ông phải nói tiếng Việt Nam. Thông dịch buổi tiếp kiến là hai thanh niên Đại Hàn, một nam một nữ.


Quốc gia thứ 3 có hoàn cảnh chính trị giống nhau là Cộng Hòa Liên Bang Đức, nhưng có thể do địa lý và văn hoá mà phái đoàn Cộng Hòa Liên Bang Đức không nằm trong chương trình riêng biệt nói trên chăng, mặc dù phái đoàn này cũng có mặt trong lễ nhậm chức?


Trước khi rời Seoul, mỗi thành viên trong phái đoàn chúng ta được chánh phủ Đại Hàn tặng 2 thùng trái cây tươi (bôm và nho) do Đại Hàn sản xuất bước đầu về kỹ nghệ trong nông nghiệp. Đây là chính sách quan trọng trong sách lược quốc gia của Đại Hàn Dân Quốc -theo lời ông Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Đại Hàn- từ sau cuộc chiến tranh 1950-1953.


Trở lại Tokyo ngày 20/12/1963. Đêm 24/12/1963, phái đoàn được ông Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa và phu nhân tại Nhật Bản, khoản đãi phái đoàn tại nhà riêng. Trong khi trò chuyện, bỗng mọi thứ trong nhà đều rung chuyển nhè nhẹ, ly tách chén dĩa lắc lư kêu leng keng trong vài chục giây đồng hồ. Ông Đại Sứ Nghĩa (xin lỗi là tôi không nhớ họ) nhìn thấy nét ngạc nhiên của phái đoàn nên ông lên tiếng trấn an:


“Khu vực chúng ta đang ngồi vừa bị động đất nhẹ nên không hư hại gì. Mời quí vị xem tivi sẽ rõ”.
Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi cảm nhận được đôi chút về động đất.

Ngày 25/12/1963, tôi với Đại Úy Nhan Văn Thiệt -tùy viên của Thiếu Tướng Thiệu- rời Tokyo trở về Sài Gòn vì hết tiền. Ông Phạm Đăng Lâm, Tổng Trưởng Ngoại Giao, cũng rời Tokyo ngày ấy, nhưng ông chưa về Việt Nam mà còn đi thăm quốc gia nào đó.


Trung Tướng Khiêm nhận chức vụ mới.


Về đến Sài Gòn là tôi vào văn phòng ngay, vì chánh văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng gọi tôi vào gặp Trung Tướng Trần Văn Đôn dù hôm nay là ngày nghỉ.


“Thưa Trung Tướng, tôi vừa về đến”.

“Anh ngồi đi. Công du có vui không?”

“Rất vui, thưa Trung Tướng”.

“Anh có hay tin về chức vụ mới của Trung Tướng Khiêm chưa?”


“Dạ chưa, thưa Trung Tướng”

“Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã cử Trung Tướng Khiêm giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn III/Vùng III Chiến Thuật rồi”.


“Thưa Trung Tướng, trường hợp này hồ sơ Trung Tướng Khiêm bàn giao cho vị nào để tôi chuẩn bị cho kịp?”

“Trung Tướng Khiêm bàn giao cho Trung Tướng Kim (Lê Văn Kim). Anh chuẩn bị cần thiết để Trung Tướng Khiêm khi về đến là bàn giao ngay và sang nhận Quân Đoàn III”.

“Lệnh này Trung Tướng Khiêm có biết chưa, thưa Trung Tướng?”


“Tôi chắc là chưa, nhưng dù sao thì anh cũng nên trình với Trung Tướng Khiêm khi anh đón ổng. Mà hôm nào Trung Tướng Khiêm về?
“Rạng sáng ngày 1 tháng 1 (1964) về đến, thưa Trung Tướng”.


“Anh liên lạc với chánh văn phòng Trung Tướng Kim và chánh văn phòng Trung Tướng Đính để thu xếp chương trình lễ bàn giao. Mọi việc đều diễn tiến trong phạm vi nội bộ thôi. Anh có điều gì cần hỏi nữa không?”


“Dạ không. Tôi sẽ thi hành, thưa Trung Tướng”.
Tôi rất thắc mắc là tại sao không chờ Trung Tướng Khiêm về hãy đưa ra quyết định này. Phải chăng Trung Tướng Dương Văn Minh cử Trung Tướng Trần Thiện Khiêm vào phái đoàn công du ngoại quốc để các vị ở nhà không gặp trở ngại khi quyết định như vậy? Trung Tướng Khiêm có nói với tôi rằng, ông là một trong rất ít vị (nếu tôi nhớ không lầm là 4 vị) vị lãnh đạo cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963), với lại chỉ riêng những lệnh tối mật mà Trung Tướng Khiêm chỉ thị cho tôi vào sáng sớm ngày đảo chánh, cũng đủ nói lên vị trí quan trọng của ông đến mức nào trong cuộc đảo chánh đó. Sao lại xử sự như vậy? Bởi đây là một cách mà trong giới cầm quyền thường nửa đùa nửa thật là "hạ tầng công tác". Dù đúng hay không đúng thì rõ ràng là từ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân tại Bộ Tổng Tham Mưu đến chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn, nhìn từ bên ngoài là xuống một bậc rồi còn gì!


Tôi chuẩn bị bàn giao, kể cả xin lệnh thuyên chuyển 6 nhân viên văn phòng sang Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, đồn trú trong khuôn viên trại Lê văn Duyệt, tọa lạc đường Lê văn Duyệt, Quận 3 Sài Gòn (về sau là bản doanh Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô).


Tuy Trung Tướng Khiêm đã dặn tôi và nhắc lại một lần trước khi tôi rời Tokyo ngày 25/12/1963, khi ông và gia đình về đến Tân Sơn Nhất, chỉ một mình tôi cùng mấy nhân viên trong tư dinh đón mà thôi, vì ông cho rằng đây chẳng qua là chuyện gia đình chớ không phải là phái đoàn công du trở về. Chính vì vậy mà ông chọn chuyến phi cơ về đến thủ đô khi Sài Gòn còn chìm trong giấc ngủ.


Đúng 3 giờ sáng ngày 01/01/1964, Trung Tướng Khiêm, Thiếu Tướng Thiệu và hai gia đình về đến. Phi cơ dừng hẳn lại. Tắt máy. Tôi ra tận cầu thang đón ông. Chỉ vài bước rời khỏi cầu thang:


“Xin Trung Tướng đi chậm một chút vì tôi có nhận lệnh của Trung Tướng Đôn, thưa Trung Tướng”.
“Chuyện gì vậy?”
“Trung Tướng có được tin gì về lệnh cử Trung Tướng giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn III chưa?”

“Chưa. Mà ai nói với chú vậy?”


“Dạ, Trung Tướng Đôn”.

“Ổng nói với chú hồi nào?”


“Dạ ngay khi tôi về đến Sài Gòn. Và Trung Tướng Đôn có nói là công tác bàn giao sau khi Trung Tướng về đến. Tôi đã chuẩn bị hồ sơ bàn giao xong rồi thưa Trung Tướng”.

Trung Tướng Khiêm đứng hẳn lại và im lặng một lúc:


“Ổng có nói gì nữa không?”

“Dạ không”.

“Sáng mai tôi gặp mấy ổng”.

Trung Tướng Khiêm nhìn vào nhà ga bên khu vực dành riêng cho các nhân vật quan trọng:

“Ai đón mà đông vậy?”


“Dạ các vị Trưởng Phòng/Tổng Tham Mưu. Tôi xin lỗi Trung Tướng, vì các vị ấy nói quá nên tôi không thể nói dối ngày giờ Trung Tướng về. Với lại tôi nghĩ là không nên cứng nhắc quá với các vị "tay phải tay trái" của Trung Tướng, e không có lợi”.


Đi được mấy bước, bà Khiêm quay lại:


“Chú Hoa. Bộ có chuyện hả?”

Tôi thuật tóm tắt cho bà Khiêm nghe, bà có ý trách:

“Sao mấy ổng kỳ vậy?”

“Tôi cho là điều không bình thường, dù rằng Trung Tướng Đính cần giảm bớt chức vụ Tư Lệnh Đoàn III để chu toàn chức vụ Tổng Trưởng An Ninh”.


“Chú biết ai thay "nhà tôi" không?”

“Dạ Trung Tướng Kim”.


Bà Khiêm buột miệng: “Họ hàng với ông Đôn rồi”.

Sáng ngày 02/01/1964, Trung Tướng Khiêm từ phòng Trung Tướng Đôn trở về, ông gọi tôi:

“Chú tổ chức bàn giao chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III ngay chiều nay. Không có ai chủ tọa hết”.


Lời nói và giọng nói của ông cho phép tôi suy đoán là ông đang tức giận.

“Vâng. Tôi thi hành ngay thưa Trung Tướng”.

Ngay chiều hôm ấy, Trung Tướng Khiêm bàn giao cho Trung Tướng Lê Văn Kim tại Bộ Tổng Tham Mưu, sau đó sang Quân Đoàn III nhận quân kỳ tiêu biểu chức vụ Tư Lệnh từ tay Trung Tướng Tôn Thất Đính. Cả hai lễ bàn giao đều tổ chức trong văn phòng mỗi nơi một cách nhanh chóng.


Từ ngày Trung Tướng Trần Văn Đôn nhận chức Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng (02/11/1963), giờ làm việc trong quân đội được ấn định từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều, được nghỉ nửa giờ để ăn trưa tại chỗ, nhưng tại văn phòng chúng tôi thông thường là phải đến 6 giờ chiều mới ra về.


Trung Tướng Khiêm khá xông xáo trong công tác đi thăm các đơn vị, các tiểu khu trực thuộc, nhưng theo cách nhìn của tôi thì ông không bộc lộ hết nhiệt tình như lúc giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Xin đừng nghĩ rằng, nét nhìn của tôi bị ám ảnh bởi quyết định từ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân/Bộ Tổng Tham Mưu đến Tư Lệnh Quân Đoàn III của Trung Tướng Khiêm mà có, vì tôi là sĩ quan tham mưu đặc biệt dưới quyền trực tiếp của Trung Tướng Khiêm từ năm 1960, nên tôi khá quen với thái độ cũng như cử chỉ của ông trong những lúc vui buồn, suy tư, hay tức giận.


Khoảng từ trung tuần tháng 01/1964, tức là nửa tháng sau ngày nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn III, Trung Tướng Khiêm (tại Sài Gòn) với Trung Tướng Nguyễn Khánh (tại Đà Nẳng), rất thường liên lạc nhau qua điện thoại viễn liên, và rõ ràng là Trung Tướng Khánh khích Trung Tướng Khiêm trong việc phục hồi danh dự vì bị thuyên chuyển mà không được biết trước.


Trung Tướng Khiêm là người ít nói, không thích tiếp xúc với các cơ quan truyền thông, cũng chẳng thích phô trương, và con đường chính trị -theo tôi- cũng không phải là hướng đi của ông, nên tôi không nghĩ là ông dễ dàng bị Trung Tướng Khánh dẫn đến một cuộc chính biến nữa để gọi là phục hồi danh dự cho ông, đành rằng ông đang buồn phiền và chắc là buồn phiền về vấn đề ấy.




Chỉnh Lý (Đảo Chánh).


Nhưng tôi lầm, vì cuộc đảo chánh quân sự lại xảy ra khá đột ngột.

Ngày gần cuối tháng 01/1964, Trung Tướng Khánh từ Đà Nẳng điện thoại bảo tôi cho xe đón ông trong căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất (thường thì đón ông bên nhà ga dân sự) và tuyệt đối không cho ai biết là ông về Sài Gòn. Tôi trình Trung Tướng Khiêm và dùng xe của Trung Tướng Khiêm đi đón Trung Tướng Khánh. Lúc ấy đã hết giờ làm việc trong ngày. Sau đó, hai vị cùng ngồi chung xe đi đâu đó mà tôi không rõ vì xe an ninh không được chạy theo như lệ thường. Điều này làm cho tôi tự hỏi:


"Liệu có cuộc đảo chánh nữa hay không, vì sự vắng mặt bất thường này giống như những ngày cuối tháng 10/1963 vậy?"


Mờ tối ngày 29/01/1964, sau khi từ bộ tư lệnh Quân Đoàn III về đến nhà, Trung Tướng Khiêm gọi tôi đến nhà ông ngay. Vào cửa, tôi thấy bàn ăn đã sẳn sàng nhưng gia đình ông chưa người nào ngồi vào bàn, ông chỉ tôi ngồi đối diện ông ngay trong phòng khách, và ông ra lệnh:


“Việc này đối với chú là lần thứ hai. Tôi muốn nói là chú biết việc gì phải làm. Chú mà hé môi với bất cứ ai trước khi thực hiện thì chú bị đứt đầu nghe chưa”.

“Vâng”.

Trong một thoáng thật nhanh tôi liên tưởng đến sự đi đâu đó của hai vị giống như trước ngày 01 thàng 11 năm ngoái (1963). "Đảo chánh nữa chăng, vì Trung Tướng Khiêm vừa nói đây là lần thứ hai?" Ông tiếp:

“Vào sáng sớm mai, tôi + Trung Tướng Khánh + và Đại Tá Viên (Cao Văn), lật đổ nhóm ông Minh ông Đôn, vì các ông này có kế hoạch đưa Việt Nam đến trung lập, mà trung lập thì sớm muộn cũng vào tay cộng sản. Chú rõ chưa?”

“Dạ rõ”.


“Sau giờ này, chú điều động xe truyền tin hành quân của Quân Đoàn về đậu sau nhà chú. Nhà chú có chỗ kín đáo hông?”


“Dạ có. Sau nhà tôi là vườn chuối, tôi đốn bớt vài cây cho xe vào và sẽ thực hiện khi trời tối. Bên trái nhà tôi là Thiếu Tá Đào Ngọc Thọ (phòng 4/Bộ Tổng Tham Mưu), và bên phải là gia đình Thiếu Tướng Thiệu(Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh). Mình ở Quân Đoàn, hệ thống liên lạc hành quân là chuyện bình thường, chắc chẳng ai quan tâm đâu, thưa Trung Tướng”.


“Đích thân chú phải lên máy liên lạc trực tiếp với Thiếu Tướng Thiệu (ở Biên Hòa) và Thiếu Tướng Có (Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh ở Mỹ Tho). Làm như vậy để biết chắc là mình giữ liên lạc được với hai ổng thôi, và khi liên lạc được rồi chú phải giữ máy thường trực cho tôi. Công tác này phải xong trước 2 giờ sáng. Nếu có gì trở ngại, chú trình tôi ngay. Chú rõ chưa?”


“Dạ rõ”.
“Chú gọi chú Có sang ngủ nhà chú đêm nay. Chú Có không được quyền biết trước công tác này. Chú với chú Có đem xe truyền tin đến sân nhà Trung Tướng Khánh (sát bên phải cổng số 1 Tổng Tham Mưu) trước 3 giờ sáng, nhưng không nên sớm quá. Đúng 3 giờ sáng, Đại Tá Viên và Tiểu Đoàn Dù vào cổng số 1. Chú đón tại cổng, mời Đại Tá Viên vào nhà ông Khánh, và hướng dẫn Tiểu Đoàn lên bố trí chung quanh tòa nhà chánh. Phần an ninh trại Trần hưng Đạo, chú với Trung Tá Luông tổ chức như lần trước. Chú cần hỏi gì thêm không?”


“Dạ không”.

“Chú chỉnh đồng hồ theo đồng hồ tôi đây. Trung Tá Luông sẽ nhận lệnh sau”.

Sau khi rời khỏi nhà Trung Tướng Khiêm, tôi sang Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, mời Đại Uý Truyền Tin (dường như là Đại Uý Nguyễn Hữu Phụng) lên văn phòng:


“Trung Tướng Tư Lệnh vừa ra lệnh cho tôi, đêm nay Trung Tướng cần giữ liên lạc thường trực với Sư Đoàn 5 Bộ Binh, để theo dõi cuộc hành quân vào căn cứ Hố Bò (của cộng sản), vì có tin là một tên quan trọng của chúng vừa đến nơi đây (tôi bịa ra tin này). Ngay bây giờ, anh có thể cho anh em trên chiếc xe AN/GRC 26 chuẩn bị di chuyển sang nhà tôi bên Tổng Tham Mưu”.
“Tôi cho lệnh chuẩn bị ngay. Khi xong, xe đến đây chờ lệnh Thiếu Tá”.


Cũng phải mất nửa tiếng đồng hồ dọn đường, chiếc xe truyền tin mới vào được vị trí. Lúc đó tối lắm rồi, tôi trợ giúp anh em truyền tin dựng cột antenne vì liên lạc xa. Đại úy Nguyễn Hữu Có vừa đến và tiếp tay, nên công tác chuẩn bị cho hệ thống liên lạc hành quân được nhanh chóng. Đại úy Có không thấy tôi nói lý do sự có mặt xe này tại đây nên cũng không hỏi, vì thật ra giữa chúng tôi hiểu nhau về những vấn đề bảo mật, nếu một bên không nói thì bên kia không bao giờ hỏi. Nhóm hành quân chúng tôi chẳng ai ngủ được cả, vì ăn khuya xong là bắt tay vào việc lên máy gọi Sư Đoàn 5 và Sư Đoàn 7. Lúc 00 giờ 30 ngày 30/01/1964:


“Cửu Long gọi Đồng Nai. Trả lời”.

“Đồng Nai nghe 5/5. Có gì cho Đồng Nai. Trả lời”.

“Giới chức của Cửu Long cần gặp thẩm quyền Đồng Nai trên máy. Trả lời”.

“Rõ. Xin chờ đầu máy.... “

“Hoa đó hả? Tôi đây”. Đó là tiếng nói của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu.

“Thưa Đại Bàng, Đại Bàng tôi chỉ cần biết có liên lạc là tốt rồi. Tôi xin phép ngưng. Trả lời”.


“Được rồi”.

Cửu Long là danh hiệu Quân Đoàn III. Đồng Nai là danh hiệu Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Đại Bàng có nghĩa là vị Tư Lệnh.


Đến Sư Đoàn 7 Bộ Binh, hai anh chuyên viên luân phiên gọi liên tục mà cứ như gọi vào khoảng không mù mịt của đêm khuya vì chẳng nghe tăm hơi đầu kia gì cả.


Đang rầu thúi ruột! Bỗng dưng, đài của Sư Đoàn 7 Bộ Binh “nhảy vô” và lúc đó gần 2 giờ sáng rồi. Sau khi tôi liên lạc với Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có, cả 3 đài trên hệ thống đặc biệt này giữ máy thường trực. Xin nói rõ thêm, Sư Đoàn 7 Bộ Binh thuộc Quân Đoàn IV, nên không có trong hệ thống liên lạc thường trực của Quân Đoàn III. Nhưng giữa các vị thu xếp trước, nên Sư Đoàn 7 Bộ Binh vào hệ thống đặc biệt này. Dĩ nhiên là tôi phải "ngụy tạo lý do" để giải thích cho các anh chuyên viên, vì sao mà Sư Đoàn 7 Bộ Binh tăng phái cho Quân Đoàn III trong cuộc hành quân đặc biệt từ hôm nay. Đơn giản, là vùng hành quân dọc theo liên ranh Quân Đoàn III và Quân Đoàn IV. Thế thôi.


Điện thoại trình Trung Tướng Khiêm xong, tôi ngồi luôn trên xe truyền tin như là ngồi chơi với các anh chuyên viên, nhưng thật ra là tôi ngăn chận những liên lạc đến bất cứ nơi nào khác, vì lúc nảy có một anh thắc mắc về sự có mặt của Sư Đoàn 7 Bộ Binh trong hệ thống này. Lúc gần 3 giờ, nhóm chúng tôi di chuyển lại nhà Trung Tướng Nguyễn Khánh, tạm gọi là "bản doanh nhóm lãnh đạo đảo chánh". Kể ra thì tên gọi đó cũng không sai. Trước khi rời nhà, tôi mới cho Đại úy Nguyễn Hữu Có biết công việc đã làm từ đêm qua và đang làm tiếp. (hai ông cùng tên Nguyễn Hữu Có, nhưng một là Đại Úy và một kia là Thiếu Tướng)


“Sao đảo chánh hoài vậy Anh?” Vợ tôi hỏi.


“Anh cũng hổng biết. Chỉ biết Trung Tướng (Khiêm) nói là Trung Tướng Dương Văn Minh có kế hoạch trung lập, mà trung lập thì gần tới cộng sản rồi Em”.


“Ghê vậy!”


Đúng 3 giờ sáng ngày 30 tháng 01 năm 1964. Đại Tá Cao Văn Viên và Tiểu Đoàn Nhẩy Dù lặng lẽ qua cổng số 1 Tổng Tham Mưu với nhiệm vụ sẳn sàng tác chiến, nếu như có đơn vị nào đó kháng cự lại. Một lu`c sau, Đại Tá Viên vào nhà Trung Tướng Khánh.


Nhớ lại cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh Nhẩy Dù, bị xếp vào những nhân vật thân tín của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cách ly với Lữ Đoàn. Ngày 02/11/1963, Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu bị giết, các vị bị cách ly từ hôm trước được trả tự do nhưng hầu hết đều bị cách chức. Đại Tá Cao Văn Viên cũng trong số các vị bị cách chức. Ngày hôm sau bà Cao Văn Viên điện thoại tôi:


“Chú Hoa. Trung Tướng của chú (ý nói Trung Tướng Trần Thiện Khiêm) có hứa với chị là sẽ xin với Trung Tướng Minh (Dương Văn Minh) cho Đại Tá (Cao Văn Viên) trở về chức vụ Tư Lệnh Nhẩy Dù để lấy lại danh dự, và 24 tiếng đồng hồ sau đó Đại Tá sẽ đệ đơn từ chức. Chị nhờ chú theo dõi diễn tiến ra sao rồi cho chị biết ngay nghe chú”.


“Vâng”.

Ngưng một chút, bà tiếp: “Mà chú thấy có hi vọng không?”
“Em thì chưa biết gì về việc này, nhưng theo em nghĩ, với vị trí hiện nay của Trung Tướng (Khiêm) trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, hi vọng là Trung Tướng thực hiện được lời hứa với chị”.

Và rồi Đại Tá Cao Văn Viên trở về chức vụ cũ, nhưng sau đó ông có xin từ chức Tư Lệnh Nhẩy Dù hay không thì tôi không biết, nhưng rõ ràng là ông vẫn trong chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù.


Các đơn vị an ninh thuộc Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đã vào vị trí. Trung Tá Nguyễn Văn Luông đi lúc nào tôi không rõ, nhưng chắc chắn là đi rồi. Nhiệm vụ của Trung Tá Luông cùng với toán Quân Cảnh, Nhẩy Dù, An Ninh Quân Đội, .... đi bắt những vị Tướng mà Trung Tướng Khiêm với Trung Tướng Khánh cho là có kế hoạch trung lập. Đó là các vị: Trung Tướng Trần Văn Đôn. Trung Tướng Tôn Thất Đính. Trung Tướng Mai Hữu Xuân. Trung Tướng Lê Văn Kim. Và Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ.


Riêng Trung Tướng Dương Văn Minh thì tôi không rõ là có tên trong danh sách bị bắt hay không. Trước lúc bình minh, tại bản doanh -nhà Trung Tướng Khánh- có mặt: Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Nguyễn Khánh, Đại Tá Cao Văn Viên, một người Việt Nam dáng vấp trung bình về chiều cao lẫn chiều ngang, và một người Mỹ mặc quần tây dài áo sơ-mi tay ngắn. Anh chàng Mỹ này không phải là người có mặt trong cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963 trước đây. Nói cách khác, người Mỹ này không phải Trung Tá Conein. Căn cứ theo lần đảo chánh đó, tôi tin chắc rằng, người Mỹ này là gạch nối giữa nhóm đảo chánh với giới chức thẩm quyền Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Thậm chí, có thể là đại diện của cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ từ Mỹ sang. Mà cho dù là gạch nối hay đại diện đi nữa, cũng là bằng chứng một sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, và cuộc đảo chánh hôm nay 30/01/1964.


Chỉ cần ba nhân vật, một ít lực lượng, với một người Hoa Kỳ quyền thế, cuộc đảo chánh diễn tiến thật êm thấm vì chỉ cần bắt 5 vị Tướng nói trên là xong. Êm thấm đến nỗi tôi tin rằng, người dân Sài Gòn và ngay cả nhiều cơ quan đơn vị quân đội, không hề biết gì về một biến cố quan trọng vừa xảy ra, nếu như đài phát thanh Sài Gòn vẫn phát đi chương trình bình thường. Năm vị Tướng bị bắt, đã đưa ra phi trường Tân Sơn Nhất, và nơi đến là Đà Nẳng. Trung Tướng Khánh đã chỉ thị ngoài đó đón và đưa về nơi giam giữ. Người bị bắt thứ 6 là Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung -tùy viên của Trung Tướng Dương Văn Minh- người mà tôi đặt nghi vấn cao nhất “đã đâm và bắn Tổng Thống Ngô Đình Diệm với ông cố vấn Ngô Đình Nhu”, thì bị đưa lên trại Hoàng Hoa Thám -tức doanh trại Lữ Đoàn Nhẩy Dù- và giữ tại đó. Tại đây, Thiếu Tá Nhung buộc phải viết tờ khai về những gì đã làm liên quan đến cái chết của Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu. Sau ngày đảo chánh 30/01/1964, tôi cũng không biết gì về nội dung trong tờ khai đó. (mãi đến năm 1998, qua bài báo của cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, tôi mới biết chính xác là Thiếu Tá Nhung đã giết hai ông ấy. Được cựu Đại Tá Nghĩa đồng ý qua điện thoại, tôi đã bổ túc phần đó trong ấn bản lần 3 vào cuối năm 1998).


Vài hôm sau, Lữ Đoàn Nhẩy Dù cho biết là Thiếu Tá Nhung đã thắt cổ tự tử. Mẫu tin đơn giản đó liệu có mấy người tin? Bởi Đại Tá Cao Văn Viên được xem là người thân tín của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông bị giữ trong ngày đảo chánh 01/11/1963, nhưng sau đó nhờ Trung Tướng Khiêm mà ông được trở lại chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù, do vậy mà cho dẫu Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung có chết một cách bình thường cũng là điều mà dư luận khó chấp nhận, huống chi đây là tin Thiếu Tá Nhung thắt cổ! Căn cứ theo lời viết trong tờ khai, Thiếu Tá Nhung khai là anh đâm ông Ngô Đình Nhu bằng lưỡi lê, Tổng Thống Ngô Đình Diệm chống cự khi ông Nhu bị anh đâm chết, nên anh đâm Tổng Thống Diệm luôn. Sau đó, Thiếu Tá Nhung bắn mỗi vị một phát súng mà anh Nhung gọi là “phát súng ân huệ”.


Cứ theo luật pháp thông thường trong xã hội, giết người phải đền tội là chuyện phải đến thôi. Chuyện phải đến trong hoàn cảnh là như vậy, nhưng Thiếu Tá Nhung có đáng chết hay không lại là vấn đề khác. Có điều lạ là tôi không thấy dư luận đặt nghi vấn: "Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung chết là do chính ông tự tử, hay ông chết do bị giết rồi tạo cảnh như là chính ông tự tử? Nếu Thiếu Tá Nhung bị giết thì ai là người ra lệnh giết? Ai là người thi hành lệnh đó? Và lệnh giết Thiếu Tá Nhung có đúng hay không"? Nếu cho rằng, giết người mà không do phán quyết của tòa án là sai, thì Thiếu Tá Nhung giết Tổng Thống Diệm với ông Cố Vấn Nhu là sai, và người giết Thiếu Tá Nhung cũng là sai. Tôi nghĩ, nếu truy tố Thiếu Tá Nhung ra tòa án quân sự trong tình hình lúc bấy giờ cầm chắc là bản án tử hình đến với anh. Nếu hành động minh bạch như vậy, sẽ cho thấy nhóm lãnh đạo đảo chánh tôn trọng luật pháp chớ không áp dụng "luật giang hồ" theo kiểu tam-đoạn-luận: “Giết người thì bị người (khác) giết. Anh đã giết người. Anh phải bị người (khác) giết”.


Đến đây tôi xin mở ngoặc để ghi lại lời thuật của ba vị nói về cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung. Trước hết là lời của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, định cư tại San Jose, California. Anh đồng ý cho tôi đưa vào trang sách này qua e-mail lúc 2 giờ 31 phút chiều ngày 06/03/2004. Đây là lời viết của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim:


“Vào thời điểm 01/11/1963, tôi là Trung Úy, Trưởng Ban An Ninh Căn Cứ Hoàng Hoa Thám/Lữ Đoàn Nhẩy Dù, thời Đại Tá Cao Văn Viên làm Tư Lệnh Lữ Đoàn này. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung bị giữ tại trại Cãi Hối do Phân Đội 204 Quân Cảnh Nhẩy Dù phụ trách. Tôi được lệnh thẩm vấn Thiếu Tá Nhung và Thiếu Tá Nhung khai rằng, khi đoàn xe chạy đến cổng xe lửa trên đường Hồng Thập Tự, tôi xin lệnh Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân về việc ông Diệm và ông Nhu, thì được Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân trả lời bằng câu tiếng Pháp “Feu tous les deux” (bắn cả hai).


“Đây là câu trả lời được ghi lại trong ký ức tôi. Luôn tiện tôi xin đưa ra dữ kiện về việc Thiếu Tá Nhung tự tử để quí vị phán xét. Trước khi tôi bắt đầu thẩm vấn, Thiếu Tá Nhung xin phép tôi điện thoại về nhà để nhắn nhủ vợ con yên tâm. Trên nguyên tắc thì người đang bị thẩm vấn không được liên lạc ra ngoài, nhưng tôi muốn tạo tình cảm thuận lợi cho công tác lấy lời khai nên tôi đồng ý. Thẩm vấn xong, tôi giao lại Phân Đội 204 Quân Cảnh Nhẩy Dù. Đến sáng hôm sau được báo là Thiếu Tá Nhung đã treo cổ. Tôi đến nơi trông thấy Thiếu Tá Nhung treo cổ bằng sợi giây giày loại giày cao cổ, có để lại mấy chữ ở bìa trắng của tờ báo như sau: “Em ở lại nuôi các con, bọn Diệm sống lại rồi. Cây viết Parker 51 nắp vàng, còn nằm trên tờ báo. Tôi thuật lại đây để quí vị tùy nghi xét đoán, nếu không thì có nhiều người suy đoán trật quá xa sự thật. Tối thiểu, chúng ta cũng phải căn cứ trên các dữ kiện tôi nêu trên có thể kết luận Thiếu Tá Nhung tự vận hơn là bị giết.”


Hết phần trích dẫn trên trang e-mail về lời thuật của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, và xin tiếp lời thuật của cựu Trung Tá Phạm Ngọc Khanh qua điện thoại. Cựu Trung Tá Phạm Ngọc Khanh, định cư tại San Francisco, California. Trong cuộc đảo chánh 30/01/1964, anh là Đại Úy sĩ quan tùy viên của Đại Tá Cao Văn Viên. Giữa năm 2001, sau khi đến Washington DC thăm cựu Đại Tướng Cao Văn Viên trở về, anh điện thoại cung cấp cho tôi một số tin tức liên quan đến sức khoẻ và cuộc sống hằng ngày của vị Tướng đã từng là Tổng Tham Mưu Trưởng liên tục gần 10 năm. Nhân đó, anh thuật cho tôi nghe mẫu tin Thiếu Tá Nhung tự tử sau cuộc đảo chánh ngày 30/01/1964. Lời thuật như sau:


“Cái hôm Thiếu Tá Nhung chết, lúc đó còn sớm lắm, điện thoại từ sĩ quan trực Lữ Đoàn Nhẩy Dù gọi đến tư dinh báo cáo là Thiếu Tá Nhung đã tự tử, và đưa vào bệnh xá của Lữ Đoàn rồi”.
Đại Úy Khanh trình cho Đại Tá Viên, và Đại Tá Viên ra lệnh:
“Nói với sĩ quan trực (Lữ Đoàn) gọi bác sĩ cứu được gì thì cứu”.


Theo lời Đại Úy Khanh thì lúc ra lệnh đó, Đại Tá Viên không có vẻ gì bất ngờ trước cái tin chết người như vậy, nhất là người chết lại là người mà dư luận đặt nghi vấn, thậm chí còn quả quyết anh ấy đã giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu nữa. Điều này cho phép chúng ta suy đoán có thể là Đại Tá Viên biết trước về cái chết của Thiếu Tá Nhung. Nhưng nếu biết trước, thì liệu Đại Tá Viên có liên quan gì? Bởi vì cái tin Thiếu Tá Nhung tự tử có thể là thật, cũng có thể là không thật. Không thật, vì có thể cái chết đó là do dàn dựng cho Thiếu Tá Nhung, cũng có thể là do áp lực dẫn đến chính Thiếu Tá Nhung phải tự tử. Điều này vẫn còn trong bóng tối.


Cũng liên quan đến vụ này, vị thứ ba là cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trong cuộc điện đàm vào tối ngày 21/10/2003, khi nói đến cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, ông nói với tôi là ông nghe nói một số quân nhân Nhẩy Dù đã vì tức giận việc Thiếu Tá Nhung giết Tổng Thống Diệm, nên ra tay giết Thiếu Tá Nhung.


Xin đóng ngoặc.


Thật tình tôi không có bằng chứng để quả quyết là ai ra lệnh giết, nhưng điều mà cựu Đại Tướng Khiêm nghe nói lại, dường như chưa đủ sức thuyết phục người đọc lẫn người nghe. Quí vị có suy nghĩ gì về sự kiện này không?


Với lời thuật của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, đối chiếu với lời thuật của cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa mà tôi được phép đăng trong chương nói về cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, thì nghi vấn về người ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, trở nên phức tạp. Tôi xin ghi lại những lời đó sau đây:


“Theo lời của cựu Đại Tá Nghĩa, sau ngày đảo chánh 01/11/1963, ông gặp Thiếu Tá Nhung và hỏi điều ông thắc mắc là tại sao giết cả hai ông, thì Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung trả lời một cách tỉnh bơ rằng:


“Một người hay hai người cũng vậy thôi. Hai người thì khó khăn một chút, nhưng chắc ăn hơn. Vì ông Diệm chống cự lại sau khi ông Nhu bị tôi đâm chết, nên tôi phải thanh toán luôn. Có lệnh cũng được, mà không có lệnh cũng vậy thôi. Cho nó chắc ăn. Lúc đó đâu có đợi lệnh được”.


Theo lời thuật của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, thì đầu năm 1964 anh là Trung Úy, sĩ quan An Ninh của căn cứ Lữ Đoàn Nhẩy Dù, anh được lệnh thẩm vấn Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, và anh ghi nhận lời khai của Thiếu Tá Nhung như sau:


“ ... Khi đoàn xe chạy đến cổng xe lửa trên đường Hồng Thập Tự, tôi xin lệnh Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân về việc ông Diệm và ông Nhu, thì được Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân trả lời bằng câu tiếng Pháp “feu tous les deux” (bắn cả hai) . .


Vậy, ai là người ra lệnh giết Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu? Trung Tướng Dương Văn Minh, hay Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, hay cả hai vị?


Theo cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, với lời của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung đã nói trực tiếp với ông (tức cựu Đại Tá Nghĩa), thì nghi vấn của tôi về người ra lệnh giết Tổng Thống Diệm với ông Cố Vấn Nhu là Trung Tướng Dương Văn Minh (cấp bậc lúc đảo chánh). Nhưng theo lời khai của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung trước mặt cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, thì Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân đã ra lệnh cho ông (tức Thiếu Tá Nhung) giết chớ không phải Trung Tướng Dương Văn Minh.


Cho đến bây giờ là tháng 03/2004, tức sau khi e-mail của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim với nội dung thuật lại lời khai của cố Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, tôi vẫn giữ nguyên nghi vấn Trung Tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung (cấp bậc lúc đảo chánh) giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, vì Trung Tướng Dương Văn Minh là vị lãnh đạo cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963. Trong chức vụ và quyền hạn của Trung Tướng Dương Văn Minh, chỉ có ông mới đủ thẩm quyền ra lệnh cho Đại Úy Nhung giết Tổng Thống Diệm với ông Cố Vấn Nhu, chớ không thể nào Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân trong trách nhiệm thay mặt Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng -theo lời của cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa- lại tự ý ra lệnh này được.


Cứ thử nêu một giả thuyết là Trung Tướng Minh có giao quyền rộng rãi cho Thiếu Tướng Xuân tùy cơ ứng biến với Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu đi nữa, thì từ khi đoàn xe rời nhà thờ Cha Tam chạy đến cổng xe lửa dừng lại chờ xe lửa chạy ngang, đã có việc gì xảy ra đâu mà Thiếu Tướng Xuân đến nỗi phải “ứng biến” bằng cái lệnh “bắn cả hai” như Thiếu Tá Nhung khai với sĩ quan an ninh căn cứ Hoàng Hoa Thám là Trung Úy Lâm Sanh Kim lúc ấy? Một giả thuyết như vậy không có sức thuyết phục, vì lệnh “bắn cả hai” là bắn Tổng Thống với Cố Vấn của Tổng Thống, tính cách quan trọng của cái lệnh này ở cấp quốc gia chớ không phải cái lệnh bắn giết địch quân ở chiến trường.


Tôi có hai giả thuyết về lời khai của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung:


Thứ nhất. Hoặc lời khai đó là thật, nghĩa là Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân được Trung Tướng Dương Văn Minh giao cho cái quyền rộng rãi đó để tùy tình hình mà giải quyết. Nhưng trên đường về Bộ Tổng Tham Mưu trong một “tình hình hoàn toàn yên tỉnh” mà Thiếu Tướng Xuân lại ra lệnh “bắn cả hai” thì hành động đó có thể xem là lạm dụng quyền được giao. Như vậy, phải chăng bắt nguồn từ nguyên nhân hận thù nào đó của Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm? Nhưng nếu do thù hận riêng tư mà Thiếu Tướng Xuân dám ra lệnh giết chết Tổng Thống và Cố Vấn của Tổng Thống, quả là ông liều lỉnh. Liều lỉnh vì cấp trên của ông là Trung Tướng Dương Văn Minh còn đó, cho dù ông có là bạn thân của Trung Tướng Minh đi nữa, không chắc ông dám liều đến như vậy.


Thứ hai. Hoặc lời khai đó do Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung tự bịa ra để khai khi bị thẩm vấn. Nhưng tại sao lại bịa ra? Rất có thể là Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung muốn bảo vệ Trung Tướng Dương Văn Minh, vị Tướng mà Thiếu Tá Nhung đang là cận vệ. Giả thuyết này có vẻ không vững, bởi lúc Thiếu Tá Nhung cung cấp lời khai này chỉ ba tháng sau ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị giết, mà trong dư luận chưa nghe loan truyền về cái lệnh giết Tổng Thống và ông Cố Vấn là công hay tội, thì khó mà nói là Thiếu Tá Nhung đổ tội cho Thiếu Tướng Xuân qua lời khai của ông. Rốt lại, chỉ còn giả thuyết oán ghét hay thù hận của Thiếu Tá Nhung đối với Thiếu Tướng Xuân thôi. Trong cuộc sống, cũng có những sự kiện xảy ra mà không thể dựa trên những dữ kiện bình thường để suy đoán phần kết luận. Nói nôm na là nghịch lý. Phải chăng trường hợp này là như vậy?


Trở lại cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung. Theo lời của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim mô tả khi đến phòng giam nhìn thấy thi hài Thiếu Tá Nhung trong tình trạng thắt cổ bằng sợi giây giày loại giày cao cổ. Đây là loại giày mà quân nhân sử dụng khi mặc quân phục tác chiến. Giá mà cựu Thiếu Tá Kim mô tả rõ thêm là khi bị ông thẩm vấn thì Thiếu Tá Nhung mặc quân phục gì, có thể có thêm tin tức cần thiết. Sở dĩ tôi nêu điều này vì cuộc Chỉnh Lý (cũng là một loại đảo chánh) thực hiện lúc nửa đêm về sáng, năm vị Tướng và Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung bị bắt trong khi cư dân Sài Gòn còn chìm trong giấc ngủ, thì liệu các vị có thì giờ mặc quân phục không? Thôi thì tạm thời chấp nhận Thiếu Tá Nhung mặc quân phục tác chiến lúc bị bắt đưa về giam tại Phân Đội 204 Quân Cảnh Nhẩy Dù. Vì nếu Thiếu Tá Nhung không mặc quân phục tác chiến tức là không đi giày cao cổ, vấn đề lại thêm rắc rối và phải quay trở lại đào sâu thêm nữa để làm sáng tỏ về cái chết của Thiếu Tá Nhung, vì không đi giày cao cổ thì sợi giây giày thắt cổ Thiếu Tá Nhung từ đâu ra?


Nửa đêm về sáng ngày 30/01/1964, Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung bị bắt đưa về căn cứ Lữ Đoàn Nhẩy Dù là sự thật. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung trải qua cuộc thẩm vấn tại Lữ Đoàn Nhẩy Dù là sự thật. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung chết trong tình trạng thắt cổ là sự thật. Nhưng Thiếu Tá Nhung chết trong tình trạng thắt cổ, thì những dữ kiện trên đây chưa đủ để khẳng định điều đó là sự thật. Tôi có hai giả thuyết:


Thứ nhất. Chính Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung tự thắt cổ. Nhưng ông tự thắt cổ là do ông hối hận, do bị áp lực, hay do ông muốn làm một anh hùng vì ông đã giết Tổng Thống với Cố Vấn trong khi không ai làm được, ông bị bắt nhưng ông không muốn bị làm nhục, đã dẫn đến quyết định như vậy? Giả thuyết hối hận không vững, vì luật pháp cũng như dư luận có buộc tội đâu. Giả thuyết do bị áp lực, hoặc giả thuyết ông muốn làm anh hùng, có thể lắm.


Thứ hai. Không phải chính Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung tự thắt cổ. Vậy, ai đã thắt cổ Thiếu Tá Nhung? Người thắt cổ Thiếu Tá Nhung là do chính người đó, hay người đó nhận lệnh của người nào khác nữa? Tôi không có dữ kiện nào về giả thuyết này, mong vào những nhà viết sử, theo thời gian sẽ thu thập được nhiều dữ kiện làm sáng tỏ vấn đề.


Cuối cùng, tôi vẫn đặt nghi vấn cao nhất và duy nhất là Trung Tướng Dương Văn Minh, người ra lệnh giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu.


Nay thì Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, và Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, ba con người này đã vào lòng đất tối tăm mù mịt, hay đang bay lượn trên những tầng mây cao với những nàng tiên xinh đẹp, thôi hãy để các vị yên nghỉ! Và nếu như hai con người nào đó "đã ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, giết ông cố vấn Ngô Đình Nhu, và ra lệnh giết Thiếu Tá Nhung nếu có, còn sống trên cõi đời này mà còn chút lương tâm, tôi tin là hai con người đó, đã và đang còm cõi với nỗi khổ riêng của họ! Năm 2003, Đại Tướng Dương Văn Minh, người mà tôi đặt nghi vấn cao nhất là người ra lệnh giết Tổng Thống Diệm với ông Cố Vấn Nhu, đã vào giấc ngủ ngàn thu! Xin cắm một nén hương trước mộ ông, với lời nguyện hương linh ông sớm siêu thoát vào cõi vĩnh hằng xa xôi nào đó, hay cõi đó cũng quanh quẩn trong cõi tạm trần ai này để nhìn cuộc sống tinh thần của những người một thời cùng ông vừa đánh địch vừa đánh bạn!


Thêm nữa, theo lời của cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm cho tôi biết vào tối 21/10/2003, thì nguyên nhân dẫn ông vào cuộc đảo chánh này là vì Trung Tướng Dương Văn Minh đã đồng ý với ông (tức Thiếu Tướng Khiêm, cấp bậc lúc đảo chánh) trong cuộc đảo chánh ngày 01//11/1963, là chỉ giải quyết ông cố vấn Ngô Đình Nhu, còn Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải được bình yên và xuất ngoại, nhưng sau đó Trung Tướng Minh đã ra lệnh giết luôn Tổng Thống Diệm làm cho ông bất mãn. Cũng do bất mãn đó mà Trung Tướng Khiêm (cấp bậc trong cuộc đảo chánh 30/01/1964) đồng ý với Trung Tướng Khánh lật đổ Trung Tướng Minh và những vị Tướng thân cận của Trung Tướng Minh. Vậy là suy đoán của tôi trong quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ từ ấn bản 1 đến ấn bản 3, về nguyên nhân Trung Tướng Trần Thiện Khiêm trực tiếp trong cuộc đảo chánh 30/01/1964, chỉ đúng một nửa.


Tôi có dịp dùng cơm với cựu Đại Tướng Cao Văn Viên vào tối ngày 06/09/2003 tại Virginia, nhưng tôi cảm thấy không nên hỏi những gì liên quan đến cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, vì gần như phần lớn thời gian trong bữa ăn kéo dài 3 tiếng đồng hồ, cựu Đại Tướng Viên cho tôi biết thêm vài sự kiện, đồng thời ông giải thích một số sự kiện về những gì tôi viết về ông trong quyển “Đôi Dòng Ghi Nhớ” của tôi, nhưng cần giải thích thêm để sự kiện được rõ ràng. Ông cũng giải thích về những sự kiện mà những tác giả khác đã nói về ông. Trong đó, có vẻ ông không bằng lòng tác giả Nguyễn Tiến Hưng, vì có những sự kiện mà ông nói là ông Hưng tưởng tượng hoàn toàn.


Xin đóng ngoặc, và mời quí vị trở lại bản doanh cuộc đảo chánh.


Khoảng 7 giờ sáng, Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đến bản doanh. Một lúc sau, Thiếu Tá Nguyễn Huy Lợi -cùng nhóm lưu vong với Đại Tá Thi trong vụ đảo chánh 11/11/1960 thất bại- và nhiều sĩ quan khác cũng đến. Đại Tá Thi bước vội đến Thiếu Tá Lợi đang đứng bên ngoài nhà, và sau một lúc lời qua tiếng lại, Đại Tá Thi bốp một phát vào mang tai Thiếu Tá Lợi. Thiếu Tá Lợi đỏ mặt và trong tư thế sẳn sàng bốp lại, nhưng nghĩ sao đó, Thiếu Tá Lợi quay lưng bỏ đi. Đại Tá Thi vào nhà, có vẻ như để chứng minh ông đúng:


“Thằng khốn nạn đó nó coi thường tôi”.


Lời lẽ này đúng hay không chỉ có quí vị trong nhóm lưu vong mới biết, nhưng hành động như vậy, tự Đại Tá Thi làm giảm phong cách của một sĩ quan cao cấp trong quân đội.


Sau một lúc thảo luận, viết rồi sửa, sửa rồi viết. Một bản Tuyên Cáo được phát đi trên làn sóng đài phát thanh Sài Gòn. Đại ý nội dung cho rằng, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập trong cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, đã có kế hoạch đưa nước Việt Nam đến trung lập, mà trung lập thì trước sau gì cũng vào tay cộng sản. Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập hôm nay, sẽ truy tố các vị đó ra tòa trong thời gian sớm nhất.


Khoảng 10 giờ sáng, điện thoại reo: “Thiếu Tá Hoa tôi nghe”.
“Em mời Trung Tướng Khiêm nói chuyện với Trung Tướng Minh nghe em”.
Đó là lời của Trung Tá Đỗ Kiến Nhiễu, chánh văn phòng của Trung Tướng Minh. Năm 1955, ông là Thiếu Tá, Tiểu Đoàn Trưởng của tôi (Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân), nên ông thường gọi tôi bằng em. Xe của Trung Tướng Minh và Trung Tá Nhiễu đã vào cổng lúc hơn 9 giờ.


“Xin Trung Tá chờ đầu máy”.
“Mời Trung Tướng tiếp chuyện với Trung Tướng Minh”.

Tôi bước đến ghế bố mà Trung Tướng Khiêm đang nằm vì ông bị cảm, tôi trao ống nói cho ông, nhưng:


“Chú nói với Trung Tướng Minh là tôi đang mệt và cần nghỉ ngơi. Tôi sẽ gọi lại sau”.
Quả thật là Trung Tướng Khiêm đang mệt, ông bị khàn tiếng. Từ lúc bắt đầu cuộc đảo chánh, Trung Tướng Khiêm là người ra chiều suy nghĩ âu lo và theo dõi chặt chẻ diễn tiến "cuộc hành quân bắt cóc các vị Tướng". Đến khi các vị đó lên phi cơ quân sự đi Đà Nẳng, ông nằm dài trên ghế bố. Dù sự thật là như vậy, nhưng chắc gì Trung Tướng Minh tin như vậy. Và rồi Trung Tướng Minh có thể nghĩ rằng, Trung Tướng Khiêm đã bắt hết các vị Tướng thân cận của ông rồi, nên khước từ nói chuyện với ông cũng nên. Tôi thì không nghĩ như vậy. Tuy Trung Tướng Khiêm chưa phải là vị Tướng xuất sắc của chiến trường hay nơi bàn giấy, nhưng ông có một tình cảm chân thành của một con người đối với cấp trên, với bạn bè, và nhất là với các cộng sự viên xa gần lớn nhỏ của ông. Tôi đã chứng kiến nhiều lần khi ông niềm nở bắt tay những đồng đội thuộc Tiểu Đoàn 3 Việt Nam, đơn vị mà có lần Trung Tướng Khiêm rất vui vẻ khi ông nói với tôi là ông rất nhiều cảm tình. Những đồng đội trước kia dưới quyền của Trung Tướng Khiêm tại Tiểu Đoàn này, đến những năm 60, phần lớn là Thượng Sĩ hay Thượng Sĩ Nhất.


“Thưa Trung Tá, Trung Tướng Khiêm bị cảm và khàn cổ. Thể nào Trung Tướng Khiêm cũng gọi lại Trung Tướng Minh khi sức khỏe cho phép”.


Nói thì nói vậy, nhưng khoảng 30 phút sau thì Trung Tướng Khiêm điện thoại nói chuyện với Trung Tướng Minh. Theo lời ông thuật lại với Trung Tướng Khánh và Đại Tá Viên, tôi biết là Trung Tướng Minh cần gặp ông với Trung Tướng Khánh để thảo luận một số vấn đề cần thiết. Vấn đề gì thì tôi không biết, nhưng tôi nghĩ chỉ quanh quẩn về việc các vị bị bắt thôi, chớ chẳng việc nước việc non gì đâu. Bởi sự thể đã đâu vào đó rồi. Nhưng nếu Trung Tướng Khánh ở vị trí Trung Tướng Minh hiện tại, thì Trung Tướng Khánh không nói chuyện êm thấm nhẹ nhàng vậy đâu, bởi Trung Tướng Khánh vốn là không ôn hòa, nhất là trong tình cảnh đó.


Sau một lúc thảo luận to nhỏ với người Mỹ đã có mặt từ sớm, Trung Tướng Khánh mời Trung Tướng Khiêm và Đại Tá Viên vào bàn họp. Một số sĩ quan quan tâm hay hiếu kỳ, đang đứng lóng ngóng trong nhà để theo dõi tin tức, được mời ra sân. Tại sân, khá đông sĩ quan các quân binh chủng, cùng một số phóng viên báo chí. Tuy không đông, không nhộn nhịp như cuộc đảo chánh 01/11/1963, nhưng cũng chật sân trước. Lúc bấy giờ trong nhà Trung Tướng Khánh, chỉ có Trung Tướng Khánh, Trung Tướng Khiêm, Đại Tá Viên, người Việt Nam có vẻ là thân tín của Trung Tướng Khánh, một viên chức Hoa Kỳ, và tôi. Trung Tướng Khánh lên tiếng trước như là người chủ tọa:


“Thôi, mọi việc xong rồi. Bây giờ thì anh Khiêm làm đi”.
Trung Tướng Khiêm, tay phải gỡ kiến xuống và tay trái lau kiến, đó là những động tác biểu hiện sự suy nghĩ của ông. Tiếp đó, ông xoay qua Đại Tá Viên, vừa cười vừa nói:


“Phần tôi đến đây là đủ rồi. Tôi không thích chính trị đâu, hay là anh Viên nhận đi”.
Đại Tá Viên với nụ cười không hết miệng như lúc nào, ông nói:
“Thôi. Hai anh tính với nhau đi, ai làm cũng được mà. Tôi không thích lao vào chính trị đâu. Phần tôi đến đây là xong. Tôi muốn ở Lữ Đoàn Dù với anh em của tôi”.
Đại Tá Viên lớn tuổi hơn hai vị kia, nhưng ông rất cẩn thận trong cách xưng hô với mọi người, ngay cả với cấp dưới cũng vậy, chớ không nhất thiết là chỉ cẩn thận với hai vị này.
“Các "toa" không nhận thì "moa" đành nhận thôi”.


Nói xong, Trung Tướng Khánh cười khoan khoái. Trung Tướng Khánh nói nhận ở đây, là nhận chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, tức Quốc Trưởng, và kiêm luôn chức Thủ Tướng. Vậy là chức vụ của Trung Tướng Khánh nhiều bằng chức vụ của Trung Tướng Minh với ông Đốc Phủ Sứ Nguyễn Ngọc Thơ trước đây cộng lại. Trung Tướng Khánh đồng ý giữ Đại Tá Viên trong chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù. Mời Trung Tướng Khiêm giữ chức Tổng Tưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội, nhưng Trung Tướng Khiêm không nhận. Ông muốn ở lại chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Dĩ nhiên là chính ông "muốn" chớ không phải ông "bị" như cách đây tròn 1 tháng. Buổi họp chọn vị đứng đầu quốc gia và đứng đầu chánh phủ tạm ngưng, vì Trung Tướng Khánh phải lên tòa nhà chánh họp báo.


Lúc đó là 2 giờ chiều, tại tầng trệt tòa nhà chánh. Rất đông phóng viên báo chí truyền thanh truyền hình trong nước lẫn ngoại quốc. Trên bàn chủ tọa, Đại Tá Cao Văn Viên ngồi cạnh Trung Tướng Nguyễn Khánh, còn Trung Tướng Khiêm vắng mặt vì bệnh. Chuẩn Uý Nguyễn Ngọc Linh là thông dịch. Chuẩn Uý Linh tốt nghiệp khóa 12 (hoặc 13) Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ông là chủ một trường Anh ngữ khá nổi tiếng tại Sài Gòn. Sinh viên sĩ quan khóa này có một số khá đông tốt nghiệp đại học mà báo chí thường gọi là "thành phần khoa bảng".


Tổng quát thì Trung Tướng Khánh cho rằng, một số Tướng Lãnh trong nhóm đảo chánh 01/11/1963, đã âm mưu đưa nước Việt Nam đến trung lập, mà trung lập là thời kỳ chuyển tiếp đến chế độ cộng sản. Và âm mưu này phải phá vở từ trong trứng, nếu không, nó sẽ là một sỉ nhục các chiến sĩ và đồng bào đã ngã xuống cho ngọn cờ quốc gia chống cộng. Đồng thời, dân tộc Việt Nam phải chịu sự thống trị của cộng sản và lệ thuộc Trung Cộng như hằng ngàn năm trong lịch sử. Do vậy, mà nhóm của ông đứng lên làm cuộc "chỉnh lý" hôm nay....


Sau đó, ông trả lời những câu hỏi của báo chí. Phần lớn những câu hỏi đều xoay quanh điều mà ông nói là âm mưu trung lập Việt Nam. Tôi không nhớ hết nguyên văn câu hỏi và trả lời, nhưng những điều dưới đây là tôi tóm tắt theo trí nhớ (đoạn này tôi viết lại lúc trong tù):


“Nhóm lãnh đạo chỉnh lý gồm những ai?”
“Nhóm lãnh đạo của chúng tôi gồm 3 người: Tôi, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, và Đại Tá Cao Văn Viên”.Vừa nói ông vừa chỉ Đại Tá Viên.
“Xin Trung Tướng cho biết những bằng cớ về âm mưu trung lập?”


“Hội Đồng chúng tôi sẽ truy tố các vị đó ra tòa theo luật định. Toà án sẽ căn cứ vào những bằng cớ để phán quyết”.

“Các vị Tướng đó nghe nói đã bị bắt, có đúng không? Nếu đúng, thì các vị đó bị giữ ở đâu?”


Đúng. Các vị đó được giữ ở nơi an toàn trong khi chờ ra tòa”.
“Nhóm Chỉnh Lý có thành lập chánh phủ dân sự như nhóm đảo chánh trước đây hay không?”
“Chúng tôi thành lập chánh phủ quân sự, nhưng cũng là tạm thời”.
“Hiến Chương tạm thời bao giờ được thay đổi?”
“Sẽ được thay bằng Hiến Pháp khi Quốc Hội được bầu lên trong một tình hình ổn định”.


“Hàm râu của Trung Tướng cắt theo kiểu đó có nghĩa gì?”


Dường như bị bất ngờ, Trung Tướng Khánh đưa tay vuốt chòm râu cụt ngủn kèm theo nụ cười kéo dài khá lâu, chắc là để tìm câu trả lời trước câu hỏi này.


“Mỗi quân nhân chúng tôi thường có cái gì đó để kỷ niệm cho riêng mình. Hàm râu của tôi cũng không ngoài ý nghĩa đó”.


Và cuộc họp báo chấm dứt, nhưng điều mà các phóng viên thắc mắc liên quan đến bằng chứng về kế hoạch trung lập của các vị Tướng bị bắt, thì Trung Tướng Khánh trả lời rất mơ hồ, khiến họ tỏ vẻ không hài lòng. Mà thật ra ngôn ngữ trong chính trị, không nhất thiết một với một là hai như trong ngôn ngữ của các ngành sinh hoạt khác, cho nên có hài lòng hay không hài lòng cũng vậy thôi.


Trước bữa ăn tối, Trung Tướng Khánh, Trung Tướng Khiêm, và Đại Tá Viên, thảo luận với một số vị dân sự và hành chánh để thành lập chánh phủ. Tôi xin phép chạy về nhà vì con tôi lên cơn nóng, nên không theo dõi được phần thảo luận chi tiết. Sau đó Trung Tướng Khiêm gọi tôi trở lại "bản doanh" gấp:


“Chú sang bộ tư lệnh Quân Đoàn nói với Đại Tá Mạnh (Nguyễn Văn Mạnh) Tham Mưu Trưởng, chuẩn bị để sáng mai tôi bàn giao cho Thiếu Tướng Lâm Văn Phát. Còn mấy chú cũng chuẩn bị bàn giao văn phòng rồi trở về Tổng Tham Mưu với tôi”.


“Trung Tướng đã nhận lời với Trung Tướng Khánh?”


“Không có người nên tôi phải nhận thôi. Tôi coi Bộ Quốc Phòng và Bộ Tổng Tham Mưu luôn. Tôi ngồi ở văn phòng mà trước kia Đại Tướng Tỵ ngồi đó. Chú sắp xếp lại cho tôi. Phần chú, chú làm chánh văn phòng cả hai bên, nghĩa là Bộ Quốc Phòng và Tổng Tham Mưu. Thôi, chú chạy qua Quân Đoàn lo cho kịp. Nhớ bảo Đại Uý Tuấn về lại Tổng Quản Trị luôn”. (Đại úy Nguyễn văn Tuấn, về sau là Đại Tá, Giám Đốc Nha An Ninh Hành Chánh khi Đại Tướng Trần Thiện Khiêm làm Thủ Tướng)


“Chào Trung Tướng, tôi đi ngay”.


Sáng 31/01/1964, bàn giao xong, tôi và các quân nhân văn phòng dọn về lại văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng. Vẫn trên tầng lầu, nhưng khác phòng. Trung Tướng Khiêm nhận hai chức vụ của Trung Tướng Trần Văn Đôn nhưng không có bàn giao, vì Trung Tướng Đôn đã bị bắt từ hôm qua. Cùng lúc, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu nhận chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân, cũng không có bàn giao vì Trung Tướng Lê Văn Kim cũng bị bắt rồi. Tôi nhận bàn giao của Thiếu Tá Đặng Văn Hoa, gồm văn phòng Tổng Trưởng Quốc Phòng và văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng.


Việt Nam chúng ta chịu ảnh hưởng gần như hoàn toàn về kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ, dĩ nhiên là về mặt chính trị cũng vậy. Nói rõ hơn trong các biến cố chính trị, nhóm nào được Mỹ ủng hộ thì phần thắng có thể trong tầm tay. Ủng hộ thì có thể có nhiều cách, nhưng sự có mặt của một người Mỹ trong cuộc đảo chánh 01/11/1963 và cuộc đảo chánh lần này, là biểu hiện rõ nhất. Với cuộc đảo chánh 30/01/1964, giữa bộ ba lãnh đạo đảo chánh (chỉnh lý, chỉ là một loại ngôn ngữ chính trị) với Hoa Kỳ, liệu bên nào là bên khởi xướng? Điều đó tôi không rõ, nhưng chắc chắn là ba vị này đã tiếp xúc ít nhất là 2 lần với Hoa Kỳ, kể từ lúc tôi đón Trung Tướng Khánh về đến Sài Gòn.


Nhìn từ góc độ cá nhân. Liệu có phải cuộc đảo chánh bắt nguồn từ "cái hận của Trung Tướng Trần Thiện Khiêm" khi cử ông vào phái đoàn công du Đại Hàn mà ông tưởng như phần thưởng, để rồi cử ông vào chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III trong khi ông công du ngoại quốc chưa về? Xin nhớ rằng, Trung Tướng Khiêm là một trong những vị nòng cốt lãnh đạo cuộc đảo chánh 01/11/1963, vì trong chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân nếu ông không tham gia thì cuộc đảo chánh cũng không dễ gì thực hiện được. Và cũng liệu có phải là từ "cái hận" của Đại Tá Viên khi bị tách khỏi Lữ Đoàn Nhẩy Dù trong cuộc đảo chánh 01/11/1963 không? Nếu không phải là "những cái hận" đó, thì tại sao trong buổi họp chọn người lãnh đạo ngay sau khi đảo chánh thành công, Trung Tướng Khiêm nói "phần tôi đến đây là đủ rồi", và tại sao Đại Tá Viên cũng nói "phần tôi đến đây là xong rồi". Cả hai vị có cùng câu nói tương tự nhau là bao hàm ý nghĩa rằng "tôi không thích chính trị" hoặc "tôi không thích lao vào chính trị", để rồi Trung Tướng Khánh "đành" nhận cả hai chức vụ cao nhất nước? Hãy để câu trả lời chính xác cho cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và cựu Đại Tướng Cao Văn Viên.


Nếu chấp nhận giả thuyết "hai cái hận" nói trên là nguyên nhân, thì theo tôi, hành động phục hận của Trung Tướng Khiêm và Đại Tá Viên mới là "động lực", mà động lực không cũng chưa đủ, vì phải có "ngòi nổ" để phát nổ nữa chớ. Trung Tướng Khánh là mẫu người nhiều tham vọng, và đây đúng là "ngòi nổ" để đẩy động lực kia nổ máy. Tôi muốn nói là Trung Tướng Khánh đã khai thác cái hận của Trung Tướng Khiêm với Đại Tá Viên bằng cách khích hai vị ấy phục hận. Cũng chưa đủ, phải có "lửa" châm ngòi nổ nữa chớ. Tôi cho rằng Hoa Kỳ là ánh lửa châm ngòi. Như vậy, nếu đúng là phục hận thì Hoa Kỳ cũng có nguyên nhân nào đó chớ chẳng lẽ Hoa Kỳ giúp đảo chánh chỉ để hai vị phục hận riêng tư sao? Chắc chắn là không.


Nhìn vào một góc độ khác, góc độ chính trị ngoại giao. Liệu có phải Hoa Kỳ muốn loại trừ những Tướng lãnh cầm quyền mà trước đó có tiếng là thân Pháp ra khỏi chính trường Việt Nam không? Chắc trong chúng ta, lứa tuổi chào đời thập 20, 30, không ai quên là Pháp rất không bằng lòng hành động của Hoa Kỳ góp phần đẩy nước Pháp đến việc ký kết Hiệp Định Đình Chiến Genève 20/07/1954 với Việt Minh cộng sản, dẫn đến sự kiện nước Pháp thua trận và đoàn quân viễn chinh của Pháp hoàn toàn rút khỏi Việt Nam tháng 03/1956. Tổng Thống Pháp quốc, Tướng Charles De Gaulle, vào đầu thập niên 1960, trong chuyến viếng thăm Cambodge, ông cổ võ chính sách trung lập cả ba nước Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Quan niệm trung lập của ông De Gaulle, chẳng khác nào xúi ba nước trên bán đảo Đông Dương vào ảnh hưởng cộng sản, điều đó có nghĩa là vực Việt Nam Cộng Hòa (cùng với Cam Bốt và Lào) ra khỏi ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Phải chăng đây cũng là cách phục hận của Pháp đối với Mỹ? Lúc ấy, Tổng Thống Ngô Đình Diệm phản ứng mạnh mẽ về lời tuyên bố đó của Tổng Thống Pháp.


Liên quan đến đoạn trên đây, cựu Đại Tướng Khiêm nói với tôi trong cuộc điện đàm tối 21/10/2003, như sau:


“Tôi không biết tại sao mà Mỹ lại bỏ rơi ông Minh nữa”.
Tôi nói với ông về nét nhìn của tôi như đoạn viết ở trên. Ông nói:
“Điều chú nói có lý lắm, nhưng có thể còn điều gì đằng sau đó nữa”.


Nhưng mà thưa các bạn, với câu nói ngắn ngủi của cựu Đại Tướng Khiêm trên đây, cộng với nguyên nhân mà Trung Tướng Khánh (cấp bậc lúc đảo chánh) đã tuyên bố trong buổi họp báo cách nay 39 năm sau khi đảo chánh thành công (30/01/1964), theo đó thì Trung Tướng Dương Văn Minh và các vị trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập ngày 01/11/1963, có kế hoạch đưa Việt Nam đến trung lập, có thể làm quí vị suy nghĩ nếu quí vị muốn đào sâu thêm về con người dẫn đến sự kiện ngày 30/01/1964.


Nhìn sang góc độ khác nữa, góc độ chính trị nội bộ. Liệu có phải năm vị Tướng vừa bị bắt kia, thật sự có kế hoạch trung lập Việt Nam hay không vì Trung Tướng Khánh với quyền uy cao nhất nước, đã nói với báo chí là sẽ đưa các vị đó ra tòa (?). Tôi chấm hỏi trong ngoặc đơn như vậy vì tôi nghi ngờ lời ông. Tôi nghi ngờ vì chen lẫn trong lúc ba vị thảo luận thành lập chánh phủ, Trung Tướng Khánh có nói sẽ ra lệnh cho Trung Tá Cao (Albert Nguyễn Cao) và Thiếu Tá Nhiêu (Lê Văn Nhiêu) -sĩ quan tình báo- truy tìm tài liệu về "kế hoạch trung lập". Câu nói đó cho tôi hiểu đôi chút là khi bắt các vị Tướng bị cáo buộc "trung lập", thì trong tay các vị đảo chánh chưa có bằng chứng gì trung lập hết, hoặc nếu có cũng chưa đủ để đưa các vị ấy ra tòa.


Năm 1994, khi tôi viết lại đoạn này thì cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm sống ở Washington D.C. một cách lặng lẽ, không tiếp xúc với ai liên quan đến chính trị. Trong khi cựu Đại Tướng Cao Văn Viên thì đi sâu vào thiền, cũng ở Washington D.C. và cuộc sống càng ẩn dật hơn cựu Đại Tướng Khiêm nữa. Điều đó đúng trong thời gian ấy.


Ngày 06/09/2003, vợ chồng tôi lên Virginia thăm ông bà cựu Đại Tướng Khiêm, nhận thấy ông và gia đình ông vẫn trong cuộc sống ẩn dật tuy là trong căn nhà khá rộng. Buổi tối cùng ngày, tôi và hai người bạn nữa đến đón cựu Đại Tướng Viên từ một gian phòng nhỏ trong building khang trang, về nhà anh chị Lý Thanh Tâm dùng cơm tối. Anh Lý Thanh Tâm, một cựu sĩ quan ngành Tổng Quản Trị. Anh Chị Lý Thanh Tâm, là người giúp cựu Đại Tướng Viên rất nhiều việc trong những năm gần đây. Trong bữa ăn này, tôi thấy sức khoẻ của ông rất kém nhưng sự minh mẫn không sa sút bao nhiêu, tôi không hỏi ông về thiền vì sức khoẻ của ông như vậy ông không thể ngồi thiền được nữa. Có một điều thật dứt khoát là ông không thể tham gia vào những vấn đề chính trị, đơn giản là sức khỏe của ông trong tình trạng sút kém đến mức khó mà hình dung được nếu không trông thấy ông.


Xin giải thích thêm về cựu Đại Tướng Cao văn Viên. Trong cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày 01 và 02/11/1963, lúc ấy ông là Đại Tá, bị Hội Đồng Quân Cách Mạng cách ly khỏi chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù và bị cách chức sau khi Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đảo chánh thành công. Nhưng bà Cao Văn Viên nhờ Trung Tướng Trần Thiệm Khiêm (cấp bậc lúc bấy giờ) vì hai vị là bạn thân, vận động với Trung Tướng Dương Văn Minh và Đại Tá Viên được trở lại chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù, dĩ nhiên vị sĩ quan thay thế ông mấy ngày phải chuyển sang đơn vị khác. Tháng sau đó, trong một cuộc hành quân trực thăng vận (chuyển quân bằng phi cơ trực thăng đổ ngay tại chiến trường) dọc biên giới Việt Nam-Cam Bốt thuộc quận Hồng ngự, tỉnh Kiến Phong. Cuộc hành quân này đã đánh nhau dữ dội với quân cộng sản từ bên trong lãnh thổ Cam Bốt xâm nhập vào, với sự yểm trợ của Pháo Binh, Thiết Giáp, và Không Quân, Nhẩy Dù đã chiến thắng nhưng chấp nhận số thương vong đáng kể. Trong số bị thương có Đại Tá Viên, ông và những thương binh khác được đưa về Tổng Y Viện Cộng Hòa điều trị. Chiều hôm đó, Trung Tướng Nguyễn Khánh với chức năng Quốc Trưởng, cùng với Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng, vào tận giường bệnh trao gắn cấp bậc Thiếu Tướng cho Đại Tá Cao Văn Viên. Đây là thăng cấp mặt trận. Đến đây là hết phần giải thích.


Một hôm, Trung Tướng Khiêm gọi tôi vào văn phòng, tôi thấy ông có vẻ như có điều gì quan trọng, ông nói:


“Chú phải biết là ngoài Bộ Quốc Phòng và Bộ Tổng Tham Mưu, tôi còn là cố vấn cho Trung Tướng Khánh nữa, nên tôi không có thì giờ nhiều như trước đây. Vì vậy mà chú phải thận trọng khi thu xếp chương trình tiếp khách hằng ngày của tôi để tôi có thì giờ nghiên cứu nhiều vấn đề. Chú hiểu ý tôi chớ?”


“Vâng. Tôi hiểu”.

“Dù muốn hay không muốn, tôi cũng phải dính dáng đến chính trị. Đó là điều không thích hợp với tôi”.


“Vâng. Tôi hiểu”.

Ngưng một chút, ông tiếp:

“Chú liên lạc Phòng Tổng Quản Trị (Tổng Tham Mưu) làm lệnh thuyên chuyển Đại Úy Đặng Văn Châu về văn phòng (Tổng Tham Mưu Trưởng), làm thông dịch viên khi cần”.


Đại Úy Đặng Văn Châu là chánh văn phòng Tỉnh Trưởng Vĩnh Long, lúc ấy Trung Tá Lê Văn Phước là Tỉnh Trưởng. Sau ngày 01/11/1963, Trung Tá Phước bị cách chức và giải ngũ. Thế là Đại Úy Châu về văn phòng tôi. Trong văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng có các sĩ quan sau đây: (1) Tôi. (2) Đại Úy Nguyễn Hữu Có sĩ quan tùy viên luôn luôn đi theo Trung Tướng Khiêm. (3) Đại Úy Nguyễn Tinh Tú sĩ quan tùy viên tại tư dinh. (4) Đại úy Đặng Văn Châu thông dịch viên. (5) Trước ngày đảo chánh còn có Đại Uý Trần Thiện Ngươn, anh của Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, nhưng sau ngày đảo chánh anh thuyên chuyển đơn vị khác vì văn phòng dư sĩ quan theo ấn định trong bảng cấp số. Thật ra Trung Tướng Khiêm chỉ sử dụng Đại Úy Châu thông dịch trong trường hợp tiếp các phóng viên báo chí ngoại quốc, không phải ông không nói được Anh ngữ, nhưng vì nhà báo ngoại quốc thường hỏi những câu hóc búa, thành ra ông cần cái khoảng thời gian thông dịch để chuẩn bị câu trả lời.


Vài tuần sau ngày trở lại Bộ Tổng Tham Mưu, Trung Tướng Khiêm bảo tôi viết chi phiếu xuất 100.000,00 đồng cho nhà thờ Martino tu sửa những hư hỏng, vì ảnh hưởng trong cuộc chạm súng giữa lực lượng tấn công với lực lượng phòng vệ Phủ Tổng Thống trong ngày 01/11/1963. Tập chi phiếu này tôi nhận bàn giao ngày 31/01/1964 từ Thiếu Tá Đặng Văn Hoa, chánh văn phòng Tổng Trưởng Quốc Phòng. Lúc ấy, số tiền trong quỹ mật còn 36.000.000,00 đồng.


Lần thứ nhì, tôi cũng được lệnh viết chi phiếu 100.000,00 đồng cấp cho Trung Tá Nguyễn Văn Luông, Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu, trong dịp Trung Tá Luông cưới vợ cho con. Tôi nghĩ, ngoài công tác bắt những vị Tướng khởi đầu cũng là kết thúc cho cuộc đảo chánh ngày 30/01/1964 ra, không có nguyên nhân nào khác để Trung Tá Luông được phần thưởng này cả. Cho Trung Tá Luông để cưới vợ cho con, tôi nghĩ, đó chỉ là cái cớ hơn là nguyên nhân.


Trong số những sĩ quan bị bắt sau cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963 đang giữ tại Nha An Ninh Quân Đội, có Trung Tá Nguyễn Văn Minh, và Trung Tá Nguyễn Khắc Bình, là hai trong số những vị tôi quen biết khá nhiều. Trung Tá Minh, Tỉnh Trưởng An Giang trong khi Đại Tá Trần Thiện Khiêm (cấp bậc lúc bấy giờ) Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu 33 Chiến Thuật (còn gọi là Khu Chiến Thuật Hậu Giang). Trung Tá Bình, khi còn tổ chức Quân Khu, ông là Tham Mưu Trưởng đệ ngũ Quân Khu đồn trú tại Cần Thơ. Tháng 04/1961, khi giải thể tổ chức Quân Khu để thành lập Khu Chiến Thuật với Vùng Chiến Thuật, Sư Đoàn 21 Bộ Binh từ Sa Đéc di chuyển sang Cần Thơ đồn trú ngay trong doanh trại Quân Khu vừa giải thể, và Thiếu Tá Bình (cấp bậc lúc bấy giờ) giữ chức Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Do mối liên hệ công tác đó đã dẫn đến thân tình giữa Đại Tá Khiêm với hai vị.


Cũng xin nói thêm đôi nét về Thiếu Tá Nguyễn Khắc Bình. Từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, Thiếu Tá Bình được Tổng Thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh Trưởng Định Tường. Theo lời Đại Uý Nguyễn Hữu Tài hồi năm 1964 -anh của Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có- thì sáng ngày 01/11/1963, Thiếu Tá Bình mang một phúc trình mật từ Mỹ Tho lên Sài Gòn để trình Tổng Thống Ngô Đình Diệm về những dấu hiệu của một cuộc đảo chánh, nhưng Thiếu Tá Bình bị Đại Tá Có (cấp bậc lúc bấy giờ) chận bắt.


Bà Nguyễn Văn Minh và bà Nguyễn Khắc Bình, sau nhiều lần đến nhà tôi nhờ tôi trình với Trung Tướng Khiêm xin cứu xét giúp cho hai ông được tự do. Trung Tướng Khiêm có vẻ phân vân, chưa quyết định. Lần trình bày thứ nhì của tôi cùng với đơn của hai bà, Trung Tướng Khiêm phê dòng chữ trên hai đơn đó:


“Nha An Ninh (Quân Đội) cứu xét rộng rãi”.


Sau đó, Trung Tá Minh và Thiếu Tá Bình được tự do. Chưa có quyết định gì về Trung Tá Minh, nhưng Thiếu Tá Bình được thuyên chuyển về văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, và Trung Tướng Khiêm giao trách nhiệm cho Thiếu Tá Bình khai thác đống hồ sơ của đảng Cần Lao, mà Trung Tướng Trần Văn Đôn đã cho chở đầy một xe vận tải quân sự GMC từ Phủ Tổng Thống về tòa nhà chánh Tổng Tham Mưu từ ngày 02/11/1963, và tôi cho mang lên để ở tầng lầu trên cùng.


Vài tháng sau đó, Thiếu Tá Nguyễn Khắc Bình được thăng cấp Trung Tá. Trong khi Trung Tá Nguyễn Văn Minh vẫn cấp bậc cũ, nhưng ông có cái may khác. Trung Tá Minh lần đầu tiên đến văn phòng tôi kể từ sau ngày được tự do, ông vẫn giữ thông lệ chơi ngọt với tôi nên phần “uống cà phê chơi” của tôi lần này là con búp bê sản xuất “bên Tây” rất đẹp.


Xin nhắc lại là khi ông làm Tỉnh Trưởng An Giang, tôi là chánh văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh đồn trú tại Cần Thơ, cứ mỗi lần ông đến Cần Thơ họp là y như rằng, Trung Tá Minh tặng tôi cái phong bì mà bên trong là 200,00 đồng (Việt Nam) kèm theo lời nói của ông:


“Em cầm lấy uống cà phê chơi” dù ông biết rằng tôi không quen uống cà phê.


Sau đó thỉnh thoảng ông tạt vào văn phòng tôi chơi. Một hôm Trung Tá Minh nhờ tôi trình Trung Tướng Khiêm, cho ông thuyên chuyển đến Sư Đoàn 21 Bộ Binh và ông bằng lòng nhận bất cứ nhiệm vụ gì ở đó. Ông giải thích thêm:


“Em biết hông, theo thầy tướng số, nếu Anh được về hướng đó sẽ có nhiều cơ hội thăng tiến hơn. Em ráng giúp Anh nghe Hoa”.


Trong khi chờ quyết định của Trung Tướng Khiêm, Trung Tá Minh cho tôi thêm thông tin liên quan đến ông, rằng Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh đồng ý cử ông vào chức vụ Chỉ Huy Trưởng Lữ Đoàn Cà Mau. Và rồi Trung Tá Minh thành công bước đầu, tức là ông được Trung Tướng Khiêm chấp thuận thuyên chuyển đến Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Và bước thứ hai:


“Hoa à! Em ráng giúp Anh lần nữa nghe. Lần này là em thu xếp cho Anh chiếc phi cơ L19, và điều cần là anh phi công với phi cơ có mặt tại sân VIP đúng 7 giờ sáng -không sớm cũng không muộn- và đừng tắt máy. Anh sẽ lên phi cơ ngay. Anh nói nhỏ em nghe: ông thầy tướng số nói nếu như Anh đi đúng như vậy và đúng về hướng Sư Đoàn 21 thì tương lai Anh sẽ lên tột đỉnh trong quân đội đó em. Ráng nghe Hoa”.
Trước khi ra về, ông đưa tôi cái phong bì tặng anh phi công, và phần “uống cà phê chơi” của tôi cũng là một phong bì.


Xin giải thích. Trung tuần tháng 12 năm 1962, ngay sau khi Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm (thăng cấp Tướng ngày 06/12/1962) bàn giao Sư Đoàn 21 Bộ Binh cho Đại Tá Bùi Hữu Nhơn, thì Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn cùng các đơn vị yểm trợ trực thuộc, di chuyển đến nơi đồn trú mới là Bạc Liêu, vì Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV sẽ thành lập từ ngày 01/01/1963 đồn trú tại trại Lý Thường Kiệt trong tỉnh lỵ Cần Thơ. Còn phi cơ L19 là loại phi cơ sử dụng quan sát từ trên không, và hướng dẫn Pháo Binh hoặc phi cơ khu trục tác xạ. Trường hợp cần thiết, sử dụng chở một sĩ quan hay Tướng Lãnh công tác. Còn Lữ Đoàn Cà Mau là tên gọi một đơn vị chiến thuật do Sư Đoàn 21 Bộ Binh thành lập cho nhu cầu ổn định tình hình tỉnh An Xuyên (Cà Mau là tỉnh lỵ), gồm Trung Đoàn 32 Bộ Binh (trực thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh) và Pháo Binh với Thiết Kỵ (Thiết Giáp Kỵ Binh).


Vài tuần sau ngày Trung Tá Nguyễn Văn Minh nhận nhiệm vụ tại Lữ Đoàn Cà Mau, ông điện thoại về tôi:

“Hoa à! Anh đang có một việc liên quan đến tòa án và họ có giấy gọi Anh về Sài Gòn để trả lời một số câu hỏi. Em ráng nói với chánh văn phòng Bộ Tư Pháp là đơn vị Anh đang hành quân, khi xong thì Anh về trình diện. Em ráng giải quyết càng sớm càng tốt nghe em”.


“Mà chuyện gì vậy Trung Tá? Liệu có ghê gớm lắm hông?”

“Không quan trọng đâu em. Chẳng qua là sự việc chưa rõ ràng thôi mà”.

“Được. Tôi sẽ cố gắng nhưng không hứa chắc chắn nghe Trung Tá, vì tôi chưa hiểu đầu đuôi ra sao”.


Sau khi liên lạc với chánh văn phòng ông Tổng Trưởng Tư Pháp, tôi mới biết Trung Tá Nguyễn Văn Minh đang là một trong những nghi can về cái chết của mấy nhân vật chính trị đã bị thủ tiêu ở tỉnh An Giang mà lúc ấy Trung Tá Minh là Tỉnh Trưởng. Chánh văn phòng Bộ Tư Pháp cho biết là ông Tổng Trưởng thuận dời lại đến khi Trung Tá Minh chấm dứt hành quân. Tôi cũng không hiểu là bằng cách nào mà chỉ trong thời gian ngắn sau đó, Trung Tá Nguyễn Văn Minh đã vận động ra sao mà từ đó tôi không nghe thấy gì về vụ này nữa. Khi viết lại những dòng này, tôi tự hỏi: có phải là tôi đã chen chân vào vụ án đó hay không nữa? Thật lòng là tôi chỉ nói đúng theo yêu cầu của Trung Tá Minh chỉ xin dời ngày trình diện của ông thôi.


Về ông thầy tướng số tử vi đã giải lá số tử vi của Trung Tá Nguyễn Văn Minh hay dở ra sao thì tôi không rõ, nhưng có điều là sau cuộc chiến Mùa Hè Đỏ Lửa tháng 04/1972, có dư luận ngay trong Bộ Tổng Tham Mưu là Trung Tướng Nguyễn Văn Minh (ông đã thăng cấp khá nhanh) có hi vọng thay thế Đại Tướng Cao Văn Viên trong chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng.


Xin trở lại Bộ Tổng Tham Mưu.


Đầu tháng 04 năm 1964, một Sắc Lệnh do Trung Tướng Nguyễn Khánh ký, nâng danh xưng Bộ Tổng Tham Mưu thành Bộ Tổng Tư Lệnh. Và một Sắc Lệnh khác, nâng danh xưng Quân Đội thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bao gồm: Lục Quân, Không Quân, Hải Quân, Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân. Vậy là, Bộ Tổng Tham Mưu, từ bấy giờ có danh xưng là Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Vị đứng đầu tức Trung Tướng Trần Thiện Khiêm là Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhưng bên trên còn có vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao trong chức năng Quốc Trưởng, chính vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao này mới có thẩm quyền tuyên chiến.


Trung tuần tháng 04/1964, Hội Đồng Tướng Lãnh mà nòng cốt là Trung Tướng Nguyễn Khánh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng với chức năng Quốc Trưởng, kiêm Thủ Tướng, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và Thiếu Tướng Cao Văn Viên, Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù, lên Đà Lạt họp để giải quyết năm vị Tướng bị bắt giữ từ ngày 30/01/1964, vì các vị này bị cáo buộc là “chủ trương trung lập hoá Việt Nam và sẽ truy tố ra tòa” mà Trung Tướng Khánh đã tuyên bố trong buổi họp báo chiều ngày 30/01/1964 tại tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, sau khi đảo chánh thành công. Kết quả trong tinh thần hòa giải (?), xem như các vị Tướng bị cáo đều không có tội nhưng không được giữ những chức vụ quan trọng trong quân đội. Thật ra không hòa giải cũng không được, vì đâu có bằng chứng gì để truy tố ra tòa. Hòa giải xong, các vị có mặt gồm “nguyên cáo lẫn bị cáo” ôm nhau vui vẻ và “ăn nhậu linh đình”, có cả sự “giúp vui” của những cô gái ngay tại biệt thự chọn làm nơi hội họp. Các cô này được phi cơ C47 đưa từ Sài Gòn lên.


Sở dĩ Hội Đồng Tướng lãnh họp tại Đà Lạt là vì sau khi năm vị Tướng bị bắt ngày 30/01/1964 đưa ra giữ ở Đà Nẳng, nhưng do thiếu tiện nghi sinh hoạt nên Trung Tướng Nguyễn Khánh chấp nhận lời yêu cầu của năm vị mà chuyển lên Đà Lạt giam trong một biệt thự với những tiện nghi sinh hoạt tốt hơn. Trong thời gian giam giữ các vị tại Đà Nẳng, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm chỉ thị tôi trách nhiệm thanh toán chi phí, nhưng khi chuyển lên Đà Lạt thì văn phòng Phủ Thủ Tướng trách nhiệm.


Về hòa giải giữa các vị Tướng Lãnh. Xin quí vị quí bạn lùi lại tháng 03 đến đầu tháng 04/1964. Đại Tá Nguyễn Cao (có tên Pháp là Albert Cao), Trung Tá Lê Văn Nhiêu, hai vị này thuộc Phủ Thủ Tướng, và Trung Tá Nguyễn Khắc Bình văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, ba sĩ quan này đã phục vụ nhiều năm trong ngành tình báo quân sự, tạo thành một toán công tác tình báo đặc biệt. Theo lệnh của Trung Tướng Nguyễn Khánh, ba vị sĩ quan này truy tìm chứng cớ để kết tội năm vị Tướng bị cáo buộc “chủ trương trung lập”. Đến ngày kết thúc, Trung Tá Bình sau khi từ phòng Trung Tướng Trần Thiện Khiêm bước ra, anh nói với tôi:


“Anh biết hông, tụi tôi truy lục các hồ sơ ở An Ninh Quân Đội, Tổng Nha Cảnh Sát, rồi bên Phủ Đặc Ủy Tình Báo, và hầu hết các tòa soạn báo chí, nhưng không tìm ra bất cứ một chứng cớ nào liên quan đến chủ trương trung lập của mấy ông Tướng bị bắt cả”.


“Vậy các vị Tướng bị cáo chủ trương trung lập chẳng qua là cái cớ cho cuộc “Chỉnh Lý” (Trung Tướng Nguyễn Khánh gọi như vậy, thật ra cũng là đảo chánh thôi), còn nguyên nhân nằm ở đâu?”


“Tôi cũng tự hỏi như anh vậy”.


“Khi anh trình kết quả này, Trung Tướng (Trần Thiện Khiêm) có nói gì hông Anh?”


“Không”.


Vậy, nguyên nhân nằm ở đâu? Tôi nghĩ, nguyên nhân ở người Mỹ có mặt trong buổi sáng ngày 30/01/1964 tại nhà Trung Tướng Nguyễn Khánh, đây cũng là bản doanh của các vị lãnh đạo đảo chánh. Phải chăng Hoa Kỳ muốn loại trừ hẳn những Tướng lãnh cầm quyền mà trước đó bị cáo buộc là thân Pháp ra khỏi chính trường Việt Nam không?


Nếu đúng như vậy thì rõ ràng là Hoa Kỳ thực hiện mục tiêu theo từng bước: Bước một, lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm vì Tổng Thống Diệm không đồng ý để Hoa Kỳ thiết lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa trong chiến lược Domino của Hoa Kỳ, nhằm tạo một hàng rào ngăn chận mặt Nam của Trung Hoa cộng sản. Tổng Thống Diệm đã nhìn thấy thế chính trị Việt Nam Cộng Hòa bị tổn thương trong bối cảnh chính trị quốc tế nếu có mặt quân bộ chiến Hoa Kỳ trong cuộc chiến này.


Sau khi lật đổ Tổng Thống Diệm, trao cờ vào tay Trung Tướng Dương Văn Minh và các vị Tướng thâm niên phất tạm. Bước hai, Hoa Kỳ “bật đèn xanh” cho Trung Tướng Trần thiện Khiêm, Trung Tướng Nguyễn Khánh, và Đại Tá Cao Văn Viên, giành lấy cờ từ tay các vị Tướng bị cáo buộc thân Pháp để phất tiếp. Chính sách của Hoa Kỳ, năm 1954 đẩy Pháp đến chỗ chia đôi đất nước Việt Nam, năm 1956 đã góp phần không nhỏ trong việc đẩy quân đội Liên Hiệp Pháp rút khỏi Việt Nam Cộng Hòa, và năm 1964 đẩy luôn các vị Tướng bị cho là thân Pháp ra khỏi chánh quyền lẫn quân đội. Thuận lý chớ?


Trở lại vấn đề nội tình Việt Nam. Trong hướng cố gắng tạo chiến công để có tiếng vang về khả năng lãnh đạo, Trung Tướng Nguyễn Khánh lệnh cho Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn II/Vùng II Chiến Thuật, tổ chức cuộc hành quân qui mô vào mật khu Đỗ Xá, nằm sâu trong vùng rừng già giáp ranh 2 tỉnh Kon Tum và Quảng Ngãi. Lực lượng hành quân vào tận sào huyệt Đỗ Xá, phá hủy nhiều vũ khí đạn dược và toàn bộ cơ sở tiếp vận (mà cộng sản gọi là hậu cần), nhưng không diệt được lực lượng của chúng. Tuy vậy, một phần lực lượng tham dự hành quân qui mô đó cùng với bộ chỉ huy hành quân của Trung Tướng Trí, được đưa về thủ đô Sài Gòn tham dự cuộc duyệt binh diễn binh tại công trường Lam Sơn, ngã tư đại lộ Nguyễn Huệ với đại lộ Lê Lợi. Nhiều quân nhân được thăng cấp mặt trận và ân thưởng huy chương, mà theo tôi là vượt trên mức thành tích đạt được. Sở dĩ có sự kiện như vậy vì Trung Tướng Nguyễn Khánh muốn tỏ ra chánh phủ do ông lãnh đạo có khả năng tạo được thành tích.






Hiến Chương Vũng Tàu.


Trung tuần tháng 07/1964, ban hành Sắc Lệnh thiết lập cấp Chuẩn Tướng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Những cấp bậc Tướng Lãnh từ trước đến lúc bấy giờ là Thiếu Tướng biểu tượng bằng 2 ngôi sao mỗi bên ve áo hay cầu vai trên áo, Trung Tướng 3 ngôi sao, Đại Tướng 4 ngôi sao, và Thống Tướng 5 ngôi sao. Cấp Chuẩn Tướng mới thiết lập được qui định là 1 ngôi sao mỗi bên ve áo hay cầu vai trên áo. Ngay sau đó là Sắc Lệnh thăng cấp Chuẩn Tướng cho 9 Đại Tá, và Trung Tướng Trần Thiện Khiêm được thăng cấp Đại Tướng, dĩ nhiên là do Trung Tướng Nguyễn Khánh nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực (cải danh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng)), với chức năng Quốc Trưởng, ký ban hành. Như vậy, có phải là Đại Tướng Khiêm thăng cấp nhanh quá chăng? Vì ngày 06/12/1962 ông từ Đại Tá thăng cấp Thiếu Tướng do công vụ, ngày 02/11/1963 thăng cấp Trung Tướng do tham gia trong nhóm lãnh đạo đảo chánh 01/11/1963, ngày 15/07/1964 thăng cấp Đại Tướng không do nguyên nhân nào cả, trừ khi Trung Tướng Khánh muốn vị Tổng Tư Lệnh phải là cấp bậc 4 sao như dự trù cấp bậc lý thuyết trong bảng cấp số Bộ Tổng Tư Lệnh. Nhưng liệu khi Trung Tướng Khánh quyết định thăng cấp Tướng cho một số vị là do nhu cầu công vụ, hay đằng sau quyết định đó còn có nhu cầu nào khác?


Sở dĩ tôi nêu câu hỏi đó cho tôi, vì sau ngày trao gắn cấp Tướng cho các vị vừa vinh thăng, thì Trung Tướng Khánh cho triệu tập Đại Hội Đồng Quân Lực tại ngôi biệt thự màu trắng ở Vũng Tàu, nơi mà cư dân Vũng Tàu thường gọi là “bạch dinh”, để thông qua bản “Hiến Chương” thay thế cho Hiến Ước Lâm Thời sau khi bãi bỏ Hiến Pháp đệ nhất Cộng Hòa. Đại Hội Đồng Quân Lực sau khi được bổ sung một số vị mới thăng cấp Tướng, nâng tổng số gần 40 thành viên. Và rồi Đại Hội Đồng Quân Lực thông qua bản Hiến Chương, đồng thời bầu Trung Tướng Nguyễn Khánh vào chức Chủ Tịch Việt Nam Cộng Hòa. Vậy, theo quí vị, có phải là Trung Tướng Khánh “mua chuộc” hay một ý nghĩa nào đó tương đương với mua chuộc các thành viên trong Đại Hội Đồng Quân Lực, nhất là đối với các vị vừa mang những ngôi sao mới toanh trên ve áo?


Tôi chưa kịp đọc bản Hiến Chương này, nhưng qua báo chí cũng như những bản tuyên bố của những tổ chức chính trị, cáo buộc Trung Tướng Khánh là độc tài khi soạn thảo Hiến Chương và điều khiễn Đại Hội Đồng Quân Lực bầu ông vào chức vụ Chủ Tịch với rất nhiều quyền hành. Thế là ngay sau ngày Hiến Chương được thông qua tại Vũng Tàu mà báo chí thường gọi là “Hiến Chương Vũng Tàu”, các tổ chức chính trị, tôn giáo, mà khởi đầu là sinh viên xuống đường mít tinh biểu tình, cáo buộc Trung Tướng Nguyễn Khánh là độc tài, đòi hủy bỏ Hiến Chương Vũng Tàu, và đòi Trung Tướng Nguyễn Khánh từ chức.


Một hôm, tôi mang hồ sơ của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đến Phủ Thủ Tướng ở số 7 đại lộ Thống Nhất, để trình tận tay Trung Tướng Thủ Tướng Nguyễn Khánh đúng lúc đoàn biểu tình vừa dừng trước cổng và hô to:


“Đả đảo Nguyễn Khánh! Đả đảo Nguyễn Khánh!”
Lúc bấy giờ, Trung Tướng Khánh từ trong Phủ Thủ Tướng bước ra dưới sự bảo vệ của hàng rào cận vệ võ trang chống biểu tình. Khi đoàn biểu tình trông thấy ông thì họ lại hô to:


“Đả đảo Nguyễn Khánh! Đả đảo Nguyễn Khánh!”
Lúc ấy tôi không thể tưởng tượng được là Trung Tướng Thủ Tướng Nguyễn Khánh cũng giơ tay lên và cũng hô to:


“Đả đảo Nguyễn Khánh! Đả đảo Nguyễn Khánh!”
Bỗng dưng đoàn biểu tình trở nên im lặng. Tôi nghĩ là đoàn biểu tình quá bất ngờ về hành động của Trung Tướng Khánh làm cho họ mất đối thủ, vì chính ông cũng đả đảo ông thì còn ai để đoàn biểu tình đả đảo nữa. Và rồi Trung Tướng Khánh chen vào đoàn biểu tình cười nói huyên thuyên chẳng khác một thành viên nhiệt tình trong đoàn biểu tình vậy. Phải công nhận phản ứng của Trung Tướng Khánh rất cao tay, chớ không phải ông quên ông là Trung Tướng Thủ Tướng Nguyễn Khánh đâu quí vị à!


Cuối cùng Trung Tướng Khánh tuyên bố hủy bỏ Hiến Chương mới công bố mấy ngày trước đó. Thế là thủ đoạn chính trị của ông đối với Đại Hội Đồng Quân Lực quá dễ, nhưng với lực lượng chính trị và tôn giáo thì ngược lại. Một bên có quân có súng nhưng phục tùng, một bên khác không súng nhưng lại có một sức mạnh nếu không nói là phi thường thì sức mạnh đó cũng đủ đập tan chiếc ghế Chủ Tịch Việt Nam Cộng Hòa của Trung Tướng Nguyễn Khánh.


Đúng là quân nhân phải chấp hành kỷ luật một cách triệt để, nhưng đó là nhiệm vụ quân sự thuần túy, còn trường hợp thông qua bản Hiến Chương tại Vũng Tàu thì không thể coi là nhiệm vụ quân sự mà là nhiệm vụ chính trị, và cao hơn nữa là nhiệm vụ lãnh đạo quốc gia. Vậy, quyền quyết định thông qua hay không thông qua bản Hiến Chương, các vị thành viên Đại Hội Đồng Quân Lực phải tự mình quyết định lá phiếu của mình chớ! Nhưng rồi bản Hiến Chương đã thông qua dễ dàng, điều đó có nghĩa là các vị đã đồng ý nội dung cho dù từ trong thâm tâm quí vị rất có thể là không phải như vậy. Nếu đúng như vậy thì quí vị đã không thực hiện được vai trò thành viên của tập thể lãnh đạo quốc gia rồi còn gì, và quí vị phải chịu chung lỗi lầm sai trái khi đồng tình với Trung Tướng Khánh trong nội dung bản Hiến Chương bị cáo buộc là độc tài.


Hội Đồng Quân Lực thu hẹp vội vã họp tại Trung Tâm Hành Quân/Bộ Tổng Tư Lệnh để tìm giải pháp cho sự khủng hoảng, nhưng suốt ngày vẫn không thành công. Cuối cùng, giải pháp lãnh đạo bởi ba người mà báo chí gọi là “tam đầu chế”, gồm: Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Dương Văn Minh, và Trung Tướng Nguyễn Khánh. Rốt cuộc cũng chỉ có Trung Tướng Khánh nắm quyền, vì Đại Tướng Khiêm với Trung Tướng Minh, hoặc không đủ thủ đoạn đối phó với Trung Tướng Khánh, hoặc không muốn dấn thân vào chính trị. Và dù muốn hay không muốn, hai vị cũng phải chịu chung trách nhiệm về lỗi lầm của Trung Tướng Khánh trong giải pháp “tam đầu chế”.


Nhưng vấn đề không dừng ở đây, vì Trung Tướng Khánh tự thấy chiếc ghế quyền lực của ông thực sự lung lay, thế là Trung Tướng Khánh nhắm thẳng vào Đại Tướng Trần Thiện Khiêm mà ông cho là nguyên nhân, là người đứng đằng sau mọi hình thức chống đối ông. Tôi nhận định như vậy vì có một người không có tên trong tổ chức quân đội, trong tổ chức hành chánh, hay bất cứ tổ chức hoặc cơ quan nào của chánh phủ, nhưng lại là người có thế lực chỉ vì ông là em vợ của Trung Tướng Nguyễn Khánh, tên của ông là Phạm Quang Tước. Những tháng trước đó, ông Tước thường đến văn phòng tôi với vài món lặt vặt tặng tôi. Mỗi khi gặp tôi, ông nói chuyện huyên thuyên về mọi chuyện, trong khi tôi nghe rất ít vì luôn bận việc của văn phòng Bộ Quốc Phòng và văn phòng Bộ Tổng Tư Lệnh. Nhưng từ sau ngày Trung Tướng Khánh buộc phải thỏa mãn yêu sách của giới chính trị hủy bỏ Hiến Chương, cũng là hủy bỏ chức Chủ Tịch mà ông đã được bầu, thì ông Tước cũng lạnh nhạt với tôi. Rồi từ lạnh nhạt đến xem tôi là kẻ thù cũng chỉ vài bước thôi, và vài bước đó đã qua khi ông Tước nói với tôi:


“Đại Tướng của anh phải cẩn thận đó, nếu cứ lấn tới nữa thì tánh mạng không an toàn đâu”. Nói xong là ông đi ngay mà chẳng cần chào hỏi như trước nữa.


Đại Tướng Khiêm rất buồn Trung Tướng Khánh, nhưng vì ông ít nói nên tôi không nghe ông phân bua, cũng chẳng buồn giải thích với những người chung quanh. Hoặc có thể là Đại Tướng Khiêm xem thường Trung Tướng Khánh mà không cần thanh minh chăng? Nếu đúng vậy, thì Đại Tướng Khiêm áp dụng câu “im lặng cũng là khinh bỉ”.



Chuyện 10 kí lô vàng thoi.


Sau ngày Chỉnh Lý 30/01/1964 -cũng là hay là đảo chánh- vài tuần, Trung Tướng Khiêm (cấp bậc lúc bấy giờ) gọi tôi vào văn phòng:

“Chú xuống nhà Trung Tướng Minh (Dương Văn) nhận vàng đem về cất, rồi liên lạc xem cơ quan nào giữ thì giao cho người ta”.


“Thưa Trung Tướng (cấp bậc lúc bấy giờ), tôi chưa rõ công tác này. Xin Trung Tướng cho biết tôi sẽ trình như thế nào với Trung Tướng Minh?”


“Chú cứ nói là tôi bảo chú xuống nhận vàng là được rồi”.


Sở dĩ phải hỏi lại là vì có bao giờ tôi nhận cái lệnh tương tự như vậy đâu, bây giờ nghe nói nhận vàng một cách quá nhẹ nhàng nên hỏi để biết mình không nghe lầm. Tôi đến tư dinh Trung Tướng Dương Văn Minh mà nơi đây báo chí thường gọi là "dinh hoa lan". Chờ một lúc, sĩ quan tùy viên đưa tôi vào văn phòng Trung Tướng Minh. Lại chờ một lúc nữa. Với thái độ vui vẻ, vừa bước vào phòng là Trung Tướng Minh đưa tôi cái túi xách và nói luôn:


“Anh mở ra xem và đếm lại coi có đủ 10 kí không, rồi mang về đưa Trung Tướng Khiêm”.


Đó là cái túi xách màu xanh, cũ mèm, bên ngoài có chữ "Air Việt Nam". Đếm xong:


“Thưa Trung Tướng, trong túi này có 10 thoi nhưng không biết có phải là 10 kí hay không thì tôi không rõ”.


“Anh cứ mang về trình Trung Tướng Khiêm chớ có cân đong đo đếm gì đâu mà anh sợ”.


“Vâng. Chào Trung Tướng”.


Vừa vào văn phòng Trung Tướng Khiêm là tôi mở túi ra để trình ông xem, nhưng ông không xem mà nói:


“Chú nhận rồi thì cất trong tủ sắt đi, cơ quan nào nhận giữ thì chú giao cho người ta”.


“Vâng”.


Theo tôi biết, số vàng này do Trung Tướng Đỗ Cao Trí -lúc giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I- tịch thu của ông Ngô Đình Cẩn ở Huế, đem vào Sài Gòn giao cho Trung Tướng Minh. Bây giờ Trung Tướng Minh giao lại Trung Tướng Khiêm. Xin nhắc lại là sau cuộc đảo chánh lật đổ và giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, và ông Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung Ngô Đình Cẩn (bị tòa kêu án tử hình và thi hành bản án sau đó chẳng bao lâu), Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập "Ủy Ban Tịch Thu Tài Sản Gia Đình Họ Ngô", do Trung Tướng Lê Văn Kim giữ chức Chủ Tịch. Đã có Ủy Ban đó, nhưng không biết tại sao số vàng này lại "vòng vo lưu lạc" như vậy nữa, kể cả mấy tháng nay nó nằm trong tủ sắt ngay sau lưng tôi.


Khi mối giao hảo giữa Trung Tướng Khánh với Đại Tướng Khiêm căng thẳng, Đại Tướng Khiêm hỏi tôi:


“Chú còn giữ mấy kí vàng đó không?”


“Dạ còn thưa Đại Tướng”.


“Bao nhiêu vậy?”


“Dạ 10 kí vàng thoi”.


“Chú liên lạc xem cơ quan nào nhận thì giao cho người ta, giữ hoài mất công lắm”.


“Vâng. Ngày mai tôi xuống Ngân Hàng Quốc Gia hỏi xem nơi đây có biết không, thưa Đại Tướng”.


Tôi đến Ngân Hàng Quốc Gia, mới biết đây là cơ quan nhận số tài sản đã tịch thu của gia đình anh em Tổng Thống Ngô đình Diệm do Ủy Ban Tịch Thu Tài Sản Gia Đình Họ Ngô bàn giao. Sau khi được ông Giám Đốc giải thích thủ tục giao nhận, tôi hẹn hôm sau mang đến.


Sáng hôm sau, tôi lững thững xách cái túi Air Việt Nam vào. Khi ông Giám Đốc thấy cái túi cứ tưởng tôi đi ngang chợt ghé chớ không nghĩ là 10 kí lô vàng bên trong, vì cái túi quá cũ chẳng ai thèm lượm nếu chợt thấy nó bên đường. Khi biết vàng bên trong, ông Giám Đốc quá sức ngạc nhiên:


“Thiếu Tá đi với ai?”

“Một mình tôi thôi mà”.

“Sao Thiếu Tá liều mạng quá vậy. Dễ chết lắm đó!”


“Đi một mình đâu có ai để ý mà chết. Nếu bên cạnh tôi có thêm Quân Cảnh hay nhân viên nào đó đi theo thì kẻ gian cho là tôi mang thứ gì quí giá bên trong nó sẽ theo chân ngay. Lúc ấy mới là lúc dễ chết đó ông Giám Đốc. Nói cho vui nghe, chương trình của trường quân sự cao cấp chúng tôi có dạy về "9 nguyên tắc chiến tranh", trong đó có nguyên tắc "bất ngờ" mà chúng tôi không bao giờ quên ứng dụng nó, như trường hợp này chẳng hạn”.


Chúng tôi cười xòa và bắt tay vào việc. Thủ tục giấy tờ xong, ông Giám Đốc hướng dẫn tôi xuống tầng hầm của Ngân Hàng Quốc Gia. Ôi chao! Mặt bằng của tầng hầm này có lẽ rộng hơn mặt bằng của tầng trệt thì phải, và tôi nghĩ là nó nằm ngay dưới mặt đường "Bến Chương Dương" nữa đó. Đi một vòng rộng lớn, xem các bà các cô đếm bạc. Nhân viên đếm bạc toàn mặc áo blouse trắng không túi. Đến chỗ cân trọng lượng:


“Số vàng này cân hả ông Giám Đốc?”


“Cân chớ. Cân cho biết bao nhiêu để ghi vào biên bản thôi Thiếu Tá”.


“Trời ơi! Hồi tôi nhận từ tay Trung Tướng Minh (Dương Văn Minh) tôi chỉ đếm đủ 10 thoi là mang về trình "sếp" chớ có cân lượng gì đâu”.


Tôi được giải thích là cái cân này rất nhạy và rất chính xác. Một hột cát bé xíu là cân hoạt động rồi. Lần lượt cân từng thoi một, bù qua sớt lại vừa đủ 10 kí. Xong, đến trước một cái tủ thật lớn, hai nhân viên ngân hàng cùng tra hai chìa khóa vào và cùng mở một lúc. Lại cùng mở thêm cánh cửa bên trong nữa, một cái thúng lớn chứa đầy vàng lá óng ánh, ông Giám Đốc nói:


“Đây là 42 kí lô vàng lá do Ủy Ban Tịch Thu Tài Sản Gia Đình Họ Ngô bàn giao tháng trước đó Thiếu Tá”.


Thế là 10 thoi vàng này đổ vào cái thúng đó luôn.

“Như vậy là xong rồi hả ông Giám Đốc?”

“Xong rồi Thiếu Tá”.


Câu chuyện 10 kí lô vàng thoi đến đây là hết. Xin mời trở lại đoạn cuối của cuộc đảo chánh không đổ máu ngày 30/01/1964.






Đoạn kết.


Vậy là Trung Tướng Dương Văn Minh, với chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng hành sử chức năng Quốc Trưởng từ 02/11/1963 đến 29/01/1964, đó là thời gian quá ngắn để vị lãnh đạo thể hiện khả năng và bản lãnh của mình, nhưng với câu mà ông nói với những vị Tướng Lãnh trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng tại tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu vào chiều ngày 02/11/1963, tức ngay sau khi lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm thành công:


“Các “toa” còn cần gì “moi” không để “moi” còn đi đánh tennis?”


Quả thật là ông thiếu trách nhiệm của người lãnh đạo quốc gia ngay sau cuộc đảo chánh với biết bao vấn đề đặt ra, chỉ riêng phần ổn định nhân sự trong các tổ chức trung ương sau cuộc khủng hoảng chính trị đã là vấn đề quan trọng hàng đầu, vì nhân sự bao giờ cũng chiếm đến 50% trong mọi thành công hay thất bại. Thêm nữa, dân chúng thì hoang mang trong khi cộng sản lợi dụng tình hình xáo trộn trong nội bộ để gia tăng áp lực quân sự tại nhiều nơi. Ấy vậy mà Trung Tướng Minh tỏ ra nhàn nhã, chừng như ông giao khoán công việc quốc gia cho Chánh Phủ Nguyễn Ngọc Thơ và Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội, để ông đi đánh tennis thì phải!


Lẽ dĩ nhiên không nên căn cứ vào mỗi câu nói trên mà đưa ra nhận xét về vị lãnh đạo quốc gia, nhưng trong 3 tháng cầm cờ lãnh đạo trong tay, rõ ràng là Trung Tướng Dương Văn Minh đã không thể hiện bất cứ khả năng hay bản lãnh của vị Tướng lãnh đạo quốc gia. Chẳng những thế, cả Chánh Phủ cũng lúng túng trong chính sách Ấp Chiến Lược thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm để lại.


Trên cương vị Tướng Lãnh trong quân đội, quân đội đòi hỏi phải có một kiến thức quân sự vững chắc để biết đánh và biết thắng địch, phải có một nghệ thuật lãnh đạo chỉ huy để quân sĩ tin tưởng, tôn trọng, và nhiệt tình thi hành nhiệm vụ. Nhưng khi vị Tướng trên cương vị lãnh đạo quốc gia, vị Tướng đó cần có thêm bản lãnh và thủ đoạn chính trị để lãnh đạo toàn dân, để đương đầu với kẻ thù đang xâm lăng đất nước, để đương đầu với những thử thách quốc tế, nhất là với các quốc gia Đồng Minh, trong trách nhiệm bảo vệ tổ quốc và phát triển dân giàu nước mạnh.


Đồng ý rằng, Trung Tướng Dương Văn Minh rất được lòng của nhiều thành phần trong xã hội, nhưng tôi nghĩ, cảm tình này là do bản tính hiền hòa vốn có của ông, chớ không do tài năng bản lãnh của vị lãnh đạo quốc gia. Nhưng chẳng lẽ vị lãnh đạo quốc gia chỉ cần trang bị có ngần ấy thôi sao?


Vậy, Trung Tướng Dương Văn Minh, theo quí vị, là vị Tướng thích ứng đến mức nào trong vai trò lãnh đạo quốc gia?


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

CHƯƠNG III.

HỒI KÝ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA: BIỂU DƯƠNG LỰC LƯỢNG NGÀY 13 THÁNG 9 NĂM 1964






1 2 3 4 5 6 7 8 9 10


Sự "mâu thuẫn một chiều" từ phía Trung Tướng Nguyễn Khánh đối với Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, như cái hố ngày càng rộng và sâu thêm, cơ hồ khó mà hàn gắn lại nếu không nói là không thể hàn gắn được. Hai vị không có những cuộc tiếp xúc trực tiếp nhau nữa, trong khi những hình thức chống đối Trung Tướng Khánh từ các tổ chức chính trị không ngưng nghỉ, càng làm cho Trung Tướng Khánh tức tối thêm và mục tiêu chính mà ông cần triệt hạ vẫn là Đại Tướng Khiêm. Rất có thể những sự kiện chính trị nội tình Việt Nam Cộng Hòa xảy ra trong tháng 07 và 08/1964, chưa đủ để ông thẳng tay với Đại Tướng Khiêm, vì dù sao Đại Tướng Khiêm cũng là người chính yếu đưa ông đến tột đỉnh vinh quang hiện nay.


Và rồi Trung Tướng Nguyễn Khánh có cái cớ mà tôi nghĩ là nguyên nhân của Trung Tướng Khánh, để ông xuống tay với người bạn đồng khóa và rất thân của ông. Và nếu nhìn theo góc cạnh tình cảm, Đại Tướng Khiêm cũng là ân nhân của Trung Tướng Khánh nữa.


Ngày 13/09/1964, 07 giờ sáng, tôi đưa Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và gia đình gồm vợ và hai con của ông, cùng với Đại Úy Nguyễn Trọng Hồng -sĩ quan tùy viên- lên phi cơ đi Đà Lạt, và dự trù trở về Sài Gòn vào buổi chiều cùng ngày. Đại Úy Hồng thay thế Đại Úy Nguyễn Hữu Có đã thuyên chuyển sang Lữ Đoàn Nhẩy Dù, làm sĩ quan tùy viên cho Thiếu Tướng Cao Văn Viên. Phi cơ rời phi trường Tân Sơn Nhất, và khi mất hút trong những đám mây lang thang trên không phận Gia Định, tôi lên xe quay về nhà với dự định đưa gia đình dạo phố vì lâu lắm mới có một ngày chủ nhật rảnh rang như hôm nay.


Nhưng không. Vì khi về đến nhà là nghe tiếng súng ròn rã ở hướng Bộ Tổng Tư Lệnh, và hướng Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Tôi chạy sang Bộ Tổng Tư Lệnh. Đang mở cửa văn phòng thì gặp ngay Đại Tá Huỳnh Văn Tồn, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh (đồn trú ở Mỹ Tho) cũng vừa đến. Với nụ cười cố hữu trước khi vào chuyện, ông hỏi:


“Đại Tướng đâu rồi anh Hoa?
“Đại Tướng và gia đình đi Đà Lạt, nhưng khoảng 8 giờ mới đến trên đó. Có chuyện gì vậy Đại Tá?


“Chúng tôi "Biểu Dương Lực Lượng" để cảnh cáo ông Khánh. Có cách nào anh liên lạc được với Đại Tướng sớm hơn không?


“Chỉ có cách là nhờ hệ thống Bộ Chỉ Huy Không Chiến của Không Quân thì may ra, nhưng tôi nghĩ là mình không nên để bên đó biết cuộc nói chuyện như vậy, thưa Đại Tá. Với lại khoảng 20 phút nữa thì mình liên lạc được thôi mà”.

Ngay lúc đó điện thoại reo:
“Thiếu Tá Hoa tôi nghe”.

“Trung Tướng Khánh đây. Đại Tướng Khiêm đâu rồi?


“Thưa Trung Tướng, Đại Tướng Khiêm đang trên không trình Sài Gòn-Đà Lạt. Trung Tướng có cần liên lạc ngay bây giờ không, thưa Trung Tướng?


“Khi đến nơi, anh nói Đại Tướng Khiêm điện thoại ngay cho tôi”.

“Vâng. Nhưng điện thoại Trung Tướng ở tư dinh hay ở Phủ Thủ Tướng, thưa Trung Tướng?


“Phủ Thủ Tướng”.

Tôi liền gọi lên Đà Lạt, dặn trên đó trình với Đại Tướng Khiêm liên lạc ngay với Trung Tướng Khánh khi đến nơi. Vừa gác ống nói vừa xoay qua Đại Tá Tồn:


“Trung Tướng Khánh cần nói chuyện với Đại Tướng đó Đại Tá”.


“Ổng ở đâu vậy?


“Dạ ở Phủ Thủ Tướng. Vị lãnh đạo hôm nay là ai vậy Đại Tá?


“Trung Tướng Đức với tôi”.


Trung Tướng Dương Văn Đức là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Vùng IV Chiến Thuật. Bộ Tư Lệnh đồn trú tại Cần Thơ.
Đại Tướng Trần Thiện Khiêm bị quản thúc.

Vài phút sau, điện thoại reo:


“Thiếu Tá Hoa tôi nghe”.

“Hồng đây anh. Anh gọi Đại Tướng có việc gì vậy?


“Sài Gòn đang có biến động do Trung Tướng Đức với Đại Tá Tồn lãnh đạo. Trung Tướng Khánh dặn Đại Tướng khi đến Đà Lạt là gọi về ổng ở Phủ Thủ Tướng đó. Anh trình Đại Tướng ngay đi. Có tin gì thì cho tôi biết với nghe”.


Mấy phút sau đó, Đại Úy Hồng gọi tôi:


“Trung Tướng Khánh bảo Đại Tướng ở lại Đà Lạt cho đến khi nào ổng cho về mới được về. Đại Tướng bảo anh đến nhà lấy một ít áo quần và đồ dùng cần thiết, cho phi cơ mang lên Đà Lạt ngay hôm nay. Nhờ anh ghé nhà tôi lấy túi áo quần gởi lên giùm tôi luôn. Vợ tôi đang chuẩn bị đó. (Trong những năm 1970-1975, Đại Tướng Khiêm giữ chức Thủ Tướng, Đại Tá Hồng là chánh văn phòng. Hiện anh định cư tại Houston).


“Chiếc (phi cơ) C47 còn trên đó không?


“Sau khi nói chuyện với Trung Tướng Khánh, Đại Tướng cho phi hành đoàn lái về Sài Gòn rồi”.


“Vậy tôi sẽ yêu cầu chiếc đó trở lên Đà Lạt ngay chiều hoặc tối nay. Nhớ, có tin gì thêm thì gọi tôi ngay nhé. Ngược lại, tôi cũng gọi anh khi có tin tức mới nhất”.


Cuộc "Biểu Dương Lực Lượng" của Trung Tướng Dương Văn Đức đến buổi trưa là xẹp xuống sau mấy tiếng đồng hồ ồn ào, tự lui quân về Mỹ Tho và Cần Thơ. Tình hình thủ đô cũng như những vùng lân cận trở lại yên tỉnh. Nhưng đó chỉ là bề mặt thôi.


Và đây là lời của Đại Tá Tạ Thành Long, thuật tóm tắt cho chúng tôi nghe khi cùng bị giam tại trại tập trung tù chính trị ở Nam Hà (miền bắc) năm 1981, về cuộc "Biểu Dương Lực Lượng" nói trên. Lúc bấy giờ anh Long là Trung Tá Tham Mưu Phó hành quân Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV tại Cần Thơ:


"Giữa đêm 12 rạng 13/09/1964, Trung Tướng Đức ra lệnh tổ chức bộ chỉ huy hành quân và cấp tốc di chuyển sang Sư Đoàn 7 Bộ Binh ở Mỹ Tho, và chuyển quân lên Sài Gòn vào sáng sớm. Làm việc suốt đêm và di chuyển trên chặng đường Cần Thơ-Mỹ Tho trong đêm tối mà không được bảo vệ an ninh lộ trình, một cuộc vận chuyển rất nguy hiểm trong tình hình lúc bấy giờ, nhưng cũng may là đến nơi bình yên. Sau khi phối hợp với Sư Đoàn 7 Bộ Binh, tất cả cùng chuyển quân lên Sài Gòn".


"Theo kế hoạch, các đơn vị phải dừng lại ở Bình Chánh (một quận của tỉnh Gia Định ven ngoại ô thủ đô), chỉ có Trung Tướng Đức và các sĩ quan cần thiết mới được vào Sài Gòn. Nhưng Trung Tướng Đức cho lực lượng tiến đến Phú Lâm, ngưỡng cửa phía tây của thủ đô. Trung Tướng Đức giao cho tôi (tức Trung Tá Long) đến tòa đại sứ Hoa Kỳ liên lạc với bộ phận tình báo ở đó xem tình hình sắp tới ra sao. Đến nơi, chờ một lúc mới tiếp xúc được với nhân viên tình báo. Ông ta lên tiếng:


“Các ông đã không thực hiện đúng lời hứa. Tại sao các ông đưa lực lượng vào Sài Gòn? Hành động của các ông gây khó khăn cho chúng tôi và cho cả các ông nữa. Ông chờ tôi liên lạc về Hoa Kỳ nhận lệnh”.


“Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau đó: Hoa Thịnh Đốn quyết định các ông phải rút quân về vị trí ngay, nếu không, các ông hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc biến động hôm nay.


"Tôi quay về Bộ Tổng Tư Lệnh trình cho Trung Tướng Đức về kết quả cuộc tiếp xúc đó thì ông cho lệnh rút quân. Và chuyện kể chỉ có thế".


Cuộc Biểu Dương Lực Lượng" ngày 13/09/1964, chỉ diễn ra trong khoảng mười tiếng đồng hồ thì lặng lẽ rút lui. Ngay sau đó, Trung Tướng Đức bị bắt tại Cần Thơ đưa lên phi cơ về Sài Gòn, ông đã nóng giận to tiếng khoa tay múa chân tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Quân Cảnh và An Ninh Quân Đội "dìu" lên xe đưa về cơ quan an ninh.


Chắc là Hoa Kỳ khó chịu về cái hơi hám "độc tài" của Trung Tướng Khánh nhưng chưa đến mức đảo chánh lật đổ, nên "nhờ" Trung Tướng Đức ra oai cảnh cáo dưới tên gọi "Biểu Dương Lực Lượng", và lực lượng cảnh cáo hăng quá nên đưa quân áp sát thủ đô suýt nữa là chiếm luôn các cơ sở trọng yếu như các cuộc đảo chánh trước đây đã làm. Thế là bộ phận tình báo tại tòa đại sứ Hoa Kỳ giáng cho một lệnh xuất phát từ Hoa Thịnh Đốn, và lực lượng biểu dương vội vàng rút lui có phần mất trật tự một chút. Rõ ràng là Mỹ chưa bật đèn xanh hoặc đèn xanh giới hạn thì cái ghế Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực không phải dễ.


Đại Tướng Khiêm bị cách một chức.


Xin mời trở lại với Đại Tướng Trần Thiện Khiêm. Sau một tuần bị quản thúc trong một dinh thự tại Đà Lạt, ông và gia đình được Trung Tướng Khánh cho về Sài Gòn. Những ngày tiếp theo, Đại Tướng Khiêm rất buồn và không vào văn phòng làm việc. Buổi sáng và chiều, tôi mang hồ sơ về nhà trình ông giải quyết.


Trung Tướng Khánh ra lệnh Đại Tướng Khiêm bàn giao chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng cho ông, và tôi thì bàn giao hồ sơ của văn phòng Bộ Quốc Phòng cho Trung Tá Nguyễn Khắc Bình (về sau, Trung Tá Bình là Chuẩn Tướng, Đặc Uỷ Trưởng Trung Ương Tình Báo, và Tư Lệnh Cảnh Sát). Trong hồ sơ này có cả hồ sơ 10 kí lô vàng thoi mà tôi nói ở phần cuối của cuộc Chỉnh Lý ngày 30/01/1964.


Như vậy, Trung Tướng Khánh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực, Thủ Tướng, nay kiêm thêm chức Tổng Trưởng Quốc Phòng. Một mình ông nắm giữ các chức vụ tối quan trọng giống như trường hợp Tổng Thống Ngô Đình Diệm trước ngày bị lật đổ và bị giết chết vậy.


Vào ngày cuối tháng 09/1964, Trung Tướng Khánh điện thoại tôi:
“Anh trình với Đại Tướng Khiêm, 12 giờ trưa nay tôi đến ăn cơm tại nhà Đại Tướng Khiêm”.
“Xin Trung Tướng vui lòng điện thoại với Đại Tướng Khiêm đang có mặt tại nhà, thưa Trung Tướng”.
“Không. Anh về trình đi”. Ra lệnh xong là ông gác ống nói.

Thật khó nghĩ cho tôi, vì hai gia đình đang hờn giận nhau nếu không nói là Trung Tướng Khánh đang "ghìm" Đại Tướng Khiêm, và trường hợp này chẳng khác nào Trung Tướng Khánh lôi tôi vào thế trận giống như tôi đang trở thành thành viên trong nhóm sĩ quan dưới quyền ông vậy.

Tôi đến tư dinh Đại Tướng Khiêm, trình xong, Đại Tướng Khiêm im lặng trong khi bà Khiêm tức giận:


“Tại sao ổng không điện thoại đến đây mà lại nói chuyện với chú?


“Bà phải hỏi ông Khánh sao lại hỏi chú Hoa? Thôi, bà lo cơm cho kịp”.


Đại Tướng Khiêm đỡ lời cho tôi. Nếu Đại Tướng Khiêm không đỡ lời thì tôi chỉ biết trả lời là "Tôi cũng không biết tại sao nữa".


Phần tôi, mỗi khi có khách đến nhà Đại Tướng Khiêm dùng cơm, tôi lo sắp xếp bàn ăn, tổ chức an ninh, và những gì cần thiết liên quan đến bữa ăn đó. Hôm nay cũng vậy, cộng thêm sự thận trọng cần thiết. Sau khi chỉ định công việc và cách thức xếp bàn ăn cho mấy anh làm việc tại nhà Đại Tướng Khiêm, tôi về văn phòng.


Mưu sát Trung Tướng Khánh.


Khoảng nửa giờ trước giờ ăn, tôi trở lại tư dinh Đại Tướng Khiêm. Như thường lệ, kiểm soát công tác chuẩn bị trong phòng ăn, tôi sang bên cạnh kiểm soát các nhân viên an ninh để biết chắc là công tác đang diễn tiến như dự định. Chợt thấy Trung Tá Luông đi tới đi lui mấy lần, điều mà chưa bao giờ xảy ra vì không liên quan gì đến chức vụ Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tư Lệnh của ông cả.


Trung Tá Nguyễn Văn Luông, năm 1958 là Thiếu Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 35 Bộ Binh thuộc Sư Đoàn 12 Khinh Chiến, đồn trú tại Kon Tum. Lúc ấy tôi là Trung Úy, Trưởng ban 3 kiêm Ban 5 bộ chỉ huy Trung Đoàn này. Trong cuộc đảo chánh 01/11/1963, ông là Thiếu Tá Chỉ Huy Phó Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu (lúc chưa cải danh Bộ Tổng Tư Lệnh), ngay sau đó thăng cấp Trung Tá và giữ chức Chỉ Huy Trưởng thay thế Trung Tá Lê Soạn về hưu.


Tôi đến cạnh ông:


“Ô! Trung Tá. Trung Tá có gì cần gặp Đại Tướng hả?

“Không. Không có gì”.

“Không có gì sao Trung Tá đi qua đi lại với vẻ suy tư vậy?

Trung Tá Luông kề tai tôi với giọng ngập ngừng:

“Hôm nay tụi tôi ám sát ông Khánh”.

Tôi rất kinh ngạc về câu nói của ông: “Bằng cách nào?


Ngưng một lúc, ông tiếp:

“Vào bàn ăn độ 5 phút, ông Anh từ trên lầu gọi điện thoại xuống đây (vừa nói ông vừa chỉ điện thoại trên bàn cạnh cửa, sát phòng ăn), lúc đó tôi sang mời ông Khánh qua nghe điện thoại và nói là của Phủ Thủ Tướng gọi. Khi ông ta vừa qua khỏi khung cửa thì anh Yểm câu cổ và đâm chết”.


“Đại Tướng có biết việc này không Trung Tá?


“Không”.


“Vậy là không được. Tôi muốn Trung Tá hủy bỏ dự định này, nếu không, tôi sẽ trình Đại Tướng ngay. Tôi chắc rằng, Đại Tướng không bao giờ đồng ý về một hành động như vậy đâu. Xin Trung Tá hãy hình dung việc gì xảy ra tiếp đó, vì cả tháng nay mỗi khi Trung Tướng Khánh đến đây là y như rằng, tiểu đội cận vệ của Trung Tướng Khánh với vũ khí cầm tay gần như bao quanh nhà này. Chỉ cần tiếng động lạ nào đó trong phòng ăn, là tiểu đội đó nhào vô tức thì, và liệu sự kiện xảy ra có phải là những xác chết -kể cả chúng mình- nằm la liệt ở đây không? Lịch sử sẽ lưu lại những gì cho mai sau, nếu không phải là "tiếng xấu muôn đời" chỉ vì tranh giành quyền lợi mà giết chết lẫn nhau! Hủy bỏ đi Trung Tá”


Trầm ngâm một lúc: “Anh chờ tôi một chút”.


Trung Tá Luông lên lầu và khoảng 5 phút sau, ông lại kề tai tôi với giọng tự nhiên: “Được rồi. Ông Anh đồng ý hủy bỏ việc đó”.


Tư dinh Đại Tướng Khiêm gồm 3 căn nhà số 1, số 2, và số 3 có cửa thông nhau, trong dãy số 4 (của nhiều dãy) trong cư xá trại Trần Hưng Đạo, tức khuôn viên Bộ Tổng Tư Lệnh. Nhà 2 tầng, vách gạch, lầu đúc bê tông, kiến trúc mang dáng vấp Châu Âu, vì do quân đội Pháp xây dựng dùng làm bản doanh bộ tư lệnh quân viễn chinh của họ. Phòng ăn ở căn số 1, ngay cạnh phòng ăn có cửa thông qua căn số 2, nơi có cái bàn dành cho sĩ quan tùy viên trực tại nhà. Trên bàn có máy điện thoại và những vật dụng cần thiết của một văn phòng thu hẹp. Tầng trệt căn này không có người ở. Căn số 3 là gia đình của vợ chồng người em gái của bà Khiêm ở. Em rể của bà là luật sư Bùi Văn Anh, chính là người mà Trung Tá Luông nhận chỉ thị sau khi tôi phản đối vụ mưu sát nói trên. Tôi không trực tiếp nghe luật sư Anh nói về vụ này, mà những gì tôi ghi lại ở đây là do Trung Tá Luông nói với tôi. (Đầu năm 1975, Trung Tá Luông là Đại Tá, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Khu 3 tại Biên Hòa, và anh Lưu Yểm là Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Biên Hòa)


Trước 12 giờ một chút, Trung Tướng Khánh đến cùng với 2 xe Jeep chở đầy nhân viên cận vệ với vũ khí trong tay. Vẫn như hành động trong thời gian gần đây, toán cận vệ có mặt quanh nhà nhưng không anh nào ngồi hay đứng yên một chổ mà luân chuyển nhau từ vị trí này đến vị trí khác, miễn sao các anh ấy trông thấy được bàn ăn bên trong.


Vì là bữa ăn rất căng thẳng nên tôi không ra vào như lệ thường. Khoảng 10 phút đầu tiên, không khí trong phòng ăn thật yên lặng nếu có đôi mắt bàng quan nào đó nhìn vào. Nhưng, sau đó, lời qua tiếng lại tuy không đến nỗi ồn ào nhưng rõ ràng là bữa ăn đầy sóng gió. Lời lẽ gay gắt qua lại giữa bà Khiêm với Trung Tướng Khánh, cho tôi nhận xét "không cân sức" về phía bà Khiêm trong khi Đại Tướng Khiêm đăm chiêu suy nghĩ hơn là tranh cãi, vì Trung Tướng Khánh đang có trong tay tất cả quyền lực quốc gia, đâu dễ dàng bị thuyết phục cho dù ông bà Khiêm là bạn thân với gia đình ông. Chữ "bạn thân" chẳng qua là thuở chưa có quyền lực đấy thôi, chớ bây giờ thì khác. Khác xa lắm rồi!


Đại Tướng Trần Thiện Khiêm lưu vong


Khi Trung Tướng Khánh rời phòng ăn với thái độ gần như bình thường, cứ như không có chuyện gì xảy ra cả. Đó là cái lạnh lùng của người có quyền lực đối với "kẻ thù"! Mà liệu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm có phải là kẻ thù của Trung Tướng Nguyễn Khánh hay không? Chính trị, biết đâu mà lường phải không quí vị? Tôi vào phòng ăn:


“Thưa Đại Tướng, điều gì xảy ra mà Trung Tướng Khánh to tiếng vậy Đại Tướng?

“Ông Khánh "muốn" (hàm chứa ý nghĩa một mệnh lệnh) tôi phải ra ngoại quốc, nếu không thì tánh mạng tôi khó an toàn”.

“Đại Tướng nghĩ sao?

“Tôi quyết định đi. Chú lo thủ tục cho tôi và gia đình tôi càng sớm càng tốt. Chú với chú Châu, nếu được thì cùng đi với gia đình tôi”.


“Tôi sẽ theo Đại Tướng. Còn anh Châu thì tôi sẽ hỏi ý kiến anh ấy và trình Đại Tướng sau, thưa Đại Tướng”.


"Chú Châu" mà Đại Tướng Khiêm nói ở đây là Đại Úy Đặng Văn Châu. Năm 1963, anh là chánh văn phòng tỉnh Vĩnh Long, lúc ấy Trung Tá Lê Văn Phước là Tỉnh Trưởng. Sau cuộc đảo chánh 01/11/1963, Trung Tá Phước bị cách chức và anh Châu cũng mất chức luôn. Sau cuộc đảo chánh 30/01/1964, Đại Tướng Khiêm bảo tôi liên lạc phòng Tổng Quản Trị/Bộ Tổng Tư Lệnh thuyên chuyển anh Châu về văn phòng chúng tôi để thông dịch Anh ngữ cho Đại Tướng Khiêm khi có phóng viên báo chí ngoại quốc phỏng vấn. Đại Tướng Khiêm nói tiếng Anh rất khá, nhưng với báo chí quốc tế nên có thông dịch để có thì giờ suy nghĩ cho câu trả lời.


Khi hỏi ý kiến, anh Châu đồng ý đi. Vậy là số người "lưu vong" có Đại Tướng Khiêm, vợ và hai con ông, tôi, và Đại Úy Châu. Anh Châu sang Bộ Quốc Phòng xin "sự vụ lệnh", đến Sở Hành Chánh Tài Chánh số 6 lãnh phụ cấp xuất ngoại vì "sự vụ lệnh" ghi "thay mặt chánh phủ sang Anh quốc và Cộng Hòa Liên Bang Đức, cám ơn hai quốc gia này đã giúp đỡ Việt Nam Cộng Hòa chống cộng sản". Lại đến Bộ Ngoại Giao xin “thông hành ngoại giao" và chiếu khán ở tòa đại sứ Anh quốc và Cộng Hòa Liên Bang Đức. Xong, xuống Tổng Nha Hối Đoái và Ngân Hàng để đổi ngoại tệ. Phần phụ cấp bằng tiền Việt Nam đổi được 10 ngàn mỹ kim, và phần tiền Việt Nam mà tôi giữ trong tủ sắt của văn phòng đổi được 10 ngàn mỹ kim nữa. Đó là số tiền dự trữ trong tủ sắt để Đại Tướng cấp phát cho các đơn vị tình báo sử dụng. Trong cuộc "Biểu Dương Lực Lượng" ngày 13/9/1964, tôi mang về nhà và Đại Tướng Khiêm bảo tôi cứ giữ đó. Nay, tôi đưa Đại Úy Châu đi đổi luôn. Đúng lúc mọi thủ tục sẳn sàng thì Trung Tướng Khánh điện thoại tôi:


“Anh không được đi mà chỉ một mình Đại Úy Châu theo Đại Tướng Khiêm”.


Ra lệnh xong là ông gác ống nói ngay. Tôi điện thoại lại thì Thiếu Tá Thịnh, bí thư, anh Thịnh cho biết Thủ Tướng không tiếp chuyện. Thế là tôi không trình bày được gì cả.


Tôi đến trình Đại Tướng Khiêm, Đại Tướng không nói gì nhưng rõ ràng là bà Khiêm không hài lòng. Tôi nhận ra rằng, bà Khiêm không hài lòng không phải vì tôi không được đi, mà không hài lòng chỉ vì bà ngờ tôi "chưa chi đã trở mặt" đây. Tôi áp dụng câu của Đại Tướng Khiêm có lần nói với tôi rằng: "Sự trong sáng không cần phải đính chánh mà thời gian sẽ chứng minh cho mình, tuy có chậm nhưng rất hiệu quả". Tôi trở về văn phòng.


Hôm sau tôi đến Phủ Thủ Tướng xin gặp Thủ Tướng Khánh, và ông tiếp: “Anh có chuyện gì?


“Thưa Thủ Tướng, tôi không được đi theo Đại Tướng Khiêm trong chuyến đi chưa biết ngày nào trở về. Vậy, tôi xin Thủ Tướng vui lòng cho tôi một số tiền đủ đổi 10 ngàn mỹ kim và một giấy phép để đổi số tiền đó. Số tiền này tôi sẽ trao Đại Tướng Khiêm như là món quà nhỏ để Đại Tướng và gia đình có thêm khoản tiền chi tiêu ở ngoại quốc trong thời gian đầu. Xin thưa với Thủ Tướng rằng, tôi đến đây là tự tôi chớ Đại Tướng Khiêm không hay biết gì về hành động này, thưa Thủ Tướng”.


Không cần suy nghĩ, ông trả lời ngay:

“Được. Tôi cho anh”.

“Xin cám ơn Thủ Tướng”.


Chính tôi đi đổi tiền, và tôi thuật lại Đại Tướng Khiêm nghe khi tôi trao tiền cho ông. Ông rất cảm động:


“Tôi cám ơn chú”.


Chiều ngày 06/10/1964, Đại Tướng Khiêm gọi tôi đến tư dinh của ông. Vào phòng khách, ông mời tôi ngồi, điều mà chưa bao giờ xảy ra mỗi khi tôi đến nhận lệnh ngoại trừ hai lần ra lệnh về đảo chánh. Tự ông, đem bánh ngọt với nước trà ra mời tôi. Tôi hiểu rằng, "sếp" của tôi sắp tâm sự chia tay đây rồi vì ngày mai ông và gia đình rời Việt Nam lưu vong. Năm năm làm việc trực tiếp dưới quyền ông trong trách nhiệm một sĩ quan tham mưu đặc biệt, trong một chừng mực nào đó, tôi hiểu được những cử chỉ cùng những thái độ của ông thể hiện điều ông muốn hoặc ông sắp làm. Xong miếng bánh với hớp trà, ông vào chuyện:


“Tôi cám ơn chú, trong mấy năm qua chú đã làm việc với tất cả nhiệt tình và trung thực. Giờ đây, trước khi rời Việt Nam lưu vong không biết ngày về, tôi muốn nói với chú rằng, nếu chú và những chú khác, còn nhớ đến tôi thì đừng bao giờ làm chính trị, vì làm chính trị ít khi người ta dành lại tình cảm cho bạn bè và đôi khi cũng không còn tình cảm cho thân nhân của họ nữa”.


Tay phải ông gỡ kiến cận xuống và tay trái ông cầm miếng nỉ lau, đó là thói quen mỗi khi ông suy nghĩ. Mang kiến vào, ông lại mời tôi:


“Chú ăn bánh uống trà đi”.


“Vâng. Xin mời Đại Tướng”.


Thái độ của ông làm tôi lúng túng. Tôi nghĩ, không phải ông ngưng lại để mời tôi ăn bánh uống trà, mà là chính ông đang nén lại nỗi xúc động của ông khi ông đang sống trong góc cạnh tình cảm. Đại Tướng Khiêm là mẫu người giàu tình cảm, rất có tình có nghĩa với những quân nhân mà trước kia cùng đơn vị với ông cho dù người đó hiện là sĩ quan hay hạ sĩ quan cũng vậy. Tôi đã nhiều lần chứng kiến hình ảnh lúc ông niềm nở bắt tay những anh hạ sĩ quan cùng phục vụ tại Tiểu Đoàn 3 Việt Nam hằng chục năm trước đó.


Đại Tướng Khiêm tiếp lời:

“Trung Tướng Khánh đã xử sự với tôi như chú thấy đó, thật là không còn chút tình nghĩa gì hết”.


“Có vài vị Tướng Lãnh nêu thắc mắc với tôi rằng: "Tại sao Đại Tướng lại im lìm để Trung Tướng Khánh dùng cả thủ đoạn không tốt với Đại Tướng". Riêng tôi, tôi thấy Trung Tướng Khánh là mẫu người nhiều tham vọng chính trị, chính với Đại Tướng là người đã góp phần quan trọng đưa Trung Tướng Khánh lên đến tột đỉnh địa vị ngày nay, nhưng Trung Tướng Khánh cứ quả quyết Đại Tướng là người đang tìm cách đẩy ổng ra khỏi những chiếc ghế mà ổng đang ngồi, thưa Đại Tướng”.


“Tôi biết chớ chú. Nhưng tranh giành làm gì!
Trong phòng trở nên yên lặng. Một lúc sau:
“Các sĩ quan do tôi đào tạo là người có khả năng và là người tốt nữa. Chắc chắn chú sẽ được các vị khác sử dụng, và tôi tin là không có gì khó khăn cho chú đâu. Thôi, ngày mai tôi đi, chú ở lại mạnh giỏi. Cho tôi gởi lời thăm thiếm”.


“Thưa Đại Tướng, tôi chân thành cám ơn Đại Tướng đã dìu dắt tôi trong 5 năm qua. Tôi kính chúc Đại Tướng và gia đình được mạnh khỏe và luôn gặp điều may trên đường lưu vong. Kính chào Đại Tướng”.


Tôi đứng thẳng người và chào ông một cách trân trọng như khi tôi chào ông để nhận chức chánh văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh năm 1961 vậy. Đại Tướng Khiêm siết chặt tay tôi thật lâu, và cả hai đều bùi ngùi trong cuộc chia tay này!


Ngày 07/10/1964, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và gia đình rời Việt Nam Cộng Hòa trên chuyến bay của Air France đi Paris để "lưu vong" dưới danh nghĩa thật là vinh dự (!): "Thay mặt chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa sang Anh quốc và Đức quốc, cám ơn hai quốc gia đồng minh đã và đang giúp Việt Nam Cộng Hòa chống cộng sản".


Ngay chiều hôm đó, tôi và gia đình dọn ra khỏi cư xá trong khuôn viên bộ Tổng Tư Lệnh, và sẳn sàng nhận lệnh thuyên chuyển đến đơn vị hay cơ quan nào đó, vì có bao giờ một chánh văn phòng của ông Tướng thất sũng lại tiếp tục phục vụ tại đơn vị cũ đâu, nhất là đơn vị cũ lại là văn phòng Tổng Tư Lệnh.


Trung Tướng Nguyễn Khánh thêm chức Tổng Tư Lệnh Quân Lực.


Đại Tướng Trần Thiện Khiêm ra đi không bàn giao chức vụ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày hôm sau, Trung Tướng Nguyễn Khánh vào nhận thêm chức đó. Có nghĩa là Trung Tướng Khánh nắm giữ cả 4 chức vụ cao nhất nước: Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực, Quốc Trưởng bao gồm Tổng Tư Lệnh Tối Cao, Thủ Tướng, Tổng Trưởng Quốc Phòng, và Tổng Tư Lệnh Quân Lực.


Ngay hôm đầu tiên Trung Tướng Khánh nhận chức, tôi viết "Phiếu Trình" trình vào Trung Tướng Khánh, xin chỉ định đơn vị tôi trình diện. Ông phê 3 chữ: "Ở tại chỗ". Thế là tôi vẫn ngồi lại văn phòng này nhưng chưa rõ chức vụ. Xin nói thêm, “Phiếu Trình” là một loại văn kiện trong hồ sơ tham mưu, sử dụng khi cần trình một vấn đề gì để xin chỉ thị của cấp trên.


Cũng ngày hôm ấy, tôi thấy thêm một thủ đoạn của Trung Tướng Khánh. Đó là hai ngày trước khi Đại Tướng Khiêm lưu vong, văn phòng tôi có nhận được một "Nghị Định" thiết lập "quỹ mật" cho ông Tổng Tư Lệnh với số tiền đầu tiên là 20 triệu đồng (Việt Nam). Phía dưới Nghị Định có ghi chú "chờ lệnh". Giới chức thiết lập quỹ là Trung Tướng Khánh nhân danh Thủ Tướng cấp cho Tổng Tư Lệnh, và bây giờ chức Tổng Tư Lệnh cũng trong tay Trung Tướng Khánh. Vậy là, giới chức cấp quỹ với giới chức sử dụng quỹ, đều là ông. Lúc ấy, hối suất chánh thức là 35 đồng Việt Nam bằng 1 mỹ kim.


Xin giải thích đôi nét về "quỹ mật" này. Nguyên tắc của quỹ mật là chi tiêu không cần chứng minh, nhưng giới chức sử dụng phải chịu trách nhiệm trực tiếp với giới chức cấp quỹ khi giới chức cấp quỹ yêu cầu chứng minh, nhưng thực tế thì trong những năm qua tôi chưa thấy yêu cầu này xảy ra lần nào. Xem chừng lấy tiền trong ngân khố của chánh phủ quá dễ chăng?


Nhưng còn ghê gớm hơn nữa kìa. Theo lời bà Khiêm nói với tôi rằng, khi mà gia đình Đại Tướng Khiêm với gia đình Trung Tướng Khánh không còn coi nhau là bạn bè thân thiết như trước nữa, bà biết bà Khánh đã hai lần đưa cho người em làm Tổng Lãnh Sự Việt Nam Cộng Hòa tại Hong Kong, mỗi lần 500 triệu đồng Việt Nam Cộng Hòa để bán lấy đồng mỹ kim. Ai mua tiền Việt Nam đó nếu không phải là quân cộng sản của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, để mang trở về mua hàng trên thị trường Việt Nam Cộng Hòa tiếp tế cho quân của chúng đánh lại quân ta? Sự thật đến mức nào tôi không rõ, nhưng những thông tin này là từ bà Khiêm đến tôi và tôi ghi lại đây là chính xác.


Xin mở ngoặc để nối tiếp phần trên. Trong tạp chí Thế Kỷ 21, số 147 tháng 07 năm 2001 phát hành tại Nam California, có loạt bài "Công Cuộc Nghiên Cứu Việt Sử Tại Bắc Mỹ" (1975-2000), và bài số 10 với tựa: "Nhóm Viết Hồi Ký" của tác giả Trần Anh Tuấn, nói về "Sĩ quan cấp Tá viết hồi ký". Dưới đây là vài đoạn trích từ trong bài này.


"Cấp Tá viết hồi ký khoảng 18 người, theo thứ tự tên gọi là: Trương Dưỡng, Trần Kim Định, Vương Văn Đông, Phạm Bá Hoa, Đặng Trần Huân, Đỗ Kiểm, Trần Khắc Kính, Hoàng Ngọc Liên, Vũ Văn Lộc, Phan Nhật Nam, Trần Ngọc Nhuận, Phan Lạc Phúc, Phan Lạc Tiếp, Trịnh Tiếu, Võ Đại Tôn, Trần Đình Trụ, Tạ Tỵ, và Ngô Văn Xuân".


"Nói một cách tổng quát, khi chúng ta rời bỏ thế giới hồi ký của cấp Tướng để đọc hồi ký của cấp Tá là chúng ta sang một thế giới khác. Một thế giới của văn nhân. Một đàng là quyền lực quốc gia, và một đàng là văn chương nhân bản".


" ... Về hình thức, nhiều hồi ký cấp Tá với những áng văn chương trong sáng, chữ dùng nhiều khi đắc địa, có thể trích làm bài giảng văn mẫu trong các trung tâm Việt ngữ tại hải ngoại. Điển hình của hồi ký loại này là tác phẩm của Phan Lạc Phúc, Phan Lạc Tiếp, Phạm Bá Hoa, Đặng Trần Huân, Vũ Văn Lộc, ......."


Sau khi tác giả điểm qua hồi ký của hai nhà văn Phan Lạc Phúc và Phan Lạc Tiếp, đến quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ của tôi (Phạm Bá Hoa), tác giả Trần Anh Tuấn viết:


" ..... Hồi ký của cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa có nội dung khác hẳn những hồi ký vừa kể". ".......... Đây là một hồi ký chính trị, ghi lại những biến cố trên chính trường Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1963 cho đến ngày 30/4/1975. Giai đoạn lịch sử này tương ứng với thời gian tác giả đóng vai trò tuy không có hào quang của một nhân vật trên mặt nổi, nhưng lại là người sắp xếp và do đó thấu hiểu những uẩn khúc của hậu trường, cùng diễn trình của nhiều biến cố có tầm mức lịch sử ngay từ lúc khởi thủy. Việc ghi nhận này rất thẳng thắn và thành thật. Ngòi bút Phạm Bá Hoa can đảm, trung thực, bất vị thân... "


"Đặc biệt, Đôi Dòng Ghi Nhớ" ghi nhận sự kiện kinh khủng trong chiến tranh Việt Nam. Đó là việc, lấy nguồn tin từ bà Trần Thiện Khiêm, tác giả cho biết bà Nguyễn Khánh đã hai lần đưa cho người em làm Tổng Lãnh Sự Việt Nam Cộng Hòa tại Hong Kong, mỗi lần 500 triệu, tổng cộng một tỷ bạc Việt Nam Cộng Hòa để đổi lấy đô la. Sau tiết lộ kinh khủng đó, tác giả Phạm Bá Hoa đặt một câu hỏi chắc như đinh đóng cột, rằng, "Ai mua tiền Việt Nam trên đất Hong Kong nếu không phải là Cộng Sản Việt Nam?". Câu nghi vấn đó của tác giả Phạm Bá Hoa, nay đã được phía bên kia kiểm chứng là xác thực. Nếu muốn, xin độc giả tìm đọc "Đồng Đô La Trong Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước" dựa theo hồi ký của Thăng Long Huỳnh Bá Việt và những người làm công tác tài chánh đặc biệt trong chiến tranh với sự cộng tác của các nhà văn Nguyễn Quang Sáng, Hiền Phương, Thanh Giang, và Hoàng Xuân Huy, để biết Ban Kinh Tài Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (của cộng sản) đã mua tiền Việt Nam Cộng Hòa từ đâu để đem về chi phí cho chiến trường miền Nam..... "


Sau đoạn nhận xét rất tinh tế của tác giả về cách dùng chữ của người miền Nam trong khi có vài chữ tôi dùng chữ của người miền Bắc để giảm nhẹ ý nghĩa sự tức giận của Trung Tướng Trần Thiện Khiêm đối với Trung Tướng Dương Văn Minh, tác giả Trần Anh Tuấn kết luận:


"Điều tác giả Phạm Bá Hoa có thể yên tâm là, ít nhất có một độc giả tin ông, tin ở tấm lòng trung cang nghĩa khí của ông. Đôi Dòng Ghi Nhớ, vì thế, là một trong rất ít hồi ký chính trị hoàn tất sau biến cố 30/4/1975 có cơ tồn tại với thời gian. Ông là một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có tư cách".


Xin đóng ngoặc, và trở lại văn phòng Tổng Tư Lệnh.


Trung Tướng Khánh cho giải tán văn phòng Tổng Tư Lệnh, và tổ chức thành "Nha Đổng Lý Văn Phòng Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa". Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ, được Trung Tướng Khánh cử giữ chức Đổng Lý Văn Phòng. Lớn ơi là lớn, nhưng kỳ ơi là kỳ! Dưới quyền Thiếu Tướng Vỹ có: (1) Thiếu Tá Thịnh, bí thư. (2) Tôi, Trưởng Phòng Quân Sự Vụ, với toàn bộ nhân viên và trách nhiệm của văn phòng Tổng Tư Lệnh trước đây, ngoại trừ những vấn đề riêng tư của ông Tổng Tư Lệnh. (3) Thiếu Tá Hoàng Ngọc Tiêu -tức nhà thơ Cao Tiêu- Trưởng Phòng Dân Sự Vụ. (4) Thiếu Tá Tâm (tôi không nhớ họ), Trưởng Phòng Báo Chí.


Công tác kế tiếp là Trung Tướng Khánh giao cho Chuẩn Tướng Phạm Đăng Lân, Chỉ Huy Trưởng binh chủng Công Binh, đúc bê tông tầng trên phòng họp số 1 trong tòa nhà chánh (nơi tạm giữ những vị bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng xem là trung thành với Tổng Thống Diệm trong cuộc đảo chánh 01/11/1963) để làm văn phòng mới của Tổng Tư Lệnh. Đồng thời xây cái hầm ngầm ngay phía dưới phòng họp số 1 để làm hầm trú ẩn với tiện nghi cần thiết cho bộ chỉ huy hành quân khoảng 30 người. Từ bàn viết của ông Tổng Tư Lệnh nhìn đến cuối phòng trước mặt, sát góc bên trái có cầu thang xoáy ốc xuống hầm. Nếu không phải nhân viên phục vụ nơi đây, phải để ý lắm mới trông thấy được cái quan trọng của cầu thang xoáy ốc này. Hầm làm xong từ mặt đất lên đến nóc là 2.2 thước, chung quanh và cả nóc hầm được tấn bằng những tấm kim khí thật dày, lớp đất trên nóc hầm dày đến 1.5 thước. Ngay trên hầm là một đoạn của con đường vòng đai bên trong hàng rào kẽm gai ngăn cách giữa Bộ Tổng Tư Lệnh với một góc của phi trường Tân Sơn Nhất. Trong lúc đơn vị Công Binh đang đổ đất lấp nóc hầm thì Trung Tướng Khánh nói với Chuẩn Tướng Phạm Đăng Lân, lúc ấy tôi đứng cạnh chờ trình công văn gấp của Phòng 3:


“Làm xong hầm này tôi chấp tất cả phi cơ của "thằng" Kỳ đó”. Thằng Kỳ mà Trung Tướng Khánh nói là Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ , Tư Lệnh Không Quâ n.


Nói xong ông cười khoái chí, chừng như ông không còn lo ngại Thiếu Tướng Kỳ đảo chánh ông bằng Không Quân vậy. Tôi không hiểu câu nói của ông là thật hay đùa, nhưng cho dù là đùa hay thật thì tự ông nói lên nỗi lo của ông về sự chống đối của những đồng đội quanh ông. Nhưng tại sao Trung Tướng Khánh lại sợ như vậy? Mẫu người nhiều tham vọng với một bụng thủ đoạn như ông, phải tự hiểu tại sao ông bị cô lập giữa đồng đội và lúc nào cũng sợ đồng đội của ông. Qua những hành động của ông từ trong cuộc đảo chánh ngày 30/01/1964 đến bấy giờ, theo tôi, ông là vị Tướng có vẻ như mang tham vọng vượt lên trên tất cả mọi người để trở thành vị lãnh đạo bậc nhất của Việt Nam Cộng Hòa trong nét nhìn thán phục của các quốc gia lân bang trong vùng, và cả Hoa Kỳ nữa. Cái tham vọng của Trung Tướng Khánh dễ dàng nhận thấy qua 4 chức vụ cao nhất nước đang trong tay ông: "Quốc Trưởng + Thủ Tướng + Tổng Trưởng Quốc Phòng + Tổng Tư Lệnh Quân Lực". Với 4 chức vụ đó, làm sao biện minh là ông không có tham vọng? Làm sao biện minh là ông không độc tài?


Thêm nữa, Trung Tướng Khánh còn cấp cho Công Binh 10 triệu đồng để xây cái hầm sâu trong lòng núi đá ngay sau lưng Trường Thiếu Sinh Quân/Vũng Tàu nữa. Tôi không rõ những chi tiết về cái hầm này, chỉ được nghe ông nói trong buổi họp tham mưu của Bộ Tổng Tư Lệnh rằng:


"Trường hợp cuộc chiến dẫn đến sự xâm nhập của không quân địch thì hầm này là nơi đặt bản doanh hành quân của Bộ Tổng Tư Lệnh".


Đến khi trường này chuẩn bị di chuyển để bắt đầu phá núi xây hầm, cũng là lúc Trung Tướng Khánh lưu vong nên kế hoạch bị hủy bỏ.


Ngay trước ngày Quốc Khánh đầu tiên 01/11/1964 -kể từ sau cuộc lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm- Trung Tướng Khánh tấn phong chánh phủ dân sự do giáo sư Trần Văn Hương làm Thủ Tướng, và kỹ sư Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng. Quốc Trưởng là nhà cách mạng quốc gia lão thành, hoạt động không mệt mỏi, từng vào tù ra khám vì hoạt động cách mạng, nổi tiếng là trong sạch, và chống cộng sản một cách triệt để. Thủ Tướng là nhà giáo kỳ cựu, có tiếng là thanh liêm, nhiệt tình, chống cộng sản không khoan nhượng, nhưng có dáng vẻ và phong cách của một công chức cần mẫn hơn là nhà hoạt động chính trị. Cả hai vị đều do Trung Tướng Khánh nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội (Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã đổi danh xưng là Hội Đồng Quân Đội) đề cử sau khi tham khảo cơ quan do ông thành lập có tên gọi "Hội Đồng Dân Quân".


Dưới nét nhìn nào đó cho thấy Trung Tướng Khánh muốn dư luận thấy ông giảm bớt cái hơi hám "độc tài" mà ông luôn bị cáo giác trong các cuộc mít tinh biểu tình, và nhất là trong những vị hoạt động chính trị, nên ông nhường chức Quốc Trưởng và Thủ Tướng cho hai vị dân sự. Nhưng thật ra, với chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội, ông vẫn tự cho mình cái chức năng trên Quốc Trưởng chẳng khác dưới chế độ cộng sản độc tài bao nhiêu.


Dù sao thì chánh phủ dân sự cũng tô điểm đôi chút cho hình ảnh chính trị Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, bớt tính cách năng nổ đầy u ám của một vị võ tướng cầm quyền có pha chút "hơi hám quân phiệt" lãnh đạo.


Ngày 01/01/1965, Trung Tướng Khánh xuống Cần Thơ chủ tọa lễ kỷ niệm "Ngày Quân Đoàn IV hai tuổi". Ông nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội thăng cấp Trung Tướng cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Quân Đoàn này.


Trong cuộc đảo chánh 01/11/1963, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu là Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tham gia tích cực. Đảo chánh thành công, ngày hôm sau ông được thăng cấp Thiếu Tướng, giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Chẳng bao lâu sau đó, ông bàn giao cho Thiếu Tướng Cao Văn Viên để nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Vùng IV Chiến Thuật cách nay vài tháng. Nay, ông được thêm một ngôi sao mỗi bên cầu vai.


Trung Tướng Khánh là người rất xông xáo, nay đơn vị này mai đơn vị khác. Ông thường thăm và khen thưởng tại chỗ về những thành tích cá nhân cũng như tập thể đơn vị. Mỗi lần đi bằng phi cơ, tôi được lệnh mang theo tất cả hồ sơ công văn của các phòng trình lên để ông làm việc ngay trên phi cơ. Chiếc phi cơ C47 mà Không Quân dành cho ông, có trang bị bàn viết, giường nằm, tủ lạnh nhỏ, và vài tiện nghi lặt vặt khác. Thường khi như vậy, ngoài Trung Tướng Khánh ra, còn có sĩ quan tùy viên, cận vệ, vài nhân viên an ninh, vài nhân viên truyền tin, và tôi. Đến thành phố nào đó là tôi tìm phi cơ khác của Không Quân Việt Nam, Không Quân Hoa Kỳ, hoặc Hàng Không dân sự, để mang công văn trở về Bộ Tổng Tư Lệnh hoàn lại các Phòng Sở. Việc bảo vệ số công văn này luôn được quan tâm đúng mức. Đây là nét đặc biệt của Trung Tướng Nguyễn Khánh mà vị Tổng Tư Lệnh trước ông là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, và những vị sau ông là Trung Tướng Trần Văn Minh, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, và Đại Tướng Cao Văn Viên, không có. Tôi không dám đoan chắc đó là điều tốt, nhưng rõ ràng là ông không để thời gian trống trong nhiệm vụ của ông.


Tôi không biết có phải là do vụ "Biểu Dương Lực Lượng" ngày 13/09/1964 hoặc vụ đó chỉ là "giọt nước làm tràn ly nước" hay không, nhưng từ sau vụ ấy thì Trung Tướng Khánh với Đại sứ Hoa Kỳ -cựu Tướng Maxwell Taylor- đã bất hòa nhau, và Trung Tướng Khánh đặt bản doanh Bộ Tổng Tư Lệnh ở tòa nhà trắng Vũng Tàu. Tòa nhà này, người dân địa phương thường gọi là "bạch dinh". Hằng ngày, tôi dùng phi cơ nhỏ mang công văn của Bộ Tổng Tư Lệnh từ Sài Gòn ra Vũng Tàu trình ông, xong là quay về Sài Gòn. Ngày hai buổi sáng chiều, tôi đi đều đều như vậy. Đôi khi có công văn gấp, tôi phải đi ngay dù là ngày chủ nhật hay nghỉ lễ. Thường thì tôi sử dụng chiếc phi cơ L20 do anh bạn cùng khóa với tôi lái. Anh Nguyễn Xuân Lễ, sau khi ra trường thời gian ngắn thì anh chuyển sang Không Quân. Hiện (2006) anh định cư tại Houston.


Trong một chuyến bay trên chiếc vận tải C7 (Caribou) từ Vũng Tàu về Sài Gòn, bị quân cộng sản bắn lên và Đại Úy Long ngồi cạnh tôi bị trúng đạn xuyên từ dưới mông lên vai, và chết liền. Không biết chúng bắn bao nhiêu viên đạn nhưng chỉ có 1 viên trúng phi cơ và đã gây tử thương một sĩ quan mới tái ngũ vài tháng trước đó, và đang phục vụ tại Bộ Tổng Tư Lệnh. Hôm ấy, chiếc L20 tu bổ, tôi ôm công văn quá giang chiếc L19 ra Vũng Tàu, và lại quá giang chiếc C7 nói trên trở về Sài Gòn.


Quí vị nghĩ xem, ông Tổng Tư Lệnh giận ông Đại Sứ của nước "chi tiền", dời văn phòng xa hơn trăm cây số, để lại đằng sau cả một bộ tham mưu đầu não của quân đội hơn 600 ngàn người đang từng giờ chiến đấu chống cộng sản. Cho nên có những việc mà vị Trưởng Phòng cần trình bày trực tiếp với vị Tổng Tư Lệnh cũng chỉ dùng điện thoại mà điện thoại thì không hoàn toàn bảo mật được! Phải chăng Trung Tướng Khánh là vị lãnh đạo quốc gia xem chính trường như sân khấu? Đồng ý chính trường cũng là một loại sân khấu, nhưng nền tảng của sân khấu là nghệ thuật dựng lại những góc cạnh của cuộc sống, trong khi chính trường là nơi thể hiện tài năng, kinh nghiệm, bản lãnh, của người lãnh đạo xây dựng cuộc sống đó. Sở dĩ tôi nói đến "sân khấu" là vì trong năm 1964, nhiều báo chí tại Sài Gòn nói Trung Tướng Khánh có giòng máu nghệ sĩ.


Xin mở ngoặc. Trong cuộc đàm thoại tối ngày 21/10/2003, cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm từ Virginia nói với tôi liên quan đến đoạn trên đây, như sau:


“Chú có biết tại sao ông Khánh với ông Taylor giận nhau hông?


“Dạ không”.


“Tại vì ông Khánh chửi ông Taylor (Đại Sứ Hoa Kỳ) về vụ ông Đức (Trung Tướng Dương Văn Đức) biểu dương lực lượng đó. Ông Khánh nói với tôi như vậy sau khi ổng bị đuổi khỏi Việt Nam qua Hoa Kỳ ở với tôi mấy ngày”.


Xin đóng ngoặc.


Ngày 16/02/1965, Trung Tướng Khánh ra phi trường chậm hơn nửa tiếng đồng hồ, điều mà ít khi xảy ra. Sau khi phi cơ lên đến độ cao để trực chỉ Qui Nhơn, ông ngưng tay duyệt công văn và quay sang tôi:


“Tôi vừa thành lập xong chánh phủ”.
“Thủ Tướng Trần Văn Hương còn không, thưa Trung Tướng?
“Bác sĩ Phan Huy Quát thay ông Hương rồi. Với tôi thì mọi việc chẳng có gì khó khăn cả”.
Nụ cười của ông lúc bấy giờ nếu cựu Thủ Tướng Hương trông thấy chắc là dễ tức lắm cho dù giáo sư Hương có tiếng là người trầm tỉnh. Tôi không rõ nguyên nhân thay đổi Thủ Tướng, chỉ nghe Trung Tướng Khánh nói rằng:


“Trong giai đoạn này mà làm mất lòng tôn giáo thì không thể chấp nhận được”.


Ông là Trung Tướng, với chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội, "đã" ngang nhiên chỉ định Thủ Tướng trong khi Quốc Trưởng vẫn tại chức, lại còn tự cho mình là người giải quyết công việc quốc gia nhanh chóng nữa!


Đến Qui Nhơn, không có phi cơ về Sài Gòn nên tôi phải ở lại. Tình hình quân sự tại tỉnh Bình Định ngày càng xấu đi, đến nỗi đêm hôm đó mọi người phải ngủ tại hầm chiến đấu. Tôi sang Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận ngủ nhờ hầm chiến đấu của Bộ Chỉ Huy này. Lúc ấy, Tỉnh Trưởng Bình Định là Trung Tá Lê Trung Tường. Thiếu Tá Trương Bảy là Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận. (Về sau, Trung Tá Tường là Chuẩn Tướng quân đội, Thiếu Tá Bảy là Chuẩn Tướng Cảnh Sát).


Sáng hôm sau, cả đoàn dùng trực thăng bay vào Nha Trang. Sau khi thăm Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt mà Chuẩn Tướng Đoàn Văn Quảng là Tư Lệnh, Trung Tướng Khánh bay ngược ra Vũng Rô, nơi mà hôm trước Hải Quân và Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã bắn chìm chiếc tàu của quân cộng sản chở vũ khí từ ngoài bắc xâm nhập vào. Nói cho đúng, chiếc tàu này bị Hạm Đội 7 Hoa Kỳ phát hiện và liên tục theo dõi, đến khi vào duyên hải Việt Nam Cộng Hòa thì họ báo cho Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa biết. Kết quả là tàu địch bị đánh chìm. Khi trực thăng lượn nhiều vòng trên không phận Vũng Rô, tôi nhìn thấy dòng chảy của nhiên liệu từ chiếc tàu chìm phía dưới loang dài trên mặt biển. Lực lượng Người Nhái của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đang trục vớt vũ khí lên tàu, trong khi lực lượng của Quân Đoàn II đang hành quân lục soát trong khu vực núi Đá Bia, lân cận Vũng Rô. Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có, Tư Lệnh Quân Đoàn II tin rằng, trong khu vực này có thể có kho tồn trữ của quân cộng sản. Chỉ trong ngày 17/2/1965, cả hai lực lượng thu được hơn 1000 khẩu súng đủ loại, tất cả hoàn toàn mới nguyên được bao bọc trong giấy dầu cẩn thận.


Theo nhận định của Phòng Nhì/Bộ Tổng Tư Lệnh, hơn một năm qua, với những bất ổn chính trị trong nội tình Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, quân cộng sản miền bắc đã lợi dụng "khoảng trống an toàn" đó để gia tăng vận chuyển đơn vị chính qui và vũ khí đạn dược vào lãnh thổ chúng ta bằng đường bộ dọc dãy Trường Sơn và đường thủy dọc duyên hải từ bắc vào. Những lần trước, số vũ khí đạn dược tịch thu được ở cửa sông Bồ Đề tỉnh An Xuyên (Cà Mau), bờ biển Ba Động tỉnh Vỉnh Bình (Trà Vinh). Vụ Vũng Rô này là lần thứ 3 tịch thu được số lượng vũ khí quan trọng.


Khi chánh thức cầm quyền sau cuộc đảo chánh thành công, với một Thông Điệp quan trọng, Trung Tướng Khánh chánh thức lên tiếng kêu gọi các quốc gia đồng minh giúp Việt Nam Cộng Hòa chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản, điều mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã không làm theo ý muốn của Hoa Kỳ. Nhưng liệu có phải Thông Điệp mà Trung Tướng Khánh tuyên đọc là do Hoa Kỳ trao cho ông hay chánh phủ của ông chủ động viết bản văn đó? Nhìn theo góc độ quân sự, cho dù Hoa Kỳ có cần thực hiện "chiến lược Domino" bằng cách thiết lập các căn cứ quân sự trên đất nước chúng ta hay không thì sự hiện diện của quân bộ chiến Hoa Kỳ, trong một mức độ nào đó thật sự là cần thiết.


Trong khi áp lực quân sự từ phía quân cộng sản ngày càng xấu đi thì tình tình chính trị tại thủ đô Sài Gòn vẫn trong tình trạng rối ren. Tuy là Quốc Trưởng với Thủ Tướng đều là dân sự, nhưng thực chất thì quyền hành vẫn trong tay Trung Tướng Khánh. Các nhà chính trị vẫn thường tổ chức những cuộc hội họp mít tinh nhằm tạo áp lực đòi Trung Tướng Khánh rút lui thật sự, vì vậy mà Trung Tướng Khánh luôn luôn lo sợ một ngày "xấu trời" nào đó ông sẽ bị đảo chánh bởi lực lượng quân sự. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đã lưu vong từ tháng 10/1964, và Trung Tướng Dương Văn Minh cũng lên đường lưu vong 2 tháng sau đó, nhưng điều đó không có nghĩa là "họa đảo chánh" không còn.

Chương 4 / Đảo Chánh ngày 19 tháng 2 năm 1965


Sáng sớm chủ nhật, 19 tháng 2 năm 1965, tiếng súng nổ ở hướng Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, hướng căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất, và hướng Bộ Tổng Tư Lệnh. Tôi lái xe xuống Biệt Khu Thủ Đô vì gần nhà. Đường Lê văn Duyệt từ Chợ Ông Tạ đến "trại Lê Văn Duyệt" (tức Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô) phải hơn nửa tiếng đồng hồ vì kẹt xe. Đến cổng trại, tôi gặp ngay Thiếu Tá Lưu Ngọc Kỉnh -bạn tôi từ năm 1955- đang là Tiểu Đoàn Trưởng thuộc Sư Đoàn 25 Bộ Binh, có nhiệm vụ chiếm giữ Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô:


“Chào anh Kỉnh. Ông nào lãnh đạo vậy anh?


“Anh Hoa, lâu quá mới gặp. Thiếu Tướng Phát (Lâm Văn Phát) lãnh đạo đó”.


“Bây giờ Thiếu Tướng đi với cánh quân nào anh biết không?


“Thiếu Tướng lên hướng căn cứ Không Quân và tôi đoán là ổng đang ở trên đó”.


“Tôi nghe có tiếng súng bên hướng Bộ Tổng Tư Lệnh. Vậy bên đó có lực lượng nào không anh?


“Có. Trung Tá Thao với 2 Tiểu Đoàn chiếm giữ bên đó. Nè, anh nói giùm với Trung Tá Thao là tôi đến đây rồi mà chưa có lệnh gì thêm, với lại không có tiếp tế thực phẩm cho anh em. Anh nói Trung Tá Thao liên lạc với tôi và đem tiếp tế đến đây giùm nghe”.


“Sao anh không gọi máy nói chuyện với ảnh?


“Lệnh im lặng vô tuyến chưa giải toả nên không dùng máy. Thôi, anh đi giùm đi”.


“Được rồi. Tôi sang Bộ Tổng Tư Lệnh ngay. Chào anh”.


Chiếc Jeep phải lách mãi mới quay lại được đường Thoại Ngọc Hầu và chạy sang Bộ Tổng Tư Lệnh. Tại cổng số 1, Quân Cảnh Bộ Tổng Tư Lệnh kiểm soát chặt chẻ người lẫn và xe ra vào cổng. Bên trong, hầu hết là quân nhân mang phù hiệu Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Trước cửa văn phòng Tổng Hành Dinh/Bộ Tổng Tư Lệnh, tôi gặp Trung Tá Lê Hoàng Thao.


Đầu năm 1962, anh là Thiếu Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Vỉnh Bình trong thời gian Đại Tá Trần Thiện Khiêm, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Hậu Giang bao gồm 8 tỉnh bờ nam sông Tiền, kể cả tỉnh Vỉnh Bình. Lúc ấy tôi là Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, kiêm điều hành văn phòng Ấp Chiến Lược của Khu Chiến Thuật Hậu Giang. Do công tác này mà tôi tiếp xúc thường xuyên với quí vị Tỉnh Trưởng đang trắc nghiệm Ấp Chiến Lược, từ đó chúng tôi quen nhau.


“Anh Thao. Hôm nay trông anh oai quá”.


“Oai cái gì. Mệt quá trời đây nè”.


“Anh Kỉnh cần liên lạc với anh và xin anh lo tiếp tế cho Tiểu Đoàn của ảnh bên Biệt Khu Thủ Đô đó”.


“Giờ này làm sao tôi lo được, bên đó phải tự túc chớ. Được rồi, tôi sẽ gọi ảnh”.


“Thiếu Tướng Phát ở đâu anh Thao?


“Bên căn cứ Không Quân. Ổng bắt được ông Khánh rồi (ý nói Trung Tướng Nguyễn Khánh). Tôi cho anh biết là có ông Thảo bên Mỹ về làm vụ này đó nghe. Xong là "sếp" về ngay”."Sếp" mà Trung Tá Thao vừa nói có nghĩa là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đang là Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ. Còn ông Thảo, tức Trung Tá Phạm Ngọc Thảo. Trước kia ông Thảo bên hàng ngũ cộng sản về "hồi chánh" thời Tổng Thống Diệm. Với mức độ tin cậy nào đó, Tổng Thống Diệm đồng hóa cấp Đại Úy cho ông và cử ông giữ chức Tỉnh Trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre), một địa phương mà đa số đồng bào có thân nhân hoạt động trong hàng ngũ cộng sản. Do thành tích triệt hạ nhiều hạ tầng cơ sở cộng sản tại đây nên được tiến cấp Thiếu Tá, sau đó lại lên Trung Tá (cấp đồng hóa khi được thăng cấp gọi là "tiến cấp"), và do đề nghị của Trung Tá Thảo mà Thiếu Tá Thao được Tổng Thống cử giữ chức Tỉnh Trưởng tỉnh Vỉnh Bình.


Trung Tá Thảo có vẻ như được lòng của Đại Tá Khiêm, có thể vì ông được Tổng Thống Diệm nâng đỡ, cũng có thể do thành tích của Trung Tá Thảo tại Kiến Hòa, hoặc cả hai kết hợp lại. Nhưng có điều tôi không rõ là Đại Tá Khiêm có cảm tình với Trung Tá Thảo là thật lòng hay vì yếu tố chính trị? Bởi, theo tôi, Đại Tá Khiêm là người ít nói nhưng không phải là kém thận trọng, vì dù sao đi nữa thì những gì Trung Tá Phạm Ngọc Thảo đạt được trong thời gian qua, vẫn chưa đủ sức bôi xóa được nguồn gốc quá khứ của ông, để tạo cho ông chỗ đứng vững chắc trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Trung Tá Thảo đang làm việc trong tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ. Do những điều tôi biết về Đại Tướng Khiêm đến trước ngày ông lưu vong (7/10/1964) thì tôi không tin Đại Tướng Khiêm phái Trung Tá Thảo về đây tổ chức đảo chánh. Nhưng có thể là nhận thức của tôi sai lầm, vì biết đâu quan điểm chính trị của Đại Tướng Khiêm từ ngày lưu vong đến nay -dù chưa đầy 5 tháng- đã thay đổi? Dù sao thì Trung Tá Phạm Ngọc Thảo -theo lời Trung Tá Thao- cũng đang có mặt trong cuộc đảo chánh này vẫn làm tôi thắc mắc.
Đến đây tôi xin mở ngoặc để thuật lại câu chuyện liên quan giữa tôi với cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trong cuộc điện đàm tối 21/10/2003. Sau khi ông hỏi tôi những chi tiết trong cuộc đảo chánh này, tôi liền hỏi lại ông: (trong câu chuyện, cựu Đại Tướng Khiêm xưng là anh Tư và ông gọi tôi là chú, tôi thì xưng em)


“Thưa anh Tư, em xin hỏi anh Tư trong vụ Thiếu Tướng Phát đảo chánh ngày 19/02/1965, theo lời Trung Tá Lê Hoàng Thao nói với em là có Trung Tá Phạm Ngọc Thảo từ tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ về tham gia, dự trù khi thành công thì anh Tư về cầm quyền. Điều đó có đúng không anh Tư?


“Trời ơi! Bây giờ chú hỏi Anh mới biết là tại sao lúc đó mấy anh nhà báo của Mỹ nhất là tờ Washington Post theo phỏng vấn Anh.


“Họ hỏi Anh biết gì về cuộc đảo chánh đó? Anh trả lời là Anh không biết gì hết, và đang chờ tin tức từ Việt Nam. Còn cái vụ ông Thảo về Việt Nam là do ông Khánh (Trung Tướng Nguyễn Khánh) gởi công điện gọi ông Thảo về gấp đó. Anh có nghe nói khi ông Thảo về tới phi trường Tân Sơn Nhất, được người nào đó cho biết là ông Khánh đã phái người chận bắt ông Thảo đem đi giết, nên người đó giúp ông Thảo chạy trốn luôn. Về sau, bị nhóm nào đó bắt được và giết chết”.


“Vậy thì lời của Trung Tá Lê Hoàng Thao đã không đúng”.


Và cựu Đại Tướng Khiêm hỏi lại tôi:


“Chú có biết là tại sao ông Phát (Thiếu Tướng Phát) đảo chánh ông Khánh (Trung Tướng Khánh) bị thất bại, mà ông Khánh lại lưu vong hông? Ông Phát thua thì phải rồi, còn ông Khánh tại sao thua? Hồi ông Khánh qua ở đây với Anh (Đại Tướng Khánh có đến nhà Đại Tướng Khiêm khi ông Khiêm giữ chức Đại Sứ tại Hoa Kỳ), Anh có hỏi ổng: “Tại sao ông Phát thua mà Anh cũng thua nữa? Ông Khánh cười cười mà không trả lời.


“Điều này em không biết rõ, chỉ biết rằng Hội Đồng Quân Đội lúc ấy có Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, và còn nữa nhưng người kể lại cho em nghe thì không nhớ hết, các vị quyết định Thiếu Tướng Phát phải lui quân. Và các vị lại họp tiếp và quyết định trục xuất Trung Tướng Khánh ra khỏi Hội Đồng Quân Đội, cách chức Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và buộc lưu vong”.


“Anh có gặp Thiếu Tướng Phát khi ổng qua Mỹ này, Anh hỏi ổng tại sao ổng đảo chánh hồi năm 1965. Ông Phát trả lời thật ngắn là “Mỹ xúi”. Anh thấy chuyện đời mà buồn! Chú có biết là Anh (tức cựu Đại Tướng Khiêm), ông Khánh, ông Đức (Dương Văn), và ông Phát, bốn đứa Anh cùng học một khoá không? Vậy mà khi lên Tướng lại quay mặt đánh nhau! Chú có thấy chính trị nó làm mất tình cảm giữa anh em bè bạn với nhau không!


“Thưa anh Tư, em còn nhớ vào chiều ngày 06/10/1964, khi chuẩn bị lưu vong, anh Tư gọi em đến nhà, anh đích thân đem bánh rót nước trà mời em. Anh Tư có nói rằng: “Tôi nói với chú cũng như mấy chú trong văn phòng, nếu như còn thương tôi thì đừng bao giờ làm chính trị, vì chính trị đôi khi dẫn người ta đến chỗ không còn giữ lại cho mình tình cảm với người thân, với bạn bè bằng hữu”. Mà theo em nghĩ, chính trị tự nó không có gì là xấu cả, chỉ tại người làm chính trị thôi anh Tư”.


Đến đây thì cựu Đại Tướng Khiêm bận việc gì gấp nên chấm dứt vội vàng. Một lúc sau ông gọi lại cho biết là có việc nên không tiếp tục được. Xin đóng ngoặc.


Trước khi trở lại câu chuyện giữa tôi với Trung Tá Lê Hoàng Thao, tôi xin nói thêm về sự kiện Trung Tá Phạm Ngọc Thảo bị bắt và bị giết. Ngày 18/01/2004, đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại do ông Hồng Phúc phỏng vấn tôi về cuộc Chỉnh Lý ngày 30/01/1964, nhưng ở phần đầu người xướng ngôn có đọc bức thư của ông Bùi Dzũng từ Paris (con trai của cựu Đại Tá Bùi Dzinh). Theo đó thì khoảng tháng 07 năm 1965, Trung Tá Phạm Ngọc Thảo bị bắt và bị giết chết sau đó. Theo một vị đã trả lời trong cuộc phỏng vấn cũng của đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại, nguyên nhân là do bà Bùi Dzinh thường tới lui thăm nuôi chồng nên bị lộ tung tích. Lúc ấy cựu Đại Tá Bùi Dzinh, cựu Đại Tá Đỗ Văn Diễn, và Trung Tá Phạm Ngọc Thảo, cùng trốn chung trong một ngôi nhà vùng ngoại ô Biên Hòa. Ông Dzũng cho biết, thật ra người đến thăm thường xuyên là bà Đỗ Văn Diễn nên bị lộ tung tích chớ không phải bà Bùi Dzinh, tức mẹ của ông Dzũng. Cuối cùng, ông Dzũng yêu cầu đài phát thanh đính chánh để mẹ ông được yên nghỉ trong lòng đất. (So với ấn bản lần 3, xin đính chánh theo yêu cầu của ông Bùi Dzũng, ông không phải là bác sĩ. Đa tạ)
Bây giờ xin tiếp tục câu chuyện. Tôi hỏi Trung Tá Lê Hoàng Thao:
“Anh có chắc là Trung Tướng Khánh bị bắt rồi không?
“Chắc chắn mà. Nói thiệt anh nghe, nếu không xong thì 2 trái lựu đạn này đủ giải quyết rồi anh”.
Trung Tá Thao vừa nói vừa đưa 2 tay nắm vào 2 trái lựu đạn móc ở giây thắt lưng. Mặc dù anh Thao quả quyết việc Thiếu Tướng Lâm Văn Phát đã bắt được Trung Tướng Nguyễn Khánh nhưng tôi chưa dám tin, vì bắt Trung Tướng Khánh không phải dễ dàng đâu, bởi ông có toán an ninh cận vệ xứng đáng với sự tin cậy của ông.
Tôi lên xe với ý định xuống nhà Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Đổng lý Văn Phòng Bộ Tổng Tư Lệnh. Vừa ra cổng Bộ Tổng Tư Lệnh, trông thấy xe của bác sĩ Trung Úy Nguyễn Đức Thành (em ruột của Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng. Cấp bậc lúc ấy), bác sĩ riêng của Trung Tướng Khánh, từ hướng phi trường xuống, tôi ngoắc lại:


“Anh Thành. Anh có biết Trung Tướng ở đâu không?


“Trung Tướng lên phi cơ đi rồi Thiếu Tá”.


“Chắc không anh, vì tôi nghe ông Trung Đoàn Trưởng đang chiếm giữ Bộ Tổng Tư Lệnh nói là Trung Tướng bị bắt rồi?


“Chắc chắn vì tôi đưa đi mà. Lúc phi cơ cất cánh có 2 chiếc Thiết Giáp chạy ra đường băng cản lại nhưng không kịp”.


“Trung Tướng đi đâu anh biết không?


“Tôi không rõ lắm, nhưng có thể là bay xuống Sư Đoàn 21 Bộ Binh (Bạc Liêu)”.


“Bây giờ tôi xuống nhà Thiếu Tướng Vỹ, anh có đi với tôi không?


“Tôi bận chút việc, nếu tiện thì tôi đến sau”.


“Vâng. Chào anh”.Vào nhà Thiếu Tướng Vỹ, hai ông bà rất thản nhiên chừng như không có việc gì xảy ra hết trơn.


“Lâu quá mới gặp anh. Anh chị mạnh khỏe chớ? Bà Vỹ thật vui khi nói với tôi như vậy.


“Cám ơn chị, tụi tôi vẫn thường thôi”.


“Hôm nay anh ở đây dùng cơm với vợ chồng tôi à nghe. Đây này, anh điện thoại về cho chị đi”. Vừa nói chị vừa đưa ống nói điện thoại cho tôi.


“Rất cám ơn chị và xin lỗi chị, chúng tôi có thân nhân từ Vĩnh Long lên thăm, nên chốc nữa phải quay về dùng cơm trưa chị à”.


Tôi vào chuyện nóng bỏng luôn:


“Thưa Thiếu Tướng, chắc Thiếu Tướng biết tin Trung Tướng Khánh đã xuống miền Tây rồi?


“Có. Tôi có biết”.


Lúc ấy tôi nghĩ mãi không ra là do đâu mà Thiếu Tướng Vỹ biết nhanh như vậy. Tôi thuật lại những gì tôi với bác sĩ Thành nói chuyện với nhau cho ông bà Vỹ nghe, sau đó tôi chào ông bà và trở lại Bộ Tổng Tư Lệnh, tìm gặp Trung Tá Thao:


“Anh Thao, Trung Tướng Khánh đã rời Sài Gòn bằng phi cơ lúc sáng, điều đó là xác thực. Tôi nghĩ là anh nên trình với Thiếu Tướng Phát mà cẩn thận, vì Trung Tướng Khánh nhiều thủ đoạn lắm, tôi e là không ổn đâu nghe”.


“Thiếu Tướng Phát nói với tôi là bắt ông Khánh rồi mà”.


“Tôi không nói Thiếu Tướng Phát nói không đúng, nhưng anh nên nghe tôi vì tin tôi nhận được là chính xác. Tùy anh”.


Tôi vào văn phòng và chờ xem nội vụ mà tôi tin là thất bại. Buổi trưa hôm ấy, các vị Tướng Lãnh họp trong căn cứ Không Quân để tìm biện pháp giải quyết. Các vị nhiệt tình nhất là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, và Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi. Kết quả buộc Thiếu Tướng Lâm Văn Phát phải rút quân.


Tôi nghĩ, Trung Tướng Khánh chắc là rất bằng lòng khi biết quyết định này, vì Hội Đồng Quân Đội thu hẹp dù không có ông nhưng đã giải quyết đúng theo ý ông. Nhưng, các vị Tướng lại họp nữa, và kết quả sau cùng là "trục xuất" Trung Tướng Khánh ra khỏi Hội Đồng Quân Đội, đồng thời buộc ông phải lưu vong.
Xin nói thêm rằng, sau cuộc Chỉnh Lý ngày 30 tháng 1 năm 1964, Thiếu Tướng Thi với Thiếu Tướng Kỳ là hai vị Tướng Lãnh ủng hộ Trung Tướng Khánh mạnh mẽ nhất, vì cả 3 vị này có cùng quan điểm là phải đánh ra Bắc mới giải quyết tận gốc chiến tranh. Mở cuộc chiến tranh vào lãnh thổ cộng sản miền Bắc là một quyết định chiến lược ngoài tầm tay và cả tầm vói của những vị lãnh đạo của chúng ta cho dù các vị đang nắm quyền lãnh đạo. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa chúng ta được Hoa Kỳ cung cấp trang bị cho một khả năng phòng thủ, mà chỉ là phòng thủ diện địa chớ không có khả năng chống không quân của địch nữa. Với hoàn cảnh "trói tay" như vậy, quan niệm đánh ra Bắc chỉ là một chiến lược không tưởng, dù rằng quan niệm này không phải là quá sớm. Nhưng dù sao thì những vị Tướng của chúng ta có một quan niệm chiến lược như vậy cũng là điều đáng mừng, vì bộc lộ một trách nhiệm cao độ trong chiến tranh gìn giữ quê hương.
Khi biết mình bị loại ra khỏi Hội Đồng Quân Đội, Trung Tướng Khánh gọi về văn phòng:


“Anh Hoa, anh tìm xem ông Đại Sứ Mỹ ở điện thoại nào và trình tôi ngay”.

“Trung Tướng đang ở đâu vậy?


“Vũng Tàu”.


“Vâng. Tôi thi hành”.

Sau khi tìm mãi không được, tôi điện thoại trình Thiếu Tướng Vỹ thì ông cho biết là Trung Tướng Khánh vừa liên lạc với ông Đại Sứ Mỹ rồi. Và theo Thiếu Tướng Vỹ biết thì ông Đại Sứ cho rằng, người Mỹ không can thiệp vào vấn đề chính trị nội bộ của Việt Nam Cộng Hòa. Điều này được hiểu là Trung Tướng Khánh không còn lối nào để thoát. Vậy là con đường lưu vong mà Trung Tướng Khánh thiết lập cho Đại Tướng Khiêm "khánh thành", kế đó là Trung Tướng Dương Văn Minh trong chức "đại sứ lưu động", và bây giờ chính ông là người lữ hành đơn độc trên con đường mà chính ông chỉ muốn dành riêng cho những vị Tướng mà ông xem như “kẻ thù”. Tôi nghĩ, Trung Tướng Khánh không ngờ rằng, tên ông cũng có trong danh sách những vị một thời là “nạn nhân quyền lực” của chính ông!
Xin mở ngoặc để ghi lại lời thuật của anh Võ Văn Nghi, vào một tối cuối tháng 11 năm 2003 tại thành phố Houston. Anh là bạn tôi, và anh đồng ý cho tôi bổ túc vào ấn bản lần 4 này.
Anh Võ Văn Nghi, tốt nghiệp khóa 10 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt năm 1954. Cấp bậc sau cùng (năm 1975) là Thiếu Tá, binh chủng Truyền Tin. Năm 1964, anh là Đại Úy Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn Truyền Tin/Bộ Tổng Tư Lệnh. Anh được cử vào chức vụ Sĩ Quan Truyền Tin/Phủ Thủ Tướng, với nhiệm vụ chính là cung cấp mọi dịch vụ liên lạc vô tuyến khi tháp tùng theo Trung Tướng Nguyễn Khánh. Cùng trong toán Truyền Tin lưu động với anh còn có Đại Úy Lê Văn Hòa. Anh Nghi với anh Hòa, luân phiên nhau trực đi theo Trung Tướng Khánh. Ngoài Đại Úy Nghi hoặc Đại Úy Hòa tùy phiên trực, trong toán Truyền Tin lưu động này còn có một Trung Sĩ và một Hạ Sĩ chuyên viên sử dụng máy WM2.
Giải thích của Phạm Bá Hoa: Ngày 1/11/1964, Trung Tướng Khánh đã tấn phong chánh phủ Trần Văn Hương, sau đó là chánh phủ Phan Huy Quát. Như vậy, Trung Tướng Khánh không còn ngồi trong Phủ Thủ Tướng nữa, nhưng theo lời anh Nghi thì Trung Tướng Khánh vẫn sử dụng bộ phận Truyền Tin của Phủ Thủ Tướng, vì cơ quan này có trang bị máy vô tuyến WM2, loại máy liên lạc được với tất cả các cơ quan hành chánh cũng như tất cả các đơn vị quân đội trên toàn quốc. Do vậy mà anh Nghi thuộc đơn vị Truyền Tin/Phủ Thủ Tướng. Điều này cũng được hiểu là khi bàn giao chức vụ Thủ Tướng, Trung Tướng Khánh vẫn giữ nguyên toán truyền tin đặc biệt và lưu động này theo ông, như là toán biệt phái đặc biệt. Hết phần giải thích.
Ngày 19 tháng 2 năm 1965, khi lực lượng Sư Đoàn 25 Bộ Binh do Thiếu Tướng Lâm Văn Phát điều động xâm nhập tiến chiếm một số cơ quan trọng yếu trong thủ đô Sài Gòn, thì anh Nghi đang bận việc ngoài phố dù là anh đang trong phiên trực, vì vậy mà anh không kịp đi theo Trung Tướng Khánh khi ông dùng phi cơ C47 dành riêng cho ông để thoát khỏi Sài Gòn. Sau đó, toán Truyền Tin của anh bên cạnh Trung Tướng Khánh báo tin cho anh hay, lúc ấy Trung Tướng Khánh đã đến Vũng Tàu. Và đây là lời của cựu Thiếu Tá Võ Văn Nghi:
''Nghe nhân viên báo tin, tôi vội dùng xe Jeep với bảng số dân sự chạy ra Vũng Tàu. Đến nơi, thì phi cơ cất cánh đi nữa rồi nhưng chưa rõ đi đâu. Tôi quay về Sài Gòn. May quá, được tin từ toán Truyền Tin lưu động cho biết là Trung Tướng Khánh sẽ đến Biên Hòa họp với các vị Tướng Lãnh ở đó. Tôi chạy lên Biên Hòa, lúc ấy Trung Tướng Khánh chưa đến. Thiếu Tướng Kỳ trông thấy tôi, ổng nói:
“Giờ này mà anh còn đi theo ông Khánh làm gì nữa”.
Ngưng một lúc để moi thêm trí nhớ, anh Nghi nói tiếp:
“Trung Tướng Khánh đến. Vào phòng họp, nhưng tôi không được vô. Một lúc sau, anh cận vệ bước ra nói với tôi là Thiếu Tướng Kỳ (Nguyễn Cao Kỳ) với Thiếu Tướng Thi (Nguyễn Chánh Thi) muốn Trung Tướng Khánh từ chức liền, nhưng Trung Tướng Khánh không đồng ý vì ông cho rằng, vụ chiếc tàu của cộng sản chở vũ khí đạn dược xâm nhập Việt Nam Cộng Hòa bị đánh chìm tại Rũng Rô (tỉnh Khánh Hòa, ngày 16/2/1965), đang là vấn đề quan trọng cần phải nghiên cứu để có biện pháp thích ứng với tình hình. Sau đó, Trung Tướng Khánh ra sân bay. Lên phi cơ. Tôi đi theo. Trung Tướng Khánh ra lệnh Đại Úy Đoàn, trưởng phi hành đoàn, bay ra Vũng Tàu (giải thích của Phạm Bá Hoa: từ đây, Trung Tướng Khánh gọi về văn phòng bảo tôi tìm ông Đại Sứ Hoa Kỳ cho ông liên lạc như tôi đã thuật ở trên).
Anh Nghi thuật tiếp:
“Khoảng giữa đêm, Trung Tướng Khánh ra lệnh tất cả lên phi cơ, cất cánh ra Nha Trang. Trước khi đáp xuống Nha Trang, ổng bảo tôi gọi cho ổng nói chuyện với ông Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh (dường như là Thiếu Tướng Lữ Lan). Tôi liên lạc được, nhưng khi trao ống nói cho Trung Tướng Khánh thì đầu máy bên kia không nói nữa. Lúc ấy phi cơ đáp phi trường Nha Trang. Trung Tướng Khánh và tùy tùng xuống phi cơ thì bị một toán Không Quân võ trang bao vây. Trung Tướng Khánh chưa có phản ứng gì thì Thượng Sĩ Ngàn trong phi hành đoàn, dõng dạc nói với toán Không Quân rằng: “Đây là chuyện của những vị Tướng Lãnh, mấy chú không được hành động gì với Trung Tướng (Khánh) cả”. Thế là toán Không Quân giải tán. Thật sự thì tôi không biết Thượng Sĩ Ngàn là người như thế nào trong Không Quân mà lời nói của ổng được toán quân nhân võ trang này nghe theo, nếu không thì tôi cũng chưa biết việc gì xảy ra nữa”.
Ngưng một lúc, anh Nghi thuật tiếp:
“Trung Tướng Khánh bảo tôi liên lạc với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ để ổng nói chuyện. Tôi liên lạc được với Thiếu Tướng Kỳ và xin ổng chờ nói chuyện với Trung Tướng Khánh, nhưng khi tôi trao ống nói cho Trung Tướng Khánh thì Thiếu Tướng Kỳ không nói nữa. Giống như trường hợp liên lạc với Thiếu Tướng Lữ Lan (?). Như vậy có lẽ là trung ương đã thông báo cho các đại đơn vị rồi, ít ra cũng là Sư Đoàn 25 Bộ Binh tại Quảng Ngãi (giải thích của Phạm Bá Hoa: lúc thành lập, Sư Đoàn 25 Bộ Binh đồn trú tại Quảng Ngãi, về sau di chuyển vào Củ Chi, Hậu Nghĩa). Khoảng 2 giờ sáng (ngày 20/2/1965), Trung Tướng Khánh ra lệnh mọi người lên phi cơ và cất cánh lên Đà Lạt. Căn cứ Không Quân Nha Trang không cho phi cơ cất cánh, nhưng Trung Tướng Khánh bảo cứ cất cánh, và phi cơ rời khỏi đường băng an toàn. Đại Úy Đoàn, trưởng phi cơ báo cáo có hai chiếc khu trục AD6 đã cất cánh từ Sài Gòn ra, có thể là họ đuổi theo chiếc phi cơ này. Trung Tướng Khánh bảo tắt đèn và bay thấp, đổi hướng đi Hong Kong. Nhưng vài phút sau đó, Trung Tướng Khánh bảo quay lại và bay lên Đà Lạt, đừng đáp Liên Khàng mà đáp sân bay Cam Ly (giải thích của Phạm Bá Hoa: Cam Ly là phi trường nhỏ, sát ngoại ô thành phố Đà Lạt). Phi cơ bay không đèn, sân bay cũng không đèn, cũng may là trời có trăng nên đáp an toàn. Tôi gọi mấy anh trong biệt điện đem xe dodge ra đón một cách lặng lẽ. Trung Tướng Khánh cho Đại Úy Đoàn 20.000 đồng như để khen thưởng anh điều khiễn phi cơ đáp an toàn trong đêm tối, rồi ông bảo mọi người nghỉ ngơi.
Tôi hỏi anh Nghi:
“Theo anh thì liệu có giới chức nào ở Đà Lạt biết Trung Tướng Khánh đến đây không?
“Tôi chắc là không ai biết đâu. Khoảng 10 giờ 30 trưa, anh Truyền Tin gọi tôi dậy vì Trung Tướng Khánh bảo tôi vào phòng gặp ông gấp, và ông ra lệnh: Anh (Đại Úy Võ Văn Nghi) thảo công điện gởi về Sài Gòn và phổ biến ngay, nói là tôi đồng ý thoái vị. Đồng thời yêu cầu các đơn vị đảo chánh hãy trở về vị trí”.
Tôi xin anh dừng lại để nêu câu hỏi cho rõ:
“Anh có nhớ rõ là Trung Tướng Khánh nói thoái vị hay nói từ chức?
Anh Nghi lặp lại:
“Trung Tướng Khánh nói thoái vị. Lúc ấy tôi thấy khó quá, vì đây là bản văn rất quan trọng mà ổng bảo tôi viết rồi gởi luôn. Tôi trình Trung Tướng Khánh:
“Xin Trung Tướng viết và tôi chuyển ngay”.
“Anh viết là được rồi”. Lời của Trung Tướng Khánh.
“Dạ, tôi viết rồi trình Trung Tướng ký”.
“Không cần. Viết xong anh chuyển đi ngay”.
“Viết xong tôi gọi về Truyền Tin Phủ Thủ Tướng và đọc “bạch văn” luôn. Tôi yêu cầu phổ biến ngay trên các đài phát thanh. Sau đó thì Trung Tướng Khánh trở về Sài Gòn. Ông có yêu cầu Bộ Tổng Tư Lệnh phải để cho các quân nhân phục vụ trực tiếp cạnh ông lâu nay, được chọn đơn vị phục vụ. Và tôi trở về chức vụ Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn Truyền Tin/Tổng Tư Lệnh”.
Đến đây là hết phần tường thuật của cựu Thiếu Tá Võ Văn Nghi. Xin đóng ngoặc và trở lại với Hội Đồng Quân Đội.
Lời yêu cầu sau cùng của Trung Tướng Khánh là xin Hội Đồng Quân Đội cử ông giữ chức Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Tây Ban Nha, Hội Đồng Quân Đội không đồng ý. Nhưng theo lời trình của Hội Đồng Quân Đội, Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu ký Sắc Lệnh thăng cấp Đại Tướng cho Trung Tướng Nguyễn Khánh. Phải chăng đây là hành động của Hội Đồng Quân Đội an ủi Đại Tướng Nguyễn Khánh lên đường lưu vong?
Dường như Đại Tướng Khánh “suy bụng ta ra bụng người” khi ông xin chức Đại Sứ, vì biện pháp mà ông loại trừ Đại Tướng Trần Thiện Khiêm với Trung Tướng Dương Văn Minh là ông cử đi làm “Đại Sứ lưu động” là xong. Một chức vụ tưởng như thưởng nhưng thật ra là phạt. Chức "Đại Sứ lưu động" là một chức vụ nghe rất lớn vì không phải chỉ làm Đại Sứ tại một quốc gia mà là nhiều quốc gia, chỉ tội một điều là không có tòa đại sứ, không xe không nhà, cũng không tùy tùng hay cận vệ, bởi chức vụ này chỉ dành cho những vị Tướng sa cơ thất thế! Cũng vì vậy mà báo chí thường nửa đùa nửa thật khi ví von câu: "được làm vua, thua làm đại sứ". Trong nửa năm qua (1964) sự thật là như vậy, nhưng sự thật này đã hạ thấp vai trò và trách nhiệm của những vị Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa trên chính trường quốc tế, và làm đau lòng những ai hằng quan tâm đến Quốc Gia Dân Tộc!
Ngày 25/02/1965, Đại Tướng Nguyễn Khánh rời Việt Nam tự đi làm "đại sứ lưu động" ở đâu đó. Trước khi lên phi cơ, Đại Tướng Khánh thể hiện “lòng yêu nước thương dân” của ông bằng cách hốt nắm đất cho vào cái túi nhỏ mà ông gọi là "nắm đất quê hương" để mang theo trên đường "nhậm chức đại sứ". Đến đây xem như xong màn bi hài kịch của một nghệ sĩ trình diễn. Nhưng khổ nỗi, nếu như nghệ sĩ tồi thì chỉ những khán giả thiệt hại về tiền bạc, về công sức, về thời gian, còn trường hợp Đại Tướng Khánh trong 4 chức vụ lãnh đạo cao nhất với những quyền uy tột đỉnh của đất nước Việt Nam: Quốc Trưởng + Thủ Tướng + Tổng Trưởng Quốc Phòng + Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ông đã gây tổn hại tinh thần, tổn hại nền nếp kỹ cương của quân đội, tổn hại uy tín quốc gia trên chính trường quốc tế, kể cả kẻ thù từ quốc gia phía bắc vĩ tuyến 17!
Theo tôi, giá mà Đại Tướng Nguyễn Khánh giữ những chức vụ lãnh đạo quân đội, điều binh khiễn tướng ở chiến trường thì thích hợp với ông hơn là nắm giữ chức vụ lãnh đạo quốc gia. Thật ra, Đại Tướng Khánh có phong cách và cái uy của vị Tướng xông pha trận mạc. Trong cách nhìn nào đó sau khi để qua một bên về khía cạnh chính trị và những gì thuộc về riêng tư, Đại Tướng Nguyễn Khánh, Đại Tướng Cao Văn Viên, và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí, mỗi vị có cách riêng của mình trong nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh, và cả ba vị đều là Tướng Lãnh rất xứng hợp trong vai trò lãnh đạo và chỉ huy quân đội trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc.
Tiếc thay, chỉ hơn một năm cầm đủ thứ quyền trong tay, Đại Tướng Khánh đã làm rối loạn nền nếp sinh hoạt chính trị lẫn kỷ cương quân đội. Phải công nhận Đại Tướng Khánh làm được nhiều việc, nhưng cái cốt lõi của vai trò lãnh đạo là đem lại sự đoàn kết mọi thành phần trong xã hội thành một khối để toàn dân một lòng gìn giữ quê hương, thì kết quả ngược lại. Liệu chúng ta có nên qui một phần trách nhiệm tinh thần cho Đại Tướng Trần Thiện Khiêm khi đưa Đại Tướng Nguyễn Khánh từ Tư Lệnh Quân Đoàn I lên đến chức vụ lãnh đạo quốc gia hay không, cho dẫu sự tiếp tay đó là vô tình đã tạo môi trường và cơ hội cho Đại Tướng Khánh thực hiện tham vọng chính trị? Nhưng nghĩ cho cùng, Đại Tướng Khiêm đã bị Đại Tướng Khánh bạc đãi đến mức hận thù rồi, không nên đè nặng lên tinh thần ông thêm nữa.
Xin nói thêm là cuối năm 1965, tôi nhận được bức thư dài 8 trang viết tay của Bà Trần Thiện Khiêm, 8 trang nhưng không có nghĩa là bức thư dài vì chữ viết của Bà rất to rất dễ đọc. Có đoạn Bà cho biết, dù đối xử không tốt với gia đình Bà, nhưng Đại Tướng Khánh cùng với Trung Tướng Đỗ Cao Trí, (đã tử nạn trực thăng trong cuộc hành quân vượt biên năm 1970) đã đến Washington D.C. sống trong gia đình Bà hằng tháng trời dù Bà không mời, khi Bà viết câu:
"khách không mời mà cứ đến cứ ở".
Đến đây tôi xin mở ngoặc để thuật lại câu chuyện liên quan mà tôi đã trao đổi với cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trong cuộc điện đàm tối 21 tháng 10 năm 2003. Sau khi ông hỏi tôi những chi tiết trong cuộc đảo chánh này, tôi liền hỏi lại ông: (trong câu chuyện, cựu Đại Tướng Khiêm xưng là anh Tư và ông gọi tôi là chú, tôi thì xưng em)


“Thưa anh Tư, em xin hỏi anh Tư trong vụ Thiếu Tướng Phát đảo chánh ngày 19 tháng 2 năm 1965, theo lời Trung Tá Lê Hoàng Thao nói với em là có Trung Tá Phạm Ngọc Thảo từ tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ về tham gia, dự trù khi thành công thì anh Tư về cầm quyền. Điều đó có đúng không anh Tư?


“Trời ơi! Bây giờ chú hỏi Anh mới biết là tại sao lúc đó mấy anh nhà báo Mỹ nhất là tờ Washington Post theo phỏng vấn Anh. “Họ hỏi Anh biết gì về cuộc đảo chánh đó?” Anh trả lời là Anh không biết gì hết, và đang chờ tin tức từ Việt Nam. Còn cái vụ ông Thảo về Việt Nam là do ông Khánh (Trung Tướng Nguyễn Khánh) gởi công điện gọi ông Thảo về gấp đó. Anh có nghe nói là khi ông Thảo về tới phi trường Tân Sơn Nhất, được người nào đó cho biết là ông Khánh đã phái người chận bắt ông Thảo đem đi giết, nên người đó giúp ông Thảo chạy trốn luôn. Về sau, bị nhóm nào đó bắt được và giết chết”.


“Vậy thì anh Lê Hoàng Thao đã không đúng”.


Xin đóng ngoặc, trở lại Bộ Tổng Tư Lệnh.
Hội Đồng Quân Đội cử Trung Tướng Trần Văn Minh giữ chức Quyền Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. (Trung Tướng Minh nói ở đây không phải Trung Tướng Trần văn Minh sau này là Tư Lệnh Không Quân). Chức vụ đứng đầu quân đội hơn 600 ngàn quân, một lần nữa không có ai bàn giao cho người nhận chức. Không quốc kỳ, không quân kỳ, không vị nào chủ tọa, cũng không sĩ quan nào tham dự, chỉ mỗi Trung Tướng Minh và vài sĩ quan thân cận vào nhận việc một cách lặng lẽ! Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà "xuống giá" đến mức thảm thương như vậy đó! Thảm thương đến mức không bằng buổi bàn giao chức vụ Trung Đội Trưởng bộ binh khi tôi tốt nghiệp Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức nữa, vì dù sao cũng có Trung Úy Đại Đội Trưởng của tôi -Trung Úy Nguyễn Văn Thảo- chủ tọa giao nhận đàng hoàng, có bắt tay chúc mừng thân mật, và cùng nâng chén nước trà bên bụi chuối tại khu vực hành quân trong vùng hẻo lánh thuộc Quận Tam Bình tỉnh Vĩnh Long vào thượng tuần tháng 2 năm 1955.
Đây là lần thứ tư thay đổi chức vụ đứng đầu quân đội mà không có bàn giao. Lần thứ nhất ngay sau ngày lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm thành công, Trung Tướng Trần Văn Đôn nhận chức ngày 2 tháng 11 năm 1963, lúc ấy Đại Tướng Lê Văn Tỵ nằm quân y viện. Lần thứ nhì, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm nhận chức ngày 30 tháng 1 năm 1964, lúc ấy Trung Tướng Trần Văn Đôn đã bị bắt. Lần thứ ba, Trung Tướng Nguyễn Khánh nhận chức ngày 7 tháng 10 năm 1964, lúc bấy giờ Đại Tướng Trần Thiện Khiêm vừa rời Việt Nam lưu vong.
Trung Tướng Minh không thay đổi tổ chức cũng như nhân viên văn phòng, ngoại trừ Đổng Lý Văn Phòng và Bí Thư của ông. Rất có thể vì chức vụ của ông có chữ "Quyền" đứng trước có nghĩa là "tạm thời", nên ông không thay đổi gì cả, và ông cũng không hề thăm bất cứ một đơn vị nào, thậm chí ngay cả các Phòng của Bộ Tổng Tư Lệnh cũng không được ông ghé mắt vào nữa. Nhưng tại văn phòng, Trung Tướng Minh giải quyết công việc tương đối nhanh chóng và dứt khoát. Phải công nhận là ông xử sự với tất cả quân nhân viên chức rất lịch sự. Không bao giờ ông gọi anh này anh kia, mà bao giờ ông cũng dùng tiếng "vous" (tiếng Pháp) bất luận trước mặt ông là anh tùy phái hay vị sĩ quan.
Tôi không rõ thời oanh liệt của Trung Tướng Minh ra sao, nhưng trong chức vụ Quyền Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ông không khác vị công chức sắp về hưu bao nhiêu, cứ như "sáng vác ô đi tối vác về" đều đặn như vậy trong mấy tháng ngồi trong phòng rộng lớn chính giữa tầng lầu 2 tòa nhà chánh của trại Trần Hưng Đạo.
Bên phải bàn giấy của ông là những cửa kiến nhìn xuống võ đình trường rộng lớn uy nghi, với cột cờ cao vời vợi mà trên đỉnh là lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ tung bay trong gió. Cũng từ đây nhìn bao quát là những dãy nhà 2 tầng với kiến trúc khang trang mang dáng vấp phương Tây, dùng làm các phòng sở cơ quan trực thuộc ẩn hiện dưới những tán cây nhiều bóng mát, tô điểm thêm những nét chấm phá cho bản doanh cơ quan cao nhất của quân đội: "Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa". Một cơ quan có đến 2.000 quân nhân viên chức, trong số có rất nhiều Tướng Lãnh và sĩ quan cao cấp. Chính nơi đây, những vấn đề chiến lược chiến thuật được các phòng sở cơ quan nghiên cứu, soạn thảo, ban hành về tổ chức, trang bị, huấn luyện, nuôi dưỡng, và điều khiễn hành quân chống trả quân cộng sản xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa trong mục tiêu chiến lược bành trướng chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới nói chung, và Việt Nam Cộng Hòa trong bối cảnh một Đông Nam Á cộng sản nói riêng. Nhưng không biết là Trung Tướng Minh có khi nào đứng bên cửa sổ nhìn bao quát khuôn viên trại Trần Hưng Đạo này, để mà thấy rõ trách nhiệm của người có đủ tư cách và quyền uy ngồi vào chiếc ghế Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hay không?
Chức vụ Quyền Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa của Trung Tướng Trần Văn Minh, kéo dài đến một ngày tính ra chỉ được gần 4 tháng ….




 CHƯƠNG V

HỒI KÝ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA: QUÂN ĐỘI LÃNH ĐẠO QUỐC GIA NGÀY 19 THÁNG 6 NĂM 1965






1 2 3 4 5 6 7 8 9 10



Từ ngày lên cầm quyền, gần như chẳng mấy khi giữa Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu với Thủ Tướng Phan Huy Quát đồng quan điểm về chính sách quốc gia. Không biết trước kia giữa hai vị có điều gì bất hòa nhau hay không, mà trong giai đoạn hai vị là người lãnh đạo cao nhất nước, đang gánh vác trách nhiệm quản trị quốc gia trong thời chiến, nhưng có vẻ như đang quay lưng vào nhau. Thật là đáng buồn!



Bác sĩ Phan Huy Quát nhận chức Thủ Tướng ngày 16/02/1965. Hơn một tuần sau đó, Đại Tướng Nguyễn Khánh rời Việt Nam (25/02/1965) lưu vong. Vào những ngày đầu trung tuần tháng 06 năm 1965, Thủ Tướng Phan Huy Quát gởi đến Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Trưởng Quốc Phòng, một văn thư quay roneo dài 2 trang giấy dầy, khổ 21x33 phân tây, có đóng dấu của Thủ Tướng. Văn thư này có thông báo Trung Tướng Trần Văn Minh, Quyền Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tôi đã đọc nó. Lúc ấy tôi là Thiếu Tá, Trưởng Phòng Quân Sự Vụ/Nha Đổng Lý Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.





Xin được nhắc lại rằng, sau cuộc Chỉnh Lý ngày 30/01/1964, Trung Tướng Nguyễn Khánh trong chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, hành sử chức năng Quốc Trưởng, đã ban hành Sắc Lệnh vào đầu tháng 4 năm 1964, hệ thống hóa tổ chức quân đội dưới danh xưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, bao gồm: Hải Quân, Lục Quân, Không Quân, và Địa Phương Quân Nghĩa Quân. Trong khi đó, Bộ Tổng Tham Mưu trở thành Bộ Tổng Tư Lệnh, và văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng cũng biến cải lại thành Nha Đổng Lý Bộ Tổng Tư Lệnh gồm: Phòng Quân Sự Vụ mà tôi là Trưởng Phòng. Phòng Dân Sự Vụ do Thiếu Tá Hoàng Ngọc Tiêu -tức nhà thơ Cao Tiêu- Trưởng Phòng. Và Phòng Báo Chí do Thiếu Tá Tâm làm Trưởng Phòng. Với tổ chức và phương thức điều hành của Nha Đổng Lý, hầu như tất cả Văn Thư của các Phòng Sở Bộ Tổng Tư Lệnh đều đến Phòng Quân Sự Vụ để trình vào Trung Tướng Tổng Tư Lệnh. Về tổ chức Nha Đổng Lý, tôi nghĩ rằng, trong quân đội và ngay cả trong phạm vi Bộ Tổng Tư Lệnh, rất ít sĩ quan biết đến, vì đây là một tổ chức rất xa lạ với những sĩ quan tham mưu hiểu biết về tổ chức trong quân đội.


Xin trở lại Văn Thư của Thủ Tướng Phan Huy Quát. Nội dung nói lên sự bất đồng quan điểm giữa Thủ Tướng với Quốc Trưởng về vấn đề thay đổi nhân sự cấp Bộ trong chánh phủ. Vấn đề chưa kết thúc, bỗng dưng Quốc Trưởng cho biết là ông từ chức. Như vậy, chánh phủ cũng phải từ chức theo. Sau cùng, Thủ Tướng Quát yêu cầu Hội Đồng Quân Đội, hãy nhân danh quân đội mà nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo quốc gia trong giai đoạn cực kỳ khó khăn hiện nay. Xin nói thêm là ngay sau cuộc Chỉnh Lý, tổ chức đại diện quân đội vẫn sử dụng danh xưng là Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng như trước đó. đến tháng 11 năm 1964 thì tổ chức này cải danh là Hội Đồng Quân Đội.


Do văn thư đó, Hội Đồng Quân Đội họp liên tục trong căn cứ Không Quân, và kết quả là Hội Đồng đồng ý nhận lời yêu cầu của Thủ Tướng Phan Huy Quát. Để thực hiện trách nhiệm lãnh đạo quốc gia, Hội Đồng quyết định thành lập một tổ chức với danh xưng “Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia” để lãnh đạo theo nguyên tắc “Ủy Ban quyết định, những thành viên thi hành”. Thành viên Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia trên căn bản theo chức vụ đương nhiệm trong quân đội là 11 vị, gồm: Chủ Tịch. Tổng Thư Ký. Thủ Tướng. Tổng Trưởng Quốc Phòng. Tổng Tham Mưu Trưởng. Tư Lệnh Hải Quân. Tư Lệnh Không Quân. Tư Lệnh Quân Đoàn I, Tư Lệnh Quân Đoàn II, Tư Lệnh Quân Đoàn III, và Tư Lệnh Quân Đoàn IV.


Sau cuộc tham khảo bầu chọn, kết quả các chức vụ như sau: (1) Chủ Tịch: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu. (2) Tổng Thư Ký: Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu. (3) Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, tức Thủ Tướng: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Thiếu Tướng Kỳ còn kiêm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Không Quân. (4) Tổng Ủy Viên Chiến Tranh tức Tổng Trưởng Quốc Phòng: Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có. Thiếu Tướng Có còn kiêm nhiệm chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Các thành viên: (5) Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân. (6) Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I. (7) Thiếu Tướng Vĩnh Lộc, Tư Lệnh Quân Đoàn II. (8) Thiếu Tướng Cao Văn Viên, Tư Lệnh Quân Đoàn III. (9) Thiếu Tướng Đặng Văn Quang, Tư lệnh Quân Đoàn IV.


Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ gọi nội các của ông là “nội các chiến tranh”. Trong nội các chiến tranh của ông có một Bộ mới thành lập, đó là Bộ Xây Dựng Nông Thôn, và Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng được cử giữ chức Tổng Trưởng. Bộ này đáp ứng nhu cầu bình định nông thôn trong chiến lược tách dân ra khỏi sự kiểm soát của cộng sản. Nhớ lại sau cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, chánh phủ Nguyễn Ngọc Thơ rất lúng túng với chính sách Ấp Chiến Lược thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm để lại. Với chánh phủ của Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ, chính sách Ấp Chiến Lược được phát triển đến mức có một Bộ phụ trách, và Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng được đánh giá là một Tướng Lãnh có khả năng, nhiệt tâm, cương quyết, được xem là trong sạch, lãnh đạo Bộ này (và những Đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn lần lượt ra đời từ kế hoạch của Thiếu Tướng Thắng).


Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia theo thành phần nói trên là 11 vị, nhưng vì Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng, và Thủ Tướng Kiêm Tư Lệnh Không Quân, nên thực tế chỉ có 9 vị. Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia chọn ngày 19 tháng 06 năm 1965 ra mắt tân chánh phủ, với danh xưng “Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương”. Đó cũng là ngày đánh dấu Quân Đội nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc gia. Cũng vì vậy mà ngày 19 tháng 6 được Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia chọn làm “Ngày Quân Lực”. Còn “Quốc Khánh” vẫn giữ ngày 1 tháng 11 hằng năm. Sau khi bàn giao chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II xong, Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có điện thoại cho tôi:


“Anh Hoa, anh ở lại đó phụ tá cho anh Tài nghe”.
“ Vâng. Cám ơn Thiếu Tướng”.


“Anh phụ trách về hồ sơ công văn của Bộ Tổng Tham Mưu, anh Tài (Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tài) sẽ là chánh văn phòng và có những công tác đặc biệt. Bây giờ anh chuẩn bị lễ bàn giao giữa Trung Tướng Minh với tôi vào ngày 15 tháng 7 (năm 1965). Anh trình Trung Tướng Minh rồi điện thoại cho tôi biết ngay”.


“Tôi nghĩ là Thiếu Tướng nên nói chuyện trực tiếp với Trung Tướng Minh thảo luận nhanh hơn, thưa Thiếu Tướng”.


“Anh trình với Trung Tướng Minh là được rồi”.

“Vâng. Tôi trình Trung Tướng Minh và sẽ trình lại Thiếu Tướng sau”.


Tôi vào trình cho chánh văn phòng là Trung Tá Trần Văn Quiền (không phải tôi viết sai đâu mà tên của ông là như vậy đó), Trung Tá Quiền bảo tôi vào trình trực tiếp với Trung Tướng Minh. Tôi thi hành:


“Thưa Trung Tướng, Thiếu Tướng Có từ Pleiku điện thoại về bảo tôi trình Trung Tướng là ngày bàn giao chức vụ Tổng Tư Lệnh sẽ tổ chức vào ngày 15 tháng 07 thưa Trung Tướng”.


Xin giải thích. Bộ Tổng Tham Mưu do Trung Tướng Khánh cải danh thành Bộ Tổng Tư Lệnh, khi Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia hình thành thì Ủy Ban quyết định sử dụng lại danh xưng Bộ Tổng Tham Mưu, trong lúc giao thời này Thiếu Tướng Có gọi là Bộ Tổng Tham Mưu nhưng Trung Tướng Minh vẫn gọi Bộ Tổng Tư Lệnh.


“Vous cứ nói với ông Có là ngày nào cũng được. Hôm đó tôi mặc quân phục đại lễ”.

“Vâng. Tôi sẽ trình lại Thiếu Tướng Có như vậy”.

Trung Tướng Trần Văn Minh (không phải là Trung Tướng Trần Văn Minh mà sau này là Tư Lệnh Không Quân, cũng không phải là Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô), thường dùng tiếng chữ “vous” (Pháp ngữ) khi tiếp chuyện hay khi ra lệnh, lời của ông chậm rãi, từ tốn, rõ ràng, chẳng mấy khi tôi thấy ông nổi giận. Tôi điện thoại lên Pleiku:


“Thưa Thiếu Tướng, Trung Tướng Minh đồng ý ngày bàn giao 15 tháng 7, và buổi lễ hôm đó Trung Tướng Minh mặc quân phục đại lễ 4 túi”.

“Không được. Anh trình với Trung Tướng Minh là tôi mặc quân phục tác chiến. Mình đang trong tình trạng chiến tranh mà”.


Tôi vào trình Trung Tá Quiền, ông vẫn bảo tôi vào trình Trung Tướng Minh.

“Thưa Trung Tướng, Thiếu Tướng Có sẽ mặc quân phục tác chiến và Thiếu Tướng Có xin Trung Tướng cũng mặc như vậy”.


“Vous nói với Thiếu Tướng Có mặc gì thì tùy ông ấy. Còn tôi, tôi sẽ mặc 4 túi”.




Trình qua trình lại, cuối cùng thì hai vị mặc quân phục theo ý riêng của mình. Một vị mặc quân phục tác chiến màu xanh lá cây, một vị mặc quân phục đại lễ màu trắng. Phải chăng vì Trung Tướng Minh đang Quyền Tổng Tư Lệnh (chữ “quyền” đồng nghĩa với tạm thời), một chức vụ mà ông thừa biết là Hội Đồng Quân Đội dùng ông để tạm thời trám vào cái khoảng trống đó trong khi tìm người chánh thức, nên ông không chấp nhận ảnh hưởng của vị Tướng nào cả? Cũng có thể vì ông là vị Tướng thâm niên, mà ông không sẵn lòng chịu sự ngang hàng với vị Tướng cấp nhỏ mà lại ít thâm niên, cho dù lời yêu cầu của Thiếu Tướng Có không có gì là kém trang trọng?


Rồi những trục trặc trong lễ bàn giao ngày 15/07/1965 tại võ đình trường Bộ Tổng Tư Lệnh do Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, chủ tọa. Theo lễ nghi quân cách, quan trọng nhất là lúc trao quân kỳ Bộ Tổng Tư Lệnh theo tuần tự như sau:


Thủ quân kỳ trao cho Trung Tướng Trần Văn Minh.


Trung Tướng Minh trao cho Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, biểu tượng cho trách nhiệm và quyền hạn Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chấm dứt từ giờ phút này.


Trung Tướng Thiệu, với tư cách Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chủ tọa buổi lễ, sau khi dõng dạc tuyên bố trao trách nhiệm cho Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có từ giờ phút này, là ông trao quân kỳ cho Thiếu Tướng Có, biểu tượng trách nhiệm và quyền hạn của vị Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu từ giờ phút này.


Thiếu Tướng Có với quân kỳ trong tay, ông tuyên bố nhận trách nhiệm trước vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao và hứa sẽ hoàn thành trách nhiệm, rồi trao quân kỳ lại “thủ quân kỳ”.


Nhưng cái trục trặc rất ư là kỳ cục lại xảy ra, vì Trung Tướng Minh không chịu nhận quân kỳ từ tay của quân nhân “thủ quân kỳ”, cho nên quân nhân “thủ quân kỳ” phải ngập ngừng một lúc rồi bước đến trao thẳng cho Trung Tướng Thiệu. Sự kiện này làm Trung Tướng Thiệu phải mất vài chục giây ngỡ ngàng mới đưa tay nhận. Lại thêm vài chục giây ngỡ ngàng nữa trước khi ông tuyên bố trao quân kỳ cho Thiếu Tướng Có. Rõ ràng là Trung Tướng Minh không tôn trọng lễ nghi quân cách, dù rằng ông là vị Tướng rất thâm niên mà lại xuất thân từ trường sĩ quan của quân đội Pháp. Quốc kỳ biểu tượng một quốc gia, quân kỳ biểu tượng một đơn vị. Trong tất cả quân kỳ thì quân kỳ Bộ Tổng Tư Lệnh là cao nhất vì đó là biểu tượng của một quân đội, nhưng hôm nay -ngày 15 tháng 7 năm 1965- quân kỳ Bộ Tổng Tư Lệnh được bàn giao như vậy đó! Là một quân nhân, tôi cảm nhận một nỗi buồn!


Giao nhận xong, Bộ Tổng Tư Lệnh trở lại với danh xưng “Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa”. Giải tán Nha Đổng Lý và tổ chức lại “văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng” như trước. Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tài giữ chức Chánh văn phòng, tôi phụ tá cho anh.


Nhận chức xong, ngoài công tác ở bàn giấy và những lần đi thăm các đại đơn vị, Thiếu Tướng Có cho xây tấm vách chắn ngang “cây đòn dông” của Trung Tâm Hành Quân, theo đường thẳng tưởng tượng chỉa thẳng vào giữa văn phòng ông Tổng Tham Mưu Trưởng. Cũng vì “cây đòn dông” này mà khi Trung Tướng Trần Thiện Khiêm nhận chức Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng vào ngày 31 tháng 1 năm 1964, bà Khiêm bảo tôi nhờ người treo cái kính soi mặt thật lớn dóng hướng và treo lên đó, nhằm làm cho “cây đòn dông” nếu kéo dài theo đường thẳng tưởng tượng sẽ đụng vào tấm kiếng mà “không vào” bên trong được. Và việc thứ hai là Thiếu Tướng Có cho dời hai ngôi mộ của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu ra nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, nơi đã dự trù hạ huyệt ngày 5 tháng 11 năm 1963 nhưng đã không thực hiện được. Thiếu Tướng Có cho rằng, “cây đòn dông và hai ngôi mộ” đã là những điều không may cho Bộ Tổng Tham Mưu trong thời gian qua. Đúng hay không thì sau đó mới rõ, nhưng có điều là thêm một vị Tướng mang cả lòng tin về tướng số, tử vi, địa lý vào chức vụ cao nhất của quân đội.


Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có kiêm nhiệm chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng đúng 3 tháng. Ngày 15 tháng 10 năm 1965, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu lại chủ tọa buổi lễ Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có bàn giao chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng cho Thiếu Tướng Cao Văn Viên.


Xin nhắc lại, Thiếu Tướng Viên sau khi bàn giao chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân, lên Biên Hòa nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn III. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn cùng các đơn vị trực thuộc, di chuyển từ trại Lê Văn Duyệt, Quận 3 Sài Gòn, lên đồn trú ở Biên Hòa sau cuộc Chỉnh Lý ngày 30/01/1964. Nay, Thiếu Tướng Viên trở lại Bộ Tổng Tham Mưu với chức vụ cao hơn trước.


Từ sau cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng đã lần lượt trong tay 6 vị “Nguyên Soái” mà trong đó 4 lần không có bàn giao, 1 lần bàn giao không đúng lễ nghi quân cách. Và ngày 15 tháng 10 năm 1965 là lần bàn giao thứ 6. Lễ bàn giao tuy mức độ trang trọng không đạt đúng chức vụ đứng đầu quân đội, nhưng giao nhận đàng hoàng. Lần thứ nhất, Trung Tướng Trần Văn Đôn nhận chức ngày 02/11/1963 sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ và bị giết chết. Lần thứ hai, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, nhận chức ngày 31/01/1964 sau khi Trung Tướng Trần Văn Đôn bị bắt. Lần thứ ba, Trung Tướng Nguyễn Khánh nhận chức ngày 08/10/1964 sau khi Đại Tướng Trần Thiện Khiêm lưu vong ngày hôm trước (07/10/1964). Lần thứ tư, Trung Tướng Trần Văn Minh, nhận chức ngày 26/02/1965 sau khi Đại Tướng Nguyễn Khánh lưu vong ngày hôm trước (25/02/1965). Lần thứ năm (15/07/1965), Trung Tướng Minh bàn giao cho Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có không đúng lễ nghi quân cách. Và lần thứ sáu là ngày 15/10/1965 này, bàn giao giữa Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có với Thiếu Tướng Cao Văn Viên, đúng lễ nghi quân cách.


Chưa tròn 2 năm mà thay đổi 5 vị Tổng Tham Mưu Trưởng, và Thiếu Tướng Cao Văn Viên là vị Tổng Tham Mưu Trưởng thứ 6. Nếu đem thời gian chia đều thì mỗi vị chỉ ngồi ghế Tổng Tham Mưu Trưởng có bốn tháng rưỡi, thử hỏi làm sao xây dựng được chiến lược chiến thuật thích ứng với mọi biến chuyển của tình hình để quân đội nắm quyền chủ động trên chiến trường, trong khi tình hình quân sự ngày càng đẫm máu với những trận đánh cấp Trung Đoàn, Sư Đoàn. Từ ngày quân bộ chiến Hoa Kỳ và Đại Hàn trực tiếp tham chiến, một số Sư Đoàn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chúng ta gần như tập trung vào những cuộc hành quân yểm trợ bình định nông thôn chung quanh các thành phố thị trấn, ngoại trừ lực lượng của Quân Đoàn IV vùng đồng bằng Cửu Long là vẫn trong thế chủ động, vì vùng này chỉ có căn cứ của Sư Đoàn 9 Bộ Binh Hoa Kỳ ở Mỹ Tho, và Sư Đoàn này chỉ giới hạn hoạt động ở bờ bắc sông Tiền (hay Tiền Giang) thôi.


Nếu cứ cái đà tranh giành như thế này hoài thì bất cứ vị Tướng vị Tá nào có tính liều mạng hay bốc đồng, cũng có thể lên cầm quyền chơi mỗi người mấy tháng nếu được vài đơn vị ủng hộ. Để rồi khi bị đẩy ra khỏi chiếc ghế lãnh đạo cũng còn hi vọng vớt vát cái chức “Đại Sứ tại chỗ” hoặc “Đại Sứ lưu động” chớ có thua thiệt gì đâu. Sự thua thiệt là ở những ai tha thiết với tổ quốc dân tộc, và hơn nửa triệu quân nhân dưới cờ là thua thiệt nhất, vì ngày đêm Họ miệt mài với chiến trận để ngăn chận quân cộng sản xâm lăng, trong khi trung ương thì thường xuyên trong tình trạng rối ren do giành giựt!


Nhận bàn giao xong, Thiếu Tướng Cao Văn Viên cho dọn sang văn phòng mới vừa xây dựng xong, và kiến trúc này do Trung Tướng Khánh cho khởi công từ tháng cuối năm 1964. Thiếu Tướng Viên có quyết định dọn ngay trong ngày bàn giao, một phần cũng vì Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có không chịu dời văn phòng của ông sang Bộ Quốc Phòng. Đây cũng là một hành động kỳ cục của Thiếu Tướng Có. Ông có hai chức vụ mà cả hai chức vụ đều thuộc loại nhất nhì đối với quân đội, và sau khi bàn giao cho Thiếu Tướng Viên chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng, ông còn lại chức Tổng Trưởng Quốc Phòng chớ có phải “ngồi chơi xơi nước” đâu mà ông lại tranh chỗ ngồi của ông Tổng Tham Mưu Trưởng mới nhận chức do chính ông bàn giao. Điều kỳ cục này dẫn đến sự cãi cọ giữa hai phu nhân của hai vị Tướng. Tuy chưa phải là lớn chuyện, nhưng cũng là “thành tích chẳng đáng khuyến khích” chút nào trong ngũ lãnh đạo!


Tôi, với chức vụ phụ tá chánh văn phòng khi Thiếu Tướng Có là Tổng Tham Mưu Trưởng, tôi chuẩn bị bàn giao cho Thiếu Tá Vĩnh Thái vì tôi phụ trách toàn bộ hồ sơ văn phòng, còn Thiếu Tá Thái là chánh văn phòng Tư Lệnh Quân Đoàn III, theo Thiếu Tướng Viên về Bộ Tổng Tham Mưu. Trong lúc chúng tôi giao nhận từng thành phần hồ sơ nhất là hồ sơ xếp vào loại mật và tối mật mà tôi giữ trong tủ sắt ngay sau lưng tôi, Thiếu Tướng Cao Văn Viên bước vào:


“Chú Hoa không bàn giao gì hết. Tôi cử chú vào chức vụ chánh văn phòng. Còn chú Thái sẽ nhận nhiệm vụ khác”.

Thật ra thì hai ngày trước đó, bà Cao Văn Viên có điện thoại tôi:

“Chú Hoa, Thiếu Tướng cử chú làm chánh văn phòng đó nghe”.


“Còn anh Vĩnh Thái thì sao Chị? Em ngại sẽ mích lòng với anh ấy”.

“Chú không lo. Thiếu Tướng nói chú Thái thuyên chuyển sang Bộ Quốc Phòng”.

“Vậy thì em nhận, và cám ơn Chị”.

Sau đó, Thiếu Tá Vĩnh Thái được cử vào chức vụ Tùy Viên Quân Sự tại tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Đại Hàn Dân Quốc.


Thiếu Tá Vĩnh Thái, năm 1960 đang dạy tại Trường Sinh Ngữ Quân Quân Đội. Sau ngày 11/11/1960, thuyên chuyển sang Lữ Đoàn Nhẩy Dù, giữ chức chánh văn phòng Tư Lệnh mà lúc đó Đại Tá Viên vừa nhận chức Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù. Lần lượt theo Thiếu Tướng Viên về văn phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, rồi lên Quân Đoàn III. Vì gắn bó như vậy mà tôi rất thận trọng không dám nhận lời khi Thiếu Tướng Viên điện thoại cho tôi trước khi bà Viên giải thích. Anh Thái cũng là người thường đến Viện Đại Học nhận giùm bài học đem về cho Thiếu Tướng Viên, đang là sinh viên của Đại Học Văn Khoa. Tôi nghĩ, việc Thiếu Tướng Viên cử tôi vào chức vụ chánh văn phòng, rất có thể là do tôi quen việc nơi đây, cũng có thể là ông nghĩ đến ngày 01/11/1963 khi tôi nhận trách nhiệm đưa ông từ “phòng tạm giữ” lên ngồi trong văn phòng tôi. Thật ra thì lúc bấy giờ hành động của tôi chỉ nhằm giúp Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm (cấp bậc đến ngày 01/11/1963), tránh được điều khó xử với bạn của ông thôi.


Vậy là tôi với Đại Úy Nguyễn Hữu Có, trước đây là chánh văn phòng và tùy viên của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, nhưng giữa năm 1964 Đại Úy Có thuyên chuyển sang Nhẩy Dù làm sĩ quan tùy viên cho Thiếu Tướng Cao Văn Viên. Bây giờ, sau hơn một năm, hai chúng tôi ráp lại trong chức vụ chánh văn phòng và tùy viên của Thiếu Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng.


Ngày 01/11/1965, Quốc Khánh Việt Nam Cộng Hòa, Thiếu Tướng Cao Văn Viên được thăng cấp Trung Tướng. Cùng thăng cấp Trung Tướng với ông còn có nhiều vị nữa, và trong số đó có Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có, Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, Thiếu Tướng Đặng Văn Quang.


Tháng sau đó, tôi được thăng cấp Trung Tá.




Trung Tướng Cao Văn Viên có vóc dáng cao lớn, thường luyện tập Yoga, với bộ quân phục nhẩy dù, trông ông rất khỏe mạnh. Ông có đủ dáng vẻ của vị Tướng chiến trường. Trung Tướng Viên rất xông xáo, thường đến thăm các đơn vị nhất là các đơn vị đồn trú và hoạt động Vùng I Chiến Thuật và Vùng II Chiến Thuật.


Từ giữa năm 1965 là thời gian bắt đầu và dồn dập có nhiều đơn vị Đồng Minh -nhất là Hoa Kỳ- lần lượt đổ quân vào Việt Nam. Trung Tướng Viên thường được cử thay mặt Chánh Phủ và nhân danh Tổng Tham Mưu Trưởng, có mặt tại các địa điểm đổ bộ để chào đón quân bạn. Đơn vị đầu tiên mà Trung Tướng Viên chào đón kể từ sau ngày nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng, là Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Chu Lai, còn gọi là vịnh Dung Quất.


Vậy là Hoa Kỳ đã thực hiện được mục tiêu chiến lược của họ, “chiến lược Domino” mà trong thực tế là những căn cứ quân bộ chiến của Hoa Kỳ trải dài như những mắt xích nối liền nhau từ Đại Hàn xuống Nhật Bản, sang Đài Loan, Phi Luật Tân, đến Việt Nam Cộng Hòa, và Thái Lan. Những căn cứ này là những nơi xuất phát lực lượng Hải Quân, Lục Quân, Không Quân, có khả năng ngăn chận chiến tranh xâm lược của cộng sản tấn công các quốc gia trong vùng Đông Nam và Đông Bắc Á Châu. Quân Lực Hoa Kỳ trong vùng Thái Bình Dương, được trang bị nhiều loại vũ khí tối tân mới được sử dụng lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ đã nỗ lực thuyết phục Tổng Thống Diệm, nhưng đã bị Tổng Thống Diệm khước từ một cách cứng rắn.


Xin mở ngoặc để nói đến cuộc phỏng vấn ngày 18/10/2003, giữa ông Hồng Phúc của đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại từ Washington DC, với ông Bùi Tín cựu Đại Tá quân đội cộng sản từ Paris. Khi ông Hồng Phúc yêu cầu ông Bùi Tín cho một quan điểm như là so sánh giữa Tổng T.....hống Ngô Đình Diệm với ông Hồ Chí Minh. Ông Bùi Tín nói rằng, theo quan điểm của ông thì ông Ngô Đình Diệm (ông Bùi Tín không dùng chữ chức vụ Tổng Thống) yêu nước thật sự vì sau khi nhận chức Thượng Thư Bộ Lại khoảng 4 tháng thì từ chức vì Toàn Quyền Pháp tự ý sửa đổi Hòa Ước 1884 đặt Trung Kỳ dưới quyền bảo hộ của Pháp như Bắc Kỳ. Ông Diệm thông minh hơn ông Hồ, đạo đức hơn ông Hồ, trong sạch hơn ông Hồ, chỉ riêng cái quyết định không bằng lòng cho Hoa Kỳ sử dụng cảng Cam Ranh, ông Diệm đã nói rằng “nếu để một mảnh đất vào tay Hoa Kỳ, sau này khi có hiệp thương giữa hai miền Nam Bắc thì ông phải giải thích như thế nào với đồng bào.” Câu này do Vũ Ngọc Nhạ thuật lại cho ông Bùi Tín nghe sau ngày chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, và ông ta gặp lại Bùi Tín ngay trong dinh Độc Lập. Vũ Ngọc Nhạ, là một cán bộ tình báo cao cấp được lãnh đạo cộng sản Việt Nam cài vào Phủ Tổng Thống (Việt Nam Cộng Hòa) với chức vụ cố vấn của Tổng Thống. Xin đóng ngoặc.


Nhân lễ Giáng Sinh 1965, Trung Tướng Viên chỉ thị tôi tổ chức buổi tiếp tân trọng thể ngay tại võ đình trường trước tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu. Khách mời:


Ngoại quốc, gồm: Các vị trong Ngoại Giao đoàn, kể cả các vị Tùy Viên quân sự. Các vị Tư Lệnh lực lượng Đồng Minh đang có mặt trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, các đơn vị trưởng cùng các sĩ quan tham mưu trực thuộc lực lượng này.


Nội bộ, gồm: Các vị trong Chánh Phủ, trong Quốc Hội. Tất cả các vị Tướng Lãnh đang phục vụ tại thủ đô và lân cận, các vị Chỉ Huy Trưởng binh chủng, Tổng Cục Trưởng, Cục Trưởng, và các sĩ quan cao cấp phục vụ tại Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tổng số gần 500 vị.


Đây là lần đầu tiên các cấp chỉ huy lực lượng Đồng Minh, gồm: Đại Hàn, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi, Thái Lan, và Hoa Kỳ, với các cấp chỉ huy của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có cơ hội tiếp xúc tìm hiểu nhau về cá nhân cũng như về kiến thức quân sự. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đều có mặt. Chương trình tổng quát với lời chúc Giáng Sinh ngắn gọn của Trung Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, và của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Tiếp đó là chương trình văn nghệ với những bài hát Giáng Sinh bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Buổi tiếp tân diễn ra trong bầu không khí thân hữu và trang trọng.


Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, là hai vị lãnh đạo cao nhất của đất nước. Trải qua thời gian cầm quyền, tôi nghĩ là những ai quan tâm đến thời sự quốc gia quốc tế, dễ dàng nhận thấy rằng: về chức vụ thì Trung Tướng Thiệu cao hơn nhưng Thiếu Tướng Kỳ lại được đồng bào trong nước cũng như nhiều nhân vật quốc tế biết đến nhiều hơn. Trung Tướng Thiệu thì trầm ngâm, sâu sắc, chỉ xuất hiện khi cần thiết. Thiếu Tướng Kỳ thường tuyên bố điều này điều khác, đôi khi ông tuyên bố tùy hứng mà không cần biết điều đó có thực hiện được hay không. Nói cách khác, Thiếu Tướng Kỳ không có cái sâu sắc trong địa vị chính trị của ông, nhưng trong một chừng mực nào đó, ông lại là nhân vật có vẻ thích ứng với vai trò của ông, vai trò một Thủ Tướng có cá tính “bốc đồng” trong giai đoạn chiến tranh lúc ấy. Phải chăng đó là chính sách của Hoa Kỳ? Nhìn chung thì Trung Tướng Thiệu với Thiếu Tướng Kỳ, không hợp nhau từ bản chất cá nhân, nhưng lại là một cặp lãnh đạo đất nước! Thật ra trong thuật lãnh đạo, trong hàng lãnh đạo rất cần những quan điểm trái ngược, nhưng là trái ngược trong tinh thần thúc đẩy phát triển quốc gia chớ không phải trái ngược trong mục đích đả phá nhau do tinh thần cá nhân hay phe nhóm. Vậy, quí vị quí bạn nhìn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ như thế nào? Xin hiểu là nhìn lại để rút ra bài học kinh nghiệm cho mai sau, chớ không phải nhìn lại để chỉ trích cá nhân, thậm chí là kết án.


Dư luận trong giới chính trị cũng như trên báo chí quốc nội quốc tế, khi nói đến những vị lãnh đạo quốc gia của chúng ta thường nhắc đến “bộ ba” gồm Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, và Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, tức Quốc Trưởng + Thủ Tướng + Tổng Trưởng Quốc Phòng. Theo tôi, con người của Trung Tướng Có không có nét nào hợp với Thiếu Tướng Kỳ, cũng không trầm ngâm như Trung Tướng Thiệu. Ông không có tính xốc nổi nhưng cũng không sâu sắc, ông rất hăng say trong trách nhiệm lãnh đạo Quốc Phòng, nhưng dường như kiến thức tổng quát cũng như kiến thức quân sự có những giới hạn, nên không có gì đặc biệt ở cương vị của ông trong nội các chiến tranh. Tôi nghĩ, những công việc có tính cách điều hành của Bộ Quốc Phòng cũng như Bộ Tổng Tham Mưu, thích hợp với ông hơn là những vấn đề chiến lược chiến thuật.


Về cấp hiệu sĩ quan mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm qui định từ đầu năm 1956 (hay 1957?), thay thế cấp hiệu của Pháp (mà quân đội quốc Gia Việt Nam áp dụng khi mới thành lập) là cấp Uý biểu tượng bằng bông mai vàng và cấp Tá là bông mai trắng trên cổ áo hoặc trên mũ lưỡi trai. Nhưng vì kỹ thuật của các nhà sản xuất chưa hoàn hảo nên màu sắc không chính xác giữa trắng với vàng, nhất là thời gian sử dụng càng lâu thì màu sắc càng dễ gây lầm lẫn. Chẳng hạn như một Đại Úy với cấp hiệu 3 bông mai vàng với một Thiếu Tá cấp hiệu một bông mai trắng đi ngược chiều nhau, nhưng vì màu sắc trên bông mai vàng phai mờ nên ông Thiếu Tá tưởng lầm ông Đại Úy đi ngược chiều là Đại Tá, bèn đưa tay chào cho dẫu có thắc mắc không biết có phải Đại Tá hay không vì trông trẻ quá. Vì vậy mà Trung Tướng Nguyễn Hữu Có quyết định cấp hiệu của sĩ quan cấp Tá được gắn thêm một vạch ngang phía dưới bông mai trắng để dễ phân biệt giữa cấp Uý với cấp Tá. Thế nhưng, lúc bấy giờ có dư luận cho rằng, Trung Tướng Có được các nhà sản xuất các loại huy hiệu cấp hiệu quân đội, lo lót một khoản tiền để ông đưa ra quyết định như vậy, vì tất cả sĩ quan cấp Tá đều phải mua cấp hiệu mới theo mẫu đó, và dĩ nhiên là các nhà sản xuất thu được khoản tiền lời lớn. Đúng hay sai thì tôi không rõ, nhưng có điều chắc chắn là qui định này đã giúp cho sự dễ nhận giữa cấp Úy với cấp Tá. Tôi nghĩ, đây là một quyết định đúng.


Nhân vụ cấp hiệu này xin nói thêm về nhiều loại huy chương được thiết lập trong thời gian Trung Tướng Nguyễn Khánh cầm quyền, trong mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho các sĩ quan tham mưu và sĩ quan chuyên môn, được tưởng thưởng thích hợp và nhiều huy chương hơn để đeo trên ngực áo trong những lễ hội, những lần đón tiếp các phái đoàn quân sự ngoại quốc, hoặc du học du hành ngoại quốc. Trung Tướng Khánh có sáng kiến này là vì có một vị Tướng (dường như là Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng) khi xuất ngoại, trên ngực áo chỉ có 3 huy chương cuống trông thật là “đơn côi” và làm cho vị Tướng có vẻ “yếu đi” mặc dù ông có vóc dáng cao lớn và khỏe mạnh.


Về cách giải quyết công văn tại văn phòng, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm với Đại Tướng Cao Văn Viên có cùng thận trọng như nhau, nhưng Đại Tướng Viên có phần nhanh hơn. Đại Tướng Nguyễn Khánh cũng nhanh nhưng mức độ thận trọng không bằng hai vị Tướng nói trên. Trung Tướng Trần Văn Minh thì chỉ làm việc cho hết giờ. Trung Tướng Nguyễn Hữu Có thì thận trọng quá đáng nên có phần chậm chạp. Xông xáo đi thăm các đơn vị tại mặt trận hoặc các đơn vị đang công tác đặc biệt, Đại Tướng Viên và Đại Tướng Khánh như nhau, Trung Tướng Có cũng gần như vậy, Đại Tướng Khiêm thì thỉnh thoảng, còn Trung Tướng Minh thì không có gì để so sánh. Đại Tướng Khánh, trong hơn một năm cầm đủ thứ quyền trong tay, là thời gian nhiều xáo trộn chính trị, thế nhưng ông đã dành thì giờ để đến với nhiều đơn vị, đó là điều ghi nhận tốt. Ông là vị Tổng Tư Lệnh duy nhất cho mang theo công văn để ông làm việc trên phi cơ trong khi đi thăm đơn vị, nhưng ông cũng là vị Tổng Tư Lệnh kỳ cục nhất khi bất đồng quan điểm với ông Đại Sứ Hoa Kỳ thì tự dời văn phòng làm việc cách xa Bộ Tổng Tư Lệnh hằng trăm cây số (từ tháng 6 năm 1965, Bộ Tổng Tư lệnh mới trở lại danh xưng Bộ Tổng Tham Mưu).


Về mối liên hệ tình cảm trong công tác, Trung Tướng Viên nghiêng về Thiếu Tướng Kỳ hơn là Trung Tướng Thiệu, dù rằng Trung Tướng Thiệu chức vụ cao hơn Thiếu Tướng Kỳ. Phải nhận rằng, Thiếu Tướng Kỳ tuy cá tính xốc nổi nhưng dám nói dám làm, dù là làm được lẫn làm không được, nhưng được sự ủng hộ của số đông chiến hữu và đồng bào, nhưng những nhà hoạt động chính trị thì không ủng hộ ông. Lực lượng có khả năng trực tiếp tham gia đảo chánh là Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến thì đứng về phía Thiếu Tướng Khang và Trung Tướng Viên, nên Thiếu Tướng Kỳ có thế đứng vững hơn những Thủ Tướng trước ông. Trong những lúc nói chuyện với tôi và sĩ quan tùy viên, Trung Tướng Viên thường tỏ ra ca ngợi Thiếu Tướng Kỳ và không hề nhắc đến Trung Tướng Thiệu dù Trung Tướng Thiệu đang là Quốc Trưởng. Trung Tướng Viên cho rằng, trong số những khuôn mặt hiện nay (năm 1965-1966) thì Thiếu Tướng Kỳ là người thích hợp hơn hết.


Trong năm 1965 và đầu năm 1966, sinh hoạt ở trung ương tương đối yên ắng, tuy phần lớn trong giới chính trị lão thành cũng như giới thân hào nhân sĩ tỏ ra không ủng hộ Thiếu Tướng Kỳ. Tôi căn cứ vào những báo cáo mật của Tổng Nha Cảnh Sát thông báo cho Tổng Tham Mưu Trưởng mà ghi nhận như vậy.


Trong hệ thống điều hành thông thường, chẳng có qui định nào buộc Cảnh Sát phải thông báo những tin tức về các hoạt động chính trị cho Bộ Tổng Tham Mưu cả, nhưng có thể là do mối liên hệ mật thiết giữa Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ -Thủ Tướng- với Trung Tướng Cao Văn Viên -Tổng Tham Mưu Trưởng- mà hậu thuẫn của Trung Tướng Viên là lực lượng Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến để chống đảo chánh, nên Tổng Giám Đốc Cảnh Sát -rất được Thiếu Tướng Kỳ tin cậy- mới có những thông báo như vậy. Ngay sau ngày Thiếu Tướng Viên (hai tuần sau đó ông mới thăng cấp Trung Tướng) nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng, Đại Tá Ngô Quang Trưởng -dường như lúc bấy giờ ông là Tư lệnh Phó Nhẩy Dù- đến văn phòng tôi, ông nói:


“Anh Hoa, để kịp thời đối phó với những biến động quân sự về phía nội bộ, bất cứ là giờ nào trong ngày nếu như anh thấy có điều gì nghi ngờ về một cuộc đảo chánh hay tương tự như vậy, thì anh báo tin cho tôi ngay, vì lúc nào tôi cũng có một đơn vị túc trực tại căn cứ Hoàng Hoa Thám (tên doanh trại của Lữ Đoàn Nhẩy Dù, khỏi ngã tư Bảy Hiền, trên đường Sài Gòn-Tây Ninh)”


Khi tôi bổ túc đoạn ngắn này thì cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã từ trần. Xin cắm nén hương tưởng nhớ đến Ông, một Tướng Lãnh khi xuôi tay yên nghỉ, nhận được lòng ngưỡng mộ và thương cảm của hầu hết các thành phần trong Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản tại hải ngoại!


Điều làm cho các vị Tướng lãnh đạo ở trung ương nói chung và Thiếu Tướng Kỳ nói riêng, lo ngại là Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I kiêm Đại Biểu Chánh Phủ tại Trung Phần, về những lời tuyên bố cùng một số hành động của ông có tính cách trái ngược với trung ương nếu không nói là chống lại trung ương.


Xin nhắc lại. Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, sau hơn 2 năm lưu vong trên vương quốc Cam-Bốt, được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng sau cuộc lật đổ và giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm đón về, lần lượt thăng cấp Thiếu Tướng, rồi Trung Tướng, và hai lần thăng cấp này hoàn toàn không do công trạng trong chiến trận.


Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi là người có tính bộc trực, thẳng tính, và nóng tính. Buổi sáng ngày 30 tháng 1 năm 1964, ngay trong sân nhà Trung Tướng Khánh, trong lúc có nhiều sĩ quan quanh quẩn ở đó để theo dõi tin tức về cuộc “Chỉnh Lý”, Trung Tướng Thi lúc đó là Đại Tá, đã bạt tai Thiếu Tá Nguyễn Huy Lợi với tất cả sự nóng giận của ông. Hỏi ra tôi mới biết là trong thời gian lưu vong, Thiếu Tá Lợi cũng như các bạn cùng lưu vong, đã khinh thường ông vì ông không làm ra tiền mà trông chờ vào sự “chạy gạo” của các sĩ quan cấp nhỏ hơn ông trong nhóm lưu vong. Chắc vì vậy mà ông bạt tai cho hả giận, và chắc cũng để tỏ ra là ông đã qua thời xuống chó và đang thời lên voi chăng?


Trong thời gian Trung Tướng Khánh bắt đầu có khoảng cách với Đại Tướng Khiêm, rồi khoảng cách đó ngày càng rộng và sâu thêm, cho đến một ngày khoảng cách đó rộng bằng cả Đại Tây Dương thì Đại Tướng Khiêm bị đẩy sang bên kia bờ phía tây gọi là thăm vài nước Châu Âu, thì những vị Tướng thân thiết nhau như: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Thiếu Tướng Cao Văn Viên, Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, và Thiếu Tướng Lê Nguyên Khang (1964), có vẻ như không can dự gì vào chuyện giữa Trung Tướng Nguyễn Khánh với Đại Tướng Trần Thiện Khiêm cả. Nhưng tôi không rõ là bắt nguồn từ nguyên nhân nào mà Trung Tướng Thi (1966) lại tách ra khỏi nhóm đó, và tách ra từ lúc nào nữa. Chỉ biết là khi Trung Tướng Thi chống đối trung ương trở nên công khai đến mức báo chí đăng tải, thì lúc đó Trung Tướng Thi đang là Tư Lệnh Quân Đoàn I tại Đà Nẳng. Xin giải thích: tôi chỉ nói đến những vị Tư lệnh có quân có quyền trong tay và có khả năng đảo chánh lẫn chống đảo chánh thôi.


Ngày Quân Lực.


Khi Hội Đồng Quân Đội nhận trách nhiệm Lãnh đạo quốc gia theo yêu cầu của Thủ Tướng Phan Huy Quát, và thành lập Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia với Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, và chọn ngày 19/06/1965 ra mắt quốc dân đồng bào và ngoại giao đoàn. Từ đó, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia quyết định chọn ngày 19 tháng 6 hằng năm làm Ngày Quân Lực. Và Ngày Quân Lực 19 tháng 6 đầu tiên được tổ chức trọng thể vào ngày 19 tháng 6 năm 1966. Ngày Quân Lực đầu tiên nói ở đây là Ngày Quân Lực 19 tháng 6, nhưng thật ra còn một Ngày Quân Lực đã được chọn và tổ chức trước đó nữa.


Đó là Ngày Quân Lực 30 tháng 1. Chuyện như thế này. Xin nhắc đến cuộc Chỉnh Lý ngày 30/01/1964 do Trung Tướng Nguyễn Khánh, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, và Đại Tá Cao Văn Viên, lãnh đạo lật đổ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng của Trung Tướng Dương Văn Minh, và thành công. Nhưng sau khi Trung Tướng Khánh công bố bản Hiến Chương tại Vũng Tàu, liên tiếp những cuộc mít tinh biểu tình cáo giác Trung Tướng Nguyễn Khánh là độc tài, từ đó Trung Tướng Khánh cho rằng Đại Tướng Khiêm đứng đằng sau những vụ đó. Thế là Trung Tướng Khánh đẩy Đại Tướng Trần Thiện Khiêm lưu vong (07/10/1964). Và rồi Trung Tướng Khánh quyết định chọn ngày 30 tháng 1 làm Ngày Quân Lực.


Ngày Quân Lực 30 tháng 1 được tổ chức vào tối 30 tháng 1 năm 1965, trên sân thượng câu lạc bộ Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Đổng Lý Văn Phòng Tổng Tư Lệnh, chỉ thị tôi Trưởng Phòng Quân Sự Vụ, và Thiếu Tá Hoàng Ngọc Tiêu -tức nhà thơ Cao Tiêu- Trưởng Phòng Dân Sự Vụ, trách nhiệm tổ chức.


Tham dự Ngày Quân Lực 30 tháng 1 năm 1965, gồm: quí vị trong Chánh Phủ, quí vị Tướng Lãnh, quí vị trong Ngoại Giao đoàn, các đơn vị trưởng trong Quân Trấn Sài Gòn, và sĩ quan cao cấp phục vụ tại Bộ Tổng Tư Lệnh. Ngày Quân Lực 30 tháng 1 được tổ chức hôm ấy là lần đầu tiên, cũng là lần duy nhất.


Tôi nghĩ rằng, “Ngày Quân Lực tổ chức ngày 30 tháng 1 năm 1965” rất ít người biết đến, vì không có văn kiện ban hành, cũng không phổ biến bất cứ hình thức nào, Trung Tướng Khánh chỉ ra lệnh ngang qua Thiếu Tướng Vỹ, chúng tôi gởi thư mời, và tiến hành tổ chức thôi. Chương trình buổi lễ rất đơn giản như một buổi tiếp tân ngoài trời. Không diễn văn dài dòng, cũng không một ai phát biểu. Chỉ sau một diễn văn ngắn gọn của Trung Tướng Khánh là vào tiệc, với chương trình văn nghệ rất đông nghệ sĩ tân nhạc nổi tiếng của Sài Gòn lúc ấy trình diễn.


Nhân đây cũng xin nói thêm về những ngày khác, nếu như trước ngày 19 tháng 6 năm 1966 mà có cuộc thăm dò ý kiến trong quân đội thì tôi nghĩ, những ngày sau đây có thể được chọn là Ngày Quân Lực, như: ngày 1 tháng 1, ngày 1 tháng 5, hay ngày 1 tháng 7.


Ngày 1 tháng 1. Trong cuộc chiến giữa thực dân Pháp với Việt Minh cộng sản 1945-1954, chánh phủ Pháp ước tính không thể dẹp tan đối phương trong thời gian 6 tháng như Cao Ủy Pháp tại Đông Dương đã từng tuyên bố, nên sử dụng chính sách dùng người Việt không cộng sản đánh nhau với người Việt cộng sản, bằng quyết định thành lập một số Tiểu Đoàn Việt Nam và những đơn vị nhỏ hơn, dưới quyền chỉ huy của Pháp.


Đầu tiên là Chi Đội Thám Thính của binh chủng Thiết Giáp thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1951. Lần lượt sau đó, một vài đơn vị đầu tiên là:


Ngày 1 tháng 2 năm 1951: một đơn vị Truyền Tin.
Ngày 1 tháng 5 năm 1951: một đơn vị Không Quân.
Cùng ngày 1 tháng 5 năm 1951: một đơn vị Quân Vận.
Ngày 1 tháng 8 năm 1951: một đơn vị Nhẩy Dù.
Ngày 1 tháng 9 năm 1951: một đơn vị Công Binh.
Ngày 1 tháng 11 năm 1951: một đơn vị Pháo Binh.
Ngày 1 tháng 3 năm 1952: một đơn vị Hải Quân.


Trong nét nhìn nào đó, những đơn vị Việt Nam đủ tiêu biểu cho Hải Lục Không Quân nhưng quá đổi khiêm nhường, ngoại trừ Lục Quân có một số đơn vị khả dĩ có khả năng "đánh tay đôi" với quân Việt Minh cộng sản.


Như vậy, ngày 1 tháng 1, là ngày mà đơn vị đầu tiên của Việt Nam được thành lập, dù rằng đơn vị này do Liên Hiệp Pháp chỉ huy và yểm trợ.


Ngày 1 tháng 5. Do Dụ số 43 ngày 23/05/1952 (sau này gọi là sắc lệnh) của Quốc Trưởng Bảo Đại, thành lập Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam từ ngày 01/05/1952. Vị Tổng Tham Mưu Trưởng đầu tiên là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh. Ông là Trung Tá Không Quân Pháp chuyển sang. Tuy có cơ quan đầu não của quân đội, nhưng thực chất các đơn vị Việt Nam đã thành lập trước đó vẫn do sĩ quan Pháp chỉ huy và yểm trợ mọi nhu cầu của đơn vị. Bộ Tổng Tham Mưu non trẻ này tập trung nỗ lực vào trách nhiệm tổ chức 60 Tiểu Đoàn tân lập bộ binh do Pháp cung cấp dụng cụ chiến tranh. Bộ Tổng Tham Mưu thực hiện quan niệm tổ chức hai loại Tiểu Đoàn mà cơ quan này cho là thích hợp với chiến trường hiện tại: "Tiểu Đoàn Việt Nam" có trang bị súng cối và đại liên để đánh nhau với cộng sản cấp Đại Đội, vì lúc ấy quân cộng sản trên chiến trường miền Nam cũng chỉ tổ chức đến cấp Đại Đội. Và loại "Tiểu Đoàn Khinh Quân", quân số ít và trang bị nhẹ so với Tiểu Đoàn Việt Nam, dễ luồn lách hoạt động trong vùng địch.


Ngày 1 tháng 7. Căn cứ quân sự trong vùng lòng chảo Điện Biên Phủ của Pháp bị thất thủ vào ngày 07/05/1954, trước những cuộc "tấn công biển người" của quân Việt Minh cộng sản dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của quân Trung Hoa cộng sản, dẫn đến Hiệp Định Đình Chiến ký ngày 20/07/1954 tại Genève, Thụy Sĩ. Lãnh thổ Việt Nam bị chia đôi thành hai quốc gia:


Vĩ tuyến 17 trở lên Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, theo chế độ cộng sản độc tài.

Vĩ tuyến 17 trở xuống Nam là Quốc Gia Việt Nam, theo chế độ tự do.
Trên địa thế, tiêu biểu cho vĩ tuyến 17 là "sông Bến Hải với cầu Hiền Lương", phía bắc thị trấn Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.


Trung tuần tháng 12 năm 1954, Tướng Collins của Hoa Kỳ và Tướng Paul Ely của Pháp thỏa thuận, theo đó, Bộ Tư Lệnh Quân Viễn Chinh Pháp sẽ trao toàn quyền chỉ huy quân sự cho quân đội Việt Nam từ ngày 01/07/1955. Sau thỏa thuận này, một phái bộ hổn hợp Mỹ Pháp được thành lập từ ngày 20/01/1955, dưới tên gọi "Phái Bộ Liên Lạc Và Huấn Luyện Tại Việt Nam" (tiếng Anh là Training Relations Instruction Mission, gọi tắt là TRIM), với số sĩ quan gồm 200 của Pháp và 217 của Hoa Kỳ.


Từ sau thỏa ước trên, Bộ Tổng Tham Mưu gần như ào ạt tiếp nhận quyền chỉ huy hệ thống tổ chức lãnh thổ, từ Chi Khu (quận), Tiểu Khu (tỉnh), Phân Khu (2 hoặc 3 Tiểu Khu), đến Quân Khu (nhiều Phân Khu), và các đơn vị tác chiến lẫn yểm trợ. Và thật sự là Bộ Tổng Tham Mưu nắm quyền chỉ huy quân đội quốc gia Việt Nam từ ngày 1 tháng 7 năm 1955.


Vậy, ngày "1 tháng 1 năm 1951" là ngày thành lập đơn vị Việt Nam đầu tiên nhưng do sĩ quan Pháp chỉ huy, ngày "1 tháng 5 năm 1952" là ngày thành lập Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, vàngày "1 tháng 7 năm 1955" là ngày Bộ Tổng Tham Mưu chánh thức thật sự nắm quyền lãnh đạo chỉ huy quân đội quốc gia Việt Nam. Tôi nghĩ, nếu phải chọn một ngày trong 3 ngày nói trên thì ngày 1 tháng 5 là danh chánh ngôn thuận để kỷ niệm "Ngày Quân Lực" nếu so với ngày 30/01 hay ngày 19/06, vì thông thường Ngày Quân Lực là ngày thành lập quân đội.


Nhưng tôi cũng nghĩ rằng, rất có thể vì quân đội được khai sinh từ quân đội Pháp trong hoàn cảnh chiến tranh giữa thực dân với cộng sản trong khi người Việt không cộng sản chúng ta chưa có vị trí rõ ràng trên bàn cờ chính trị, nên quí vị không chọn một trong những ngày đó mà chọn ngày quân lực nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc gia để kỷ niệm. Ngày này có ý nghĩa vai trò quân đội trong chiến tranh ý thức hệ giữa “Tự Do với Độc Tài”, giữa cái Thiện với cái Ác. Quyết định chọn ngày 19 tháng 6 làm "Ngày Quân Lực", tiêu biểu nét đặc thù trong chiến tranh giữ nước của chúng ta trước làn sóng đỏ tràn xuống phía nam trong những thập niên 50 đến 70, mà hiệp chủng quốc Hoa Kỳ và nhiều quốc gia đồng minh đã đặt Việt Nam Cộng Hòa chúng ta vào vị trí "quốc gia tiền đồn" trên mặt trận toàn cầu đương đầu với cuộc chiến ý thức hệ cộng sản thế giới, mà cộng sản Việt Nam là cánh tay nối dài của cộng sản thế giới.


Và kỷ niệm “Ngày Quân Lực 19 tháng 6” đã được Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tổ chức trọng thể hằng năm kể từ năm 1966. Trong chốn riêng tư, ngày 19 tháng 6 năm 1966, còn tiềm ẩn ý nghĩa sự thành công của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, trong nỗ lực giải quyết vụ khủng hoảng chính trị mà báo chí thường gọi là “khủng hoảng miền Trung” nữa. Nói là thành công, nhưng thật sự có phải là thành công hay không, tùy sự đánh giá của quí vị quí bạn.
Từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, người cựu quân nhân chúng ta trong những hoàn cảnh thích hợp tại mỗi quốc gia hay thành phố định cư, đã cùng nhau tổ chức kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 tháng 06. Hành động như vậy, tôi nghĩ là hoàn toàn đúng và nên tiếp tục.


Đúng, vì cho đến nay -đầu năm 2010-, trong Cộng Đồng Việt Nam chúng ta tị nạn cộng sản tại hải ngoại, không một cá nhân hay một tổ chức nào khả dĩ có đủ tư cách để thay đổi. Với lại chúng ta cần có -phải nói là rất cần- một ngày trọng đại để vinh danh quân đội, vinh danh những đồng đội đã hi sinh, vinh danh những đồng đội thương phế binh đã để lại một phần thân thể trên khắp miền quê hương đất nước, và vinh danh những bà quả phụ đã tảo tần tạo dựng thế hệ nối tiếp trách nhiệm của chúng ta. Đồng thời, cũng là ngày nhắc nhở chúng ta -những người cựu quân nhân chưa tròn nhiệm vụ đang sống lưu vong khắp chân trời góc biển- hãy tiếp tục nhiệm vụ còn dang dở trong cuộc chiến hôm nay, góp phần vào công cuộc dân chủ hóa chế độ chính trị trên quê hương Việt Nam, và cùng thế hệ hậu duệ nối tiếp xây dựng một chế độ dân chủ tự do thật sự trên quê hương Việt Nam ngày mai.



1 2 3 4 5 6 7 8 9 10


CHƯƠNG VI


HỒI KÝ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA: KHỦNG HOẢNG CHÍNH TRỊ NGÀY 9 THÁNG 3 NĂM 1966









1 2 3 4 5 6 7 8 9 10




Đầu tháng 3 năm 1966, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ -Thủ Tướng- và Trung Tướng Cao Văn Viên -Tổng Tham Mưu Trưởng- ra Đà Nẳng duyệt lại tình hình Quân Đoàn I. Sau chuyến đi, bà Viên nói với tôi đại ý rằng:






“Nói là duyệt lại tình hình chớ thật ra là tìm cách giải quyết những bất đồng giữa Thiếu

Tướng Kỳ với Trung Tướng Thi về một số vấn đề, nhưng cuối cùng vẫn không giải quyết được gì hết. Trước khi lên phi cơ rời Đà Nẳng trở về Sài Gòn, Trung Tướng Thi đến bắt tay rồi vòng tay ôm Trung Tướng Viên, mà không hề nói gì với Thiếu Tướng Kỳ, làm như chỉ có Trung Tướng Viên trong chuyến đi này. Thiếu Tướng Kỳ là người dễ nóng giận, nhưng lúc bấy giờ ông im lặng, đứng nhìn, xem như không nghe không thấy Trung Tướng Thi”.






Một số vấn đề mà bà Viên nói đến, báo chí tại Sài Gòn cũng đã nói đến, và trong một chừng mực nào đó, được xem là Trung Tướng Thi chống đối Chánh Phủ.






Với thái độ im lặng của Thiếu Tướng Kỳ tại phi trường Đà Nẳng, không có nghĩa là ông chịu thua Trung Tướng Thi đâu! Và đây là hành động thể hiện thái độ đó của Thiếu Tướng Kỳ. . .
Cách chức Trung Tướng Thi.


Ngày 08/03/1966, buổi họp thu hẹp của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia gồm Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Trung Tướng Cao Văn Viên, và Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi. Buổi họp có mục đích giải quyết trực tiếp vụ Trung Tướng Thi đã nhiều lần tỏ ra chống lại lệnh của trung ương.


Tôi nói thu hẹp, vì Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đầy đủ gồm 11 vị, nhưng buổi họp hôm nay chỉ có 4 vị thuộc trung ương nhưng lại không có vị Tổng Thư Ký, mà lại có vị Tư Lệnh Quân Đoàn I kiêm Đại Biểu Chánh Phủ Miền Trung. Có thể nói đây là buổi họp thu hẹp đặc biệt.


Địa điểm họp là văn phòng cũ dành cho vị Tổng Tham Mưu Trưởng, hiện đang trống. Trung Tướng Viên dặn tôi trước khi ông vào phòng họp:


“Đây là họp tối mật, chỉ khi nào cần thì tôi gọi chú. Bất cứ ai khác đều không được vào”.


“Vâng, tôi hiểu”.


Đúng là tôi hiểu mục đích của buổi họp, vì chiều hôm qua, Trung Tướng Viên có nói với tôi tuy là không nói rõ. Đến 1 giờ trưa, Trung Tướng Viên bước ra với nét mặt đầy ưu tư:


“Chú lo ăn trưa ngay và mang vào ăn tại chỗ”.


“Sớm lắm cũng phải 40 phút, vì phải xuống nhà hàng Thanh Thế thưa Trung Tướng”.


“Thì xong lúc nào mang vào lúc ấy”.


“Vâng”.


Tôi nhờ Đại Úy Có xuống nhà hàng Thanh Thế (gần chợ Sài Gòn) mua ngay 15 phần ăn trưa đựng trong hộp, chỉ có vậy mới nhanh thôi. Tuy có 5 vị họp nhưng tôi phải mua 15 phần, vì mỗi vị Tướng đều có sĩ quan tùy viên và cận vệ đi theo.


Khi mang thức ăn vào, tôi trông thấy không một vị nào có nét mặt cũng như dáng vẻ bình thường hay vui tươi như những buổi họp quan trọng trước đó, điều này cho phép tôi suy đoán là vấn đề cần giải quyết, chẳng những chưa đạt được mà trái lại có thể càng trở nên rắc rối hơn.


Từ lúc bắt đầu họp cho đến lúc chấm dứt khi trời tối hẳn, không một vị nào bước ra ngoài, ngoại trừ trường hợp Trung Tướng Viên bảo tôi lo ăn trưa. Với nét mặt đăm chiêu qua những nếp nhăn trên vầng trán của các vị, tôi đoán là cả ngày họp chẳng đạt được kết quả nào. Riêng Trung Tướng Thi có vẻ như tức giận thì phải.


Trước khi ra về, Trung Tướng Viên hỏi tôi về công tác chuẩn bị cho ông thăm Sư Đoàn 2 Bộ Binh tại Quảng Ngãi và Sư Đoàn 23 Bộ Binh tại Ban Mê Thuột vào ngày mai 9 tháng 3 năm 1966.


“Thưa Trung Tướng, mọi việc tôi đã chuẩn bị xong”.


Chuyện thế này. Buổi sáng, ngay khi đến văn phòng, ông gọi tôi:


“Ngày mai, chú tổ chức cho tôi ra Quảng Ngãi gắn huy chương cho Sư Đoàn 2. Sau đó lên Ban Mê Thuột gắn huy chương cho Sư Đoàn 23. Cơm trưa tại đây. Lúc 1 giờ trưa, rời Ban Mê Thuột về Sài Gòn. Có gì trở ngại chú trình tôi ngay”.


“Có cần sĩ quan Tổng Quản Trị tháp tùng không, thưa Trung Tướng?


“Không cần. Chú giao cho chú Có là được”.


Chương trình của Trung Tướng Viên, tôi đã liên lạc với Không Quân cung cấp phi cơ, cất cánh lúc 7 giờ sáng tại bãi đậu VIP, theo không trình Sài Gòn-Quảng Ngãi-Ban Mê Thuột-Sài Gòn. Cũng đã thu xếp chương trình với Sư Đoàn 2 và Sư Đoàn 23 Bộ Binh xong lúc sáng. Bây giờ chỉ cần xác nhận giờ là xong. Tôi điện thoại ra Quảng Ngãi xin tiếp chuyện với Chuẩn Tướng Hoàng Xuân Lãm:


“Tôi Phạm Bá Hoa, thưa Chuẩn Tướng. Ngày mai, Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng sẽ đến phi trường Quảng Ngãi khoảng 8 giờ 45. Không có sĩ quan cao cấp nào tháp tùng. Sau khi dự thuyết trình tại bộ tham Sư Đoàn và trao gắn huy chương xong, Trung Tướng sẽ rời Quảng Ngãi lên Ban Mê Thuột chớ không dùng cơm trưa theo ý kiến của Chuẩn Tướng. Xin được xác nhận điều này với Chuẩn Tướng”.


“Anh trình với Trung Tướng, Sư Đoàn có tiệc trà sau khi gắn huy chương, nếu vậy tôi sẽ mời Trung Tướng dùng tiệc trà trong khi thuyết trình. Nếu có gì khác, anh cho ông Tham Mưu Trưởng của tôi biết hỉ”.


“Nếu tôi không điện thoại lại có nghĩa là Trung Tướng đồng ý, thưa Chuẩn Tướng”.
Tôi điện thoại lên Ban Mê Thuột gặp ngay Chuẩn Tướng Võ Văn Cảnh, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh:
“Thưa Chuẩn Tướng, xin xác nhận về chương trình ngày mai. Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng sẽ từ Quảng Ngãi đến Ban Mê Thuột khoảng 11 giờ. Giờ chính xác tôi sẽ xác nhận kịp thời. Sau lễ gắn huy chương và dùng cơm trưa tại Sư Đoàn, Trung Tướng sẽ rời Ban Mê Thuột lúc 1 giờ để về Sài Gòn kịp buổi họp với MACV, thưa Chuẩn Tướng”. (MACV, dịch sang Việt ngữ là Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Hòa).


“Nếu có gì khác, anh gọi tôi ngay nghe anh Hoa. Này, có bao nhiêu sĩ quan tháp tùng với Trung Tướng?

“Dạ không có vị nào cả, ngoài sĩ quan tùy viên của Trung Tướng, thưa Chuẩn Tướng”.


Sau khi công tác chuẩn bị chuyến đi ngày mai của Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng được xác nhận với các nơi liên hệ, tôi ra về. Lúc ấy chẳng còn ai trong tòa nhà chánh ngoài sĩ quan trực và nhân viên an ninh. Vừa về đến nhà thì chuông điện thoại reo:


“Trung Tá Hoa tôi nghe”.
“Chú liên lạc tìm Trung Tướng Thi (Nguyễn Chánh Thi) và mời ông ấy ngày mai cùng đi chung phi cơ với tôi ra Quảng Ngãi, còn phi cơ của Trung Tướng Thi chờ tại Quảng Ngãi để đón ông Thi ra Đà Nẳng sau khi lễ xong. Phi cơ cất cánh tại Sài Gòn lúc 6 giờ sáng chớ không phải 7 giờ. Chú rõ chưa?


“Thưa Trung Tướng, tôi nghe rõ”.


Tôi liên lạc và chuyển được lời mời của Trung Tướng Viên đến Trung Tướng Thi đang có mặt tại nhà ông ở đường Gia Long, và được Trung Tướng Thi chấp nhận dễ dàng. Tiếp đến là liên lạc với Bộ Tư Lệnh Không Quân xác nhận lại giờ cất cánh và không trình chuyến bay. Lại phải cấp tốc liên lạc xác nhận với Chuẩn Tướng Lãm (Quảng Ngãi) và Chuẩn Tướng Cảnh (Ban Mê Thuột).


Lúc 5 giờ sáng ngày 9/3/1966, điện thoại reo vang:

“Trung Tá Hoa tôi nghe”.

“Chú tìm xem Trung Tướng Có ở đâu và cho tôi biết ngay”.

“Vâng”.


Đó là lệnh của Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi điện thoại đến tư dinh Trung Tướng Có trong cư xá Bộ Tổng Tham Mưu, nghe tiếng phụ nữ:

“Chào bà. Tôi là Trung Tá Hoa. Xin bà vui lòng cho tôi tiếp chuyện với Trung Tướng”.


“Nhà tôi lên xe đi rồi anh Hoa”.

“Dạ, cám ơn bà”.


Tôi điện thoại đến toán gác cổng số 1 Bộ Tổng Tham Mưu, được biết xe của Trung Tướng Có đã ra cổng và quẹo lên hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi gọi lên phòng VIP trong phi trường:


“Tôi, Trung Tá Hoa. Xin lỗi có Trung Tướng Tổng Trưởng Quốc Phòng ở đó không à?

“Tôi đây anh Hoa. Có việc gì không?


“Dạ, Trung Tướng Viên bảo tôi tìm biết Trung Tướng ở đâu thì trình lại Trung Tướng Viên chớ không có gì, thưa Trung Tướng”.

Sau đó tôi trình Trung Tướng Viên. Và ông ra lệnh:


“Chú vào văn phòng ngay, báo cho các nơi hủy bỏ chuyến đi của tôi ra Quảng Ngãi với Ban Mê Thuột. Yêu cầu hai vị Tư Lệnh trao gắn huy chương cho các quân nhân trực thuộc, vì tôi bận vào giờ chót”.


“Vâng. Chào Trung Tướng”.

Trời hãy còn tối. Sĩ quan trực cũng như các nhân viên an ninh tòa nhà chánh, trong mấy năm gần đây đã quen với những trường hợp đèn đuốc sáng choang trong văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, nên không ai tò mò lên văn phòng tôi. Tôi gọi Đại Úy Có và chính anh gọi các nhân viên trực thuộc vào văn phòng làm việc. Sau khi liên lạc xong với Bộ Chỉ Huy Không Chiến, với Chuẩn Tướng Hoàng Xuân Lãm và Chuẩn Tướng Võ Văn Cảnh xác nhận lệnh của Trung Tướng Viên, nghe tiếng xe bên dưới tôi đến cửa sổ nhìn xuống lầu thấy xe Trung Tướng Viên vừa ngừng ở thềm tầng trệt. Trung Tướng Viên vào một lúc thì xe của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, rồi xe của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đến. Cả hai vị, một cách im lặng, lần lượt vào phòng Trung Tướng Viên. Rồi Trung Tướng Viên vào phòng tôi ra lệnh có vẻ vội vàng:


“Chú xuống lầu đón Trung Tướng Có và Trung Tướng Thi, hướng dẫn vào phòng họp hôm qua. Chỉ một mình Trung Tướng Thi vào đó thôi, sĩ quan tùy viên và cận vệ của Trung Tướng Thi ngồi ở phòng chú và chú trách nhiệm”.


Tôi xuống lầu. Trời vẫn chưa sáng. Xe Trung Tướng Nguyễn Hữu Có dừng trên thềm tầng trệt, trong khi sĩ quan tùy viên chưa mở cửa xe thì toán cận vệ của Trung Tướng Có từ xe Jeep phía sau nhảy xuống, súng cầm tay trong tư thế sẳn sàng sử dụng. Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi xuống xe, toán cận vệ kèm hai bên, và sau lưng Trung Tướng Thi một khoảng ngắn là Trung Tướng Có.


Đến đây thì tôi hiểu việc gì đang xảy ra. Trung Tướng Có bảo tôi đi trước, như là dẫn đường lên phòng họp hôm qua. Ông nói khẽ:


“Vào xong, anh khóa cửa lại và cho Quân Cảnh gác cẩn thận”.


“Vâng”.
Tôi nói riêng với Đại Úy Có:
“Anh thay tôi trách nhiệm canh giữ anh tùy viên với cận vệ của Trung Tướng Thi nghe. Lệnh của Trung Tướng đó. Tốt hơn hết là mình "ngăn cản khéo" không cho các anh ấy đi đâu hết, ngoại trừ vào phòng vệ sinh thì bảo Quân Cảnh theo giữ”.
Đại Úy Có hơi ngập ngừng một chút vì chưa biết nguyên nhân nhưng anh không hỏi, vì chúng tôi đã qui ước với nhau rằng, nếu một bên không nói thì bên kia không hỏi và hiểu rằng đó là lệnh mật.


Vẫn chưa đến giờ làm việc. Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, và Trung Tướng Viên, cùng vào phòng họp, mà trong đó đã có Trung Tướng Thi, cũng là Đại Biểu Chánh Phủ tại Miền Trung.


Khoảng 1 tiếng đồng hồ sau đó, tôi vào trình Trung Tướng Viên về vấn đề ăn sáng. Đây là tôi cố tình vào và sự cố tình này cũng có lý của nó, vì lúc ấy gần 9 giờ (sáng) mà các vị chưa ăn sáng. Trước đây, thỉnh thoảng có những buổi họp đặc biệt trước giờ điểm tâm, các vị thường gọi tôi vào lo các phần ăn sáng. Tôi nghe các vị nói chen kẻ và qua đó tôi hiểu phần nào mục đích của các vị thuộc trung ương, nhằm thuyết phục Trung Tướng Thi chấp nhận giải pháp sang Hoa Kỳ chữa bệnh một thời gian, nhưng Trung Tướng Thi không đồng ý. Âm thanh của Trung Tướng Thi rất rõ ràng và không kém phần mạnh mẽ, cho phép suy đoán là ông không dễ dàng chịu áp lực của bốn vị Tướng đứng đầu chánh phủ và quân đội.


Trong khi các vị ăn trưa ngay trong phòng họp, tất cả các sĩ quan tùy viên và cận vệ của các vị cũng đang dùng bữa tại phòng tôi. Sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Thi nói với tôi là anh cần về nhà Trung Tướng Thi có việc cần, tôi mời anh ngồi xuống và tiếp tục ăn trưa:


“Anh thông cảm cho tôi nghe. Cái nghiệp chánh văn phòng và tùy viên của tụi mình là không có quyền ra lệnh cho ai hết, mà chỉ có nhận lệnh và chuyển lệnh thôi. Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng dặn tôi là tất cả các bạn không nên rời khỏi đây cho đến khi các vị họp xong. Vậy, mời anh hãy tự nhiên với chúng tôi như lúc nào. Thông cảm nghe anh”.
Tôi nghĩ, anh tùy viên muốn ra khỏi đây để báo về nhà Trung Tướng Thi và báo ra Đà Nẳng cho Quân Đoàn biết tình trạng của Trung Tướng Thi, vì rõ ràng là Trung Tướng Thi "bị cưỡng bách" trước mắt anh chớ không phải đến đây để họp như ngày hôm qua.


Cuối cùng cũng không đạt kết quả, nên Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu hẹp quyết định "quản thúc" Trung Tướng Thi, lúc đầu dự trù tại câu lạc bộ Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng sau đó đưa về quản thúc tại nhà ông với sự canh giữ của An Ninh Quân Đội và Quân Cảnh.


Lúc bấy giờ là buổi chiều, trong phòng làm việc của Trung Tướng Viên, cả 4 vị Tướng đều mệt mỏi với nét mặt đăm chiêu, và trong nhiều phút không vị nào lên tiếng, chừng như mỗi vị có cách nghĩ riêng của mình thì phải? Riêng Trung Tướng Thiệu, mặt ông hơi đỏ lên với những giọt mồ hôi lấm tấm hai bên thái dương mặc dù ông vừa từ phòng lạnh bên kia sang phòng lạnh này, chứng tỏ là không khí buổi họp rất căng thẳng. Trước khi ra về, Trung Tướng Viên tạt vào phòng tôi:


“Chú mời "Đại Hội Đồng Quân Lực" họp lúc 10 giờ sáng mai (10/3/1966). Không mời Tư Lệnh Sư Đoàn 1 (Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, tại Huế) và Sư Đoàn 2 (Chuẩn Tướng Hoàng Xuân Lãm, tại Quảng Ngãi). Lý do sẽ cho biết khi họp”.


“Phòng họp nào, thưa Trung Tướng?
“Bên phòng họp số 2”.
“Vâng”.
Đại Hội Đồng Quân Lực có 36 vị, gồm: Tất cả các vị trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia. Các vị Tướng Lãnh. Chỉ Huy Trưởng binh chủng Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Truyền Tin, Quân Vận, và Biệt Động Quân. Các vị Tư Lệnh Quân Chủng, Tư Lệnh Nhẩy Dù, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, đều là Tướng Lãnh, đương nhiên trong thành phần trên rồi. Mỗi lần mời họp đều sử dụng điện thoại, và phải mời các vị ở xa trước để quí vị ấy kịp chuẩn bị phương tiện về Sài Gòn, sau đó mới mời các vị trong Quân Trấn Sài Gòn và lân cận.


Mời xong, chưa kịp thu xếp ra về. Lúc ấy màn đêm xuống khá lâu, điện thoại lại reo:

“Trung Tá Hoa tôi nghe”.

“Chú mời xong chưa?

“Dạ vừa xong, thưa Trung Tướng”.


“Chú xác nhận lại với các vị là họp lúc 8 giờ sáng, tức sớm hơn 2 tiếng đồng hồ. Chú ráng làm ngay trong đêm nay”.

“Vâng. Tôi sẽ lần lượt xác nhận lại, thưa Trung Tướng”.


Khi trả lời câu hỏi đầu tiên của Trung Tướng Viên, tôi cứ tưởng sẽ nhận được lời khen của ông, nào ngờ chẳng khen mà lại nhận thêm công tác. Vậy là bắt đầu làm lại. Và cứ theo "bổn cũ" mà làm. Mãi đến gần nửa đêm mới rời văn phòng!


Ngày 10 tháng 3 năm 1966. Tại phòng họp số 2, còn có tên là "Tân Sinh Nông Thôn" trong tòa nhà trệt bên kia đường, xéo về bên phải của tòa nhà chánh, Đại Hội Đồng Quân Lực họp dưới sự chủ tọa của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia.


Vào phòng họp, tôi cảm nhận ngay bầu không khí căng thẳng, ngột ngạt, vì tất cả các vị đều im lặng. Tuy khi mời không nêu lý do nhưng giữa các vị chắc đã có liên lạc nhau trước nên cũng hiểu được tại sao có buổi họp đặc biệt này. Tôi nhận ra điều này là do vài vị nói chuyện với nhau trước khi vào phòng họp.


Mở đầu, Trung Tướng Thiệu tuyên bố lý do. Tiếp đến là Thiếu Tướng Kỳ, rồi Trung Tướng Có, liên tục nêu những lời phát biểu cũng như những hành động của Trung Tướng Thi trong thời gian qua, đã lạm quyền trung ương và chống lại trung ương chẳng khác tình trạng "một sứ quân" hay là "một chánh phủ trong một chánh phủ". Thiếu Tướng Kỳ và Trung Tướng Có nói nhiều nhất, nói hăng nhất. Đúng ra là hai vị luân phiên "hài tội" Trung Tướng Thi nhưng Trung Tướng Thi đang bị quản thúc tại nhà ông, nghĩa là không có mặt trong phòng họp. Những điều mà các vị nêu lên về lời tuyên bố cũng như hành động của Trung Tướng Thi, trước đây báo chí đã đăng tải khi những sự kiện đó xảy ra. Chẳng hạn như Trung Tướng Thi nhân danh Đại Biểu Chánh Phủ, đã ấn định giá biểu từ Huế vào Sài Gòn cho chi nhánh Hàng Không Việt Nam tại Huế và Đà Nẳng. Theo giá biểu này thì thấp nhiều so với giá biểu do Tổng Nha Hàng Không Việt Nam qui định. Đến chuyện Trung Tướng Thi tự ý bổ nhiệm Thiếu Tá Nghĩa (dường như là họ Nguyễn) vào chức vụ Tỉnh Trưởng tỉnh Quảng Tín, sau khi trung ương không chấp nhận đề nghị này. Dĩ nhiên là Thủ Tướng Kỳ vẫn bác bỏ quyết định đó của Trung Tướng Thi. Và v.. v..


Phải thừa nhận rằng, Thiếu Tướng Kỳ cũng như Trung Tướng Thi, mỗi vị đều có những cái đúng và những điều sai, vì cả hai đều có tiếng là nóng tính, dễ giận, nghĩ sao nói vậy, nói tuốt luột những điều mình nghĩ đến mức gọi là "nói thẳng ruột ngựa". Nhưng trường hợp này, theo tôi, Trung Tướng Thi hoàn toàn sai. Quyết định bổ nhiệm Tỉnh Trưởng là quyền của Thủ Tướng tức Thiếu Tướng Kỳ, Đại Biểu Chánh Phủ chỉ có quyền đề nghị mà thôi. Trung Tướng Thi đôi lần đã tuyên bố với báo chí rằng, "các Tướng Lãnh cầm quyền ở trung ương có hành động tham những".


Sự kiện đúng hay sai cần phải viện dẫn đầy đủ bằng cớ, chớ Trung Tướng Thi không thể căn cứ vào điều ông nghĩ mà ông tự ý hành động vượt quyền như vậy được. Nếu Trung Tướng Thi cho là các vị Tướng cầm quyền tham nhũng, ông cứ đưa ra tòa với những bằng cớ rành rành thì quan tòa làm sao bao che được. Với lại nếu lời tố cáo của Trung Tướng Thi được minh chứng xác thật với bằng cớ, chắc chắn dư luận -nhất là các cơ quan truyền thông- chẳng ngại ngùng gì mà không lên tiếng ủng hộ, như vậy là sự kiện này càng thêm thuận lợi cho Trung Tướng Thi cũng như thuận lợi cho phiên tòa xét xử.


Hoặc Trung Tướng Thi phản đối trung ương bằng cách từ chức là cách hay nhất mà ông có thể làm được. Thậm chí, Trung Tướng Thi có thể đứng ra lãnh đạo cuộc đảo chánh để thành lập một chánh phủ trong sạch lãnh đạo quốc gia, vì đảo chánh không phải là điều xa lạ cũng không phải là điều khó khăn đối với Trung Tướng Thi. Còn trong khi đang tại chức với cấp bậc Trung Tướng, mà ông tự tách mình ra khỏi trung ương để chống đối trung ương thì còn gì là kỹ luật quân đội, còn gì là một chánh quyền thống nhất để bảo vệ quốc gia dân tộc đang bị cộng sản xâm lăng!


Sau nhiều tiếng đồng hồ thảo luận gay gắt, đến phần bỏ phiếu kín: "Thuận hay không thuận cách hức Trung Tướng Thi?". Khi kiểm phiếu có 1 phiếu trắng, còn lại đều thuận. Trung Tướng Có, đẩy ghế ra sau, đứng dậy, và lên tiếng:

“Trong phòng họp này, chúng ta là những người có trách nhiệm trong Đại Hội Đồng với tư cách thay mặt toàn quân, bỏ phiếu thuận hoặc không, còn phiếu trắng trong trường hợp này là "lưng chừng", không dứt khoát lập trường. Vậy, ai là người bỏ phiếu trắng nên giải thích cho anh em rõ?


Vừa dứt câu, có tiếng ghế đẩy thật mạnh, tất cả cặp mắt của những vị có mặt gần như đồng loạt quay nhìn, và một người dỏng dạc đứng lên. Đó là Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Nhẩy Dù:
“Kính thưa Trung Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, kính thưa quí vị. Tôi là người bỏ phiếu trắng. Trung Tướng Thi đã một thời là cấp chỉ huy của tôi trong binh chủng Nhẩy Dù, nên tôi không thể hành động chống Trung Tướng Thi cho dù Trung Tướng Thi có sai trái với quân đội. Tôi vẫn biết rằng, hành động của tôi không làm thay đổi được quyết định chung cuộc, nhưng tôi vẫn làm vì lẽ đó. Và nếu sau này, có điều gì xảy ra với Trung Tướng Viên, tôi vẫn hành động như tôi vừa làm. Và bây giờ, quí vị toàn quyền quyết định về tôi: "Ở lại hay ra khỏi Nhẩy Dù, tôi thi hành ngay". Xin cám ơn”.


Cả phòng họp im phăng phắc. Cuối cùng cũng không có quyết định gì về Chuẩn Tướng Đống, có lẽ các vị thừa nhận tính khẳng khái của vị Tướng Tư Lệnh Nhẩy Dù mà không bàn gì về ông chăng?


Tôi rất khâm phục nghĩa khí và lòng dũng cảm của Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống, ông xứng đáng là vị Tư Lệnh binh chủng Nhẩy Dù. Đành rằng, nếu Đại Hội Đồng Quân Lực có cách chức ông và để ông "ngồi chơi xơi nước" đi nữa, ông vẫn là Tướng Lãnh, nhưng thử hỏi có được bao nhiêu vị Tướng khẳng khái như ông. Sau buổi họp, tôi đến chào Chuẩn Tướng Đống và xin được bắt tay ông, chỉ vì hành động vừa rồi của ông.


Thế là quyết định cách chức Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và Đại Biểu Chánh Phủ tại miền Trung của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu hẹp ngày hôm qua, trở thành quyết định chung cuộc của Đại Hội Đồng Quân Lực hôm nay, mà Đại Hội Đồng Quân Lực trên nguyên tắc là thay mặt toàn quân.


Ngay lúc buổi họp vừa chấm dứt, đa số quí vị thành viên Đại Hội Đồng Quân Lực vừa từ từ ra cửa vừa bàn luận tình hình chiến sự gần như là chuyện bên lề, không biết có phải quí vị muốn chuyển sang bầu không khí trách nhiệm thường xuyên để làm nhẹ đi hoặc quên đi cái không khí căng thẳng trong tình đồng đội chen lẫn trong lãnh vực chính trị vừa rồi hay không, nhưng rõ ràng là không khí rộn ràng vui vẻ hẳn lên chớ không nặng nề như lúc ngồi trong phòng họp. Trung Tướng Viên gọi tôi về văn phòng gặp ông:


“Chú tìm Chuẩn Tướng Nhuận và mời đến gặp tôi ngay”.


“Hy vọng là tôi tìm được vì nhà Chuẩn Tướng Nhuận ở trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu, thưa Trung Tướng”.


Đó là Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, là một trong chín Đại Tá được thăng cấp Chuẩn Tướng hồi tháng 7/1964 ngay khi Trung Tướng Nguyễn Khánh vừa thiết lập cấp bậc Chuẩn Tướng. Ông đang là Chỉ Huy Trưởng binh chủng Biệt Động Quân.
Rất may, Chuẩn Tướng Nhuận có mặt tại nhà. Vào văn phòng Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng một lúc, khi trở ra ông tạt vào phòng tôi và nói là ông hy vọng tôi giúp ông cho kịp. Nói xong, ông vội vàng đi ngay chừng như thời gian gấp rút lắm. Tôi nói vói theo là tôi "sẽ cố gắng", nhưng thật ra tôi chưa hiểu việc gì tôi phải làm liên quan đến "hy vọng" mà Chuẩn Tướng Nhuận vừa nói, cho đến khi Trung Tướng Viên bấm chuông gọi tôi:


“Chú làm ngay mấy việc. Thứ nhất, chú thu xếp lấy chiếc C47 đưa Chuẩn Tướng Nhuận và các sĩ quan tháp tùng ông ra Huế ngay chiều nay (10/3/1966). Thứ hai, điện thoại ra Huế yêu cầu Thiếu Tướng Chuân (Nguyễn Văn Chuân) chuẩn bị và thực hiện công tác bàn giao chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho Chuẩn Tướng Nhuận ngay khi ông Nhuận đến Huế. Sáng ngày mai (11/3/1966), Thiếu Tướng Chuân vào Đà Nẳng nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I. Thứ ba, điện thoại Đại Tá Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I, đón Thiếu Tướng Chuân và trình bày tình hình mới nhất để ông Chuân nắm vững tình hình. Và thứ tư, gởi công điện "hỏa tốc" xác nhận lệnh đó với Quân Đoàn I/Quân Khu I và Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Chú có gì cần hỏi thêm không?


“Dạ không, thưa Trung Tướng”.
Một Thông Cáo của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia được phổ biến trên các làn sóng phát thanh vào buổi tối, theo đó, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đã chấp thuận cho Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I, xuất ngoại chữa bệnh mũi một thời gian. Thông Cáo đơn giản chỉ có thế, nhưng đoạn văn này lại là khởi đầu cho một cuộc khủng hoảng chính trị trong nội tình Việt Nam chúng ta. Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia xem như giải quyết được sự chống đối của Trung Tướng Thi, nhưng lại phát sinh vấn đề khác, giống như nhiều loại thuốc trị bệnh có kèm theo tác dụng phụ của nó vậy. Vấn đề của Trung Tướng Thi là vấn đề lớn, vì nếu không lớn hà tất phải triệu tập Đại Hội Đồng Quân Lực, nhưng vấn đề phát sinh thì lớn hơn nhiều và lâu hơn nhiều.





Khủng hoảng bắt đầu.


Sự kiện Thủ Tướng là Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ với Đại Biểu Chánh Phủ tại miền Trung là Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi bất đồng nhau trầm trọng, không giới nào trong xã hội là không biết. Ấy vậy mà nội dung Thông Cáo như thế thì làm sao che được mặt bên kia của vấn đề.


Xin nhớ rằng, Trung Tướng Thi rất được lòng của khối Phật Giáo miền Trung, trong đó có cả sinh viên, quân nhân Phật tử, và giới chính trị nữa. Cho nên có tệ lắm thì người ta cũng nhận thức được sự kiện Trung Tướng Thi bị trung ương cách chức và đưa đi lưu vong. Thêm nữa, nếu thật sự Trung Tướng Thi đi ngoại quốc chữa bệnh thì cần gì phải Thông Cáo cho toàn dân biết, chỉ cần cái sắc lệnh của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, cho phép Trung Tướng Thi xuất ngoại, đồng thời cử vị Tướng khác thay thế trong thời gian ông ấy vắng mặt là đủ. Chính sự có mặt của bản Thông Cáo ở cấp lãnh đạo quốc gia là điều không bình thường chút nào.


Thế là Phật Giáo có phản ứng. Và phản ứng đầu tiên bằng cuộc mít tinh biểu tình tại Đà Nẳng, đòi chánh phủ phục chức cho Trung Tướng Thi. Đòi hỏi này nhanh chóng lan ra Huế và vào vài tỉnh lân cận phía nam Đà Nẳng. Khí thế của các cuộc mít tinh biểu tình ngày càng mạnh mẽ với số người tham gia ngày càng đông, đông đến độ khó ước lượng được là bao nhiêu.


Trước tình hình này, tôi cảm thấy các vị lãnh đạo trung ương dường như không tiên liệu đến, hoặc có tiên liệu nhưng tiên liệu không đến mức báo động cao như vậy. Ngay ngày phản ứng đầu tiên của khối người đông đảo tại Đà Nẳng, Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, Trung Tướng Có, với Trung Tướng Viên, họp trong phòng Trung Tướng Viên. Rồi những ngày sau đó là họp liên miên, không giờ giấc gì cả. Chúng tôi lo ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, và ăn tối luôn. Với thành phần như vậy, có thể gọi là "Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu hẹp của thu hẹp", vì không có mặt Trung Tướng Tổng Thư Ký, và hai vị Tướng Tư Lệnh Không Quân với Tư Lệnh Hải Quân. Phải có 3 vị này mới đủ thành phần thu hẹp của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia.


Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, được Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia cử vào chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, đồn trú tại Huế và Quảng Trị, rất có thể vì ông là người sinh trưởng tại miền Trung và là một Phật tử, hy vọng ông có thể thuyết phục được những thành phần chống đối. Nhưng ngay khi nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1, ông đã tuyên bố đứng vào "hàng ngũ lực lượng tại Huế chống lại trung ương". Do đó mà ông được xem là Tư Lệnh của lực lượng chống đối tại đây. Sự kiện này cho thấy quí vị trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đã quá đơn giản khi bổ nhiệm một Tướng Lãnh vào một chức vụ rất cần uy tín, bản lãnh, với một phong cách vừa thuyết phục vừa cương quyết, mà theo tôi, Chuẩn Tướng Nhuận không có những yếu tố đó.


Tôi không rõ là Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi có đề nghị hay không, mà các vị lãnh đạo quyết định cho ông trở ra Đà Nẳng gọi là để giải thích sự việc với đồng bào, yêu cầu đồng bào chấm dứt những xáo trộn trong khi chánh phủ cần tập trung nỗ lực vào tình hình quân sự. Ngày 17/3/1966, chiếc C47 của Không Quân đưa Trung Tướng Thi ra Đà Nẳng. Trước khi lên phi cơ tại phi trường Tân Sơn Nhất, ông tuyên bố với báo chí rằng:


“Tôi chẳng có bệnh mũi gì cả, mà cho dù có bệnh đi nữa thì tôi cũng điều trị tại Việt Nam chớ không đi nước nào hết. Sự thật là như vậy”


Lời tuyên bố này chính là sự xác nhận rõ ràng và dứt khoát. Cũng có nghĩa là ông đã vạch trần nội dung bản Thông Cáo ngày 10/3/1966 của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia nói về ông. Tôi nghĩ, các vị trung ương chắc đã phải cảm nhận "cái tát" khi xem câu trả lời ngắn ngủi đó trên các báo tại thủ đô Sài Gòn.


Rồi sau đó. Cứ mỗi lần Trung Tướng Thi xuất hiện ở Đà Nẳng, Huế, hay Quảng Nam, đều được sự ủng hộ nồng nhiệt của đám đông mít tinh biểu tình. Và những lời tuyên bố của ông đều chung một ý là ông cùng với đồng bào nơi đây chống lại các Tướng Lãnh cầm quyền tại trung ương.


Thế là cuộc "khủng hoảng miền Trung" -báo chí thường gọi như vậy- tự dưng được "trung ương" tăng cường thêm hai Tướng Lãnh, do đó mà khí thế càng thêm mạnh! Sai lầm nghiêm trọng của trung ương trong quyết định chọn người vào chức vụ quan trọng, hy vọng sẽ là một trong những bài học lãnh đạo trong tương lai đối với những thế hệ tiếp sau.


Tiếp đến, Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu, Tổng Thư Ký Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia bay ra Huế, cũng với hy vọng trong một chừng mực nào đó, ông có thể thuyết phục được Trung Tướng Thi. Ông đến tòa đại biểu chánh phủ (Huế) cùng với Trung Tướng Thi, trong khi bên ngoài đông nghẹt thanh niên sinh viên. Từ trong đám đông đó có người bước ra hỏi Trung Tướng Chiểu:


“Trung Tướng có công nhận hành động của chúng tôi là đúng không?


“Đúng”. Trung Tướng Chiểu trả lời.


“Trung Tướng công nhận là đúng. Vậy Trung Tướng có ở lại Huế với chúng tôi không?


“Có”.


Lập tức, một nhóm thanh niên ùa vào hoan hô Trung Tướng Chiểu và công kênh ông ra xe đưa đến khách sạn bên khu chợ Đông Ba. Nhóm thanh niên này nói là luôn luôn túc trực bên cạnh Trung Tướng Chiểu và ông cần gì cứ gọi họ. Chữ "túc trực" ở đây được hiểu là "canh giữ" Trung Tướng Chiểu.


Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan -cánh tay phải của Thủ Tướng Kỳ- Tổng Giám Đốc Cảnh Sát kiêm Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội, cử nhiều toán Cảnh Sát, An Ninh, Tình Báo dưới quyền ông ra Huế và Đà Nẳng, bám sát tình hình. Mỗi ngày báo cáo hai lần về Phủ Thủ Tướng và thông báo văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng. Còn chính ông, sự đi lại giữa Đà Nẳng với Sài Gòn bất cứ lúc nào mà ông cho là cần thiết.


Ngoài ra, tổng đài điện thoại Cộng Hòa trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu, được lệnh thu băng toàn bộ các cuộc nói chuyện bất cứ là ai, bất cứ từ đâu đến, mà ngang qua hệ thống viễn liên này và trình lên văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng vào đầu giờ buổi sáng, và cuối giờ buổi chiều. Đây là nguồn cung cấp thông tin xác thật nhất về những lời đối thoại giữa các tỉnh miền Trung với Sài Gòn, bất luận người nói chuyện là ai cũng đều thu vào và trình lên tất cả. Nhờ đó mà tôi biết được những lời đối thoại giữa các vị Tướng từ trung ương với vị Tư Lệnh Quân Đoàn I cũng như với các vị Tư Lệnh khác.


Tuy có được những công điện mật mã thường xuyên của nhóm an ninh tình báo, cùng với những tờ trình của tổng đài điện thoại Cộng Hòa, nhưng trong những cuộc đàm thoại giữa Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, Trung Tướng Có từ Sài Gòn với Thiếu Tướng Chuân tại Đà Nẳng, thì không thể nào hiểu được tình hình thật sự khi nhìn từ Bộ Tổng Tham Mưu. Trung Tướng Thiệu gọi tôi:


“Chú liên lạc với Thiếu Tướng Chuân, hỏi tình hình hôm nay ra sao rồi cho tôi biết”.


“Vâng. Tôi gọi ngay, thưa Trung Tướng”.


Tôi điện thoại ra Đà Nẳng và Thiếu Tướng Chuân đang có mặt tại văn phòng:


“Tôi Hoa đây thưa Thiếu Tướng. Trung Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia muốn biết sự thật của tình hình bây giờ ra sao. Hoặc là Thiếu Tướng tiếp chuyện trực tiếp với Trung Tướng, hoặc tôi sẽ chuyển trình lại Trung Tướng, thưa Thiếu Tướng”.


“Anh trình với Trung Tướng Chủ Tịch là tình hình không có gì đáng ngại đâu. Như thế là được rồi, tôi khỏi phải trình nữa”.


Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, những tháng cuối năm 1954 là Trung Tá, Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, lúc ấy tôi là sinh viên sĩ quan trừ bị của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức trong số hơn 200 sinh viên gởi lên đây học, vì Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức không đủ cơ sở. Từ đó, tôi thường liên lạc với ông trong tình thầy trò.


Tôi trình lại Trung Tướng Thiệu thì Trung Tướng Có bảo tôi gọi cho ông nói chuyện trực tiếp với Thiếu Tướng Chuân. Kết quả cuộc đàm thoại đó cũng là những thông tin mà tôi nhận lúc nảy thôi.


Một tháng sau ngày cách chức Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, hầu như tất cả sinh hoạt tại Đà Nẳng, Huế, và vài tỉnh lân cận, nói chung là rất xáo trộn, đôi lúc được xem là hỗn loạn nữa. Vì vậy mà phòng làm việc của Trung Tướng Viên trở thành nơi làm việc hằng ngày của Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, và Trung Tướng Có. Hội họp liên tục và những quyết định về tình hình miền Trung cũng như liên quan đến các đại đơn vị khác, đều xuất phát từ đây.


Trung Tướng Có quyết định, chính ông phải ra Đà Nẳng để biết rõ tình hình, chớ mờ mờ ảo ảo như thế này thì không thể giải quyết được mà có thể ngày càng trầm trọng đến mức nguy hiểm. Trung Tướng Thiệu và Trung Tướng Viên, khuyên Trung Tướng Có không nên mạo hiểm, vì rất có thể là Thiếu Tướng Chuân đã bị phía chống đối quản thúc canh giữ nên Thiếu Tướng Chuân không thể trình bày sự thật được. Nếu sự thể xảy ra như vậy thì Trung Tướng Có sẽ tự mình dấn thân vào thế bị động của Thiếu Tướng Chuân luôn. Nhưng Trung Tướng Có vẫn giữ nguyên quyết định, và ông đi Đà Nẳng.


Đến căn cứ Không Quân Đà Nẳng, Trung Tướng Có gọi về cho biết, con đường từ căn cứ Không Quân đến bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I đầy chướng ngại vật, nhưng phía chống đối mở lối cho xe của Quân Đoàn đến đón ông. Rồi cũng không khác Thiếu Tướng Chuân về cách trình bày tình hình, và Trung Tướng Thiệu tin là Trung Tướng Có đã bị quản thúc cùng với Thiếu Tướng Chuân. Thế là trung ương tiếp tục lún sâu vào thế bị động.






Biện pháp quân sự.


Ngày 14/4/1966, trung ương quyết định chuyển quân ra Đà Nẳng để giải quyết tình hình. Nói cho thật đúng là Thiếu Tướng Kỳ quyết định sử dụng biện pháp mạnh. Trung Tướng Thiệu không phản đối nhưng cũng không hẳn là đồng ý, Trung Tướng Viên vẫn như từ ngày đầu đến giờ là không tham gia quyết định nào cả vì ông cho rằng đây là vấn đề chính trị, vấn đề của chánh phủ mà ông chỉ thi hành lệnh thôi. Trước khi ra về, Trung Tướng Viên gọi tôi vào phòng:


“Sáng sớm mai tôi và bộ chỉ huy hành quân ra Đà Nẳng, chú lo mấy việc sau đây: Chuẩn bị giường xếp và lương thực 7 ngày cho 10 người ăn. Chú Có và vài chú trong toán an ninh theo tôi. Chú tìm ngay Trung Tá Mã Sanh Nhơn cùng đi với tôi. Trung Tá Nhơn sẽ là Thị Trưởng Đà Nẳng thay cho Bác Sĩ Mẫn đã theo phía chống đối. Chú liên lạc với văn phòng Thiếu Tướng Kỳ để biết giờ phi cơ Caravelle cất cánh. Chú lo ngay cho kịp”.


Giao công tác lo gường xếp với lãnh lương khô cho Đại úy Có xong, tôi liên lạc với chánh văn phòng của Thủ Tướng Kỳ được biết, bộ chỉ huy hành quân sẽ đi bằng phi cơ Caravelle của Hàng Không Việt Nam và cất cánh lúc 3 giờ sáng trước phòng VIP. Điều tôi lo nhất là không biết có tìm được Trung Tá Mã Sanh Nhơn hay không vì gần đây tôi ít có dịp liên lạc với anh, nhưng cuối cùng tôi cũng tìm được. Khi ra sân bay, tôi thấy có một cô gái người Huế cùng đi với Trung Tá Nhơn, và theo lời Trung Tá Nhơn thì cô này có khả năng giúp anh thuyết phục thanh niên học sinh Đà Nẳng.


Trong cuộc chuyển quân này, Không Quân Hoa Kỳ dứt khoát không cho mượn phi cơ vận tải hạng nặng C130 để chở chiến xa, họ nêu lý do phương tiện chiến đấu chỉ sử dụng trong chiến tranh chớ không can dự vào cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ, nhất là đàn áp đồng bào. Họ nói rất đúng, nhưng liệu lý do đó còn có mặt trái của nó hay không? Hãy chờ.


Tại phi trường, tôi được biết Chuẩn Tướng Trần Thanh Phong, Trưởng Phòng 3/Tổng Tham Mưu, đã điều động Thủy Quân Lục Chiến và Nhẩy Dù vào cuộc hành quân này. Ngoài Thủ Tướng Kỳ, Trung Tướng Viên, còn có Thiếu Tướng Lê Nguyên Khang, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến và Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Nhẩy Dù.


Từ căn cứ Không Quân Đà Nẳng, Đại Úy Nguyễn Hữu Có, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, điện thoại về tôi:


“Trung Tướng và bộ chỉ huy đã đến nơi và trú đóng trong căn cứ Không Quân. Theo tin tức thì ngoài đường phố đầy nghẹt bàn thờ và người của phía chống đối khi họ biết lực lượng tổng trừ bị ra đây giải quyết tình hình. Có vẻ rắc rối lắm. Trung Tướng Có (tại bộ tư lệnh Quân Đoàn I) tức giận về việc Nhẩy Dù với Thủy Quân Lục Chiến có mặt ngoài này đó anh. Có gì lạ tôi sẽ gọi về anh”.


Vậy là "không khí chiến tranh" giữa trung ương với địa phương rất sẳn sàng xảy ra, nếu như phía trung ương có một hành động nào đó mà phía chống đối cho là khiêu khích. Trong ngày đầu tiên, lực lượng trung ương án binh bất động, phía chống đối củng cố công tác bố trí lực lượng trên đường phố trong tư thế "nghênh chiến". Cái đau ở chổ "cả hai phía đều là phe ta cả!"


Trung Tướng Có điện thoại về phòng Tổng Tham Mưu Trưởng nói chuyện với Trung Tướng Thiệu:


“Tại sao trong khi tôi đang dàn xếp với bên kia thì anh lại đưa quân ra thế này? Bây giờ không còn cách nào nói chuyện với họ được vì họ không tin tôi nữa!


“Ông Kỳ đó”.


“Anh cho rút về ngay đi. Nếu không thì tình hình sẽ nguy hiểm lắm”.


“Được. Tôi sẽ cho lệnh rút về”.


Trung Tướng Thiệu ngồi tại bàn viết của Trung Tướng Viên, tự ông viết công điện ra lệnh chuyển lực lượng tổng trừ bị về Sài Gòn và ký ngay trên bản thảo đó. Ông gọi tôi:


“Chú đánh máy xong, trình Trung Tướng Viên ký và gởi đi ngay cho tôi. Xong, trình lại tôi”.


“Vâng, tôi làm ngay thưa Trung Tướng”.


Ngay đêm hôm đó (15/4/1966), Thủ Tướng Kỳ và Trung Tướng Viên về lại Sài Gòn, giao cho Chuẩn Tướng Trần Thanh Phong chỉ huy. Lệnh này gây rắc rối, vì Chuẩn Tướng Phong kém cấp bậc và kém thâm niên, nên Thiếu Tướng Khang và Chuẩn Tướng Đống cũng trở về Sài Gòn và trao quyền chỉ huy cho hai vị Tư Lệnh Phó của hai ông.


Tôi thuật lại cuộc nói chuyện giữa Trung Tướng Thiệu với Trung Tướng Có, đồng thời trình công điện "hỏa tốc" (có nghĩa là phải gởi ngay) cho Trung Tướng Viên mà tôi đã đánh máy xong. Ông không nhìn vào mà nói:


“Chú để trên bàn cho tôi”.


Sáng hôm sau, Trung Tướng Thiệu đến sớm trong khi Trung Tướng Viên chưa đến, khi đi ngang bàn tôi ông ra hiệu tôi theo ông vào phòng:


“Chú làm xong chưa?

“Thưa Trung Tướng, xong rồi, nhưng Trung Tướng Viên chưa ký”.

“Tại sao?

“Tôi không rõ, thưa Trung Tướng”.-


“Khi Trung Tướng Viên tới là chú trình ngay cho tôi”.


“Vâng”.


Trung Tướng Viên đến, và sau khi ông điện thoại với Thiếu Tướng Kỳ, tôi không rõ là Thiếu Tướng Kỳ nói gì mà Trung Tướng Viên duyệt ký công điện đó.


Lực lượng rút về xong thì Trung Tướng Có cũng được phía chống đối cho “tự do” sang căn cứ Không Quân về Sài Gòn. Trung Tướng Chiểu từ Huế cũng vậy.


Trung Tướng Tôn Thất Đính, một trong năm vị Tướng bị ba vị trong nhóm lãnh đạo “Chỉnh lý ngày 30/1/1964” quản thúc tại Đà Nẳng rồi chuyển lên quản thúc ở Đà Lạt, 3 tháng sau đó được tự do nhưng không được giữ các chức vụ có quân có quyền. Trường hợp như vậy báo chí thường gọi là “Tướng không quân”. Trung Tướng Đính ngỏ ý với bà Cao Văn Viên mà ông tin chắc là đến tai Trung Tướng Viên, và rồi Trung Tướng Thiệu với Thiếu Tướng Kỳ cũng biết. Theo đó, Trung Tướng Đính bắn tiếng rằng: “Nếu được tín nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I, ông có khả năng giải quyết được tình hình một cách êm dịu”. Bà Viên nói cho tôi nghe như vậy.


Và chắc là nghe xuôi tai, với lại trong khi chưa chọn được vị nào khác, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu hẹp, quyết định cử Trung Tướng Tôn Thất Đính vào chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I thay Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, và tôi được lệnh lo phi cơ đưa ông và các sĩ quan tháp tùng ra Đà Nẳng. Ngày hôm sau, một mẫu tin trên nhiều nhật báo tại thủ đô Sài Gòn có nội dung vắn tắt như thế này:


“Trước khi lên phi cơ, Trung Tướng Đính tuyên bố là cọp về rừng”.


Đúng là “cọp lại về rừng”, vì sau khi Trung Tướng Đính nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I thì ông tuyên bố tại Đà Nẳng cũng như sau đó tại Huế, là ông chờ ngày này đã lâu lắm rồi. Đồng thời ông nói thẳng ra rằng ông đứng về phía lực lượng chống đối trung ương. Thế là không khí đấu tranh trong hàng ngũ chống đối chánh phủ càng thêm hăng hái, vì có thêm một Tướng lãnh vừa từ trung ương ra là chống lại trung ương ngay.


Lúc này hầu hết vũ khí dự trữ trong các kho Tiếp Vận tại Huế và Đà Nẳng, đều bị phía chống đối lấy trang bị cho lực lượng của họ. Tư Lệnh lực lượng chống đối tại Huế là Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận. Tại Đà Nẳng, phía chống đối tổ chức một Quân Đoàn lấy tên là “Quân Đoàn Trần Hưng Đạo” do Đại Tá Đàm Quang Yêu giữ chức Tư lệnh. Có một số Cảnh Sát và quân nhân Phật tử tham gia. Nói là Quân Đoàn nhưng thật ra chỉ là một số quân nhân và cảnh sát Phật tử tập hợp lại thôi, chớ có tổ chức Sư Đoàn Trung Đoàn gì đâu. Còn Đại Tá Đàm Quang Yêu, đang là Chỉ Huy Trưởng Đặc Khu Quảng Đà (tức Quảng Nam Đà Nẳng), được phía chống đối đưa ông vào chức Tư Lệnh Quân Đoàn Trần hưng Đạo.


Theo đề nghị của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội, đang có mặt tại Đà Nẳng, Trung Tướng Viên bảo tôi liên lạc với Cục Quân Cụ (quản trị các loại dụng cụ chiến tranh) đưa lên căn cứ Không Quân 500 khẩu súng trường loại MAS 36 (do Pháp sản xuất từ đệ nhị thế chiến) mà Cục không cần biết lý do. Không Quân chuyển số súng này ra Đà Nẳng và dùng trực thăng đưa đến hai Quận phía bắc thành phố Huế, trang bị cho các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Lực lượng tình nguyện sẽ chống cộng sản và chống cả lực lượng đang chống đối trung ương.


Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu hẹp, đã lần lượt thất bại trong việc chọn người giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I sau khi cách chức Trung Tướng Thi, ngay việc hai vị Tướng lãnh từ trung ương ra Huế và Đà Nẳng tìm hiểu và giải quyết tình hình tại chỗ, cũng đều thất bại. Từ những thất bại đó, những va chạm qua lại đã xảy ra là điều không tránh khỏi, và trong nội bộ đã hình thành hai nhóm:


Nhóm thứ nhất gồm: Trung Tướng Thiệu, Trung Tướng Có, và Trung Tướng Đặng văn Quang, Tư Lệnh Quân Đoàn IV.


Và nhóm thứ hai gồm: Thiếu Tướng Kỳ, Trung Tướng Viên, Thiếu Tướng Khang, và Chuẩn Tướng Đống.
Sở dĩ tôi dùng chữ “Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu hẹp” vì những quyết định đều do những vị trong số 4 vị trên đây đưa ra chớ không phải đầy đủ trong thành phần Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia 11 người. Trình bày như vậy, tôi có ý lách phần trách nhiệm của 7 vị còn lại trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia không có mặt trong những quyết định liên quan trực tiếp đến tình hình xáo trộn gần hai tháng qua. Với lại chữ “thu hẹp” mà tôi dùng ở đây cũng không hoàn toàn đúng nghĩa nữa, mà phải gọi là “thu hẹp của thu hẹp”'.


Trong khi đó, các vị lãnh đạo phía chống đối chuyển mục tiêu đấu tranh sang đòi xây dựng một chế độ dân cử. Mục tiêu của phía chống đối, bước đầu là phục chức cho Trung Tướng Thi, khi Trung Tướng Thi về lại Đà Nẳng thì chuyển sang bước thứ hai là đấu tranh đòi Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, và Trung Tướng Có từ chức, và bây giờ là bước thứ ba hoàn toàn về chính trị.


Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, rõ ràng là từ lúc khởi đầu đến bây giờ đều trong thế bị động, tuy đã có nhiều cố gắng để tái lập ổn định tình hình nhưng tất cả đều không thành công. Từ đó dẫn đến rạn nứt trong nội bộ thành hai nhóm, và nếu tình trạng này không sớm chấm dứt thì rồi đây đất nước sẽ như thế nào? Danh dự và trách nhiệm đối với quốc gia dân tộc, quí vị quên rồi sao? Lẽ nào lại thế!


Dù thế nào đi nữa thì Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, cũng phải tìm một vị Tướng khác ra thay Trung Tướng Đính, và vị đó là Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao. Thiếu Tướng Cao từ sau cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963, chỉ giữ những chức vụ không có quân trong tay và những chức vụ cũng chẳng có gì quan trọng theo đúng nghĩa của nó. Các vị chọn Thiếu Tướng Cao cũng là điều khó hiểu, vì Thiếu Tướng Cao là tín đồ Thiên Chúa Giáo. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, ông rất được tín cẩn. Bây giờ được cử vào chức vụ có trách nhiệm giải quyết cuộc khủng hoảng với Phật Giáo, thì liệu mức độ thành công có được bao nhiêu! Lại thêm một chọn lựa liều lỉnh nữa chăng?


Khi Thiếu Tướng Cao từ phòng Trung Tướng Viên bước ra, chẳng những ông không có được nụ cười như lệ thường mà trái lại nét mặt của ông chứng tỏ rằng ông rất lo âu về chức vụ mà Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia vừa giao cho ông. Nếu nhận xét cho thật đúng thì Thiếu Tướng Cao sợ hãi!


Đây là lần thứ tư tôi được lệnh lo phi cơ đưa vị Tướng ra Đà Nẳng nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I trong một tình hình rối ren nội bộ.


Chỉ vài ngày sau khi Thiếu Tướng Cao có mặt tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, sau giờ làm việc chiều trở về, điện thoại nhà tôi reo:


“Trung Tá Hoa tôi nghe”.


“Chú liên lạc tìm sĩ quan tùy viên của Thống Tướng Westmoreland hỏi xem giờ nào phi cơ cất cánh và bãi đậu ở đâu?


“Thưa Trung Tướng, tôi chưa rõ việc này, xin Trung Tướng cho lệnh rõ hơn”.


“Tôi cần đi Đà Nẳng ngay bây giờ. Ông Westmoreland cho tôi mượn chiếc phi cơ U 21 của ổng. Chú hỏi rồi cho tôi biết ngay”.


Thống Tướng William C. Westmoreland, đang là Tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam. U 21 là chiếc phi cơ phản lực, dường như 8 chỗ ngồi mà Không Lực Hoa Kỳ dành riêng cho ông. Mọi thu xếp xong xuôi, và phi cơ cất cánh lúc 8 giờ tối tại bãi đậu của Không Quân Hoa Kỳ, và trên phi cơ chỉ một hành khách duy nhất là Trung Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng. Trung Tướng Viên 3 ngôi sao, Thống Tướng Westmoreland 4 ngôi sao, phối hợp nhau trong mọi vấn đề rất chặt chẻ. Mỗi tuần vào đầu giờ làm việc chiều thứ hai đều họp cấp cao tại văn phòng Trung Tướng Viên, giải quyết những vấn đề vượt quá trách nhiệm của hai bộ tham mưu, hoặc vì hai bộ tham mưu không đồng quan điểm nên chưa giải quyết được. Ngoài ra, Thống Tướng Westmoreland còn cử một Đại Tá (lúc đó là Đại Tá Freund, ông này thường nói tiếng Pháp), làm sĩ quan liên lạc của ông và có văn phòng tại Bộ Tổng Tham Mưu (ở tầng trệt tòa nhà chánh).


Trước khi lên phi cơ, Trung Tướng Viên dặn tôi:

“Chú chờ tôi ở đây và rất có thể là tôi về khuya lắm”.

Tôi muốn biết chuyện gì xảy ra, nên điện thoại hỏi bà Viên vì tôi tin là bà biết. Và đúng như vậy, bà Viên cho biết:


“Thiếu Tướng Cao nói ổng bị ông Loan (Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan) cho người mưu sát ổng ngay tại văn phòng, nên ổng đã bỏ Quân Đoàn chạy sang tị nạn bên Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đệ Tam Thủy Bộ Hoa Kỳ. Trung Tướng ra đó giải quyết ngay trong đêm”.


Bỗng dưng tôi có dịp quan sát căn cứ Không Quân về đêm. Dưới ánh sáng như ban ngày do hệ thống đèn pha cực mạnh, những bộ phận chuyên viên bảo trì phi cơ và chuẩn bị bom đạn với hỏa tiển để phi cơ sẳn sàng cất cánh lên đường ra trận. Những toán quân nhân làm đêm, không phân biệt Việt Nam hay Hoa Kỳ, đều hoạt động liên tục. Cứ độ nửa tiếng đồng hồ là chiếc xe bán thức ăn nước uống của Hoa Kỳ đến để bán cho các quân nhân Việt Mỹ. Làm việc ban đêm là một nhiệm vụ cấp trên giao phó, nhưng nhìn vào cung cách và thái độ của những quân nhân chuyên viên đó, tôi nhận thấy tấm lòng của họ, tấm lòng của “Người Lính Không Quân” đối với “Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm”. Xứng đáng biết bao hỡi những chiến sĩ Không Quân âm thầm trong đêm tối.


Trung Tướng Viên về đến lúc 3 giờ sáng. Trước khi lên xe, ông đưa tôi cái thơ không niêm, và nói:


“Tôi về nhà luôn. Chú ghé đưa thư này cho bà Cao và nói rằng, Thiếu Tướng Cao nhờ trao tận tay. Ngoài ra ông Cao không có dặn gì thêm”.


Nhà Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao trong cư xá Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng tôi không ghé ngay mà tôi vào luôn văn phòng. Tôi muốn biết tình hình xảy ra như thế nào và tôi nghĩ là thư của Thiếu Tướng Cao có thể có những thông tin liên quan đến. Thế là tôi sao chụp một bản trước khi ghé nhà Thiếu Tướng Cao trao cho bà ấy. Sỡ dĩ tôi hành động như vậy là vì từ cái đêm Tổng Thống Diệm ra lệnh thiết quân luật 20/8/1963 để lùng bắt Thượng Tọa Thích Trí Quang cho đến nay, tôi ghi chép những sự kiện xảy ra, và đồng thời sao chụp các bản tài liệu kèm theo bản văn ghi chép theo câu “nói có sách mách có chứng”, để sau này cung cấp cho những sử gia hoặc giả tôi sẽ đăng báo hoặc viết thành sách. Một phần những bản văn ghi chép cùng những bản sao chụp có được, tôi đã thiêu hủy trước khi vào tù tháng 6/1975, chỉ còn lại “tài sản” lưu giữ trong ký ức và một bao đựng những trang giấy viết tay do quân cộng sản lục soát khám xét và xé bỏ tung tóe trước khi bọn họ rời khỏi nhà tôi.


Năm 1986, tôi thuật lại cho các bạn trong phòng giam số 1 trại tù Nam Hà nghe trong 9 đêm liền. Thuật lại như vậy, tôi nghĩ, sự lưu giữ trong ký ức sẽ được dài lâu vì phát ra cũng có nghĩa là thu lại, và mặt khác, trong số các bạn trong phòng giam có những bạn chứng kiến tận mắt hoặc đã tham gia một số sự kiện tại địa phương trong thời ấy như Đại Tá Đàm Quang Yêu chẳng hạn, xác nhận những gì tôi thuật. Có lẽ nhờ vậy mà những gì “tồn trữ trong ký ức” của tôi đã giúp tôi hoàn thành quyển “Đôi Dòng Ghi Nhớ”, góp mặt trong hằng loạt sách hồi ký xuất bản tại hải ngoại.


Trở lại thư của Thiếu Tướng Cao. Tôi biết hành động như vậy là không đúng, nhưng tôi muốn có dữ kiện ghi chép chính xác. Tôi không biện minh cho việc tôi làm, nhưng rõ ràng là tôi không hề có ý định gì ngoài điều tôi vừa trình bày. Thư ông chưa đầy trang giấy, chỉ vắn tắt rằng :


“..... Vì có người ám hại nên ông phải ra ngoại quốc tìm kế mưu sinh và sẽ gởi tiền về giúp đỡ gia đình. Cuối cùng, ông cầu xin Đức Mẹ che chở cho vợ con ông”.


Ngày hôm sau, tôi được bà Viên cho biết thêm như thế này:


“Nhận chức xong, Thiếu Tướng Cao duyệt lại tình hình từng nơi, đặc biệt là ông chú trọng đến Đà Nẳng và Huế. Ông thấy cần ra Huế để nắm vững tình hình tại đây về lực lượng dưới quyền ông cũng như lực lượng của phía chống đối. Thiếu Tướng Cao đến Huế bằng trực thăng của Hoa Kỳ, khi chuẩn bị đáp thì từ đám đông phía dưới có người bắn lên và xạ thủ trên trực thăng đã bắn chết người đó. Ông quay về Đà Nẳng. Rồi ngay trong phòng làm việc của ông tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, bất ngờ ông phát hiện kịp thời một sĩ quan của ông Loan (Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan) dí súng vào đầu ông từ phía sau, nhưng đúng lúc có một sĩ quan Hoa Kỳ bước vào nên hắn không hành động được. Ông Cao quá tức giận và nói cho ông Loan biết là ông sẽ rời bỏ Quân Đoàn. Ông Loan quì xuống ôm chân Thiếu Tướng Cao và nói trong vội vàng: 'Thiếu Tướng hiểu lầm rồi, không có chuyện mưu sát gì đâu. Tôi lạy Thiếu Tướng, xin Thiếu Tướng đừng bỏ Quân Đoàn. Ngay sau đó, ông Cao sang Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đệ Tam Thủy Bộ Hoa Kỳ xin Tướng Waltz -Tư Lệnh- giúp cho ông sang Hoa Kỳ tị nạn chính trị. Thiếu Tướng Cao viết thư đó tại văn phòng Tướng Waltz”.


Lại biện pháp quân sự.


Trở lại văn phòng của Trung Tướng Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng. Từ sau ngày Thiếu Tướng Cao bỏ Quân Đoàn I, các vị Tướng lãnh đạo quốc gia và quân đội, gần như làm việc bất kể ngày đêm tại phòng làm việc của Trung Tướng Viên, có hôm đến nửa đêm mới rời nơi đây. Trong một buổi tối, vẫn là Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, Trung Tướng Có, và Trung Tướng Viên, và đây là lần đầu tiên Trung Tướng Viên trình bày quan điểm của ông một cách mạnh mẽ, ông nhân danh Tổng Tham Mưu Trưởng, ông không chấp nhận một quân đội trong một quân đội như tình trạng hiện nay. Và ông đề nghị với các vị có mặt là phải dùng biện pháp quân sự để giải quyết dứt khoát tình hình.


Buổi họp đi đến quyết định là chấp thuận kế hoạch của Trung Tướng Viên, và ngày 15/5/1966 là ngày chuyển quân ra Đà Nẳng. Lần chuyển quân này được phía Hoa Kỳ trực tiếp cung cấp vận tải cơ hạng nặng C130 và vận tải hạm chở chiến xa từ Sài Gòn ra phi cảng và hải cảng Đà Nẳng. Vẫn Thủy Quân Lục Chiến và Nhẩy Dù như lần trước, cộng thêm lực lượng Thiết Giáp. Và rồi diễn tiến cuộc “hành quân” giải tỏa tình hình hỗn loạn tại Đà Nẳng được thực hiện rất thuận lợi, không một cuộc nổ súng nào xảy ra giữa lực lượng chánh phủ với lực lượng chống đối, ngoại trừ tại một ngôi chùa nhỏ có vài phát súng bắn ra nhưng không gây thiệt hại nào. Tại Huế cũng trong một tình hình tương tự như vậy. Đại Tá Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Phó Nhẩy Dù, được cử ra phía bắc Huế tiếp xúc với một Trung Đoàn của Sư Đoàn 1 Bộ Binh ủng hộ trung ương, tiến vào thành phố Huế với nhiệm vụ giải tỏa lực lượng chống đối. Nhiệm vụ hoàn thành trong yên tịnh.


Sự kiện gần như trái ngược với dự đoán của giới truyền thông cũng như của nhiều thành phần khác trong xã hội khi được biết trung ương lại đưa quân ra Đà Nẳng. Bởi vì trước đó một tháng, trung ương đã chuyển quân ra Đà Nẳng, và đã thất bại nên rút quân về. Rõ ràng là có một điều gì khó hiểu, vì lực lượng chống đối đang bừng bừng khí thế, bỗng dưng tịt mất hoàn toàn như ngọn đèn đang sáng thì tắt phụt khi có người ngắt dòng điện vậy. Phải chăng khi không khí mít tinh biểu tình lên đến cường độ nào đó thì có thêm ngọn đèn xanh, và đến lúc này thì đèn xanh tắt và đèn đỏ được “ai đó” bật lên hay không? Xin quí vị nhớ lại cuộc chuyển quân ngày 15/4/1966, Hoa Kỳ khước từ yểm trợ phương tiện vận tải hàng không với lý do không bàn cãi vào đâu được, thế nhưng cuộc chuyển quân lần này cũng cùng mục tiêu như lần trước, lại được yểm trợ đầy đủ theo nhu cầu. Liệu quyết định như vậy có liên quan đến “ai đó” nói trên hay không?


Xin lược lại vài sự kiện gần như có mối liên hệ với nhau để dẫn đến tình hình vừa nêu.


Thứ nhất, là sau ngày lực lượng chống đối nêu yêu sách đòi tiến đến sinh hoạt dân chủ mà bước đầu là bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để soạn thảo Hiến Pháp, thì Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia tuyên bố chấp nhận tổ chức bầu cử quốc hội vào tháng 9/1966. Tôi nghĩ, chắc là Hoa Kỳ có ảnh hưởng nếu không nghĩ là họ áp lực đến quyết định này.


Thứ hai, là Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, trước đó ông không có ý kiến gì về những quyết định của những vị lãnh đạo quốc gia, nhưng bất ngờ ông đưa đề nghị biện pháp quân sự và cuộc hành quân đã diễn ra thật tốt đẹp. Đúng ra khi nói đến hành quân phải nói đến chiến thắng, nhưng tôi thấy không ổn nếu dùng chiến thắng để chỉ cuộc hành quân này, vì “phe ta đánh phe mình” với lại “bất chiến tự nhiên thành”. Về đề nghị của Trung Tướng Viên, liệu ông có biết là đèn xanh cho phía chống đối đã tắt và đèn đỏ đã bật lên chăng? Cho dù các câu hỏi có đặt ra hay không thì những sự kiện cùng những quyết định nói trên đã diễn tiến rất nhịp nhàng, và những ai quan tâm đến đất nước, có thể đã tự hỏi như vậy, hay hơn thế nữa.


Và thứ ba, cũng có thể là vị nào đó, khi thấy Trung Tướng Thi bị cách chức liền nhập cuộc với những thành phần ủng hộ Trung Tướng Thi, và dần dần nắm quyền lãnh đạo cuộc chống đối trung ương, từng bước đòi hỏi tiến đến xây dựng cơ cấu dân chủ trong sinh hoạt quốc gia, khi được trung ương chấp nhận bầu cử Quốc Hội Lập Hiến thì xem như mục tiêu đấu tranh đạt được nên ra lệnh chấm dứt chăng? Nhưng trong trường hợp này, có phải là Trung Tướng Viên đã mạo hiểm trở lại quyết định của Thủ Tướng Kỳ đã không thành công cách đó một tháng không? Nếu đúng như vậy, quả là Trung Tướng Viên rất dũng cảm cho cuộc mạo hiểm của ông nhưng tình cờ lại đúng thời cơ.


Nhìn lại chuỗi biến cố.


Và tôi cũng tự hỏi: “Liệu từ cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963 của Trung Tướng Dương Văn Minh, cuộc Chỉnh Lý ngày 30/1/1964 của Trung Tướng Nguyễn Khánh với Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, rồi cuộc Biểu Dương Lực Lượng ngày 13/9/1964 của Trung Tướng Dương Văn Đức, đến Thiếu Tướng Lâm Văn Phát đảo chánh Trung Tướng Nguyễn Khánh ngày 19/2/1965, rồi quân đội nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc gia ngày 19/6/1965, và cuộc khủng hoảng này từ ngày 9/3/1966, có liên quan với nhau trong một chuỗi biến cố chính trị, hay chỉ là những sự kiện riêng lẽ?


Nếu riêng lẽ, thì tại sao trong cuộc “Đảo Chánh” Tổng Thống Ngô Đình Diệm có một người Mỹ (Trung Tá Conein) trong phòng Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, bản doanh của Hội Đồng Quân Nhân lãnh đạo đảo chánh từ lúc bắt đầu đến khi Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu bị giết chết? Tại sao trong cuộc “Chỉnh Lý” của Trung Tướng Nguyễn Khánh, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, và Đại Tá Cao Văn Viên, cũng có một người Mỹ tại bản doanh ngay trong tư dinh của Trung Tướng Nguyễn Khánh từ đầu đến cuối? Tại sao viên chức tình báo tại tòa đại sứ Hoa Kỳ ra lệnh cho Trung Tướng Dương Văn Đức (ngang qua Trung Tá Tạ thành Long), người đứng đầu cuộc “Biểu Dương Lực Lượng” phải rút quân về vị trí? Tại sao Trung Tướng Nguyễn Khánh yêu cầu ông Đại Sứ Taylor giúp đỡ khi bị Thiếu Tướng Lâm Văn Phát “Đảo Chánh” thì ông trả lời là không can thiệp vào nội bộ chính trị của Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời khuyên Trung Tướng Nguyễn Khánh nên ra ngoại quốc? Rồi tại sao Hoa Kỳ chuẩn y không văn bản cho Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ sau khi Tướng Tư Lệnh Không Lực Hoa Kỳ có lời ủng hộ? Và tại sao Hoa Kỳ không giúp không vận và hải vận chuyển quân và chiến cụ ra Đà Nẳng lần thứ nhất trong khi lực lượng chống đối trung ương với khí thế rất mạnh, đến cuộc chuyển quân và chiến cụ lần thứ nhì chỉ cách đó một tháng thì Hoa Kỳ yểm trợ hoàn toàn, cùng lúc với sự tê liệt (hoặc hiểu theo cách nào đó cũng tương đương như vậy) của lực lượng chống đối tại Đà Nẳng cũng như tại Huế?


Hoặc tất cả những sự kiện đó là một chuỗi biến cố chính trị liên quan với nhau? Vì Tổng Thống Ngô Đình Diệm không đồng ý để Hoa Kỳ thiết lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam theo chiến lược Domino của họ, nên ông bị các Tướng Lãnh của ông lật đổ với ngọn đèn xanh của ông Đại Sứ Hoa Kỳ, nhân chính sách không bình đẳng tôn giáo lên cao điểm. Rồi họ không muốn vương vấn chút ảnh hưởng nào của Pháp trong giới Tướng Lãnh Việt Nam nên nhóm Tướng thân Pháp (Trung Tướng Minh, Trung Tướng Đôn, ...) bị hạ bệ, đồng thời gầy dựng nhóm Tướng cầm quyền thân Mỹ (Trung Tướng Khánh, Trung Tướng Khiêm). Khi Trung Tướng Khánh “lên ngôi”, chỉ thỏa mãn nhu cầu chiến lược Domino mà không thực hiện chế độ dân cử, để rồi cuộc biểu dương lực lượng của Trung Tướng Đức là một cảnh cáo của Hoa Kỳ đối với Trung Tướng Khánh phảng phất tính độc tài.


Tiếp đến là Thiếu Tướng Phát với Sư Đoàn 25 Bộ Binh trong tay nhưng không đủ bản lãnh lật đổ, lại là cơ hội tốt giúp cho Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, đẩy luôn Trung Tướng Nguyễn Khánh lưu vong. Vài tháng sau đó, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, và Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, nhân danh quân đội nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc gia theo yêu cầu của chánh phủ dân sự Phan Huy Quát. Đây là lời yêu cầu trên văn bản, nhưng văn bản còn có mặt trái hay không thì tôi không rõ. Nhưng vẫn chưa thực hiện chế độ dân cử (theo tôi, là do yếu tố an ninh hơn là yếu tố độc tài quân phiệt) cho đến khi cuộc “Khủng Hoảng Miền Trung” đòi hỏi mới chấp nhận. Liệu sự chấp nhận bầu cử Quốc Hội Lập Hiến có phải là sự thúc giục của Hoa Kỳ từ phía sau, hay thật sự là do phía chống đối đòi hỏi? Nhưng rõ ràng là đến lúc này thì Hoa Kỳ hài lòng và kết thúc chuỗi biến cố chính trị mà họ điều hướng trong 3 năm qua.


Nếu đúng như vậy thì tại sao Hoa Kỳ phải kiên nhẫn trong một thời gian khá dài với một thái độ âm thầm nhưng rất hiệu quả để hướng đến một chế độ dân cử? Ta biết rằng, cơ chế thượng tầng kiến trúc của Hoa Kỳ gồm Lập Pháp, Hành Pháp, và Tư Pháp, được tổ chức và điều hành theo quan niệm “Kiểm Soát và Cân Bằng”, nhưng Quốc Hội có tiếng nói mạnh hơn về chính sách viện trợ ngoại quốc. Trong chính sách này, tiêu chuẩn có tính cách quyết định viện trợ hay không viện trợ là chế độ “dân chủ hay không dân chủ” tại quốc gia mà họ cứu xét viện trợ. Vì vậy mà Hành Pháp Hoa Kỳ khi thực hiện chiến lược quân sự tại Việt Nam Cộng Hòa, vẫn phải trong khuôn khổ chính sách viện trợ của Lập Pháp. Điều đó có nghĩa là, khi Hành Pháp sử dụng các Tướng Lãnh lật đổ chế độ dân cử Việt Nam Cộng Hòa, thì họ phải bằng mọi cách xây dựng lại chế độ dân cử để tránh áp lực của Lập Pháp, ảnh hưởng đến chiến lược quân sự tại Á Châu của họ. Và họ đã thành công, tuy cũng gần 3 năm sau kể từ ngày lật đổ Tổng Thống Ngô đình Diệm.




Trở lại tình hình Miền Trung.


Dưới quyền của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, các thành phần Cảnh Sát và An Ninh Quân Đội lần lượt bắt giữ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Trung Tướng Tôn Thất Đính, Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, và Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận. Riêng Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân đã theo lệnh về Sài Gòn họp và bị giữ từ hạ tuần tháng 4/1966. Ngoài ra, lực lượng an ninh còn bắt giữ nhiều người nữa, trong số đó có Đại Tá Đàm Quang Yêu, Tư Lệnh Quân Đoàn Trần Hưng Đạo của phía chống đối, và bác sĩ Mẫn, Thị trưởng Đà Nẳng.


Song song với công tác bắt giữ một số nhân vật, là công tác bổ nhiệm các nhân vật khác thay thế: (1) Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh, nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I. (2) Đại Tá Ngô Quang Trưởng, nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. (3) Đại Tá Phan Hòa Hiệp, nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh. (4) Trung Tá Lê Chí Cường, đang là Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu, nhận chức Thị Trưởng Đà Nẳng.


Tiếp đó là nhiều chức vụ trưởng cơ quan đơn vị tại Đà Nẳng và Huế đã tích cực tham gia lực lượng chống đối trung ương, đều bị thay thế.


Một quyết định đãi ngộ dành cho những sĩ quan được xem là có công được ban hành không văn bản, mà chỉ bằng điện thoại do văn phòng tôi phụ trách chuyển đến vị Tư Lệnh Nhẩy Dù, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến, và Chỉ Huy Trưởng binh chủng Thiết Giáp. Rằng, những sĩ quan do các vị Tư Lệnh và Chỉ Huy Trưởng chọn và đề nghị lên Tổng Tham mưu Trưởng, sẽ được du lịch Hong Kong một tuần lễ. “Sự vụ lệnh” do Bộ Quốc Phòng cấp với lý do “công vụ đặc biệt”. Với lý do như vậy, các sĩ quan sẽ được ngân sách quốc phòng đài thọ tiền vé phi cơ khứ hồi cùng với khoản tiền trên căn bản tiền công tác ngoại quốc mỗi ngày nhân lên cho 7 ngày. Ngoài ra, vị trưởng đoàn được cấp thêm một khoản nữa gọi là phụ cấp ngoại giao.


Có tất cả 4 danh sách và mỗi danh sách gồm 7 sĩ quan. Được quyền đưa vợ tháp tùng và trường hợp này thì Bộ Quốc Phòng chỉ đài thọ tiền vé phi cơ mà thôi. Danh sách khi được Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng duyệt y (thật ra Trung Tướng Viên không thêm bớt một sĩ quan nào) thì văn phòng chúng tôi làm mọi việc và mang tay lên Bộ Quốc Phòng trao cho chánh văn phòng. Tiếp đó là ông Tổng Trưởng ra lệnh cho Tổng Giám Đốc Tài Chánh và Thanh Tra Quân Phí làm thủ tục ngay. Nghĩa là thủ tục rất nhanh chóng. Hai vị Tư Lệnh Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đứng đầu danh sách của binh chủng.


Đầu tháng 7 năm 1966, Trung Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, gọi tôi vào văn phòng và ra lệnh:

“Chú mời các vị trong Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt về họp trong hai ngày 8 và 9 (7/1966) tại phòng họp số 2 (tức phòng họp Tân Sinh Nông Thôn). Chú liên lạc với An Ninh Quân Đội tổ chức thu băng để làm biên bản. Không một ai được vào phòng khi đang họp. Chú lo thức ăn trưa tại chỗ”.


“Thưa Trung Tướng, về an ninh phòng họp có cần tổ chức đặc biệt hay như thường lệ?
“Không cần đặc biệt lắm đâu, tùy chú xem tình hình mà thích ứng. Chú mời các vị Tướng bị giữ vào phòng bên cạnh, chú phải luôn luôn có mặt tại chỗ và lo ăn sáng ăn trưa cho các ổng. Chú lần lượt mời từng vị vào phòng họp của Hội Đồng mỗi khi tôi thông báo”.


Thành phần Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt, không phải là thành phần của Hội Đồng Quân Lực, vì chỉ gồm các Tướng Lãnh mà thôi.


Ngày họp. Bàn ghế trong phòng họp được xếp theo hình chữ U, đáy chữ U là bàn của chủ tọa đoàn, gồm: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Trung Tướng Cao Văn Viên, và Trung Tướng Linh quang Viên trong chức vụ Thư Ký của Hội Đồng, phụ trách đọc các bản cáo trạng. Còn trên đầu chữ U có bục gỗ dành cho vị Tướng “bị cáo”, tạm gọi là “vành móng ngựa”. Bên góc trái cuối phòng họp có cái phòng nhỏ được thiết trí máy thu băng và máy khuếch đại âm thanh. Chỉ có chuyên viên truyền tin và sĩ quan An Ninh được ra vào phòng này. Trước cửa có Quân Cảnh gác. Phía sau lưng phòng họp là một phòng khá rộng dành cho 5 vị Tướng “bị cáo” ngồi chờ đến lượt, đồng thời cũng là nơi mà văn phòng tôi lo ăn sáng ăn trưa cho quí vị ấy. Tôi được ra vào phòng họp lẫn phòng thu băng.


Buổi họp bắt đầu. Trung Tướng Thiệu, rồi Thiếu Tướng Kỳ, trình bày lý do với các vị Tướng Lãnh thành viên của Hội Đồng, cũng là cách cung cấp cho các thành viên nắm được nguyên nhân và sẳn sàng thực hiện nhiệm vụ đặc biệt trong hai ngày họp này. Khi phòng họp sẳn sàng, theo lệnh Trung Tướng Viên, tôi mời Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi vào trước và hướng dẫn đến bục gỗ. Ông bước vào “vành móng ngựa” với thái độ thản nhiên như một vị chủ tọa đã từng đứng lên bục gỗ này để ban huấn thị vậy. Trung Tướng Thiệu:


“Hôm nay, Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt họp để nghe Trung Tướng trình bày về những việc làm của Trung Tướng trong thời gian xáo trộn chính trị tại Miền Trung, vì có những điều mà Hội Đồng chưa biết chắc là Trung Tướng có phải đã hành động như thế hay không, để Hội Đồng có quyết định không nhầm lẫn. Mong rằng, Trung Tướng cho biết sự thật”.


Sau đó, Trung Tướng Linh Quang Viên, với tư cách Thư Ký của Hội Đồng đã đọc bản cáo trạng với từng lời tuyên bố cũng như những hành động của Trung Tướng Thi trong thời gian nói trên. Đọc xong, Trung Tướng Thiệu mời Trung Tướng Thi biện minh về những lời cáo trạng vừa nêu.


Trung Tướng Thi, vẫn bình thản tự nhiên, và nói một cách mạnh mẽ rằng:
“Bây giờ tôi có nói như thế nào đi nữa thì quí vị cũng không tin tôi, do đó mà tôi không có điều gì để trình bày với quí vị. Quí vị quyết định như thế nào thì tùy quí vị”.
Trung Tướng Thi dùng chữ rất hay. Ông nói “quí vị quyết định thế nào là tùy quí vị” chớ ông không nói “quí vị quyết định thế nào thì tôi thi hành thế ấy”.


Thiếu Tướng Vĩnh Lộc -Tư Lệnh Quân Đoàn II- nói gần như tha thiết với Trung Tướng Thi là nên trình bày sự thật để anh em trong Hội Đồng hiểu rõ được sự việc. Trung Tướng Thi vẫn giữ nguyên câu nói của ông vừa rồi, và ông xin ra khỏi phòng họp.


Có thể thừa nhận là Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi có dũng khí của người làm Tướng, điều mà không phải vị Tướng nào cũng có được như ông. Nhưng cũng có thể là ông thấy không có cách nào để biện minh nên thà tỏ ra cứng rắn vẫn hơn chăng? Theo tôi, Trung Tướng Thi quả là có dũng khí của vị Tướng.


Vị kế tiếp là Trung Tướng Tôn Thất Đính. Rất dễ dàng trông thấy Trung Tướng Đính có cố gắng bình tỉnh nhưng ông đã không nén được nỗi lo âu trên nét mặt khi bước vào “vành móng ngựa”. Trung Tướng Thiệu cũng nói những lời như đã nói với Trung Tướng Thi, và rồi Trung Tướng Viên đọc cáo trạng của ông. Trung Tướng Đính dần dần lấy lại sự bình tỉnh, rồi bắt đầu ồn ào với những lời biện minh, nhưng là biện minh một cách gượng gạo nên không đủ lý lẽ để xóa bỏ được câu cáo trạng nào cả.


Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao là vị thứ ba vào “vành móng ngựa”. Tiếp đến Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, và sau cùng là Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận. Trung Tướng Thiệu và Trung Tướng Viên (Linh Quang Viên), theo điệp khúc như đã đối với Trung Tướng Thi, Trung Tướng Đính, nghĩa là một vị giới thiệu mục đích buổi họp và vị kia thì kê khai những “tội” của từng vị bị cáo. Bản cáo trạng của Trung Tướng Thi, Trung Tướng Đính, và Chuẩn Tướng Nhuận rất dài, vì các vị này chống đối trung ương từ đầu, còn cáo trạng của Thiếu Tướng Cao với Thiếu Tướng Chuân thì ngắn thôi, vì không chống nhưng cũng không làm tròn nhiệm vụ trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I. Thiếu Tướng Cao với Thiếu Tướng Chuân khá bình tỉnh khi biện minh và biện minh ngắn gọn, trong khi Chuẩn Tướng Nhuận khóc sướt mướt với những lời trình bày toàn kêu oan, chỉ vì ông một lòng lo giải quyết tình hình xáo trộn tại Huế.


Lúc bấy giờ tôi được lệnh cho phát lại đoạn băng thu cuộc đàm thoại giữa Chuẩn Tướng Nhuận (tại Huế) với vị Thượng Tọa tại chùa Ấn Quang (Sài Gòn). Trong đoạn băng đó có lời của Chuẩn Tướng Nhuận rằng: “..... Thưa Thầy, con quyết tâm đấu tranh đến khi nào ba tên Thiệu, Kỳ, Có từ chức mới thôi .....”. Nghe xong, Chuẩn Tướng Nhuận òa khóc.


Thật lòng mà nói, tôi không hiểu tiếng khóc của ông có nghĩa là thú nhận lời của ông, hay đó lại là nước mắt kêu oan chỉ vì ông muốn lợi dụng những vị lãnh đạo Phật Giáo để giải quyết tình hình, chớ những lời đó không phải là thật lòng? Cho dù là như thế nào đi nữa, rõ ràng là phong cách của Chuẩn Tướng Nhuận không xứng đáng với cấp bậc mà Trung Tướng Nguyễn Khánh, với chức năng Quốc Trưởng trao gắn cho ông một năm trước đó.


Ngày hôm sau, Hội Đồng Kỷ Luật thảo luận gần như suốt ngày để đạt đến một kết luận thống nhất, kết luận đó trở thành “bản án” và bản án này làm cho “một loạt những vì sao rơi rụng”. Bản án trừng phạt mỗi vị “60 ngày trọng cấm” và giải ngũ bắt buộc. Riêng Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận bị giáng xuống cấp Đại Tá, và giải ngũ. Trong khi thảo luận, Trung Tướng Cao văn Viên và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, có nhắc lại lời viết của Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao trong một phúc trình trình lên Tổng Thống Ngô Đình Diệm sau vụ thất bại trận Ấp Bắc (Mỹ Tho) đầu năm 1963. Lời viết đó là “....... Khi tôi (tức Thiếu Tướng Cao) giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, tôi đã từng trăm trận trăm thắng ......” Và đối với Chuẩn Tướng Nhuận, Thiếu Tướng Kỳ cho là chỉ xứng đáng làm một Thượng Sĩ thôi.


Hình phạt “trọng cấm” là hình phạt cao nhất đối với sĩ quan mà quy chế qui định. Thông thường một sĩ quan khi bị phạt một lần hay nhiều lần cộng lại lên đến 60 ngày trọng cấm thì bị giải ngũ, vì xem như sĩ quan đó có thành tích xấu, không xứng đáng là sĩ quan nữa. Hình phạt nhẹ hơn là hình phạt “khinh cấm”.


Một tuần sau ngày họp nói trên, một biên bản được hoàn thành với 157 trang đánh máy quay ronéo một mặt, cở 21x27 phân, bìa màu xanh, được mang tay đến các vị thành viên của Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt. Xem xong, phải hoàn lại Cục An Ninh Quân Đội. Riêng tôi được “tặng” một bản ngoài số bản quay ronéo, nhưng cuối cùng tôi phải đốt một phần cùng với nhiều tập tài liệu mà tôi đã ghi chép từ tháng 8 năm 1963. Khi tôi vào tù, nhà tôi bị lục soát một tuần lễ nên ban đêm vợ tôi đã lén đốt một phần nữa. Và phần còn lại thì bị quân cộng sản lục soát khám xét, chúng xé từng mảnh hoặc vứt từng trang tung toé khắp nhà. Sau cuộc lục soát này, vợ tôi lượm lại từng trang từng mảnh cho vào bao, đến khi tôi ra tù mới góp nhặt dán lại, cũng bổ túc được một số chi tiết khi tôi lén lút viết lại và lần lượt nhờ người mang qua Mỹ. Phần viết lại này được 1600 trang giấy học trò.


“Cuộc khủng hoảng miền Trung” kết thúc bằng bản án nói trên, nhưng với nét nhìn chung cuộc thì các vị Tướng Lãnh lãnh đạo quốc gia đã phải chấp nhận tiến đến xây dựng cơ cấu dân chủ, mà bước đầu là bầu cử Quốc Hội Lập Hiến vào hạ tuần tháng 9/1966, Như vậy:


Theo quí vị quí bạn, “ai thắng và ai thua” trong cuộc khủng hoảng này?


Và cuộc khủng hoảng gần 3 tháng qua, phải chăng là một thử thách khả năng và bản lãnh của các vị Tướng Lãnh trong trách nhiệm lãnh đạo quốc gia thời chiến? Nếu là thử thách, theo quí vị quí bạn, thì các vị ấy như thế nào?


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

 CHƯƠNG VII 
 
HỒI KÝ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA: VÀI SỰ KIỆN QUAN TRỌNG TRONG NHỮNG NĂM 1967-1974









1 2 3 4 5 6 7 8 9 10




Tôi rời chức vụ chánh văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng vào những ngày cuối năm 1966 để nhận chức tại tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ), nên không có điều kiện theo dõi những sự kiện chính trị từ trong căn phòng nhỏ hẹp của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (Trung Tướng Viên thăng cấp Đại Tướng nhân lễ Quốc Khánh năm 1967), nơi mà các vị lãnh đạo với tất cả quyền lực trong tay thường hội họp và quyết định những vấn đề trọng đại của quốc gia trong năm 1965 và 1966. Giữa năm 1968, tôi thuyên chuyển trở lại Bộ Tổng Tham Mưu, phục vụ trong bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận với chức vụ Chánh Sở Kế Hoạch Chương Trình. Năm 1972, nhận chức Cục Trưởng Cục Mãi Dịch. Năm 1974, nhận chức Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Trong thời gian này cho đến giờ thứ 25 của cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc, tôi có cơ hội trực tiếp lẫn gián tiếp, theo dõi được tình hình quốc gia qua một số sự kiện quan trọng trong phần này và những phần tiếp sau.




Quỹ Tương Trợ & Tiết Kiệm Quân Nhân.


Xin nhắc lại, đầu tháng 6/1965, Thủ Tướng Phan Huy Quát gởi văn thư mật, yêu cầu Hội Đồng Quân Lực nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc gia, vì do bất đồng quan điểm với Quốc Trưởng khi thay đổi nhân sự trong nội các mà Quốc Trưởng từ chức, và Thủ Tướng phải từ chức theo. Văn thư nhấn mạnh, nếu Hội Đồng Quân Lực không nhận trách nhiệm này thì tình hình có thể sẽ trở nên rối loạn. Sau hai ngày họp, Hội Đồng Quân Lực quyết định chấp nhận lời yêu cầu của Thủ Tướng.


Để có khả năng đảm nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc gia, Hội Đồng Quân Lực đã tổ chức hai cơ cấu: Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia do Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Chủ Tịch, và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương do Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ giữ chức Chủ Tịch. Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia hành sử chức năng Quốc Trưởng, và Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức Thủ Tướng chánh phủ.


Ngày 19 tháng 6 năm 1965, tất cả thành viên của hai Ủy Ban này đã ra mắt quốc dân đồng bào và ngoại giao đoàn. Trong năm 1965 và 1966, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đã tổ chức hai lần "Đại Hội Toàn Quân", để quyết định đường lối hành động trong trách nhiệm quân đội lãnh đạo quốc gia. Thật ra những thành viên của hai lần Đại Hội này, tôi có tham dự cả hai đại hội, hằng ngàn quân nhân đại diện toàn quân về Sài Gòn tham dự để nghe quí vị thành viên của hai Ủy Ban trình bày về những chính sách của các ngành sinh hoạt quốc gia, và trong một chừng mực nào đó, có thể xem đây là một sách lược quốc gia.


Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ với tư cách Thủ Tướng, đã tuyên bố nội các của ông là "nội các chiến tranh" và là "chánh phủ của người nghèo". Sau đó ông có thực hiện một số chính sách giúp đỡ người dân cải thiện đôi chút cuộc sống, như:


Bán xe Lambretta 3 bánh trả góp dùng chở khách trong thành phố. Đây cũng là cách gia tăng phương tiện chuyên chở công cộng trong thành phố.


Cất nhiều khu nhà liên kế, bán trả góp cho quân nhân viên chức.


Bán xe gắn máy 2 bánh cho quân nhân trả góp.


Tổ chức hệ thống Quân Tiếp Vụ, bán hàng tiêu dùng thông thường với giá miễn thuế cho quân nhân và gia đình.


Và vân ... vân . . .


Năm 1967, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia quyết định tăng lương đồng đều cho tất cả quân nhân các cấp thuộc chủ lực quân, mỗi quân nhân 100 đồng. Lúc bấy giờ, quân số chủ lực quân khoảng 450.000 người (chưa kể quân số Địa Phương Quân và Nghĩa Quân). Chỉ 100 đồng thôi vì ngân sách không thể chi trả nhiều hơn nữa, mà 100 đồng thời điểm ấy cũng chẳng mua sắm được gì. Cũng không rõ là Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia có chấp thuận cho Bộ Quốc Phòng hay không, về việc sử dụng 100 đồng đó để thành lập một quỹ gọi là "Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân", và chỉ áp dụng cho quân nhân chủ lực quân mà thôi. Mục đích của quỹ như tên gọi là "vừa tiết kiệm vừa tương trợ quân nhân và gia đình". Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Tổng Trưởng Quốc Phòng, giữ chức Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị. Tôi không nhớ hết các vị thành viên trong Hội Đồng Quản Trị, chỉ nhớ là có vị Tổng Giám Đốc Tài Chánh Thanh Tra Quân Phí/Bộ Quốc Phòng, và Thiếu Tướng Đồng Văn Khuyên (cấp bậc lúc bấy giờ) Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ Tổng Tham Mưu.


Tôi không rõ vị nào đã đưa ra đề nghị này, nhưng có điều là Quỹ này có hợp lệ hay không thì nhiều dư luận trái ngược nhau, mặc dù Quỹ đã được Bộ Nội Vụ cấp giấy phép hoạt động. Vì Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia quyết định tăng lương là trách nhiệm của cấp lãnh đạo đối với quân nhân, nhưng Bộ Quốc Phòng đã thay mặt quân nhân quyết định thành lập Quỹ. Ngay trong Bộ Tổng Tham Mưu, các quân nhân cũng phàn nàn quyết định này không ít, vì Họ là thành viên đương nhiên nhưng không hề được hỏi ý kiến về việc nên hay không nên thành lập Quỹ.


Với lại trên nguyên tắc, Quỹ này không phải của quân đội mà lại do vị Tổng Trưởng Quốc Phòng nắm chức Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị. Các thành viên trong Hội Đồng đều được lãnh phụ cấp. Các vị khác thì tôi không rõ, nhưng riêng Thiếu Tướng Đồng Văn Khuyên lãnh xong là ông hoàn vào quỹ. Chính mắt tôi thì không thấy, nhưng Thiếu Tướng Khuyên nói điều này trong những buổi họp tham mưu của Tổng Cục Tiếp Vận. Xin tạm gác sự kiện này sang một bên, để theo dõi dư luận đồn đoán xoay quanh nguyên nhân dẫn đến quyết định tăng lương mà là số tiền được tăng gần như chẳng đáng là bao so với vật giá thị trường.


Lúc bấy giờ, dư luận từ các nhà hoạt động chính trị cho rằng, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia tăng lương chỉ nhằm mục đích lấy lòng quân nhân chuẩn bị cho liên danh quân đội ra ứng cử Tổng Thống-Phó Tổng Thống, chớ thật ra số tiền được tăng đó không có giá trị bao nhiêu về vật chất.


Và rồi quí vị Tướng Lãnh ra ứng cử thật. Không phải một liên danh mà đến hai liên danh: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu một liên danh, và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ một liên danh khác. Sự kiện này đã đưa quân đội, cho dù có thản nhiên đến mấy đi nữa, tự nó đã hình thành ba khuynh hướng: Một khuynh hướng ủng hộ Trung Tướng Thiệu, một khuynh hướng khác ủng hộ Thiếu Tướng Kỳ, và một khuynh hướng khác nữa thì không quan tâm mấy đến việc phải ủng hộ liên danh nào. Nếu tình trạng hai liên danh vẫn quyết tranh đua trong cuộc bầu cử này thì sự phân hóa trong quân đội là điều không tránh khỏi, và đó là điều tệ hại cho quân đội, cho quốc gia. Cũng may, các vị Tướng Lãnh đã vận động hai vị đứng đầu hai liên danh đến sát cạnh ngày hết hạn nộp đơn ứng cử, thì Thiếu Tướng Kỳ bằng lòng đứng chung liên danh với Trung Tướng Thiệu, sau cuộc họp khá gay gắt tại câu lạc bộ Bộ Tổng Tham Mưu. Cũng trong "sự thành công" đó, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu có hứa nếu đắc cử Tổng Thống, ông sẽ tham khảo các vị như trong thành phần Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia về đường lối chính sách quốc gia. Đồng thời ông cũng thỏa thuận với Thiếu Tướng Kỳ là sẽ mời giáo sư Nguyễn Văn Lộc -người đứng chung liên danh với Thiếu Tướng Kỳ lúc 2 liên danh riêng rẽ- thành lập chánh phủ.


Trở lại Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân. Khi quân số chủ lực quân gia tăng thì số vốn hằng tháng cũng theo đó mà gia tăng. Khi quân lực lên đến hơn 1 triệu quân thì chủ lực quân xấp xỉ con số 600.000 người, và như vậy có nghĩa là số vốn hằng tháng của quỹ ngoài các khoản lời khác, được tăng thêm đến 60.000.000,00 đồng. Có thể nói mà không sợ lầm lẫn, lúc bấy giờ chưa có cơ sở tài chánh nào tại Việt Nam mà số vốn gia tăng nhiều đến như vậy cả. Điều này ít nhất cũng là một trong hai nguyên nhân dẫn đến việc Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân "bị đánh sập" sau 51 tháng hoạt động. Nguyên nhân thứ hai, tôi sẽ thuật tiếp ở phần sau.


Trong thời gian thành lập Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân, tôi đang phục vụ tại tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ) nên không trực tiếp thấu hiểu, nhưng năm sau đó (1968) tôi thuyên chuyển về Tổng Cục Tiếp vận mới có cơ hội nghe Thiếu Tướng Đồng Văn Khuyên cho biết thêm về tổ chức và hoạt động của Quỹ này. Theo ông, số vốn ngày càng gia tăng nhanh chóng và Hội Đồng Quản Trị quyết định thành lập một số cơ sở dịch vụ và kinh doanh, song song với gia tăng số vốn đầu tư vào các công ty dệt sợi, đặc biệt là Vimytex (Việt Mỹ Dệt Sợi Công Ty). Đây là công ty dệt sợi lớn nhất lúc bấy giờ. Hằng năm, công ty này trúng thầu khoảng 50% đến 70% trong số 30 tỷ đồng (Việt Nam Cộng Hòa) cung cấp vải treillis thường và treillis ngụy trang dùng may quần áo trận cho quân nhân. Ngoài ra còn các nhu cầu vải sợi khác, như: vải may quân phục Không Quân, Hải Quân, vải may mùng, may võng, may mũ, vải che mưa, vải dùng lau chùi vũ khí, vải may quân phục đại lễ, quân phục mùa đông cho sinh viên Trường Võ Bị Quốc Gia, quân phục cho sinh viên Trường Bộ Binh Thủ Đức, vải may quân phục cho quân nhân công du hoặc du học ngoại quốc, ..v..v..


Theo thời gian, các cơ sở sau đây được thành lập: Kỹ thương ngân hàng. Công ty bốc dỡ hàng hóa tại cảng Sài Gòn. Công ty vận tải. Công ty sản xuất vật liệu xây dựng. Xây cất tòa nhà nhiều tầng tại số 8 đại lộ Nguyễn Huệ khu trung tâm thủ đô, dự trù sử dụng cho văn phòng ngân hàng, cho các công ty do Quỹ thành lập, và cho thuê. Tòa nhà này thường được gọi là "cao ốc số 8 Nguyễn Huệ".


Quan điểm táo bạo nhất là Hội Đồng Quản Trị sẽ tiến đến xây dựng nhà máy sản xuất đạn bắn thẳng mà khởi đầu là tân trang. Quan điểm này càng trở nên mạnh mẽ khi Trung Tướng (đã được thăng cấp) Đồng Văn Khuyên được cử giữ chức Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Không biết do đâu mà quan điểm này lọt ra ngoài, và phía Hoa Kỳ bắn tiếng xa gần là sẽ không hỗ trợ mục tiêu này nếu như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thực hiện.


Rất có thể đây là nguyên nhân thứ hai mà tôi vừa nói ở trên. Hoa Kỳ cho rằng, họ sẽ cung cấp đầy đủ đạn dược với phí tổn nhẹ hơn so với giá thành sản xuất tại Việt Nam. Đúng hay không thì chưa rõ, vì phải nắm được giá thành sản xuất tại Hoa Kỳ mới so sánh được, với lại trong nghiên cứu chiến lược lắm khi những vị lãnh đạo phải chấp nhận phí tổn cao về kinh tế để đạt được mục đích khác cao hơn như mục đích chính trị chẳng hạn. Giả thuyết rằng, một viên đạn sản xuất tại Việt Nam cùng phẩm chất mà giá thành cao hơn giá thành sản xuất tại Hoa Kỳ, chánh phủ vẫn chấp nhận được vì cái cốt lõi của mục đích là khả năng tự lực, còn giá thành không phải là yếu tố quyết định cho dù đó là yếu tố đáng quan tâm. Nhưng điều đó cho phép ta nhận định là Hoa Kỳ không muốn Việt Nam Cộng Hòa dần dần ra khỏi tầm kiểm soát của họ, mà đây là bước đầu Hội Đồng Quản Trị muốn thử nghiệm. Và theo tôi, đây là nguyên nhân thứ hai góp phần dẫn đến quyết định đánh sập Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân, mà lại là quyết định từ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu!


Số tiền thanh trả cho quân nhân và gia đình ra khỏi Quỹ, ngày được gia tăng nhiều hơn lúc đầu nhờ vào số lời thu được từ các nguồn đầu tư.


Đùng một cái, Tổng Thống chỉ thị Phó Tổng Thống Trần Văn Hương thành lập Ủy Ban Thanh Tra do Đại Tá Trương Bảy (về sau là Chuẩn Tướng ngành Cảnh Sát) trách nhiệm, và Cục Mãi Dịch là cơ quan được nhắm vào như là trọng tâm. Đại Tá Trương Bảy là sĩ quan ngành Tiếp Vận, và ông là vị Cục Trưởng thứ hai từ khi ngành Mãi Dịch trong quân đội thành lập năm 1964. Cơ quan này căn cứ vào thể lệ mãi ước hành chánh quốc gia, và căn cứ vào nhu cầu cùng những điều kiện kỹ thuật do các ngành liên hệ cung cấp, có trách nhiệm thiết lập hồ sơ đấu thầu và đệ trình Tổng Cục Trưởng Tiếp Vận (nếu khế ước có trị giá đến 80 triệu đồng lúc thành lập ngành, và năm 1973 tăng lên đến 200 triệu) và Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu quyết định (nếu khế ước trị giá 80.000.001 đồng trở lên, và năm 1973 thì từ 200.000.001 đồng trở lên).


Khi thành lập Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân, không ít sĩ quan ngay tại quân trấn Sài Gòn tỏ ý than phiền việc thành lập Quỹ cũng như Hội Đồng Quản Trị Quỹ này không nằm trong nguyên tắc hành chánh nào cả, vì tổ chức này không hoàn toàn quân sự cũng không hoàn toàn là dân sự. Nhưng khi Quỹ bị bắt buộc giải tán và chi trả tài sản cho quân nhân thì dư luận quay lại ủng hộ Quỹ, cho rằng Tổng Thống đã bị "tài phiệt Chợ Lớn" và Hoa Kỳ khống chế, đành tâm đánh sụp một cơ sở tài chánh mà "tài phiệt Chợ Lớn" rất sợ sẽ mất độc quyền về kinh tế tài chánh. Đúng hay không, tôi không có được những bằng chứng xác đáng về việc này nên không dám đánh giá, nhưng rõ ràng là sự sụp đổ của Quỹ Tương Trợ Và Tiết Kiệm Quân Nhân đã dẫn đến bữa tiệc rất trọng thể của nhiều nhà "tài phiệt Chợ Lớn".


Sở dĩ Cục Trưởng Cục Mãi Dịch bị Ủy Ban Thanh Tra nhắm vào vì Cục Trưởng là một thành viên trong Ủy Ban Thực Hiện cung cấp máy móc dụng cụ cho cao ốc số 8 đại lộ Nguyễn Huệ nói trên, đặc biệt là các thang máy chở đồ và chở người cho cao ốc này, trị giá chung là 60.000.000,00 đồng Việt Nam. Ủy Ban Thanh Tra kết luận, việc thực hiện hai loại thang máy nói trên là không đúng nguyên tắc, và hệ quả là vị Cục Trưởng bị phạt và bị cách chức.


Ủy Ban Thanh Tra cho rằng, đáng lẽ Ủy ban Thực Hiện phải mở cuộc đấu thầu công khai với các nhà thầu quốc tế lẫn trong nước, đằng này Ủy Ban Thực Hiện chỉ "gọi thầu trực tiếp" dù là với nhà thầu quốc tế, nghĩa là mời các nhà thầu mà Ủy Ban Thực Hiện xét thấy có khả năng thi hành khế ước để khảo giá trực tiếp rồi trình lên Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị. Sở dĩ trình lên Hội Đồng Quản Trị vì ngân khoản này không thuộc ngân sách quốc gia, mà là ngân khoản của Quỹ. Thật ra theo nguyên tắc mãi ước hành chánh do chánh phủ Pháp ban hành năm 1899 (chính xác là vậy đó), mà nền hành chánh Việt Nam Cộng Hòa vẫn áp dụng không mảy may thay đổi điều khoản căn bản nào cả. Cũng theo đó, "đấu thầu công khai" hay "gọi thầu trực tiếp", đều đúng nguyên tắc cả, có điều là mỗi nhu cầu tùy theo trường hợp và thực hiện theo cách nào cho là thích hợp nhất mà áp dụng, nhưng nhất thiết phải có lợi cho ngân sách. Xét cho đúng thì không có gì trái nguyên tắc cả, với lại lần thực hiện đó giảm chi được khoản tiền đáng kể mà lại được món hàng tốt nữa. Nhưng khi cấp thẩm quyền muốn cho nó sập thì kết luận phải cho nó sập, vì đó là lệnh của Tổng Thống mà!


Lúc ấy tôi đang phục vụ tại Bộ Chỉ Huy 4 Tiếp Vận (Cần Thơ), được cử thay thế vị Cục Trưởng nói trên. Bấy giờ là tháng 6 năm 1972. Tôi đương nhiên là thành viên trong Ủy Ban Thanh Lý tài sản của Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân. Ủy Ban Thanh Lý do Tổng Nha Tài Chánh và Thanh Tra Quân Phí/Bộ Quốc Phòng giữ chức Chủ Tịch, có nhiệm vụ thanh lý và hoàn trả những khoản còn lại trong thời gian thực hiện cao ốc số 8 đại lộ Nguyễn Huệ, mà trọng tâm là xác định mức độ công tác hoàn thành của nhà thầu Huỳnh Thi (?). Về họ thì tôi chắc chắn là đúng, nhưng về tên của nhà thầu thì tôi chưa dám xác định.


Trong thời gian tham gia Ủy Ban này, tôi được biết một số sự kiện, đồng thời Trung Tá Bùi Hy Trọng -Cục Phó Cục Mãi Dịch lúc thực hiện hàng cho cao ốc số 8 Nguyễn Huệ- cung cấp cho tôi những con số sau đây:


Đến khi bị cưỡng bách giải tán thì số vốn do đóng góp là 3.520.000.000,00 (3 tỷ 520 triệu) đồng Việt Nam.


Trước đó, số tiền chi trả cho quân nhân giải ngũ, về hưu, hi sinh, từ trần hay mất tích, là 460.000.000,00 (460 triệu) đồng.


Khi thanh lý tài sản, đã chi trả cho toàn thể quân nhân hội viên (gồm cả tiền lời) lên đến 3.500.000.000,00 (3 tỷ 500 triệu) đồng.


Đã chi ra 360.000.000,00 (360 triệu) đồng vào công trình xây dựng cao ốc Nguyễn Huệ.
Số tiền còn lại trong ngân hàng là 500.000.000,00 (500 triệu) cùng với tài sản tại các công ty của Quỹ ước tính cũng đến vài chục triệu nữa.


Cao ốc số 8 Nguyễn Huệ gồm 12 tầng, cộng với sân thượng dự trù sử dụng một nửa phía đại lộ Nguyễn Huệ để cho thuê khai thác nhà hàng có ca nhạc, và một tầng hầm làm chỗ đậu xe (parking) với lối ra vào dành cho xe chuyên chở hàng hóa sử dụng chuyển vận lên các tầng trên, và hai máy phát điện đủ cung cấp điện năng cho cao ốc khi bị cúp điện. Ngay tầng trệt dành cho Kỹ Thương Ngân Hàng và phòng khách chung cho cao ốc như tại các khách sạn lớn vậy. Bộ Tài Chánh có ý mua lại cao ốc số 8 Nguyễn Huệ với giá sơ khởi do Ủy Ban Thanh Lý ra giá là 1.000.000.000,00 (1 tỷ) đồng. Khi tôi được cử vào chức vụ Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, tôi không còn trong Ủy Ban Thanh Lý nữa nên không rõ diễn tiến như thế nào mà đến tháng 4 năm 1975, cao ốc vẫn chưa bán được.


Hãy để mục đích thành lập cũng như mục đích đánh sập Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân đúng hay sai qua một bên, chúng ta thử kết toán một cách tổng quát sau 51 tháng hoạt động: Số vốn 3 tỷ 520 triệu, đã lên đến 4 tỷ 460 triệu, cộng với cao ốc số 8 Nguyễn Huệ trị giá 1 tỷ, cộng với tài sản tại Kỹ Thương ngân hàng và các công ty. Nếu không bị đánh sập, rất có thể Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân, có khả năng góp phần đáng kể vào mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia, cũng có thể góp phần quan trọng vào mục tiêu của quân đội từng bước tiến đến tự lực trong nền kinh tế quốc gia, đang đặt trọng tâm vào khả năng và tiềm năng tìm kiếm khai thác dầu hỏa dưới thềm lục địa Việt Nam, mà Ủy Ban Quốc Gia Dầu Hỏa đặt nhiều tin tưởng vào đó, ước tính từ năm 2000.


Không phải là ảo tưởng khi Thiếu Tướng Đồng Văn Khuyên (cấp bậc lúc bấy giờ), Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, năm 1969, giao cho tôi lúc tôi phụ trách Sở Kế Hoạch & Chương Trình/Tổng Cục Tiếp Vận, âm thầm nghiên cứu phác thảo một hướng đi cho ngành Tiếp Vận từng bước tiến đến tự lực các loại dụng cụ chiến tranh, mà một trong những nền tảng là khả năng và tiềm năng dầu hỏa. Trong năm 1970, Thiếu Tướng Khuyên đã chấp thuận dự thảo của tôi và ngay sau đó đã ban hành trong toàn ngành Tiếp Vận tập tài liệu nhỏ có tên là Đường Lối Tiếp Vận 10 điểm với dự phóng từ năm 2000 có khả năng đạt đến nếu như những dự phóng phát triển của Ủy Ban Quốc Gia Dầu Hỏa không quá sai lệch. Sau đó, từng lãnh vực trách nhiệm được nghiên cứu phác thảo tổng quát. Và rồi tháng 4 năm 1975 chợt đến, tất cả trở thành giấy vụn.






*****


Chuẩn bị phát triển quốc gia.


Hiệp Định ngưng bắn trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa ký ngày 27 tháng 1 năm 1973, đến tháng 3 năm 1973 Hiệp Định có hiệu lực. Sau đó là trao đổi tù binh, gồm cả tù binh Hoa Kỳ và tù binh Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản giam giữ. Hiệp Định bị lãnh đạo cộng sản Việt Nam có tên là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vi phạm ngay khi Hiệp Định tưởng chừng chưa ráo mực. Nhưng không vì vậy mà chánh phủ đặt nhẹ nhu cầu phát triển đất nước. Với những sinh hoạt khá rộn rịp, chuẩn bị các dự án phát triển quốc gia thời hậu chiến, như:


Tháng 6 năm 1973, một phái đoàn chánh phủ gồm quí vị: Tổng Trưởng Giao Thông Bưu Điện, Tổng Trưởng Tài Chánh, Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Phát Triển Kỹ Nghệ cùng 3 vị Giám Đốc trực thuộc, Chủ Tịch Phòng Thương Mại Sài Gòn, và nhiều công kỹ nghệ gia thuộc Phòng Thương Mại Sài Gòn. Phía quân đội được Thủ Tướng chỉ định đích danh 4 sĩ quan của ngành Tiếp Vận liên quan đến các dự án của chánh phủ, tham dự: Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, Cục Trưởng Cục Công Binh. Đại Tá Nguyễn Hữu Bầu, Cục Trưởng Cục Quân Nhu. Đại Tá Trần Văn Lễ, Cục Trưởng Cục Quân Tiếp Vụ. Và tôi, Đại Tá Phạm Bá Hoa, Cục Trưởng Cục Mãi Dịch.


Một nửa phái đoàn sang Hawaii hội thảo với các nhà đầu tư Hoa Kỳ, rồi sang Singapore ráp vào một nửa kia từ Sài Gòn sang Singapore trước vài ngày, cùng nghiên cứu về phát triển chiều cao, phát triển kỹ nghệ chế biến, và xây dựng hải cảng dành cho loại tàu chở container.


Trước đó, một khóa hội thảo về đầu tư phát triển được tổ chức tại Trường Cao Đẳng Quốc Phòng kéo dài trong 3 tuần lễ, với sự tham dự đông đảo của công thương kỹ nghệ gia Việt Nam, và phái đoàn kỹ nghệ gia Hoa Kỳ. Tôi được Tổng Cục Tiếp Vận chỉ định tham dự hội thảo. Tóm tắt tổng quát các dự án đã trình bày, gồm:


Dự án mở rộng Sài Gòn về phía Thủ Thiêm được xem như thủ đô chính trị.


Biến vùng Rừng Sát ngập nước, lọt thỏm giữa Sài Gòn-Biên Hòa-Vũng Tàu, thành khu chế xuất lớn nhất Việt Nam mang dáng vấp khu kỹ nghệ Jurong Town của đảo quốc Singapore.


Một phi trường quốc tế tọa lạc gần sông Đồng Nai, cũng gần xa lộ Sài Gòn-Biên Hòa. Phi trường Tân Sơn Nhất trở thành phi trường quốc tế thứ hai.


Hầu hết những cơ sở cấp trung ương của quân đội chuyển lên hướng xa lộ Sài Gòn-Biên Hòa, nhường chỗ cho những dự án canh tân thủ đô.


Tất cả đều dự trù thực hiện trong khoảng 20 năm kể từ đầu thập niên 1980. Với những dự án này -trong một chừng mực nào đó- cho thấy chánh phủ vẫn tin tưởng vào Hiệp Định, dù rằng bị cộng sản vi phạm ngay sau khi Hiệp Định có hiệu lực.


Sở dĩ tôi được tham dự khoá hội thảo này vì tôi trách nhiệm liên lạc với Bộ Kế Hoạch lúc đầu, về sau là Ủy Ban Quốc Gia Dầu Hỏa, để nghiên cứu phác thảo một quan niệm tổng quát về khả năng ngành Tiếp Vận có thể từng bước tiến đến tự lực về dụng cụ chiến tranh, căn cứ vào khả năng và tiềm năng quốc gia mà dầu hỏa được xem là nền tảng cho công cuộc phát triển đất nước. Công tác đang diễn tiến, thì lần lượt Phước Long rồi Ban Mê Thuột thất thủ, rút bỏ Cao Nguyên, rồi những cuộc lui binh hỗn loạn từ tuyến đầu Quảng Trị cho đến Cam Ranh, ..v..v.. thế là kết thúc.


Ngay trong năm 1973, trong phạm vi Tổng Cục Tiếp Vận, gồm 8 ngành chuyên môn: Quân Nhu, Quân Cụ, Quân Y, Quân Vận, Quân Tiếp Vụ, Công Binh, Truyền Tin, và Mãi Dịch quân đội, thực hiện chương trình cải tổ để thích nghi với viện trợ quân sự Hoa Kỳ sẽ giảm nhiều. Trọng tâm của chương trình cải tổ là giản lược hệ thống tổ chức về tồn trữ và sửa chữa quân dụng theo quan niệm tập trung, để giảm bớt số lượng tồn trữ trải mỏng theo quan niệm diện địa, vì số lượng dụng cụ chiến tranh không nhiều như trong thời chiến. Đồng thời áp dụng khoa quản trị vào công tác quản trị toàn bộ dụng cụ chiến tranh bằng máy điện toán IBM 360/50, là loại máy có khả năng rất lớn so với quân đội của các quốc gia bạn trong khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ, để giải quyết nhu cầu tiếp liệu, tồn trữ, vận chuyển, sửa chữa và tân trang, vừa chính xác vừa nhanh chóng. Tách hẳn kế toán với tồn trữ, quan niệm này có nghĩa là bộ phận giữ kho không hề biết trong kho có những món hàng nào, số lượng bao nhiêu, hay vị trí món hàng ở đâu. Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận là cơ quan kế toán, và Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân là cơ quan điều khiễn.


Tổng Cục Tiếp Vận sử dụng danh từ “khách hàng” để chỉ các đơn vị Tiếp Vận tại 5 Vùng Tiếp Vận, được chỉ định liên lạc trực tiếp với Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận ngang qua máy điện toán để xin tiếp liệu hay sửa chữa, nói chung là mọi nhu cầu về quản trị Tiếp Vận. Cũng xin giải thích thêm về 5 Vùng Tiếp Vận: Vùng 1 Tiếp Vận thuộc Quân Đoàn I/Quân Khu I, Vùng 2 Tiếp Vận và Vùng 5 Tiếp Vận thuộc Quân Đoàn II/Quân Khu II, vì lãnh thổ Vùng này trải dài theo ven biển và từ ven biển lên tận Cao Nguyên, Vùng 3 Tiếp Vận thuộc Quân Đoàn III/Quân Khu III, và Vùng 4 Tiếp Vận thuộc Quân Đoàn IV/Quân Khu IV.


Kế hoạch cải tổ đã thực hiện xong phần căn bản về tổ chức, nhưng về máy điện toán của các khách hàng chưa thực hiện xong, thì chế độ dân chủ tự do chúng ta sụp đổ.






*****






Viện trợ quân sự.


Tháng 3 năm 1973, Hiệp Định Paris Ngưng Bắn Và Tái Lập Hòa Bình có hiệu lực, nhưng ngay sau đó quân cộng sản mở cuộc bao vây tấn công vào đồn Tống Lê Chân trong phạm vi Quân Đoàn III do Biệt Động Quân trú đóng. Lần lượt nhiều đơn vị khác cũng bị chúng tấn công. Đó là sự vi phạm Hiệp Định một cách trắng trợn mà Ban Quân Sự Liên Hợp 4 bên do Hiệp Định Paris qui định cũng không giải quyết được gì cả. Trong một tình hình ngưng bắn nhưng thật sự thì chiến tranh vẫn còn nguyên đó, súng vẫn nổ, người vẫn thương vong, nhưng mức độ viện trợ quân sự đã giảm nhiều. Từ 1.062.000.000 (1 tỷ lẻ 62 triệu) mỹ kim năm tài chánh 1972-1973 xuống còn 700 triệu cho năm tài chánh 1974-1975. Cũng trong năm tài chánh này, lần đầu tiên Cơ Quan Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ (gọi tắt theo tiếng Mỹ là D.A.O.) cho biết ngân khoản viện trợ trong một năm, và là lần đầu tiên cũng là lần duy nhất, cơ quan DAO yêu cầu Tổng Cục Tiếp Vận cho biết quan niệm sử dụng cùng với một kế hoạch chi tiết sử dụng số tiền viện trợ đó.


Trước khi đi sâu vào kế hoạch sử dụng 700 triệu mỹ kim viện trợ, tôi xin lướt qua đôi nét về thủ tục viện trợ quân sự để quí vị quí bạn có khái niệm về “đồng đô la viện trợ quân sự” của Hoa Kỳ như thế nào. Cũng xin trình bày rõ thêm, đây không phải là viết theo tài liệu của Hoa Kỳ hay của Việt Nam, mà là tôi căn cứ vào những buổi họp tham mưu của toàn ngành Tiếp Vận mà đúc kết vào đây.


Từ khi Hoa Kỳ viện trợ quân sự trực tiếp cho Việt Nam Cộng Hòa chúng ta (1966-1967) đến cuối tài khóa 1973-1974, họ không cho chúng ta biết trước là họ viện trợ cho chúng ta bao nhiêu trong một tài khóa, mà họ căn cứ theo nhu cầu của chúng ta đưa sang và họ xét thấy phù hợp với chính sách của họ là họ cấp, dĩ nhiên là phải thông qua các buổi họp tham mưu chuyên môn giữa Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam. Quân lực Việt Nam nhận viện trợ quân sự trực tiếp từ quân đội Hoa Kỳ chớ không bị ràng buộc bởi đạo luật năm 1961 về viện trợ quân sự ngoại quốc (theo chế độ MDAP), nghĩa là không theo hệ thống Bộ Tổng Tham Mưu lên Bộ Quốc Phòng, rồi sang Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa. Từ Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa chuyển sang Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, lần lượt đến Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, sau đó mới đến Quân chủng liên hệ của Hoa Kỳ. Tôi nói nhận viện trợ trực tiếp (theo chế độ MASF, dịch sang Việt ngữ là Quỹ Viện Trợ Dịch Vụ Quân Sự), có nghĩa là mỗi quân chủng Hải Lục Không Quân của Việt Nam Cộng Hòa, liên hệ trực tiếp với các quân chủng Hải Lục Không Quân của Hoa Kỳ, ngang qua các cố vấn tại các quân chủng để đưa yêu cầu viện trợ. Trong trường hợp này, Bộ Tổng Tham Mưu theo dõi chặt chẻ mọi diễn tiến, nhưng Bộ Quốc Phòng thì không nắm vững như vậy.


Bây giờ là công tác tham mưu soạn thảo kế hoạch sử dụng 700 triệu mỹ kim viện trợ quân sự tài khóa 1974-1975. Căn cứ trên quan niệm của Phòng 3/Tổng Tham Mưu, quan niệm của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, là muốn duy trì một khả năng phòng thủ trong phạm vi viện trợ giới hạn, cần:


Phải có vũ khí, gồm cả phi cơ với chiến hạm, bom đạn và chất nổ.

Phải di động nhanh, tức là nói đến phương tiện vận chuyển đường bộ, đường thủy, và hàng không, cùng với các loại nhiên liệu thích hợp.


Phải duy trì tốt hệ thống chỉ huy liên lạc, tức là máy móc truyền tin vô tuyến lẫn hữu tuyến, diện địa lẫn chiến thuật.
Và phải điều trị đúng mức cho thương bệnh binh, vì sau mỗi trận chiến thể nào cũng có tổn thất nhân mạng, cho nên chi tiêu cho các quân y viện cũng là nhu cầu thiết yếu.
Quan niệm cũng dứt khoát, không mua thêm bất cứ loại quân dụng chiến tranh nào, mà đặt trọng tâm vào kế hoạch săn nhặt cơ phận từ các quân dụng phế thải cùng chủng loại để tân trang sử dụng.

Từ quan niệm căn bản đó, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận điều hợp với các Cục, soạn thảo kế hoạch như thế này:


Với nhu cầu thứ nhất là vũ khí thì không cần mua thêm bất cứ loại nào, cần sử dụng tân trang trong số 2 triệu khẩu súng các loại hiện có. Về bom đạn và chất nổ, bản thống kê trong 3 năm trước đó do Sở Đạn Dược của Cục Quân Cụ thiết lập, đã cung cấp một loạt thống kê về mức tiêu thụ trung bình của từng loại vũ khí, từng loại đạn nổ, đạn chiếu sáng, đạn khói, ..v..v.., từng loại bom, và từng loại chất nổ. Nhóm công tác tham mưu của Tổng Cục Tiếp Vận sử dụng những thống kê đó làm căn bản ước tính nhu cầu năm 1974-1975 theo tình hình chiến sự do Phòng Nhì và Phòng Ba/Tổng Tham Mưu ước tính. Xin nhớ rằng trong năm 1971 đến 1973, chiến sự dữ dội nhất là năm 1972, và mức tiêu thụ các loại quân dụng chiến tranh rất cao, với ngân khoản viện trợ quân sự năm đó lên đến 1.062.000.000 mỹ kim, và con số này là cao nhất trong suốt 20 năm Hoa Kỳ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa. Khi chiết tính nhu cầu đạn dược, các sĩ quan tham mưu ngành Tiếp Vận đã phải tính riêng cho loại đạn bắn thẳng như súng trường, súng M16, súng trung liên, đại liên, đến các loại đạn bắn vòng cầu của súng cối, súng đại bác 105 ly, 155 ly, 175 ly, hỏa tiển chống chiến xa, ..v..v... Và rồi mỗi loại phải tính đến đạn chiếu sáng, đạn xuyên phá, đạn khói.


Tóm lại là phải tính đến từng chi tiết để mua đúng loại bom đạn thật sự cần thiết, đúng chủng loại vũ khí, đúng số lượng ước tính, và thích hợp với số tiền viện trợ. Đó cũng là phương châm của ngành Tiếp Vận: “Đúng lúc, đúng mức, và đúng chổ”. Không có gì cao siêu trong cách tính này cả, vì nó tương tự những bà nội trợ trước khi đi chợ phải ước tính xem nấu những thức ăn gì, để từ đó mới tính ra là mua những cá những tôm những hành những tỏi, mỗi thứ bao nhiêu để nấu đúng món và đủ cho số khẩu phần trong gia đình thích ứng với hoàn cảnh mới về “kinh tế” của gia đình. Tiếp Vận để duy trì cho một triệu quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, từ dạ dày đến thương tích hay bệnh hoạn, hy sinh hay từ trần, từ khẩu súng viên đạn, đến vận chuyển hay liên lạc, ..v..v.., trong một góc độ nào đó, tương tự như bà nội trợ bảo vệ hạnh phúc gia đình, dĩ nhiên là mức độ phức tạp khác nhau.


Áp dụng cách tính như vậy cho nhu cầu duy trì khả năng di động với phương tiện của Lục Quân, là xe vận tải từ 2.5 tấn trở lên, phương tiện của Hải Quân là Giang Vận Đỉnh và Hải Vận Hạm, phương tiện của Không Quân là phi cơ vận tải C47, C130, ..v..v... Chỉ riêng nhu cầu các loại nhiên liệu cho Hải Lục Không Quân đã ngốn hết 80 triệu mỹ kim rồi, nhưng mức chi tiêu này chỉ mới bằng 2/3 chi phí nhiên liệu của tài khoá 1973-1974 thôi.


Đối với nhu cầu cơ phận sửa chữa các loại máy truyền tin trong hệ thống liên lạc diện địa cũng như hệ thống liên lạc chiến thuật, cũng theo cách tính trên. Nghĩa là loại nào cần thiết cho hai nhu cầu trên mới đưa vào kế hoạch sử dụng ngân khoản đó.


Cơ quan D.A.O. cũng thông báo chánh thức cho Tổng Cục Tiếp Vận biết rằng, chế độ viện trợ quân sự theo “Quỹ Viện Trợ Dịch Vụ Quân Sự” (MASF) sẽ chấm dứt vào cuối tài khóa 1974-1975, sau đó chuyển sang chế độ “Chương Trình Viện Trợ Quân Sự” (MDAP). Họ thông báo để Tổng Cục Tiếp Vận chuẩn bị cho kịp thời gian, vì hệ thống viện trợ này phải theo hệ thống vòng vo cần nhiều thời gian cho hành trình giấy tờ thủ tục, kèm theo một danh sách dài thật dài, ghi rõ từng loại quân dụng với từng số lượng đang sử dụng, tiếp đó là những danh sách cơ phận cần thực hiện cho từng loại quân dụng. Họ chấp nhận món quân dụng nào trong danh mục của Tiếp Vận quản trị, họ mới viện trợ “một đổi một” cũng như cơ phận thay thế nó. “Một đổi một” tức là “mất một cái hoặc phế thải một cái Hoa Kỳ viện trợ lại một cái”, không làm gia tăng thêm khối lượng dụng cụ chiến tranh.


Cũng nên nói thêm về sự kiện vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có xin thêm ngân khoản 300.000.000,00 mỹ kim nhưng Quốc Hội Hoa Kỳ không chấp thuận, và có dư luận cho rằng vì không có 300.000.000,00 đó mà chúng ta thua trận! Tôi không rõ việc đó có đúng hay không, nhưng có điều tôi biết là đến tháng 4 năm 1975 thì tài khoá 1974-1975 vẫn còn giá trị. Điều đó có nghĩa là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn nhận viện trợ theo chế độ “Quỹ Viện Trợ Dịch Vụ Quân Sự”, tức là ngân sách Quốc Phòng Hoa Kỳ vẫn viện trợ trực tiếp cho chúng ta nếu họ muốn. Khi Hành Pháp chuyển sang Lập Pháp, nếu chưa có đạo luật hay nguyên tắc nào khác thay đổi sự điều hành “Quỹ Viện Trợ Dịch Vụ Quân Sự” trong hoàn cảnh bất thường đối với Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, tôi nghĩ, đó là cách “giã từ” của Hành Pháp Hoa Kỳ, chớ không phải Hành Pháp không có thẩm quyền viện trợ. Nhắc lại để có thêm chút chuyện xưa thôi, chớ “khi muốn” thì cách nào cũng được, còn “khi không muốn” thì cách nào cũng xong. Chuyện đời thường đã thế, chuyện chính trị thường khi cũng thế, chỉ đôi khi chẳng thế! Ngôn ngữ chính trị là thế!


Chẳng hạn như chương trình “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” vậy thôi. Khi mắt xích tại Việt Nam chưa thực hiện được thì chiến lược Domino của Hoa Kỳ trong mục tiêu “be bờ” ngăn chận sự bành trướng của cộng sản quốc tế xuống khu vực Đông Nam Á Châu, từ Đại Hàn Dân Quốc, xuống Nhật Bản, vòng qua Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Phi Luật Tân, ngang qua Việt Nam Cộng Hòa, và dừng lại Thái Lan, xem như chưa hoàn chỉnh. Thế rồi cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, không biết có phải vì Tổng Thống từ chối ý định của Hoa Kỳ thiết lập những căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa hay không, đến cuộc chỉnh lý ngày 30 tháng 1 năm 1964, dẫn đến Thông Điệp của Trung Tướng Nguyễn Khánh với chức năng Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa, yêu cầu các quốc gia đồng minh giúp đỡ Việt Nam Cộng Hòa chống quân cộng sản, mà thật ra Thông Điệp đó chẳng khác chiếc chìa khóa dành riêng cho Hoa Kỳ mở cửa Việt Nam thôi.


Từ đó, quân bộ chiến Hoa Kỳ lần lượt thiết lập các căn cứ Chu Lai, Cam Ranh, Plei Ku, An Khê, Đồng Tâm (Mỹ Tho), ..v..v.. cùng chúng ta chiến đấu chống quân cộng sản từ miền Bắc len lỏi xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Đến khi chính trị nội bộ Hoa Kỳ có những biến chuyển không thuận lợi cho chánh phủ liên bang, vì quân đội đã can dự sâu vào cuộc chiến tranh chống cộng sản trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, lúc bấy giờ Hoa Kỳ cho rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đủ mạnh để đương đầu với quân cộng sản của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa miền Bắc, thế là Hoa Kỳ thực hiện chương trình rút quân có tên gọi là “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”. Đích thực của Việt Nam Hóa Chiến Tranh là gì? Đơn giản mà nói, chẳng qua là Hoa Kỳ triệt thoái quân đội về nước mà Hoa Kỳ đã thu được trong thỏa hiệp ngưng bắn Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 là cái màn che chắn danh dự cho Hoa Kỳ rút quân về nước. Còn thật sự cái Hiệp Định đó có phải là danh dự cho cuộc triệt thoái quân đội Hoa Kỳ về nước hay không, lại là chuyện khác!


Khi rút quân, Hoa Kỳ để lại cho quân đội chúng ta một khối lượng dụng cụ chiến tranh gồm đại bác 175 ly nòng dài, đại bác phòng không, xe tăng M48, các loại giang tốc đỉnh sử dụng tuần duyên tuần giang, phi cơ vận tải C130, ..v..v.., là những loại thuộc vào hàng cũ kỹ kể cả số lượng nằm hư hỏng -đáng kể là phi cơ các loại- trong các cơ xưỡng chờ sửa chữa, mà nếu chuyển vận trở về Hoa Kỳ không chừng phải tốn một ngân khoản tương đương với trị giá khối dụng cụ này nữa đó.


Báo chí của những đồng minh chúng ta, đã thật tàn nhẫn khi nói Việt Nam Hóa Chiến Tranh chẳng qua là “thay đổi màu da trên xác chết!” Chừng như bạn chúng ta cho là Người Lính Việt Nam Cộng Hòa chúng ta chưa bao giờ chết trận, cho mãi đến khi quân đội Hoa Kỳ về nước chúng ta mới bắt đầu chết trận vậy!


Bài học cho chúng ta, tôi nghĩ: “Đồng minh là đồng minh, nhưng quyền lợi quốc gia vẫn là trên hết. Vì vậy mà những vị lãnh đạo các cấp từ lập pháp, hành pháp đến quân đội, hành sử chức năng của mình phải xuất phát từ tư tưởng quyền lợi quốc gia Việt Nam hài hòa với văn hoá Việt Nam.” Đó là bài học thật sự cay đắng cho mọi người Việt Nam trong thế hệ đương thời, và là bài học quí báu cho thế hệ mai sau trên chính trường!


No comments: