Sunday, October 18, 2015

LÂM HOÀNG MẠNH * BUỒN VUI ĐỜI TỴ NAN II




 BUỒN VUI ĐỜI TỴ NẠN VI

“Người ta lớn bởi vì ngươi quỳ xuống”
(Tố Hữu, “Hãy đứng dậy”, 1938)
Cuối tuần rất nhiều tình nguyện viên đến trại thăm hỏi, kèm cặp Anh ngữ, những ngày đầu chúng tôi vui như hội, mỗi gia đình có 2 tình nguyện viên. Gia đình tôi có bà Margret và bà Hellen đến dạy Anh ngữ. Bà Margret là dân địa phương, trên dưới 60, có lẽ lần đầu tiên tiếp xúc người Việt, bà viết chữ cái từ A đến Z bằng bút chì vào cuốn vở mang theo, bảo vợ chồng tôi tập tô. Nhìn hàng chữ, gà bới gọi bằng cụ, tôi mỉm cười và viết nắn nót một câu “I’ve been learning English about few months”, chữ tôi quá đẹp, cứng cát như một thày giáo thực thụ. Đôi mắt bà mở to kinh ngạc, tưởng chữ Việt Nam ngoằn ngoèo như con giun (Ả-rập, Ấn Độ) hay ngang bằng, sổ dọc như chữ Tàu, chữ Nhật, chữ Hàn, ai ngờ học trò chữ hơn đẹp hơn thày. Bà hỏi tôi về chữ Việt, tôi kể sơ qua nguồn gốc, từ đó bà giúp gia đình tôi hội thoại. Khốn nỗi, giọng bà đặc sệt xứ Scotland, khó nghe, khó phát âm, không hấp dẫn. Hơn nữa, cả tuần đi học, ngày nghỉ muốn đưa tụi trẻ đi chơi, trốn vài lần, bà thôi không đến.
Trong số tình nguyện viên có anh chàng Tim, khoảng 20, người London, sinh viên trường Đại học Edinburgh, vui vẻ cởi mở, thanh niên quý mến anh lắm, trưa chúng tôi mời dùng bữa, anh vui vẻ nhận lời. Một lần, anh ngồi bàn có món đậu phụ nhự, món này tôi cũng chịu, không nuốt nổi. Đậu phụ nhự, một món ăn truyền thống của người Hoa nghèo, hình vuông, to hơn đầu ngón tay cái, mặn kinh khủng, cay cay và thum thủm. Khi ăn, chỉ nhấm miếng hơn đầu con ruồi, và một miếng cơm thật to, mới đỡ mặn. Có nghĩa, một miếng đậu phụ nhự xong một bữa cơm. Thấy mọi người nhấm nháp có vẻ ngon lắm. Anh ra hiệu muốn thử, cậu Đ. gật, giơ ngón cái làm hiệu Number One. Tim cho cả miếng vào mồm nhai, nhè ra sợ mất lịch sự, đành nuốt, nước mắt nước mũi trào ra. Ây thế Đ. tai quái, hỏi, Good isn’t it? Tim gật, hai hàng lệ lã chã trên má. Tôi nói nhỏ, ác thế, lấy cốc nước lọc đưa cho Tim.
Nhiều món ăn truyền thống của người Hoa như đậu phụ nhự, tàu-xì và cá mặn tẩm thuốc, tôi không bao giờ đụng đũa. Món cá mặn tẩm thuốc rất đắt, người Hoa thích lắm. Bữa cơm thường xắt một khúc bằng 2 ngón tay, hấp cơm; không có, coi như bữa mất ngon. Các siêu thị Tầu đều bán, nhìn ngoài như cá khô bình thường, chỉ khác đầu cá có quấn lá hay ni-lông chứa thuốc Bắc. Gắp miếng cá, cắn một tí, mùi thum thủm khó chịu tiết ra, mặn chát, thịt mủn như thể cá ươn thối lâu ngày mới đem phơi. Cả họ nhà tôi giơ tay hàng món “quốc hồn quốc túy” Trung Hoa này.
Nhiều món “quốc hồn quốc túy” Việt Nam, thịt chó mắm tôm, các loại tiết canh (lợn, chó, vịt, ba ba…), thịt rắn, gỏi cá, kể cả nem chua… tôi cũng xin kiếu, đầu hàng vô điều kiện.
Gần Tết Nguyên đán 1967, một đoàn y tế Việt Nam từ chiến trường Lào về nước, trước khi về, mổ lợn liên hoan. Con thứ nhất, thịt vàng như nghệ. Chôn. Con thứ hai, thịt bình thường (kiểm tra bằng mắt), OK. Các món xào xáo, nuớng… đều chín, riêng món tiết canh không thể luộc hay xào. Về nước, ba tháng sau, cả 7 người đều mắc bệnh. Ba người đau đầu, mờ mắt, chết. Mổ xác: giun xoắn và ấu trùng đầy hai bán cầu não. Số còn lại, dưới da sần từng cục, khều, giun xoắn bật ra. Giai đoạn ấy Việt Nam chưa có thuốc đặc trị, chờ chết. Bộ trưởng y tế Phạm Ngọc Thạch có văn bản chính thức cảnh cáo toàn quốc đoàn cán bộ y tế công tác Lào, ăn sống nuốt tươi (tiết canh), gương xấu cho dân. Chết còn bị cảnh cáo, chỉ vì ăn. Đau xót quá chừng!
Tôi đã ăn thịt chó bao giờ chưa? Có, bất đắc dĩ.
Lần thứ nhất, năm 1966, hơn một tháng nhà bếp chỉ có canh đu đủ xanh nấu muối + bột ngọt, tép khô, tất cả chúng tôi đều thèm thịt. Nhà bếp thương anh em, mua chó. Cơ quan vài người không ăn, trong đó có tôi và bác sĩ M.. Chúng tôi thì thầm, lâu rồi thiếu đạm, ăn thử, khoái khẩu ăn nhiều, còn không nếm qua loa. Trước bữa ăn, y tá N. quảng cáo món mộc tồn, “thịt gà dính kẽ răng, sau 1 ngày xỉa tăm đã hôi mù; thịt chó 7 ngày xỉa ra, vẫn thơm phức!”
Lần thứ hai, năm 2004, sau 25 năm về Việt Nam thăm thân nhân (bên ngoại), bạn bè cũ. Một cậu y sĩ (nhân viên cũ) đến tận khách sạn mời bằng được dự bữa cơm mừng tái ngộ. Nể quá, nhận lời. Sau chầu bia, Th. trịnh trọng tuyên bố, ở nước ngoài một phần tư thế kỷ, chắc anh chị thèm món đặc sản quốc hồn quốc túy, đêm nay chúng em xin đãi anh chị. Chưa hiểu món gì, Th. đưa chúng tôi sang phòng ăn. Một mâm “Mộc tồn” đủ 7 món, tiết canh, nhựa mận, chả nướng, lòng, thịt luộc, xiên nướng, ninh, bát bún tươi đầy ắp, đĩa giềng tươi thái mỏng và hai bát mắm tôm chanh ớt, hai chai rượu nút lá chuối khô. Phải nói đây là bữa nhậu hết ý, đầy thiện tình của bạn bè. Thấy tôi chững lại, mặt bắt đầu xám dần, vợ Th. biết ý, hỏi, nhà tôi bảo, anh ấy ít ăn. Th. ra lệnh, thôi dẹp, chúng em làm món khác. Tôi gạt phắt: “Anh chị ít ăn, nhưng hôm nay sẽ nhiệt tình, khỏi phụ tấm lòng cô chú.” Tôi cố gắng nhấm nháp, uống rượu nhiều, đẹp lòng bạn hiền.
Hàng chục các cô gái mới lớn, 15, 16 quanh vùng đến trại làm quen, thanh niên trong trại được dịp vừa học hội thoại vừa tán tỉnh. Đùa cợt nhảm nhí, ấy thế cuối năm, mấy đôi lấy nhau bất đắc dĩ, ăn cơm trước kẻng. Các cô cậu không nghề nghiệp, lĩnh trợ cấp dài dài, báo hại nhà nước hàng chục năm.
Sau hơn ba tháng, trại bắt đầu tìm nhà để các gia đình ra định cư. Tin này tung ra, các gia đình bắt đầu nịnh vợ chồng anh H. ra mặt. Vợ anh H., chị L., càng được dịp, kín kín hở hở chuyện quyền lực của chồng, ảnh hưởng tốt xấu nơi định cư và trại chia đồ (của bố thí).
Làm phiên dịch ở trại tôi kể ra cũng nhàn, ngày hai buổi lên lớp, cuộc sống phẳng lặng, chẳng ai thắc mắc, gây gổ… ít gặp trưởng phó trại. Thỉnh thoảng có công văn, chỉ thị cấp trên, trưởng phó trại nói chuyện mới cần thông dịch. Phân công nấu ăn, dọn vệ sinh công cộng, danh nghĩa trưởng đoàn, tôi đã lên lịch từ những ngày đầu tiên nhập trại, mọi người chấp hành nghiêm chỉnh. Ấy thế mà chẳng biết thế nào, hơn tháng sau chị L. vợ anh H. được nhận làm phiên dịch với lý do, biết tiếng Quảng, tiếng Việt.
Thấy thái độ khúm núm, gọi dạ bảo vâng của nhiều người, tôi ngán ngẩm quá. Tuy thông cảm phần nào, nhưng không chấp nhận chuyện nịnh nọt đến thô bỉ, trưởng phó trại đều nhận thấy. Có cô, mỗi lần đi giặt, hỏi, chị L. có đồ giặt không, em giặt cho một thể. Tuy không phải giặt tay, có máy giặt, L. đâu có đui què mẻ sứt mà phải giúp. Bữa ăn, nhiều gia đình đến phiên, nấu riêng món vợ chồng H. khoái khẩu. Vợ chồng H. có cháu trai 6 tháng, kháu khỉnh, các cô các bác thay nhau ẵm, quấy bột, cho ăn hàng ngày. “Người ta lớn chỉ vì ngươi quỳ xuống”[1], một hiền triết nói không sai. Một lần, trong lúc vui vẻ, tôi nói xa xôi, khuyên đừng tự hạ thấp mình, cùng tỵ nạn, có phải đầy tớ đâu mà cơm bưng nước rót, quét nhà ẵm em. Đến tai vợ chồng H. Họ không hài lòng ra mặt. Tôi khinh, không chấp, y không phải đối thủ của tôi. Võ mồm, tôi từng là bí thư đoàn thanh niên cộng sản nhiều năm. Võ biền, là trưởng tộc, các cụ truyền vài miếng độc phòng thân. Từ nhỏ đến nay, chưa hề đánh lộn, nhưng chưa biết sợ ai. Tôi từng bị bí thư, phó bí đảng ủy cơ quan trù úm đâu có ngán, huống chi anh chàng thông dịch tạm tuyển, không quyền hành, vài tháng nữa mỗi người một phương. Vui, hữu hảo; không vui, vĩnh biệt.
Ngày đầu tiên lên tỉnh H. nhận công tác, nộp hồ sơ xong, tôi đưa giấy giới thiệu sinh hoạt lớp đối tượng Đảng[2], ông B. trưởng phòng tổ chức, bảo, bác T. bệnh viện phó, (nhấn mạnh), nhưng chỉ là đảng viên thường, mình tuy chỉ là trưởng phòng tổ chức hành chính, nhưng là phó bí thư đảng uỷ. Bác sĩ H. là bí thư, kiêm bệnh viện trưởng. Đồng chí là cán bộ đoàn thanh niên, cánh tay đắc lực của Đảng, đang lớp đối tượng, nay mai sẽ đứng trong hàng ngũ quang vinh. Ngừng một lát, lão rút trong ngăn kéo cuốn sổ tay cỡ 9 x 12, bảo, “bệnh viện ta tình hình rất phức tạp, nhất là tầng lớp y bác sĩ”. Lão đưa cuốn sổ tay cho tôi, nói tiếp, “nếu thấy y bác sĩ nào nói xấu, ghi lại rồi báo cáo đảng uỷ. Đồng chí làm được chứ?”
Tôi không tin vào tai mình câu nói khốn nạn đó. Là một đoàn viên thanh niên (Đoàn thanh niên cộng sản H.C.M sau 1969) từ lâu tôi coi cán bộ đảng viên là những con người hoàn thiện, đáng ngưỡng mộ, không ngờ thần tượng ấy đã bị đốn ngã từ ngày tôi bước vào đời công chức. Lão già phó bí thư đảng ủy này khốn nạn quá, cứ tưởng đưa mồi nhử vào Đảng ai cũng quỳ gối chắc. Tôi đỏ mặt, vừa uất vừa tức, chân ướt chân ráo, lão đã định biến tôi thành chó săn vô liêm sỉ. Tôi từ chối thẳng thừng. Từ đó bị trù úm, tôi cóc sợ, cóc cần vào Đảng.
Từ 1965 đến 1970, Ty Y tế tỉnh tôi chỉ có 2 bác sĩ đảng viên.
Người thứ nhất: Phó ty T., biệt danh: ông ba phải. Bởi vì bất cứ chuyện gì phản ảnh, ông không bao giờ tự quyết. Lấy ý kiến, tập thể lãnh đạo, bảo A, ông giơ tay A, bảo B, ông lại giơ tay B, ông thật hiền, chẳng giúp ai, chẳng hại ai, vô tích sự. Có cậu y tá phong trào hỏi mách qué, ông không giận.
Khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ (12-1946), ông đang học tú tài, theo kháng chiến. Năm 1951 ông học lớp y sĩ khóa 2 của nước VNDCCH, hòa bình lập lại, ông làm trưởng ty, chưa vào Đảng vì bố ông, địa chủ. Năm 1959, ông đi học bác sĩ chuyên tu, ra trường về làm phó ty. Ai cũng cười, y sĩ trưởng ty, bác sĩ làm phó ty.
Trung thu 1961, ông ngồi hóng mát với anh em trong khu tập thể (hồi ấy ông chưa vợ), cậu H. nửa nạc nửa mỡ, ỡm ờ bảo:
“Nếu phó ty không giận, cho em hỏi một câu.”
Bản tính hiền lành, ông cười:
“Cứ hỏi, vài câu cũng được, chứ gì một câu.”
Cậu y tá H. gãi đầu, gãi tai:
“Thôi, nhỡ anh để bụng, chết em.”
Mấy anh ngồi quanh:
“Có cái gì nói toạc ra, cứ ấp a ấp úng, sốt cả ruột.”
“Nhưng có thật thủ trưởng không trù đấy chứ.”
“Cái thằng, tớ đã bảo không là không cơ mà.”
“Dạ, em nói khí không phải, anh… học dốt lắm.”
Tất cả đám giật mình, cái thằng, hỗn!
Vẫn gãi đầu gãi tai, cậu H. thủng thẳng:
“Thật, em nói anh đừng giận, người ta đi học mỗi năm một lớp, anh học 3 năm vẫn ở lớp cảm tình, vừa rồi anh còn bị rớt luôn. Không lên lớp mà còn tụt, chả học dốt là gì.”
Phó ty T. mặt đỏ dần, nhưng cười không nói gì. Chuyện này rùm beng, đến tai tỉnh uỷ, nhờ thế, năm sau ông được kết nạp Đảng, giữ chức phó ty đến về hưu. Trong 14 năm, ty tôi thay 5 đời trưởng ty, không ai có bằng bác sĩ.
Người thứ 2: Bác sĩ bệnh viện trưởng. Từ cứu thương, học y tá, lên y sĩ làm ở phòng nghiệp vụ tỉnh N. Năm 1962, đi chuyên tu 18 tháng, lớp bác sĩ tổ chức. Tốt nghiệp, làm bệnh viện phó tỉnh H. sau một năm, làm bệnh viện trưởng. Chuyên môn chả biết con khỉ gì, nhưng đấu đá, kèn cựa với lãnh đạo ty, cỡ heavy-weight class.
Cái danh đảng viên như một món hàng trang sức xa xỉ, kệnh cỡm, người trí thức không ham, nhưng nó là bả vinh hoa, người đời mê muội. Thời ấy có câu: Trí thức vào Đảng khó hơn con bò chui qua lỗ kim. Đó là sự thật, sự thật trần trụi, đến ghê tởm.
Cánh cửa vào Đảng rất hẹp, hẹp đến mức muốn qua được người ta phải quỳ, bò, thậm chí phải biến mình thành một thứ sâu bọ thân mềm. Đối với trí thức, khó gấp nhiều lần, nếu ai qua được lỗ cửa hẹp, bên trong, con đường rộng thênh thang của danh vọng, quyền lực.
Quốc hội Việt Nam, đến hôm nay, vẫn trên 90% đại biểu là đảng viên cộng sản. Muốn làm cán bộ lãnh đạo từ cấp xã, phường đến tỉnh, trung ương trước hết phải vào Đảng, năng lực tính sau. “Đảng ta là đảng cầm quyền”, cụ Hồ đã xác nhận trong Di chúc.
Thượng úy Th., tâm sự, anh thẳng tính quá, thiệt thân. Có nghĩa, nơi gia đình tôi ra định cư sẽ là nơi khỉ ho, cò gáy, chẳng được trại chia cho tủ lạnh, máy giặt… chỉ vì tôi làm mất lòng vợ chồng thông dịch. Tôi cười, bảo, ở Việt Nam tôi đã từng đấu tranh với lãnh đạo cơ quan, có chức có quyền còn chả sợ, bây giờ phải quỳ gối, nịnh bợ vì vài thứ giẻ rách, nhục lắm. Không đời nào.
Tất cả các gia đình lần lượt ra định cư, trại nhận người mới từ Hong Kong. Gia đình tôi về Livingston, một thị trấn mới xây 1970, gần 100% thất nghiệp, dân nghèo, xa trung tâm thương mại, mọi thứ đều bất tiện.
So với các gia đình khác, tôi và 2 gia đình nữa thuộc loại xấu số nhất. Đối với tôi thế là hạnh phúc. Hơn một năm vô gia cư, từ nay chúng tôi có mái ấm gia đình, ra khóa vào mở, chẳng phiền ai, các con tôi kịp ngày khai giảng niên học mới 1980-1981 ở Knightridge Primary School, điều tôi vui nhất.
Tương lai, hy vọng đang ở phía trước. Từ nay chúng tôi tự định đoạt cuộc đời mình.
(Còn nữa)
© 2009 Lâm Hoàng Mạnh
© 2009 talawas blog

[1] Tố Hữu dịch ý nhà cách mạng Pháp Jean Paul Marat (1743-1793): “Người ta lớn bởi vì ngươi cúi xuống. Hỡi nhân dân hãy đứng thẳng lên” trong bài “Hãy đứng dậy”, tập Từ ấy.
[2] Muốn trở thành đảng viên phải qua các bước: 1- Cảm tình Đảng; 2- Đối tượng Đảng; 3- Đảng viên dự bị (thường 6 tháng). Có trường hợp đảng viên dự bị không thành đảng viên chính thức.


 BUỒN VUI ĐỜI TỴ NẠN VI VII


Knightsridge, Livingston, West Lothian
Theo điệu hát xẩm:
Từ ngày phải bỏ cửa nhà
Con thơ lưng cõng, mẹ già dắt theo
Đưa nhau vượt núi vượt đèo
Băng rừng, vượt biển… dắt nhau ăn mày
Cuối thập niên 1950, kinh tế Vương quốc Anh phát triển mạnh mẽ, nhiều nhà máy, xí nghiệp hiện đại được xây dựng, lao động có tay nghề, lao động phổ thông thiếu trầm trọng. Năm 1958 chính phủ Anh cho phép người dân Jamaica nhập cư. Đến đầu thập niên 1970, nhận thêm người Ấn Độ, Pakistan…, dân số bùng nổ, nhà nước xây dựng nhiều khu chung cư. Thị xã, thị trấn mới ra đời. Livingston, một trong những thị xã xây dựng cuối thập niên 1960, không ngờ những năm 1977, 78 , 79, Công Đảng (Labour Party) cầm quyền, kinh tế suy thoái, một số nhà máy, xí nghiệp gần khu Livingston phá sản, số mới đình chỉ xây dựng. Nạn thất nghiệp tăng chóng mặt, xứ Scotland tỷ lệ thất nghiệp cao nhất toàn U.K.
Bản đồ Knightsridge, Livingston, West Lothian
Bản đồ Knightsridge, Livingston, West Lothian
Livingston gồm khoảng 7 tiểu khu (phường): Ladywell, Dean, Crayhill, Knightsridge… trong số phường đó Knightsridge là phường xây dựng cuối cùng, nghèo nhất, tỉ lệ thất nghiệp rất cao. Đặc biệt, nhà chỉ có một mái, nếu thu nhỏ lại, giống như lều hay quán cóc bến đò quê Việt nam. Tuy sống ở miền Bắc nghèo khó nhưng chưa nhìn thấy nhà xây một mái. Trông kỳ kỳ, vô duyên thế nào. Nhưng thôi, tôi tự nhủ, lều ăn mày mà tường gạch mái ngói, máy nước bể tắm, nhà bếp, lò sưởi… là tuyệt vời rồi. Vợ tôi ngán lắm, tôi động viên, ăn mày mà đòi xôi gấc!
Dẫy nhà hai bên xây sát nhau, lối đi giữa lát paving-slab rộng chừng hơn mét, giống hệt đường trong làng quê vợ tôi. Hai dẫy nhà đối diện cách nhau chưa đầy 4 mét, cửa nhà nọ đối diện chênh chếch nhà kia, mở cửa, hai nhà nhìn thẳng tuột dễ dàng. Chính vì thế tên đường phố là Way chứ chẳng phải Road, Street hay Avenue. Khu Knightsridge có chừng 12 Way, đặt theo tên dòng họ lớn: Davison Way, Logan Way, Morrison Way, Graham Way… tôi ở Linsay Way, ngay sát phía ngoài cùng của khu, đúng nghĩa “khỉ ho cò gáy”, phía trước không xa là một sân golf khá lớn, chịu không biết 18 hay 21 lỗ, rộng mấy chục héc-ta, ngăn cách bởi hàng rào dây thép. Phía tay phải, đường dẫn ra cao tốc đi Glasgow. Từ Knightridge đi Glasgow hay Edinburgh đều bất tiện và rất xa. Thời ấy nếu muốn mua đồ ăn Á châu, bắt buộc phải đến một trong hai thành phố này. Đi Edinburgh đổi 2 xe bus xanh (nội thành màu đỏ), hai xe bus đỏ mới tới cửa hàng Chinese Mini Supermarket, còn Glasgow rất xa, trên dưới 200 dặm, phải đi xe riêng.
Cả phường không có công viên, play-ground, cho nên trẻ con rất hư, nhà nào không có người ở chúng thi nhau ném vỡ cửa kính, đọ tài cao thấp môn ném đá.
Edinburgh có 2 cửa hàng bán món ăn Á châu, rất nhỏ, gạo chỉ có Long Grain (Mỹ), không có gạo thơm Thái như ngày nay. Gạo đóng bao tải, khi nấu, vo kỹ mới hết hôi. Những ngày ở trại, tiền trợ cấp sau khi khấu trừ (ăn, ở, sưởi, điện nước…), nhà tôi 5 người mỗi tuần còn gần 10 bảng. Tiết kiệm gần 5 tháng nên cũng dành được chút chút để chuẩn bị cuộc sống độc lập.
Căn nhà tôi được (chia) hai tầng, 4 buồng ngủ, (một buông đôi, 3 buồng đơn), phòng khách khá rộng lại càng rộng vì chẳng có cái gì bên trong ngoài một bộ ghế gỗ có đệm da cũ kỹ, có lẽ từ thời Nữ hoàng Victoria còn đeo bỉm, một ghế đôi và hai ghế đơn. Nhà bếp có chiếc bếp gas bong gần hết sơn, một vài chiếc xoong mới nhưng mỏng tang, đồ cực kỳ rẻ tiền, một chiếc ấm nhôm đun nước, hễ nước sôi, hú như còi tầu hỏa. Một bộ dĩa, dao và 6 chiếc đĩa to. Rất may, trước khi ra trại tôi đã mua bát đĩa, dao thớt, hai bao gạo Long Grain (Mỹ), mỗi bao 50 ký, 2 chai nước mắm Thái, tép khô, bột ngọt… cho nên “có thể chiến đấu trường kỳ gian khổ vài tháng”. Cách nhà khoảng gần 2 km, Dean, có Supermarket Saveway, còn Trung tâm Thương mại cách xa 4 dặm, muốn mua sắm gì phải đi xe bus.
Sàn nhà từ phòng khách đến buồng ngủ trải giấy nhựa thay thảm, vừa trơn vừa lạnh. Có 1 giường đôi, 3 giường một, một số ga giường, gối, nệm mới, loại rẻ tiền. Mỗi buồng đều có wardrobe ẩn trong tường, tất cả trống trơn. Có lẽ từ ngày xây xong, chẳng ma nào ở, gia đình tôi xông đất chăng, nếu có người, dọn đi chắc còn thảm cũ.
Phường Knightsridge có 5 gia đình, hai gia đình ở Trại Thỏ ra định cư trước chúng tôi hơn 3 tháng. Trại Coltness có gia đình tôi, gia đình Móng Cái và gia đình Hải Phòng. Trại Thỏ tên gì, chịu, quanh trại là cánh đồng mênh mông, rất nhiều thỏ hoang (hare), ngay người ở trại cũng không rõ tên, chắc tên quá khó nhớ.
Không biết ai làm quân sư “quạt máy” (chưa được quạt lông, không phải quạt mo) cho Cục Di dân của Bộ Nội vụ Anh mà cách phân bố tỵ nạn Việt Nam trên U.K lại kỳ cục đến như vậy.
Hầu hết người xuất thân Lục tỉnh thường ở trại London và xứ Wales, người miền Trung lên Midland, người miền Bắc lên Scotland. Có phải họ cho rằng người Bắc chịu rét quen?
Mỗi một khu, tối đa 5 gia đình người Việt định cư. Có phải ý đồ “quân sư quạt máy”:
-  Giúp người Việt hội nhập với người địa phương nhanh hơn? Hay đồng hóa nhanh hơn?
-  Chia sẻ gánh nặng kinh phí (nuôi báo cô) cho từng khu vực?
-  Tránh tập trung đông người nước ngoài, khỏi gây lộn xộn?
Họ đâu có hiểu, chim phải có đàn, người phải có bạn, tỵ nạn Việt Nam tha hương xứ người càng muốn ở gần nhau, chia sẻ ngọt bùi. Vì thế bắt đầu cuối 1983 người Việt bốn xứ (Midland, Wales, Scotland, North Ireland) đổ về London, bằng nhiều cách, nhiều đường khác nhau, không bằng thuyền mà bằng coach, van, train dài dài cho đến 1988 coi như mới chững lại.
Anh bạn thượng úy, lên Post Glasgow, chung cư cao 9 tầng, xây trên đồi. Vùng hải cảng bốn mùa gió lộng, flat nhà anh càng lộng gió hơn. Từ Knightsridge đến anh, đường xa bằng từ Hà Nội đi Thanh Hóa, Nghệ An. Bốn năm ở Scotland, cô chú thăm tôi một lần và tôi cũng thăm đáp lễ đúng một lần, nhờ bà giáo dạy Anh ngữ. Năm 1983 vợ chồng chú về London, năm 1984 chú kéo tôi về. Chúng tôi đoàn tụ cho đến nay.
Ba gia đình “cơm bưng nước rót, quét nhà bế em” tự hào và sung sướng lắm, được ở quanh khu Wishaw, nhà đẹp, sáng sủa, không phải ở flat, cũng chẳng nhà một mái. Anh chàng L. V. Ch. Hả hê, bảo, ngồi trong buồng khách nhà tay Th., gió ù ù như tiếng máy bay phản lực. Nhà ông M. một mái như lều chăn vịt. Nhà Ph. (kỹ sư dầu khí, ở Fife,) xa như Lao Cai, Cao Bằng. Chả nhà thằng nào bằng nhà ba đứa bọn mình!
Cả ba cố thủ cho đến ngày nay, con đàn cháu đống. Năm 1988, về Việt Nam, gọi điện cho vợ chồng chú Th., xin tá túc một đêm, nhờ đưa đến phi trường Heathrow. Lần đầu O.K, lần sau, đổi số điện thoại, chịu, hành lý để cửa, bấm chuông. Nhìn qua cửa kính trên lầu, cả nhà im, coi như vắng. Gõ cửa hàng xóm, hỏi, lắc đầu chịu. Chủ nhà đi vắng hay không, làm sao biết. Viết thư than, ở thủ đô bao giờ cũng hơn, tiện lợi đủ đường. Không trả lời, coi như chuyển nơi ở.
Vợ chồng H-L, trại giải tán năm 1982, thất nghiệp về Leed, năm 1985 làm xưởng bánh mỳ dài dài, nghe tin lên đốc công, vì xưởng nhiều người Việt kém Anh ngữ.
Gia đình tôi tuy thế còn may mắn gấp nhiều lần so với người định cư ở Bắc Ái Nhĩ Lan (North Ireland). Nơi đó, thời ấy, bom nổ thường xuyên, do I.R.A (Irish Republican Army) chống chính phủ Anh gây ra. Chẳng hiểu “quân sư” nghĩ gì, Cục Di dân cho 30 gia đình người Việt, chủ yếu dòng họ L. chuyên nghề đánh cá ở Hải Phòng, theo Công giáo, định cư xứ này. Xứ này đâu có ưa người Anh, cũng chẳng ưa người nước ngoài. Chịu không thấu, một thời gian ngắn, bỏ của chạy về London. Mẹ kiếp, ở Việt Nam bom rơi đạn nổ đã hết vía, nay đi tỵ nạn, bom nổ trên xe bus, sát nhà, sát đít, không những thế, ra đường, dân địa phương mắt nhìn gờm gờm như thể mình là quân xâm lược. Dân Ái Nhĩ Lan không ưa dân Công giáo, đã sợ lại càng sợ hơn. Không nhanh chân có ngày toi mạng. Muốn nhanh cũng chả được, phải có tiền di chuyển, mèng cũng vài ngàn bảng. Chúng tôi ở Scotland cũng vậy, muốn về London phải có tiền, chẳng thể chân đi, miệng hát, tay kéo nhị (đàn cò) làm kế sinh nhai, lên phà vượt Eo biển Irish hay chạy bộ về London như người hát xẩm ở Việt Nam.
Ngày xưa mỗi khi đi qua phà Bính, trên phà có người đàn bà mù (?), đeo chiếc kính đen, quần áo tả tơi, tay cầm nhị, cất tiếng hát xẩm, than thở:
Từ ngày anh bước chân xa
Con anh, anh để… ở nhà cho em
Con anh… bụng đói, dạ thèm
Cùng trời…. cuối đất, dắt em ăn mày
Hỏi ông… ông hỡi có hay
Hỏi bà… có hiểu lòng này… xót xa
Hát xong một khổ (thơ than), người đàn bà mù một tay quờ quạng như thể tìm đường, một tay bám vào vai thằng con, nói nhanh như máy hát: “Xin quý ông quý bà, thương mẹ con tôi, quý ông quý bà đi cầu Trời lễ Phật, đi một về mười, đi may về mắn, thương mẹ con tôi bớt dăm xu một hào… cho mẹ con tôi”. Thằng bé khoảng 7 hay 8 tuổi, một tay chìa nón mê (rách tả tơi), một tay cầm tay mẹ, đến từng người trong đám đông trên phà xin bố thí. Nhìn, nghe sao thảm thế. Không ai có thể từ chối, móc hầu bao, ít nhiều đóng góp.
Nghề cái bang lắm chiêu kiếm sống, nhất là lỏi tỳ, ranh ma. Thị xã Thái Bình có cửa hàng ăn (mậu dịch quốc doanh) rất khang trang, một Chủ nhật hè năm 1963, sau khi dạo chơi, hai thằng chúng tôi rẽ vào, mua mỗi thằng một tô phở 5 hào, tôi vừa bưng ra đặt xuống bàn, một lỏi tỳ khoảng 6 hay 7 tuổi nhổ ngay bãi nước bọt vào bát phở. Tát nó à? Nó bé quá, không nỡ. Thôi, xin biếu bố trẻ. Thằng bạn tôi, số phận chẳng hơn gì, vừa lấy thìa húp tí nước dùng, ba ngón tay đen ngòm, toàn đất cát thò ngay vào, bốc luôn miếng thịt bò trong bát, bỏ mồm. Cũng đành đứng dậy, thôi nhường bố trẻ luôn. Chiêu này, vở diễn đều đều, các chị các cô phục vụ đuổi không xuể vì chúng khá đông, gần 10 tiểu tướng. Dân địa phương, bảo, ngồi bàn trong cùng, có cô phục vụ, tụi trẻ không dám bén bảng.
Cửa hàng ăn thành phố Nam Định cũng có lũ lỏi tỳ kiếm ăn. Khi chưa đến giờ, chúng tụ tập trước cửa, mỗi đứa một cái vung nồi đất, vừa làm bát xin ăn vừa làm trò, chơi trò xoay vung, vung nồi đứa nào xoay lâu nhất, chốc nữa kiếm được phải chia phần cho đứa thắng. Khách mua bát phở, hai đứa kèm hai bên, chìa hai vung nồi, anh ơi, chú ơi, ông ơi, chị ơi… cho cháu xin một tí, nước không cũng được. Làm thế, bố ai nuốt nổi. Thôi nhường cho mấy bố trẻ, kiếp trước chắc nợ các bố, vừa bảnh mắt đã bị ám.
Mấy chục năm trước, đau xót hoàn cảnh cái bang, không ngờ bây giờ, đến mượt mình vào hội viên.
Khu tôi có 5 gia đình, gia đình S., Hòn Gai, cùng Logan Way, cách gia đình ông V., Hải Phòng có 3 gian, nhà gia đình Dz., Móng Cái ở Morrison Way, gia đình ông bà H., Hà Nội, giống gia đình tôi mỗi người một góc, “đêm cáo ho, ngày chim gáy”. Ngủ ngon, không tiếng xe ô-tô, chẳng có tiếng còi hụ cảnh sát, cứu thương, đêm thanh bình, không khí trong lành, toàn cây xanh và cỏ xanh bát ngát tận chân trời. Ai mắc bệnh khó ngủ, đến đây an dưỡng, bệnh chắc tiêu tan.
Không ngờ khu Knightsridge có một nhóm bảo trợ (Guardians), hầu hết là các bà đã có tuổi, vô công rỗi việc, sáng sớm tụ tập tại nhà bà Smith, nhóm trưởng, lên lịch, sáng làm gì, trưa chiều làm gì, nhà A ai đến, nhà B ai… Gia đình tôi có bà Linda, một người đàn bà khoảng dưới 50, single parent, làm bán thời gian trong cantin của trường Dean High School, cứ gần 2 giờ chiều đi làm về, gõ cửa, vào uống chén cà-phê, hút điếu thuốc, ngày nào cũng hỏi mấy câu tầm phào, vô nghĩa: Are you OK?, Children OK?, ít cũng nửa giờ, có hôm gần 5 giờ tối mới về. Nếu chỉ có thế đã phúc tổ, bà ta có đứa con gái 5 tuổi, nghịch hơn quỷ sứ, thường xuyên theo mẹ, hễ vào nhà là lục lọi đủ thứ, con tôi không thích, đuổi về. Nó mách mẹ, bà Linda trách tôi, lúc đầu cũng nể, nhượng bộ, chỉ khi nào bà ta đến tôi mới cho vào. Thời gian đầu, ở nhà rỗi việc, tôi thường kèm tụi trẻ học toán, mẹ con bà Linda quấy rầy nhiều, tôi từ chối sự bảo trợ. Tại sao tôi phải cần người xỏ mũi, dắt dây?
Tháng đầu tiên, hàng tuần phòng trợ cấp thất nghiệp Livingston gửi séc trợ cấp kể cả tiền nhà, bà Linda đi kèm, sau khi lĩnh ở Post Office, tiền nhà bà giữ, (chưa có sổ trả tiền nhà), khuyên mỗi tuần nên tem điện, tem gas, tem TV licence, mỗi thứ 1 bảng (£1), chiều lòng tôi làm theo ý. Gia đình nào cũng bị người bảo trợ “giúp đỡ” tận tình, mình như đứa con nít, học ăn, học nói, học gói, học mở, ở tuổi tứ tuần.
Khổ nhất gia đình anh chị S., khinh không thèm học Anh ngữ, ở Hong Kong 1 năm, đến Scotland gần 1 năm mà chả biết khỉ gì, ai hỏi chỉ nhe răng cười, chỉ chỉ chỏ chỏ, được thể bà Smith giúp đỡ từ A đến Y (thiếu Z). Sáng sớm, khoảng 8 giờ gõ cửa, chiều khoảng 2 giờ, 8 giờ tối thăm lần cuối. Mấy tháng đầu, OK, sau khi anh chồng kiếm được việc làm chui ở cửa hàng Chinese Take-away ở Bathgate, chiều và tối thường xuyên vắng nhà. Ban đầu cho rằng anh chàng này bê bối, đàn đúm, bỏ rơi vợ con, bất cứ chỗ đông người nào bà cũng phán một câu như quan tòa: bad boy. Đầu tiên, anh chàng S. nhe răng cười xòa, lâu dần khó chịu, nhất là S. được nhận làm toàn phần, thằng bếp Hong Kong bỏ việc. Cả tuần 6 ngày vắng mặt từ 3 giờ chiều đến tối mịt (chính xác 2 giờ 30 sáng hôm sau) chưa về, sáng gõ cửa, không mở, còn ngủ nướng. Sữa phơi nắng, trưa không thèm đem vào, bà ta sinh nghi, chắc thằng bad boy này làm chui lậu thuế, lĩnh tiền trợ cấp. Bà đe, báo thuế đàng hoàng, thôi lĩnh trợ cấp, không, bà bẩm báo chính quyền. Bỏ tiếc, báo thuế, lương chả hơn gì tiền trợ cấp. Người anh rể ở Wishaw, bảo, tao tìm được nhà tư, chuyển về đấy, tránh xa mụ phù thủy là xong.
Dạo ấy, vợ tôi làm xưởng bánh kẹo, tôi học Stevenson College ở Sight Hill, bận tối ngày, chả biết mô tê gì chuyện (bà con) trong phường, đột nhiên tối thứ Bẩy cuối năm 1981, vợ chồng S. sang chơi, bảo, xin được nhà ở Wishaw, gần nhà chị gái, mai chuyển đi, đến chào, có dịp qua Wishaw vào chơi. Tuyệt! Wishaw một thị xã cổ kính, thơ mộng, đã từng ở đấy gần 5 tháng. Được, có điều kiện ghé thăm. Nói ra vẻ, từ Knightridge đến Wishaw đổi 3 lần xe bus, biết khi nào đến được.
Hôm dọn nhà, anh chàng David độc thân, ở Wishaw, thường xuyên đến trại Coltness House, biệt danh David chó, nuôi 4 con chó, nhà toàn phân, nước tiểu, thối hoăng, quần áo dính toàn lông chó, khai mù mù, đem chiếc van đến chuyển giúp. Lâu mới gặp, tôi và David hàn huyên, hóa ra, vợ chồng S. thuê nhà của David, sở thất nghiệp trả tiền nhà. Trời đất quỷ thần ơi, vợ chồng S. có 3 đứa con, lớn nhất 4 tưổi, bé nhất gần 6 tháng, nhà 5 mạng, chui vào nhà David, trẻ con không ốm mới là lạ.
Tôi đã đến nhà David, hồi ở Coltness House, nhà 4 buồng ngủ, nhìn ngoài hết ý, vào trong ói muốn chết. Tầng trệt, phòng khách, reception chứa đầy bàn ghế, tủ, máy giặt… toàn đồ nhặt ngoài đường, mốc, ẩm ướt nồng nặc xông thẳng vào mũi. David đưa thăm các buồng, từ cầu thang, lên hết tầng hai, thảm dính toàn lông chó, nước đái chó, có cả phân. David vội cầm fresh air xì xì, hai mùi trộn lẫn thành thứ mùi khó thở. Dù biết không lịch sự, nhưng đành ra khỏi cửa, hít chút khí trời. Tí chết ngạt.
Bây giờ chỉ vì tiền, đưa cả vợ con đến đấy ở. David ngoại 40, chưa vợ, S. làm đêm, vợ trẻ, đẹp gái. Chuyện gì xẩy ra chỉ có ma biết.
(Còn tiếp)
© 2009 Lâm Hoàng Mạnh


 BUỒN VUI ĐỜI TỴ NẠN VI VIII

Ra định cư, Trại Cotlness phát cho mỗi gia đình một cuốn Cẩm nang người định cư, tuỳ lựa chọn bản chữ Trung hay bản chữ Việt, gồm các mục:
A-Trợ cấp Xã hội (D.H.S.S), hồi ấy Bộ Y tế chưa tách riêng
B-Công việc
C-Y tế
D-Giáo dục
E-Quản lý và an toàn nhà cửa
F-Xã hội Anh
G-Ban/nhóm bảo trợ
Mỗi mục lớn, có mục nhỏ, giải thích cặn kẽ giúp người mới định cư hiểu cơ bản quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân, có địa chỉ, số điện thoại liên lạc. Gia đình nào cũng có, chả ai đọc kỹ, bất cứ chuyện gì cũng nhờ người bảo trợ làm giúp.
Cuối đường Munro Way, có gia đình ông bà H., vắng vẻ chẳng kém gì Lindsay Way, ông H., cựu công nhân nhà máy đèn Yên Phụ từ thời Pháp thuộc, tuổi cao, ngoại thất tuần, lưng còng, tóc trắng xóa cũng bỏ tất cả, làm tỵ nạn. Bà tuy đã ngoại 60, nhưng nhanh nhẹn tháo vát, mộ đạo Phật từ nhỏ. Khi còn ở Trại Thỏ, tuổi cao, không biết tiếng Anh, tiếng Quảng, “hiệp sĩ Hong Kong” cho qua, bà cũng không muốn cải đạo. Ra định cư bà thấy dại, sợ không có người giúp mua gạo, mua đồ Á châu.
Trên mảnh đất quốc đảo hình sư tử, nơi nào dân cư đông đúc, nơi đó có nhà thờ, rất gần và tiện lợi cho người mộ đạo. Khác nhiều nước, nhất là xứ Scotland, Công giáo không nhiều con chiên, người xứ Scotland đến Church of Scotland, người England cầu kinh tại Church of England, Christian Church… dân tỵ nạn miền Bắc hiểu rất lờ mờ về các dòng đạo chúa Cứu thế, cứ thấy nhà thờ, người đi lễ, theo Công giáo, chúng tôi bên lương, chả hiểu con mẹ gì, vả lại khi cộng sản về, người Thiên Chúa giáo thường bị để ý. Tuy vậy, nhà thờ lớn của thành phố vẫn tổ chức lễ Giáng sinh, giáo dân đổ về đón lễ, thanh niên bên lương tò mò đến xem, người đông như kiến.
Giáng sinh năm 1958, ba thằng chúng tôi rủ nhau đến Nhà thờ Lớn xem lễ, không ngờ đi qua Nhà thờ Tin lành đầu phố Trại Cau (Tô Hiệu), một đôi nam thanh nữ tú, áo quần sang trọng đứng ngay cửa nhà thờ, tha thiết mời vào dự lễ. Chúng tôi chưa bao giờ vào thánh đường, nhìn nhau, gật đầu. Giáo đường trang hoàng thật hoành tráng, lộng lẫy, chúng tôi bước vào, các hàng ghế trống trơn, ba thằng nhìn nhau, chót phải chét. Ngồi ngay hàng ghế trên đầu. Nhạc cử hành, cả giáo đường ngoài ba thằng có thêm khoảng mươi người ngồi phía sau. Đoàn đồng ca hát, linh mục lên giảng, ban nhạc cử hành. Tiếng chuông ngân vang, Chúa Giáng sinh. Ban nhạc cử hành bài hát lễ, truyền cảm, nối tiếp kéo dài, tất cả thật trang nghiêm, đến nỗi chúng tôi muốn về mà không dám, người dự lễ thưa thớt quá, đành ngồi đến phút chót.
Giáng sinh 1965, cô bạn K. (cô gái hiến máu) dẫn đi đón lễ Nhà lhờ Lớn Hà Nội. Thủ đô có khác, vả lại Công giáo đông con chiên, đèn hoa, sáng rực, thánh đường đông nghịt, con chiên khắp nơi đổ về mừng lễ Chúa Giáng sinh. Gia đình K. theo Công giáo, gia đình cô chú tôi là một bi kịch, tôi không bao giờ muốn theo vết xe đó. K. đẹp, ngoan, đoan trang, gia đình lễ giáo, cha nàng công chức cũ, giờ xã viên cơ khí. Mẹ K. Là mẫu người vợ và người mẹ của gia đình Hà Nội gốc. Tôi quý và mến K. lắm, nhưng không thể bước qua ranh giới. Tốt nghiệp, nói dối, đi B., chắc K. buồn. Từ đó không gặp lại. Nhiều năm sau, có dịp ghé Hà Nội, tôi vẫn đạp xe qua phố Trần Nhật Duật vào lúc 10 giờ đêm, nơi nàng sinh sống, nơi đêm thứ Bẩy in đậm dấu chân kỷ niệm, một thời thân ái.
Trong số 10 gia đình cải đạo theo Công giáo, ai ngờ nhà Ch. ra định cư, người bảo trợ dắt đi nhà thờ Tin lành, bảo, Tin lành là Number One, theo bọn tao, mấy tay Hong Kong biết mốc xì gì. Thôi đành “đến đây thì phải theo đây”, Ch. lại cải đạo Tin lành, chiều lòng người bảo trợ.
Khu Knightsridge nhỏ thế mà có hai thày tu, linh mục Tin lành, cha đạo Công giáo, tiến sĩ thần học Dr. J. McCann, chăm sóc phần hồn con chiên. Hai nhà thờ cách xa nhau, nhà thờ Công giáo ở Ladywell, nhà thờ Tin lành ở Dean. Hai gia đình cùng trại, V. và Dz. cải đạo theo Công giáo, quá xa Wishaw, “hiệp sĩ xảo voọc” Hong Kong chịu không với tới, đang mừng thầm, gần một tháng, được tự do, không ngờ, hai vị chức sắc đến thăm, giúp đỡ. Anh ngữ kém, họ hỏi gì, vợ chồng V. cũng gật, cũng lắc, chán mớ đời. Có hai thằng con trai, thằng 17, thằng 15, khôn ngoan nhanh nhẹn, đi học vắng, chờ cuối tuần, làm thông dịch, bảo, hai ông này mỗi người một đạo khác nhau, bá má theo ông nào. Biết theo ai. Hỏi bà Smith, không mộ đạo, bảo, không muốn thì thôi, không ai bắt ép.
Bà H. theo cha đi nhà thờ, một lần gặp bà tại nhà anh S., bảo, có lẽ “thím” (xưng thím với tôi) bị Đức Phật phạt nên có nhiều vết nhám ở mặt. Tôi bảo, không phải đâu, tuổi cao thường có những vết nhám. Bà thì thào, trên gác thím vẫn có ban thờ Phật. Nể đức cha quá, chứ mỗi lần đi nhà thờ, sợ Phật quở, về phải thắp hương khấn lạy đức Ngài đại xá.
Không ngờ, cậu Ch. làm cửa hàng Chinese Supermarket, dẫn chủ đem xe van chở hàng đến từng khu, bán gạo, đồ khô. Chủ vui, chúng tôi mừng rơn. Hẹn mỗi tháng đem hàng đến một lần, muốn mua gì thêm đặt trước. Chuyện đi nhà thờ thế là dẹp.
Tết Nguyên Đán 1981, cậu Ch. mang hàng bu gà mái già (boiling Chicken), gà thải của các trang trại, đem bán. Nhà nào cũng mua, mừng quá, Tết này có gà tươi cúng các cụ. Lần đầu tiên mua loại gà già, đâu có biết cách luộc, cúng xong, chặt xếp lên đĩa, gà vàng ươm, đẹp mắt, gắp một miếng, chịu, nhai không nổi. Dai quá, hơn da trâu nuốt không trôi. Cả 5 nhà gặp nhau ai cũng xỉ vả cậu Ch., đồ đểu, đồ lừa lọc, gà nuôi kiểu gì mà dai quá sức. Bà H. gẫy chiếc răng hàm, tháng sau cậu Ch. theo van đến, bà té tát cho một trận tơi bời. Ch. bảo, cháu đâu có biết, thằng bé nhà cháu cũng mất chiếc răng cửa. Ninh lâu, thịt mềm nhưng nhạt, nước nấu canh là tuyệt. Từ đấy, cạch, món gà tươi ế. Giờ đây, chúng tôi đã biết cách luộc gà già, ăn ngon, trông bắt mắt, chẳng kém gì gà ta. Xin giới thiệu cách luộc (của bà nhà tôi), để các bà các chị tham khảo.
Hầu hết các cửa hàng Pakistan, Chineses supermarket đều bán, đã làm sẵn. Chọn con ngon, béo, về làm sạch, xát muối, chanh, rửa sạch, treo cho ráo nước. Đun nước thật sôi, cho gà vào, cho chút bột nghệ (1 hoặc 2 gram), muối. Luộc 30 phút, tắt lửa, ngâm gà trong nồi 5 phút, vớt ra, xả qua nuớc lạnh (da gà không khô). Treo lên, gà nguội, chặt xếp lên đĩa, kèm đĩa muối vắt chanh, thêm lá chanh xắt nhỏ rắc lên đĩa thịt, càng ngon. Món gà luộc này, rẻ, thịt vàng uơm, da bóng, ngon như gà ta. Món này tôi rất khoái, hợp khẩu vị.
Khu Knightsridge nghèo, hai nhà ra trước bà con giúp chút đỉnh, chúng tôi đến sau, uống nước đục. Không có tủ lạnh, thường xuyên phải đi siêu thị khá xa, ngó cửa kính corner shop, mua được chiếc tủ lạnh cũ, loại nhỏ, có 5 bảng. Một gia đình đem đến cho chiếc máy giặt kèm theo máy vắt. Hai chiếc máy này, bây giờ còn giữ chắc kiếm bộn tiền, đồ cổ. Máy giặt đứng, hình khối chữ nhật, cao khoảng 80 đến 90 cm, vòng quay đảo chiều, mở nắp cho thêm đồ giặt, máy vẫn ù ù như cối xay thóc. Không có đồng hồ thời gian, giặt nhanh hay lâu tùy ý, chuyển nút xả nước, lấy nước, có ống cao su đấu từ vòi (tap) xả nước vô tùy thích. Khi nào thấy sạch, lấy đồ ra chậu, đưa sang máy vắt. Máy vắt trông giống máy cán mỳ sợi, cao hơn 1 mét, có 4 lô tròn bằng gỗ, hai nấc cán, có ốc điều chỉnh. Cho từng chiếc quần áo vào, cầm quay tay, quay vòng, nấc thưa quần áo còn ướt mèm, nấc khô được quần áo, các cúc vỡ hết. Máy vắt này chắc mô phỏng từ máy cán sợi mỳ hay cán thép, không hợp cán quần áo. Báo hại cả nhà, bao nhiêu cúc áo vỡ sạch. Dẹp, cho ra vườn sau, chờ người lấy rác đưa đi giúp. Kiểu máy giặt và vắt này, ai muốn chiêm ngưỡng, xin đến Bảo tàng Đồ cổ (Washing Machine Museum) ở London. Mỗi lần giặt, đem máy vào buồng tắm, giặt xong, vắt khô bằng tay, chỉ tiện không phải xát xà phòng và vò quần áo.
Một người mang đến chiếc máy khâu quay tay, mặt máy bong hết sơn, tay quay gần như rỉ sét, tôi cảm ơn, nại, không biết may. Nhà mình đâu phải bãi rác, ấy thế, tuần sau, bà H. khoe, có người cho chiếc máy khâu, đến xem, hỏi, có phải bà Mary cho không, gật đầu.
Thấy nhà không có vô tuyến, ông hàng xóm Peter Chenney đưa tôi ra Livingston Shopping Centre thuê cho chiếc đen trắng. Tôi muốn thuê ti vi màu, ông bảo đắt lắm, đành nghe lời. Được vài tháng, cũng trong cửa kính corner shop, tôi mua được chiếc ti-vi màu giá 45 bảng, ai ngờ quá cũ, màu chả ra màu, xám xịt. Thôi đành, méo mó có hơn không. Trả lại chiếc đen trắng thuê, 5 bảng/ tháng, cửa hàng không chịu, hợp đồng 12 tháng, trả lại không sao, nhưng vẫn phải đóng tiền hàng tháng. Thế là có 2 chiếc ti-vi, chiếc đen trắng đưa lên phòng ngủ.
Năm 1981, mua chiếc ti-vi màu second hand, Grundig, Đức sản xuất, hình và âm thanh thật tốt. Được 8 tháng, tự nhiên màu mất, đưa ra thợ, đòi 100 bảng, thay màn hình. Trời đất, mua 85 bảng, chữa đòi 100! Cả nhà chỉ có chiếc vô tuyến giải trí, mấy em con chú đi làm, bảo, thiếu bao nhiêu, em cho vay, mua cái mới cho các cháu. Tôi mua cái mới cứng, nhờ ông Peter đưa ra Edinburgh đến cửa hàng Comet, 22 inch giá 300 bảng. Bảo hành 1 năm, thêm bốn năm bảo hành, 40 bảng, cho chắc.
Được gần 2 năm tủ lạnh, xịt, hỏi, phải thay hộp gas, 35 bảng. Thôi nghỉ, mua cái mới. Lại nhờ ông Peter, đi Comet mua chiếc tủ lạnh 2 tầng, 150 bảng. Tiền dành dụm chút đỉnh, đồ cũ thay nhau hỏng. Nghèo lại càng nghèo chỉ vì mua đồ phế thải. Từ đấy, cạch, không mua đồ điện tử second hand.
Khi còn ở Trại Coltness, anh em cắt tóc cho nhau, ra định cư, vợ tôi thành phó cạo. Ba bố con, tháng tháng vào nhà tắm, cúi đầu cho phó cạo học nghề. Mỗi lần nhà tôi húi đầu cho ba bố con, bao giờ cũng hát “dân ca và chèo”: Ối giời, cổ bố con ông toàn ghét, đầu toàn gầu là gầu, tắm gội không kỳ hả. Ghê cả tay.
Cái kiểu ăn nói này tôi nhớ ở thị xã H. có tay cắt tóc rất nổi tiếng, nổi tiếng tay nghề và cũng nổi tiếng đểu. Chả biết tên thật là gì, chỉ thấy mọi người gọi Kim Liên, tên cửa hàng, hắn tự hào, xuất thân làng Kim Liên, làng nổi tiếng nghề cắt tóc với huyền thoại cụ Tả Ao để mả.
Theo huyền thoại, cụ Tả Ao, thầy phong thủy lừng danh xứ Bắc Kỳ cuối thế kỷ 19, một hôm đi qua làng Kim Liên, các cụ bô lão, tiên chỉ nghe tin thày, vội vàng mời cụ bữa rượu thịt tươm tất. Đãi xong, thay mặt dân làng, cụ tiên chỉ xin cụ Tả Ao giúp cho dân làng khỏi cảnh bị người làng khác o ép, xin thày để cho ngôi mộ, con cháu sau này mở mặt, mở mày, đè đầu vít cổ thiên hạ. Cụ Tả Ao, vuốt râu cười, gì chứ, các cụ chỉ mong có thế, già này xin cố giúp. Cụ Tả Ao chỉ cho ngôi mộ, hẹn ngày đẹp, giờ hoàng đạo, đem hài cốt cụ tổ táng ngôi đó, sau 3 năm sẽ ứng hiệu. Nghề cắt tóc từ đó phát triển ở làng Kim Liên. Chẳng phải nghề “vít đầu, ấn cổ” khách húi đầu là gì. Các cụ Kim Liên không kêu vào đâu, phục tài cụ Tả Ao như thánh sống.
Kim Liên tay kéo rất điệu nghệ, lái xe tỉnh tôi phục tài hắn lắm, khách nghèo, nông dân nhất là người dân tộc thiểu số hắn ít khi nhận, dù ngồi không. Theo hắn, mỗi khi cầm kéo, ít ra cũng được 5 hào trở lên, cắt không gội, không sấy 3 hào chả bõ bèn. Khinh rẻ người dân tộc ở một tỉnh miền núi rất nguy hiểm đến sinh mạng chính trị. Hắn cóc sợ, dân đen, ngồi bệt, không buôn gian bán lận, không trộm cắp, phát biểu lăng nhăng cà chớn, chẳng chửi chính phủ, phê bình ở tổ dân phố là cùng, tống tù đâu có dễ.
Ty Công an có ông phó ty người Mường, nghe bà con dân tộc phản ảnh, ông quyết đến cửa hàng tay Kim Liên xem hư thực ra sao. Tan phiên chợ chiều, ông và người cận vệ mặc quần áo Mán, đeo gùi, bước vào. Kim Liên xua tay:
“Bận lắm, mai đến.”
“Cái mình đi chợ phiên, cái mình muốn húi tóc. Làm cho cái mình đi.”
“Đã bảo bận mà.”
“Cái mình có thấy ai đâu. Húi cho cái mình đi.”
Đuổi thế nào cũng không được, Kim Liên đành thua:
“Ngồi vào đây.”
Lấy khăn quàng cổ, lật cổ áo, kêu:
“Mấy tháng chưa tắm hay sao mà cổ đầy ghét.”
Phó ty thủng thẳng:
“Cái mình mới tắm Tết mà.”
“Sao lười thế?”
“Cái mình không có xà-phòng.”
Thỉnh thoảng Kim Liên giật tông-đơ một cái, phó ty:
“Ối, cái mình đau quá.”
“Tóc gì cứng như lông bò, đau là phải, cố mà chịu.”
Kim Liên bắt đầu giở trò đểu, hỏi anh chàng Mán đi cùng phó ty:
“Cái mình có cao hố không?”
“Cái mình có.”
“Cái mình có cao khí không?”
“Cái mình có cao khí.”
“Cái mình có cao văng mạng không?”
“Cái mình chỉ có cao hố, cao khí, không có cao văng mạng đâu.”
Tóc cắt xong, Kim Liên gạ:
“Cái mình bôi dầu chải tóc không?”
“Bôi thử cho cái mình.”
Kim Liên lấy ngay mỡ xe đạp, bôi vào tay, quyệt vào đầu phó ty, lấy lược chải. Đầu phó ty bóng nhoáng. Kim Liên bảo:
“Soi gương xem, bóng chưa.”
“Bao nhiêu?”
“Năm hào?”
“Sao năm hào? Ba hào cơ mà?”
“Cắt tóc 3 hào, dầu chải 2 hào, chả năm hào còn gì.”
Phó ty lần mãi trong túi áo nâu, lấy ra năm hào. Hai người định đi, Kim Liên bảo:
“Ấy chưa đi được, chổi đây, quét đám tóc cái mình lại, dọn xong chôn vào gốc cây kia mới được đi.”
Cậu cận vệ uất lắm, muốn rút còng số 8, phó ty lừ mắt. Chôn tóc xong, phó ty hỏi:
“Còn phải làm gì nữa không?”
“Thôi, xong.”
Hai giờ sau, đoàn xe ô-tô Ty Công an hú còi đỗ xịch trước cửa Kim Liên, “thằng Mán” bây giờ trong sắc phụ thiếu tá công an, cùng đại úy trưởng trại giam, “Mán cận vệ” và hai chiến sĩ cảnh sát xuống xe, đọc lệnh bắt Kim Liên. Kim Liên sững sờ, biết mắc bẫy. Cúi đầu, chìa hai cổ tay nhận vòng số 8, không dám nói câu gì. Ba ngày sau, vợ Kim Liên dắt 7 đứa con lít nhít đến Ty Công an tỉnh, khóc lóc mếu máo, nhà 9 miệng ăn, chồng bị giam lấy gì mà sống. Phó ty bảo, lần này tha, lần sau mọt gông, nghe chửa? Kim Liên hứa, xin chừa.
Húi tóc tại gia, mỗi tháng tiết kiệm 15 bảng, một năm 3 bố con dành được 180 bảng. Tưởng mỗi mình nhà tôi có phó cạo, ai ngờ tất cả các bà vợ tỵ nạn đều thành phó cạo. Nghề phó cạo, nhà tôi làm đến khi hai thằng con vào đại học, “giáo sư trông xuống, bạn gái trông vào”, chúng được ra hiệu cắt, dù tay nghề nhà tôi đã thuộc loại giỏi, sau mười mấy năm hành nghề, tiết kiệm tiền nghìn. Mấy năm nay, mắt kém, tôi bị bà vợ đẩy ra Barber shop, mèng cũng 10 bảng/ lần húi.
Mùa đông 1980 rét thê thảm, đi chợ giời Bathgate (Sunday Market), mua thảm giải phòng khách và buồng ngủ tụi trẻ, loại rẻ nhất, cũng gần 200 bảng. Có ông McCann quen từ hồi ở Trại Coltness mang cho một số thảm cũ, tất cả buồng, cầu thang kín thảm. Nhà ấm hẳn lên.
Nhà anh S., nhà P. H. V, nhà L. V .Dz. đều mua tủ lạnh, máy giặt… toàn đồ mới. Hóa ra họ đi làm chui từ lâu, chúng tôi, vợ đi làm, chồng đi học biết khỉ gì, vả lại tất cả giấu kín, sợ mọi người biết đến tai bà bảo trợ.
Đầu video bán trong các siêu thị từ 1979, tôi nhìn thấy ở Hong Kong, năm 1982, ba nhà (làm thêm) đua nhau, ai cũng có, thuê phim Đài Loan, phim chưởng vợ con xem tối ngày. Đầu video hồi ấy các nút bấm dài ngoẵng, piano key, to, nặng, chưa có điều khiển từ xa, ấy thế giá 600 bảng/chiếc, so với lương nhà tôi đi làm (thêm giờ, thứ Bẩy) trừ thuế, xấp xỉ 100 bảng/tuần. Đúng là thứ xa xỉ phẩm chưa dành cho người nghèo.
Thằng em con chú, đi làm về, mắt vợ sưng húp, hỏi, làm sao mà khóc, bảo, xem phim cảm động quá, không kìm được. Nó đến than, đúng là mình hại mình, sợ vợ ở nhà buồn, mua video thuê băng Đài Loan, Hong Kong, vừa xem vừa khóc, chán mớ đời. Phim Mỹ, phim Anh… nghe không thủng, ngoài súng bắn pằng pằng, ngựa phi như bay… thấy hay hay, hiểu mẹ gì đâu. Phim Đài Loan, Hong Kong tình cảm uỷ mỵ, sướt mướt, đúng tâm lý Á châu, nghe hiểu từng câu, thấm tận đáy lòng, chỉ tội phim nào kết thúc đều buồn thúi ruột, không chảy nước mắt mới là lạ.
Nhà nào cũng có, ông bà H. có thằng con cũng làm thêm tối thứ Bẩy, Chủ nhật, cũng mua đầu video, tụi trẻ nhà tôi cuối tuần đến ông bà trẻ xem nhờ.
Sau Christmas 1983, cửa hàng khuyến mại, giảm giá nhiều, tôi mua chiếc Sanyo, có điều khiển từ xa, giá 500 bảng cho bằng chị bằng em. Cuối tuần thuê băng võ hiệp Lý Tiểu Long, Hong Kong, Cartoon cho trẻ. Mấy tháng sau, mua chiếc máy giặt mới cũng cửa hàng Comet, có đầy đủ chương trình giặt vắt, chiếc cũ cho ra bãi rác.
Cuộc sống năm gia đình chúng tôi cải thiện dần dần trong quá trình hội nhập.
(Còn nữa)
© 2009 Lâm Hoàng Mạnh


 BUỒN VUI ĐỜI TỴ NẠN VI  IX

Điều tôi quan tâm nhất là chuyện học hành của tụi trẻ. Con gái tôi đang học lớp 3/10 phải bỏ học (quen các thày cô và hiệu trưởng, đi học chưa đầy 4 tuổi), theo bố mẹ lang thang các trại tỵ nạn, thấm thoát gần 2 năm. Hai thằng bé, bắt đầu tuổi vỡ ruột, vì thế khi trại cho ra định cư, tôi nhận ngay, chỉ cần kịp ngày khai giảng. Trong cuốn Cẩm nang người tỵ nạn, chúng tôi có quyền từ chối 3 lần nếu không ưng căn nhà được cấp. Khi đến thăm khu Knightsridge, thật lòng không muốn, nhưng ngày khai trường sắp đến, đành nhận.
Tôi học hành đến nơi đến chốn, nhưng gian nan, ngắt quãng nhiều lần. Năm 1945, chuẩn bị lớp vỡ ruột, Cách mạng tháng Tám, khí thế hừng hực, học hành gì. Chị em tôi ở nhà, bá tôi kiêm luôn chức thày giáo. Năm sau, học được vài tháng, 12-1946, toàn quốc kháng chiến, nửa đêm tổ vệ quốc quân đóng gần nhà, kéo gia đình tôi chạy tản cư. Tiền bạc, đồ quý, chưa kịp lấy, họ bảo, nhanh lên, quân Pháp sắp tấn công, khi nào im tiếng súng, quay lại lấy chưa muộn. Cả nhà bồng bế dắt díu nhau, khăn gói tay nải, mỗi người vài bộ, cứ thế theo vệ quốc đoàn lùi dần, lùi dần về Chợ Hỗ. Hải Phòng rơi vào tay quân đội Pháp. Hết đường về, bà tôi bảo, thôi về quê. Tất cả về quê, xã Đại, An Dương, bản, tá túc, chờ qua cơn binh lửa. Ban đêm nông dân là Việt Minh; ban ngày cày bừa, ai hé răng có ý vô thành, đêm, có người bịt mặt đến thăm, ăn đạn liền. Sợ xanh mặt, chả dám ngo ngoe về thành.
Năm 1947, về Hải Phòng, tôi mới cắp sách đến trường. Cuối năm 1953, chú thứ hai đi chơi với em rể (chú rể Th.) loáng quáng thế nào, cả hai bị xe quân cảnh Pháp chặn ngang hai đầu phố, a-lê-hấp, lên xe bịt kín, tống vào trại. Nghe tin, cả họ đi tìm, gặp hai ông chú trong trại lính khố xanh Ngã Tư Lạch Tray, may ô quần đùi, đứng trong sân có hàng rào mắt cáo. Chỉ huy sợ trốn trại, dùng độc kế, quần đùi, áo may ô. Chịu, không thể trốn, thành lính bất đắc dĩ. Chú rể, cao to vào lính dù, về sân bay Cát Bi luyện tập, chú thứ hai tiếng Pháp khá, lính hậu cần, bán hàng trong căng-tin của trại. Cả hai chưa kịp ra trận, chưa cầm súng bóp cò, chiến tranh kết thúc. Nguỵ quân, thành phần nguy hiểm, trong danh sách sổ đen. Học tập, cải tạo mấy buổi, may mới binh nhất, lính mới tò te, chưa nguy hiểm, nhưng hễ căng thẳng, hai ông đều phải cắp quần áo lên khu phố tập trung, nhanh một đêm, có kỳ một tuần, cơm chính phủ nuôi, gia đình chịu, không biết tập trung (giam) ở đâu để thăm nom. Hai chú tôi bảo, ấy thế mà vui, toàn lính cũ tự nhiên được gặp nhau, bữa ăn còn có chút thịt cá, hơn cơm nhà. Từ ông chủ hiệu giầy, hiệu ảnh, chính phủ không cấp môn bài, đồ đạc bán ăn dần, xin việc chẳng ai nhận ngụy quân, đành mở quán bán nước mía, thạch găng, nước ngọt kiếm sống qua ngày. Ấy thế, quán bán nước cũng sập tiệm. Té ra thân nhân của một công an tiểu khu ghen ăn tức ở. Sao một phố có những hai quán bán nước, ế là phải, năm sau, cấp giấy phép mới, quán của ông bà dẹp. Không thể nhìn đoàn tầu há mồm 7 đứa con đói, ông đành mua chiếc xe xích-lô làm tắc-xi chở khách. Nghề cu-ly xe chẳng thằng nào con nào ghen ăn tức ở nữa. Có ông bạn quen, lên chức phó chủ nhiệm hợp tác xã bánh kẹo thành phố, họp ban chủ nhiệm, đứng ra bảo lãnh tư cách thân nhân, ông được nhận làm xã viên, đóng góp chiếc xích-lô, nhiệm vụ được giao, chuyên chở nguyên vật liệu, hàng hoá của HTX đến và đi các cơ sở. Lương bổng khoán theo sản phẩm. Tháng tháng thu nhập đều và cũng đủ “xăng” bơm mồm cả đoàn tàu 9 toa. Bà cô tôi, đàn em gái, nhân viên tổ đan len, ngày ngày cặm cụi đan đan lát lát, thêm dầu nhớt cho tàu trơn bánh. Cả nhà ông mừng, cả họ tôi mừng, thôi, thế cũng đỡ phơi mặt ra đường, đạp xe rong, hôm nhiều hôm ít như anh thả lưới bắt cá, thu nhập bấp bênh. Đời cu-ly xe, ấy thế ông vẫn giữ được phong độ ông chủ thời Tây. Bộ com-lê màu hạt giẻ, cà-vạt, áo trắng cổ cồn, giầy da ông tự đóng, đói mấy cũng cố giữ, bà cô tôi vẫn có chiếc áo dài nhung màu huyết dụ, chuỗi ngọc trai. Ngày Tết ông bà lại thắng bộ, nhớ lại thời hoàng kim, quên phận cu ly, mỗi năm được vài ngày, ôn kỷ niệm.
Nhà ông bà khá rộng, tầng dưới cho tổ đan len thuê, nghỉ hè 1964, tôi đến thăm, vừa bước chân vào cửa, thấy mấy chục phụ nữ ngồi duỗi dài, đan len tán gẫu, nhiều cô trẻ. Tôi hoảng, không dám nhìn, nghếch mắt ngó trần nhà, bước thẳng, chả biết cô nào tinh quái, thò ngay chân ngáng, tôi vồ ếch. Không đau, nhưng xấu hổ, cả hội cười, có lỗ nẻ, chắc chui liền. Bà cô tôi, nói, muốn làm cháu dâu phải thế nào, ai lại cho nó con ếch to thế. Từ đó tôi chỉ đến nhà ông bà vào buổi tối, ban ngày, cạch. Thanh niên thời ấy có câu “Cơm hàng cháo chợ, vợ tổ đan”, ngày nay được chuyển thành “Cơm hàng cháo chợ, vợ làm Nails”. Năm 1966, Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch thăm nơi sơ tán bệnh viện, y bác sĩ cùng lãnh đạo đưa Bộ trưởng thăm cơ sở, đến khoa dược, hơn chục nữ sinh dược tá thực tập, xếp hàng đón, không để ý, tôi lại bị một cô ngáng chân, loạng choạng suýt vồ ếch trước mặt Bộ trưởng. Cả đoàn chả ai dám cười, sợ phiền lòng Bộ trưởng. Trưởng khoa dược ghé tai, con H. đấy, cách tỏ tình sơn nữ, sợ gái dân tộc chưa.
Bà tôi sợ chú thứ nhất bị bắt lính, chuyển lên Sơn Tây, nơi vợ chồng cô thứ hai đang sinh sống. Tôi lại chuyển trường. Ngày 20-7-1954, Hiệp định Gènerve ký kết, tháng 6, 1955, lại quay về Hải Phòng bằng đường thủy. Tất cả vốn liếng có, mua bương, tre gỗ, nứa vừa làm bè chuyển nhà, vừa buôn gỗ luôn. Số giàu chấm hết khi đến Cầu Bo, Thái Bình, một trận bão cấp 12 đổ trực tiếp vào vùng biển Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định. Mười mấy chủ bè sạch sành sanh, tay trắng. Bè tan, gỗ, tre, nứa từng đống chân Cầu Bo, còn tất cả trôi mất ráo. Đau nhất, của nả trong két sắt chìm sâu dưới lòng sông. Thuê người lặn, gần 10 ngày, chịu, coi như của đi thay người.
Tay trắng, về Hải Phòng tìm nhà cũ, người thuê nhà không trả mà còn lý sự, cách mạng về rồi, khác xa thời đế quốc, thực dân. Ai ngờ ông này, Việt Minh nằm vùng, tuy là họ mạc xa, nhưng trở mặt. Thua. Bà tôi đành lấy tình dì cháu, nói sùi bọt mép, ông ta đồng ý mua, trả giá bằng 1/2 giá thực tại. Thế là may, không trả thì làm gì nó. Bây giờ, làm bí thư đảng ủy Nhà máy Xi măng, trước kia mỗi lần từ quê ra, cho ăn cho ngủ, nay cướp nhà. Thời thế đảo điên. Cải cách Ruộng đất đang nóng bỏng, con tố cha, vợ tố chồng, lộn tùng phèo. Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ. Tái ông thất mã. Gia đình tôi đang buôn bán (doanh nhân) khá giả, đột nhiên thành vô sản, giai cấp cần lao, thành phần nòng cốt, tin cậy của cách mạng. Tất cả vốn liếng, hoa tai dây chuyền, nhẫn vàng… của cả nhà góp lại, mua nhà trong ngõ phố Trại Cau, toàn dân tứ xứ, chả ai biết tông tích. Khai hộ khẩu, dân Sơn Tây chuyển về, nơi ấy di cư vào Nam hết, không thể mò ra nguồn gốc. Tất cả quá khứ giấu biệt. Hai ông chú, từ con đẻ biến thành con nuôi, con rể biến thành rể hờ, cô ruột biến thành cô (con) nhận. Đổi họ, thay tên, xóa mọi dấu ấn liên quan với người “xỏ nhầm giầy, theo Tây đánh Ta”. Lý lịch sạch băng, dân nghèo thành thị, mới được học trường y, lộ chuyện, bán thuốc ê, sấu dầm, bánh bao, kéo xe bò là cái chắc. Thương gia, doanh nhân thuộc thành phần xấu, lười lao động, phải cải tạo, không cho con em chúng lọt vào các trường trung cấp, đại học, cái nôi đào tạo cán bộ cho cách mạng.
Chính chính sách dở hơi này, con cháu địa chủ, tư sản, nguỵ quân, ngụy quyền (Pháp) không phải đi bộ đội, thanh niên xung phong, trong suốt thời gian chiến tranh chống Mỹ, sợ chúng vô Nam, hồi chánh, đầu hàng Việt Nam Cộng hòa. Con em bần cố nông, con cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức… đi bộ đội, thanh niên xung phong dài dài. Con em thành phần xấu an tâm làm cu-ly, phe phẩy (buôn bán chợ đen) chẳng sứt tí da, mất giọt máu nào! Mãi đến năm 1974, lính thiếu trầm trọng, con em trí phú địa hào, ngụy quân ngụy quyền (Pháp) mới được vinh dự nhập ngũ, nhưng con cái họ hết tuổi bắt lính, lũ cháu chắt, mũi còn thò lò, chưa đủ tuổi. Con chú thứ hai và con cô, cam phận làm cu ly bốc vếch, không bị đi bộ đội. Tuy nghèo nhưng sống khỏe re, không đui què mẻ sứt, năm 1979 theo chúng tôi, chốn đi Hong Kong, định cư London và Canada.
Nền giáo dục U.K nói chung, Scotland nói riêng có nhiều điểm khác biệt so với nền giáo dục Việt Nam. Nhà trường xếp lớp dựa vào lứa tuổi, không dựa vào trình độ học vấn. Tuổi nào vào lớp đấy, tránh tình trạng thằng lớn to xác ngồi chung bàn với đứa bé, gây lộn xộn, bắt nạt nhau. Việt Nam lại khác, đến nay vẫn vậy, to đầu đến đâu, trình độ lớp 4 vào lớp 4, không vậy, trò đông 50 đến 60 đứa, làm sao dạy nổi một lớp có 5, 6 trình độ học lực khác nhau. Lớp tiểu học ở U.K không quá 30 học sinh/ lớp, có 2 thày cô, giáo viên chính và trợ giáo, phương pháp giáo dục là phát triển tư duy của trẻ. Học sinh Việt Nam, máy chép bài, học vẹt, chương trình lan man, thiếu trọng tâm và thực tế. Ngoài ra còn có lò đào tạo “gà nòi” chuyên đi thi đoạt giải Olympia, lòe thiên hạ, một thứ phù hoa trang điểm lòe loẹt, che đậy nền giáo dục khập khễnh, yếu kém.
Người cộng sản Việt Nam bao giờ cũng tâm đắc với câu “Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích trăm năm trồng người” của cụ Hồ, nhưng chẳng bao giờ thực hiện. Người lãnh đạo chính phủ Vương quốc Anh, dù Công Đảng hay Đảng Bảo thủ cầm quyền, đều có chính sách quan tâm đặc biệt về giáo dục và đào tạo, không hề có một khẩu hiệu hay băng rôn nào quảng cáo “trồng người, trồng cây” như nhà nước cộng sản, nhưng chính sách trồng người của họ quả thật tuyệt vời. Xin giới thiệu vài nét chính:
  • Trẻ sơ sinh đến 5 tuổi con nhà nghèo được cấp phiếu sữa tươi/bột miễn phí
  • Trẻ mới sinh đến 16 tuổi, có Child Benefit, không kể gia đình giàu hay nghèo
  • Tất cả trẻ em từ 5 đến 18 tuổi đi học miễn phí
  • Cấp sách giáo khoa, vở, bút, đồ dùng học sinh, miễn phí
  • Con nhà nghèo, bữa cơm trưa miễn phí
  • Học sinh cấp tiểu học cấp miễn phí 250ml sữa tươi. (Năm 1987 bỏ tiêu chuẩn này.)
  • Bậc đại học và cao đẳng, sinh viên con nhà nghèo miễn phí, được trợ cấp sinh hoạt phí tối thiểu
  • Trẻ em từ sơ sinh đến 16 tuổi (học sinh) miễn phí tầu xe
  • Để khuyến khích học sinh học A levels, Six form College (từ 16 đến 18) chính phủ cấp 30 bảng /tuần trợ giúp sinh hoạt
  • Khám chữa bệnh miễn phí. Trẻ em từ sơ sinh đến dưới 16, người già trên 60 và người thất nghiệp, đi khám bệnh được cấp thuốc miễn phí.
Từ năm 1993, kinh tế suy thoái, cựu Thủ tướng John Major cải cách chính sách giáo dục và đào tạo nhu sau:
  • Nâng các trường cao đẳng (Polytechnics) lên đại học (Universities). Mục đích thu hút học sinh nước ngoài du học. Học phí và điều kiện nhập học các trường này thấp hơn nhiều so với các trường đại học cũ. Để phân biệt, người ta gọi các trường cao đẳng mới nâng cấp là New Universities. Hầu hết sinh viên du học Việt Nam hiện nay theo học các trường Đại học ở Vương quốc Anh đều là trường Polytechnic cũ, lý do học phí thấp và điều kiện nhập học rất dễ dàng. Cách phân biệt hai loại trường này, xin gợi ý: Tất cả trường đại học cũ có đủ các khoa ngành trong đó có khoa y và dược. Trường New Universities không có bộ môn này.
  • Bỏ chế độ cấp sinh hoạt phí cho sinh nghèo, sinh viên được vay ngân hàng lãi suất 0,02%. Sau khi ra trường có việc làm mới phải trả dần, số tiền rất tượng trưng theo thu nhập trong nhiều năm.
Có nước cộng sản nào trên thế giới từ xưa đến hôm nay đã làm được “cách trồng người” như chính phủ Vương quốc Anh không? Tôi có thể khẳng định chắc như đinh đóng cột là KHÔNG! Và không bao giờ xảy ra nếu chế độ cộng sản còn thống trị quốc gia đó.
Sung sướng quá, con nhà nghèo, con tỵ nạn Việt Nam có đường tiến thân trên con đường học vấn. Cơ hội trong tầm tay, không được bỏ lỡ.
Cấp I, tôi kèm tụi trẻ Toán, lên cấp 2 và cấp 3 (Secondary & High School) kèm cả Lý, Hoá, chính vì thế trẻ nhà tôi lực học khá hơn trẻ cùng lớp. Vợ tôi bảo, trồng rau mà không bón phân, tưới nước, bắt sâu nhổ cỏ, làm sao mà bội thu được. Chí lý chí tình, ngoài “bón phân, tưới nước”, tôi còn phải “bắt sâu, nhổ cỏ” có nghĩa là phải cảnh giác cao độ lối sinh hoạt, giao lưu bạn bè của tụi trẻ. Cả khi chúng đã vào đại học, không sao nhãng “bắt sâu, nhổ cỏ”. Quả trên cành, sắp chín dễ bị sâu cắn, gió lớn, mưa to vẫn rụng như thường.
Sinh nhật 18 tuổi hai thằng con, chúng mời bạn bè thân cùng lớp ở đại học, đa số con em triêu phú, tỷ phú nước ngoài, trong số đó có cháu G. con tỷ phú Indonesia, đi chiếc xe Jaguar thể thao mới cứng đỗ ở cửa. Chiếc xe thời điểm 1993 trị giá 65 ngàn bảng, tiền bảo hiểm xe 6 ngàn. Chà, chơi sang thật dữ, con tôi bảo, bố nó thuộc Top 10 giàu nhất nước Indonesia. Gặp gỡ, tiếp xúc, mọi chuyện thấy bình thường, riêng sức khỏe hom hem, da xanh, không thể hiện sự cường tráng của tuổi “bẻ gẫy sừng trâu” như con tôi. Chắc học nhiều nên gày yếu, còn thiếu ăn làm gì có. Hỏi thằng con, nó học khá không, cười, thường thôi. Bố mẹ mua căn hộ ở trung tâm London, trị giá 100 ngàn bảng từ 1990 (bây giờ tiền triệu), có cả người giúp việc cơm bưng nước rót. Tại sao lại hom hem?
Tìm hiểu, cậu cả có bồ (gái Nhật) sống chung như vợ chồng mấy năm nay, từ khi học Anh ngữ 2 năm, trước khi vào đại học. Sâu đấy, phải tránh xa. Tôi khuyên thằng con, tiên đoán nó sẽ lưu ban. Cuối niên khóa, quá nhiều môn thiếu điểm, lưu ban, xấu hổ, đi Mỹ học.
Con gái tôi có cô bạn Ấn Độ, bố là bác sĩ, học cùng trường private high school, đến chơi, hỏi, con tôi bảo, nó hay nghỉ, bà hiệu trưởng cảnh cáo nhiều lần. Tôi bảo, chấm dứt quan hệ, kết quả, cuối năm tú tài I nó bị đuổi.
Tôi là vị tổng tư lệnh tối cao của đàn con. Bảo không, là không, chấp hành nghiêm chỉnh, cấm cãi, cấm phản biện. Có uy lực mới dạy được con. Tôi đã sửa rất nhiều tật xấu, trong đó bỏ hút thuốc lá từ 1984. Bố hút thuốc làm sao mà cấm đàn con. Vừa tốn tiền, hại sức khỏe cho bản thân và cả nhà. Bỏ thuốc lá cũng gian nan, nói dễ, thực hiện khó. Tôi có ông bạn bỏ thuốc lá 10 năm, về Việt Nam 3 tháng, đến nhà thăm, ông lại phì phèo, hỏi, sao hút lại, hút chữa bệnh nấm da, hỏi thêm, ai nói với bác, mấy cậu em nhà tôi. Bà vợ phản biện, ông đừng đổ cho các cậu mà phải tội, ông đi bù khú lắm vào, thằng này gạ thuốc, thằng kia chê ông keo kiệt bủn xỉn không dám mua thuốc 3 số (555) đãi, chúng nó 1 điếu, ông cũng 1 điếu, bập lại có trời can. Đúng thật, trời can, ông vẫn phì phèo, ngày 1 bao 20 điếu. Hai thằng con trai ông, hơn hẳn ông một bậc, hút cần sa và nghiền đánh bạc máy, vào trại cai nghiện vài tháng. Đời tàn, học hành dở dang, làm xảo-voọc ở cửa hàng anh rể, thỉnh thoảng chị gái dúi ít tiền chơi bạc đỡ cơn nghiền.
Khu Knightsridge có 5 gia đình, con ông bà H. có thằng con 16, con gia đình P. H. V. có 4 thằng con, thằng lớn 17, kết tiếp 15, 13 và 10, nhà Móng Cái, con lớn 14, kế theo 10, 7… các cháu bé học primary, hầu hết sau hai năm theo kịp trẻ địa phương. Những cháu 16 trở lên, học College, thật cố gắng và hiếu học mới vào được cao đẳng, còn không làm xảo-voọc, bồi bàn. Sau này, dành dụm mở nhà hàng, Take-away, xưởng may. Đó là lý do vì sao sau 20 năm có nhiều nhà hàng của người Việt, xưởng may mọc lên như nấm ở Scotland, Midland, Wales, London, South England.
Nghề Nails phát triển ở Hoa Kỳ từ cuối thập niên 1980, nhập vào London năm 1995, phát triển mạnh từ 2000, thân nhân định cư bên Mỹ giúp đỡ, truyền nghề. Nghề Nails ở U.K đa số là người Việt nhập cư năm 1992. Những gia đình nhập cư 1980, thế hệ I đến nay đều có tuổi; thế hệ II đã tốt nghiệp đại học, công việc ổn định, nếu không vào đại học cũng có nhà hàng lớn nhỏ, ít ra cũng có Take-away đủ sống. Những gia đình ở Knightsridge, như P. H. V. có 3 nhà hàng lớn tại Edinburgh, gia đình anh S. cũng có nhà hàng ở East-Ham, em con chú tôi đứa nào cũng có nhà hàng to tướng hay xưởng may.
“Quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy”, đã nhập hội Cái Bang, bị gậy kiếm tiền nhanh nhất, hiệu quả nhất, xin chân rửa bát, phụ bếp, lao công, quét dọn… tại các cửa hàng ăn, cửa hàng đồ khô cho người Tầu. Chưa biết tiếng Quảng, người nọ giúp người kia. Phong trào học tiếng Quảng phát triển nhanh trong cộng đồng người Việt (cựu) gốc Hoa, chẳng cần ti-vi truyền hình quảng cáo, cộng đồng Hoa kiều mở lớp dạy trẻ em và người lớn ngày Chủ nhật, lớp đông, khác hẳn lớp tiếng Việt, lèo tèo dăm mống, tôi đã tham gia dạy năm 1987 ở quận C., London. Nhiều gia đình không nói tiếng Việt, vì miếng cơm manh áo, quyền lợi sát sườn, đi học tiếng Quảng đã thu hút họ như thứ nam châm cực mạnh. Cộng đồng Hoa kiều Vương quốc Anh khắp các quận phát triển nhanh, thu hút người (cựu) người Việt gốc Hoa tham gia.
Tôi ra định cư 09-9-1980, đúng dịp niên học 1980-1981 khai giảng (08-9-80). Ông bà Tom & Jenny Leach, hai người thày giáo Anh ngữ, bạn quý của gia đình từ 1980 cho đến nay, giúp tôi đi đúng hướng. Bà Jenny Leach bảo, sợ nhất chúng quên tiếng Việt, phải giữ bằng được ngôn ngữ dân tộc mình. Bắt chúng nói tiếng Việt với cha mẹ, nếu không, sau vài năm, tiếng Việt trở thành ngoại ngữ của nó. Hai ông bà từng là giáo viên dạy Anh ngữ nhiều năm ở Lục địa Đen, kinh nghiệm đầy mình dạy người nước ngoài.
Cám ơn bà Jenny Leach, bà trở thành giáo sư Đại học (Prof. Jenny Leach) Cambridge năm 2000, qua đời 10-2007, vì ung thư. Nhờ bà, các con tôi rất giỏi tiếng và chữ Việt, mặc dù hai thằng bé, khai ruột chúng là Anh ngữ. Prof. Elsa Davenport, giáo sư trường Stevenson College, người thày và cũng là người bạn của gia đình đã giảng giải cho tôi hiểu nền giáo dục ở Vương quốc Anh, điểm khác biệt giữa hệ thống giáo dục England và Scotland, thật quý báu, giúp tôi định hướng cho đàn con. Hàng năm, sinh nhật cháu nội ngoại của tôi, bà đều gửi quà.
Trẻ bắt đầu đi học vỡ lòng, tính theo ngày sinh, cháu nào sinh từ 03-9 bị thiệt, học muộn 1 năm so với cháu sinh 30-8. England học cấp 3 (High School) 2 năm, A levels, Scotland, cấp 3 có 1 năm (High levels), vì thế các trường đại học Scotland học 1 năm dự bị đại học. Lấy bằng cử nhân ở đại học England có 3 năm, ở Scotland 4 năm. Trong Top 10 của các trường đại học toàn Vương quốc Anh, Scotland có 2 trường, 8 trường còn lại thuộc England.
Trích The Sunday Post, tháng 1/1983
Trích The Sunday Post, tháng 1/1983
Sau ba năm, các con tôi đã theo kịp chúng bạn, riêng đứa con gái rất xuất sắc, thường được báo cáo điển hình. Bà Jenny, giáo viên Anh ngữ trường Dean Secondary & High School, nơi mà niên học 1984-1985 con gái tôi sẽ vào. Bà nói thật, chất lượng nhà trường thấp, nếu có điều kiện cho con thi vào trường tư thục (Private School) ở Edinburgh, đỗ điểm cao sẽ được học bổng (Scholarship), bà tin con tôi sẽ vượt qua kỳ thi sát hạch nếu nộp đơn.
Khốn nỗi, từ Knightsridge đến trường Secondary & High School ở Edinburgh xa gần 30 dặm, đổi hai xe bus xanh, chuyển 2 hay 3 xe bus đỏ, gần 12 tuổi làm sao đi học một mình được. Vợ tôi đi làm, so với lĩnh trợ cấp hơn khoảng 25 bảng /tuần, trừ tiền xe, ăn trưa, hơn đúng 15 bảng. Chủ hộ, tôi vẫn phải đi ký thất nghiệp hai tuần một lần, dù chẳng được một cắc, còn mất tiền xe bus. Tôi hỏi, họ bảo, không ký cũng được, nhưng nếu vợ mất việc, ký lại khó lắm. Đành chịu. Muốn chuyển nhà về Edinburgh hay London ít nhất phải có một hai ngàn bảng và kiếm được việc làm, không có việc chủ nhà không cho thuê. Họ không muốn dính dáng lôi thôi với sở thất nghiệp.
Mùa đông 1980, năm đầu tiên biết thế nào cái lạnh miền hàn đới. Năm ấy, theo người địa phương, rét nhất trong 10 năm qua. Gần lễ Giáng sinh, tuyết rơi dày đặc suốt ngày đêm, lò sưởi gas bật hết cỡ, trong nhà nhiệt độ lên được 25 độ C. Sáng hôm sau, mở cửa lấy chai sữa, một đống tuyết cao ngang thắt lưng đổ thẳng vào bếp. Tuyết dày gần 1 mét, đi cầu, giật nước không chảy. Hệ thống dẫn nước đóng băng, may chưa vỡ ống dẫn. Không có nước, tôi mang xô ra cửa xúc tuyết, đun lấy nước ăn uống, rửa mặt, đổ cầu tiêu. Tuyết tan ra, thế mà thật bẩn, đáy nồi đầy cặn. Đêm ấy, nhiệt độ -30 độ C. Dự báo thời tiết, rét còn kéo dài, vùng cao đề phòng bão tuyết. Trong khi đó nhiệt độ London ban đêm -10, ngày -3 đến -5 độ C, không có tuyết. Sướng chưa!
Hệ thống giao công cộng tê liệt, không xe bus, không tầu hỏa. Trường học, công sở, đóng cửa. Xe không chằng xích vào lốp không thể đi được, bánh xe cứ xoay tít trong tuyết. Tôi hà hơi nhiều lần vào cửa kính, đá dính cửa mới tan, lau kỹ nhiều lần mới nhìn thấy ngoài trời. Tuyết vẫn rơi tầm tã. Cả không gian chìm trong tuyết trắng, nhà trắng, đường trắng và vắng lặng. Buồn thúi ruột. Thỉnh thoảng một vài đứa trẻ, quần áo kín mít, tay mang tất, nắm từng vốc tuyết ném nhau. Nhìn mà lo, mùa đông nào cũng thế này, tính sao đây.
Hồi ở Việt Nam, thấy tuyết trên phim ảnh sao mà đẹp thế. Những bông tuyết trắng xóa, lả tả rơi trong không gian, trong phim, lính Nga còn tắm tuyết. Cởi trần trùng trục, vốc từng đống tuyết trắng, xoa xoa vào người, da ửng đỏ. Xem phim, tôi thấy tuyết thật đẹp, chắc không quá lạnh. Ao ước được du học hay du lịch, chỉ một lần thôi được hứng từng bông tuyết trắng muốt lả tả rơi nhẹ lên bàn tay mình. Giờ đây, tuyết đang rơi tầm tã, rét kinh hoàng, tê tái. Nghệ thuật và đời thực khoảng cách thật xa.
Tết Nguyên đán 1983, thật bất ngờ, vợ chồng P. H. V. báo tin, gia đình S. dọn về Bathgate, anh ta cho cả địa chỉ và số điện thoại. Cuối tuần, ra telephone box gọi điện hỏi thăm, mời đến chơi.
Nhà hai tầng, 3 buồng ngủ, đẹp, khang trang. Hơn một năm gặp lại, anh S. nói hết sự thật. Cả 4 gia đình Knightsridge làm chui trong các nhà hàng Take-away của Tầu từ cuối năm 1980, gia đình anh bị bà Smith dòm ngó nhiều quá. Nếu tiếp tục làm, sợ bà bẩm báo, đành về thuê nhà “David chó” ở tạm, ấy thế cũng mất hơn 6 tháng. Nhà này, tay chủ Take-away ở Bathgate xin cho đấy. Lão V., tay Dz., thằng C. con bà H. đều làm ở Bathgate, muốn làm không, xin cho. Cửa hàng bây giờ đông khách, cần người phụ phẹt làm với mình. Yên tâm đi, một đêm 12 bảng. Thế nào? Cô vợ anh S. nhanh miệng, bảo, kiếm chút đỉnh, chứ thật thà như ông bà, con cái khổ, chẳng ai khen. “Thật thà ăn cháo, bố láo ăn cơm.” Bà đi làm, có lĩnh thất nghiệp đâu mà sợ, ông đi học. Học quái gì mà lâu thế. Bây giờ tiền trên hết. Tôi bảo, khổ nỗi, càng học càng thấy dốt, anh hỏi đi, tay Mằn Phúng (Văn Phong) nhận, thứ Bẩy tôi đi làm với anh, tôi chả biết khỉ gì đâu. Yên tâm đi, anh em giúp nhau, có khó gì đâu. Công việc tả chạp, làm hành, làm gà… chỉ là biết liền mà.
Từ đó, thứ Bẩy, đón xe bus (xanh) đi Bathgate từ 3 giờ chiều, có hôm gần 1 giờ sáng Chủ nhật mới hết khách, tay chủ tiện đường đưa về nhà. Như vậy Take-away của tay Văn Phong có 3 thằng chúng tôi ở Knightsridge, anh S. bếp trưởng, anh P. H. V. phụ xào và tôi phụ phẹt. Ba thằng tỵ nạn vui như Tết, vừa làm vừa tán dóc. Tính ra nó trả có 0.80 bảng /giờ. Bọn Hong Kong mắng, chúng mày ngu, trả thấp thế mà cũng làm, hại cả chúng tao. Biết làm sao, tôi mỗi tuần làm có 1 buổi, kiếm 12 bảng ky cóp dần để chạy về London.
Năm 1983, P. H. V. lên tay nghề, sang cửa hàng khác làm bếp trưởng, tôi phụ xào, vợ tôi cũng tham gia thay chân phụ phẹt. Trẻ con 3 đứa, ở nhà một mình. Vừa làm vừa lo ngay ngáy, mỗi khi có chuông điện thoại ở cửa hàng là giật thót. Khách mỗi ngày một đông, tôi và nhà tôi tuần 2 buổi thứ Bẩy và Chủ nhật, tính ra, một tuần kiếm được 50 bảng bỏ hòm dành cho cuộc di chuyển về London.
Giữa năm 1983, chú Th. viết thư, có bạn quen ở London rủ về, chúng em về trước, có gì anh chị về sau. OK. Hai tháng sau, thư Th., em thuê được nhà, tháng 30 bảng/buồng. Kiếm được việc làm xưởng bánh mỳ. Anh chị có định chuyển, xuống chúng em thăm thú. Tuyệt rồi! Phải đi chứ.
Sau lễ Giáng sinh, tôi xuống thăm cô chú. Hai vợ chồng hai đứa con, lớn 5, bé 2  tuổi, thuê một buồng đôi. Tôi đến, may thằng chủ cho ngủ phòng khách. Đêm làm ngày nghỉ, chú bảo, thế mới có thời gian xin nhà, xin trợ giúp tiền nhà, vì lương thấp, chú dẫn tôi tìm nhà thuê. Đa số đòi đặt tiền cọc tối thiểu 1000 bảng. Tiền đâu ra. Trong tay cả hai vợ chồng hòm hòm gần ngàn, đặt cọc còn thiếu, tiền thuê van chở đồ, tiền ăn, tiền nhà hàng tuần lấy đâu ra. Cô L., vợ chú Th. bảo, chúng em cho vay tiền đặt coc. Cô chú thật chân tình, tôi không dám lợi dụng. Tôi bảo, thôi, khi nào chú xin được nhà, tôi thế buồng chú thuê, bây giờ cố làm thêm, dành tiền. Thế cũng được.
Năm 1983, con gái tôi, tỵ nạn Việt Nam, mới vào học 3 năm, không những theo kịp bạn bè mà còn học giỏi, xuất sắc mọi môn, nhất lớp, thường xuyên báo cáo điển hình. Chúng tôi mừng quá. Tay Văn Phong, chủ cửa hàng, có thằng con trai 15 tuổi đang học tư thục ở Edinburgh, xem report của nhà trường, bảo, sẽ giúp đưa con tôi đi học, nếu thi đỗ. Cộng đồng người Hoa rất đoàn kết và tận tình giúp nhau nơi đất khách. Cảm ơn tấm lòng thiện tình, nhưng không thể nào nhờ vả 7 năm học, phải đi bằng chính đôi chân của mình.
Bà Ruth Chenney, phu nhân Peter Chenney, nhạc công vĩ cầm, tốt nghiệp Học viện Âm nhạc Áo, 1976, sau khi bị tai nạn xe hơi, bà làm gia sư môn vĩ cầm và dương cầm. Năm 1982, ở Ladywell có người bán chiếc dương cầm cũ, 45 bảng, tôi hỏi bà, bảo, con anh chị thì tôi lấy học phí ½ một buổi. Bà thân chinh đến kiểm tra chất lượng đàn, thuê xe chở về. Hàng tuần con tôi đến nhà bà học, sau 3 tháng thi Grade I đỗ hạng ưu (distinction), đó là thứ hoa lá trang trí cho đời thêm xanh, học hết grade 8, cũng là lúc hết A levels, không vào viện âm nhạc, học ngành y, nối nghề cha mẹ.
Từ khi ra định cư, ông bà Tom & Jenny giúp tôi tìm mọi cách được trở lại nghề nghiệp. Anh ngữ chưa đủ, bằng cấp của Việt Nam, nhất là ở miền Bắc không được các nước công nhận, phải làm lại từ đầu. Tuổi đã ngoại tứ tuần, đào tạo 5 năm, quá tốn kém. Tôi hiểu, mặc dù thư của Hội Y học U.K trả lời động viên. Kiếm nghề khác thôi. Về London, gặp rất nhiều bác sĩ phía Nam cũng phải bỏ nghề, dù Anh ngữ rất giỏi.
Cuối tháng 5-1984, Chú Th. báo tin, được council cấp nhà, anh chị xuống gấp.
Ngày 16-6-1984, gia đình tôi chuyển về quận C., South East London, thuê lại buồng cũ của chú Th. Cuộc đời chúng tôi sang trang mới sau hơn 4 năm 2 tháng ở Scoltland.
(Còn nữa)
© 2009 Lâm Hoàng Mạnh



 BUỒN VUI ĐỜI TỴ NẠN  X



Đúng là ở nơi “cáo ho chim hót” hơn 3 năm, chả biết khỉ gì, một sáng Chủ nhật chúng tôi đi chợ trời Bathgate, rẽ vào thăm vợ chồng S., gặp anh chị Ph., chị gái anh rể S., chúng tôi biết nhau từ dạo ở Wishaw, sau vài câu chào hỏi xã giao, anh chị khoe sắp chuyển về London. Tôi chưa hiểu mô tê gì, bởi vì gia đình anh được định cư ngay Wishaw, không những thế còn sát trung tâm, vợ anh làm thợ may một xưởng gần nhà, thật lý tưởng, sao lại di chuyển. Anh Ph. bảo, rất nhiều gia đình đã chuyển, chỉ có các anh (chúng tôi) không biết. Tôi hỏi, về London nhà đâu mà ở. Xì, đúng là ngố, vào hostel, sau đó xin nhà council hay đập nhà. Lại còn thế nữa. Đập nhà? Ừ, đập nhà chứ sao. Cứ chọn nhà nào của council, không có người ở, đập cửa kính, chui vào, mở cửa trước dọn tất cả đồ đạc, chiếm, thế là xong. Nói nghe sao dễ vậy. Không bị truy tố à? Có, ra tòa, phạt 25 bảng, rồi nhà nước cho ở luôn. Thật không? Sao không thật, dối làm gì. Tụi tôi đang rủ vợ chồng S. đây. Có muốn chuyển không? Anh chị nói như chuyện đùa, làm sao vào được hostel. London có vài chục hostel đang ế khách, người đi trước giúp người đi sau, chỉ cần báo trước 1 tuần nó chuẩn bị ngay, nếu hostel này chật, nó giới thiệu sang cái khác, thiếu giống gì. Vợ chồng S. cười, chúng mình ở đây chả biết mô tê gì, gia đình H., gia đình Đ, gia đình L. ở Trại Thỏ chạy về tháng trước rồi, có thư gửi đây. Ph. đưa tôi xem. Chịu không hiểu, trời trăng, mô tê gì. Anh chị Ph., có cả giấy buồng thuê hostel, gồm 7 giường đơn, bố mẹ già, 3 con nhỏ, tiền thuê 150 bảng/tuần. Tiền ai trả? Đã bảo Sở Xã hội trả mà. Sao mỗi người một giường? Ô hay, nhà trọ mỗi người một giường, có phải hotel đâu. Vẫn chưa hiểu, thế giường chiếu, tủ lạnh, máy giặt… của mình để đâu? Có kho để tạm, khi nào ra nhà riêng chuyển đi. Không nấu nướng gì? Làm gì có bếp, mua thức ăn bán sẵn, rẻ mà. Cố chịu một thời gian, có nhà riêng tính sau. Các ông đúng là dân Mán, dân “Cơm đồ nhà gác…” chả hiểu gì sất.
Tất cả những gì anh chị Ph. cho biết ngoài sức tưởng tượng, tôi Mán thật. Mán là phải, tôi đã từng ở trong làng bản người dân tộc địa phương khá lâu, hai lần sơ tán, gần 5 năm trong núi cao rừng thẳm, làm sao mà chẳng Mường, Mán. Nơi mà dân gian có câu: “Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới”, phong tục tập quán như thế nào, xin dẫn chứng.
Sau khi nộp hồ sơ và từ chối “thiện tình của đồng chí phó bí thư Đảng ủy”, tôi được cô nhân viên trong phòng tổ chức hành chính đưa đến tá túc một gia đình người dân địa phương trong thời gian đợi bệnh viện làm xong lán trại. Đó là căn nhà sàn của người Mường, khá rộng, lẩn trong bìa rừng, ngày họ sơ tán vào rừng sâu, dựng lều ở tạm, gọi là Chuội, lặn mặt trời mới về. Thời bấy giờ dân miền xuôi còn nghèo huống chi cuộc sống của người nông dân miền núi vùng sâu vùng xa. Dân ở đây rất nghèo, tháng ba, ngày tám năm nào cũng đói, lũ lượt kéo vào rừng đào củ mài (hoài sơn), củ vớn, ăn thay cơm. Củ mài rất khó tìm, đào được, một gốc dăm kí-lô, củ mài ngon, đông y gọi hoài sơn, cả nhà đỡ đói dăm hôm. Củ vớn chát xít, gọt vỏ, nạo nhỏ, ngâm nước một ngày cho đỡ chát, đem đồ chín, chát và khó nuốt nhưng còn hơn bụng đói. Người dân xóm Th. thời bấy giờ vẫn còn mang nhiều tập tục hái lượm, không trồng rau, ra khỏi nhà, bao giờ cũng đeo gùi, có “chỏ” (giỏ) hay màn (giỏ cua) đeo bên hông. Gặp bất cứ rau rừng, măng, mộc nhĩ, nấm… ăn được đều hái cho vào gùi, cua đá, cá, ếch, nhái, ốc suối… bắt được bỏ vào “màn” hay “chỏ”, đem về nấu làm canh (món ăn). Bữa ăn gồm cơm, canh; canh là những món ăn như thịt cá, rau, đậu, thậm chí chỉ có món canh hổ lốn nấu bằng tất cả thứ rau hái, cua, ốc… trên đường lên nương, đi củi, ra ruộng. Một lần tôi đem cơm tập thể về, vừa đúng bữa cơm chiều của mế B., gia chủ, mời ngồi ăn chung, nể quá đành mang cạp-lồng đựng suất cơm góp mâm, mế gắp cho miếng măng. Trông thật ngon lành, cắn vào, chao ôi, đắng hơn ký ninh, nuốt không nổi, lúng búng mãi, đành lấy khăn mùi-xoa vờ lau mồm, nhè vào. Hỏi, măng gì thế mế, mế cười, măng đành hanh, măng tuy đắng, ăn bổ và mát lắm. Mát hay bổ cũng chịu, đắng quá, mướp đắng, hoa đu đủ đực, tôi cũng hàng luôn.
Nhà sàn nơi nào cũng na ná giống nhau, chỉ khác sàn, liếp che xung quanh, bằng gỗ hay bương tre nứa. Bình thường cột nhà bằng cột gỗ rừng, ngâm suối khá lâu để tránh mọt, chân cột kê đá, sàn cao hơn đầu người, có hai cửa lên xuống, cửa chính cho đàn ông và cho khách, cửa sau dành cho phụ nữ lên xuống bếp, sạp phơi quần áo… Nhà giàu, ghép ván gỗ, ba gian 2 trái, gian giữa bếp lửa bập bùng ngày đêm hoặc có chiếc đèn dầu tim bấc vặn thật nhỏ, giữ lửa. Nhà nghèo, một gian 2 trái, liếp nứa, sàn bương, mái tranh, đêm thanh vắng, ai cựa mình hay dậy đi đâu đều nghe tiếng cọt kẹt. Gầm sàn thường buộc trâu bò, chuồng gà chuồng gia súc và chứa củi khô, đại để đó là nhà kho hầm bà làng. Nhà khá giả, có tấm gỗ bằng chiếc giường đôi đặt lên sàn, không kê niễng, phản tiếp khách, xung quanh có cửa vóng (cửa sổ), cửa này dành cho chủ nhà đàn ông, đàn bà (vợ, con gái, con rể) không được ngồi sát cửa vóng. Ban đêm trải chiếu lên sàn, thành giường ngủ, vợ chồng có buồng riêng sát cửa sau, ngăn cách bằng bức liếp. Nằm trên sàn, có khi nằm ngay trên lưng trâu, mùi hôi và tiếng thở phì phò dưới lưng, tìm chỗ khác thật khó, không được nằm chắn ngang lối đi.
Được hai tuần, đang đêm khuya nghe tiếng thanh la, mõ gõ liên hồi, choàng tỉnh, tôi hỏi cậu B., gì thế, bảo, cọp về bản. Tiếng thanh la, mõ đuổi cọp bên trại nuôi trâu bò xóm H. còn gì nữa. Cả nhà tỉnh, lửa bếp bùng sáng, cửa trước cửa sau, cửa vóng buộc chặt, cài thêm then. Mế B. kể chuyện cọp, cho tôi xem một vệt sẹo dài gần 20 cm ở lưng, sâu hoắm, bảo, cọp cào đấy. Đêm ấy, cọp về bản, hồi ấy mới đôi mươi, mế ngủ say, móng cọp luồn qua khe sàn bương, cào qua chiếu, mất hẳn mảng thịt lưng dài, đắp thuốc hàng tháng mới lành đấy. Động rừng, cọp về bản bắt trâu bò, lợn thường xuyên. Mế tiếp, nhiều cọp lắm, từ khi chính phủ làm đường 12B (1960), cọp sợ tiếng mìn phá đá, chạy sâu trong rừng, bây giờ ít rồi. Nghe chuyện, thót tim, dựng tóc gáy, sởn da gà, đêm không dám đi đâu một mình. Một lần, đang đẩy xe đạp lên dốc, thấy ngay bên cửa rừng có biển thông báo nước sơn còn tươi, cọp xuất hiện tuần trước, sợ quá, đạp xe một mạch leo dốc. Tới đỉnh, thở không ra hơi, trời lại nhập nhoạng tối, đành ngủ nhờ anh bạn ở hạt kiểm lâm, không dám đi đêm qua đường rừng. Ấy thế, tôi chưa gặp cọp, báo, gấu bao giờ mặc dù mấy năm sau, dám vác súng hai nòng, theo người địa phương đi săn đêm.
Nhà kiểu này có nhiều tiện lợi:
-  Sàn nhà bằng bương hay gỗ, ban đêm giải chiếu, thành giường;
-  Tránh được thú dữ, trăn, rắn… bò vào;
-  Gầm sàn, chuồng trâu bò, lợn gà, chứa củi… kho tổng hợp mà chủ nhân có thể theo dõi quản lý dễ dàng;
-  Tất cả đất cát, bụi bặm, rác trên sàn… quét ngay qua khe, xuống gầm, tiện lợi.
Nhà người Mán khác, nửa sàn nửa đất, tạm bợ, phải chăng người Dao (Mán) ở vùng cao hơn, sống du canh du cư, nhà làm sơ sài, không kiên cố?
Nhà người Thái to rộng hơn nhà người Mường, mái tranh rất dầy, từ 30 cm trở lên, khác mái tranh người Mường mỏng. Thái có Thái Trắng và Thái Đen, không phải vì màu da, khác nhau chút ít về họa tiết hoa văn váy áo. Người Thái Trắng ở Sơn La, Điện Biên, Thái Đen ở Mai Châu, Hòa Bình. Điệu múa xòe nguồn gốc của người Thái, lang người Mường lập đội xòe cải biên đôi chút, giúp vui cho nhà lang dịp lễ Tết, quan châu sang thăm.
Nhà người Mông (Mèo) Mai Châu, mỗi thung lũng có một xóm (bản) dăm nhà, nhà đất rất to, xung quanh toàn ván đẽo bằng dìu, ghép lại, không cửa sổ, có một cửa ra vào, ván toàn gỗ lát hoa, lát chun, cột nhà sến, táu, trai, lim, toàn gỗ quý hiếm, trăm năm cũng không mối mọt. Lợn, gà, bò… thả rông, lẩn quẩn quanh sân, thấy người, ùa theo đòi ăn, đuổi cật lực mới có lối mở cửa. Nhà tối om, mờ mịt khói bếp, vài phút, quen bóng tối mới nhìn thấy rõ. Giữa nhà, bếp lửa bập bùng ngày đêm, trên bếp có giàn phơi ngô bắp, hong thịt. Món thịt sấy khô này là món đặc sản của người Mông, khách quý mới đãi. Thịt nấu xong, gắp bỏ mồm, mùi ám khói nồng nặc, mùi thum thủm của thịt ôi tiết ra, ói muốn chết. Người Mông trồng cây thuốc phiện (anh túc), ngô, món ăn chính hàng ngày là ngô xay đồ chín, gọi là mèn mén, thịt sấy và cây anh túc non làm rau. Người Mông ăn nhạt, ngày xưa thiếu muối, đốt cỏ gianh, lấy than thay muối.
Nhà nào cũng vài ang to chứa nhựa thuốc phiện sống, vài héc-ta nương thuốc phiện, ông già hầu hết nghiện, có người dậy từ 3, 4 giờ sáng hút 30 điếu, 9, 10 giờ sáng mới đã cơn. Đàn ông săn bắn, đàn bà con nít lên nương, cạo mủ quả thuốc phiện. Váy áo đều tự dệt, nhuộm, cắt, khâu thêu lấy. Thời ấy, miền Bắc có hai khu tự trị, Tây Bắc và Việt Bắc, chính sách ưu đãi người dân tộc, đặc biệt Dao, Mông, không phải đi nghĩa vụ quân sự, trồng và hút thuốc phiện không bị bắt như ngày nay, chỉ cần cai thuốc là được vào Đảng. Phải chăng ưu đãi để người Mông Việt Nam không theo người H’Mông Lào do tướng Vàng Pao làm thủ lãnh, ngay sát biên giới? Hiện nay tướng Vàng Pao định cư ở Hoa Kỳ.
Con trai Mông thổi khèn, giai điệu cứ í lên ộ xuống, cao thấp như đường về bản lên đèo xuống dốc, quần đen rộng ống, thắt dây rừng, áo hở rốn, tay áo vân hoa từng vòng từ khuỷu xuống cổ tay. Rượu ngô uống bát, không biết say. Gái Mông dậy thì khá sớm, mười lăm, mười sáu má đã ửng hồng, như trái đào rừng chín, mắt sắc như dao, thổi kèn lá, kèn môi tìm bạn tình mỗi khi xuống chợ phiên.
Nhà nước thu mua thuốc phiện làm thuốc giảm đau trong y tế. Lái xe, con buôn vào bản mua chui, dân bán xong, đi tắt đường mòn qua dẫy núi đá nhanh hơn xe ô tô đi đường quốc lộ, báo công an huyện, chờ lĩnh thưởng. Hơn 90% con buôn bị cảnh sát tóm gọn, nhẹ chung thân, nặng dựa cột. Lãi quá lớn, 50 đồng/ kg về Hà Nội 2500 đồng /kg, biết chết vẫn ham.
Đó là hai xã Hang Kia, Pà Cò nơi tôi đã đến 2 lần 1968, 1971. Bây giờ, du khách khắp nơi đổ về, con gái Mông nói tiếng Anh như gió, điện thoại thuộc hàng độc, nhiều trẻ da trắng, mắt xanh mũi lõ, tóc vàng lác đác trong các bản ở Sa Pa như phóng sự báo VietNamNet đưa tin.
Khách đến nhà người Mường, đa số không giày dép, trước khi lên cầu thang phải rửa chân, gáo bằng đoạn nứa cưa ngắn, cán tre, mỗi lần múc nước, khách khua thành ang, tiếng gõ báo có khách. Chân sạch, bước theo từng hòn đá dẫn đường, đưa khách lên nhà.
Rất may nhà mế B. chỉ có hai mẹ con, cậu con trai khoảng 17, nhanh nhẹn, vui tính, ngày vào chuội trốn máy bay Mỹ, đêm mới về nấu ăn, ngủ coi nhà, cho trâu, lợn gà ăn.
Lần đầu tiên ra suối tắm, con suối khá rộng, nước ngang ngực, trong vắt, nhìn rõ cá bơi tung tăng, từng hòn đá to nhỏ dưới đáy. (Xin nói thêm, nước suối thường có con tấc, một loài vắt cực nhỏ, như sợi lông, bám rêu đá, ai vô tình vốc nước rửa mặt, vốc phải, con tấc nhanh chân chui vào mũi, làm tổ bám ngay xương cuốn, hút máu để sống. Mỗi năm, khoa Tai Mũi Họng bệnh viện tôi gắp được vài con trong hốc mũi bệnh nhân. Có con gắp ra, to, bằng đỉa hẹ, bé, bằng vắt cụ, rất nguy hiểm.) Tìm được bụi khá kín đáo, nhìn trước nhìn sau không có ai, mặc quần lót, xuống tắm. Nước mát rượi, quên hết chuyện bực mình với lão phó bí thư. Từ xa tiếng líu lo, cười đùa của sơn nữ từ lối mòn ven rừng vọng xuống, ngửng nhìn, bốn cô gái trẻ, váy áo Mường, đi lên đầu suối, cách chừng 5, 6 mét, lội dần xuống. Nước đến đâu các cô nâng váy cao đến đó, tới đỉnh đầu buộc túm lại, đội lên đầu, ngâm mình xuống dòng suối trong. Tôi ngượng quá, lần đầu tiên gặp sơn nữ tắm khỏa thân ngay trước mặt. Các cô thật vô tư, coi như chẳng có chuyện gì, còn tôi vô tư sao được. Đối với người thày thuốc, ai cũng học giải phẫu cơ thể người, hàng ngày tiếp xúc với bệnh nhân, có gì là bí mật đâu. Nhưng đây là những cô gái tuổi trăng tròn, tất cả ngồn ngộn một tòa thiên nhiên trước mặt, làm sao mà không cảm xúc. Tôi vội trườn dần xuống phía dưới về phía bụi kín, nơi để quần áo, không dám thay, mặc cả quần ướt. Bước ra đường cái, đã thấy ngay bốn cô đi về phía tôi. Cả bốn cô tươi cười, líu lo tiếng Mường, trong như chim hót. Thấy tôi ngơ ngác, chẳng hiểu, bốn cô cười rũ rượi, một cô nói tiếng Kinh:
“Chào cán bộ, cán bộ mới về công tác phải không?”
Đi chậm lại, chờ, tôi hỏi:
“Chào các cô. Sao các cô biết tôi mới về?”
Bốn cô lại ôm nhau cười:
“Chúng em biết hết các cán bộ ở đây mà.”
“Các cô đi đâu đấy?”
“Chúng em họp dân quân về.”
Tối hôm ấy, trăng sáng vằng vặc, tôi ra kho hợp tác, nơi “đóng quân” của các gia đình bệnh viện, ngồi xuống bực thềm, nghe hát đối đáp của trai gái bản, tiếng hát vang giữa đêm thanh vắng dội vào vách đá, như tiếng vọng của núi rừng.
Ti no, mả vọi mả vang
Chan đap phái đà, chan quang phái day
Thung thang nhu chung en đay,
Chang đap phái đà, chang day nao quang
(Đi đâu mà vội mà vàng,
Chân đạp phải đá, chân quàng phải dây,
Thủng thẳng như chúng em đây,
Chẳng đạp phải đá, chẳng dây nào quàng.)
Dân ca Mường
Chẳng hiểu gì, tôi vẫn ngồi đến khuya. Sáng hôm sau, chi D., y tá có tuổi, bảo, cả đêm, mấy cô tỏ lời với chú, chú có hiểu không? Hiểu sao được, các cô hát tiếng Mường, chịu. Tình sơn nữ trong sáng như thế đó. Thích ai, tỏ liền, đến nơi đến chốn, chẳng vòng vo, hết ngoại thành vào phố cổ, gái Hà Thành vẫn lặng thinh. Hễ anh cán bộ nào tán tỉnh, dính vào, hôm sau khoe cả xóm, chạy đằng trời. Cô nào cũng thích cán bộ, người xuôi. Con trai Mường, Mán thích con gái xuôi, hỏi, tại sao thích, bảo, đít nó có gân! Con gái xuôi mặc quần lót, đôi khi thấy rõ. À ra thế!
Mỗi gia đình người Mường đều có một dụng cụ để đồ cơm, đồ xôi, bằng gỗ thân cây mềm, khoét rỗng ruột, đáy có vỉ tre, đổ gạo không lọt, phía dưới đẽo thắt một chút, tạo dáng, nẹp tre vòng quanh hai đầu khỏi nứt. Chõ đồ, gọi là cốp, nồi đáy bằng đồng thau, gọi là viềng. Ngày xưa nấu cơm họ đồ, không nấu như ngày nay, sợ nhão hay khô.
Suối thường xa nhà, tránh mùa lũ, không có thùng gánh, cắt từng đoạn bương, 4 đến 5 đốt, đục xuyên ruột, một đầu cắt vát, làm ống lấy và đựng nước. Nước đầy, vác về đổ vào ang hay vại to, ống bương dựng quanh nhà.
Giỗ Tết, mổ lợn, không cạo lông, dù cạo, vẫn đốt lửa thui như thui chó. Món lòng, cho thêm đỗ xanh vào dồi tiết, như dồi chó.
Người Mường tính ngày âm lùi 1 ngày so với lịch âm miền xuôi, đêm 30, giao thừa, bảo, 29, thực ra họ cũng vẫn cúng giao thừa và ngày mồng 1 Tết. Lý do vì sao, tôi chịu không biết. Có phải ngày xưa người Mường có lịch riêng, nay đã thất truyền? Còn tháng tới (sớm 1 tháng) tôi không thấy làng bản nào thực hiện.
Câu ca “Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui tháng tới” là như vậy.
Hostel theo đúng nghĩa là thứ nhà trọ rẻ tiền, mạt hạng, dành cho những người nghèo lỡ độ đường, khách du lịch không ai bước chân tới. Không biết ai làm “quân sư” vạch đường đã giúp tỵ nạn Việt Nam vào tạm trú các hostel này. Chủ hostel tính đầu người, giường, chứ không tính theo phòng. Nhà 7 người, phòng rộng, kê 7 giường đơn hoặc 2 phòng 7 giường. Vải trải giường, gối đệm cũ rích, hôi mù, chẳng ai dám dùng, toàn lấy của nhà ra thay. Quần áo, chăn màn đem ra tiệm tự giặt. Một hostel mèng ra cũng chứa được 40 chục người lớn bé, già trẻ. Tất cả “khách trọ” đem thẻ ký thất nghiệp (U40) trình, chủ hostel sẽ giúp điền form, chỉ nơi đến ký tiền thất nghiệp và nộp form xin tiền trợ cấp. Chuyện lớn, ấy thế lại thật dễ dàng bởi chính sách của nhà nước U.K hồi ấy ưu đãi người thất nghiệp, kẻ vô gia cư. Cái bất tiện ở hostel ai cũng giấu biệt, đó là sự lộn xộn, xô bồ của một đám đông tứ xứ, vô tổ chức, chủ hostel chỉ biết thu tiền, còn chuyện trật tự trị an, chúng mày tự quản. Chính vì lẽ đó, thư từ, séc (cheque) tiền trợ cấp gửi, thường bị kẻ xấu lấy cắp, kiện cáo cãi nhau loạn xạ. Buồng ở như nhà hoang, ra vào đều dễ dàng, như các A tỵ nạn Hong Kong, mất đồ có giời tìm, bởi vì hầu hết người sống trong hostel có người quen ở ngoài, lấy cắp gửi nhà bạn, ma biết. Vì thế, buồng ở chẳng có gì đáng giá ngoài chiếc ti vi màu, máy thu thanh cát-sét, tiền và đồ trang sức giấu kỹ, lấy sao được.
Tôi gọi điện hỏi, chú Th. xác nhận, thông tin của anh Ph. đúng 100%, Port Glasgow, Glasgow và các vùng phụ cận, dân tỵ nạn chạy về London từ năm 1983, đa số vào hostel “tránh bão”, Th. bảo, tiện mà không tiện, hay mà không hay, chán ở trại, bây giờ lại chui vào “trại tỵ nạn” lần nữa, chịu sao thấu, con cái học hành ra sao, bạn em, dân Hà Nội, trước ở gần nhà, cũng chạy về, đi làm báo thuế, thuê nhà riêng, được council giúp một phần tiền nhà, đang đợi list, 6 tháng, lâu nhất 1 năm sẽ được nhà.
Ắn cỗ đi trước, lội nước đi sau, vợ chồng S. chưa đi, xem tình hình anh chị Ph. xuống hostel ra sao và xem tôi chuyển về theo hướng của Th. như thế nào. Mỗi tuần, bỏ túi 120 bảng, vẫn lĩnh tiền trợ cấp, nhà cửa đàng hoàng, vừa mua xe hơi, second hand trông còn khá lắm, máy chạy ngon ơ, tại sao phải rủ nhau chui vào hostel xô bồ, lộn xộn hay phải đi làm báo thuế, è cổ đóng tiền nhà.
Tháng 4-1984, truyền hình BBC1 phát chương trình về người tỵ nạn Việt Nam sống trong các hostel ở London, lộn xộn, bẩn thỉu, so sánh với người tỵ nạn ở Mỹ cuộc sống khá ổn định, khu Tiểu Sài Gòn nhiều siêu thị ra đời. Xem mà thấy ớn. Khi về London gặp những người sống trong hostel, họ vui như Tết, đâu có như phóng viên BBC đưa tin. Hàng tuần lĩnh trợ cấp, ngày làm chui ở các xưởng may, ví mỗi ngày một căng, đói mua Chinese Take-away, fish & chips, khát có Coca, Pepsi, Lager, vừa ăn vừa xem film Hong Kong, Đài Loan, đời vui phơi phới. Con cái đi học hả? Lo gì, chỗ nào mà chả có trường, trường nào cũng giống nhau. Học gì lắm, làm vương làm tướng gì ở đất này, lĩnh trợ cấp, làm chui sướng chán, mai kia có tiền mở xưởng may, nhà hàng. Tiền là Tiên là Phật. Có tiền có tất tần tật.
Số người đập nhà cũng khá nhiều, đa số gia đình có bố mẹ già, đông con nhỏ mới đủ gan. Hỏi một ông, có thâm niên đập nhà, cho chính ông và hai người bạn, sau 25, ông cười, bảo, hồi ấy em ở Liverpool, thằng bạn rủ em xuống, cho ở tạm, tìm nhà council bỏ hoang đập. Vợ chồng em đưa hai đứa bé xuống, đứa lớn ở lại với ông bà. Thằng bạn chỉ điểm, đêm, kiếm hòn gạch, em choang luôn cửa sổ phòng khách, cậy cửa chính, thằng bạn về bào, vợ con em thuê taxi, dọn va-ly, túi xách vào ở. Hôm sau, thằng bạn dẫn đi thuê chữa kính, thay khóa cửa, dắt lên sở xã hội xin ký thất nghiệp, khai địa chỉ nhà đập. Cụ em vẫn ở Liverpool, phòng khi bị đuổi, có chỗ về. Hơn tháng sau ra tòa, em bị phạt 25 bảng, nhưng tòa cho ở vì không thể đuổi con em ra ngoài đường. Tuần sau, đón cụ xuống, bỏ luôn Liverpool. Tôi hỏi, sao anh lại đập 2 cái nữa làm gì? Ấy, thằng bạn cũng ở Liverpool, xuống nhờ, nó sợ, em đập liền, chui vào trong, mở cậy cửa chính. Thế là xong. Không sợ ra tòa à? Ai biết em đập mà tố, tố chăng nữa em chối biến. Hồi ấy, dễ ợt, gặp anh chị, chắc em dám đập hộ, ít người đi làm thuê nhà tư như anh chị lắm. Tốn kém và chờ nhà council lâu, hàng năm chứ ít à.
Chuyện ùn ùn chuyển vào hostel và đập nhà, là lý do có thể trả lời vì sao ở London này có nhiều quận rất đông gia đình người Việt. Bởi vì hostel đa số ở quanh khu đó, council phải giải quyết nhà càng sớm càng đỡ gánh nặng chi trả hostel. Quận Hackney, Lambeth (Brixton), Camberwell, Peckham… mỗi khu có tới hàng ngàn người Việt. Riêng khu Deptford, Greenwich, Woolwich, đa số người Việt nhập cư vào Anh từ 1992. Mỗi khu có nhiều mini-market của người Việt, bán đồ khô Việt Nam, Thái, Tầu, nhà hàng, xưởng may, trong đó có Mare Street, Hackney, gần như down-town của người Việt ở London.
Những năm 1978, 79 người Việt gốc Hoa bỏ Việt Nam chạy tán loạn, về ông nội theo đường biên giới, chạy qua Hong Kong theo đường biển, nay cũng thi nhau chạy về London, ồn ào, sôi động, hễ gặp nhau là bàn chuyện chuyển hay không chuyển.
Chú thím tôi có tuổi, hơn nữa cuộc sống cũng ổn định, cái chính ông bà không có tiền, cả nhà bảo, thôi anh chị về trước, tình hình ra sao chú thím tính sau. Tôi quyết tâm, lý do tránh mùa đông giá rét và vì học hành của tụi trẻ.
Chiều 15-6-1984, đưa vợ con ra bến xe coach Livingston-London Victoria kèm theo bản đồ, địa chỉ nhà chủ. Tôi quay lại Linsay Way dọn đồ lên xe. Lại thuê xe David, lý do, không biết ai ngoài David, dân xế xe van chuyên chuyển hàng đường dài và từng ở London gần 5 năm, thông thuộc đường và giá mềm.
Đồ đạc chuyển gồm: giường, 2 tủ đứng, máy giặt, tủ lạnh, ti-vi, bàn viết, bàn ăn, quần áo chăn màn, nồi niêu bát đĩa… xếp chưa đầy chiếc van loại trung. Bếp gas, thảm, các thứ lặt vặt… tặng luôn anh chàng da đen Kenya, ở Morison Way, làm kỷ niệm. Khu Knightsridge còn lại 3 gia đình, P.H.V., L.V.Dz. và ông bà H. Chia tay, không hẹn ngày tái ngộ. Gia đình Ph. ở Fife cũng xuống, anh chị mua nhà riêng từ đầu năm 1981, không dễ gì chuyển đi, ở đó đến nay.
Mười hai gia đình cùng đến Coltnees House, còn 4, ba nhà chuyển đến Edinburgh mở Chinese restaurant hoành tráng.
Tiễn tôi, ông Peter Chenny theo xe về London. Xếp xong đồ trời đã xẩm tối, David bảo, đường xa đi đêm nguy hiểm, đêm ấy nghỉ tại nhà David. Cửa ngoài đóng chặt, cửa sổ mở toang, đêm không khí trong lành và mát mẻ ùa vào, ấy thế tôi và Peter vẫn ngạt thở, không tài nào nhắm mắt. Peter lắc đầu, chịu, không hiểu sao có người ở bẩn đến vậy. Hy vọng xe chạy, ngủ bù.
Hai giờ chiều 16-6-84, xe đến, vợ con tôi và cô chú Th. đợi từ trưa. Tôi và chú Th. mừng mừng tủi tủi ngày tái ngộ. Chúng tôi đã về London, kinh thành hoa lệ cổ kính của thế giới, nơi mà chúng tôi chưa bao giờ dám mơ ước được sống và lao động.
(Còn nữa)
© 2009 Lâm Hoàng Mạnh




 BUỒN VUI ĐỜI THUYỀN NHÂN VII


 

No comments: