Tuesday, October 20, 2015

PHẠM BÁ HOA * HỔI KÝ CHÍNH TRỊ III


 MỤC LỤC


Lời trần tình
Lời nói đầu
Một. Đảo Chánh ngày 01/11/1963
-Đảo chánh Ngô Đình Diệm
Hai. Đảo Chánh ngày 30/01/1964
-Đảo chánh Dương Văn Minh
Ba. Biểu Dương Lực Lượng ngày 13/09/1964:
: Dương Văn Đúc, Huỳnh Văn Tồn
Bốn. Đảo chánh ngày 19/02/1965
- Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo
Năm. Quân Đội Lãnh Đạo Quốc Gia từ ngày 19/06/1965
-Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ
Sáu. Khủng Hoảng Chính Trị từ ngày 09/03/1966
-Nguyễn Chánh Thi
Bảy. Vài Sự Kiện Quan Trọng
:Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân”
Tám. Những Tháng Cuối Cùng 01- 04/1975
Tỉnh Phước Long thất thủ
Tỉnh Darlac thất thủ
Rút bỏ Cao Nguyên
Chín. Những Ngày Cuối Cùng 21--28/04/1974
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức
Di tản
Tổng Thống Hương bàn giao cho Đại Tướng Minh
Trước Giờ Thứ 25
Mười .  Giờ thư 25

KẾT



CHƯƠNG  VIII

HỒI KÝ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA: NHỮNG THÁNG CUỐI CÙNG CỦA CUỘC CHIẾN 1954-1975







1 2 3 4 5 6 7 8 9 10


Tỉnh Phước Long thất thủ ngày 7 tháng 1 năm 1975.


Tỉnh Phước Long ở phía Bắc Đông Bắc Sài Gòn, sát biên giới Việt Nam-Cam Bốt, là một trong những tỉnh được thành lập dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong chiến lược phòng thủ quốc gia. Nơi đây là vùng đất chuyển tiếp của địa hình cao nguyên cuối dãy Trường Sơn xuống đồng bằng miền Nam. Vì vậy mà Phước Long núi không cao, rừng không rậm rạp như rừng già Cao Nguyên. Cư dân hầu hết là người miền núi thuộc nhiều bộ tộc khác nhau. Thời thực dân Pháp cai trị, địa phương này có cái tên mà bất cứ người dân bình thường nào cũng khiếp đảm khi nghe đến, đó là trại tù Bà Rá.



Sự ra đời của tỉnh Phước Long và tỉnh Bình Long trong phạm vi lãnh thổ Quân Đoàn III/ Quân Khu III, do quan niệm của Tổng Thống Diệm chuẩn bị chống chiến tranh xâm lược của cộng sản miền Bắc dưới tên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Bởi theo Hiệp Định Đình Chiến mà thực dân Pháp, cộng sản Liên Xô, cộng sản Trung Hoa, và cộng sản Việt Nam ký ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Genève, Thụy Sĩ, thì hai năm sau đó -tức năm 1956- sẽ tổng tuyển cử thống nhất Nam Bắc, nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã chánh thức công bố là không chấp nhận tổng tuyển cử vì chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa không ký vào Hiệp Định đó. Mà thật ra, trong tình hình lúc bấy giờ, nếu tổng tuyển cử thì nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có cơ hội chiến thắng trong cuộc bầu cử đó, có nghĩa là khối Tự Do do Hoa Kỳ lãnh đạo nói chung và Việt Nam Cộng Hòa chúng ta nói riêng, bị trúng kế của khối cộng sản do Liên Xô lãnh đạo. Và như vậy, Việt Nam chúng ta từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau sẽ bị cộng sản cai trị bằng chế độ độc tài từ đó. Hẳn là Tổng Thống tin rằng nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam sẽ bắt đầu chiến tranh xâm chiếm Việt Nam Cộng Hòa, mà bước đầu là một lực lượng lên đến hằng chục ngàn cán bộ do chúng cài lại miền Nam bằng cách sống chen lẫn trong gia đình, hay trong đồng bào nông thôn miền Nam khi chúng tập kết chuyển ra Bắc theo Hiệp Định Đình Chiến qui định. Đây sẽ là lực lượng nòng cốt gây chiến trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chúng ta.


Mục tiêu thành lập các tỉnh tại những vùng mà trong cuộc chiến tranh giữa Pháp thực dân với Việt Minh cộng sản 1946-1954 mà quân Pháp không kiểm soát được, để có các cơ quan hành chánh lẫn quân sự hoạt động vừa bảo vệ dân vừa ngăn chận quân cộng sản thiết lập hạ tầng cơ sở cho cuộc chiến tranh ước tính là rất có thể sẽ xảy ra. Một đoạn trên quốc lộ 14 từ thị trấn Chơn Thành thuộc tỉnh Bình Long, chạy ngang thị trấn Đồng Xoài -tức quận Đôn Luân- thuộc tỉnh Phước Long lên hướng Đông Bắc sẽ đến tỉnh lỵ Ban Mê Thuột của tỉnh Darlac. Ban Mê Thuột được xem là thủ phủ Cao Nguyên Miền Trung. Từ đây thẳng lên hướng Bắc sẽ đến Plei Ku, và tiếp tục thêm khoảng 40 cây số nữa sẽ đến Kon Tum, tỉnh cuối cùng của quốc lộ 14 trên dãy Trường Sơn. Do vậy mà tỉnh Phước Long có tầm quan trọng về mặt chiến lược quân sự lẫn chính trị trong chiến tranh chống cộng sản, một loại chiến tranh mà nhà cầm quyền không dễ gì nhận ra địch quân vì chúng sống trà trộn trong đồng bào, thậm chí là chúng có thể chen vào trong các cơ quan nữa.


Từ khi vùng rừng núi này trở thành tỉnh, dân số gia tăng dần lên với số người từ Sài Gòn cũng như các tỉnh khác đến đây khai phá đất ba-dan trồng các loại cây kỹ nghệ, và buôn bán làm ăn với đồng bào sắc tộc. Tuy chưa phải là nhộn nhịp như các tỉnh vùng đồng bằng Cửu Long hay dọc miền duyên hải, nhưng cũng tạo được bộ mặt đầy đủ của một tỉnh lỵ cũng như các thị trấn quận và xã.


Đầu năm 1957, quân cộng sản gài lại trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa -nhiều nhất là các tỉnh cực Nam đồng bằng Cửu Long- bắt đầu quấy rối trên toàn lãnh thổ. Lúc ấy, tỉnh Phước Long cũng trong tình trạng như vậy. Những năm đầu, hoạt động của cộng sản tập trung vào phạm vi kinh tài và đấu tranh chính trị với những cuộc biểu tình lẻ tẻ ở nông thôn, hoặc vùng ngoại ô các thị trấn hay tỉnh lỵ, phản đối những cuộc hành quân bình định, hoặc yêu sách những tên cộng sản bị bắt. Cuối năm 1960, quân cộng sản bắt đầu hoạt động với lực lượng du kích cấp Trung Đội trang bị thô sơ, và từng bước chúng tiến lên hoạt động cấp Đại Đội.


Trong những năm 60, lực lượng cấp Trung Đoàn, rồi Sư Đoàn, được cộng sản Liên Xô và cộng sản Trung Hoa trang bị nhiều loại dụng cụ chiến tranh được xem là thế hệ mới. Từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phía Bắc vĩ tuyến 17, luồn theo dãy Trường Sơn xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, và thực hiện những trận đánh cấp Trung Đoàn vào đầu những năm 70. Cho đến tháng 3 năm 1973, lực lượng cộng sản quanh quẩn trong vùng rừng núi của Phước Long và các tỉnh lân cận lên đến cấp Sư Đoàn, nhưng chưa làm gì được Phước Long. Rồi ngay sau ngày Hiệp Định Paris (tháng 3 năm1973) có hiệu lực, quân cộng sản vẫn tiếp tục chiến tranh, có nghĩa là chúng ngang nhiên vi phạm Hiệp Định này.


Ngày 13 tháng 12 năm 1974, một đơn vị có thể là cấp Tiểu Đoàn trở lên, tấn công quận lỵ Đôn Luân, vị trí án ngữ quốc lộ 14 lên Ban Mê Thuột hay xuống Bình Long, và liên tỉnh lộ 1 lên Phước Long, bị quân trú phòng đẩy lui. Nhưng cuộc tấn công kế tiếp thì Đôn Luân thất thủ. Sau đó, một lực lượng khác của cộng sản đánh chiếm quận Bố Đức (?) với quận Đức Phong (có thể tôi nhớ không chính xác về tên Quận). Một lực lượng của Sư Đoàn 5 Bộ Binh được Bộ Tổng Tham Mưu điều động tăng cường tỉnh lỵ, trong khi yểm trợ hỏa lực không quân được tập trung cho Phước Long, kể cả điều động từ Sư Đoàn 4 Không Quân ở Cần Thơ tăng cường.


Cuộc tiếp tế cho các đơn vị hành chánh, quân sự, lẫn đồng bào trong tỉnh lỵ trở nên khó khăn, thậm chí là rất khó khăn vì quân cộng sản sử dụng nhiều lực lượng nhỏ phục kích nhiều ngày mà chúng gọi là “đóng chốt” tại các đoạn đường hiểm trở dọc theo đường liên tỉnh số 1 dẫn lên tỉnh lỵ. Tình trạng này làm cho công tác chuyển vận các loại tiếp liệu bằng đường bộ không sử dụng được, trong khi tiếp tế bằng phi cơ rất hạn chế từ sau khi Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam theo qui định trong Hiệp Định Paris. Trong cùng thời gian, quân cộng sản pháo kích mạnh vào phi trường Lai Khê -nơi hoạt động rộn rịp của Sư Đoàn 5 Bộ Binh tiếp viện Phước Long- và phi trường Sông Bé, tỉnh lỵ Phước Long.


Ngày 24 tháng 12 năm 1974, chiếc trực thăng Chinook 47 chở chuyên viên từ Sài Gòn lên tỉnh lỵ Phước Long sửa chữa chiếc phi cơ vận tải C.130 bị hư đang nằm tại phi trường ngoại ô tỉnh lỵ, sau khi chở tiếp tế thực phẩm và nhiên liệu đến nơi. Lượt về, chiếc Chinook 47 đã bị hỏa lực phòng không của quân cộng sản bắn hạ sau khi cất cánh chưa đầy 5 phút. Các phi tuần khu trục phản lực A.37 được điều động từ Sư Đoàn 4 Không Quân ở Cần Thơ lên tăng cường yểm trợ hỏa lực cho lực lượng phòng thủ Phước Long, một trong số các phi công phản lực A.37 -Thiếu Tá Trần Quốc Tuấn- đã nói với tôi rằng:


“… Em chưa bao giờ gặp hỏa lực phòng không dày đặc bố trí chung quanh tỉnh lỵ Phước Long. Phải nói rằng, một lưới lửa đỏ cả một vùng rộng lớn đã gây trở ngại đáng kể cho các phi tuần khu trục yểm trợ Phước Long …”


Ngay ngày đầu năm 1975, quân cộng sản pháo kích khá mạnh vào căn cứ không quân Biên Hòa, để ngăn chận những phi tuần khu trục của Sư Đoàn 3 Không Quân cất cánh yểm trợ Phước Long. Cũng trong những ngày đầu năm 1975, các đơn vị cộng sản gia tăng áp lực chung quanh tỉnh lỵ với lực lượng ghi nhận là cấp Sư Đoàn, đặc biệt sự ghi nhận về lực lượng phòng không của chúng rất mạnh. Đang trong tình hình hết sức nguy hiểm cho lực lượng trú phòng, thì sự bất đồng quan niệm hành quân giải tỏa Phước Long giữa Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Quân Đoàn III/Quân Khu III, với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong phiên họp tại Phủ Tổng Thống, Trung Tướng Đống xin tăng cường lực lượng tổng trừ bị nhưng không được chấp thuận. Xin nói thêm, lực lượng tổng trừ bị dưới quyền điều động của Bộ Tổng Tham Mưu, gồm: Sư Đoàn Nhẩy Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, và Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân.


Sự bất đồng quan điểm này, tôi nghĩ, không phải là vấn đề lớn đến nỗi gây bất bình cho Trung Tướng Dư Quốc Đống. Ông từng là Tư Lệnh Sư Đoàn Nhẩy Dù, từng được Bộ Tổng Tham Mưu tăng cường cho Quân Đoàn I, Quân Đoàn II, trong những tình hình chiến sự tại đó, chắc ông dễ dàng thông cảm với Bộ Tổng Tham Mưu khi sử dụng lực lượng tổng trừ bị. Về phía Quân Đoàn III, xin thì ông cứ xin, nhưng còn chấp thuận hay không còn phải tùy thuộc tình hình khắp các Quân Đoàn mà chỉ Bộ Tổng Tham Mưu mới nắm vững. Trong thời gian Phước Long bị tấn công gần như toàn tỉnh, thì tình hình tại Quân Đoàn I và Quân Đoàn II cũng không phải là yên tỉnh, và cho dù có yên tỉnh đi nữa thì Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu là cơ quan có trách nhiệm cập nhật hoá “bản nghiên cứu và ước tính tình báo” cung cấp thường xuyên cho vị Tổng Tham Mưu Trưởng về tình hình tại các vùng lãnh thổ các Quân Đoàn trách nhiệm. Nghĩa là vị Tổng Tham Mưu Trưởng, lúc nào cũng theo dõi thấu hiểu tình hình quân sự khắp nơi trên lãnh thổ.


Chỉ nhìn từ bên ngoài thôi, lực lượng trú phòng vùng giới tuyến phải luôn luôn trong thế sẳn sàng chống trả những cuộc tấn công của một lực lượng cộng sản nhất thiết là mạnh hơn các vùng lãnh thổ khác, vì bất cứ lúc nào chúng cũng có thể từ bên trên vĩ tuyến 17 xua quân tràn xuống tấn công chúng ta. Có lẽ vì vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu tăng cường dài hạn cho Quân Đoàn I, cả lực lượng của Sư Đoàn Nhẩy Dù lẫn Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, trong khi Phước Long bị mất một số Quận nhưng vẫn không đưa ra quyết định rút một phần lực lượng tổng trừ bị từ Quân Đoàn I về tăng viện cho Quân Đoàn III, ắt phải có nguyên nhân chính đáng, trừ khi có nguyên nhân sâu xa nào đó đằng sau quyết định của Tổng Thống không chấp thuận đề nghị của Trung Tướng Tư lệnh Quân Đoàn III.


Theo lời của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu nói lại trong buổi họp tham mưu của Tổng Cục Tiếp Vận, thì Trung Tướng Dư Quốc Đống xin từ chức ngay trong buổi họp tại Phủ Tổng Thống, nhưng Tổng Thống không chấp thuận. Lý do mà Trung Tướng Đống xin từ chức, theo lời của cựu Đại Tướng Cao Văn Viên thì sau khi trình bày tình hình quân sự tại Phước Long là ông xin từ chức ngay vì ông tự thấy không đủ khả năng.


Vậy, sự thật là Trung Tướng Đống xin từ chức trước khi hay sau khi Tổng Thống không chấp thuận tăng cường lực lượng cho Phước Long theo đề nghị của Trung Tướng Dư Quốc Đống? Nếu Trung Tướng Dư Quốc Đống xin từ chức trước khi Tổng Thống không chấp thuận tăng cường lực lượng giải tỏa áp lực cộng sản tại Phước Long, thì tại sao ông không từ chức trước khi Phước Long thật sự bị áp lực của quân cộng sản mà chờ đến lúc Phước Long nguy ngập mới xin từ chức với lý do không đủ khả năng giải quyết tình hình trong vùng trách nhiệm? Chẳng lẽ ông sợ chiến trường Phước Long? Còn nếu Trung Tướng Dư Quốc Đống xin từ chức vì không được Tổng Thống tăng cường lực lượng, tôi nghĩ, cũng không nên. Tại sao? Tại vì có thêm quân thì tiếp tục làm Tư Lệnh, không có thêm quân thì xin nghỉ, mà là xin nghỉ trong khi Phước Long với hằng chục ngàn quân lẫn dân, viên chức lẫn cán bộ các ngành, đang trong tình trạng gần như hấp hối, nỡ lòng nào xin từ chức để không còn trách nhiệm với hằng chục ngàn con người bằng xương bằng thịt mà ít ra trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III, ông đã có đôi ba lần được Họ đón tiếp để nghe ông ban những huấn lệnh!


Xin nhắc lại là tôi rất ngưỡng mộ Trung Tướng Dư Quốc Đống, lúc ông là Chuẩn Tướng, thành viên trong Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt họp ngày 8 và 9 tháng 7 năm 1966 tại Bộ Tổng Tham Mưu, để giải quyết 5 vị Tướng liên quan đến sự kiện khủng hoảng miền Trung từ ngày 9 tháng 3 (1966) đến 15 tháng 5 năm 1966. Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống đã dõng dạc nhận mình là người bỏ phiếu trắng, có nghĩa là riêng ông không chống lại Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi dù ông công nhận Trung Tướng Thi đã có lời phát biểu cũng như những hành động sai trái trong sự kiện khủng hoảng đó. Lý do mà ông trình bày vì ông kính trọng Trung Tướng Thi là bậc Thầy của ông. Đồng thời ông xin Hội Đồng quyết định về chức vụ Tư Lệnh Nhẩy Dù của ông.


Nhưng sao bây giờ lại như vậy? Chẳng lẽ một vị Tướng, lại là vị Tướng trong binh chủng Nhẩy Dù mà sợ trận chiến Phước Long này sao? Hay là đằng sau của lời xin từ chức của ông, có điều gì uẫn khúc?


Tôi nghĩ, cho dù Tổng Thống có chấp thuận hay không chấp thuận về đề nghị của ông xin tăng viện cho Phước Long, ông cũng không nên từ chức. Nói cho cùng, cho dẫu trận chiến Phước Long có đưa ông vào ngõ cụt, ông vẫn phải dấn thân. Đơn giản, vì ông là Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn III, mà một phần lãnh thổ trách nhiệm của ông đang trong tình thế nguy ngập!


Đến ngày 7 tháng 1 năm 1975, toàn tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản!


Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù là một trong những đơn vị rất tinh nhuệ của quân đội, đã phải băng rừng tháo chạy với tổn thất khá nặng, vì được Bộ Tổng Tham Mưu tăng cường vào lúc tỉnh lỵ lâm nguy nhất. Với lại cho dù thiện chiến đến đâu đi nữa, thì quân số của Liên Đoàn đặc biệt này cũng không sao chống nỗi một địch quân đông vào khoảng 2 Sư Đoàn, cho nên trong trường hợp này sự thất bại trong nhiệm vụ của Liên Đoàn là điều không thể tránh được. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy trưởng, đặc biệt nổi danh trong trận chiến khốc liệt mùa hè 1972 trong nhiệm vụ phòng thủ tỉnh lỵ An Lộc thuộc tỉnh Bình Long. Hồi ấy, báo chí gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa 1972” để chỉ 3 mặt trận chính: Đông Hà/Quảng Trị, Tân Cảnh/Kon Tum, Lộc Ninh với An Lộc/Bình Long, và mặt trận phụ là Hà Tiên/Kiên Giang. Cả 3 mặt trận chính đều do những Sư Đoàn quân chính qui của cộng sản từ lãnh thổ nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trên miền Bắc tràn xuống tấn công.


Trận chiến “mùa hè 1972” này làm tôi nhớ lại vào những năm cuối của thập niên 50, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang từ cấp Tiểu Đoàn là cao nhất, được tổ chức lên đến cấp Trung Đoàn, Sư Đoàn, rồi Quân Đoàn. Trang bị thống nhất với toàn bộ dụng cụ chiến tranh do Hoa Kỳ cung cấp. Lúc bấy giờ là năm 1958, sau khi tôi học xong khóa Đại Đội Trưởng tại chi nhánh Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt trở về Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 35/Sư Đoàn Khinh Chiến 12 đồn trú ở Catecka, cách thị xã Plei Ku khoảng 8 cây số về phía Nam. Lại dự khóa huấn luyện bổ túc Đại Đội Trưởng tại Kon Tum do Ban Cố Vấn Sư Đoàn Khinh Chiến 12 tổ chức trong 3 tháng. Xong khóa học, tôi chuyển lên Bộ Chỉ huy Trung Đoàn 35, giữ chức Trưởng Ban 3 kiêm Trưởng Ban 5 Trung Đoàn. Toàn bộ Sư Đoàn Khinh Chiến 12 gồm Trung Đoàn 34, Trung Đoàn 35, và Trung Đoàn 36, cùng các đơn vị yểm trợ đang trong giai đoạn cuối của chương trình huấn luyện, và chuẩn bị vào chương trình hành quân thao dượt để Bộ Tổng Tham Mưu trắc nghiệm kết quả huấn luyện.


Cuộc hành quân thao dượt diễn ra trong phạm vi tỉnh Kon Tum theo quốc lộ 14 xuống Plei Ku, với tình hình giả định là vào thời gian nào đó, quân cộng sản từ bên trên vĩ tuyến 17 mở cuộc tấn công vào Việt Nam Cộng Hòa với 2 mặt trận chính: mặt trận thứ nhất là vượt sông Bến Hải tấn công vào Đông Hà và Quảng Trị, mặt trận thứ hai là từ lãnh thổ Cam Bốt -sườn Tây Việt Nam- tấn công vào Dak To và Kon Tum. Trung Đoàn 34 và Trung Đoàn 35 Bộ Binh, có nhiệm vụ “trì hoản chiến” từ mặt trận Kon Tum xuống Plei Ku trong khi chờ lực lượng tổng trừ bị tăng cường phản công. Còn Trung Đoàn 36 Bộ Binh là lực lượng trừ bị của Sư Đoàn. Lúc ấy, các sĩ quan tham mưu chúng tôi cho rằng, quan niệm về một tình hình giả định như vậy là không thực tế với chiến trường Việt Nam, vì sở trường của quân cộng sản là đánh du kích, có quá lắm là lên đến vận động chiến cấp Trung Đoàn thôi.


Nhưng 14 năm sau, tức năm 1972, chiến trường đã diễn ra gần đúng như tình hình giả định trong cuộc hành quân thao dượt của Sư Đoàn Khinh Chiến 12 vào năm 1958 vậy.


Trở lại tình hình hậu Phước Long! Trong buổi chiều cùng ngày 7 tháng 1 năm 1975, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, mời tất cả các đơn vị trưởng trong phạm vi Quân Trấn Sài Gòn và vùng phụ cận đến câu lạc bộ/Bộ Tổng Tham Mưu, để nghe ông tóm tắt diễn biến tình hình toàn tỉnh Phước Long, và ông nói rằng: sự thất thủ của tỉnh này -Trung Tướng Khuyên không nói là điều may, mà ông nói- là giảm đi cái ung nhọt trên cơ thể, vì với khả năng không vận hiện này mà chiến trường Phước Long cần đến thì Bộ Tổng Tham Mưu không thể thỏa mãn nỗi. Câu kết của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, đã làm cho cả hội trường gần như đồng thanh “ồ” lên một tiếng, và tiếp đến là những âm thanh xì xào mà tôi chắc là các cử tọa đang bất mãn về lời sau cùng của Trung Tướng Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu. Chính bản thân tôi cũng nhận thấy Trung Tướng Khuyên đã không chuẩn bị trước cho buổi họp này, nên đã nói một câu tuy ngắn ngủi nhưng làm đau lòng những chiến sĩ trú phòng cũng như tiếp viện Phước Long còn sống sót, và làm tổn thương vong linh những chiến sĩ đã ngã xuống cho sự sống còn của Phước Long!


Xin nói thêm rằng, ngoài 4 năm phục vụ trong văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, tôi có gần 7 năm phục vụ dưới quyền trực tiếp của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, thường khi bàn thảo với ông về những quan niệm cùng những kế hoạch cải tiến ngành Tiếp Vận, và qua đó, tôi nhận thấy Trung Tướng Đồng Văn Khuyên là vị Tướng rất có kinh nghiệm trong nhiều lãnh vực hoạt động của quân đội, và một số lãnh vực về kinh tế. Mỗi khi ông đề cập đến vấn đề nào thì ông diễn đạt được những gì ông nghĩ, nhưng có điều là ông nghĩ đến đâu trình bày đến đó chớ không hoàn toàn tuần tự từ A đến Z, nói chung là không mạch lạc. Ông vừa có kinh nghiệm và vừa có nét nhìn xa về tương lai của quân đội, nhưng là nghiêng về quản trị con người, quản trị hành chánh, quản trị tiếp vận, hơn là về chiến lược chiến thuật. Chẳng hạn như chương trình cải tổ sâu rộng về tổ chức và điều hành trong toàn ngành Tiếp Vận trong năm 1973-1974, ông đã dám nghĩ và dám làm trong hoàn cảnh vừa tái tổ chức vừa yểm trợ, và bước đầu được đánh giá là thành công. Nét nhìn xa của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên được thể hiện trong Quỹ Tương Trợ Và Tiết Kiệm Quân Nhân, mà tôi trình bày ở một đoạn trong chương bảy.


Vì Trung Tướng Khuyên nghĩ sao thì nói vậy, nói một cách chân thành về những điều mà ông nghĩ, nên tôi và những sĩ quan tham mưu trong Tổng Cục Tiếp Vận có mặt lúc bấy giờ, hiểu và thông cảm về câu nói mà lẽ ra ông không nên nói, cho dẫu điều ông nói có là sự thật đối với khả năng của Bộ Tổng Tham Mưu cũng vậy. Tôi có nghe nói đến “chứng lapsus” và được giải thích rằng, khi người nào có chứng này thì trong những lúc bất chợt “lời nói thường là không đúng như điều đang nghĩ trong đầu”. Không biết có phải Trung Tướng Đồng Văn Khuyên trong trường hợp này vào buổi chiều ngày 7 tháng 1 năm 1975 trong câu lạc bộ Bộ Tổng Tham Mưu hay không?


Đúng là khả năng chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị suy giảm, nhưng không phải suy giảm đơn thuần do tinh thần chiến đấu của Quân Nhân, mà do những nguyên nhân khách quan, trước mắt là khối lượng dụng cụ chiến tranh vào hàng tối tân do 500.000 quân Đồng Minh sử dụng, đã bị Hiệp Định Paris đẩy ra khỏi chiến trường Việt Nam. Đó là khối hỏa lực mà quân cộng sản từng khiếp đảm, bỗng dưng không còn nữa! Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang đánh giặc theo “kiểu nhà giàu” hay ít ra cũng là “dựa hơi nhà giàu”, nay đánh nhau theo “kiểu nhà nghèo” thì ảnh hưởng đến tinh thần Quân Nhân là điều khó tránh khỏi!


Phải chi những vị lãnh đạo của chúng ta -nhất là thời Trung Tướng Nguyễn Khánh 1964- có bản lãnh chính trị vững vàng, biết đâu có thể đã thuyết phục được đồng minh Hoa Kỳ, thay vì đưa quân sang Việt Nam thì họ nhiệt tình giúp chúng ta các loại chiến cụ để chính chúng ta chiến đấu cho đất nước chúng ta, thì chính nghĩa trọn vẹn trong tay chúng ta. Trong trường hợp đó, rất có thể không có cái “Hiệp Định Paris 1973 kỳ cục”, cùng với “sự bảo đảm cũng kỳ cục” của 13 quốc gia và tổ chức Liên Hiệp Quốc, chỉ nhằm hỗ trợ cho quân cộng sản đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng ta. Đó là một thứ bảo đảm không công bằng, bởi vì khi quân cộng sản vi phạm Hiệp Định, thậm chí khi chúng xua quân chính qui từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tràn xuống vĩ tuyến 17 đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, cũng chẳng có thành viên nào trong con số 13 thành viên đó phản đối cả!


Sau đó, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn thay thế Trung Tướng Dư Quốc Đống, trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III.


Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, tháng 12 năm 1974, bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân Đoàn II cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, vì theo Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, Trung Tướng Toàn bị tố cáo tham nhũng. Trước đó, trong thời gian giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh đồn trú tại Quảng Ngãi, Trung Tướng Toàn đã bị báo chí nói đến như là một Tướng Lãnh có quá nhiều tai tiếng không tốt. Nhưng sau khi rời khỏi Sư Đoàn 2 Bộ Binh, ông được Tổng Thống cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Plei Ku. Sau khi bàn giao Quân Đoàn II, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn nhận chức Chỉ Huy Trưởng Binh Chủng Thiết Giáp. Và tháng 2 năm 1975, từ Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp, ông nhận chức Tư lệnh Quân Đoàn III.



*****


Tỉnh Darlac thất thủ


ngày 13 tháng 3 năm 1975.


Tết Nguyên Đán đầu năm 1975, quân nhân và công chức nghỉ chiều Ba Mươi Tết và trọn ngày Mồng Một Tết, thay vì nghỉ 3 ngày rưỡi như mọi năm, vì tình hình nghiêm trọng sau khi toàn tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản ngày 7 tháng 1 năm 1975.


Trưa Mồng Hai Tết, nếu như ngày thường thì rất đông sĩ quan nhà xa dùng cơm trưa tại câu lạc bộ Bộ Tổng Tham Mưu. Nhưng bữa ăn trưa hôm nay, chỉ có Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, tôi -lúc bấy giờ là Tham Mưu Trưởng/Tổng Cục Tiếp Vận- và Thiếu Tá Nguyễn Văn Tấn, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Khuyên. Vì dù cho tình hình có thế nào đi nữa, trong mái ấm gia đình vẫn còn hương vị ngày Xuân, nên hầu hết các sĩ quan về nhà dùng cơm với gia đình.


Với nét mặt thật buồn, Trung Tướng Khuyên lên tiếng phá tan sự yên ắng trong khoảng không gian trống rỗng của câu lạc bộ:


“Tôi nghĩ, chắc mình mất nước thật quá anh!
“Tại sao Trung Tướng nghĩ vậy?
“Anh nghĩ coi, có vấn đề hạ tuổi hoãn dịch trong các tôn giáo để có thêm một số thanh niên nhập ngũ, mà Thủ Tướng trình lên Tổng Thống, rồi Tổng Thống đẩy xuống Thủ Tướng, không vị nào dám nhận trách nhiệm vì sợ đụng chạm đến tôn giáo”.


Ngưng một lúc, ông tiếp với giọng thật nhỏ:
“Đã không đặt vấn đề thì không nói làm chi, mà khi đã thành vần đề thì phải thực hiện đến nơi đến chốn vì là vấn đề quốc gia mà, chớ dở dang như vậy chỉ làm mất uy tín của người lãnh đạo thôi”.


Khi nêu câu hỏi với Trung Tướng Khuyên là tôi muốn nghe ông giải thích thêm, chớ thật ra thì trong một chừng mực nhất định, tôi hiểu được câu ông nói. Chuyện như thế này: Nhân lễ Giáng Sinh, tối 24 tháng 12 năm 1974, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên tổ chức bữa ăn thật đơn giản ở phòng trên lầu của câu lạc bộ/Bộ Tổng Tham Mưu, với các thực khách sau đây:


Trung Tướng Đồng Văn Khuyên và phu nhân.
Thiếu Tướng Smith, Trưởng Cơ Quan Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Việt Nam. Thực chất thì cơ quan này thay thế Bộ Tư Lệnh Viện trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) trong một quyền hạn thu hẹp.
Y sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục Trưởng Cục Quân Y.
Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, Cục Trưởng Cục Công Binh.
Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó Tổng Cục Tiếp Vận, và phu nhân.
Đại Tá Pelosky, Phụ Tá của Thiếu Tướng Smith về Tiếp Vận.


Tôi, Đại Tá Phạm Bá Hoa, Tham Mưu Trưởng/Tổng Cục Tiếp Vận.
Và Trung Tá Nguyễn Đình Bá, chánh văn phòng của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên.


Thiếu Tướng Smith tiết lộ rằng:
“Bộ Quốc Phòng (Pentagon) Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300.000.000 (300 triệu) mỹ kim để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40.000 sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ”.


Những lời nói ngắn ngủi này của một vị Tướng tuy không có hào quang của một nhân vật quyền lực như Thống Tướng William C. Westmoreland trước đây, nhưng là nhân vật tiêu biểu cho tiếng nói của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Việt Nam chúng ta lúc ấy. Và lời nói này, tôi nghĩ, không có cách hiểu nào khác, ngoài cách hiểu là cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của chúng ta sắp kết thúc, và kết thúc với ý nghĩa thua trận! Vì nếu không thua trận thì làm gì có kế hoạch di tản sĩ quan và gia đình sang Hoa Kỳ!


Đột ngột quá chăng? Có thể là với Hoa Kỳ, hay nói chung là với thế giới dân chủ tự do lẫn thế giới cộng sản độc tài, thì không có gì đột ngột cả vì họ là người ngoài cuộc. Có tốt lắm thì họ cũng chỉ nói lời thương hại hoặc lời “phân ưu” trong một bài diễn văn nào đó, cho cái dân tộc bất hạnh này mà thỉnh thoảng họ nói Việt Nam Cộng Hòa là tiền đồn trắc nghiệm chiến tranh ý thức hệ, hoặc chúng ta là tiền đồn chống cộng sản cho họ thôi!


Nhưng với tôi quả là đột ngột, dù tôi có nghe những tin loan tãi đáng buồn trên làn sóng đài phát thanh BBC qua chương trình Việt ngữ! Rất có thể là tôi quá chủ quan khi tin rằng, chiến tranh đang trong giai đoạn khốc liệt nhưng phần đất tự do này không thể vào tay chế độ cộng sản độc tài được. Tại sao tôi chủ quan như vậy? Đơn giản chỉ vì tôi tin rằng cuộc chiến đấu của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta là cuộc chiến đấu có chính nghĩa, mà chính nghĩa thì không thể thua được! Lúc bấy giờ, rõ ràng là tôi không thực tế khi tôi là một trong số rất ít cử tọa ngồi nghe “diễn giả Smith” truyền đạt một câu ngắn ngủi trong bữa ăn đêm Giáng Sinh năm 1974, nó chẳng có ý nghĩa gì về tôn giáo, nhưng rất có ý nghĩa về cuộc chiến tranh mà chúng ta buộc phải lâm trận!


Tôi hỏi:
“Chẳng lẽ đất nước mình đến hồi mạt vận sao! Có lúc nào Trung Tướng nghĩ như vậy không?
“Không đâu anh. Thật ra có lúc tôi cũng nghĩ như anh, nhưng cuối cùng tôi bác bỏ ý nghĩ đó, vì dù sao thì mình cũng có một quân đội chống cộng sản triệt để mà anh”.


Vì ông nghĩ như vậy, nên khi thấy một việc nhỏ tuy rất tế nhị mà Thủ Tướng với Tổng Thống là hai vị lãnh đạo cao nhất nước với đầy quyền lực trong tay, nhưng không vị nào dám nhận trách nhiệm, nên Trung Tướng Khuyên mới thốt lên câu nói như một lời than bất lực của chính ông, và hàm ý cho số phận một quốc gia: Việt Nam Cộng Hòa!


Cũng trong bữa ăn trưa Mồng Hai Tết này, Trung Tướng Khuyên nhắc tôi ráng điều động và đôn đốc Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (đồn trú tại Qui Nhơn), vận chuyển hàng tiếp liệu lên Plei Ku chuẩn bị chống trả cuộc tấn công của quân cộng sản thường khi là vào mùa hè.
Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đang thực hiện kế hoạch vận chuyển các loại hàng tiếp liệu loại 1, loại 3, và loại 5, từ Qui Nhơn lên dự trữ ở Plei Ku và Kon Tum. Các loại hàng tiếp liệu trong quân đội do ngành Tiếp Vận quản trị, chia làm 5 loại:


Loại 1, là lương thực thực phẩm cho người và thú vật (quân khuyển = chó trận)
Loại 2, là quân dụng trang bị cho tất cả các đơn vị quân chủng, binh chủng, binh sở, và các cơ quan phòng sở tham mưu, như: quân xa, vũ khí bắn thẳng, vũ khí bắn vòng cầu, xe tăng thiết giáp, xe đào đất ủi đất, chiến hạm, phi cơ, máy móc văn phòng, bàn ghế, ..v..v.. có ghi trong bảng cấp số của từng đơn vị cũng như cơ quan phòng sở.
Loại 3, là các loại nhiên liệu và các loại dầu mở bôi trơn.
Loại 4, là những gì thuộc về vật liệu xây dựng và vật liệu phòng thủ.
Và loại 5, là các loại bom đạn và chất nổ.


Số lượng dự trữ dự trù cho 20.000 quân trú phòng Plei Ku và Kon Tum chiến đấu trong 30 ngày không cần tiếp tế. Đó là dự trù cho một tình hình tệ hại là không tái tiếp tế được, chớ thật ra trong kế hoạch của Tổng Cục Tiếp Vận có dự liệu khi chiến trận xảy ra thì từ ngày thứ 3, mà trong tham mưu quân sự gọi là ngày N + 2, bắt đầu tái tiếp tế bằng không vận để bổ sung mực độ dự trữ cho lực lượng phòng thủ.


Khi mất Phước Long, Trung Tướng Khuyên ước tính thời gian quân cộng sản mở cuộc tấn công vào Plei Ku và Kon Tum, có thể sớm hơn ước tính của Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu. Vì vậy mà ông cho tăng cường thêm quân xa ra Qui Nhơn để Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận có thêm khả năng vận chuyển. Hằng ngày, từng đoàn quân xa hằng trăm chiếc hạng nhẹ và hạng trung, lăn bánh trên quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn với Plei Ku - Kon Tum, và ngược lại.


Những ngày sau đó, tôi thường thảo luận với Trung Tướng Đồng Văn Khuyên trong những bữa ăn trưa tại câu lạc bộ, và câu chuyện chỉ xoay quanh nguồn tin từ Thiếu Tướng Smith, hòa trong những tin chiến sự ngày càng nghiêm trọng.


Ban Mê Thuột là thủ phủ Cao Nguyên Miền Trung. Từ đây, theo quốc lộ 14 về hướng Bắc khoảng 170 cây số sẽ đến Plei Ku, một thị trấn đất đỏ ba-dan, và tiếp tục hành trình thêm khoảng 40 cây số nữa sẽ đến Kon Tum, một thị trấn toàn cát trắng. Cũng từ Ban Mê Thuột, theo quốc lộ 14 xuôi hướng Tây Nam, sẽ đến thị trấn Chơn Thành thuộc tỉnh Bình Long rồi theo quốc lộ 13 về đến Sài Gòn. Nếu từ Ban Mê Thuột, theo quốc lộ 21 về hướng Đông vượt đèo M'Drak sẽ xuống quốc lộ 1, rẽ phải sẽ đến Nha Trang và vào Sài Gòn, còn rẽ trái sẽ ra Tuy Hòa, Qui Nhơn, Quảng Ngãi, Đà Nẳng, rồi Huế, Quảng trị. Ngay trong thành phố Ban Mê Thuột và phi trường Phụng Dực, có Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, các đơn vị yểm trợ, và Trung Đoàn 53 Bộ Binh đồn trú. Phần còn lại của Sư Đoàn 23 đang bảo vệ Kon Tum và Plei Ku. Ban Mê Thuột trong phạm trách nhiệm yểm trợ của Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận, và Bộ Chỉ Huy này đồn trú tại bán đảo Cam Ranh, một bán đảo nổi tiếng trên thế giới từ đầu thế kỷ 20 khi Hạm Đội của Nga chạy trốn sự truy lùng của Hạm Đội Nhật Bản.


Trưa ngày 9 tháng 3 năm 1975, Đại Úy Chỉ Huy Trưởng Kho Đạn ở ngoại ô Ban Mê Thuột điện thoại tôi:


“Thưa Đại Tá, theo lệnh khẩn cấp của Phòng 4/Quân Đoàn II (đồn trú ở Plei Ku), tôi phải cấp phát giải tỏa toàn bộ số đạn dự trữ trong kho vì tình hình rất nghiêm trọng, và có thể sẽ bị quân cộng sản tấn công trong đêm nay. Chúng tôi sẽ cấp phát tối đa cho các đơn vị đồn trú trong và ngoài thị xã theo khả năng mà họ tiếp nhận được. Xin trình Đại Tá rõ”.


“Anh em cố gắng công tác khẩn cấp này và mong anh em hoàn thành nhiệm vụ”.


Sở dĩ Quân Đoàn II ra lệnh trực tiếp là vì các kho dự trữ của ngành Tiếp Vận tại các địa phương chịu sự chỉ huy của hai hệ thống: Dưới quyền của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận về hành chánh và chuyên môn của ngành, trong khi Quân Đoàn chỉ huy về mặt yểm trợ tác chiến.


Trình Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó Tổng Cục Tiếp Vận xong, tôi liên lạc sang Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu được biết, theo nguồn tin khả tín thì lực lượng cộng sản xuất hiện chung quanh Ban Mê Thuột vào khoảng 2 Sư Đoàn, với một đơn vị Pháo Binh có thể lên đến cấp Sư Đoàn, và chúng có khả năng tấn công trong thời gian sớm nhất, nghĩa là có thể ngay trong đêm nay. Đại Tá Loan và tôi, lo ngại về các cuộc tấn công của quân cộng sản vào các tỉnh Cao Nguyên trong khi chúng tôi chưa hoàn tất mức độ dự trữ các loại hàng tiếp liệu cho Plei Ku và Kon Tum như lệnh của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ban hành. Trong lúc này, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, được phép của Tổng Thống đã đưa thân phụ của ông sang Tokyo trị ung thư cổ, và Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tổng Cục Trưởng.


Sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, khi vào đến văn phòng thì điện thoai reo liên hồi:


“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Lễ đây anh. Tôi mới nghe nói là Ban Mê Thuột bị mất liên lạc hữu tuyến lẫn vô tuyến từ giữa đêm qua. Đâu anh xem lại có phải vậy không?
Đó là Đại Tá Trần Văn Lễ, Chỉ Huy Trưởng Trường Tiếp Vận, đồn trú trong căn cứ Long Bình, Biên Hòa.


Tôi gọi khắp các cơ quan phòng sở trong Bộ Tổng Tham Mưu, không cơ quan nào liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở Ban Mê Thuột cả. Chợt nhớ ra bên Sở Liên Lạc có căn cứ của đơn vị Lôi Hổ trên đó để hoạt động dọc biên giới Việt Nam-Cam Bốt, có thể còn giữ liên lạc được. Và đúng như vậy, Trung Tá Trần Đắc Trân, điện thoại gọi tôi sang để nói chuyện trực tiếp với nhân viên của Sở Liên Lạc trên đó. Trình Đại Tá Loan xong là tôi chạy sang anh Trân ngay. Tôi hỏi:


“Chào anh. Anh đang ở đâu đó?
“Em đang ẩn trú ở đầu phi trường nhỏ trong thành phố Ban Mê Thuột. Chung quanh em tiếng súng nổ dữ lắm và xe tăng của tụi nó (quân cộng sản) đã vào đến cuối sân bay rồi Đại Tá ơi!
“Theo anh thì tụi nó đã vào trung tâm thành phố chưa?


“Xe tăng của nó tấn công kho đạn đêm qua, và tụi nó tiến vào thành phố rồi. Khu vực Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn (23 Bộ Binh) và bên Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu đều có tiếng súng dữ lắm. Em chưa rõ lắm, nhưng em nghĩ là bị tụi nó chiếm hết rồi. Bây giờ em phải rút ra ngoại ô. Chào Đại Tá”.


“Cám ơn anh, và cầu nguyện cho anh cùng các bạn vượt thoát bình an. Chào anh và các bạn”.


Trở về Tổng Cục Tiếp Vận trình lại Đại Tá Loan. Đại Tá Loan gọi ra Cam Ranh nói chuyện với Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận, nhưng không thu thập được tin tức gì khả quan cả. Bên hệ thống Viba của Hành Chánh và Bưu Điện, cũng không liên lạc được với Ban Mê Thuột.


Tôi gọi lên Quân Đoàn II nói chuyện với Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn, được biết Quân Đoàn II đã cho phi cơ không thám trên không phận ngoại ô Ban Mê Thuột chớ không vào sâu bên trong được vì hỏa lực phòng không của quân cộng sản mạnh lắm, nên những tin tức ghi nhận cũng không giúp được gì cho Quân Đoàn khả dĩ có đủ dữ kiện nhận định tình hình một cách rõ nét, để có phản ứng thích nghi. Trong khi đó, Quân Đoàn II sử dụng phi cơ chiến đấu của Sư Đoàn 2 Không Quân và Sư Đoàn 6 Không Quân, oanh kích dữ dội vào quân cộng sản ven ngoại ô Ban Mê Thuột, nhưng cũng không vào không phận trung tâm thành phố để oanh kích các mục tiêu trong thành phố, do hỏa lực phòng không của địch như những lưới lửa đan chéo cả không phận Ban Mê Thuột.


Sư Đoàn 23 Bộ Binh, có 2 Trung Đoàn hoạt động trên Kon Tum, và 1 Trung Đoàn giữ phi trường Phụng Dực, nên sự chống trả yếu ớt của lực lượng phòng thủ Ban Mê Thuột chỉ gồm những đơn vị yểm trợ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và các đơn vị Địa Phương Quân Nghĩa Quân của Tiểu Khu, trong khi lực lượng tăng viện của Quân Đoàn trực thăng vận xuống giải tỏa, nhưng bị hỏa lực phòng không của cộng sản ngăn chận từ bên ngoài thành phố, không chống nỗi quân cộng sản quá đông tràn ngập chiến trường! Những trận đánh riêng lẽ -vì không có vị chỉ huy thống nhất- chẳng thể nào đảo ngược được tình thế, để rồi đến ngày 13 tháng 3 năm 1975, Ban Mê Thuột và toàn tỉnh Darlac vào tay quân cộng sản!


Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, hai tỉnh đã vào tay quân cộng sản!


*****


Rút bỏ Cao Nguyên
ngày 17 tháng 3 năm 1975.


Lúc bấy giờ các vị lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo quân đội, và vài cấp chỉ huy liên quan đến những phản ứng sau đó, là: (1) Tổng Thống: Nguyễn Văn Thiệu (Trung Tướng). (2) Thủ Tướng: Trần Thiện Khiêm (Đại Tướng). (3) Tổng Tham Mưu Trưởng: Đại Tướng Cao Văn Viên. (4) Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Ông được phép đưa thân phụ sang Tokyo chữa bệnh ung thư, nên ông vắng mặt trong những ngày đầu cuộc rút quân. (5) Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú. (6) Tư Lệnh hành quân triệt thoái: Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất. (7) Xử lý thường vụ Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Đại Tá Phạm Kỳ Loan. (8) Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại Tá Bửu Khương. (9) Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lý. (10) Tôi, Đại Tá Phạm Bá Hoa, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.


Ngày 14/3/1975, một buổi họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng không rõ nội dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột. Rất tiếc là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên chưa về, nên tôi với Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, không biết gì hơn.


Ngày 15/3/1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Có ai ngồi gần anh không?
“Dạ không, thưa Đại Tướng”.
Đó là Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông tiếp:


“Tuyệt đối là anh không cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi hành”.
“Vâng, tôi rõ thưa Đại Tướng”.
“Tổng Cục Tiếp Vận có bao nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng?


“Thông thường thì sử dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp tối cần thiết có thể sử dụng được 8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ hỏi bên Không Quân và sẽ trình lại Đại Tướng con số chính xác hơn, thưa Đại Tướng”.


“Thôi được. Điều cần thiết là anh phải sử dụng tối đa vì đây là nhu cầu khẩn cấp. Anh liên lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ cần bao nhiêu chiếc thì cho họ bấy nhiêu, còn sử dụng vào công tác gì thì tùy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày mai. Anh rõ chưa?


“Thưa Đại Tướng, tôi rõ”.
“Phần anh, anh chuyển các quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn đem về đâu thì tùy anh”.
“Vâng. Tôi thi hành, thưa Đại Tướng”.


Tôi thuật lại cho Đại Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn tôi, đều không ước tính được là chuyện gì sắp xảy ra mà chúng tôi không được phép biết. Nếu chuẩn bị đánh nhau với quân cộng sản thì tại sao không để quân dụng lại thay thế số tổn thất? Nếu không đánh nhau,..... mà không đánh nhau là thế nào? Thật không hiểu nỗi!


Tổ chức một quân đội, phải có hai yếu tố chính, là "con người và quân dụng". Quân dụng do ngành Tiếp Vận quản trị. Những gì trang bị cho mỗi quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, từ dinh dưỡng đến điều trị khi bị thương hay đau yếu, vấn đề mai táng và nghĩa trang, rồi doanh trại, phương tiện di chuyển, rồi súng đạn, xe tăng thiết giáp, đại bác hỏa tiển,...... đều là nhiệm vụ của ngành Tiếp Vận. Ấy vậy mà Tiếp Vận lại không được quyền biết đến kế hoạch hành quân, ít nhất là đối với lệnh vừa rồi của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa !


Trong quân đội, chỉ có Trung Tướng Đỗ Cao Trí và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, là hai vị Tư Lệnh đại đơn vị đặt Tiếp vận vào đúng vị trí của ngành này mà thôi. Điển hình là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đầu năm 1970 khi soạn kế hoạch hành quân sang lãnh thổ Cambodia tấn công các kho dự trữ tiếp vận của quân cộng sản sát biên giới Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung Tướng Trí nêu câu hỏi với Trung Tá Trương Bảy (sau này là Chuẩn Tướng Cảnh Sát) Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận:


"Theo kế hoạch hành quân đã trình bày, Tiếp Vận có chuẩn bị kịp không? Nếu không, Quân Đoàn sẽ lùi ngày lại".


Khi vị Tư Lệnh hỏi như vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách mấy cũng phải thực hiện cho xong chớ đâu thể xin lùi ngày được. Đằng nào cũng phải vất vả, nhưng vất vả mà được biết đến vẫn vui lòng hơn.
Đầu tháng 12 năm 1974, trước khi lên Plei Ku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú điện thoại tôi:


“Anh Hoa à, tôi sắp sửa lên Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung Úy Thiêm một tuần để nó lên đó chọn hướng đặt bàn giấy giùm tôi nghe anh”.
“Vâng. Tôi sẽ nói với anh Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực tiếp với anh ấy về những chi tiết cần thiết”.
Lúc bấy giờ tôi là Cục Trưởng Cục Mãi Dịch (đồn trú ở Sài Gòn). Trong đơn vị tôi có Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm được nhiều người cho là giỏi tướng số, tử vi, và chữ ký. Và sau 5 ngày công tác riêng cho Thiếu Tướng Phú ở Plei Ku trở về, Trung úy Thiêm nói với tôi:


“Thưa Đại Tá, tôi thấy vận số của Thiếu Tướng Phú hết rồi, nhiều lắm cũng chỉ tính bằng tháng chớ không tính bằng năm đâu”.
“Anh có nói gì với Thiếu Tướng Phú không?
“Dạ không. Vì sợ Thiếu Tướng mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có cách gì giải được, thà không nói vẫn hơn”.


“Nghĩ như anh cũng phải”.
(Năm 2004, khi sang Sydney, Australia, tôi có gặp cựu Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm, đang là Giám Đốc một Công Ty của Hoa Kỳ tại Sydney). Tôi với anh thường liên lạc thăm hỏi nhau qua e-mail)


Tôi nhớ, có một hôm Trung Tướng Đồng Văn Khuyên nói với tôi rằng, "Thiếu Tướng Phú tuổi con rắn, nên Tổng Thống cử lên Quân Đoàn II vì rắn thích hợp với núi rừng". Thật sự có thích hợp hay không, tôi nghĩ, quí vị đã rõ.


Trở lại lệnh của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên Plei Ku liên lạc với Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II:


“Tôi Hoa đây anh Lý. Tôi được lệnh cấp C.130 cho anh nhưng không được biết là Quân Đoàn sử dụng vào công tác gì. Vậy anh có thể cho tôi biết để tôi tiện sắp xếp phi cơ theo đúng nhu cầu của anh không? Vì chắc anh cũng biết là số phi cơ khả dụng của chúng tôi giới hạn lắm”.


“Anh cứ đưa lên đây cho tôi, còn sử dụng vào công tác gì thì không thể nói được đâu”. Lời của Đại Tá Lý.
“Đành vậy. Nhưng anh cần bao nhiêu chiếc? Cần vào lúc nào? Và chuyển vận từ đâu tới đâu?


“Anh có bao nhiêu chiếc thì đưa lên tôi bấy nhiêu kể từ sáng mai (16/3/1975). Không trình có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc Sàigòn”.
“Sao lại là có thể mà không rõ nơi đến?
“Tôi không thể cho anh biết đâu”.


“Vậy thì như thế này. Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi 2 chiếc kế tiếp túc trực tại phi trường Tân Sơn Nhất và anh cần là cất cánh ngay, vì một lúc anh đâu sử dụng được 4 chiếc. Được không?


“Được. 8 giờ sáng mai anh cho có mặt tại phi trường Cù Hanh nghe”.
“Xong. Mình thỏa thuận như vậy”.


Tôi trình Đại Tá Loan là vẫn không biết được gì thêm ở Quân Đoàn II. Tôi cũng nêu thắc mắc với Đại Tá Loan, là tại sao Đại Tá Lý nói “không trình có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc Sài Gòn, mà không xác định điểm đến một cách rõ ràng”. Điều này hẳn có gì bí ẩn bên trong.


Đại Tá Phạm Kỳ Loan điện thoại hỏi Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết lộ điều gì. Bên Không Quân xác nhận là có thể sử dụng tối đa 9 chiếc C.130, nhưng sau khi sử dụng như vậy thì các nhu cầu tiếp theo không thể thực hiện được ít nhất là một tuần vì phải tu bổ lại. Bộ Chỉ Huy Không Chiến, cơ quan điều động phi cơ, đồng ý về thỏa thuận giữa tôi với Đại Tá Lê Khắc Lý, nghĩa là 2 chiếc C130 cất cánh lên Pleiku thì 2 chiếc kế tiếp túc trực tại căn cứ Tân Sơn Nhất.


Sáng ngày 16/3/1975, điện thoại reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Bộ Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ C.130 đang trên không phận phi trường Cù Hanh (Plei Ku), cho biết là không thể nào đáp xuống phi trường được, vì người ta đông không thể tưởng tượng nỗi. Chẳng biết là chuyện gì xảy ra vì không liên lạc được dưới đất. Và hai chiếc C.130 đang chờ lệnh Đại Tá”.


“Anh chuyển đến Trưởng phi cơ là hãy chờ tôi vài phút để tôi liên lạc với Quân Đoàn II xem tình hình ra sao”.


Gọi Quân Đoàn II, và tôi nói chuyện với Đại Tá Lý:
“Phi cơ tôi đang trên không phận của anh đó, nhưng không thể đáp được. Nếu anh muốn họ đáp xuống thì anh phải giải tỏa sân bay giùm đi. Nếu chậm quá thì họ sẽ về lại Sài Gòn đó. Mà chuyện gì xảy ra vậy Anh?


“Tại vì người ta tranh nhau chờ lên phi cơ mới có chuyện tràn ngập đường băng như vậy. Để tôi cho Quân Cảnh giải tỏa, anh bảo phi cơ đáp xuống cho tôi đi”.
“Thì phi hành đoàn đang chờ đường băng trống là đáp xuống, trừ khi anh không giải tỏa nỗi. Anh nhớ ưu tiên cho anh Liên Đoàn Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi ở Plei Ku, chở một số kiện hàng quan trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha Trang à nghe”.


Tôi lại nhờ Bộ Chỉ Huy Không Chiến chuyển đến phi hành đoàn C130. Và sau đó, phi cơ đáp xuống được tuy rất khó khăn vì đông nghẹt người là người hai bên đường băng. Để rồi một hình ảnh hỗn loạn chưa từng thấy -theo lời thuật của Trưởng phi cơ- là cả một rừng người chen lấn xô đẩy, thậm chí đạp lên nhau để tranh lên phi cơ, và hết sức khó khăn đến độ nguy hiểm, phi hành đoàn mới cho phi cơ cất cánh được.


Hóa ra là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chuyển xuống Nha Trang. Tôi trình ngay cho Đại Tá Loan vì ước tính là sắp đánh nhau với quân cộng sản rồi. Ước tính này không phải là vô căn cứ, bởi vì cộng sản đã chiếm Ban Mê Thuột, thủ phủ Cao Nguyên, bây giờ chúng tấn công vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II (ở Plei Ku) cũng là điều xảy ra trong quân sự thôi. Nhưng chúng tôi nhầm ...


Vì sáng ngày 17/3/1975, trong lúc 2 chiếc C130 trên không phận Plei Ku thì điện thoại nhà tôi reo, hôm nay là chủ nhật nên tôi đi làm muộn:


“Đại Tá Hoa tôi nghe”.


“Bộ Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là toàn thị xã Plei Ku hôm nay không có bóng một sinh vật nào cả, và bây giờ phi hành đoàn xin phép về lại căn cứ”.


“Anh hỏi lại phi hành đoàn giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như vậy thì tôi đồng ý phi cơ quay về. Xin nhớ, đây là trách nhiệm rất quan trọng nghe anh”.


Tôi điện thoại qua nhà Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngay sau đó Đại Tá Loan liên lạc Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ (Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu) nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ được một giọt thông tin nào về tình hình đó cả. Tôi và Đại Tá Loan tức lắm, nhưng chúng tôi không có cách nào khác vì Trung Tướng Đồng Văn Khuyên đi Tokyo chưa về. Có vẻ như chúng tôi bị coi như là những sĩ quan không đáng tin cậy thì phải, ít nhất cũng là không được tin cậy trong cuộc hành quân này, dù rằng Đại Tá Loan đang là cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận với gần 100.000 quân nhân công chức chuyên ngành, và quản trị một khối lượng dụng cụ chiến tranh trên dưới 7 tỉ mỹ kim!


Tất cả các hệ thống liên lạc truyền tin bằng vô tuyến lẫn hữu tuyến của quân đội, cũng như hệ thống liên lạc bên hành chánh, đều không liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở Plei Ku cả. Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận ở Qui nhơn, cũng không có tin tức gì khá hơn trong khi đoàn quân xa hơn 100 chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải (Qui Nhơn) vẫn còn kẹt trên Plei Ku vì quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn - Plei Ku bị quân cộng sản chiếm giữ nhiều chặng. Một tình hình không thể hiểu nỗi ít nhất là đối với ngành Tiếp Vận chúng tôi. Không biết tại sao lúc ấy chúng tôi không nghĩ đến giả thuyết nào khác, chẳng hạn như Quân Đoàn II vờ rút quân ra ngoài để thành phố bỏ ngỏ cho quân cộng sản tiến vào, rồi bất thình lình quật lại tấn công chúng ngay trong thành phố. Còn về giả thuyết rút bỏ Cao Nguyên thì nhất thiết không thể có trong tư tưởng của bất cứ sĩ quan nào chớ chẳng riêng gì chúng tôi. Cho dù một giả thuyết như vậy thôi cũng không có trong hàng sĩ quan cấp dưới, nhưng nó lại là một kế hoạch thật sự của vị lãnh đạo đất nước 20.000.000 dân, trong đó có một quân đội hơn 1.000.000 người!


Cả hai chúng tôi -Đại Tá Loan và tôi- không thông báo tình hình tệ hại đó cho bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi hết sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói chung và số phận của anh em trong ngành Tiếp Vận ở Plei Ku và Kon Tum nói riêng, vì chúng tôi không có bất cứ một thông tin nào về tình hình đó, kể cả nguồn cung cấp chính xác nhất là vị Tướng Trưởng Phòng 3 ngang hàng với cơ quan chúng tôi, và vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp trên của chúng tôi cũng vậy.


Chiều 18/3/1975, điện thoại reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.


“Khương đây anh Hoa”. Đó là Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đồn trú tại Qui Nhơn.


“Anh có tin gì về anh em mình trên Plei Ku chưa?

“Liên Đoàn 2 Vận Tải mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị kẹt trên Plei Ku rồi anh. Đoàn xe này đang cùng với hằng ngàn quân xa và dân xa rút bỏ Plei Ku và Kon Tum, đang di chuyển trên đường liên tỉnh số 7 để xuống Tuy Hòa. Toàn bộ lực lượng gồm nhiều đơn vị chiến đấu, cùng với Pháo Binh, Thiết Giáp, bị sa lầy sau khi vượt qua Cheo Reo. Phần thì đường hư cầu sập làm nhiều chiến xa M.48 và pháo binh 175 ly cơ động xuống hố, gây tổn thất rất nặng cho cả quân đội lẫn dân sự, nhưng chưa thấy phản ứng của Quân Đoàn. Anh em mất tinh thần lắm anh ơi!


“Được rồi. Bảo vệ đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy Hòa, chắc chắn là trách nhiệm của Quân Đoàn. Bây giờ anh nên chuẩn bị tổ chức nhiều toán do một sĩ quan của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận chỉ huy và đặt tại Tuy Hòa, mỗi toán phụ trách một công tác, để khi đoàn quân xuống đến Tuy Hòa thì cấp phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà không cần theo thủ tục tiếp liệu thông thường, chỉ cần viết tay và ký nhận là đủ. Hàng mang theo cấp phát là: Lương khô đủ ăn 3 ngày, 1 bộ quần áo trận, đổ đầy xăng dầu cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y thì cấp thuốc cho các bệnh thông thường và cấp cứu đầu tiên. Anh thấy được không?


“Được anh. Để tôi lo”.
“Anh nói Liên Đoàn 2 Vận Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ tin tức gì về đoàn quân này thì anh cho tôi biết ngay nghe anh Khương”.


Sở dĩ có đoàn xe hằng trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là vì sau khi Phước Long mất, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực hiện kế hoạch chuyển tiếp liệu loại 1 (lương thực thực phẩm), loại 3 (nhiên liệu), loại 5 (đạn dược chất nổ), lên Plei Ku dự trữ cho 20.000 quân phòng thủ trong 30 ngày mới bổ sung. Do vậy mà hằng ngày đoàn xe cả trăm chiếc đi đi về về giữa Qui Nhơn với Plei Ku để vận chuyển tiếp liệu từ Qui Nhơn lên Plei Ku.


Tôi sang văn phòng Đại Tá Loan, và sau khi trình cho anh xong, tôi điện thoại lên văn phòng Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng:
“Tôi Hoa đây anh Nguyện (Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn phòng), anh cho tôi trình vấn đề gấp với Đại Tướng”.


“Anh chờ tôi một chút”.
“Tôi đây”.
“Thưa Đại Tướng, tôi Hoa đây”.
“Có việc gì vậy?


“Thưa Đại Tướng, cách đây vài phút, Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, cho tôi biết về đoàn quân rút bỏ Plei Ku và Kon Tum đang bị sa lầy ... (tôi thuật lại chi tiết mà tôi với Đại Tá Khương đã nói với nhau).


“Anh có chắc là đúng như vậy không?
“Từ chỗ đoàn xe bị kẹt đến Đại Tá Khương như thế nào thì tôi không dám chắc, nhưng từ Đại Tá Khương đến tôi là hoàn toàn chính xác, thưa Đại Tướng”.

“Thôi được. Anh đừng nói với ai nữa nghe”.

“Vâng”.


Đại Tá Loan và tôi đều ngẩn ngơ về câu sau cùng của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Chúng tôi ngẩn ngơ vì không hiểu tại sao tình hình đến như vậy mà vẫn muốn giấu kín chúng tôi nữa! Vài phút sau đó, Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, điện thoại tôi:


“Cưng ơi (Chuẩn Tướng Thọ thường gọi tôi như vậy), cưng có liên lạc với đoàn xe trên đường số 7 hả?”
“Tôi không trực tiếp liên lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng tôi đã liên lạc được với đoàn xe chở tiếp liệu lên Plei Ku và bị kẹt trên đó, nay thì cùng trong đoàn quân sa lầy mà vừa rồi tôi đã trình Đại Tướng”.


“Có. Đại Tướng mới gọi anh đây. Cưng cứ biết vậy thôi nghe”.
Cũng lại giấu nhau!


Tôi có biết chút ít về đường liên tỉnh số 7 này, từ đoạn Plei Ku vào đến Cheo Reo và xuống đến Cung Sơn. Vì cuối năm 1955 -lúc bấy giờ tôi là Thiếu Úy, Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân- toàn bộ Tiểu Đoàn chúng tôi từ Vĩnh Long, cùng với Tiểu Đoàn 507 Khinh Quân, và Tiểu Đoàn 527 Khinh Quân từ Trà Vinh, di chuyển lên Cao Nguyên và đồn trú tại Cheo Reo, để thành lập Trung Đoàn 35 Bộ Binh trong hệ thống tổ chức Sư Đoàn 12 Khinh Chiến. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đồn trú tại Plei Ku. Các Tiểu Đoàn được cấp phiên hiệu như sau: Tiểu Đoàn 507 thành Tiểu Đoàn 1/35, Tiểu Đoàn 510 chúng tôi thành Tiểu Đoàn 2/35, và Tiểu Đoàn 527 thành Tiểu Đoàn 3/35.


Vì các đơn vị yểm trợ tiếp liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở Plei Ku, nên chúng tôi thường xuyên đi lại giữa Cheo Reo với Plei Ku bằng đường liên tỉnh số 7 và một đoạn quốc lộ 14. Sở dĩ đoạn đường từ ngã ba quốc lộ 14 với liên tỉnh lộ 7 -tên địa phương là Mỹ Thạch- vào đến Cheo Reo còn sử dụng được, là vì trong chiến tranh giữa thực dân Pháp với cộng sản 1946-1954 (lúc đó Cộng sản núp dưới tên Việt Minh), Cheo Reo là cứ điểm quân sự của Pháp, nên đường này được tu bổ vì nó là "con đường huyết mạch" của cứ điểm. Còn đoạn từ Cheo Reo xuống Cung Sơn và Tuy Hoà, quân đội Pháp không sử dụng nên không tu bổ gì cả. Khi Trung Đoàn chúng tôi đến Cheo Reo, xác những chiếc thiết giáp của Pháp còn ngổn ngang tại đó, còn chiếc cầu bắc ngang Sông Ba thì tồi tệ hơn bất cứ chiếc cầu tồi tệ nào. Thuở ấy "rất là hoà bình", nên chúng tôi thường đi săn trên đường từ Cheo Reo xuống đến Cung Sơn, chỉ cần thận trọng một chút thì xe jeep vẫn bò qua chiếc cầu tồi tệ ấy được. Trên đoạn đường này, chiếc xe jeep của chúng tôi chỉ gọi là "bò" chớ không thể gọi là chạy được vì mặt đường giữa vùng rừng già heo hút này hầu như không còn gì để gọi là con đường nữa.


Giữa năm 1969, lúc ấy tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn Văn Là, đến thăm các đơn vị tại Cheo Reo và các quận lân cận, con đường bên kia Sông Ba được tu bổ đôi chút. Và nếu đoạn đường tiếp nối xuống Cung Sơn để ra Tuy Hoà (tỉnh Phú Yên) không được tu bổ thường xuyên, mà Quân Đoàn II quyết định sử dụng cho đoàn quân hơn 10.000 người cùng với trên dưới 2.000 quân xa, dân xa, và chiến xa hạng nặng triệt thoái, quả là tạo được bất ngờ đối với địch, nhưng phải nói là quá liều lĩnh! Bất ngờ, nhưng con đường có sử dụng được hay không, lại là vấn đề trước mặt của Quân Đoàn II nói chung, và của bộ chỉ huy hành quân cuộc hành quân lui binh này nói riêng.


Chiều tối hôm sau thì Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật Bản) về đến. Sau khi nghe chúng tôi trình bày về tình hình từ ngày ông vắng mặt đến nay, ông nói sáng mai sẽ trình diện Tổng Thống với Đại Tướng, chắc là sẽ có tin tức rõ ràng hơn.


Và đây là những tin tức đó:


"... Sau khi mất Ban Mê Thuột, áp lực của quân cộng sản rất mạnh. Tổng Thống nhận định là không đủ khả năng bảo vệ toàn bộ Cao Nguyên trong khi Ban Mê Thuột cần giữ hơn là Plei ku với Kon Tum, vì vậy mà Tổng Thống trong buổi họp tại Cam Ranh, đã quyết định rút bỏ Plei Ku, Kon Tum, Phú Bổn, để đem lực lượng về phản công lấy lại Ban Mê Thuột. Tổng Thống giao cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, nhiệm vụ thực hiện cuộc hành quân triệt thoái khỏi 3 tỉnh đó, nhưng phải giữ bí mật tối đa và bảo vệ toàn vẹn lực lượng. Thiếu Tướng Phú trình kế hoạch là rút theo đường liên tỉnh số 7, dù rằng con đường này không sử dụng từ lâu nhưng đạt được yếu tố bất ngờ đối với lực lượng cộng sản. Với đề nghị của Thiếu Tướng Phú, Tổng Thống thăng cấp Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất. Lúc đầu, Tổng Thống không đồng ý, nhưng Thiếu Tướng Phú cố lặp lại đề nghị, và sau cùng thì Tổng Thống chấp thuận. Lúc bấy giờ, Đại Tá Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/Quân Đoàn II. Khi mang cấp bậc Chuẩn Tướng, ông được Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn giao phó trách nhiệm Tư Lệnh cuộc hành quân lui binh”.


Hết giờ buổi chiều khá lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận chỉ còn nhân viên trực hoạt động. Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn phòng (ông ngồi ở văn phòng Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, trên tòa nhà chánh), và ông đưa tôi xem một xấp không ảnh (ảnh chụp từ trên phi cơ) đã được giải đoán đầy đủ. Toàn bộ xấp không ảnh cho thấy đoàn xe không phải theo một hình dài mà là một hình gần như tròn, vì khi phần đi đầu bị kẹt thì những chiếc sau cứ lấn qua bên trái hay bên phải với hy vọng tìm được lối đi, nhưng càng lấn vào rừng thì càng không lối thoát, và cứ như thế mà cả đoàn xe quá nhiều đó đã tạo nên dáng như vậy. Ghi chú bên cạnh những khoanh tròn bằng ngòi bút của chuyên viên giải đoán không ảnh, có gần 800 xe đã bị thiêu hủy. Nếu như giải đoán viên không ảnh chính xác hay ít ra cũng gần như vậy, thì chỉ mới 4 ngày dấn thân vào đường liên tỉnh số 7 mà số xe bị tổn thất trên dưới 1/3 trong tổng số xe các loại, quả là rất nặng. Trong số tổn thất đó có Tiểu Đoàn Pháo Binh 175 ly cơ động và Trung Đoàn Chiến Xa hạng nặng M48". Đây là hai loại vũ khí mới được Hoa Kỳ viện trợ năm 1973 bằng cách các đơn vị pháo binh và chiến xa của họ chỉ rút người về nước và để toàn bộ chiến cụ đó lại cho quân đội chúng ta. Với chiến xa M48, nó là loại vũ khí đã cũ, thậm chí là quá cũ đối với Hoa Kỳ, nhưng với chúng ta nó là loại mới!


Những bài học chiến thuật trong trường Võ Bị cũng như trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của Pháp và là tiền thân của trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, hay lui binh) là nhiều hiểm nguy hơn các cuộc hành quân khác, vì đơn vị "đưa lưng" về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt lại là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiền tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học "lui binh" là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được Không Quân quan sát và yểm trợ hỏa lực nữa.


Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân cộng sản liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hòa thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống, chết vì cướp giật, ..v..v...


Rút bỏ 3 tỉnh Cao Nguyên là Plei Ku, Kon Tum, và Phú Bổn, những tưởng bảo toàn được lực lượng gồm một phần của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh, Truyền Tin, và các ngành khác, để phản công chiếm lại thủ phủ Ban Mê Thuột, nhưng rồi toàn bộ Cao Nguyên miền Trung bỗng dưng rơi vào tay quân cộng sản một cách nhẹ nhàng. Tôi nói "bỗng dưng", vì rút bỏ Plei Ku từ đêm thứ bảy 16 rạng ngày chủ nhật 17 tháng 3 năm 1975, mà đến 3 giờ 15 phút chiều thứ tư 20/3/75 tín hiệu Truyền Tin tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II mới ngưng hoạt động. Đại Tá Cục Trưởng Cục Truyền Tin nói với tôi như vậy. Điều này có thể là lúc đó quân cộng sản mới đến và phá hủy máy móc hoặc tắt máy, cũng có thể là quân cộng sản chưa chiếm nhưng vì máy phát điện hết nhiên liệu nên cả hệ thống đều ngưng hoạt động. Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa, rõ ràng là quân cộng sản mà mình tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vây Plei Ku, nhưng thật ra chúng còn ở tận đâu đâu nên mãi 4 ngày sau -đó là thời gian sớm nhất- chúng mới vào chiếm Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, trong khi những Sư Đoàn của chúng ở càng xa Plei Ku về hướng Nam và Đông Nam thì khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoái hơn, do dó mà thiệt hại của đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong 20 năm chiến tranh! Một thất bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng, nhất là những người cầm súng dưới quyền chỉ huy của vị Tư Lệnh đã từng xông pha trận mạc!


Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, khi còn là sĩ quan cấp Úy cấp Tá trong hàng ngũ quân đội Liên Hiệp Pháp lẫn trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã có tiếng là cấp chỉ huy can đảm, không lùi bước bất kể chiến trận gay go nghiêng ngã như thế nào. Nay, với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, liệu có phải là hơi quá tầm lãnh đạo chỉ huy của ông không? Hay là quyền lực hoặc khả năng của ông bị điều gì đó giới hạn?


Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã tự tử ngay ngày 30 tháng 4 năm 1975. Với chiếc xe đạp mới toanh, tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn) vào sáng sớm ngày 2 tháng 5 năm 1975, trước quan tài ông, đứng nghiêm khá lâu, nhìn chung quanh trước khi đưa tay lên ngang trán chào ông đúng tác phong một sĩ quan cấp dưới. Tôi chào tiễn biệt Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tiễn biệt Ông vào cõi vĩnh hằng giữa hoàn cảnh đau thương của đất nước, dân tộc!


Năm 1960, trong thời gian tôi học tại Trường Đại Học Quân Sự, tôi đọc được một tập tài liệu, có nhận định rằng:
"Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm giữ được Cao Nguyên miền Trung, người đó sẽ nắm phần chiến thắng".
Chắc chắn rằng, những vị Tướng của chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội đều biết tài liệu đó, nhưng có thể các vị bị chính trị đẩy Cao Nguyên ra khỏi tầm tay chăng?


*****


Việt Nam Cộng Hòa chúng ta
đã thu ngắn theo chiều Bắc Nam!



Ngược dòng thời gian, thượng tuần tháng 5/1954, Điện Biên Phủ do 13.000 quân của Pháp trấn giữ, đã thất thủ làm rúng động toàn bộ quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương, rúng động cả nước Pháp, và hiển nhiên là sự thất trận này đã đưa nước Pháp đến tình trạng phải rời khỏi Đông Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, và Lào.


Hơn 20 năm sau -tháng 3/1975- toàn bộ Cao Nguyên miền Trung vào tay quân cộng sản, làm rúng động toàn quân và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa. Và liệu sự thất bại này có phải là nguyên nhân dẫn đến toàn bộ Việt Nam Cộng Hòa vào tay quân cộng sản từ ngày cuối tháng 4/1975 không? Dù gì đi nữa thì sự thể đã là như vậy rồi!


Tình trạng hỗn loạn bi đát trong cuộc hành quân lui binh trên đường liên tỉnh số 7, nếu chưa phải là nguyên nhân chính, cũng là khởi đầu cho sự hỗn loạn trong các cuộc hành quân lui binh của Quân Đoàn I, và các Sư đoàn 1, 2, 3, 22, 23 Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Hải Quân, Không Quân, dọc các tỉnh duyên hải từ Quảng Trị , Huế, Đà Nẳng, đến Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Cam Ranh.


Trước ngày cuối tháng 3/1975, từ Quảng Trị đến Cam Ranh đều bỏ ngỏ. Tôi nói "bỏ ngỏ" vì không có Tiểu Khu nào hay Trung Đoàn, Sư Đoàn nào, phòng thủ chống lại quân cộng sản, hoặc nếu có chống trả như Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại sườn Tây Đà Nẳng cũng chỉ trong thời gian ngắn ngủi là rút lui, còn lại là rút đi trước khi quân cộng sản đến!


Trong số những vị Tướng Tư Lệnh đại đơn vị thuộc Quân Đoàn I và Quân Đoàn II rút khỏi vùng trách nhiệm của những vị đó, tôi luôn tự hỏi về thái độ của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân khu I. Tôi được tiếp xúc với ông qua những công tác "dự phòng chống đảo chánh" từ năm 1965 khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhẩy Dù. Chính vì hiểu ông mà tôi tự hỏi như vậy. Bởi trong cuộc tấn công của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Huế và nhất là trong khuôn viên thành nội, nơi có bản doanh cùng một số đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh đồn trú, đã bị quân cộng sản chiếm giữ trong 3 tuần lễ. Lúc bấy giờ, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng (cấp bậc lúc ấy) là Tư Lệnh Sư Đoàn này. Cuộc phản công chiếm lại từng khu vực trong thành nội Huế rất cam go với tổn thất khá nặng, Chuẩn Tướng Trưởng đã chứng tỏ quyết tâm tiêu diệt quân cộng sản hay ít nhất cũng phải đánh bật chúng ra khỏi Huế trong thời gian ngắn nhất, khi ông đứng nghiêm chỉnh ở chân cột cờ với lễ phục và huy chương biểu tượng cho các chiến công của ông, Chuẩn Tướng Trưởng đã kêu gọi quyết tâm của quân sĩ dưới quyền ông hãy vì danh dự và trách nhiệm đối với tổ quốc dân tộc. Qua lời kêu gọi đầy trách nhiệm cùng với nhiệt tâm của ông, chính là quyết tâm của vị Tư Lệnh cùng quân sĩ chiến đấu, đã thúc đẩy cuộc phản công của Sư Đoàn đến chiến thắng vẻ vang. Đành rằng trong cuộc hành quân phản công này, có sự chiến đấu yểm trợ của quân lực Hoa Kỳ, nhưng Sư Đoàn 1 Bộ Binh Việt Nam vẫn là lực lượng chính.


“Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đã thăng cấp) đang là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Quân khu IV vùng đồng bằng Cửu Long, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và tức tốc lên phi cơ ra Đà Nẳng nhận chức. Một vị Tướng như thế, tôi nghĩ, ông không thể để Đà Nẳng vào tay quân cộng sản gần như êm thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng gốc là binh chủng Nhẩy Dù, và binh chủng này là một trong những binh chủng rất lì với chiến trận. Nhưng sự thể đã diễn ra như vậy, ắt phải có điều gì đằng sau quyết định rút bỏ thành phố cảng quan trọng của miền Trung. Và chỉ có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng mới có thể hiểu đến tận cùng điều ấy mà thôi.


Xin mở ngoặc. Tối ngày 6/9/2003, khi vợ chồng tôi dự tiệc cưới tại Washington DC, chúng tôi ngồi chung bàn với cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, và cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi có ý định hỏi Trung Tướng Trưởng về điều thắc mắc của tôi, nhưng vì cựu Phó Đề Đốc Thoại lại đưa vấn đề cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 hỏi tôi nên mãi nói chuyện với ông, để rồi cuối cùng không còn thì giờ xin lời tâm sự từ cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Và đóng ngoặc.


Hai chục năm sau năm 1975. Ngày 14/1/1995, tôi gặp anh Nguyễn Thành Trí trong chợ Hong Kong ở Houston, bạn tôi. Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và Sư Đoàn này đặt dưới quyền sử dụng dài hạn của Quân Đoàn I từ sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Xin mời quí vị lui lại 20 năm trước, và xin quí vị cứ tưởng như chúng ta đang sống lại những ngày cuối tháng 3 năm 1975 tại Đà Nẳng, lúc ấy bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở khu vực Non Nước, để nghe anh kể lại một góc nhỏ trong cuộc triệt thoái khỏi Đà Nẳng:


''Khoảng 5 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn công vào Sư Đoàn 3 Bộ Binh ở sườn Tây Đà Nẳng, và chỉ chống trả trong thời gian ngắn là Sư Đoàn 3 Bộ Binh rút lui, tạo khoảng trống bên sườn của Thủy Quân Lục Chiến, và các đơn vị co về bản doanh Sư Đoàn (Thủy Quân Lục Chiến). Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, đã rời khỏi Sư Đoàn và lên chiến hạm của Hải Quân (Việt Nam) từ lúc chiều. Nhưng trước khi đi ông có đến gặp Trung Tướng Ngô Quang Trưởng xin quyết định vì tình hình rất nghiêm trọng, nhưng Trung Tướng Trưởng không nói gì cả. Khi đến bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn, có cả ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cùng đi với Thiếu Tướng Lân. Ông Tổng Lãnh Sự có mang theo máy vô tuyến cầm tay loại nhỏ, chốc chốc ông ta thông báo vị trí của ông với ai ở đâu đó mà tôi (tức cựu Đại Tá Trí) không rõ. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân nói với tôi rằng: Ông Tổng Lãnh Sự khuyên ổng (tức Thiếu Tướng Lân) nên bảo toàn lực lượng, nhưng Thiếu Tướng Lân không nói điều này với Trung Tướng Trưởng.


''Khoảng nửa đêm 28 rạng 29 tháng 3 năm 1975, có tiếng động cơ trực thăng xuống bãi đáp bên cạnh, sĩ quan trực chạy ra đón và hướng dẫn phái đoàn vào bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, gồm các vị: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Khánh (tôi không biết họ) Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân (đồn trú tại Đà Nẳng), Đại Tá Phước (cũng không biết họ) Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51/Sư Đoàn 1 Không Quân, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh/Thị Trưởng Thừa Thiên/Huế, và Đại Úy sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Trưởng. Tại bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, sau khi Trung Tướng Trưởng liên lạc với các đơn vị và được biết đã rút lui an toàn (tức bỏ Đà Nẳng), Trung Tướng Trưởng nói với các sĩ quan cùng đi theo ông:


“Bây giờ thì các anh hãy tự thoát, còn tôi , tôi đi theo Thủy Quân Lục Chiến”.

''Trung Tướng Trưởng vừa nói xong thì gần như cùng một lúc, Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, Đại Tá Duệ, cùng chào Trung Tướng Trưởng và lên trực thăng cất cánh ngay.


''Khoảng 6 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975, sĩ quan trực vào trình tôi là chiến hạm đang tiến vào để đón các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Tôi đến trình Trung Tướng Trưởng:


“Thưa Trung Tướng, tôi không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm đang chờ đón tôi và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Vậy Trung Tướng nên đi với chúng tôi ngay bây giờ, thưa Trung Tướng”.
''Sau một lúc chần chừ như có ý không muốn rời Đà Nẳng, ông đứng dậy cùng đi với tôi. Nhưng vì chiến hạm không vào sát bờ được, cũng không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến hạm, nên tất cả đều lội nước, và khi mực nước lên đến ngực cũng là lúc trèo lên tàu. Sau khi mọi người lên chiến hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá Hường (Nguyễn Xuân Hường), Tư Lệnh Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đã có mặt trên tàu. Chiến hạm lui ra khơi nhưng chưa chạy, có vẻ như chờ lệnh hay chờ ai đó.


''Vài tiếng đồng hồ sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan rời khỏi bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đêm qua, đã quay trở lại, không rõ là do thời tiết xấu hay vì lý do gì đó, cả ba vị là Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, với Đại Tá Duệ, cùng lội nước ra chiến hạm. Vẫn là chiến hạm đang có Trung Tướng Trưởng trên đó. Tôi thấy sự chia tay đêm qua sao mà thản nhiên quá, thản nhiên đến mức không có vẻ gì có chút tình cảm đọng lại trong giây phút chia tay đó làm tôi cảm thấy khó chịu. (lời của Phạm Bá Hoa: Thuật chuyện đến đây đôi mắt anh Trí đỏ hoe, chực phát khóc! Rõ ràng là anh đang xúc động!)


Sau phút im lặng vì xúc động, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí kể tiếp:

''Tôi nhờ ông Hạm Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía trước hầu tránh cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trông thấy e không đẹp lòng nhau. Mãi đến quá trưa, chiến hạm mới rời vùng biển Đà Nẳng và trực chỉ Cam Ranh. Giữa chiến hạm với Bộ Tư Lệnh Hải Quân giữ liên lạc vô tuyến chặt chẻ, nên khi chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh thì nhận được công điện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Theo đó, Tổng Thống ra lệnh cho tất cả lên bờ, chỉ riêng Trung Tướng Trưởng vẫn ở trên chiến hạm và về Sài Gòn ngay. Tôi thắc mắc nếu muốn Trung Tướng Trưởng về Sài Gòn ngay thì tại sao Tổng Thống hay Bộ Tổng Tham Mưu không cho phi cơ ra Cam Ranh đón mà lại bảo đi bằng tàu? Lúc đó Trung Tướng Trưởng nói là ông đi theo Thủy Quân Lục Chiến chớ không về Sài Gòn. Đến khi Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, từ Nha Trang vào Cam Ranh khuyên Trung Tướng Trưởng nên về Sài Gòn theo lệnh Tổng Thống. Sau đó, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I đã theo chiến hạm về Sài Gòn''.


Đến đây là hết lời kể của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.


Với lời thuật trên đây của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, tôi nghĩ rằng: rất có thể là các vị Tư Lệnh đại đơn vị tại Quân Đoàn I, từ binh chủng Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng Hải Quân, Không Quân, và cũng có thể ngay cả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I nữa, đã nhận được lời khuyên “bảo toàn lực lượng” như Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đã nhận của ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cũng nên? Và không chừng chiến hạm vào gần bờ để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng từ “lời khuyên” của ông Tổng Lãnh Sự nữa chăng! Vì rõ ràng là cựu Đại Tá Trí không hề biết lệnh xuất phát từ đâu mà. Và phải chăng với “lời khuyên” đó đã dẫn đến các vị Tư Lệnh có quân có quyền trong tay lần lượt rời khỏi đơn vị hoặc chỉ huy đơn vị triệt thoái? Điều này tôi không rõ, nhưng có điều quí vị đều rõ là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Đà Nẳng đã vào tay quân cộng sản quá dễ như khi vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Plei Ku vậy!


Bây giờ xin mời quí vị nhìn vào đoàn người đông đảo đã “bỏ của chạy lấy người” được các loại tàu quân sự lẫn tàu hàng hải, tàu của Việt Nam lẫn thương thuyền ngoại quốc thuê mướn, vận chuyển đồng bào từ Huế, Đà Nẳng, và các tỉnh dọc duyên hải xuôi Nam, và đưa ra đảo Phú Quốc tạm trú. Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang mà tỉnh lỵ là Rạch Giá, nằm ngay cửa ngỏ vịnh Thái Lan. Số đồng bào chạy loạn này do Bộ Xã Hội phụ trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải quyết chung. Bộ Xã Hội yêu cầu Tổng Cục Tiếp Vận giúp họ tiếp tế mỗi ngày 20.000 phần cơm vắt và phi cơ đưa ra Phú Quốc cung cấp cho đồng bào. Trung Tướng Đồng Văn Khuyên bảo tôi lo giúp Bộ Xã Hội. Tôi điện thoại lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm này:


“Hoa đây Anh. Có việc này xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay được”. Xin lỗi quí vị, tôi xưng hô như vậy với Thiếu Tướng Trần Bá Di, vì chúng tôi thân nhau từ lâu.


“Việc gì mà coi bộ quan trọng vậy anh?


“Tại Phú Quốc hiện có khoảng 20.000 đồng bào của các tỉnh miền Trung chạy vào tạm trú, bên Bộ Xã Hội nhờ quân đội nấu cơm, vắt lại từng vắt, và dùng phi cơ quân sự đưa ra Phú Quốc cho đồng bào. Chuyện này là chuyện hằng ngày nghe Anh. Gạo thì Bộ Xã Hội cung cấp. Anh liệu Trung Tâm có thể giúp bằng cách nấu cơm, vắt lại, cho vô thùng và đưa ra phi trường được không? Dĩ nhiên là chúng tôi lo phi cơ”.


“Được chớ. Chuyện chung mà. Nhưng chừng nào tụi tui nấu?


“Ngay hôm nay, để mai là chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đội nhận giúp. Vậy Anh cho mượn gạo hôm nay nghe, ngày mai chúng tôi chở gạo đến Anh đủ một tuần, sau đó mình tính tiếp”.
“Được. Tôi cho nấu ngay. Khi xong, tôi cho anh hay”.
“Cám ơn Anh rất nhiều”.

“Cái gì mà cám ơn. Mỗi người mỗi đơn vị góp một tay vào trách nhiệm chung chớ!


Trong khi vịnh Cam Ranh bỏ ngỏ, thì tại Biên Hòa, nơi có bản doanh của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn gấp rút tổ chức Bộ Tư Lệnh Tiền Phương, và Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi tình nguyện nhận trách nhiệm chỉ huy Bộ Tư Lệnh này. Ngay sau đó, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương/Quân Đoàn III di chuyển ra Phan Rang, đặt bản doanh ngay trong căn cứ Sư Đoàn 6 Không Quân tại phi trường Bửu Sơn (Phan Rang hay là Ninh Thuận), với nhiệm vụ tổ chức và chỉ huy tuyến phòng thủ tại đây. Phải nhận rằng, sự kiện Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi nhận chức vụ này trong một tình hình hết sức nguy hiểm, vì Phan Rang phút chốc trở thành tuyến đầu trước áp lực của quân cộng sản đang trên đà thắng thế, là một hành động xứng đáng được tuyên dương. Trung Tướng Nghi ngang hàng với Trung Tướng Toàn, mà ông chấp nhận dưới quyền Trung Tướng Toàn, quả là ông hành động vì sự lâm nguy của tổ quốc.


Tôi nói “quân cộng sản 0đang trên đà thắng thế”, nhưng không phải chúng thắng thế do thắng trận, mà chúng thắng thế vì các đại đơn vị của chúng ta lần lượt rút bỏ tuyến phòng thủ trước khi quân cộng sản đến. Còn tại sao các đại đơn vị rút bỏ như vậy, tôi nghĩ, chỉ có quí vị Tư Lệnh các đại đơn vị đó mới giải thích được. Nhưng có lẽ không nên loại trừ giả thuyết về nguyên nhân “bảo toàn lực lượng” tương tự như lời của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân -Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến- nói với Đại Tá Nguyễn Thành Trí -Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến- là ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng đã khuyên ông (tức Thiếu Tướng Lân) như vậy.


Lực lượng dưới quyền Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi thật là phức tạp, vì lực lượng còn lại của Sư Đoàn 2 Bộ Binh, Sư Đoàn Nhẩy Dù, và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến quá mệt mỏi, trong khi tái trang bị cũng như những nhu cầu tiếp liệu khác chưa hoàn chỉnh. Điển hình là Sư Đoàn 2 Bộ Binh từ Quảng Ngãi, và Sư Đoàn 22 Bộ Binh từ Qui Nhơn, triệt thoái về Vũng Tàu- Bà Rịa, Tổng Cục Tiếp Vận đưa quân trang quân dụng từ Sài Gòn ra tái trang bị theo tiêu chuẩn: “Mỗi Sư Đoàn tổ chức 2 Trung Đoàn (thay vì 3), mỗi Trung Đoàn tổ chức 2 Tiểu Đoàn (thay vì 3), Pháo Binh Sư Đoàn tổ chức 2 Tiểu Đoàn (thay vì 3), mỗi Tiểu Đoàn Pháo Binh tổ chức 2 Pháo Đội (thay vì 3), mỗi Thiết Đoàn Kỵ Binh tổ chức 2 Chi Đoàn (thay vì 3)”. Tất cả chỉ vì không đủ quân số, cũng không đủ quân trang quân dụng, vì số lượng quân trang quân dụng tồn trữ là dành cho nhu cầu thay thế chớ không dự trù để trang bị cấp đại đơn vị. Chỉ có các đơn vị của Thủy Quân Lục Chiến là được Sư Đoàn này bổ sung quân số tương đối đầy đủ bằng số tân binh vừa huấn luyện xong.


Sau khi tái tổ chức, tuy vẫn còn danh hiệu Tiểu Đoàn, Trung Đoàn, Sư Đoàn, nhưng tổ chức đơn vị, trang bị, cộng với tinh thần, phải công nhận là sức chiến đấu các đơn vị chắc chắn sẽ sút giảm nghiêm trọng! Tái tổ chức và trang bị xong, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh tức tốc chuyển quân ra Phan Rang, trong khi Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh chuyển quân theo quốc lộ 4 xuống trấn giữ Tân An. Quốc lộ nối liền Sài Gòn với các tỉnh đồng bằng Cửu Long.


Và rồi tuyến đầu Phan Rang thất thủ. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư Lệnh chiến trường, và Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân, cùng nhiều sĩ quan trực thuộc bị bắt làm tù binh. Tiếp đó là Đà Lạt, Lâm Đồng, Bình thuận (tức Phan Thiết), và Bình Tuy (tức Hàm Tân), đều bỏ ngỏ, lui về Vũng Tàu và thủ đô Sài Gòn. Sư Đoàn 25 Bộ Binh của Thiếu Tướng Lý Tòng Bá, từ Tây Ninh cũng lui về căn cứ Củ Chi, sát nách Sài Gòn.


Ngay trước ngày rút bỏ Nha Trang, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, chỉ thị tôi gấp rút nghiên cứu tái tổ chức toàn ngành Tiếp Vận và phối trí từ vĩ tuyến 13 (trên địa thế là Phan Rang) trở xuống. Với lệnh này, tôi hiểu là lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn lại từ Phan Rang xuống đến Cà Mau, ra Phú Quốc và Côn Sơn! Tôi chỉ kịp trình bản phác thảo kế hoạch thì Phan Rang thất thủ, và nhiệm vụ nghiên cứu chấm dứt từ đó. Xin nhắc lại là lúc bấy giờ có dư luận về một áp lực từ phía ngoại quốc, buộc Việt Nam Cộng Hòa cắt phần trên vĩ tuyến 13 đến vĩ tuyến 17 giao cho tổ chức gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch. Mặt Trận này là tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản Việt Nam và khai sinh vào cuối năm 1960 trong khu rừng già biên giới Việt Nam-Cam Bốt. Như vậy, dư luận đó không phải là không có cơ sở.


Lui xuống tuyến Xuân Lộc. Tại đây, Sư Đoàn 18 Bộ Binh do Thiếu Tướng Lê Minh Đảo giữ chức Tư Lệnh, ước tính khoảng 2 Sư Đoàn quân cộng sản mở cuộc tấn công vào Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Rất có thể là chúng cứ tưởng “chẻ tre” như từ sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) xuống đến đây, nhưng chẳng may cho chúng là sức kháng cự mãnh liệt của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, cộng với quyết định sử dụng bom CBU -loại bom hút hết dưỡng khí trong một đường kính nhất định và những ai trong khu vực đó đều không có dưỡng khí để thở- và loại bom 10 tấn dùng khai phá bãi đáp cho trực thăng giữa rừng già, đã gây thiệt hại nặng nề cho quân cộng sản. Thiệt hại đến mức chúng phải rời mục tiêu Sư Đoàn 18 Bộ Binh để vòng xuống tấn công Biên Hòa. Sau đó, Sư Đoàn 18 Bộ Binh được lệnh Quân Đoàn III rút về trấn giữ căn cứ Long Bình.


Về phía Tiếp Vận. Từ sau ngày mất Cao Nguyên đến lúc này, toàn bộ các kho của toàn ngành Tiếp Vận từ Huế vào đến Cam Ranh, hầu như nguyên vẹn khi những đoàn quân triệt thoái, vì Tổng Cục Tiếp Vận không nhận được bất cứ một mệnh lệnh nào phải phá hủy các kho tồn trữ trước khi các đại đơn vị rút lui cả. Mà thật ra nếu có lệnh cũng không chắc là các đơn vị trách nhiệm có đủ thì giờ để phá, vi hầu hết là rút lui trong hỗn loạn chớ có kế hoạch gì đâu mà phá hủy!


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10


CHƯƠNG  IX

HỒI KÝ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA: NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG - NGÀY 21/4 ĐẾN 28/4/1975


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10




Tổng Thống Thiệu từ chức.


Trong chính trị, không thiếu những cái khôi hài, nhưng khôi hài trong cái gọi là Hoa Kỳ vẫn tiếp tục viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa vào cái lúc mà chính Hoa Kỳ



muốn “con bệnh Việt Nam mau được tẩn liệm”, quả là khôi hài đến rơi nước mắt!


Đó là những ngày hạ tuần tháng 4 năm 1975, có những chuyến phi cơ vận tải C.130 và C.141 lác đác đáp phi trường Tân Sơn Nhất, mang theo một số đại bác 105 ly đã dùng rồi, một số mũ sắt không đồng bộ, nghĩa là chỉ có mũ nhựa bên trong mà không có mũ sắt bên ngoài, vài trăm túi cứu thương cá nhân,..... mà báo chí gọi là Hoa Kỳ vẫn viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa!

Thật là tội nghiệp cho chữ nghĩa! Thật ra, đó chỉ là những chuyến phi cơ đến Sài Gòn với nhiệm vụ chính là chuyên chở những tài liệu và máy móc quan trọng của Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam.







Trong khi Việt Nam cần ngay trước mắt 300.000.000,00 mỹ kim bổ sung nhu cầu duy trì khả năng chiến đấu, thì phái đoàn này rồi phái đoàn khác của Hoa Kỳ lần lượt đến Việt Nam gọi là cứu xét để viện trợ, nhưng dường như họ muốn đến tận xứ sở bất hạnh này để xem chương chiến tranh ý thức hệ giữa cộng sản với tự do bao giờ thì bắt đầu xếp vào quá khứ, khi họ đặt những câu hỏi chẳng thiện cảm chút nào trong lúc họ xem "trưng bày" tại võ đình trường Bộ Tổng Tham Mưu, một số vũ khí tịch thu của quân cộng sản. Mà thật ra các giới chức Việt Nam cũng thừa hiểu là họ không có ý tích cực nào trong mục đích nghiên cứu thời sự cho vấn đề viện trợ bổ sung cả, nên Bộ Tổng Tham Mưu cũng chỉ trưng bày một số vũ khí tịch thu của quân cộng sản từ những chiến trường trước chớ không phải từ chiến trường nóng hổi mới đây. Xin nói thêm rằng, trong tài khóa 1974-1975, Hoa Kỳ viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa 700.000.000,00 mỹ kim, và đây là lần đầu tiên họ cho biết số ngân khoản viện trợ cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời họ yêu cầu cung cấp cho họ kế hoạch nhận viện, gồm những loại quân dụng nào? Loại đạn nào? Bao nhiêu? ..v..v.. Và Tổng Cục Tiếp Vận đã cung cấp kế hoạch đó cho họ.


Sau khi Phước Long vào tay quân cộng sản, một phiên họp mật được tổ chức tại phòng họp số 2 của Bộ Tổng Tham Mưu, thường gọi là phòng họp "Tân Sinh Nông Thôn".


Tham dự, về phía Việt Nam có: (1) Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. (2) Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, với 5 sĩ quan tham mưu của Phòng 3. (3) Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó Tổng Cục Tiếp Vận. (4) Tôi, Đại Tá Phạm Bá Hoa, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, và 3 sĩ quan nữa của bộ tham mưu chúng tôi.


Phía Hoa Kỳ tham dự, có: (1) Thiếu Tướng Smith, Trưởng Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Việt Nam. (2) Đại Tá Pelosky, Phụ Tá Thiếu Tướng Smith về Tiếp Vận, và 2 sĩ quan tham mưu của họ.


Mục đích buổi họp là Văn phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ -chớ không phải do Bộ Tổng Tham Mưu- trình bày kế hoạch tái tổ chức Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (!) với quân số 472.000 người, và Hoa Kỳ dự trù viện trợ duy trì đội quân này mỗi năm là 600.000.000,00 mỹ kim. Họ yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nghiên cứu lại các bảng cấp số của từng loại đơn vị để quân số tham gia tác chiến được 65%. Tất nhiên là buổi họp còn thảo luận nhiều chi tiết nữa.


Xin được nhấn mạnh là họ đã có kế hoạch rút chân ra khỏi Việt Nam trước một tình hình cực kỳ nguy hiểm -bằng chứng là lời của Thiếu Tướng Smith đã nói trong bữa ăn tối nhân Giáng Sinh năm 1974- mà họ lại ra cái điều vẫn quan tâm đến tương lai Việt Nam khi họ đưa ra kế hoạch tái tổ chức quân đội, nghiên cứu kế hoạch viện trợ bổ sung. Ngôn ngữ chính trị là như vậy đó! Nói vậy, nhưng không nhất thiết là như vậy đâu, mà tùy thuộc nhiều yếu tố khác nhau để hiểu loại ngôn ngữ này.


Đành rằng, những đòi hỏi cấp bách trong nội bộ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ kết thúc sự can dự của Hoa Kỳ vào chiến tranh chống cộng sản tại Việt Nam, cho nên từ lời nói ngoại giao đến hành động cũng ngoại giao của Hoa Kỳ, chỉ là chuyện đầu môi chót lưỡi của những nhà chính trị cũng như quân sự thôi. Thủ đoạn của những nhà chính trị là điều cần thiết trong phòng thủ hay tấn công đối phương, thậm chí sử dụng ngay cả các quốc gia đồng minh nữa, nhưng thủ đoạn mà Hoa Kỳ sử dụng đối với Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, một quốc gia mà Hoa Kỳ thừa nhận là tuyến đầu chống cộng sản quốc tế tại Đông Nam Á Châu, quả là thiếu liêm sĩ trong lãnh đạo!


Tôi nghĩ, đây là bài học lãnh đạo mà thế hệ chúng ta không bao giờ quên, bởi vì nó cay đắng quá, bi thảm quá! Và những thế hệ sau chúng ta, nên gìn giữ bài học chứa đựng quá nhiều xương máu của dân tộc trong hành trang vào đời, để nghiền ngẫm mà phục vụ nguyện vọng toàn dân dù ở bất cứ cương vị nào trong xã hội.


Xin mời quí vị quí bạn rời khỏi cái phòng họp gần suốt buổi sáng, nơi ẩn chứa một không khí đầy dối trá trong chính trị lẫn quân sự từ một cường quốc “đồng minh”, để nhìn vào một thực tại bi thảm của chúng ta!


Với những cuộc rút lui hỗn loạn của Quân Đoàn I, Quân Đoàn II, và phần lớn của Quân Đoàn III, trong khi toàn lãnh thổ Quân Đoàn IV gồm 16 tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, chưa có những trận đánh quan trọng nào, và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV, đã ra lệnh báo động cho Sư Đoàn 7 Bộ Binh, Sư Đoàn 9 Bộ Binh, Sư Đoàn 21 Bộ Binh, Sư Đoàn 4 Không Quân, cùng với Hải Quân, và các đơn vị tác chiến khác -kể cả Địa Phương Quân Nghĩa Quân- sẳn sàng chống trả các cuộc tấn công của quân cộng sản. Và cũng đến lúc này (20/4/1975), chưa thấy chỉ dấu nào về một thảm trạng rút lui hay bỏ chạy trong phạm vi Quân Đoàn IV cả. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, vốn dĩ là mẫu người hiền hòa nhưng rất cương quyết. Ông rất quan tâm và chăm sóc đời sống của quân nhân thuộc quyền. Tư cách và uy tín của ông, hoàn toàn chinh phục được những vị Tướng Lãnh và quân nhân thuộc quyền.


Tổ Quốc đang trong cảnh mất mát suy tàn, với vô vàn đau thương cho tất cả các tầng lớp trong xã hội, nhất là đối với những gia đình từ các tỉnh Cao Nguyên và Duyên Hải miền Trung, đã bỏ của chạy lấy người vào sống nhờ sống tạm trên phần đất mong manh còn lại này, thì tình hình chính trị nội bộ lại lung lay tận gốc rễ. Những tin đồn đoán nào là Đại Tướng Dương Văn Minh đảo chánh, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảo chánh, nào là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị áp lực từ chức, ..v..v.. được truyền đi từ người này sang người khác, nhưng thật sự thì chẳng mấy ai biết những tin đó xuất phát từ đâu cả. Thông thường thì những loại tin như vậy cũng không phải hoàn toàn vô căn cứ, nếu nó xảy ra thì trở thành sự thật nhưng nếu nó không xảy ra thì xếp vào loại câu chuyện làm quà hoặc câu chuyện lúc trà dư tửu hậu để tỏ ra mình nắm vững thời cuộc.


Trong loạt tin đồn đoán lần này, có một tin xảy ra đúng như vậy, đó là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vị Tổng Thống thứ nhì của Việt Nam Cộng Hòa và là Tổng Thống thứ nhất của nền đệ nhị Cộng Hòa, tuyên bố từ chức vào tối 21 tháng 4 năm 1975, sau khi ông mạnh mẽ cáo giác Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh Việt Nam (!) Và ông cũng tuyên bố rằng, "Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu bên cạnh anh em chiến sĩ”. Ý nói là Trung Tướng (Thiệu) sẽ tiếp tục phục vụ trong hàng ngũ quân đội. Trước đó, ngày 4/4/1975, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đã từ chức và bàn giao chức vụ Thủ Tướng cho Dân Biểu Nguyễn Bá Cẩn, đương nhiệm Chủ Tịch Hạ Nghị Viện.


Lúc bấy giờ có dư luận cho rằng, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đang được quân đội ủng hộ để trong một tình huống nào đó sẽ thay thế Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vì quân đội đang bị Tổng Thống Thiệu đưa chính trị vào “cướp quyền” lãnh đạo của các cấp chỉ huy, và đó là lý do Tổng Thống Thiệu cách chức Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm dưới hình thức từ chức. Về phần tôi, tôi không thu thập được gì trong các cơ quan sở tại Bộ Tổng Tham Mưu về điều đồn đoán này, nhưng tôi tin là có điều gì đó tựa như “cơm không lành canh không ngọt” giữa Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu với Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm.


Xin nhắc lại. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm lưu vong từ ngày 7 tháng 10 năm 1964, sau đó giữ chức Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ. Chuyển sang nhiệm sở tại Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) từ tháng 10 năm 1965. Đến tháng 5 năm 1968, về Việt Nam giữ chức Tổng Trưởng Nội Vụ. Đầu năm 1969, giữ chức Phó Thủ Tướng. Và đến đầu tháng 9 năm 1969, thay giáo sư Trần Văn Hương trong chức vụ Thủ Tướng. Rồi khi Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ bị cách chức Tổng Trưởng Quốc Phòng năm 1972 vì vụ Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm kiêm nhiệm thêm chức vụ này.


Trong những năm chiến tranh chưa đến hồi khốc liệt và được viện trợ đầy đủ, Tổng Thống, Thủ Tướng, sát cánh với quân đội và toàn dân chiến đấu chống cộng sản, nhưng khi tổ quốc thật sự lâm nguy thì hai vị lãnh đạo cao nhất nước, đã kế tiếp nhau chuyển giao chức vụ cho hai vị khác trước cơn dầu sôi lửa bỏng của đất nước nhỏ bé và bất hạnh triền miên này! Sau đó, hai vị đã âm thầm bỏ tổ quốc Việt Nam, nơi mà quí vị được sinh ra và lớn lên. Quí vị bỏ quân lực Việt Nam Cộng Hòa, một quân đội đã từng đưa quí vị lên tột đỉnh quyền uy danh vọng. Và quí vị bỏ gần 20 triệu đồng bào mà chính Họ đã từng bỏ phiếu bầu một trong hai vị vào chức vụ Tổng Thống trong hai nhiệm kỳ để lo bảo vệ đất nước, lo chăm sóc người dân. Nói chung là quí vị bỏ lại đằng sau tất cả, để rồi quí vị lặng lẽ rời khỏi Việt Nam trong đêm tối trước ngày dân tộc Việt Nam bị cộng sản độc tài cai trị! Còn gì để nói đây!


Nếu sau này quí vị có nói gì với dân tộc Viêt Nam khốn khổ này, xin quí vị đừng nói rằng quí vị từ chức chỉ vì Hoa Kỳ không còn viện trợ nên không đủ phương tiện để tiếp tục chống cộng sản nữa! Tôi nghĩ, quí vị đừng nói gì cả thì vấn đề sẽ không tệ thêm, vì quí vị là những người lãnh đạo quốc gia!


Theo đúng Hiến Pháp, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đã tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống hai ngày sau đó. Và trên làn sóng đài phát thanh Hà Nội, cộng sản nêu yêu sách và có vẻ như Hoa Kỳ đồng lỏa với họ để gây áp lực buộc tân Tổng Thống Trần Văn Hương giao chức vụ này cho nhân vật không dự liệu trong Hiến Pháp 1967. Đó là Đại Tướng Dương Văn Minh. Và điều lạ là Đại Tướng Minh sẳn sàng nhận chức Tổng Thống không hợp hiến từ tay Tổng Thống hợp hiến Trần Văn Hương.


Tân Tổng Thống Trần Văn Hương là một nhà giáo mẫu mực, liêm khiết, một nhà chính trị với tất cả nhiệt tình vì quốc gia dân tộc, và là một nhà lãnh đạo rất bình tỉnh thận trọng. Ông yêu cầu triệu tập Quốc Hội để có quyết định và ông sẽ tôn trọng quyết định đó. Điều này cho thấy Tổng Thống Trần Văn Hương không tham quyền cố vị, nhưng ông không thể tự mình chuyển giao chức vụ như vậy được, vì Hiến Pháp không dự liệu điều khoản nào cho trường hợp tương tự.



*****


Tổng Thống Hương bàn giao cho Đại Tướng Minh.


Đêm 28 tháng 4 năm 1975, trong khi đường phố thủ đô đông nghẹt đồng bào bồng bế di tản về đây từ các tỉnh đã vào tay cộng sản, Quốc Hội lưỡng viện đã họp và quyết định Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ này cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Quyết định này hẳn là hợp "khẩu vị chính trị" nên các vị lãnh đạo quyền uy thi hành ngay. Hoa Kỳ cũng không có ý kiến gì khác.


Nước Pháp đã thua trận trước đối thủ Việt Minh cộng sản được đánh dấu bởi Hiệp Định Đình Chiến ký ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại thành phố Genève, Thụy Sĩ. Sau đó đoàn cố vấn Hoa Kỳ vào Việt Nam thì quân đội Pháp triệt thoái toàn bộ khỏi Việt Nam trong những tháng đầu năm 1956. Đến đầu năm 1964, quí vị Tướng Lãnh Việt Nam có khuynh hướng thân Pháp đều bị gạt khỏi vai trò lãnh đạo quân đội từ sau cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 thành công. Và bây giờ, trong tình thế Hoa Kỳ đang như "thua trận" trước đối thủ Việt Nam cộng sản, nước Pháp muốn đưa ảnh hưởng của họ trở lại chính trường Việt Nam với bước đầu là đảm nhiệm "vai trò con thoi" giữa tân Tổng Thống sắp nhận chức Dương Văn Minh với cộng sản Hà Nội. Người thay mặt nước Pháp tại Việt Nam Cộng Hoà trong vai trò đi tìm một giải pháp chính trị khả dĩ hai bên có thể chấp nhận được là Ông Đại sứ Mérillon. Nhưng đến sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, mới vở lẽ rằng, nước Pháp đã bị cộng sản Hà Nội lừa, vì họ nhất quyết đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chớ không nhằm mục đích tìm giải pháp gì cả. Những toan tính đầu môi của Hà Nội là loại chính sách "ngoại giao hàng tôm hàng cá" mà họ thường áp dụng trong bang giao quốc tế, ấy vậy mà nước Pháp -một trong những cường quốc Âu Châu- bị họ qua mặt dễ dàng. Đó là "một cái tát đau" mà cộng sản Việt Nam tặng Pháp quốc. Liệu có nên chia xẻ "cái đau" ấy với cường quốc Âu Châu này đã hơn 80 năm đô hộ Việt Nam mình hay không?


Chiều 28 tháng 4 năm 1975, buổi lễ giao và nhận chức Tổng Thống giữa Giáo sư và là nhà chính trị lão thành Trần Văn Hương với Đại Tướng Dương Văn Minh, diễn ra trong không khí hỗn loạn trên đường phố thủ đô và không khí trầm lắng ngay trong Phủ Tổng Thống. Vị Tổng Thống 7 ngày Trần Văn Hương giới thiệu tân Tổng Thống Dương Văn Minh như là một người rất can đảm khi nhận chức vụ này, trong khi tân Tổng Thống Dương Văn Minh rất thận trọng chưa dám hứa là sẽ làm được gì, nhưng ông tin là ông có khả năng thương thuyết với Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam để thành lập chánh phủ liên hiệp, đem lại hòa bình cho quốc gia dân tộc. "Chánh phủ liên hiệp" được hiểu là chánh phủ quốc gia và cộng sản. Tổng Thống Dương Văn Minh không nói đến nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội, mà ông chỉ nói là sẽ thương thuyết với Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch. Tôi nghĩ, đó là cách dùng chữ của Tổng Thống Dương Văn Minh, nhưng bất cứ người dân nào cũng hiểu rằng, ông Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ hay Thủ Tướng Huỳnh Tấn Phát của cái Mặt Trận đó cũng chỉ là những cái loa của cộng sản Hà Nội thôi. Cho nên Cộng Hòa Miền Nam hay Cộng Sản Miền Bắc, cũng là cộng sản.


Cũng trong lễ bàn giao này, cựu Tổng Thống Trần Văn Hương đã nói một cách dõng dạc và rõ ràng rằng:


"Tôi xin hứa với tất cả anh em ở trong trong quân đội là ngày nào anh em còn chiến đấu, tôi luôn luôn đứng bên cạnh anh em và ngày nào, chẳng may, mà đất nước không còn thì cái nắm xương khô của tôi sẽ nằm bên cạnh đống xương của tất cả anh em chiến sĩ. Đó là cái nguyện vọng tha thiết của tôi, suốt cả đời tôi…”


Vị giáo sư mẫu mực và là nhà chính trị lão thành Trần Văn Hương, đã giữ đúng lời nói của mình. Vì sau cùng, ông đã chết ngay trên quê hương Việt Nam giữa muôn vàn đau khổ của đồng bào dưới chế dộ cộng sản độc tài nghiệt ngã! Vị giáo sư già đó: ông Trần Văn Hương, xứng đáng được chúng ta ngã mũ cúi chào một cách trân trọng. Từ nơi hải ngoại nửa vòng trái đất xa xôi, xin gởi về một nén hương nhờ cắm trước mộ Giáo Sư Trần Văn Hương, với lời nguyện hương linh Ông siêu thoát nhẹ nhàng . . .


Về lời nói đầu tiên của tân Tổng Thống Dương Văn Minh, thì bất cứ người dân bình thường nào cũng hiểu rằng, kế hoạch hòa bình của ông nếu được cộng sản Hà Nội chấp nhận, chẳng qua là họ chấp nhận đầu hàng theo từng bước. Bước đầu là hòa giải hòa hợp và chỉ cần bước kế tiếp là toàn cõi Việt Nam trở thành cộng sản thôi. Nhưng nói đi cũng nên nghĩ lại, là biết đâu, nếu như "thời cơ" của ông đến thì ông cũng làm nên chuyện vĩ đại lắm chớ.


Nhận xét và suy nghĩ của tôi, Đại Tướng Dương Văn Minh là một nhân vật dễ tạo cảm tình với nhiều người nhiều giới, nhưng là nhân vật không thích hợp với vai trò lãnh đạo chính trị, lại càng không thích hợp với một tình thế như vậy, vì ông không phải là người tháo vát, nhanh nhẹn, và dũng lược.



*****


Di tản!



Tối 23 tháng 4 năm 1975, Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó Tổng Cục Tiếp Vận, điện thoại đến nhà tôi, ông nói:


“Đại Tá Pelosky, yêu cầu các sĩ quan Tổng Cục đưa tên gia đình sang bên đó (tức Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ=DAO) để ghi vào danh sách chuyến bay, và gia đình có thể rời Việt Nam vào tối mai hoặc đêm sau đó. Sĩ quan sẽ đi sau. Vậy anh liên lạc đưa danh sách gia đình ngay trong đêm nay cho tôi hoặc đưa thẳng cho Đại Tá Pelosky cũng được”.


Tuy đã biết về lời của Tướng Smith, cùng theo dõi chặt chẻ tình hình chiến sự và tình hình chính trị quốc nội quốc ngoại, nhưng tôi vẫn cảm thấy tin này quá đột ngột, tôi đáp:


“Đây là vấn đề rất quan trọng đối với cuộc sống gia đình tôi và ảnh hưởng đến thân quyến tôi nữa, nên tôi cần thảo luận với gia đình mới quyết định được anh à. Nghĩa là tôi chưa thể trả lời trong đêm nay, và dù sao thì tôi cũng cám ơn anh”.


Thế là từ đêm hôm sau, những gia đình của các sĩ quan trong ngành lần lượt lên phi cơ Hoa Kỳ rời Sài Gòn để đến đảo Guam tạm trú, chờ làm thủ tục và cũng là chờ người thân đến trước khi vào lục địa Hoa Kỳ định cư. Tôi xin nói thêm rằng, không phải gia đình của tất cả sĩ quan trong ngành Tiếp Vận đều ra đi, vì lệnh này không được phổ biến cho nên sĩ quan nào biết thì liên lạc với các sĩ quan trách nhiệm của Tổng Cục Tiếp Vận, các vị này giới thiệu với Đại Tá Pelosky và được ghi vào danh sách lên phi cơ rời Việt Nam vào đêm sau đó.


Sáng 24 tháng 4 năm 1975, tôi lên văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, ông nói:
“Gia đình tôi không đi mặc dù danh sách đã đưa cho Đại Tá Pelosky rồi”.


“Sao vậy Trung Tướng?
“Anh nghĩ coi, gia đình tôi đâu có tiền, sang bên đó làm sao mà sống. Với lại tình hình quốc gia như thế này mà lại tính chuyện ra đi thì còn mặt mũi gì nữa!


Ngưng một lúc, ông tiếp:


“Mất nước đến nơi mà các ông cứ tranh nhau chức vụ quyền hành (ý nói đến chức vụ Tổng Thống!) Buồn quá!
“Tôi thì chưa tính gì, nhưng nếu Trung Tướng có tính đi thì nên cho gia đình đi ngay kẻo muộn, vì gia đình các anh đơn vị trưởng và các anh Chánh Sở tại Tổng Cục Tiếp Vận mình đã đi rồi”.


“Tôi cũng chưa dứt khoát”. Lời của Trung Tướng Khuyên.
Nói thì nói vậy, nhưng đêm sau đó -25 tháng 4 năm 1975- gia đình của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên cũng lên đường đi Guam. Theo lời Trung Tướng Khuyên thì Thiếu Tướng Smith thúc giục ông đưa gia đình đi càng sớm càng tốt.


Thật ra thì hành khách trên các phi cơ C130 và C141 rời phi trường Tân Sơn Nhất vào mỗi tối kể từ 24 tháng 4 năm 1975, không phải chỉ có gia đình sĩ quan mà còn có mặt của nhiều người nhiều giới trong xã hội nữa, vì bất cứ ai có bạn bè quen biết với Đại Tá Pelosky, thì họ giới thiệu hay gởi gắm không có gì khó khăn cả.


Từ ngày bắt đầu di tản với những chuyến bay đêm, thì mỗi sáng tôi đều lên văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, thảo luận về chiến sự và thời sự trong tính cách tâm tình hơn là ra lệnh và nhận lệnh giữa Tổng Cục Trưởng với Tham Mưu Trưởng Tổng Cục. Tấm bản đồ trên vách trái bàn giấy của ông, những ước hiệu hình dáng như cái phong bì màu đỏ tượng trưng đơn vị cộng sản bao quanh Sài Gòn, và tương tự như vậy nhưng màu xanh lá cây tượng trưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phòng thủ thủ đô, thì màu đỏ nhiều hơn màu xanh. Thật ra đó chưa chắc là thực lực của quân cộng sản đến như thế, bởi chúng thường ngụy tạo bằng các sóng truyền tin loại trang bị cho đại đơn vị đặt ở đâu đó, để các sóng tình báo kỹ thuật của mình ghi nhận và ghi lên bản đồ vị trí các đại đơn vị của chúng. Trong số lực lượng cộng sản do Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu ghi nhận trên bản đồ, có thể một số là có thật, số khác rất có thể là chúng ngụy tạo thêm. Tôi nhận định như vậy, vì phi đoàn tình báo kỹ thuật của Phòng 7/Bộ Tổng Tham Mưu đã từng ghi nhận và phát giác sự kiện này.


Lệnh di tản không cho phổ biến đã gây nhiều phẫn nộ ngay trong hàng sĩ quan cao cấp đang phục vụ trong Quân Trấn Sài Gòn, và nhiều vị trong số này đều cho là Bộ Tổng Tham Mưu tắc trách, hoặc có ý gì khác. Tắc trách thì chắc chắn là không, nhưng có ý gì khác hay không thì tôi không rõ, nhưng hiển nhiên là có lời nặng tiếng nhẹ đối với Tổng Cục Tiếp Vận. Chẳng hạn như Y Sĩ Đại Tá Hoàng Cơ Lân, Chỉ Huy Trưởng Trường Quân Y là trường hợp điển hình khi ông đẩy cửa thật mạnh và sừng sững trước mặt tôi:


“Tại sao Đại Tá không thông báo cho chúng tôi biết kế hoạch di tản? Như vậy là ý gì?
“Anh đừng nóng, tôi trả lời anh đây. Chúng tôi không thông báo cho bất cứ ai, vì đó là lệnh mà chúng tôi cũng chỉ là cấp thừa hành thôi. Ngoài ra, không có ý gì hết. Bây giờ xin anh cho biết là anh cần gì?


“Tôi cần đưa gia đình di tản”.
“Có gì khó đâu mà anh phải to tiếng. Mời anh sang gặp Đại Tá Tổng Cục Phó để cung cấp danh sách, và tối mai là gia đình anh đi thôi”.


Trong tuần lễ cuối cùng của tháng 4 năm 1975, trên đường về nhà dùng cơm chiều để rồi vào ngủ đêm trong Tổng Cục Tiếp Vận, tôi sử dụng đường Cách Mạng 1/11, chuyển sang đường Hiền Vương và thẳng đường Trần Quốc Toản về cư xá Bắc Hải (cũng gọi là cư xá sĩ quan Chí Hòa). Nhìn đường phố thủ đô chưa đến nỗi gọi là hỗn loạn nhưng cũng không xa ý nghĩa đó bao nhiêu. Tiếng động cơ và tiếng còi inh ỏi của các loại xe, chen lẫn trong âm thanh của những đoàn người ngược xuôi giữa khói mù thải ra từ các xe lớn nhỏ, hòa vào bụi bậm phố phường, đã tạo nên một hình ảnh bi thảm của chiến tranh! Trong những đoàn người từ các tỉnh chạy về đây, người thì tìm nơi cư trú, kẻ tìm phương tiện chạy xa thêm nữa. Các đơn vị quân đội cũng tán loạn, dân không hẳn là dân mà lính cũng không hoàn toàn là lính. Quân phục không nghiêm chỉnh, súng đạn thì kẻ còn người mất, không biết cấp chỉ huy ở đâu mà tìm. Mặt khác, còn phải tìm thân nhân thất lạc sau cuộc di tản đầy hiểm nguy gian khổ! Trông nét thảm thương của các đồng đội, tôi mới thấy tôi còn nhiều may mắn hơn các bạn ấy. Nhưng tôi không làm được gì cả!


Vào phi trường Tân Sơn Nhất để tìm giúp gia đình người bạn và trao bức thư vì anh ấy không vào được, tôi lại chứng kiến cảnh tượng chia tay chưa biết ngày gặp lại thật là xót xa thương cảm! Đó là những người chờ lên phi cơ mà hầu hết là phụ nữ và trẻ con. Tiếng trẻ con khóc đòi ăn, la đòi bú, những đứa khác thì chạy nhảy rất ngây thơ đến tội nghiệp! Người lớn thì kẻ ngồi người đứng, ưu tư, lo lắng, thậm chí đôi mắt đỏ hoe, và chốc chốc nhìn ra hướng cổng phi trường như mong ngóng người thân trong những giờ còn lại trên phần đất quê hương trước khi "di tản" sang Hoa Kỳ, một đất nước xa xôi đến nửa vòng trái đất!


Bên cạnh hình ảnh đau thương đó, nhiều xe du lịch đậu sát lề đường hay trên sân cỏ, và trong số đó có những chiếc xe có sẳn chìa khoá cùng với thẻ chủ quyền có kèm theo mảnh giấy của chủ nhân: "Tặng xe này cho bạn nào ngồi vào tay lái. Xin chào". Tôi đã nhìn vào một chiếc xe như vậy. Trong khi bên ngoài cổng, một dòng xe xếp hàng từ cổng phi trường dài gần đến cổng Bộ Tổng Tham Mưu. Từng gia đình tụm năm tụm bảy trên chiếc chiếu nhỏ hoặc tấm vải trắng dưới cái nắng gay gắt của Sài Gòn tháng tư, và bên cạnh là những thức ăn nước uống ngổn nga, đó là cảnh chạy trốn thảm họa cộng sản!


Xuống bến Bạch Đằng, nơi có những thương thuyền ngoại quốc lẫn thương thuyền Việt Nam sắp sửa kéo neo, cũng cái cảnh nhốn nháo, vội vã, tiếng gọi ơi ới với tiếng la tiếng khóc của trẻ con, và cả tiếng gào thét giữa người đi kẻ ở, ai ai cũng vội vã, cũng hấp tấp, sao mà bi thảm đến như vậy!


Trong thế kỷ 20 này, người dân sinh sống miền Bắc đã một lần chạy trốn thảm họa cộng sản hồi năm 1954-1955. Giờ đây -20 năm sau- lại một lần nữa, hằng chục ngàn người trong số đó cùng với nhiều chục ngàn người sinh sống miền Nam, đã và đang tìm cách chạy khỏi vòng tay cai trị của cộng sản. Nhưng lần này, họ phải chạy đến một nơi ngôn ngữ bất đồng, văn hoá khác biệt, phong tục tập quán hoàn toàn xa lạ. Nói chung là rất nhiều nỗi lo chồng chất phía trước, nhưng vấn đề cấp bách là phải chạy khỏi nơi đây rồi mọi việc sẽ bắt đầu . . .



Tổ quốc tôi, đất nước tôi, dân tộc tôi, đến thời mạt vận rồi sao!
Sau ngày cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm lên phi cơ sang Đài Bắc (Đài Loan), đến Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng một quân đội hơn 1.000.000 người, cũng lên phi cơ rời bỏ Việt Nam! Ông ra đi trong khi Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đang quần thảo với khoảng 2 Sư Đoàn quân cộng sản tại Xuân Lộc và chung quanh. Với những tổn thất nặng nề nhưng quân cộng sản không hạ nỗi Sư Đoàn 18, nên chúng rời chiến trường Xuân Lộc để chuyển quân xuống tấn công căn cứ Sư Đoàn 3 Không Quân tại Biên Hòa. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Không Quân từ Đà Nẳng, Sư Đoàn 2 Không Quân từ Plei Ku, Sư Đoàn 6 Không Quân từ Qui Nhơn và Nha Trang, tập trung về căn cứ Không Quân Biên Hòa, lại chuyển xuống Sư Đoàn 4 Không Quân ở Cần Thơ, sau khi tham gia đánh chận lực lượng bộ binh và phòng không của địch.


Chiều 28 tháng 4 năm 1975. Từ cửa sổ văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, tôi đứng nhìn toàn cảnh khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, theo con đường chánh về phía phải là ra cổng số 1 tại giao lộ Võ Tánh nối dài với đường Cách Mạng 1/11, về phía trái là cổng số 3 ra đường Võ Di Nguy. Ngay trước tòa nhà chánh là võ đình trường rộng lớn, uy nghi, chính giữa là cột cờ cao vời vợi với lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ đang tung bay trong gió. Vẫn những tòa nhà 2 tầng khang trang với dáng vấp kiến trúc Châu Âu, dùng làm văn phòng cho các Tổng Cục và Phòng Sở của Bộ Tổng Tham Mưu. Vẫn những hàng cây trang điểm màu xanh, cũng là buồng phổi của căn cứ quân sự đầu não mà tôi nhìn thấy gần như liên tục hơn 12 năm qua. Vẫn những chiếc quân xa trên những con đường ngang dọc đầy bóng mát. Và vẫn thấp thoáng những quân nhân qua lại giữa các tòa nhà, nhưng tôi tưởng như mình đang trơ trọi giữa khoảng trống mênh mông của một nghĩa trang chiến tranh nào đó! Vì rằng những vị Tướng Lãnh cùng nhiều sĩ quan cao cấp của cơ quan đầu não này đã ra đi, số còn lại cũng đang nói chuyện ra đi, chẳng còn ai nói đến chuyện chiến đấu nữa! Cho đến lúc này thì hầu hết những vị đầy quyền lực của chúng tôi nơi đây, đã cao bay (trực thăng) xa chạy (ra Hạm Đội 7 Hoa Kỳ) hết rồi!


Phải chăng, đây là giờ hấp hối của Bộ Tổng Tham Mưu, cơ quan đầu não của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa?
Ôi! Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một quân lực vì lý tưởng tự do mà chiến đấu, nhưng lại bất hạnh bởi những vị lãnh đạo quyền lực đã không thi hành trách nhiệm khi tổ quốc thật sự lâm nguy!



*****


Trước giờ thứ 25.


Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, ngay trước khi tuyên bố từ chức Tổng Thống vào đêm 21 tháng 4 năm 1975, đã “cáo buộc” Hoa Kỳ phản bội đồng minh Việt Nam, bỏ rơi Việt Nam, ... và ông hy vọng sự từ chức của ông, Việt Nam Cộng Hòa sẽ được Hoa Kỳ tái viện trợ quân sự ... Qua hệ thống truyền thông công cộng trong nước cũng như trên thế giới trong những tháng đầu năm 1975, và đặc biệt là trong 2 tháng cuối cùng của cuộc chiến, họ cung cấp cho khán thính giả trên toàn thế giới -trong đó có chúng ta- hiểu rằng, Hoa Kỳ đang lật trang cuối cùng về sự can dự của họ vào cuộc chiến tranh giữa tự do với độc tài trên lãnh thổ Việt Nam, trong ý nghĩa bại trận về phía Việt Nam Cộng Hòa chúng ta. Thế mà Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại “hy vọng” Mỹ sẽ vẫn tiếp tục viện trợ quân sự sau khi ông từ chức! Chắc chắn là Tổng Thống Thiệu thừa hiểu điều đó hơn ai hết, vì ông là Tổng Thống cho dù Tổng Thống cũng chỉ là một con người, nhưng nhất thiết con người Tổng Thống phải hơn hẳn những người khác chớ, nếu không như vậy thì hóa ra “đồng hạng” sao!


Vậy, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã vì lý do gì đó như bị một áp lực từ hậu trường chính trị chẳng hạn, nên ông đưa ra lời cáo buộc để sang tay cho vị kế nhiệm khi thấy con đường chiến đấu phía trước đầy chông gai nguy hiểm, rồi ung dung bỏ chạy và lại là chạy sớm ra ngoại quốc nữa chớ! Chẳng lẽ Tổng Thống Thiệu nói là bị Mỹ áp lực mà ông phải từ chức thì nghe không ổn, vì ông là Tổng Thống, là vị lãnh đạo quyền lực và quyền uy nhất nước! Nhưng nếu thật sự ông nghĩ hay ông tuyên bố như vậy, thì liệu trong 10 năm trên ngôi vị lãnh đạo quốc gia, có phải thật sự ông người lãnh đạo đất nước Việt Nam hay Hoa Kỳ là người lãnh đạo? Hay là ông chạy trốn trách nhiệm? Vì 10 năm trị vì với đầy đủ quyền lực và quyền uy của một Tổng Thống, chính Tổng Thống chớ không phải Hoa Kỳ đã bao lần ra lệnh cho đơn vị này, chỉ thị đơn vị kia, cổ vũ tại các quân trường, hô hào tại các diễn đàn quan trọng, đều trong nỗ lực khuyến khích thúc đẩy mọi người -nhất là quân nhân- hãy hi sinh thân mình bảo vệ tổ quốc. Vậy mà, khi tổ quốc thật sự lâm nguy thì ông quên hết các mệnh lệnh của ông, của vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội mà ông đã từng dõng dạc tuyên bố, để rồi ông lặng lẽ để lại đằng sau tất cả những gì không phải của ông và gia đình ông!


Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng từng tuyên bố rằng: “Đất nước còn thì còn tất cả, đất nước mất thì mất tất cả”. Lời của Tổng Thống rất đúng, và đúng với tất cả công dân Việt Nam Cộng Hòa, ngoại trừ ông và những vị lãnh đạo đầy quyền lực cùng những vị có quân có quyền đã bỏ chạy là không đúng.


Vì các vị có mất gì đâu dù rằng đất nước mất! Nhà ở của quí vị là các dinh thự thuộc tài sản quốc gia, xe đi của quí vị hằng ngày cũng là tài sản quốc gia, cơ sở kinh doanh của quí vị cầm chắc là không do đồng lương thật sự của quí vị tạo nên, vườn tược đất đai đồn điền cũng thế, gia đình và thân nhân cùng chạy theo quí vị, thậm chí có thân nhân của ít nhất là một trong số quí vị chạy ra ngoại quốc bằng Hàng Không Việt Nam do ngân sách quốc gia đài thọ nữa chớ!


Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, trong phiên lưỡng viện Quốc Hội ngay trong cuộc tổng công kích của quân cộng sản vào dịp Tết Mậu Thân đầu năm 1968, đã tuyên bố: “Đồng bào đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỷ những gì cộng sản làm”. Lời của Tổng Thống hoàn toàn đúng. Vì một trong những bản chất của cộng sản là dối trá, họ chỉ có tuyên truyền chớ không có thông tin, thành ra những gì cộng sản nói đều là tuyên truyền cả, mà đã là tuyên truyền thì có gì là thật đâu. Nhưng tối 21 tháng 4 năm 1975, ngay sau khi tuyên bố từ chức Tổng Thống, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu có nói với đồng bào với quân đội rằng “ .Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ”. Được hiểu là Trung Tướng sẽ trở về hàng ngũ quân đội chiến đấu. Nhưng mấy ngày sau đó, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đã bỏ chạy! Vậy, riêng trường hợp này thôi, liệu đồng bào và quân đội có nên nhìn kỷ hành động của Trung Tướng hơn là nghe Trung Tướng nói không?


Đến vị lãnh đạo quốc gia hàng thứ hai là Đại Tướng Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm. Vị Thủ Tướng 5 năm rưỡi, đó là thời gian chỉ đứng sau thời gian của Tổng Thống Ngô Đình Diệm kiêm nhiệm. Cả hai thời gian này cộng lại là 15 năm, và hơn 5 năm còn lại lần lượt chuyền tay nhau giữa 9 vị. Nếu chia đều thì mỗi vị chỉ có mấy tháng cầm quyền chơi! Tôi nói “cầm quyền chơi” là vì chỉ có mấy tháng thì mỗi vị Thủ Tướng chỉ kịp duyệt qua công tác của các Bộ trong chánh phủ là hết thời gian rồi, đâu còn thì giờ để soạn thảo những kế hoạch, những dự án, những mục tiêu quốc gia, nói chung là sách lược quốc gia để phục vụ dân tộc.


Đầu năm 1970, bà Trần Thiện Khiêm, trong cuộc đàm thoại hơn nửa tiếng đồng hồ, bà thuật cho tôi nghe câu chuyện thật ngắn với nội dung như sau:


“.. Trên chuyến bay Sài Gòn-Đà Lạt mà trên phi cơ chỉ có gia đình Tổng Thống Thiệu và gia đình Đại Tướng Khiêm. Tổng Thống Thiệu mời Đại Tướng Khiêm giữ chức Thủ Tướng, bà Khiêm hơi to tiếng khi hỏi lại Tổng Thống Thiệu rằng: Tổng Thống biết anh Khiêm không thích làm chính trị mà còn kêu làm Thủ Tướng, có phải là Tổng Thống muốn anh Khiêm ngồi đó để Tổng Thống làm gì thì làm không? Tổng Thống Thiệu gạt ngang: Chuyện của đàn ông, bà biết gì mà nói”.


Riêng về chuyện kể ngắn ngủi này chỉ có thế, nhưng tôi muốn lặp lại ở đây để có thêm một chứng minh về con người của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm như tôi đã nhận định hồi năm 1964 trước khi ông cùng gia đình lưu vong. Theo lời bà Khiêm trên đây thì Đại Tướng Khiêm vẫn là con người không thích dấn thân vào chính trị, mà Thủ Tướng là chức vụ chính trị cấp quốc gia. Điều này lại nhắc tôi liên tưởng đến vụ đảo chánh ngày 19 tháng 2 năm 1965 do Thiếu Tướng Lâm Văn Phát lãnh đạo, và Trung Tá Lê Hoàng Thao chỉ huy một Trung Đoàn của Sư Đoàn 25 Bộ Binh vào chiếm Bộ Tổng Tham Mưu, ông nói với tôi là có Trung Tá Phạm Ngọc Thảo (cộng sản hồi chánh, nhưng không rõ là hồi chánh giả hay hồi chánh thiệt) từ tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ -lúc đó đại sứ là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm- về tham gia, nếu thành công thì Đại Tướng Khiêm trở về cầm quyền. Tôi rất nghi ngờ lời nói của Trung Tá Lê Hoàng Thao. Cũng có thể là tôi chủ quan chăng, nhưng tôi vẫn giữ nguyên cách nhìn của tôi như vậy.


Với nét nhìn của tôi, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm không phải là con người chính trị, cũng không thích dấn thân vào chính trị, nhưng lại giữ chức vụ chính trị mà là chức vụ trên nguyên tắc chỉ dưới quyền Tổng Thống thôi, cho nên hơn 5 năm trong ngôi vị Thủ Tướng, ông không có gì xuất sắc về mặt lãnh đạo với chức vụ khá nhiều quyền lực trong tay, dù rằng về phong cách và cá tính thì ông vẫn là người chinh phục được cảm tình của nhiều giới trong xã hội. Nhưng chẳng lẽ con người chính trị trong chức Thủ Tướng chỉ cần trang bị ngần đó thôi sao! Và rồi ông cũng đi ngoại quốc cùng chuyến phi cơ với Trung Tướng Thiệu, cũng là chuyện bình thường, vì ông đã bàn giao chức Thủ Tướng 3 tuần trước đó.


Thưa quí vị quí bạn,


Xin mở ngoặc. Tháng 7 năm 2009, tôi nhận được bản sao hai thư viết tay dưới đây do người bạn trẻ Chấn Võ, từ New York gởi tặng trên e-mail. Nội dung thư viết tay được viết lại dưới đây cho dễ đọc:


Quyết định: (1) Nay đề cử cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm đại diện Tổng Thống VNCH (Việt Nam Cộng Hòa) đến Đài Bắc để phân ưu cùng Chánh Phủ và Nhân Dân THDQ (Trung Hoa Dân Quốc) nhân dịp Tổng Thống Tưởng Giới Thạch tạ thế. (2) Sau đó, hai vị trên được đề cử tiếp tục viếng thăm các quốc gia trên thế giới xét cần thiết trong vòng 6 tháng để làm sáng tỏ thiện chí hòa bình của VNCH, đồng thời vận động các Chánh Phủ và Nhân Dân các Quốc Gia để hỗ trợ lập trường hòa bình của Chánh Phủ và Nhân Dân ta. Chương trình thăm viếng sẽ do hai vị tùy nghi quyết định thể theo sự thuận lợi của tình hình đối với các quốc gia đó. (3) Yêu cầu Bộ Ngoại Giao chỉ thị các Tòa Đại Sứ VNCH yểm trợ cần thiết để nguyên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và nguyên Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm cùng phái đoàn chu toàn nhiệm vụ giao phó. (4) Chi phí công tác do Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc Phòng đài thọ (Quyết định đến chữ thọ là hết bản văn, nhưng lại có nét chữ khác thêm vào ..)trong khuôn khổ được luật lệ ấn định. (Suy đoán 8 chữ thêm vào với nét đậm là của Tổng Thống Hương).Sài Gòn, ngày 25 tháng 4, 1975.




Dưới đây là viết lại thư viết tay của nguyên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho dễ đọc:


Sài Gòn, 25/4/75.


Kính trình Tổng Thống Trần Văn Hương.


Thưa Cụ, Để thực hiện công tác Cụ giao phó, tôi kính xin Cụ chấp thuận cho những sĩ quan sau đây gọi là thành phần tối thiểu cần thiết để giúp tôi, đi theo tôi trong suốt thời gian công du: (1) Đại Tá Võ Văn Cầm. (2) Đại Tá Nguyễn Văn Đức. (3) Đại Tá Nhan Văn Thiệt. (4) Đại Tá Trần Thanh Điền. (5) Trung Tá Tôn Thất Ái Chiêu. (6) Bác sĩ Thiếu Tá Hồ Vương Minh. (7) Đại Úy Nguyễn Phú Hải. (8) Và phục dịch viên (tên) Nghị.


Ngoài ra, cựu Thủ Tướng Đại Tướng Trần Thiện Khiêm cũng cần đem theo những sĩ quan và dân sự sau đây: (1) Trung Tá Đặng Văn Châu. (2) Thiếu Tá Đinh Sơn Thông. (3) Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận. (4) Và ông Đặng Vũ. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm nhờ tôi trình Cụ chấp thuận.


Kính chào Tổng Thống. (ký tên Thiệu)



Xin nhấn mạnh. Cả hai văn kiện đều viết tay, trên cùng một mẫu giấy trên bàn viết của Tổng Thống Thiệu, trong cùng ngày 25/04/1975. Theo nội dung trong e-mail cho biết thì văn kiện quyết định của Tổng Thống Hương do Đại Tá Võ Văn Cầm viết và Tổng Thống Hương chỉ ghi thêm dòng chữ “trong khuôn khổ được luật lệ ấn định” ngay sau chữ đài thọ. Đại Tá Võ Văn Cầm là chánh văn phòng của Tổng Thống Thiệu, Anh định cư ở San Francisco (California) và đã từ trần tại đó. Văn kiện đơn xin của nguyên Tổng Thống Thiệu viết trên giấy in sẳn có tiêu đề “Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa” ngay dưới quốc huy có quốc kỳ VNCH. Có thêm chữ “Cựu” viết tay ngay trước chữ “Tổng Thống ...” Có lẽ giấy in sẳn tiêu đề loại khổ nhỏ nên dưới tên “Bác sĩ Thiếu Tá Hồ Vương Minh ..” có viết tay “-2-“ tức là sang trang 2.


Với hai văn kiện viết tay trên đây, quí vị có nhận ra hai vị nguyên Tổng Thống và nguyên Thủ Tướng muốn “chứng minh” là hai vị đi công tác ngoại quốc chớ không phải bỏ nước bỏ dân bỏ quân để chạy! Thêm nữa, theo văn kiện của Tổng Thống Hương thì phái đoàn 14 người đều do ngân sách Quốc Phòng và Ngoại Giao đài thọ, nhưng không biết quí vị có kịp lãnh phụ cấp công du hay không vì lúc ấy quân cộng sản áp sát sài Gòn rồi!


Xin đóng ngoặc và tiếp tục đến vị lãnh đạo quân đội.


Khi Đại Tướng Cao Văn Viên rời Việt Nam, trên bàn giấy của Ông tại Bộ Tổng Tham Mưu có văn kiện do Tổng Thống Trần Văn Hương ký cho Ông giải ngũ. Điều này được hiểu là Đại Tướng Viên rời khỏi Việt Nam với tư cách một cựu Tướng Lãnh chớ không phải một Tướng Lãnh đương nhiệm chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.


Xin mở ngoặc. Ngày 18 tháng 5 năm 2005, tôi có dịp dùng cơm với cựu Trung Tá (?) Trịnh Bá Lộc, sĩ quan tùy viên của Đại Tướng Dương Văn Minh đến giờ phút đầu hàng, anh Lộc thuật cho tôi và các bạn tại bàn ăn cùng nghe. “Đơn xin giải ngũ của Đại Tướng Cao Văn Viên viết bằng tay, không hiểu vì sao mà đơn đó được chuyển từ văn phòng Tổng Thống Trần Văn Hương sang văn phòng Đại Tướng Dương Văn Minh để hỏi ý kiến. Và bút phê của Đại Tướng Minh: Thuận”.


Vào đầu tháng 3 năm 2006, ông Lâm Lễ Trinh (LLT)-Bộ Trưởng Nội Vụ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm- phổ biến trên NET bài mạn đàm có thu thanh với cựu Đại Tướng Cao Văn Viên từ hạ tuần tháng 12 năm 2004. Trong đó có đoạn liên quan đến trường hợp ông rời khỏi Việt Nam mà ông cho là tôi viết không đúng. Năm 2004, cựu Đại Tướng Viên có tặng tôi quyển sách để tôi theo đó mà sửa lại, nhưng tôi không làm theo ý của Ông vì tôi không đồng ý cách biện minh của ông. Đây là một đoạn trích nguyên văn và nguyên chữ trong bài viết của ông Lâm Lễ Trinh, liên quan đến cựu Đại Tướng Cao Văn Viên và tôi:


Ông LLT. “Nơi trang 428-429 của hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng” (nxb Xuân Thu,1989), tướng Trần Văn Đôn viết: “Có lần ông Thiệu than phiền ông Cao Văn Viên không làm việc nhiều .. .Ông Thiệu nhờ tôi nói với Đại tướng Viên, Tổng Tham Mưu trưởng, về việc ông này cứ ở mãi Tổng Tham mưu làm việc, không chịu đi ra ngoài, ông Viên trả lời: Tôi đã xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp nhận nên tôi cứ ở văn phòng làm việc mà thôi!”


“Mặt khác, trong quyển hồi ký “Đôi dòng ghi nhớ “ nêu trên, cựu đại tá Phạm Bá Hoa cũng có nhận xét rằng trong gần 9 năm rưỡi giữ chức Tổng Tham Mưu trưởng - chức vụ quan trọng bậc nhất trong Quân đội - anh đã nhiệt tình hoạt động 7 năm đầu nhưng hai năm sau cùng, vị “Nguyên soái” của Quân đội Miền Nam không cáng đáng hết trách nhiệm, đến văn phòng cho có lệ, tập luyện yoga và đi học lấy bằng cử nhân văn khoa ngoài giờ làm việc. Mong anh đại tướng vui lòng, nếu tiện, giải thích thái độ.


Ông CVV. “ Tôi sẵn sàng trả lời. Trước khi cuộc đàm phán tại Paris tiến đến giai đoạn kết thúc năm 1973, tình hình quân sự thêm căng thẳng. Tổng thống Thiệu, với tư cách Tổng tư lệnh Quân đội, tập trung hết quyền bính trong tay, cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại Dinh Độc lập để liên lạc thẳng với các quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh vùng và ra lệnh trực tiếp hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu lần hồi bị dồn vào vai trò tuân hành và thị chứng. Bộ Quốc phòng chỉ còn là hộp thơ giữa Tổng thống và Bộ Tổng tham mưu. Vì không có điều kiện làm việc được như trước, tôi đã năm, sáu lần vô đơn xin từ chức. Ông Thiệu yêu cầu tôi nán lại, đợi người thay thế nhưng ông không quyết định. Tôi không có quyền bỏ ra đi một cách vô trách nhiệm.


Tuy nhiên khi Tổng thống Trần Văn Hương nhường ghế cho tướng Dương Văn Minh tháng 4.1975, tôi cương quyết xin giải ngũ vì tôi không phục ông Minh từ lâu, tôi từng là nạn nhân của ông Minh. TT Hương chấp nhận đơn của tôi. Ngày 27.4.1975, tôi rời Sài Gòn trong tình trạng cựu Tướng Lãnh.


Ông LLT: Việc Tổng thống Thiệu tóm hết quyền bính trong tay, qua mặt Quốc hội và Tối cao Pháp viện, một mình quyết định bỏ Cao Nguyên và Miền Trung là điều có lợi hay hại? Trong quyển hồi ký “Đôi dòng ghi nhớ “ (1994, trang 191-215), cựu Chánh văn phòng của anh là đại tá Phạm Bá Hoa có kể lại cuộc rút quân bi thảm của tướng Phạm Văn Phú theo đường số 7 và nhắc lại hai khẩu lệnh của anh bằng điện thoại cho đương sự ngàỵ 15 và 18.3.1975 bảo gởi phi cơ vận tải C130 cho Quân đoàn 2 và chở các quân dụng đắt tiền khỏi Pleiku “mà không cho biết lý do”. Ông Hoa than phiền Tổng Cục Tiếp vận, thuộc bộ Tổng Tham mưu, không hề được thông báo về tình hình suy sụp ở Cao Nguyên. Anh nghĩ sao về lời than phiền này?


Ông CVV: Tất nhiên không có lợi. Một cá nhân không thể quyết định đơn phương vận mạng của Đất nước. Ông Phạm Bá Hoa trình bày không đúng về một số sự kiện trong quyển hồi ký mà tôi đã nhận được. Tôi có gởi cho y một bổn The Final Collapse được bổ túc để làm sáng tỏ vấn đề nhưng không thấy y nói gì. Phạm vi cuộc mạn đàm hôm nay không cho phép đi sâu vào chi tiết. Xin để dịp khác.


Hết phần trích dẫn và đóng ngoặc.

Cựu Đại Tướng Viên trả lời không đúng câu hỏi của ông Lâm Lễ Trinh riêng về phần tôi.

Thưa quí vị quí bạn,


Khi đứng trước cựu Đại Tướng Cao Văn Viên, về tình cảm riêng tư, tôi giữ đúng vị trí một “sĩ quan đàn em” như trong thời gian Đại Tướng cử tôi giữ chức chánh văn phòng, nhưng về trách nhiệm trong quân đội thì tôi nhìn vị Tổng Tham Mưu Trưởng của tôi theo cách khác. Thật sự thì năm 2003, cựu Đại Tướng Viên có nói với người bạn thân của tôi như là cách ông nhắn gởi đến tôi, theo đó Ông muốn tôi viết lại nội dung “Ông rời khỏi Việt Nam với tư cách một cựu Tướng Lãnh” chớ không như tôi đã viết là “Ông bỏ lại đằng sau tất cả để ra đi”. Tôi không đồng ý, vì nhìn sâu vào sự kiện tôi thấy đó không phải là nguyên nhân của sự thật.


Đại Tướng Viên nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng ngày 15 tháng 10 năm 1965, đến ngày 27 tháng 4 năm 1975 Ông rời khỏi Việt Nam. Trong hai năm sau cùng của hơn 9 năm rưỡi trong chức vụ đứng đầu quân đội, Đại Tướng tự lái trực thăng đi làm. Tôi muốn nhấn mạnh điểm này để thấy quyền lực của vị Tổng Tham Mưu Trưởng. Nhưng khi đất nước thật sự lâm nguy thì Ông xin giải ngũ, với lý do đơn giản là Ông không phục Đại Tướng Dương Văn Minh sắp sửa nhận chức Tổng Thống. Giữa trách nhiệm lãnh đạo quân đội đang chiến đấu chống quân cộng sản ngay trong sân nhà, với lý do không phục vị Tổng Thống tương lai. Một bên là quốc gia đại sự, một bên là chuyện cá nhân, xin hỏi “bên nào là cốt lõi của lựa chọn?”


Mà nghĩ cho cùng, giả như Đại Tướng Minh có nói bóng gió xa xôi là ông sẽ ám hại Đại Tướng Viên đi nữa, tôi nghĩ, Đại Tướng Viên cũng không thể vì đó mà xin giải ngũ, bởi Ông đang là Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng của một quân đội hơn một triệu quân, mà lúc ấy quân cộng sản đang sát nách thủ đô Sài Gòn. Cái lý do đơn giản mà cựu Đại Tướng Viên trả lời ông Lâm Lễ Trinh trong đơn xin giải ngũ, thật sự không có khả năng thuyết phục được độc giả nói chung, và Người Lính Việt Nam Cộng Hòa nói riêng.


Tôi lại nhớ đến ngày 30 tháng 4 năm 1999, trong cuộc phỏng vấn của đài phát thanh Little Saigon (Nam California) do xướng ngôn viên Việt Dũng phụ trách hôm ấy, khi hỏi cảm nghĩ về ngày 30 tháng 4 thì cựu Đại Tướng Viên trả lời, tôi không nhớ nguyên văn nhưng ý như thế này:


“Khi dự đại hội cựu quân nhân tại Dallas, Đại Tướng Viên có nói với cử tọa rằng, quốc gia hưng vong thất phu hữu trách. Mất nước là trách nhiệm chung của mọi người mà Ông là một trong số đó, sao lại đổ trách nhiệm cho Ông?”


Nghe xong tôi quá đổi ngạc nhiên. Ngạc nhiên, vì đâu có người dân nào có quyền hạn như Đại Tướng, cũng không có vị Tướng nào đương nhiệm trong quân đội mà có quyền hạn như Đại Tướng cả, ..v..v.. nhưng trách nhiệm sao lại chia đều như vậy! Quí vị quí bạn nghĩ sao?




1 2 3 4 5 6 7 8 9 10


yBlogThis!Chia sẻ lên TwitterChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest


Labels: Hồi Ký

CHƯƠNG X

HỒI KÝ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA: GIỜ THỨ 25






1 2 3 4 5 6 7 8 9 10




Từ sau ngày Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, hằng ngày, trước đầu giờ và sau cuối giờ làm việc, tôi thường lên văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên để theo dõi và trao đổi tình hình. Qua câu chuyện trao đổi mang tính cách tâm tình với nhau hơn là Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu ra lệnh cho Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.


Xin mời quí vị quí bạn vui lòng trở lại ngày 27 tháng 4 năm 1975 trước khi vào giờ thứ 25. Tại tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, đã hết giờ làm việc buổi chiều từ lâu, tôi vẫn còn ngồi trong văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, nghe ông tâm sự:




“Anh biết không, Thiếu Tướng Smith nói với tôi là cấp chỉ huy của ông ta từ Pentagon (lầu năm góc, tức Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) nói ổng đang ủng hộ một Trung Tướng cộng sản ngay tại Sài Gòn”.


“Ông ta muốn ám chỉ Trung Tướng phải không?


“Tôi cũng nghĩ vậy”.


“Trung Tướng có nói gì không?


“Không”.


“Đến lúc này, Trung Tướng có quyết định ra đi chưa?


Tôi hỏi như vậy là vì lúc sáng, Y Sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục Trưởng Cục Quân Y, lên hỏi thăm tình hình, Trung Tướng Khuyên yêu cầu Chuẩn Tướng Thanh cho ông 2 chai thuốc độc, và tôi cũng xin 2 chai (1 chai để trong túi và 1 chai trong cặp xách tay). Khi ông xin thuốc độc, điều đó cho thấy có thể là ông không bỏ chạy, hoặc xin thì xin nhưng chạy vẫn chạy. Nhưng tôi nghĩ, ít ra thì Trung Tướng Khuyên đang có hai giải pháp trong đầu. Im lặng một lúc, chừng như ông đang xúc động nên lời nói của ông thật nhỏ:


“Tôi đã hứa với ổng (tức Thiếu Tướng Smith), vì tôi cảm thấy sẽ không an toàn nếu như tôi khước từ di tản”.


“Thiếu Tướng Smith có nói bao giờ thì đi không, thưa Trung Tướng?
“Ổng được lệnh từ Pentagon là sẽ đưa tôi đi”.
“Thiếu Tướng Smith có nói là sẽ đi vào lúc nào không Trung Tướng?
Trung Tướng Khuyên buông thỏng: “Giờ thứ 25”.
“Ổng có nói với Trung Tướng giờ đó là giờ nào không?
“Giờ đó sẽ được quyết định từ Pentagon”.


Sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Dương Văn Minh cho phổ biến bản tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn, theo đó thì Tổng Thống yêu cầu Hoa Kỳ lập tức rút toàn bộ các cơ quan và nhân viên Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam Cộng Hòa.


Ngay sau bản tin ngắn ngủi nhưng rất quan trọng đó, từng đoàn trực thăng của Hải Quân Hoa Kỳ vào Sài Gòn, chuyên chở những người "di tản" ra Hạm Đội 7 ngoài khơi Vũng Tàu. Bãi đáp chính của trực thăng là khu vực Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ ở Tân Sơn Nhất, và bãi đáp trên sân thượng tòa đại sứ Hoa Kỳ, tọa lạc bên trái đại lộ Thống Nhất (từ Dinh Độc Lập nhìn về hướng Thảo Cầm Viên).


Tôi xin dừng ở đây để thuật tiếp phần cuối của câu chuyện ngắn (phần đầu tôi đã thuật trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963) do cựu Đại Tá Nguyễn Linh Chiêu kể cho các bạn trong bữa ăn tại nhà ông ở Orange County, Nam California, vào ngày 15 tháng 11 năm 1991. Hôm ấy, tôi là một thực khách trong số đó. Chuyện mà cựu Đại Tá Chiêu kể lại là nhân chuyến ông sang Paris đầu năm 1991, ông có mời cựu Tổng Thống Dương Văn Minh và cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn dùng cơm, để giúp giải tỏa mối bất hòa giữa hai vị mà cả hai vị đều là bạn thâm giao của cựu Đại Tá Chiêu. Trong toàn bộ câu chuyện ngắn đó có đoạn cựu Đại Tá Chiêu hỏi cựu Tổng Thống Dương Văn Minh:


“Tại sao anh mới nhận chức Tổng Thống mà anh ra lệnh đuổi Mỹ về nước?
"Moa" không đuổi Mỹ. Bản văn đuổi Mỹ là do Đại Sứ Martin (Hoa Kỳ) đưa cho "Moi" và yêu cầu "Moi" phổ biến”.


Phần cuối câu chuyện chỉ có thế, nhưng nó cho thấy Hoa Kỳ đã "an bài chiến tranh chống cộng của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta" đến tận cùng chi tiết. Vì vậy mà chúng ta không ngạc nhiên khi bản văn "đuổi Mỹ" vừa phát đi trên làn sóng đài phát thanh Sài Gòn, thì từng đoàn trực thăng Hoa Kỳ thuộc Hạm Đội 7 của họ từ ngoài khơi Thái Bình Dương, ào ào vào Sài Gòn, cứ như các trực thăng đó túc trực ứng chiến trên đường bay của Hàng Không Mẫu Hạm vậy. Thậm chí đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhất và tòa đại sứ từ nửa đêm 28 rạng 29 tháng 4 năm 1975, để bảo vệ cuộc vận chuyển di tản. Các sự kiện đó đã xác định rõ ràng chớ không phải ngẫu nhiên. Ngôn ngữ chính trị là như vậy mà. Nghe vậy, nhưng không phải vậy, mà đôi khi cũng có thể là như vậy.


Vẫn sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, như những ngày trước đó, tôi lên văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, để theo dõi tình hình, vẫn chưa nghe ông nói gì về giờ thứ 25 mặc dù Tổng Thống đã chánh thức yêu cầu Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam Cộng Hòa trong vòng 48 tiếng đồng hồ!


Trở về văn phòng, đứng ở lan can ngay trước văn phòng tôi, nhìn sang bãi đáp bên kia hàng rào kẽm gai ngăn cách giữa khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu với một góc của khuôn viên phi trường Tân Sơn Nhất. Từng chiếc trực thăng hạ cánh rồi cất cánh với đầy người chen chúc bên trong, một vài chiếc có cả người còn tòn teng ở càng chân trực thăng chớ chưa vào được bên trong. Lúc ấy tôi liên tưởng đến tấm ảnh với ghi chú ngắn trên những nhật báo phát hành tại Sài Gòn ngày 18 và 19 tháng 4 năm 1975. Tấm ảnh đó chụp lúc những giới chức của quốc gia Cam Bốt, đang chen lấn lên trực thăng Hoa Kỳ để di tản khỏi quê hương của họ, vì quân cộng sản đang tiến chiếm thủ đô Nam Vang (Phnom Penh). Nghĩa là họ thua trận trước Việt Nam Cộng Hòa, nhưng họ hơn ta ở điểm là họ còn chống giữ thủ đô Nam Vang được vài tuần. Câu ghi chú rằng: "Những người Cao Miên đứng bên ngoài rào, trông họ rất thản nhiên khi nhìn cái cảnh trốn chạy của những người từng lãnh đạo đất nước họ ...". Thật lòng mà nói, lúc ấy tôi không biết tôi đang nghĩ gì và phải làm gì khi trông thấy cảnh tượng như vậy diễn ra ngay trước mắt! Có vẻ như tôi chưa sẳn sàng chấp nhận hình ảnh đó là sự thật trong cuộc đời, mặc dù nó đang xảy ra trước mắt tôi!


Không biết có phải là khi một người có những suy tư lo nghĩ trong một mức độ nào đó thì họ còn kiểm soát được, có nghĩa là họ vẫn còn suy tư lo nghĩ, nhưng khi điều suy tư lo nghĩ vượt quá mức kiểm soát thì họ trở nên bình thản trước sự việc chăng? Nếu trong khoa tâm lý và khoa dịch lý có nói đến trường hợp như vậy, thì tôi đang trong tình trạng vượt quá mức kiểm soát đó. Đứng nhìn cấp trên tôi và các đồng đội tôi đang bỏ chạy mà tôi không biết tôi đang nghĩ gì và phải làm gì nữa!


Trong khi cảnh di tản bằng trực thăng trong khuôn viên phi trường Tân Sơn Nhất ở phần đối diện với khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu vẫn diễn tiến, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên đẩy cửa vào phòng tôi, nhưng tôi bận điện thoại cung cấp nhiên liệu cho Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh đã từ Biên Hòa rút về Gò Vấp. Thấy tôi bận, ông quay trở ra và sang phòng vệ sinh. Điện thoại xong, tôi ra đứng cạnh lan can chờ ông. Dĩ nhiên là khi trở ra, Trung Tướng Khuyên trông thấy tôi, ông đi ngang tôi, rồi đi thẳng đến xe Jeep cách tôi chừng 5 bước. Ông lên xe, nhìn thẳng phía trước, và im lặng. Chưa bao giờ tôi thấy thái độ của ông như vậy, do vậy mà tôi nghĩ: "Phải chăng giờ thứ 25 bắt đầu?".


Ông không nói một tiếng nào trong khoảng 5 phút. Ông ra hiệu bằng tay, anh Hạ Sĩ Quan tài xế cho xe lăn bánh. Tôi đứng thẳng người, đưa tay lên trán, chào ông, rồi khoa tay từ biệt để ông hiểu là tôi đoán được chuyện gì đang xảy ra. Nếu tôi không lầm, thì Trung Tướng Khuyên sẽ rất xúc động nếu như ông nói với tôi bất cứ lời nào, vì vậy mà tôi không chút phiền muộn đối với Trung Tướng Đồng Văn Khuyên cho dù ông đã không một lời từ biệt, một lời từ biệt với biết bao nguy hiểm cho người đi lẫn người chưa đi!


Lúc đó là 11 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, và tôi xem đây là giây đầu tiên trong 3.600 giây của Giờ Thứ 25!
Khoảng hai tiếng đồng hồ sau đó, Thiếu Tá Tấn, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, điện thoại tôi:


“Trình Đại Tá, Trung Tướng đã vào gặp Thiếu Tướng Smith rồi”.
“Anh đang ở đâu vậy?
“Tôi đang ở nhà tôi”.
“Ủa, anh không đi sao?


“Dạ không Đại Tá”.




“Anh có thể cho tôi biết là sau khi rời chỗ tôi thì Trung Tướng đi những đâu không?
“Rời văn phòng Đại Tá, Trung Tướng hướng dẫn tài xế lái xe trên nhiều con đường trong Tổng Tham Mưu, rồi ra cổng số 3 (cổng số 3 ra đường Võ di Nguy) và quanh vào cổng sau phi trường. Tại đây có sĩ quan tùy viên của Thiếu Tướng Smith đón và hướng dẫn vào. Đi được một khoảng thì lính gác Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ gọi tôi lại, bảo tôi tháo khẩu súng lục để lại cổng. Đi bộ vào đến Văn phòng Tùy Viên Quốc Phòng thì Thiếu Tướng Smith đứng chờ ở đó, cả hai ông vào văn phòng, tôi chào Trung Tướng rồi trở về nhà”.


“Anh trông thấy nhiều người trong đó chớ?

“Đông lắm Đại Tá ơi! Đông nghẹt người lận”.
“Cám ơn anh, và mong là anh em mình còn liên lạc nhau được ngày nào mừng ngày ấy thôi. Chào anh nhé”.


Vậy là, quí vị lãnh đạo đất nước Việt Mam vừa bàn giao chức vụ lãnh đạo quốc gia lẫn quí vị đương kiêm chức vụ lãnh đạo quân đội, đã lần lượt "rời bỏ Việt Nam" gần như theo hệ thống quân giai cho dù là hệ thống quân giai ngẫu nhiên cũng vậy:


Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, vị Tướng đã hai lần đặt tay lên Hiến Pháp tuyên thệ "bảo vệ quốc gia dân tộc, bảo vệ Hiến Pháp" khi nhận chức Tổng Thống và Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội, lên phi cơ đi ngoại quốc!




Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, hơn 5 năm trong chức vụ Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, lên phi cơ đi ngoại quốc!




Đại Tướng Cao Văn Viên, vị Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 15 tháng 10 năm 1965, lên phi cơ đi ngoại quốc!
Đầu giờ thứ 25, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, cũng lên phi cơ đi ngoại quốc!


Và khi vị Tổng Tham Mưu Trưởng và Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, rời bỏ chức vụ để "đi ngoại quốc", thì quí vị Tướng Lãnh cùng nhiều vị Trưởng Phòng của Bộ Tổng Tham Mưu, cũng ra đi!


Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lúc 12 giờ trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975, không còn một vị nào có thẩm quyền quyết định bất cứ vấn đề gì hết, ngay cả công tác phòng thủ trại Trần Hưng Đạo -tức Bộ Tổng Tham Mưu- cũng không ai trách nhiệm nữa. Quân nhân và công chức quốc phòng của Bộ Tổng Tham Mưu trên dưới 2.000 người, không còn cấp chỉ huy, nên họ đành phải quyết định: Tự động tan hàng!


Tôi điện thoại cho Đại Tá Nguyễn Hồng Đài (con rể của Tổng Thống Dương Văn Minh), nguyên là Chánh Sở Kế Hoạch/ Tổng Cục Tiếp Vận biệt phái về Phủ Tổng Thống:


“Anh Đài. Anh vui lòng trình với Tổng Thống là cho đến lúc này, trong Bộ Tổng Tham Mưu không còn vị Tướng Lãnh nào hết, cũng không ai trách nhiệm bảo vệ bản doanh Tổng Tham Mưu nữa. Tôi trình xin Tổng Thống cử người vào chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng và Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Nếu hôm nay không có vị nào vào đây thì bộ tham mưu nhẹ của Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi sẽ sang Biệt Khu Thủ Đô làm việc, vì khách hàng mà tôi yểm trợ chỉ còn Biệt Khu Thủ Đô và một phần lực lượng của Quân Đoàn III thôi”.


“Được rồi, tôi trình "Ông Già" ngay và sau đó sẽ điện thoại anh”.
Một lúc sau, Đại Tá Đài gọi tôi:
“Ông Già" cho biết, lúc 3 giờ chiều nay sẽ có phái đoàn Tướng Lãnh vào nhận chức trong Bộ Tổng Tham Mưu. Anh yên tâm”.


Lúc 2 giờ chiều 29 tháng 4 năm 1975, tôi mời các vị Cục Trưởng Cục Phó, Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân, Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận, Chỉ Huy Trưởng Trường Tiếp Vận, đến họp gấp. Kiểm điểm lại chỉ còn Cục Trưởng Cục Quân Y (Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh), Cục Trưởng Cục Quân Vận (Đại Tá Nguyễn Tử Khanh), Cục Phó Cục Quân Nhu, Cục Phó Cục Công Binh, Cục Phó Cục Quân Cụ, Cục Phó Cục Truyền Tin, Cục Phó Cục Quân Tiếp Vụ, và Cục Phó Cục Mãi Dịch. Tôi vào đề ngay:


“Trong trách nhiệm Tham Mưu Trưởng/Tổng Cục Tiếp Vận, tôi xin thông báo đến quí vị và các bạn về tình hình chung và tình hình nội bộ Tiếp Vận của mình. Về tình hình chung, hiện nay theo Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu thì có khoảng 10 sư đoàn quân cộng sản bao quanh Sài Gòn và chúng đang áp sát ven ngoại ô. Điều đó cho phép dự đoán là chúng có thể tấn công chúng ta bất cứ lúc nào mà chúng cho là thuận lợi. Về lực lượng phòng thủ của ta thì không có đơn vị nào nguyên vẹn, kể cả Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Ngay cả Sư Đoàn 106 Biệt Động Quân mới thành lập với Đại Tá Nguyễn Văn Lộc giữ chức Tư Lệnh, Đại Tá Vũ Phi Hùng làm Tư Lệnh Phó, và Đại Tá Cao Văn Ủy làm Tham Mưu Trưởng, cũng chỉ là sự kết hợp gấp rút các Liên Đoàn Biệt Động Quân cùng với vài đơn vị Pháo Binh và Thiết Giáp còn lại thôi. Về nội bộ Tiếp Vận, thì Trung Tướng Tổng Cục Trưởng và gần hết các sĩ quan cao cấp trong Tổng Cục Tiếp Vận, đã tự động rời khỏi nhiệm sở rồi. Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân và Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận, cũng thế. Còn tại các Cục, tôi nghĩ là các bạn biết rõ hơn tôi. Thông báo một tình hình như vậy, tôi muốn quí vị và các bạn tùy nghi vì tôi không có thẩm quyền về bất cứ vấn đề gì vượt quá trách nhiệm và quyền hạn của người Tham Mưu Trưởng Tổng Cục. Tôi có bấy nhiêu lời, và nếu không có điều gì cần hỏi, tôi xin chào quí vị, chào các bạn, vì trong chúng ta không ai biết được những gì sẽ chợt đến với mình trong những ngày tháng sắp tới -


Sở dĩ phải nói lời chào ngay vì tôi thấy Đại Tá Nguyễn Tử Khanh có vẻ như muốn rời phòng họp. Quả thật, hơn tiếng đồng hồ sau đó, Đại Tá Cao Văn Phước, Cục Phó Cục Quân Vận cho tôi biết là Đại Tá Khanh đã vội vã xuống Giang Đoàn Vận Tải và đi rồi.


Lúc 3 giờ chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, Trung Tướng Vînh Lộc -đã một thời là Tư Lệnh Quân Đoàn II, rồi Chỉ Huy Trưởng Trường Cao Đẳng Quốc Phòng- vào nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Cùng lúc, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhận chức Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu. Và một vài Đại Tá nhận chức Trưởng Phòng. Đại Tá Nguyễn Khắc Tuân, chánh văn phòng Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng.


Đại Tá Tuân gọi tôi lên trình diện Trung Tướng tân Tổng Tham Mưu Trưởng:
“Chào Trung Tướng”.


“Chào anh. Những vị Tướng cầm quyền đã chạy hết rồi. Bây giờ chúng mình hãy cùng nhau cố gắng nhiệm vụ trọng đại của Quốc Gia. Vào giờ phút lâm nguy này mới thấy được giá trị của mỗi người như thế nào đối với Tổ Quốc”.
“Thưa Trung Tướng, giờ này tôi có mặt ở đây và đang trình diện Trung Tướng, trong khi các cấp chỉ huy trên tôi đã rời khỏi nhiệm sở, và các cấp chỉ huy dưới tôi cũng vậy, có nghĩa là tôi vẫn tiếp tục trách nhiệm của tôi, thưa Trung Tướng”.


“Nhiệm vụ yểm trợ Tiếp Vận cho các đơn vị phòng thủ Sài Gòn, tôi trông cậy vào anh”.
“Vâng. Tôi đã và đang làm tất cả những gì thuộc về trách nhiệm của tôi, và tôi vẫn tiếp tục như vậy. Và nếu không có vị nào khác thì xin Trung Tướng cử Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức vào chức vụ Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, vì tôi được biết Chuẩn Tướng Chức sẳn sàng nhận chức vụ này, thưa Trung Tướng”.


“Anh sẽ có vị Tổng Cục Trưởng ngay hôm nay”.
“Vâng. Chào Trung Tướng”.


Lúc 5 giờ chiều 29 tháng 4 năm 1975, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, trước là Cục Trưởng Cục Công Binh, kế đến là biệt phái sang phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách khẩn hoang lập ấp, đến nhận chức Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Một chức vụ mà Chuẩn Tướng Chức đã hơn một lần tự ông đề nghị thẳng với Trung Tướng Khuyên đề nghị lên cấp trên bổ nhậm ông vào đó. Chuẩn Tướng Chức, trong thời gian sinh hoạt trong "Nhóm Đời Mới" -tôi cũng là một thành viên trong Nhóm- của cụ Trần Văn Ân, có lần nói với tôi rằng "lên đến Tướng là phải hoạt động chính trị và ông cũng nói thẳng là ông muốn nắm giữ chức vụ cao hơn là Cục Trưởng nếu vẫn phục vụ trong quân đội, vì ông tự thấy khả năng của ông như vậy, và đó mới là tương lai sự nghiệp của ông. Chuẩn Tướng Chức là người rất hoạt động, khi ông tham gia công tác với đơn vị Công Binh của ông thì ông làm nhiệt tình như bất cứ người lính Công Binh nào, và trong những trường hợp như vậy ông rất thích được phóng viên báo chí tiếp xúc. Chuẩn Tướng Chức là mẫu người rất nhiệt tình trong trách nhiệm, và ông cũng rất muốn được xuất hiện trong sinh hoạt chính trường.


Tôi trình bày tình hình chung và tình hình riêng của ngành Tiếp Vận như đã cung cấp cho các vị chỉ huy Tiếp Vận trong buổi họp ngắn ngủi lúc 2 giờ, và tình hình yểm trợ Tiếp Vận cho các đơn vị chiến đấu. Chuẩn Tướng Chức viết tay lệnh bổ nhiệm Đại Tá Trần Văn Lễ (đang là Chỉ Huy Trưởng Trường Tiếp Vận) trở lại chức vụ Cục Trưởng Cục Quân Tiếp Vụ. Các vị Cục Trưởng đã bỏ nhiệm sở thì ông cử các vị Cục Phó giữ chức Quyền Cục Trưởng.


“Bây giờ xin phép anh tôi về nhà dùng cơm rồi trở lại ngay. Trong thời gian đó nếu có đơn vị nào xin yểm trợ thì anh bảo họ điện thoại cho tôi và tôi giải quyết”.


“Được rồi, anh về đi. Anh có cần xe mở đường không vì đường phố đông nghẹt người với xe cộ đó?
“Cám ơn anh. Không cần đâu anh”.
Không chỉ là đường phố đông nghẹt người mà là hỗn loạn chưa từng thấy! Áng chừng 6 cây số mà phải gần 2 tiếng đồng hồ tôi mới về đến nhà. Dọc đường, tiếng gọi nhau chạy loạn vang vang cả một quảng dài, đúng là "loạn thì lạc!". Trời tối hẳn, những chiếc trực thăng Hoa Kỳ thả "hỏa châu" chiếu sáng liên tục, để từng đoàn trực thăng phụ trách "di tản" thi hành nhiệm vụ. Nhiều phi tuần khu trục phản lực cũng của Hoa Kỳ, gào thét trên không phận thủ đô để sẳn sàng tấn công các đơn vị cộng sản nếu như trực thăng vận tải của họ bị bắn hạ, trong khi đạn phòng không của cộng sản tua tủa vọt lên khoảng không gian bé nhỏ vừa tối lại vừa sáng!


Trong những năm chiến tranh dữ dội, nhất là trong trận chiến "mùa hè đỏ lửa năm 1972", ngày cũng như đêm, người dân Sài Gòn rất quen với tiếng động cơ phản lực chiến đấu, từng đôi từng đoàn, xé không gian lên đường đánh địch bằng hỏa lực mãnh liệt mà nó được các nhà chế tạo Hoa Kỳ nghiên cứu trang bị, và quen đến mức nếu như vắng âm thanh đó thì họ cho là chuyện không bình thường. Bẳng đi một thời gian khá lâu, đêm nay, âm thanh đó trở lại, nhưng là trở lại để đánh dấu một tình huống bi thảm của dân tộc Việt Nam sau hai thập niên chiến đấu vì Dân Chủ Tự Do!


Cơm xong tôi ra xe, nhưng đến 10 giờ đêm mà vẫn chưa ra đến đường Tô Hiến Thành mặc dù chỉ cách nhà tôi hơn 100 thước. Chừng như tất cả mọi người đều đổ xô ra khỏi nhà để tìm đường sống vậy! Tôi xuống xe và chen nhau từng bước giữa khối người là người mới trở vào được trong khu cư xá do các thanh niên trong cư xá canh gác bảo vệ, vì ngay ngoài cổng trước của cư xá đã có vài nhà bị cướp giật rồi. Tôi điện thoại sang Tổng Cục Tiếp Vận:


“Chào anh Chức, Hoa đây anh. Bây giờ tôi không có cách nào ra ngoài cư xá được vì hỗn loạn đến mức không sao tưởng tượng nỗi. Anh cho phép tôi ở nhà, tất cả điện thoại về nhu cầu Tiếp Vận anh chuyển sang cho tôi và tôi giải quyết ngay. Công việc của Tổng Cục mình bây giờ thu gọn lắm rồi anh. Hàng tiếp liệu cho các đơn vị chỉ gồm nhiên liệu và đạn dược, tôi cho lên xe sẳn sàng tại các kho để cung cấp thật nhanh theo yêu cầu. Anh an tâm”.


“Được rồi. Có gì tôi gọi anh”.
Vài trái đạn đại bác của quân cộng sản đã nổ bên ngoài khuôn viên cư xá nhưng chưa gây thiệt hại quan trọng nào. Phi trường Tân Sơn Nhất chắc là bị pháo kích nhiều, vì tôi nghe tiếng đại bác nổ liên hồi ở hướng đó. Trong cư xá có 1 đại đội Nhẩy Dù từ trên căn cứ Hoàng Hoa Thám (đầu phi trường Tân Sơn Nhất phía Hóc Môn) rút về đây, và cư dân an lòng đôi chút vì có lực lượng phòng thủ.


Gần nửa đêm, Đại Tá Trương Đình Liệu, Chỉ Huy Trưởng Tổng Kho Long Bình, điện thoại tôi:
“Trình anh là tôi đã cho triệt thoái toàn bộ về đây rồi. Chờ lệnh Tổng Cục hoài không thấy, đến khi các đơn vị trong căn cứ Long Bình rút lui, tôi liền cho anh em theo họ”.


“Anh hành động đúng thôi. Chuẩn Tướng Chức nhận chức Tổng Cục Trưởng lúc chiều, ông ấy không ra lệnh thì tôi làm gì được. Về yểm trợ thì tôi lo được, nhưng ra lệnh rút lui thì tôi đâu có thẩm quyền. Anh hiểu tôi rồi hén”.


Khoảng 2 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, điện thoại (nhà tôi) reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Trung Tướng Lộc đây anh. Lúc nảy, Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh có xin tiếp tế xăng và đạn, không biết là họ liên lạc với anh chưa?


“Chuẩn Tướng (Lê Trung Tường) Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn III có gọi tôi, và tôi đã cung cấp rồi, thưa Trung Tướng”.
“Cố gắng nghe anh Hoa”.


“Vâng. Tôi đã trình bày với Trung Tướng chiều qua rồi, tôi vẫn thi hành nhiệm vụ của tôi cho đến khi nào tôi không thể tiếp tục được nữa, thưa Trung Tướng”.
Khoảng 3 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Thiếu Tá Ông Kim Miêng, chánh văn phòng Tổng Cục Phó, và từ chiều qua là chánh văn phòng Tổng Cục Trưởng, từ văn phòng Tổng Cục Tiếp Vận điện thoại tôi:


“Thưa Đại Tá, Chuẩn Tướng Chức đã lên xe đi rồi”.

“Chuẩn Tướng đi một mình hay đi với ai vậy anh?

“Dạ đi một mình. Chuẩn Tướng đi mà không xách cái cặp theo, và cũng không cho xe hộ tống (xe có còi hụ mà chiều qua ông mang đến) theo nữa”.


“Thôi được. Sáng sáng một chút, tôi tìm cách đến Tổng Cục hẳn hay”

Tiếp đó điện thoại lại reo:


“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Đài đây anh (Đại Tá Nguyễn Hồng Đài). Lúc 10 giờ sáng nay (tức 30/4/1975) "Ông Già" sẽ công bố giải pháp chính trị, anh theo dõi trên đài phát thanh Sài Gòn nghe”.


“Nhưng mà nội dung giải pháp là gì?

“Trung lập, như tôi nói với anh đó”.

“Vậy là tôi chuẩn bị. Cám ơn anh”.

Đến đây tôi xin mở ngoặc để nói đến 2 điều cho vấn đề được rõ thêm.


Điều thứ nhất. Khoảng năm 1998, tôi có dịp gặp anh Nguyễn Hồng Đài tại thành phố Houston, tiểu bang Texas. Sau khi thăm hỏi nhau, anh xác nhận lời anh đã nói với tôi là đúng như trong quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ, nhưng về thời gian thì sai. Anh nói không phải rạng sáng 30 tháng 4 mà là rạng sáng 29 tháng 4, vì tối 29 tháng 4 anh đang trên tàu ra biển. Trí nhớ của tôi vẫn ghi nhận lời anh nói vào rạng sáng 30 tháng 4, vì đây là đêm đầu tiên tôi “bị” ngủ tại nhà sau 3 tuần cắm trại ngủ tại văn phòng tôi (Tổng Cục Tiếp Vận) trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu, và tôi tiếp chuyện điện thoại với anh lúc tôi từ cửa sổ nhà tôi nhìn lên bầu trời với những âm thanh gào thét của những chiếc phản lực cơ Hoa Kỳ bao vùng yểm trợ cho trực thăng đưa người di tản. Vì vậy tôi vẫn viết lại đây theo trí nhớ của tôi.


Và điều thứ hai. Khi tôi nói "tôi chuẩn bị", tức là tôi chuẩn bị rời khỏi Việt Nam ngay sau khi Tổng Thống Minh tuyên bố trung lập. Nghĩa là tôi và gia đình dự trù rời khỏi Việt Nam nhưng không đi trước khi có giải pháp chính trị, mà ra đi trong lúc giao thời dù chỉ trong ngắn ngủi. Chúng tôi dự trù 6 gia đình, trong số này có 2 gia đình thuộc phi hành đoàn C130, dùng chiếc C130 sang Singapore để đi Australia, vì tôi được sự giúp đỡ của người bạn gốc Trung Hoa trong công ty INTRACO tại Singapore, nối liên lạc với cơ quan ngoại giao Australia tại đó và đã được đồng ý. Xin đóng ngoặc.


Vừa mờ sáng là tôi lên xe. Hướng ngã tư Bảy Hiền -nơi trở thành tiền tuyến- có nhiều tiếng súng trường và tiểu liên, nên không có người đi lại bao nhiêu, và tôi cho xe chạy ngang chợ ông Tạ rồi rẽ sang Võ Tánh nối dài. Quân cộng sản chưa xuống đến ngã tư Bảy Hiền, và tôi an toàn đến Tổng Tham Mưu. Đến, nhưng không được phép vào.


Chuyện như thế này: Trung Tá Tòng, Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Bộ Tổng Tham Mưu đã tháp tùng Đại Tướng Cao Văn Viên đi ngoại quốc từ mấy ngày trước, và Trung Tướng Vĩnh Lộc cử Đại Tá Trần Văn Thăng -sĩ quan An ninh quân đội- giữ chức Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đang khuyết. Đại Tá Thăng ra lệnh cho toán Quân Cảnh gác cổng số 1 Bộ Tổng Tham Mưu, không cho bất cứ ai vào nếu không có thẻ an ninh do Sĩ quan an ninh Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đã cấp. Tôi có thẻ, nhưng không bao giờ mang trên túi áo mà là để trong cặp xách tay, và cái cặp thì tối qua tôi vẫn để trên bàn viết ở văn phòng. Tôi làm như vậy là vì tất cả những quân nhân trách nhiệm ở cổng gác này, không ai là xa lạ với tôi cả. Sĩ quan Quân Cảnh nói:


“Đại Tá thông cảm, vì lệnh của Đại Tá Thăng như vậy nên tôi phải thi hành”.
“Tôi hiểu. Bây giờ Đại Tá Thăng ở đâu vậy anh?
“Dạ Đại Tá Thăng dường như lên văn phòng Trung Tướng rồi Đại Tá”.
“Thôi được. Chốc nữa Đại Tá Thăng về lại văn phòng, anh nói là tôi không có mang theo thẻ an ninh nên không vào được, và tôi sang Biệt Khu Thủ Đô làm việc ở đó. Cám ơn anh nghe”.


“Đại Tá thông cảm cho tôi nghe Đại Tá”.
“Nếu tôi là anh, tôi cũng vậy thôi mà. Anh đừng bận tâm. Tôi đi đây”.
Đạn đại bác của quân cộng sản nổ nhiều ở Tân Sơn Nhất và bắt đầu nổ trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu trong lúc tôi đang nói chuyện với anh sĩ quan Quân Cảnh. Chúng tôi phải nép vào thân cây trước văn phòng Tổng Hành Dinh.


Sang trại Lê văn Duyệt, tôi ngồi tạm trong văn phòng Đại Tá Ngô Văn Minh, Tham Mưu Trưởng Biệt Khu Thủ Đô. Tôi báo cho Thiếu Tá Ông Kim Miêng bên Tổng Cục Tiếp Vận biết vị trí của tôi và dặn anh chuyển tất cả điện thoại sang tôi nếu có ai gọi.


Trung Tướng Vĩnh Lộc điện thoại cho tôi, ông đồng ý tôi ngồi ở Biệt Khu Thủ Đô điều hành công tác yểm trợ Tiếp Vận. Và ông cho biết là ông phải xuống dinh Độc Lập để dự lễ ra mắt chánh phủ lúc 9 giờ (sáng). Sau đó tôi mới biết là Trung Tướng Vĩnh Lộc cũng bỏ chạy như những vị Tướng đã bỏ chạy, mà chiều hôm qua, khi ông ra lệnh cho tôi ráng lo về Tiếp Vận, ông đã khá nặng lời với các vị ấy. Nhưng nghĩ cho cùng, Trung Tướng Vĩnh Lộc chỉ ngồi ghế Tổng Tham Mưu Trưởng vỏn vẹn có 18 tiếng đồng hồ, và là 18 tiếng đồng hồ cuối cùng của cuộc chiến 20 năm 9 tháng 10 ngày -tôi nghĩ- ông không phải là vị Tổng Tham Mưu Trưởng góp phần trách nhiệm về cái chết tức tưởi của một quân đội hơn 1.000.000 người!


Tại Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh (có biệt danh là Minh đờn), Tư Lệnh, đã bỏ chạy rồi. Thiếu Tướng Lâm Văn Phát -người đảo chánh Trung Tướng Khánh ngày 19 tháng 2 năm 1965 thất bại- được Tổng Thống Dương Văn Minh cử giữ chức Tư Lệnh Biệt Khu. Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, giữ chức Tư Lệnh Phó. Thiếu Tướng Phát từ sáng sớm đã lên trực thăng quan sát tình hình, vừa đáp xuống là ông gọi Tư Lệnh Không Quân cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích quân cộng sản đang quanh quẩn dọc con đường từ phía trên ngã tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn. Vị Tư Lệnh Không Quân lúc bấy giờ là Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Tần, vì Trung Tướng Trần Văn Minh (không phải là Trung Tướng Minh đã giữ chức Quyền Tổng Tư Lệnh quân lực sau khi Đại Tướng Nguyễn Khánh lưu vong), Tư Lệnh Không Quân đã cao bay xa chạy rồi. Và Bộ Tư Lệnh Không Quân cùng các phi đoàn còn lại, từ căn cứ Sư Đoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất và căn cứ Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Hòa, rút xuống căn cứ Sư Đoàn 4 Không Quân tại Trà Nóc, cách Cần Thơ khoảng 7 cây số. Tôi nói "các phi đoàn còn lại", là vì đã có nhiều phi công lái hằng trăm phi cơ các loại bay qua căn cứ Utapao của không quân Hoa Kỳ, về phía đông nam thủ đô Bangkok của Vương quốc Thái Lan, di tản.


Thiếu Tướng Lâm Văn Phát vừa đáp xuống sân Bộ Tư Lệnh, Chuẩn Tướng Lê Văn Thân bảo Đại Tá Ngô Văn Minh ghi lên bản đồ mà ông đang cầm trên tay, vị trí của các đơn vị bạn để ông bay quan sát và hướng dẫn các phi tuần khu trục tấn công các đơn vị địch. Khoảng một tiếng đồng hồ sau đó, chiếc trực thăng trở về nhưng không có Chuẩn Tướng Thân. Tôi hỏi ngay:


“Chuẩn Tướng Thân đâu rồi các bạn?-
“Chuẩn Tướng bảo tôi đáp xuống Cần Giờ, ổng xuống đó rồi bảo tôi về đi”.
“Vậy là Chuẩn Tướng Thân cũng chạy rồi”.
(Sáu tháng sau đó, tôi gặp lại Chuẩn Tướng Thân trong cùng trại tập trung Tam Hiệp, Biên Hòa, trại này người địa phương còn gọi là trại Suối Máu nữa)


Đại Tá Ngô Văn Minh từ trong Trung Tâm Hành Quân gọi tôi:

“Anh Hoa, anh nói chuyện với Lê Minh Đảo không? Hắn đang ở đầu máy bên kia nè”.

Đó là Thiếu Tướng (mới thăng cấp chưa kịp tổ chức lễ gắn cấp hiệu 2 sao) Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đã quần thảo với 2 sư đoàn quân cộng sản ở Xuân Lộc và gây cho chúng tổn thất rất nặng. Vì áp lực của chúng quá mạnh, nên Quân Đoàn III cho lệnh lui về căn cứ Long Bình.
“Chào anh Đảo, Hoa đây. Anh đang ở đâu vậy?


“Tôi ở chỗ "nhà máy xi măng Hà Tiên" và đang tìm xuồng qua sông. Tụi cộng sản nó đuổi theo sau lưng tôi nè. Hết rồi anh ơi!
“Dù gì thì anh đã đánh nhau với tụi nó một trận ngon lành, anh oai hơn nhiều vị Tư Lệnh khác mà”.


“Sao anh ở chỗ anh Minh?
“(Tôi mượn câu của anh để trả lời anh) "Hết rồi anh ơi"! Vì chỉ còn yểm trợ cho Biệt Khu thôi, và giờ này thì còn đơn vị nào nữa đâu. Thôi, chúc anh may mắn nghe, và mong rằng chúng mình vẫn còn gặp lại nhau là mừng rồi”.


Sau đó -tức sau giờ Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố buông súng và bàn giao- Thiếu Tướng Lê Minh Đảo dùng giấy tờ giả xuống Rạch Giá để hy vọng vượt thoát ra Hạm Đội 7 Hoa Kỳ, nhưng anh đã không thực hiện được và trở về nhà trong cùng cư xá với tôi. Sau này, có những năm chúng tôi ở tù chung trong một trại nhưng khác buồng giam.


Lúc 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4 năm 1975, từ máy thu thanh trong phòng Đại Tá Ngô Văn Minh, có âm thanh "... ông nói đi...., nhanh lên,.... chờ gì nữa,....". Một giọng nói gần như quát: "Ông tuyên bố nhanh lên..." Và đại ý lời của Tổng Thống Dương Văn Minh như là một mệnh lệnh đối với quân đội ".... các đơn vị không được nổ súng, ở yên tại chỗ và bàn giao cho lực lượng giải phóng...". Đối với phía cộng sản, ông yêu cầu đừng nổ súng và ông hứa sẽ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự.


Tôi xem đây là giây thứ 3.600, giây cuối cùng của giờ thứ 25, giờ cuối cùng của ngày thứ 7.583, và là ngày cuối cùng của một giai đoạn chiến đấu bảo vệ tự do dân chủ!


Thế là hết !!!


Tôi lặng lẽ rời nơi đây, theo đường Lê Văn Duyệt, rẽ sang đường Trần Quốc Toản, ép bên phải để ghé vào Cục Mãi Dịch, chào các cộng sự viên cũ của tôi. Trung Tá Nguyễn Văn Thình, Cục Phó, hỏi tôi cách bàn giao ra sao? Tôi bảo:


“Không bàn giao gì cả, các bạn nào muốn lấy gì thì lấy rồi thản nhiên ra về, ai muốn vào đây làm gì mặc họ”.


Dọc đường về nhà, những nơi mà tôi vừa đi qua, có biết bao bộ đồ trận -những bộ quân phục từng là biểu tượng quân phong quân kỷ của quân nhân- những mũ những giày, vất vưỡng ngỗn ngang trên đường phố. Trong dòng người ngược xuôi vội vã, có rất nhiều người quần đùi áo lót mà tôi tin đó là những đồng đội của tôi tạm thời lẩn tránh bọn cộng sản. (Hình ảnh này là một phần trong bản nhạc ''Như Lá Chết Cành Khô'' do cựu Đại Tá Phan Văn Minh -đã một thời là Đổng Lý Văn Phòng của Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ- sáng tác trong thời gian bị giam ở trại tập trung Hà Tây, tỉnh Hà Sơn Bình).


Quân cộng sản chưa thật sự có mặt trong thành phố, nhưng những tốp thanh niên nam nữ đeo băng tay đỏ với súng M16 trên tay và ngồi xe jeep chạy đó đây trong trên đường phố Sài Gòn. Đó là những bọn mà chúng tôi gọi là "cộng sản 30 tháng 4". Dù trong một tầm nhìn hạn hẹp đó, tưởng cũng đủ nói lên một cảnh tượng trong biết bao cảnh tượng đau thương ngập tràn trái tim Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vì chưa tròn trách nhiệm với dân với nước!


Chốc chốc tôi sờ vào chai độc dược trong túi, dự định của tôi khi xin Y sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh là tôi sẽ sử dụng nếu như tôi bị cộng sản bắt hoặc chưa bắt nhưng chúng sỉ nhục tôi. Nhưng, chiều hôm ấy, tôi đã ném nó vào thùng rác và với khẩu súng lục 9 ly (do ông Johnson, trưởng toán tình báo vùng đồng bằng Cửu Long tặng tôi tại Cần Thơ năm 1968) vào cái giếng ngay sau nhà cô tôi ở đường Thành Thái, sau khi vợ tôi ngồi dưới chân tôi vừa khóc vừa nói như van lơn:


"Anh ơi, trong mọi trường hợp, anh đừng bỏ em và các con nghe anh!".


Tôi tin là vợ tôi không biết gì về chai độc dược trong túi tôi, nhưng có lẽ do cảm tính đặc biệt của người vợ thấu hiểu tính chồng trong hoàn cảnh nghiệt ngã mà nói với chồng bằng cả tâm hồn người vợ người mẹ!


Hơn một tiếng đồng hồ sau lời tuyên bố đầu hàng (không nổ súng có nghĩa là đầu hàng rồi!) của Tổng Thống Dương Văn Minh, đơn vị Thiết Giáp đầu tiên của cộng sản mới vào dinh Độc Lập. Và từ giờ đó, Việt Nam Cộng Hòa chúng ta bị nhà cầm quyền nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cai trị!


Trong lúc trên dưới 200.000 quân của Quân Đoàn IV, chưa một trận đánh quan trọng nào, cũng chưa một vị Tư Lệnh nào bỏ chạy, đã phải buông súng đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống Dương văn Minh!


Trước đó, khi cuộc chiến chưa ngừng tiếng súng, có những vị Tướng đầy quyền lực, đã thật sự bỏ chạy ra nước ngoài. Và giờ đây, cuộc chiến thật sự đã tàn, và tàn trong ý nghĩa thua trận, bại trận, hay đầu hàng, hiểu thế nào cũng thế thôi. Nhưng trong cảnh bại trận này, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, xuất hiện Những Vị Tướng Thật Sự Là Những Anh Hùng không kém những vị Anh Hùng trong lịch sử đã tuẫn tiết khi thành thất thủ. Đó là hành động tự sát ngay nơi nhiệm sở chớ không chấp nhận đầu hàng, của:


Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV. (Cần Thơ)




Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV. Chuẩn Tướng Hưng đã được vinh danh "Anh Hùng An Lộc" trong mùa hè đỏ lửa 1972 ở chiến trường An Lộc, tỉnh Bình Long. (Cần Thơ)


Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. (Mỹ Tho)

Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh (Lai Khê, Bình Dương).

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, tự tử tại nhà vì tên tuổi Quân Đoàn II đã bị chôn theo những nấm mồ vô danh trên đường liên tỉnh số 7 từ giữa tháng 3 năm 1975 rồi.




Ngoài ra, còn biết bao Quân Nhân thuộc các Quân Chủng, Binh Chủng, Binh Sở, Cảnh Sát, Viên Chức Hành Chánh các ngành, đã tuẫn tiết! Đó là "Những Anh Hùng Vô Danh" rất đáng cho chúng ta trân trọng.


Vào những ngày 30 tháng 4, tôi nghĩ, chúng ta nên dành vài chục giây đồng hồ, đứng hay ngồi ở đâu đó cũng được, cúi đầu, im lặng, để tưởng nhớ những vị Anh Hùng của chúng ta, những người đã cùng chúng ta cầm súng chống quân cộng sản xâm lược, nhưng vào giờ phút kết thúc bi thảm cuộc chiến đấu của chúng ta, thì những vị đó đã can đảm thực hiện tròn vẹn lời thề trước bàn thờ Tổ Quốc trong ngày tốt nghiệp trường võ bị: "... Quyết hy sinh thân mình để bảo vệ Tổ Quốc Dân Tộc ..."


Và theo tôi, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, là người rất xứng đáng được vinh danh "Anh Hùng Xuân Lộc" trong trận đánh sau cùng. Thiếu Tướng Đảo, dù bản doanh kế cận thủ đô Sài Gòn nhưng không bỏ chạy, mà trái lại, ông là vị Tư Lệnh duy nhất trong 3 Quân Đoàn, đã chống trả mãnh liệt và gây tổn thất nặng nề cho 2 Sư Đoàn quân cộng sản tấn công Xuân Lộc (thuộc tỉnh Long Khánh). Và Sư Đoàn 18 Bộ Binh chỉ rút lui khi có lệnh của Quân Đoàn III.


Một giai đoạn lịch sử do Tổng Thống Dương Văn Minh -vị Tổng Thống có nhiệm kỳ chỉ hơn 40 tiếng đồng hồ- vừa sang trang!


Dân Tộc Việt Nam, từ nay dưới sự thống trị của cộng sản độc tài nghiệt ngã!

Quê hương Việt Nam chúng ta,

dân tộc Việt Nam chúng ta,

sao mà bi thảm đến như vậy!


sao mà bất hạnh đến như vậy!



THAY LỜI KẾT



Thưa quí vị, quí bạn,





Những ngày cuối Tháng Tư, thường gợi lại trong mỗi người Việt Nam Cộng Hòa cũ, nhất là những cựu quân nhân chúng ta, dấu ấn sâu đậm nhất trong đời quân ngũ. Những ngày đó thật là ngắn ngủi đối với lịch sử, nhưng là những ngày mà thế hệ chúng ta đã để lại một vệt đen trong dòng lịch sử đương đại. “Vệt đen đó” có thật sự là do lỗi lầm của chúng ta hay không, còn phải chờ lịch sử phán xét, nhưng có điều chắc chắn là chúng ta phải chia phần gánh vác trách nhiệm chưa tròn của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa!


Cuộc chiến tranh chống cộng sản để bảo vệ tổ quốc Việt Nam, thật sự là tôi không rõ bắt đầu từ lúc nào. Tính từ ngày ngưng bắn theo Hiệp Định Đình Chiến ký tại Genève, Thụy Sĩ, ngày 20 tháng 7 năm 1954, hay tính từ năm thứ 3 sau đó?


Sở dĩ tôi nêu câu tự hỏi “tính từ năm thứ ba”, là vì Hiệp Định dự liệu 2 năm sau đó sẽ tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc. Với lại 2 năm dự liệu trong Hiệp Định, cộng sản chưa có hoạt động công khai nào nên xem như thanh bình. Do sự phản đối của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa chống lại cuộc bầu cử đã nói trong Hiệp Định, vì chánh phủ không ký vào đó nên không chấp nhận sự ràng buộc phải thi hành. Thế là cộng sản công khai gây chiến ngay từ năm thứ ba, tức năm 1957.


Năm 1964, Bộ Tổng Tham Mưu có ban hành một văn kiện, theo đó thì cuộc chiến tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1960. Thật ra nội dung này không có tính cách xác định chiến tranh bắt đầu từ ngày đó, mà nhằm có một định điểm tương đối về thời gian để ấn định niên hiệu trên cuống huy chương “Chiến Dịch Bội Tinh”. Chiến Dịch Bội Tinh trên ngực áo của hầu hết quân nhân có một hoặc hai niên hiệu: Niên hiệu 1945-1954 đối với những quân nhân phục vụ từ trước đến khi kết thúc cuộc chiến đó. Và niên hiệu thứ hai mới có số “1960-.......” đối với những quân nhân mới vào quân đội sau ngày đình chiến tháng 7 năm 1954. Và niên hiệu thứ hai này mới có 4 số đầu. Tôi nghĩ, một triệu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có mặt trên quê hương Việt Nam đến lúc 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng ta tự động ghi lên niên hiệu 4 số kế tiếp là “1975”. Không cần ghi lên cuống huy chương có nền xanh trắng, mà chúng ta chỉ cần ghi vào ký ức chúng ta là đủ.


Tôi cũng nghĩ rằng, chúng ta nên thực hiện thêm niên hiệu thứ ba với 4 số đầu là “1976-......”, vì tuy chúng ta thua trận với ít chất là 222.809 người vào tù, hằng trăm ngàn đồng đội khác lẩn trốn hay đang sống khổ đau dưới chế độ độc tài của cộng sản ngay trên quê hương Việt Nam, và hằng triệu người gồm đồng bào đồng đội vượt thoát tìm tự do khắp năm châu bốn biển, ước lượng khoảng 3.000.000 người. Nhưng những hành động của tất cả chúng ta bằng cách này hay cách khác, đều thể hiện ý nghĩa của một cuộc chiến tranh khác trong mục đích tiếp tục chống nhóm lãnh đạo cộng sản độc tài cũng như chồng bất cứ chế độ độc tài nào khác trên đất nước Việt Nam. Tôi muốn nói đến năm 1975 một cuộc chiến kết thúc, năm 1976 một cuộc chiến khác bắt đầu. Và cuộc chiến đó đến nay là năm 2007, vẫn đang tiếp diễn và ngày càng quyết liệt. Chỉ khác cuộc chiến 1954-1975, thay vì vũ khí là súng đạn, thì cuộc chiến cho tự do dân chủ trên quê hương Việt Nam này với vũ khí chính trị, nhân quyền, kinh tế, giáo dục, nói chung vũ khí trong cuộc chiến hiện nay là một tổng hợp mọi sinh hoạt quốc gia.


Vậy, chiến tranh bắt đầu từ ngày nào? Theo tôi, tôi tính từ ngày 20 tháng 7 năm 1954, là ngày ký Hiệp Định Đình Chiến tại Genève, vì cộng sản đã từ đó bắt đầu thực hiện kế hoạch để lại hằng chục ngàn cán bộ các loại của chúng ở lại nam vĩ tuyến 17 khi chúng “tập kết” (danh từ dùng trong Hiệp Định) ra bắc vĩ tuyến 17. Như vậy, về phía cộng sản thì họ bắt đầu ngay từ ngày ấy cho một cuộc chiến kế tiếp sau cuộc chiến 1945-1954. Và nếu tính từ đó, thì chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc của chúng ta đến ngày “thua trận cuối cùng trong một giai đoạn chiến đấu” từ ngày 20 tháng 7 năm 1954 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, là 20 năm 9 tháng 10 ngày, hay là 7.583 ngày!


Chức vụ Tổng Thống. Với thời gian hơn 20 năm không phải là dài đối với lịch sử, nhưng trong thời gian đó, Việt Nam Cộng Hòa chúng ta lần lượt do 7 vị Tổng Thống hay Quốc Trưởng lãnh đạo, là: Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng là Thủ Tướng hơn 9 năm. Quốc Trưởng Dương Văn Minh 3 tháng. Quốc Trưởng Nguyễn Khánh 9 tháng. Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu 8 tháng. Quốc Trưởng rồi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gần 10 năm. Tổng Thống Trần Văn Hương 7 ngày. Sau cùng là Tổng Thống Dương Văn Minh không do dân bầu, chưa được 2 ngày.


Tổng Thống Thiệu -tính cả thời gian giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia- gần 10 năm, là người trị vì lâu nhất, và vị có nhiệm kỳ ngắn nhất là Tổng Thống Dương Văn Minh chỉ vừa hơn 40 tiếng đồng hồ. Ông là vị Tướng can đảm nhất khi tình nguyện nhận chức Tổng Thống, nhưng ông cũng là vị Tướng nhục nhã nhất khi tuyên bố đầu hàng cộng sản. Nhưng không biết người dân Việt Nam Cộng Hòa chúng ta nói chung và thị dân Sài Gòn nói riêng, có nên cám ơn ông hay không, vì “nhờ” ông đầu hàng mà Sài Gòn không bị tàn phá bởi hỏa tiển và đạn đại bác của cộng sản? Nhưng chẳng lẽ ông “tình nguyện” giành chức Tổng Thống để đầu hàng sao? Nếu mục đích chỉ có như vậy thì đâu cần đến vị Tướng mà lại là Tướng 4 sao nữa chớ! Chắc không phải vậy. Nhưng điều nhục nhã đó đã xảy ra như vậy, biết giải thích sao đây!


Chức vụ Thủ Tướng. Đây là cấp lãnh đạo quốc gia hàng thứ hai, đã lần lượt qua tay 11 vị, là: Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ. Thủ Tướng Nguyễn Khánh (kiêm nhiệm). Thủ Tướng Trần Văn Hương (lần 1). Thủ Tướng Phan Huy Quát. Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc. Thủ Tướng Trần Văn Hương (lần 2). Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm. Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn. Sau cùng là Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu chưa kịp trình diện chánh phủ thì Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng! Người “trị vì” lâu nhất là Thủ Tướng Ngô Đình Diệm hơn 9 năm, và vị có nhiệm kỳ ngắn nhất là Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu.


Chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Với chức vụ này, lần lượt do 10 vị sau đây, là: Tổng Thống Ngô Đình Diệm kiêm nhiệm. Trung Tướng Trần Văn Đôn (lần 1). Trung Tướng rồi Đại Tướng Trần Thiện Khiêm (lần 1). Trung Tướng Nguyễn Khánh. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Thiếu Tướng rồi Trung Tướng Nguyễn Hữu Có. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm (lần 2) kiêm nhiệm. Trung Tướng Trần Văn Đôn (lần 2). Sau cùng là giáo sư Bùi Tường Huân trong nội các của Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu chưa kịp trình diện.


Chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng. Có 9 vị lần lượt giữ chức Tổng Tham Mưu Trưởng hay tương đương, là: Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh. Thiếu Tướng rồi Trung Tướng rồi Đại Tướng Lê Văn Tỵ. Khi lâm trọng bệnh, Trung Tướng Khánh nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Cách Mạng hành sử chức năng Quốc Trưởng, đã gắn cấp bậc Thống Tướng 5 sao tại giường bệnh trước khi ông từ trần. Trung Tướng Trần Văn Đôn kiêm nhiệm. Trung Tướng rồi Đại Tướng Trần Thiện Khiêm kiêm nhiệm. Trung Tướng rồi Đại Tướng Nguyễn Khánh kiêm nhiệm. Trung Tướng Trần Văn Minh. Thiếu Tướng rồi Trung Tướng Nguyễn Hữu Có kiêm nhiệm. Thiếu Tướng rồi Trung Tướng rồi Đại Tướng (4 sao) Cao Văn Viên. Sau cùng là Trung Tướng Vĩnh Lộc.


Chức “nguyên soái” này trong tay Đại Tướng Cao Văn Viên là lâu nhất, đến 9 năm rưỡi, và Trung Tướng Vĩnh Lộc là vị Tổng Tham Mưu Trưởng có thời gian ngắn nhất, chỉ 18 tiếng đồng hồ!


Hoạt động của quân cộng sản. Trong thời gian từ giữa năm 1954 đến cuối năm 1959 (4 năm rưởi), hoạt động của cộng sản chỉ trong phạm vi chính trị với những cuộc biểu tình quanh quẩn các thị trấn nhỏ, và hoạt động kinh tài vùng nông thôn (cưỡng bách dân đóng thuế), cứ xem như là thời gian hòa bình tương đối. Từ đầu năm 1960 đến cuối năm 1964 (5 năm), cộng sản mở rộng sang hoạt động quân sự từ cấp Tiểu Đội, dần lên cấp Trung Đội, Đại Đội, và lác đác có vài trận đánh đến cấp Tiểu Đoàn. Tất cả chỉ trong hình thái chiến tranh du kích. Từ đầu năm 1965, vừa áp dụng du kích chiến và vừa chuyển sang hình thái vận động chiến với cấp Trung Đoàn. Từ năm 1966, quân lực Việt Nam Cộng Hòa và quân lực Đồng Minh, bắt đầu đánh nhau với quân chính qui cộng sản cấp Sư Đoàn từ lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của họ xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chúng ta theo hành lang dãy Trường Sơn. Và 2 tháng sau cùng của cuộc chiến hơn 20 năm, cộng sản đã điều động cấp Quân Đoàn tấn công vào thủ đô Sài Gòn, nơi tập trung toàn bộ cơ quan đầu não của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta.


Có điều không rõ là tổ chức của quân cộng sản có đúng theo tổ chức cấp Quân Đoàn hay không, hay chỉ vài Trung Đoàn với một Sư Đoàn cũng thuộc loại gán ghép là họ gọi Quân Đoàn để “hù dọa” chúng ta chăng?


Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ 150.000 người vào năm 1956, với trang bị các loại vũ khí do Pháp và Mỹ sản xuất từ trước và trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ 2, với tổ chức đơn vị chỉ đến cấp Tiểu Đoàn. Mười năm sau đó -tức năm 1966- quân số tăng lên đến 733.252 người, không còn sử dụng các loại vũ khí do Pháp sản xuất nữa, nhưng nhìn chung thì trang bị cũng chưa được cải tiến bao nhiêu, vì mọi quân dụng đều do Hoa Kỳ sản xuất từ trong đệ nhị thế chiến. Theo đà bành trướng chiến tranh của quân cộng sản, quân đội phải phát triển lên đến 1.100.000 quân vào giữa năm 1974, và được trang bị các loại vũ khí do Hoa Kỳ sản xuất, trong đó có một số loại vũ khí thuộc thế hệ mới, thậm chí còn trong thời kỳ trắc nghiệm nữa.


Về tổ chức. Các đơn vị từ cấp Tiểu Đoàn được phát triển lên cấp Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn, với đầy đủ các quân chủng tác chiến, các binh chủng tác chiến lẫn yểm trợ tác chiến, và các binh sở chuyên môn yểm trợ hành chánh tài chánh, hành chánh nhân viên, hành chánh tiếp vận.


Về quản trị con người. Từ làm bằng tay xem từng hồ sơ phiếu, từng bước tiến lên quản trị bằng máy điện toán IBM 360/20 rồi 360/40, do Trung Tâm Điện Toán Nhân Viên trực thuộc Phòng Tổng Quản Trị/Bộ Tổng Tham Mưu trách nhiệm .


Về quản trị quân dụng. Cũng từ công tác làm bằng tay đã tiến lên sử dụng máy điện toán IBM 360/40 và sau cùng là máy IBM 360/50, do Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận trực thuộc Tổng Cục Tiếp Vận trách nhiệm. Đây là loại máy được xem là tối tấn nhất đối với quân đội các quốc gia vùng Đông Nam Á, mà hội nghị Tiếp Vận các quốc gia vùng tây Thái Bình Dương tại Okinawa vào tháng 10 năm 1971 đã đánh giá như vậy.


Về huấn luyện. Một hệ thống quân trường gồm các Trung Tâm Huấn Luyện, các Trường Chuyên Môn, các Trường Võ Bị, Trường Chỉ Huy Tham Mưu, Trường Hải Quân, Trường Không Quân, và cao hơn hết là Trường Cao Đẳng Quốc Phòng, có nhiệm vụ huấn luyện căn bản, và từng bước nâng cao trình độ huấn luyện từ người quân nhân có cấp bậc thấp nhất đến sĩ quan các cấp và Tướng Lãnh. Nhiều vị Tướng và cấp Đại Tá đã theo học các lớp Quản Trị Quốc Phòng tại Mỹ. Nhiều sĩ quan tham mưu và sĩ quan các binh chủng binh sở, được đào tạo các trường tại Pháp và các quốc gia thuộc địa của Pháp từ trước năm 1954, về sau du học Hoa Kỳ. Đặc biệt là Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt với chương trình 4 năm, đào tạo đội ngũ sĩ quan có khả năng lãnh đạo các ngành sinh hoạt quốc gia trong tương lai, sau thời gian gạn lọc qua kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm tham mưu, và nhất là kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy quân đội ở các cấp đơn vị.


Tuy chưa phải là hoàn hảo, nhưng tất cả những khả năng đó gộp lại, đã tạo cho quân đội một sức mạnh dũng mảnh về vật chất lẫn tinh thần, mà chính quân cộng sản -qua các tài liệu tịch thu được- phải thừa nhận là họ dễ dàng chấp nhận đánh nhau với quân đội Hoa Kỳ hơn là đương đầu với quân lực Việt Nam Cộng Hòa, dù rằng hỏa lực của Hoa Kỳ là cực kỳ mạnh.


Về phí tổn chiến tranh. Ngân sách quốc phòng tiêu tốn xấp xỉ con số 3.000 tỉ bạc Việt Nam, và phần Hoa Kỳ viện trợ quân sự tính thành tiền cũng khoảng 8 tỉ mỹ kim. Cũng nên nói thêm rằng, trong ngân sách quốc phòng Việt Nam, phần viện trợ của Hoa Kỳ chiếm 25% và được gọi là “viện trợ chung đậu”. Phần viện trợ này phân phối rải rác trong các chương của ngân sách, nghĩa là nó hòa trong các chi tiêu chớ không phải viện trợ chỉ để trả lương (vì không ít người lầm tưởng như vậy). Riêng phần quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, Thái Lan, Phi Luật Tân, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), con số chi tiêu lến đến 104 tỉ mỹ kim (theo tài liệu của Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Hòa đầu năm 1973, nhưng họ nói là chưa chính xác).


Một quân đội phát triển theo nhu cầu chiến trường. Với một hệ thống tổ chức chặt chẻ từ hạ tầng đến thượng tầng, và luôn có những biến cải thích nghi với tình thế, dù chưa phải là hoàn thiện. Với tài liệu và phương pháp huấn luyện dựa theo Hoa Kỳ nặng về kỹ thuật, theo kinh nghiệm chiến tranh du kích do Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của quân đội Pháp đúc kết, và tài liệu do Tổng Cục Quân Huấn/Bộ Tổng Tham Mưu cùng các quân trường sáng tạo qua kinh nghiệm thực tiển chiến trường. Với nổ lực áp dụng khoa học kỹ thuật và sử dụng phương tiện tân tiến vào công tác quản trị con người, quản trị quân dụng một cách nhanh chóng và chính xác. Với một phí tổn gồm của Việt Nam Cộng Hòa lẫn của Hoa Kỳ là hết sức lớn lao, và nhất là với một tinh thần phục vụ quân đội, một tinh thần chiến đấu dũng cảm của “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, cùng với tinh thần chống cộng quyết liệt của các viên chức hành chánh, cán bộ, và nhân dân. Ấy vậy mà Việt Nam Cộng Hòa chúng ta thua trận sau hơn 20 năm chống giữ!


Trách nhiệm mất nước do đâu? Do tập thể quân đội, do cấp lãnh đạo quốc gia, cấp lãnh đạo quân đội, hay là do tất cả gộp lại? Và liệu Hoa Kỳ có phần trách nhiệm trong này không?


Tôi nghĩ, rất có thể là quí vị quí bạn đồng ý với tôi rằng, chúng ta chiến đấu chống cộng sản là chiến đấu cho dân tộc Việt Nam chúng ta, chiến đấu để bảo vệ tổ quốc Việt Nam chúng ta, chớ không phải chúng ta chiến đấu cho Hoa Kỳ hay cho bất cứ quốc gia nào khác. Vì vậy mà tôi không nghĩ đến trách nhiệm của Hoa Kỳ trong sự thua trận của chúng ta. Khi khẳng định điều đó tôi vẫn hiểu rằng, quân đội Hoa Kỳ thiết lập căn cứ quân sự trên đất nước chúng ta và tham chiến bên cạnh chúng ta, là để chứng tỏ rằng họ chiến đấu ngăn chận sự bành trướng ý thức hệ cộng sản, đó là thế giới đối nghịch với thế giới tự do mà Hoa Kỳ là nước lãnh đạo, chớ không thuần nhất là họ chiến đấu cho riêng quốc gia chúng ta đâu. Xin nhớ rằng, trong bang giao quốc tế không có vấn đề tình cảm, mà tất cả vì quyền lợi của quốc gia, ngoại trừ các quốc gia cộng sản chỉ phục vụ cho quyền lợi của đảng họ.


Tôi vẫn hiểu rằng, thực trạng của Việt Nam chúng ta từ năm 1954, nếu không có viện trợ của Hoa Kỳ thì cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc của chúng ta chắc chắn là vô vàn khó khăn. Nhưng đã nói đi thì cũng nên nghĩ lại, đó là ở vào bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ, một bối cảnh chia ra 2 khối trong một thế giới: một bên là dân chủ tự do do Hoa Kỳ lãnh đạo, và một bên là cộng sản độc tài do Nga Sô lãnh đạo. Cả hai cường quốc này đều sử dụng các quốc gia nhỏ chịu ảnh hưởng của họ vào mục tiêu chiến lược trải rộng tầm ảnh hưởng của họ bao trùm thế giới, hay ít ra cũng là phần lớn thế giới. Với bối cảnh như vậy, sự kiện quân lực Hoa Kỳ chiến đấu chống cộng sản trên đất nước Đại Hàn, trên eo biển Đài Loan, trên đất nước Việt Nam chúng ta, cũng là sự kiện mà Hoa Kỳ phải làm, vì tất cả đều nằm trong mục tiêu chiến lược của họ. Vì thế mà tôi vừa cảm ơn chánh phủ và nhân dân Hoa Kỳ, vừa rút lại lời cảm ơn đó chỉ riêng với các vị lãnh đạo Hoa Kỳ, vì các vị lãnh đạo hiệp chủng quốc đã khống chế quá mức các vị lãnh đạo của chúng ta.


Vậy mà, quí vị lãnh đạo của chúng ta dắt díu nhau lên phi cơ bay ra ngoại quốc bỏ lại sau lưng một quê hương, một dân tộc, một quân đội mà quí vị đã bao nhiêu lần ra lệnh cho chúng tôi qua những cách khác nhau, tựu trung bảo Người Lính phải bảo vệ tổ quổc bảo vệ dân tộc cho dẫu phải hi sinh! Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu bỏ chạy ra ngoại quốc với tư cách hai vị đương quyền đi công du trong 6 tháng tại bất cứ quốc gia nào, và mọi chi phí do ngân sách quốc gia đài thọ! Vậy là, cuối cùng của cuộc chiến 20 năm, quí vị vẫn hưởng bỗng lộc của quốc gia mặc cho 18 triệu dân chìm sâu trong sự cai trị nghiệt ngã của cộng sản, mà trong đó có 1.000.000 Quân Nhân đã góp phần đưa quí vị lên đỉnh cao của quyền lực một thời!


Thật là đau lòng, đến nay đã 34 năm lưu vong, chưa một vị lãnh đạo đầy quyền lực nào của chúng ta thuở ấy, dám nhận trách nhiệm với lịch sử cả. Trái lại, vẫn cho rằng “mất nước là tại Mỹ bỏ rơi!” Tất nhiên là trong hoàn cảnh sống trên đất người, không ai có thẩm quyền gắn trách nhiệm sụp đổ ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho vị này hay vị khác, vì trên vị quyền lực này có vị quyền lực khác, và cứ như thế. Nhưng chia đều trách nhiệm một cách bình quân như cựu Đại Tướng Cao Văn Viên, tôi e không hợp lẽ công bằng, bởi vì trách nhiệm phải cân bằng với quyền lực trong mọi chức vụ. Chữ “trách nhiệm” mà tôi dùng ở đây, là cột chặt trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Dân Tộc trong lãnh vực quân sự mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chưa tròn.


Trong lịch sử, cũng có những tiền nhân bị mất nước, nhưng cái nhục của thế hệ chúng ta là mất nước không phải vì đánh nhau thua trận, mà vì lý do nào đó, hay vì trách nhiệm của giới chức nào, tập thể nào, hay là tất cả gộp lại, chúng ta phải chờ lịch sử soi sáng qua từng góc cạnh của những vị lãnh đạo, từng góc cạnh của bối cảnh quốc gia quốc tế liên quan. Nhưng nếu quí vị lãnh đạo nói rằng, “chế độ tự do của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta sụp đổ là do Hoa Kỳ”, liệu chúng ta có còn nhân cách khi đứng trước quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ tung bay trong gió hay khi đứng trước bàn thờ tổ quốc dù chưa phải là trên quê hương Việt Nam không? Bởi vì, đất nước là đất nước Việt Nam, dân tộc là dân tộc Việt Nam, các vị lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội đều là Việt Nam, tất cả quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đều là Việt Nam, lúc hi sinh vì Tổ Quốc Việt Nam, vì Dân Tộc Việt Nam, được nằm trong quan tài Việt Nam, được nghe lời nguyện bằng tiếng Việt Nam, và ngàn đời được yên nghỉ trong lòng đất Việt Nam, thì đối với lịch sử, chúng ta không thể trốn tránh trách nhiệm đã để đất nước vào tay cộng sản độc tài! Chữ “trách nhiệm” mà tôi dùng ở đây, là trách nhiệm của tất cả những vị thuộc hàng lãnh đạo bất kỳ lãnh vực nào trong hệ thống tổ chức và quản trị xã hội, đặc biệt là lãnh vực chính trị và quân sự.


Trong bang giao quốc tế, không có vấn đề tình cảm mà chỉ có quyền lợi quốc gia. Hoa Kỳ giúp chúng ta là do quyền lợi của Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam cũng do quyền lợi của họ, vấn đề là “khả năng và bản lãnh” của những vị lãnh đạo trong mọi hoàn cảnh đất nước, sẽ tạo thế đứng cho những vị đó trong lịch sử: Hoặc được người đời vinh danh hay bị người đời nguyền rủa, lưu mãi trong sử sách, truyền mãi trong dân gian! Bởi, khi quí vị lãnh đạo hiệu triệu đồng bào cũng như lúc quí vị ra lệnh cho cấp dưới, quí vị đều nhân danh chức vụ của quí vị chớ quí vị đâu có nói thay mặt cho Hoa Kỳ, đến khi thua trận thì quí vị lại nói là do Hoa Kỳ!


Thế hệ chúng ta, đã thừa hưởng một giang sơn gấm vóc, một truyền thống hào hùng của những bậc tiền nhân lừng danh thế giới trong hành trình mở nước và giữ nước, một nền văn hoá dân tộc trải dài nhiều ngàn năm trong lịch sử, trong đó con người được trân trọng. Đến lượt chúng ta, chúng ta chiến đấu giữ nước và phát triển đất nước, nhưng đã để đất nước vào tay chế độ cộng sản độc tài, một chế độ tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại! Tuy nhóm lãnh đạo cộng sản cũng là người cùng chủng tộc, nhưng họ rập khuôn theo cộng sản quốc tế mà cai trị dân tộc với những chính sách độc tài nghiệt ngã! Và thật sự là họ đã tàn bạo hơn quân xâm lược Trung Hoa phong kiến, và nghiệt ngã hơn thời bị thực dân Pháp cai trị!


Theo quí vị, thế hệ chúng ta vừa để lại những gì cho thế hệ tiếp nối chúng ta, và những thế hệ sau nữa? Phải chăng là “kinh nghiệm từ một chế độ tự do sụp đổ”, một kinh nghiệm luôn giằng xé chúng ta trong quảng đời còn lại!


Từ góc độ đạo lý mà soi rọi vào thảm cảnh chúng ta, phải chăng là chúng ta bị trừng phạt “từ đâu đó”, vì chúng ta không thực hiện tròn vẹn lời thề trước bàn thờ Tổ Quốc trong những buổi lễ tốt nghiệp tại các trường quân sự! Bởi thế mà hằng trăm ngàn đồng đội khi đặt chân lên đất nước Hiệp Chủng Quôc Hoa Kỳ đã bị cái “sốc” khi bước vào một xã hội rất thực tế, thực tế đến độ tàn nhẫn của cuộc sống với biết bao gian truân của người lưu vong! Trong khi ít nhất cũng hơn hai trăm ngàn đồng đội chúng tôi, gồm: quân nhân, viên chức, cán bộ, các vị dân cử, các nhà kinh doanh sản xuất, các vị hoạt động chính trị, bị cộng sản lưu đày trong các nhà tù, vợ con bị đày đọa trong các khu kinh tế mới mà thực chất là những nơi lưu đày, tài sản thì bị chúng tịch thu.


Với quí vị lãnh đạo cũng như quí vị có quân có quyền đã bỏ chạy trước ngày sụp đổ, quí vị có biết là “Những Người Lính Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi”, hằng mấy ngàn thương phế binh đã bị quân cộng sản quăng ra khỏi các Tổng Y Viện và quân y viện, hằng trăm ngàn nhà cửa bị cộng sản cướp, xe cộ bị cộng sản đoạt, nhiều chục ngàn gia đình trong số chúng tôi bị cộng sản lùa vợ con vào những nơi mà chúng gọi là “khu kinh tế mới”, hoặc đi lấy chồng vì không nơi nương tựa! Bản thân chúng tôi ít nhất cũng hơn 200.000 người bị lùa vào giam giữ nghiệt ngã trong hơn 200 trại tập trung của cộng sản, đã có nhiều ngàn đồng đội đồng tù của chúng tôi đã bỏ xác trong các vùng sình lầy sông rạch miền Nam, trong các vùng rừng núi hoang vu miền Trung, miền Bắc, đến tận trại tập trung Cổng Trời sát biên giới Việt Nam-Trung Hoa cộng sản! Nghĩa là chúng tôi mất tất cả, đúng như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã tiên liệu một cách chính xác “Đất nước mất là mất tất cả!”.


Xin thưa, đoạn trên đây tôi không có ý phiền trách bất cứ vị nào, mà tôi chỉ muốn nói đến một góc nhỏ của sự thật hòa trong nhận thức của một sĩ quan tham dự suốt chiều dài cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ 1954-1975! Tôi quan niệm, nói sự thật không phải là nói xấu, cho dẫu sự thật đó có đắng cay đến mấy cũng vậy. Xin quí vị vui lòng chấp nhận, vì lịch sử phải trung thực, và lịch sử không thể thiếu trong hành trang vào đời của những thế hệ sau chúng ta trên đường phục vụ quê hương dân tộc.


*****


Thưa quí vị quí bạn,


Ký ức tôi còn lưu lại ngần ấy sự kiện cùng với nét nhìn của tôi trong những biến cố chính trị đã xảy ra từ đêm “thiết quân luật” 20 tháng 8 năm 1963, được gói ghém trong quyển sách này mà quí vị quí bạn vừa đọc qua. Tôi không có kết luận về trách nhiệm do đâu hay do ai mà chế độ tự do của Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì thiết nghĩ, phải trông chờ vào các sử gia mới có điều kiện thu thập tài liệu tạo thành dòng lịch sử đương đại, và dòng lịch sử đó có khả năng nói với thế hệ mai sau về những gì mà chúng ta đã nghĩ, đã làm, và kết quả.


Nhưng, trong khi chờ đợi sự phán xét của lịch sử, tôi nghĩ, tất cả chúng ta “Những Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, cho dù diễn giải như thế nào đi nữa, cũng phải thừa nhận là chúng ta có chung trách nhiệm về ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà tổ quốc Việt Nam chúng ta bị cộng sản đánh chiếm và dân tộc Việt Nam bị cai trị bởi chế độ độc tài tàn bạo, do chúng ta chưa tròn trách nhiệm! Chúng ta hãy can đảm mà nhận trách nhiệm đó, vì có như vậy, chúng ta mới vơi bớt nỗi giày vò trong trái tim “Người Lính thua trận cuối cùng!”


Nhận trách nhiệm không chỉ là lời nói suông, mà tùy mỗi hoàn cảnh của chúng ta và bằng cách này hay cách khác, góp phần xây dựng Cộng Đồng Việt Nam tị nạn chúng ta có một sức mạnh tập thể, và góp phần trực tiếp hay gián tiếp vào công cuộc dân chủ hóa chế độ chính trị trên quê hương Việt Nam. Phần quan trọng khác, là hỗ trợ và khuyến khích con cháu chúng ta trau dồi kiến thức khoa học kỹ thuật, và rèn luyện nghị lực với một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Từ sức mạnh đó, tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại có khả năng góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng một xã hội dân chủ pháp trị trên quê hương Việt Nam bền vững trong mục tiêu phục vụ nguyện vọng toàn dân.


Và tôi xin hết lời.


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10






Labels: Hồi Ký


No comments: