Friday, October 9, 2015

KÝ TẾ * HỒI KÝ VƯỢT BIÊN ĐƯỜNG BỘ I



TRỊNH HUY CHƯƠNG * HỒI KÝ VƯỢT BIÊN ĐƯỜNG BỘ













Trịnh Huy Chương


"trời đã sập tối, lúc này chúng tôi có thể nghe tiếng súng nhỏ nổ rất gần!. Đây là dấu hiệu của những trận chạm súng giữa CSVN và lực lượng Khmer Tự do.... tiếng súng càng gần... hoang mang và sợ hãi càng tăng...Khoảng thêm 1 tiếng sau, trại VNLR được lệnh bỏ trại"








NĂM THỨ 30 LƯU VONG






Thay Lời Tựa: Nhớ về Cha Piere Ceyrac SJ (1914-2012)


”Chúng con Kính Lạy Cha, Nay Cha trở Về Cội Nguồn Vĩnh Cửu Trên Đó, Nhưng chúng con vẫn tin tưởng rằng Cha đang nhìn về chúng con một cách Bao dung và tiếp tục không ngừng Quan phòng cho chúng con, gia đình chúng con, bạn bè và những người thân chúng con...Hôm nay khắp Năm Châu Bốn Bể....Cha vẫn luôn luôn là Người Cha già kính mến trong Tâm khảm của chúng con, xin Cha Nhân Từ thương xót và cứu giúp chúng con như những ngày tháng khốn cùng dọc theo biên địa Thái-Miên. Những đứa con của Cha ngày hôm nay với cuộc sống vật chất tuy có thể tươm tất hơn hôm qua nhưng chúng con vẫn còn nhiều yếu đuối, sa ngã và bệnh tật....Lòng Cha thương xót bao dung, xin Cha không ngừng dìu dắt chúng con, và mọi ngượi... như hôm nay ,như hôm qua và mãi mãi. Amen.”






Hôm 30 tháng 5 , 2012....Người Cha Giá Kính Yêu của Những Bộ Nhân Việt Nam tại Trại tị nạn biên giới Thái-Miên nói riêng, và cả Nhân loại nói chung, đã giã từ chúng ta để trở về với Chúa, nơi mà Người từng cho là "Cội Nguồn Tôi nơi đó". Cha Pierre Ceyrac, một Tu sĩ thuộc dòng tên (SJ-Society Of Jesus), sinh ra trong một gia đình trung lưu có tiếng ở Pháp . Nhưng ngay từ lúc còn trẻ Ngài đã từ bỏ cuộc sống sung sướng và quê hương mình để theo đuổi một lý tưởng Cao thương, Bác ái. Ngài mang một tấm lòng Nhân Ái, rộng lượng, hy sinh vi Nhân Ái, xa thân vì Nhân loại.... Với Ngài , tôn giáo là con người, rất đơn giản như vậy. Tôi còn nhớ khi Ngài đến thăm Bệnh Viện trại tị nạn đường bộ Site 2 South vào năm 1986 (VNLR COERR Hospital), khi một Bệnh Nhân người Chàm có lẽ cố tình chất vất Ngài rằng Ngài có tin vào Đức Allah hay không ?(Allah là Đấng Thần Thánh của Người Hồi Giáo-lúc đó là dịp lễ ăn chay của người Chàm theo Đạo Hồi hy Ramadan), thú thật lúc đó tôi rất ngập ngừng và cố tình không dịch lại câu hỏi đó cho Ngài, và định chuyển sang một chủ đề khác. Nhưng vì không có cách nào khác và không biết làm sao để xoay xở tình huống, buộc lòng tôi phải hỏi Ngài. Sau khi nghe xong, Ngài mĩm cười , nụ cười của Ngài thật là Bao dung và cởi mở, Ngài nói " Allah is God as well as Jesuit and Budda , May God Bless you and be with you! Everything will be all right! " Ngài cầm lấy tay người bệnh và xoa trán người đó, một khoảng khắc trôi qua... Tôi nghĩ rằng Ngài đã chúc phúc cho người bệnh đó.






Tôi còn nhớ những ngày lạnh giá của miền Đông Bắc nước Thái , khi những cơn gió trái mùa bắt đầu thổi về dọc theo thung lũng của dãy núi Đongrek, mùa khô bắt đầu, luồng không khí khô và hanh của ban ngày,và rất lạnh về đêm... Cây bắt đầu rụng lá và khô cằn đi vì cái khí hậu khắc nghiệt đó, đối với những người tị nạn Việt Nam và người lánh nạn Campuchia, có nghĩa là sẽ có những trận tấn công càn quét của Cộng Sản Việt nam tronh những ngày sắp tới.... Chúng tôi, những người tị nạn , ăn không no, uống không sạch, tấm chăn của ICRC (Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế) phát cho không đủ ấm , bởi chiều dài không đủ che thậm chí cho một người có vóc nhỏ con như tôi! Hy vọng là thức ăn duy nhất đã nuôi sống chúng tôi ngày này qua tháng khác không những về mặt Tinh thần như người ta thường nghĩ mà ngay cả thể xác gầy còm còn lại kể từ sau Biến Cố Mất Nước 30 tháng tư ngày đó!!! Có các Bác, Các chú, các Anh các Chị, những người đã từng bị đày đọa trong những trại Cải tạo, và giờ đây lại bị đọa đày trong những xà-lim , trại giam của Miên đỏ , của Para , rồi đây tưởng chừng chính thiên nhiên cũng thử thách từng số phận của mỗi người trong chúng tôi....






Mọi người hầu như ai cũng có cái cảm giác rằng lại thêm một lần chạy trốn Cộng sản nữa!! tương lại và định mệnh mà chúng tôi không thể quyết định cho chính mình,nay đành phó thác cho đấng quan phòng mà mọi người chúng ta ai ai cũng có, tiếng kinh lòng của mỗi người đều mang chung một lời nguyện đơn sơ mong sao ngày mai sẽ có tên đi gặp phái đoàn....tưởng đơn sơ nhưng phải cần một phép nhiệm mầu mới đem lại được!!!






Tổng Chiến Dịch tấn công mùa khô 1984 của CSVN nhắm vào các căn cứ của quân kháng chiến Khmer tự do và các trại lánh nạn thường dân Khmer dọc theo Biên giới Campuchea-Thailand:






Những tiếng pháo đêm về càng gần, lũ trẻ thậm chí cũng hiểu ra rằng có một điều gì ghê gớm sắp sửa sẽ xảy ra, chúng âm thầm ngoan ngoãn đi ngũ sớm hơn mọi khi, còn người lớn, thì dù muốn dù không cũng phải ráng đè nén cái sợ hãi đó, rồi thâu đêm không ngũ được, tụ tập bên cái radio của ai đó để lắng nghe bản tin từ đài tiếng nói Hoa kỳ, anh quốc, Úc đại lợi.. với hy vọng thế giới ngoài đó đề cập về mình không , và trong lòng luôn khấn nguyện đấng bề trên che chở độ hộ vào lúc này!






Những chiếc xe bồn xì-tẹt chạy hối hả từ phía đồn thái vào trại lánh nạn của người Khmer trước rồi thì một hai chiếc đỗ lại cho trại tị nạn người Việt (Vietnamese Land Refugee Platform-lúc này thật ra chúng tôi chưa được công nhận là một trại tị nạn mà chỉ là một platform mà thôi!), những người tài xế thái đốc thúc những người tình nguyện phân phối nứoc bằng tiếng thái hãy rút nước càng nhay càng tốt, rồi họ nhanh chóng lao nhanh trở về bên kia biên giới, không ai nở một nụ cười, những khuôn mặt đầy lo âu nhưng dễ hiểu....chiến sự đang tới gần...Các nhân viên thiện nguyện nước ngoài (NGO: Non-govermental Oganization) cũng gấp rút công việc của mình và ra về sớm hơn mọi khi, những cuộc đàm thoại cũng nhanh chóng kết thúc với những lời chúc bình an cho nhau... với hy vọng sẽ gặp lại ngày mai!. Những tín hiệu phát đi phát lại từ những chiếc máy Motorola portable của một y tá MSF (Medicins sans Frontieres) "Attention all stations, the situation in Dangrek Camps is now number 2, I repeat, the situation in Dangrek now is number 2,this is Alpha security.over" (giọng quen thuộc của thầy Bob Matt - người giữ liên lạc giữa các NGO và Task Force 80 cua Thái) cô y tá lanh tay vặn volume xuống để cố tình không làm cho mọi người thêm âu lo vì những tín hiệu đó, nhưng nét mặt cô ấy cũng đủ diễn tả sự lo âu!!






Khoảng giữa trưa, những đám bụi đỏ cuối cùng tan dần ở phía đồn Thái sau khi những chiếc xe chở các NGO's vulunteers trở về Aranyaprathet, hoặc rút về Khao I dang, sớm hơn mọi ngày!. Sinh hoạt trong trại vẫn cứ trôi qua như thường lệ, lũ trẻ túm nhau lại đùa giỡn trên sân banh giữa trại, người lớn thì lo chuẩn bị nhóm lửa chẻ cũi, gánh nước chuẩn bị cho bữa cơm chiều đạm bạc như thường lệ.... những cụm khói nhỏ đâu đó nhanh bay lên và tan vào thung lũng Phnom Dongrek.






Thế nhưng giữa lúc đó một chiếc xe hơi nhỏ màu trắng phủ đầy bụi đỏ đang lao nhanh và chạy thẳng vào trại VN....Lũ trẻ tản mát ra, và trố mắt nhìn về đằng đó, nơi chiếc xe vừa ngừng lại. Cửa xe mở ra, lũ trẻ reo hò và ùa lại như mừng đón Cha mẹ đi chợ về, không ai xa lạ bởi vì đó chính là Cha Pierre Ceyrac chỉ có Cha, duy nhất một mình Cha, không tài xế,không một người nào đi với Cha cả!! với nụ cười từ bi như mọi ngày,Ngài bị đám trẻ bu quanh, đứa thì đứng nhìn Cha trong khoảng cách ngập ngừng , đứa thì mạnh dạn nắm lấy tay cha, đúa thì nũng nịu lay lay tay Cha....hình như chúng muốn nói với Ngài, Xin Cha đừng bỏ chúng con nghe Cha...Ngài dịu dàng xoa đầu vài đứa, nói một vài điều gì đó, lấy một bao kẹo đã xé sẵng và trao cho chúng với hy vọng chúng sẽ buông thả Cha, quả thật vậy, được những cục kẹo ngon, lũ trẻ bắt đầu chia năm xẻ bảy,sung sướng, tung tăng... còn Cha nhanh nhanh khoác cái túi vải đi nhanh vào Nhà Ban đại diện trại nơi Bác Lâm Nê , và nhóm ban đại diện của trại đang đứng chờ Ngài. Tin Cha đến lan nhanh, bà con kẻ đứng xa người đứng gần, quây quần xung quanh hàng rào ban đại diện.


Khác với mọi lần, chúng tôi không mong Cha mang thư từ của thân nhân mình gởi,hay những tin sốt dẻo về Phái đoàn nào sắp vào phỏng vấn và sẽ nhận bao nhiêu người, hay khi nào sẽ có danh sách của những người được phái đoàn chấp nhận v.v và v.v , ( vì trước đó không lâu đã có một số bà con được phỏng vấn và hy vọng sẽ được chuyển đi PanatNikhom nay mai) nhưng lần này chúng tôi chỉ muốn thêm tin tức về tình hình chiến sự đang xảy ra , liệu chính quyền Thái và ICRC, UNHCR có cho chúng tôi di tản trước không? Sau này, chính Ngài kể lại, hôm đó vì quá lo lắng cho chúng tôi Ngài đã bất chấp lệnh giới nghiêm do TF80 (vì tình hình leo thang tới cấp 3)nhưng Ngài vẫn muốn vào trại rất sớm trước là để dâng lễ và tiếp đến đem một số thư từ cho bà con VNLR, nhưng lính Thái Task Force 80 đã chận Ngài lại và làm khó dễ Ngài!. Lúc đó Ngài đã không ngừng cầu nguyện làm sao vào được trại để chia sẽ, an ủi, động viên và cầu nguyện với chúng tôi. Everything will be all right! ça va ça va!






Thật ra lần đó Ngài đã dấu một số thư từ cho đồng bào VNLR, một số tiền Ngài đã đổi sang tiềng Baht , một vài gói thuốc samit cho Bác Lâm Nê, và Ngài không quên mấy gói kẹo cho lũ trẻ..Ngài biết có nhiều người đang mong chờ thân nhân mình gởi những giấy tờ , hình ảnh để làm chứng từ khi gặp phái đoàn phỏng vấn. Ngài đã làm một điều ngoại lệ, Ngài đã đút lót cho lính Thái mấy gói thuốc (có thể còn có một số tiền mặt nhưng Ngài không tiện nhắc đến) để họ dễ dàng cho xe Ngài qua biên giới....Với Ngài thuốc lá là người bạn đồng hành của mình, Ngài hút nhiều lắm!. Trong comportment xe của Ngài lúc nào cũng có ít nhất 5,6 gói Samit, 2,3 cái hộp quẹt gaz. Nhưng Ngài để lại tất cả cho những ai Ngài gặp trước khi trở về Aranyaprathet!






Cuối cùng thì DongRek cũng bị càng quét...khác với mọi khi, thường thì CSVN dùng chiến lược "tiền pháo hậu sung" nhanh chóng ồ ạt tấn công vào buổi sáng, lần này, vào lúc mọi người đang chuẩn bị cơm chiều, đâu đó có một số người may mắn có tên lên đừong định cư, theo dự định số đồng bào này sẽ chuyển đi PanatNikhom vào sáng ngày hôm sau.






Bóng tối xuống thật nhanh, bởi rặng núi che khuất những tia nắng cuối cùng, cái bóng của dãy núi như một bày tay khổng lồ đưa lên không trung như ngăn chặn những tia nắng cuối chiều...






Khoảng 5 hay 6 giờ chiều ,sau một loạt pháo kích hạng nặng vào khu vực trại Ampil gần Dongek, rồi CSVN chuyển nòng súng về phía trại Phnom Dangrek... tiếng rít xé bầu không khí của những trái pháo trong cự ly rất ngắn, tưởng chừng đã nổ ngay trên đầu chúng tôi nhưng chúng đã đi ngang trại rồi nổ đâu đó trên sường núi , những cột khoái đen tung lên, vài trái đã rơi vào sơn-cách (Khmer section), không rõ có bao nhiêu người đã thiệt mạng! riêng Trại tị nạn Việt nam thêm một lần nữa được may mắn, không một trái pháo nào rớt vào! Phải chăng đồng bào mình được bề trên che chở??!!






Mọi người, trẻ lớn đều nín thở tự tìm kiếm một chỗ thấp ẩn núp,sau đó kẻ la người ó, kêu gọi nhau, đùm gánh, sát bên nhau, hoang mang, sợ hãi nhìn về phía ban đại diện để chờ lệnh..






Cũng như mọi lần, Task force 80 của Thái không mở cửa biên giới ngay! Thậm chí họ còn bắn chỉ thiên ngăm dọa về phía những người lánh nạn Khmer, ngăn cản không cho bất cứ ai đến gần biên giới... Trại tị nạn Việt nam mình thì tương đối có trật tự và có tổ chức, mọi người đều tuân theo Ban đại diện. Không một cử động khi chưa có lệnh từ trên, tuy có nhiều người vì quá sợ hãi, muốn theo giòng người lánh nạn Khmer để hy vọng được vào đất Thái sớm!. Khoảng đến 7 giờ , trời đã sập tối, lúc này chúng tôi có thể nghe tiếng súng nhỏ nổ rất gần!. Đây là dấu hiệu của những trận chạm súng giữa CSVN và lực lượng Khmer Tự do.... tiếng súng càng gần... hoang mang và sợ hãi càng tăng...Khoảng thêm 1 tiếng sau, trại VNLR được lệnh bỏ trại, kẻ bồng người bế, giúp nhau lần lượt nhanh ra phía đường cái đỏ trước mặt trại rồi đổ dọc theo chân núi, tiếng sâu vào bên kia đất Thái, phải thừa nhận rằng trại mình rất là đoàn kết vào lúc này, không ai nói ai, mọi người im lặng, người sau nhìn người trước cứ thế mà đi (cũng cần nói thêm vì không muốn bị back-flash và trách những hiểu lầm vốn đã có sẵng từ những người lánh nạn Khmer trong lúc loạn lạc này, nên chúng tôi ai ai đều phải giữ im lặng tuyệt đối vào lúc này, không dám nói tiếng việt),thỉnh thoảng có tiếng chửi thề đầy căm giận của một vài người Khmer nào đó, chúng tôi âm thầm, cùng giòng người xuyên qua biên giới lúc nào không hay... Gần nữa đêm, lực lượng đặc biệt Task Force 80 của Thái ra lệnh tất cả phải ngừng lại, lúc này mọi người bắt đàu lao xao , kẻ này gọi người kia, thỉnh thoảng có ai đó bật đèn pin (flash) lên để tìm kiếm gì đó, thì lập tức bị phản đối la ó! (vì cho rằng CSVN có thể thấy được và dội pháo vào? Rất có thể?). Mọi người ai ai cũng thấm mệt và lo âu, đặt lưng vào sường núi, mắt nhìn lên trời cao, với những suy nghĩ mông lung.... Còn số bà con đã có tên đi ngày mai lúc này nghĩ gì!!??....chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa, giữa cái sống và chết rất gần ....Hy vọng ai đó trong số này sẽ chia sẻ cảm nghĩ và nỗi lòng vào lúc đó, xin ghi lại những giây phút đáng để đời này, cho con em mình nhìn vào đó mà cảm thông được con đường về đất hứa đầy gian truân của mình...Còn lại những người như tôi vào lúc đó, chưa hết nổi bàng hoàng, còn đang tự nghi vấn không biết mình đã thật sự thoát qua cái chết chưa! Lòng bàng hoàng, hoang mang, bơ vơ, trống trãi,lạc loài và tuyệt vọng...






Ban Đại diện trại vẫn tiếp tục làm việc vào lúc này, tập trung và cũng cố lại , điểm danh xem có ai bị mất tích hay không? Lính TF 80 được lệnh bảo vệ nhóm người Việt tị nạn một cách đặc biệt hơn lúc trước, VNLR được dời sâu và gần với đơn vị TF80 ngay đêm hôm đó.






Sao mai vẫn còn, trời chưa sáng hẳn, nhưng người ta đã nghe từ xa tiếng xe hướng về phía tập trung của trại, rồi ngừng hẳn đâu đó! thọat đầu cứ tưởng xe tanks của CSVN, nhưng không phải... Đây là những chiếc xe bus đúng theo đúng dự định vào nhận đón số đồng bào may mắn có tên lên đường đi Panatnikhom, giữa lúc này quả thật , không mường tượng được ,ban đại diện lập tức truyền tin xuống để tập trung bà con có tên lên đường, cuộc đưa tiễng nhanh chóng, đoàn người được lính Thái hộ tống xa dần sau những tàn cây ở khúc quanh đó... nước mắt giàn giụa của người đi kẻ ở lại, ngậm ngùi hẹn ngày tài ngộ nhưng không biết đến khi nào!!!






Đó là ngày 24 tháng giêng 1985- Site A được tạm thời hình thành.






Ngay ngày hôm sau, chúng tôi đang còn tuyệt vọng,hoang mang, bơ vơ ,lạc loài tưởng chừng như bị bỏ rơi...Thì Ngài đã xuất hiện, Cha Pierre Ceyrac thêm một lần nữa đem lại nụ cười đầy hy vọng cho trại. Già, trẻ bé, lớn...tất cả ai cũng cảm thấy được an ủi nhờ sự có mặt của Ngài. Một buổi lễ đơn sơ ngay giữa cánh rừng , nhắc lại mọi người đừng đánh mất hy vọng, phải giữ vững niềm tin, với Ngài "Everything will be allright!", hôm đó Ngài ở lại với chúng tôi thật lâu , gần chiều Ngài mới chịu ra về.






Ngày 5 tháng ba 1985






CSVN tiếp tục càn quét các trại dọc theo biên giới còn lại của những người Khmer Tự Do, trại Tatum, Green Hill lần lượt bị tấn công....trước đó các trại khác cũng bị tiêu diệt như trại San Ro, Ban Sangae (những trại này không có người Việt). Trước tình hình đó, liên hội các tổ chức thiện nguyện phi chính phủ (inter-NGOs) , Chính quyền Thái, ICRC, UNBRO đã quyết định dời các trại lánh nạn của dân Khmer vào sâu hơn trong đất Thái. Trại Site 2 được thành lập,là một trại lánh nạn của người Campuchia lớn nhất trong lịch sử. Site 2 được chia làm 2 trại lớn, site 2 North và Site 2 South, ngăn bởi một trục lộ chính và hàng rào kẽm gai. Ở giữa hai sites , có một đơn vị đặc nhiệm TF80 của Thái, thọat đầu trại VNLR ở site 2 North và cách section của người Khmer chỉ một bức rào bằng tre, nhưng sau 1 biến cố đẫm máu (1 trái lựu đạn đa quăng vào trong trại tị nạn VNLR, khiến 2 người chết và một số người bị thương- sự kiện này không được nhắc tới vì theo các tổ chức cứu trợ cho rằng đây chỉ là một "isolated incident" mà thôi!! cũng cần nói thêm rằng dân số trại VNLR chỉ 1/1000 so với trại lánh nạn người Khmer, vã lại các tổ chức NGO cố tình sớm đưa vào dĩ vãng để tránh những xung đột có thể xảy ra giữa trại VNLR và người lánh nạn Campuchia), tôi còn nhớ lúc đó có một phóng viên của CBS (David) đã âm thầm nhờ tôi chụp lại những gí xảy ra trong trại (Anh Nhân làm ở OPD với tôi vào lúc đó, chắc còn nhớ!!)Không biết có ảnh hưởng gì không?? Nhưng chính qua biến cố này, ICRC đã quyết định dời trại VNLR qua Site 2 South ( Site 2 south thực ra là hiện thân của trại Nong Sa Met và trại NW82 vào ngững năm 1980-1982 . Tưởng cũng nên nói thêm những sự thật ở đây về những người lánh nạn Campuchea, họ đều mang tư tưởng giống nhau, chiến đấu giành lại đất nước Campuchea đã bị gần như diệt chủng bởi Khmer Rouge , rồi tới sự chiếm đóng của CSVN,song họ vẫn chia rẽ và hiềm khích lẫn nhau trong nội bộ, họ chia ra nhiều nhóm kháng chiến khác nhau : nhóm đầu tiên là Khmer Rouge (không được sự ủng hộ của quốc tế), nhóm thứ hai là nhóm thân cận của Vua Sihanouk, và nhóm thứ ba được dẫn đầu bởi Son San, tôi không có mục đích phân tách hay phê phán vào cục bộ của nguời Campuchea, nhưng chỉ muốn nêu ra một trong những nguyên nhân tại sao đồng bào VNLR trở thành mục tiêu thù ghét của một số người Khmer! Đồng bào VNLR chúng ta đến từ các trại khác nhau từ 3 nhóm nêu trên bởi tuỳ thuộc vào từng con đường lúc vượt biên qua chặn cuối cùng trước khi đến biên giới Thái-Miên, trừ những người may mắn, hay tùỳ vào người dẫn đường, một số được đến thẳng trại tiếp nhận tạm thời của ICRC, còn lại đa số bị các nhóm nói trên bắt và giam vào các xà-lim của họ.VNLR tất cả đều bị ngược đãi, mức độ tuỳ theo nhóm nào bắt mình, song tất cả VNLR đều là nạn nhân của sự tham lam (bởi lẽ khi VNLR vượt biên hầu hết có đem theo tiền bạc, nữ trang, nên trở thành những đối tượng béo bở cho họ), nạn nhân của sự hiểu lầm (bởi vì chúng ta là người Việt Nam, nhưng thiểu số của họ không hiểu rằng cũng như họ chúng ta phải đi tìm Tự do, và trốn tránh chế độ CS tham tàn ở VN, đáng tiếc là CSVN cũng đang chiếm đóng đất nước của họ, lòng oán thù đã che mất lý trí để phân biệt sai trái!! vị trí của VNLR thật là tiếng thoái lưỡng nang!!Hễ những lúc nào họ bị mát mát hay thương về người cũng như về vật là những lúc đó chúng tôi bị lãnh hứng do sự oán hờn nhất thời!)






Tại sao lại dời qua Site 2 south? ICRC và UNBRO, chính phủ Thái đều nhận ra nhóm nào tương đối dễ chịu với VNLR, có thể nói Nong Sa Met là một trại được gọi là friendly với VNLR, bởi trong quá khứ các trại NW 82, NW9 , rồi Nong Sa met Platform cũng từ đó mà ra, Nong Sa met đã tạo điều kiện cho JRS (Jesuit Refugees Services)nói riêng và các tổ chức thiện nguyện khác nói chung vào hoạt động và giúp đỡ những người lánh nạn (Displaced persons) sớm nhất, do đó nhóm này được cho là thân thiện và cởi mở so với các trại khác (cho dù các trại khác đều dưới trướng của Son San, nhưng những vị lãnh đạo của từng trại (War Lord) lại mang những ý tưởng và hoạt động khác nhau (different fractions, different land Lord), dựa vào những yếu tố này UNBRO, ICRC ,Joint inter-NGOs đã dời trại VNLR và xác nhập vào Site 2 South , nhưng lần này trại chúng ta đưọc ngăn cách rõ ràng qua các hàng rào kẽm gai và được áp sát vào đồn TF 80 (Task Force 8) và được bảo vệ trực tiếp bởi TF80 ,một bệnh viện VNLR được dựng lên ngay cổng vào của trại và sát bên đồn TF80 ngoài ra chúng ta còn được phép access trực tiềp va sử dụng hệ thống liên lạc của TF80 (Tele-communication giữa bệnh viện trại và Khao I Dang Hospital) trong trường hợp phải chuyển bệnh nhân vào đất Thái để chữa trị nhất là về đêm (trước đó chúng tôi phải buộc lòng di chuyển bệnh nhân qua bệnh viện của người Khmer, có những phức tạp đã xảy ra!!). Đến đây chúng ta lại nhớ đến công sức và ý của Cha Piere Ceyrac ,các Cha,các nhân viên NGO những người đề nghị với Đức Giám Mục Bangkok, và qua Cardinal Conference 1986, COERR (Catholic Office for Emergency Relief and Refugees is a private non-profit organization, established by the Catholic Bishops Conference of Thailand (CBCT)), đồng ý thiết lập một Bệnh Viện cho người Việt tị nạn, do Người Việt tự chăm sóc qua sự hỗ trợ của các Bác sĩ, Y tá của COERR , ARC (American Refugee Committee) lo về phòng xét nghiệm, di chuyển bệnh nhân vẫn còn dưới sự giúp đỡ của ICRC (Ambulance), những dịch vụ y tế nhẹ như là Day Surgery, cateract removal,selective minor surgery thì được chuyển lên Khao I Dang qua sự sắp xếp của COERR. Cha Pierre Ceyrac, theo tôi , là người có công lớn nhất lập ra Bệnh Viện này, và cũng là Vị Ân Nhân lớn nhất của nhữnh bệnh nhân được điều trị tại đây về vật chất lẫn tinh thần, Vì Bệnh Viện được nằm ngay truớc cổng vào của Trại ,cho nên trước khi ghé vào Cộng Đòan Công Giáo Emmanuel hay Ban Đại Diện Trại, Ngài luôn luôn ghé thăm Bệnh Nhân và Anh em thiện nguyện ở đây trước, với chúng tôi, đây là những giây phút quý giá đáng nhớ, được trò chuyện với Ngài, được thấy Ngài, hút một điếu thuốc với Ngài...chúng tôi cảm thấy như được ban hồng ân đặc biệt, một món quà tinh thần động viên chúng tôi, chúng tôi làm việc có lúc 24/24 mà cảm thấy không mệt mỏi... Nghĩa cử cao cả và lòng vị tha của Ngài đã giúp cho chúng tôi vượt qua những khó khăn nhất trong những lúc này.






Có một đêm nọ, trại bị một nhóm người vũ trang (không rõ là ai ?? Thái, Campuchia...?) vượt rào vào trại để cướp của hay hiếp dâm...Đêm đó chúng tôi đã nhanh chóng chạy thẳng vào đồn Thái TF80 để cầu cứu lính Thái phản ứng rất chậm chạp khi nghe báo như vậy thậm chí họ còn hoang mang hơn mình khi nghe nói nhóm người này có súng, cuối cùng một cuộc đấu súng xảy ra kịch liệt giữa lính Thái và nhóm cướp, trong đó có một người Việt Nam tử nạn!! (anh ta là bộ đội vượt biên, mà nguời ta còn gọi là Chú Cùi!) Anh đã bị trúng đạn mà sau này sau khi nhận xét dựa vào vết đạn trúng vào người ai ai cũng kết luận rằng anh ấy trúng đạn từ phía sau nghĩa là lúc dẫn nhóm lính thái truy đuổi nhóm cướp, anh ta là người dẫn đầu, nên bị lính thái bắn trúng từ đàng sau!! chúng tôi đã liên lạc khẩn cấp Khao I Dang xin xe ambulance , 45 phút sau , Khao I Dang gởi ambulance vào, vì máu ra quá nhiều, mặc dù được chuyền nước biển vào 2 cánh tay, anh ta đã tắt thớ giữa đường (sau khi ambulance qua khỏi làng Pra Taya một đoạn), tôi đã không cầm được nướt mắt mình!!! Tôi cảm thấy bất lực vô cùng!!






Theo luật thi thể nạn nhân phải tiếp tục đưa đến bệnh viện Khao I Dang . Sáng hôm sau, sau khi làm báo cáo cho ICRC tại đây, vừa chuẩn bị ra xe để về lại trại, Cha Pierre đã đậu xe trước ICRC của Bệnh Viện, Ngài lại là người đầu tiên và duy nhất được thấy thi thể của nạn nhân. Ngài đã Ban phép lành cho anh ấy! Tôi xin Cha một điếu thuốc,đốt xong và cắm xuống miếng đất trước cổng bệnh viện như 1 nét hương cho người quá cố,Ngài không hỏi tôi làm gì, mà Ngài cũng tương tự làm theo... Ngài vỗ vai tôi chào tạm biệt.


Có lần tôi đã tâm sự với Cha Pierre nếu Ngài có trách móc tôi không, nếu tôi không tham dự những thánh lễ của Cha ở nhà thờ trại? Bởi vì từ hồi có bệnh viện trong trại, tôi đã xin ban đại diện cất một vài căn phòng nhỏ sau bệnh viện, để anh em chúng tôi có thể túc trực ở đó 24/24. Từ dạo đó tôi ít ghé lại nhà thờ hơn! tôi cũng bị một vài người trong công đoàn chỉ trích vì vắng mặt thường xuyên!! để cho lòng mình được thanh thảng,tôi đã hỏi Ngài như vậy. Ngài hỏi lại tôi " Did you note that on the sign board in front of your hospital, there are two crosses on it, meaning that is the place where our Jesus be there, for everyone, don't worry keep up your good work, god bless you! you know" Chính Ngài đã bồi bổ tinh thần cho tôi và cho tôi lòng nhiệt huyết kiên cường làm được những gì mà tôi có thể làm cho tôi cũng như cho người khác vào lúc cần nhất , mà giờ đây dù có muốn tôi vẫn không thể làm được!!! (Father! you inspired me!)






Lần đó, không hẹn mà gặp, lúc đó tôi được gởi ra ngoài bệnh viên ARC (American Refugee Commitee) của người Khmer để học khoá Tropical disease laboratory của MSF (Medicins Sans Frontieres) tổ chức và huấn luyện, ngày hôm đó trong dịp Graduation Ceremony . Tôi gặp được Ngài, Ngài là một trong những quan khách của buổi lễ, ngạc nhiên vì gặp được Cha ở giữa đám đông người Khmer, lòng tôi mừng không tả, tôi chưa bao giờ cảm thấy mình hạnh phúc như lúc đó, bởi với tôi, tôi đã học được một cái ngành mà mình yêu thích, thứ hai vào lúc đó đang bơ vơ giữa chốn người,như một đứa trẻ mồ côi, thế mà Ngài lại có mặt ở đây để chứng kiến sự trưởng thành của mình, Cha là người thân của tôi duy nhất lúc này!! Phải chăng đây cũng là cái nghiệp của mình, mà sang Canada tôi đã theo đuổi học ngành Medical Laboratory, và cũng làm tại một bệnh viện cho đến hôm nay. Phải chăng có một sự ngẫu nhiên hay một sắp đặt ở đây!!






Tin hay Ngài đã mất, tôi đã khóc... như hôm nào tôi cũng đã khóc khi Cha mình qua đời. Tôi ước mong được gặp lại Ngài..nhưng không được nữa rồi!!!...có lẽ không phải ở thế gian này nữa ...mà hy vọng nơi, mà Ngài cho là cội nguồn của Ngài!!! Tạm biệt Cha!!!






Những chi tiết, tên tuổi trong đoạn hồi ký này là có thật, có thể mốc thời gian bị chênh lệch chút đỉnh, ai nhớ xin vui lòng đính chính.






Thân ái! Chương OPD-Bệnh viện COERR


Hồi Ký ông Trần Văn Phước


"Tên cọp bữa nào cao hứng muốn đánh người tị nạn thì nó đi một vòng coi lều nào có chỉ một cọng rác là nó kêu mỗi người 2 roi, đánh như thế có khi tới 200 hoặc 300 người..













Cảnh đánh đập ở trại NW82 hôm nào cũng diễn ra. Còn tệ nạn nữa là chúng bắt đàn bà con gái hãm hiếp hàng đêm."

































Trong lá thư sau đây, ông Trần Văn Phước vốn là một cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa diễn tả lại kinh nghiệm tủi nhục của ông cũng như các bộ nhân khác ở Thái Lan:















'Tôi là một cựu quân nhân QLVNCH tên là Trần Văn Phước thuộc SÐ 18 BB.. Tôi vượt biên đường bộ vào tháng 5/82 khi đến biên giới Thái Lan và Kampuchia, tôi rất mừng là mình đã trốn thoát khỏi địa ngục CSVN. Nhưng cái mừng của tôi chưa kịp thốt ra khỏi cửa miệng thì ôi thôi thật là chua chát, chua chát đến nổi tôi không thể ngờ rằng vào thế kỷ thứ 20 này lại có những con người dã man hơn loài thú rừng xanh, thú của rừng xanh là những con vật không nói chi nhưng mà họ là loài người mà lương tâm của họ không có... đó là bọn Mên được mệnh danh là 'Kampuchia dân chủ kháng chiến quân Khờ Me.' Chúng bắt chúng tôi trói lại và xách búa đem tôi ra đập đầu, lúc đó tôi tưởng rằng mình đã chết nhưng cuối cùng chúng thấy nghĩa khí của người VN chết mà không hề van xin nên chúng đã ngưng tay. Cuối cùng chúng nhốt tôi lại.. chung với người tù Mên của chúng.. Bọn tù Mên đánh tôi và sỉ nhục dân tộc VN.















Chúng cầm tù tôi đến ngày thứ 7 thì chuyển đến nhà tù mới. Ở đây tôi được gặp một số ít người VN. Như gia đình chị Nguyễn Thị Bê tất cả là 4 người, 2 đứa con gái và 1 đứa con trai nhỏ. Ôi có cảnh nào khổ hơn làm thân gái sống với những con người Mên lòng lang dạ thú! Chúng hành hạ đàn bà con gái có thể nói là mang thai với chúng, rất là dã man chưa từng thấy: hết đứa này rồi đứa khác vùi dập thân xác. Tôi nhìn thấy cảnh tượng đó mà đau lòng chỉ vì hai chữ TỰ DO mà tất cả người Việt ly hương phải trả giá rất đắt, phải tủi nhục và phải căm hờn những quân khốn kiếp..










Ðối với thanh niên chúng tôi, chúng bắt đi lao động rất hãi hùng: 5 giờ sáng đến 12 trưa mới cho nghỉ, chúng cho chúng tôi ăn toàn là cháo với muối, xong phải tiếp tục làm nữa đến 6 giờ chiều mới được nghỉ. Nhưng điều mà chúng tôi lo lắng là chúng muốn thủ tiêu chúng tôi giờ nào cũng được.















Chúng tôi ở đó một thời gian thì có Hồng Thập Tự Quốc Tế (ICRC) đến thăm và cho chúng tôi gạo, cá hộp, mỗi tuần đến thăm chỉ một lần. Khi ICRC về thì bọn Mên lấy hết tất cả thực phẩm nên chúng tôi vẫn chịu đói như thường, chỉ ăn toàn là cháo nên không đủ no.. Khi đồng bào đến, thì vàng, quần áo, giầy dép đều bị chúng lấy tất cả. Ðã lấy còn đánh đập dã man và bóc lột sức người tận xương tủy..










Khi chúng tôi được chuyển vào trại tị nạn chánh thức là trại NW82 ngày 14/7/82 tôi nghĩ rằng mình đến trại 82 là thoát nạn. Nhưng không ngờ hãi hùng vẫn còn đè nén mọi người. Trại nằm cách biên giới Thái-Kampuchia một cây số, trại này có tất cả 30 tent (lều) toàn là tent dã chiến của quân đội.. Ðàn bà con gái ở đây vẫn bị bọn lính Thái Lan hãm hiếp rất là dã man. Nếu ai chống cự là chúng thủ tiêu liền.










Ở đó có một người lính Thái tên John, những người VN gọi nó là cọp. Nó rất dữ, đánh người VN rất dã man.. Tôi xin kể những trận đòn mà tên cọp đánh người VN: Như vụ Liên Thị Kim Tụng, cô ta mua bánh bò nên bị tên cọp bắt được và nó đổ bánh bò xuống đất và bắt cô phải ăn, nếu không ăn thì chúng đánh nên bắt buộc chị phải ăn. Và vụ thứ hai là anh Thạch Can mua 2 bọc kẹo, chúng bắt được, đánh anh và bắt anh phải ăn kẹo không lột giấy cho hết 2 bọc. Vụ thứ ba là anh Hồng mua một gói thuốc Samit, tên cọp bắt được và bảo anh xé ra để vào một cái thao và đổ nước vào uống và ăn thuốc. Vụ thứ 4 là anh Sơn Hương mua một con lươn chúng bắt được, bắt anh phải ăn sống, nếu không thì chúng đánh, nên bắt buộc anh phải ăn..










Tên cọp bữa nào cao hứng muốn đánh người tị nạn thì nó đi một vòng coi lều nào có chỉ một cọng rác là nó kêu mỗi người 2 roi, đánh như thế có khi tới 200 hoặc 300 người..















Cảnh đánh đập ở trại NW82 hôm nào cũng diễn ra. Còn tệ nạn nữa là chúng bắt đàn bà con gái hãm hiếp hàng đêm.















Thư từ đến thì chúng kiểm duyệt, cắt ra xem có money order thì lấy tất cả, tiền mặt cũng vậy.. Chúng làm những vụ kiểm kê y hệt như cộng sản vậy, chúng lấy tất cả gần 10 lượng vàng và 600 dollars. Có một anh bị lấy 2 lượng rưỡi lên xin lại chút ít thì bị tên đại úy trưởng trại bắt đem nhốt chuồng cọp 6 ngày và còn hăm dọa nếu mà còn đến xin nữa thì chúng sẽ đuổi ra khỏi trại..















Ở trại tị nạn NW82 tất cả có 1800 người nhưng người Việt Nam thuần túy chỉ có 300, còn 1300 toàn là Kampuchia, 200 chà và...'















Trong tập thể bộ nhân Việt Nam bị cầm tù dọc biên giới Thái Lan có nhiều thanh niên vốn là bộ đội nằm trong guồng máy quân sự của Hà Nội tại Cam Bốt. Một số anh em từng đào tẩu khỏi quân đội Hà Nội và một số là tù binh của Khờ me đỏ may mắn sống sót và sau đó được dùng để đổi gạo với Hồng Thập Tự Quốc Tế. Ða số các thanh niên này không muốn quay về với guồng máy đàn áp của Hà Nội cho nên xin tị nạn nhưng họ lại bị Bangkok đối xử như tù binh.










Vào cuối năm 1981, 400 thanh niên Việt Nam đào ngũ từ Cam Bốt đã bị giam cầm trong trại Sikhiu ở Nakhon Ratchasima. Tập thể này có 26 bộ đội từ miền Bắc, và số còn lại là thanh niên miền Nam. Họ phải đợi một thời gian rất dài (ít nhất là sau 2 năm 'nghỉ mát' do Bangkok quy định vào tháng 7-1981) thì mới được hy vọng được cấp quy chế tị nạn; nhưng chặng đường định cư của họ sau đó còn dài đăng đẳng bởi vì quá khứ liên hệ với bộ máy chiến tranh của Hà Nội.















Trong khi chờ đợi được hưởng quy chế tị nạn, những thanh niên này bị bỏ tù như bọn tội nhân hình sự mặc dầu họ chỉ có tội duy nhất là không trốn được sự bố ráp 'nghĩa vụ quân sự' của Hà Nội. Ða số thanh niên Việt Nam không ai muốn trở thành bộ đội cộng sản và hình như không ai dại dột muốn đi Cam Bốt để trở thành những tên cướp ngày dễ mất mạng. Họ đã dám hy sinh tất cả để đào tẩu hoặc từ chối không trở về phục vụ guồng máy xâm lược của Hà Nội với mục đích duy nhất là có được một đời sống tự do không bị ý thức hệ kềm kẹp. Họ thực ra chỉ là những nạn nhân của hoàn cảnh như nhiều đồng bào tị nạn Việt Nam khác.




Hồi Ký Tị Nạn Của Gia Đình Bà Kim Hà


Posted: Sunday, November 14, 2010 by Hưng in


0


"Từ xa, có những tiếng súng nổi lên rồi có những tiếng hét thảm thiết của phụ nữ. Chúng tôi đoán chừng chắc là nhóm lính Para khác đang tra tấn, hành hạ những người ty nạn Việt Nam khác. Tiếng kêu thét như tiếng heo bị thọc tiết, ai oán, nghe như xé ruột, vang động cả núi rừng. Rồi thì tiếng gầm thét của bọn lính. Tôi không ngờ mình đã gặp phải một bọn quỷ râu xanh như bọn Para này. Tôi hoảng quá vì sợ chúng hãm hiếp mình. May mà tôi đang có thai sáu tháng, bụng đã to, chứ không thì... Tôi rùng mình và không dám nghĩ hết"










Lời Nói Đầu: Thưa quý độc giả, gia đình chúng tôi là những người tị nạn đường bộ. Chúng tôi khởi sự vượt biên từ Sàigòn, Việt Nam vào ngày 27 tháng 3 năm 1980, đến trại tị nạn Non Chan ngày 10 tháng 4 năm 1980. Sau hơn 7 tháng sống khổ cực trăm bề ở các trại Non Chan, NW9, Pananikhom Holding Center và Rangsit Transit Center, thì cuối cùng, vào ngày 16 tháng 10 năm 1980, gia đình chúng tôi đã đến được mảnh đất tự do, đó là thành phố Los Angeles, thuộc tiểu bang California, Hoa Kỳ.








Từ ngày 16 tháng 10 năm 1980 trở đi, tôi đã dùng rất nhiều thì giờ và công sức để viết báo, viết sách nhằm gióng lên tiếng chuông kêu cứu cho người tị nạn, đặc biệt là người tị nạn đường bộ còn kẹt lại ở các trại tị nạn vùng Đông Nam Á. Cũng từ đó, chúng tôi tích cực tham gia trong các phong trào cứu những người tỵ nạn đường bộ cũng như đường thủy.








Câu chuyện mà chúng tôi sẽ kể sau đây chỉ là một phần nhỏ trích trong tác phẩm Qua Cơn Bão Dữ mà chúng tôi đã xuất bản năm 1992. Nếu muốn tham khảo bằng tiếng Anh thì xin mời quý vị đọc tác phẩm Stormy Escape, xuất bản năm 1997 và Report On The Vietnamese Land Refugees, xuất bản năm 1983. Ba tác phẩm này đều do chúng tôi viết ra để làm tài liệu lịch sử cho đời sau.





Cuộc hành trình của chúng tôi phải nói là gian khổ nhiều vì gia đình đông con, gồm hai vợ chồng và 4 con nhỏ, tuổi từ 4 tuổi đến 9 tuổi, lại còn thêm cái bào thai 5 tháng. Cháu bé thai nhi này được sinh ra tại trại tị nạn NW 9, trên lãnh thổ của Thái Lan, vào ngày 17 tháng 7 năm 1980.






Cuộc sống thê thảm sau kỳ vượt biên đường thủy thất bại:


Chúng tôi đã đi vượt biên bằng đường thủy vào tháng 6 năm 1978 nhưng bị thất bại. Sau đó, cả hai vợ chồng tôi đều bị mất việc vì bị ghép tội là thành phần “Phản động” và “Phản quốc”. Chồng tôi bị đi tù, còn 5 mẹ con tôi chỉ bị tù ba ngày rồi được trả về.






Sau đó, tôi lặn lội đi buôn thúng, bán bưng ở các vỉa hè, nơi ngã ba Hàng Xanh xa lộ, vùng Thị Nghè, Bà Chiểu, Sài Gòn. Khi nào bán ế thì về nhà luộc bắp, nướng bắp mà ăn trừ cơm.






Một hôm, chị hàng xóm tốt bụng rủ tôi đi mua mít Tố Nữ ở Lái Thiêu về Sàigòn bán lẻ. Khi hai chị em vừa xuống xe, mỗi người gánh một gánh mít đi bán ở vùng xa lộ thì trời đổ mưa tầm tã. Chúng tôi phải nép vào một cái quán để tránh mưa. Mưa ướt ngoài trời mà mưa lệ cũng ướt đầm đià trên đôi mắt tôi.






Cả đời tôi chưa hề một lần buôn thúng bán bưng mà giờ phút ấy, hai vai của tôi quằn lại vì gánh nặng của hai thúng mít. Mưa ròng rã suốt buổi nên cuối cùng, tôi gánh về nhà để ăn. Hàng xóm thấy tội nghiệp nên mua giúp cho tôi. Sau đó, tôi đổi nghề đi buôn thuốc tây, nhưng vì không quen làm ăn nên làm gì cũng thua lỗ. Từ từ, tôi đem đồ đạc đã gửi nơi nhà bà con để bán dần, lấy tiền mua gạo cho con cái ăn uống để cầm cự qua ngày.






Mãi đến mấy tháng sau, chồng tôi được thả về. Anh lặn lội đi buôn bán chợ trời nên gia đình tôi bớt vất vả. Trong thời gian ở tù, anh có quen một người tù khác. Ông này vì là triệu phú bị kiểm kê tài sản mà bị ở tù. Khi ra khỏi tù thì tính chuyện đi vượt biên bán chính thức. Ông ta cho vợ chồng tôi mượn 8 cây vàng, và nói rằng khi qua Mỹ, ông ta sẽ đòi tiền nơi mẹ của tôi. Sau đó, chúng tôi khám phá ra rằng trong số 8 cây vàng mà ông ta cho mượn thì có 1 cây vàng giả. Sự khám phá ra vàng giả cũng làm cho tôi đau đớn và suýt lên cơn đau tim vì e rằng không đủ tiền trả cho những người dẫn đường.






Trong lúc ấy, chồng tôi là anh Vĩnh móc nối đường dây đi vượt biên bằng đường bộ. Người ta hứa rằng chỉ lấy một nửa số tiền, khi nào thành công thì chúng tôi sẽ viết mật hiệu về Việt Nam cho em gái tôi trả thêm một nửa số tiền còn lại.






Cuộc hành trình tìm tự do đầy gian nan:


Đến ngày đi, vợ chồng tôi chia gia đình ra làm hai nhóm, ngồi chung xe nhưng làm mặt lạ với nhau để khỏi bị lộ. Khi đi xe lên đến vùng Gò Dầu thì người dẫn đường đưa chúng tôi vào một căn nhà tranh lụp xụp. Họ đổi cho chúng tôi quần áo của người Miên, và bắt chồng tôi đem hết vàng và giấy tờ quan trọng để đi vượt biên qua biên giới Việt Miên vào buổi trưa, khoảng 1, 2 giờ trưa. Tôi có nói với chồng tôi rằng khi anh đã vượt biên thành công thì xin viết mật hiệu báo tin là anh qua lọt để tôi ở bên này biên giới, tức là vùng Gò Dầu, Tây Ninh, sẽ cảm thấy yên tâm. Anh đồng ý và ra đi.






Trong lúc ấy, bốn đứa con của tôi ở trong căn nhà tranh bắt đầu kiếm chuyện vì bị tù túng. Chúng than van là trời nóng, chúng khát nước và đòi uống nước đá. Chúng đòi đi cầu, đi tiểu. Tôi không dám thò đầu ra ngoài vì sợ hàng xóm của gia chủ nghi ngờ và đi báo cáo cho công an. Thế mà cũng có những ngừơi hàng xóm tò mò sang bắt chuyện và hỏi thăm. Tôi phải làm bộ ngủ, quay mặt vào trong để tránh các câu chuyện không cần thiết và bất lợi.






Buổi chiều, các người dẫn đường đòi đưa tôi và hai con nhỏ đi trước qua biên giới, còn hai con lớn của tôi sẽ qua biên giới sau. Tôi sợ mất con nên nhất định không đồng ý. Thế là đêm ấy tôi lo sợ, không ngủ được, phần thì không có tin chồng báo về và sợ chồng bị cướp của và bị giết chết, phần thì con quấy rầy, phần thì bị cơn ho hành hạ.






Cuối cùng, vào ban đêm, có hai người lái xe Honda đến chở năm mẹ con tôi lên xe để vượt biên giới bằng đường ruộng, không bằng đường lộ. Đi lòng vòng một hồi lâu, hai xe dừng lại, và năm mẹ con tôi phải đi theo một người dẫn đường người Miên giữa đêm khuya, không trăng, không đèn.






Vì phải leo lên leo xuống các bờ đê trong ruộng nên mẹ con tôi bị ngã hoài. Chúng tôi không biết tiếng Miên, mà ông Miên dẫn đường lại không biết tiếng Việt. Phần thì ông ta đi quá mau còn bà bầu như tôi và lũ con trẻ lại đi quá chậm. Vì phải chạy theo ông ta nên chúng tôi cứ té ngã mãi. Tôi còn phải cõng đứa con bé nhất trên lưng.






Trên vùng đất Campuchia:


Ði mải miết ba bốn tiếng đồng hồ thì chúng tôi qua được biên giới. Ở bên đất Miên, người ta đốt lửa và họp chợ. Tới biên giới, người ta cho năm mẹ con chúng tôi ngồi trên ba cái xe đạp thồ và chở chúng tôi đi lên đường rồi xuống ruộng. Sau đó, họ bắt tôi lên mặt đường ngồi chờ họ cả buổi. Lòng tôi lúc ấy rất hoang mang và lo sợ. Phần thì sợ lạc con, phần sợ chồng bị giết rồi, phần sợ không có đủ sức khỏe để tiếp tục cuộc hành trình.






Cuối cùng, sau một hồi lâu, họ đến đón tôi về xum họp với chồng con ở trong một ngôi nha bằng tranh. Họ dặn chúng tôi không được nói tiếng Việt. Lúc gặp lại chồng, anh Vĩnh cho biết là khi qua biên giới xong thì họ quay ngay xe đi, không đợi cho anh ấy viết vài chữ về cho tôi. Anh còn kể là họ dùng mỹ nhân kế để quyến rũ anh. Anh phải giả vờ ngủ và phải tranh đấu lắm để không rơi vào lưới tình của người đàn bà trẻ kia.






Sau đó, họ hoá trang cho tôi bằng cách bôi khuôn mặt tôi cho đen hơn. Họ cho tôi cái khăn quàng gọi là “cà ma’ để đội. Tôi phải cải trang mặc áo sà rông, giống như một cái váy ra ngoài cái quần đen của tôi. Rồi họ chia gia đình tôi ra làm hai nhóm và cho ngồi hai xe vận tải khác nhau. Tôi và hai con gái ngồi ngay trên xe vận tải, bên cạnh tài xế, còn chồng tôi và hai con trai ngồi dấu mình ở đàng sau một xe vận tải khác.






Cứ mỗi khi sắp đến trạm kiểm soát thì chúng tôi phải xuống đi bộ, đi vào ruộng và khi qua khỏi trạm kiểm soát thì lại leo lên xe vận tải. Trên đoạn đường từ Gò Dầu Thượng đến Soài Riêng có cả mấy chục trạm kiểm soát, mà cứ đến mỗi trạm thì chúng tôi đều phải xuống đi bộ, bọc qua ruộng để tránh các trạm kiểm soát.






Có một lần vì thương hai đứa con gái nhỏ phải đi bộ vất vả nên tôi đề nghị chúng ngồi lại trên xe vận tải cùng với một giỏ quần áo để khi chúng tôi đi bộ, bọc qua ruộng xong thì sẽ gặp lại chúng. Khi ấy, cháu Kim, 4 tuổi nhất định khóc và đòi đi với mẹ, nên cháu Trang 8 tuổi cũng nhảy xuống theo. Tôi bèn để cái giỏ đồ, trong đó có cái kiếng cận thị của tôi trên xe.






Sau đó, khi chúng tôi đi bọc xong, lên lại đường lộ thì chiếc xe ấy chạy đi mất hút. Nếu tôi buộc hai con gái tôi phải ngồi trên xe ấy thì tôi đã thất lạc hai con rồi. May mà chỉ mất một trong hai cái giỏ của gia đình mà thôi, nhưng cũng khổ cho tôi là từ khi mất kiếng cận thị, tôi đâm ra mù lòa, khốn khổ trong suốt bẩy tháng trời ở trại tị nạn.






Khi chúng tôi đón một xe khác đi tiếp thì nhóm dẫn đường gài cho chúng tôi bị công an bắt, giải ngược lại con đường mà chúng tôi đã đi qua. Sở dĩ chúng tôi biết là họ gài cho công an bắt là vì khi chúng tôi đang ngồi ăn cơm trưa trong quán, thình lình có một xe công an đến quán và ra hiệu đòi chúng tôi đi với họ.






Vì biết rằng khi trở về thì sẽ bị tù, nên vợ chồng tôi bàn với nhau định chôn dấu mớ giấy tờ bảo lãnh của mẹ tôi làm từ Mỹ gửi về. Nhưng Chúa thương các con của tôi cách riêng, nên khi bị bắt, lính Miên chỉ đuổi chúng tôi về lại Việt Nam chứ không bắt giữ.






Khi được thả ra thì chúng tôi không còn thấy những ngừơi dẫn đường của gia đình tôi nữa. Lòng bối rối lo âu, gia đình tôi đi lang thang giữa đường của thành phố Soài Riêng như một đám ăn mày. Bản thân tôi lo sợ như kẻ mất hồn nên đi nghênh ngang giữa đường và bị xe đạp đụng làm rách cả cái áo.






Lúc ấy, chồng tôi dặn tôi trong nom 4 đứa con để anh ấy đi lùng tìm bọn dẫn đường. Anh đi tìm một cách vô vọng thế mà lại gặp bọn chúng. Cuối cùng chúng phải dắt gia đình chúng tôi đi ăn tối. Sau đó, chúng tôi xin ngủ tạm ở nhà một gia đình người Miên. Đêm mùa hè mà nằm lăn lóc trên nền xi măng còn hực lửa nắng hè, tôi lo buồn nên không dám ngủ vì sợ ngủ hết lỡ họ cướp tiền và giết mình thì sao.






Sáng hôm sau, bọn dẫn đường đành phải đưa gia đình tôi đi tiếp. Lộ trình đi vào thủ đô Phnom Pênh (Nam Vang) cũng gian nan không kém lộ trình từ Gò Dầu đến Soài Riêng.






Sống lo âu ở Phnom Penh:


Qua bao nhiêu gian khổ, chúng tôi đến được Phnom Penh. Bọn đẫn đường cho gia đình tôi vào ở trong một gia đình người Miên và rồi chúng lại trốn đi, để mặc gia đình chúng tôi bơ vơ nơi xứ lạ quê người.






Giờ phút ấy, chúng tôi chỉ biết quỳ xuống cầu nguyện để xin Chúa và Đức Mẹ Maria cứu nguy mà thôi. Chúa lại thương nên chồng tôi tìm được hai tên dẫn đường đang ngồi xe xích lô để chuồn về Việt Nam. Khi chồng tôi bắt chúng về lại nhà trọ thì chúng nói thẳng là chúng không biết đường đi đến Thái Lan. Lúc đó, chúng tôi mới biết là chúng đã gài cho lính Công an bắt chúng tôi khi còn ở phạm vi của tỉnh Soài Riêng.






Chúng tôi làm dữ với bọn dẫn đường và dọa sẽ ra công an tố cáo chúng lừa gạt chúng tôi. Cuối cùng, chúng phải trả lại gần một nửa số tiền mà chúng đã lấy của chúng tôi.






Sau đó, chúng dẫn gia đình tôi gặp một người dẫn đường khác. Họ dắt chúng tôi đến một nhà khác để đợi chờ. Trong suốt thời gian chờ đợi, lòng vợ chồng tôi bồn chồn và lo lắng như ngồi trên lửa.






Đi xe lửa đến Pursak và Battambang:


Rồi khoảng một tuần sau, anh chàng dẫn đường tên Sán mới dắt chúng tôi đi tiếp để đến biên giới Thái Lan. Lần này, anh ta đưa chúng tôi đến nhà ga và bảo chúng tôi leo lên xe lửa. Xe lửa đầy những người. Người ta ngồi trong các toa xe. Rất nhiều người khác thì ngồi lắt lẻo trên các mui xe lửa. Còn gia đình chúng tôi thì phải cố gắng leo lên trên một cái toa ở sát toa đầu xe lửa, nơi chất đầy củi để nhét vào lò, hầu làm cho xe lửa chạy.






Đây là một cực hình cho gia đình tôi vì các tàn lửa bay ra tấp vào quần áo chúng tôi và lửa châm vào da thịt chúng tôi, để lại những vết cháy trên da thịt. Lại nữa, toa này không có mui vì là toa chở củi, nên cơn nắng làm nóng khủng khiếp. Lại thêm cái đói và khát hành hạ gia đình chúng tôi. Lúc ấy, tôi cứ cầu nguyện để xin Chúa cho tôi được chết phứt cho xong kiếp đời đau khổ.






Vợ chồng tôi và các con ngồi chỉ cách nhau có 2 thước nhưng chỉ biết im lặng mà nhìn nhau một cách đau đớn. Lòng chúng tôi xót xa đến đứt ruột vì thương các con nhỏ dại mà phải chịu khổ. Cả gia đình tôi chịu cảnh khát nước đến cháy cổ nhưng không biết làm cách nào mà có nước uống vì xe lửa cứ chạy mãi.






Cuối cùng, tôi đánh bạo móc ra 5 đồng bạc Việt Nam để đưa cho những người ngồi gần, rồi ra dấu chỉ vào những trái bắp luộc và một ổ bánh mì đang nằm trong các chiếc giỏ hàng của họ. Họ bèn đưa cho gia đình tôi 5 trái bắp luộc và 1 ổ bánh mì. Thế là giải quyết được việc ăn. Rồi tôi lại ra dấu xin họ cho nước uống. Chị hàng xóm mở bi-đông rót ra một chút nước đen ngòm. Tôi vội cầm chiếc nắp bi-đông ấy để cho bé Kim, đứa con nhỏ nhất của tôi. Còn lại thì cả gia đình đều chịu trận khát khô cổ.






Trong cái nắng gắt của mùa hè nhiệt đới, chúng tôi ngồi im lặng như chết mà không trao đổi với nhau một câu nói vì sợ người ta biết mình là người Việt Nam vượt biên.






Đến 9 giờ tối, xe lửa mới ngừng trước ga Pursak. Chúng tôi mất trọn một ngày mà mới đi được có nửa đường.






Tôi hôm ấy, chúng tôi được anh Sán dắt đi ăn. Sau đó, anh chàng dặn chúng tôi hãy ngủ ngay phía đường rầy để mai đi tiếp.






Vợ chồng tôi rất run sợ vì nghĩ rằng anh ta có thể bỏ rơi gia đình mình bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, tôi phải lôi hết áo quần trong giỏ ra để làm chiếu cho các con nằm xuống. Chung quanh tôi, mọi người đều nói chuyện vui vẻ, chỉ có gia đình tôi là im lặng, sợ hãi và buồn bã.






Nền đất đá cứng và gồ ghề làm cho chúng tôi đau lưng, lại thêm cái nóng của mặt đất bốc lên làm cho chúng tôi trằn trọc suốt đêm không ngủ được .






Sáng hôm sau, anh Sán dắt chúng tôi lên xe lửa đi tiếp. Lại thêm một ngày nóng và khát. Suốt bảy tiếng đồng hồ ngồi phơi trên xe lửa không nóc, chúng tôi mệt muốn xỉu.






Khoảng 3 giờ chiếu thì xe lửa vào đến địa phận tỉnh Battambang. Sau một hồi tìm kiếm, anh Sán cho chúng tôi vào một căn nhà trống trơn. Nơi đây có một lu nước. Không ai bảo ai, cả gia đình tôi nhào đến lu nước, rồi người dùng gáo, kẻ dùng tay để múc nước và uống ừng ực.






Vừa uống xong, tôi bủn rủn tay chân và đầu óc quay cuồng. Tôi cảm thấy chóng mặt và tim đập mạnh. Tôi nghĩ mình sẽ chết ngay tại đó. Chồng con tôi cuống quít cạo gió cho tôi. Tôi cố dằn cơn xúc động, nhưng nước mắt cứ chảy ra dào dạt. Tôi dặn anh Vĩnh, chồng tôi rằng:






“Anh ơi, nếu rủi em có chết tại đây thì xin anh cố gắng dắt các con đi tiếp cho đến đích, vì chỉ còn có 60 cây số nữa thôi. Xin anh đừng lo gì cho em, đừng tính chuyện chôn cất gì cả. Mình không thể bỏ cuộc một cách dễ dàng. Mình đã tốn quá nhiều công sức rồi!”






Nghe lời trăn trối của tôi, cả gia đình tôi khóc thổn thức. Vừa sợ cảnh chia ly, vừa sợ người thân chết, vừa sợ bị người dẫn đường bỏ rơi, lòng chúng tôi đau đớn, xót xa.






Khoảng 4 giờ 30 chiều, anh Sán trở lại. Anh cho gia đình ăn cơm và đưa chúng tôi đi ra biên giới bằng 2 chiếc xe mô tô thồ.






Cứ trước mỗi trạm gác, những người tài xế xe lại ra hiệu cho gia đình tôi xuống xe đi bộ qua trạm gác. Anh Vĩnh luôn luôn phải đi trước để thoát thân, vì nếu vợ con bị chận lại thì anh sẽ không bị bắt. Đàn bà, con trẻ thì có bị bắt cũng không lâu, còn đàn ông thì ở tù không có ngày về.






Trong khu rừng vắng gần biên giới Thái-Campuchia với nỗi lo âu:


Qua biết bao gian nan, chúng tôi thoát nạn qua các trạm gác. Đến tối, anh Sán cho chúng tôi vào một khu rừng và bảo rằng anh ấy sẽ trở lại vào sáng ngày hôm sau. Cơn mệt buổi trưa lại đến. Tôi lập lại lời dặn dò và trăn trối. Chồng con tôi lại hốt hoảng vì sợ tôi chết tại đấy. Tôi cố gắng trấn an và nhất quyết dặn chống tôi phải vượt bỏ tất cả những ủy mị, đau buồn để đưa các con đến nơi, nếu như tôi có chết dọc đường, bỏ cuộc trên con đường đi tìm tự do.






Lúc ấy tôi cảm thấy Thiên Chúa thật gần. Gia đình chúng tôi cầu nguyện như là đang nói chuyện với Ngài. Chúng tôi lại cầu nguyện với Đức Mẹ Maria. Chúng tôi khấn xin các thánh, các linh hồn ông bà, cha mẹ chồng đã khuất để xin sự che chở và bảo vệ.






Chỉ có những lúc như thế, chúng tôi mới cảm thấy thân phận con người thật nhỏ bé giữa trùng vây của nguy hiểm và lo âu hãi hùng. Có trải qua những phút âu lo đó, tôi mới thấy cái hạnh phúc là có một người bạn đường bên cạnh, tôi mới cảm thấy Thiên Chúa thật linh thiêng, sự sống thật đáng quý, tình cảm gia đình thật cao đẹp và ý nghĩa của hai chữ tự do thật cao cả.






Suốt đêm hôm ấy, gia đình tôi được ở trong một cái lán giữa chốn rừng hoang. Cái lán này còn sơ sài hơn một túp lều. Vợ chồng tôi lo lắng vì sợ bị bỏ rơi và sợ cướp giết mình hay bị rắn cắn. Chúng tôi lại lôi quần áo trong giỏ ra để làm chiếu cho các con nằm. Hai vợ chồng tôi lại nằm theo hình chữ V, hai đầu quay gần nhau, bốn đứa con nằm giữa. Tôi nằm yên lặng, thần kinh căng thẳng nên không chợp mắt vì quá sức sợ hãi.






Tôi nhìn lên bầu trời, mở mắt thật to để tìm một chùm sao hình chữ T. là tên tắt của thánh nữ Têrêsa, thánh quan thầy của tôi để xin thánh nữ cầu bầu cho gia đình tôi. Tôi xin Đức Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình cầu bầu cho gia đình được ơn bình an, thoát khỏi tai nạn, nhất là nạn cướp trong rừng biên giới.






Đem đen như mực, tiếng côn trùng kêu rả rích. Vợ chồng con cái nằm im, chả ai buồn nói với ai một lời. Một sự bất an bao trùm. Thần kinh căng thẳng. Chúng tôi lắng nghe để xem có tiếng ai đi đâu đó không. Giữa rừng cây um tùm, ví thử bọn cướp có đến giết gia đình để cướp của thì cũng chả ai mà biết, và nếu gia đình tôi có hét lên thì cũng chả ai nghe được mà cứu.






Trời bắt đầu lạnh, sương xuống mỗi lúc một nhiều. Nhìn bầy con nhỏ vô tội đang nằm lăn lóc giữa sương gió, tim tôi nhói đau như bị ai bóp. Giữa lúc ấy, mạng sống con người còn nhỏ nhoi hơn một con giun, con dế. Cứ mỗi lần có tiếng động là vợ chồng tôi ngồi bật dậy để quan sát và nghe ngóng. Cứ thế, chúng tôi nằm chờ sáng trong muôn ngàn nỗi âu lo, sợ hãi và trong niềm hối hận vì đã hành xác con cái trong cơn đói khát, khổ cực.


Bị cướp và bị bỏ rơi trên đường đi:


Sáng hôm sau, khi thức dậy, chúng tôi thấy có hai người đàn ông người Campuchia đến gần. Không hỏi ý chúng tôi mà họ tự ý lục lọi đồ đạc trong giỏ của chúng tôi. Sau khi chẳng kiếm được cái gì mà họ muốn lấy, họ đề nghị chúng tôi đi tắm mát. Đó là để khi chúng tôi xuống hồ ao thi họ lục lấy vàng hay tiền trong quần áo chúng tôi.






Vợ chồng chúng tôi biết là gặp bọn người bất lương nên tôi bàn với chồng tôi là anh Vĩnh nên đi chậm với hai người ấy để cản đường, còn tôi thì lùa các con chạy trước. Nhưng để có thể biết hướng đi ra khỏi rừng, chúng tôi phải đi theo hướng bọn họ sẽ đi. Khi thấy con đường đất đỏ trải dài trước mắt, lòng chúng tôi mừng khấp khởi vì biết là đến nơi an toàn hơn.






Một lúc sau, tôi thấy bóng một đứa bé ngồi trên lưng trâu, tôi quay nhìn anh Vĩnh và nói to:






“Chuẩn bị chạy!”






Rồi tôi nói với các con:






“Chạy ra theo đường kia, các con ơi! Chạy lẹ kẻo bọn cướp kia bắt được mình đấy!”






Thế là như bầy ong vỡ tổ, các con tôi ùa ra chạy thật lẹ, tôi cũng ì ạch chạy theo các con.






Trong lúc ấy, anh Vĩnh bị hai tên người Miên kèm sát để mong cướp của và vàng bạc. Tôi lại quay ngược đầu về phía sau kêu chồng tôi:






“Chạy theo em, anh ơi!”






Lúc ấy, chồng tôi phải hết sức khéo léo để giựt lại cái giỏ đồ và thùng đựng nước. Anh cũng cố tình trì hoãn lại để mẹ con tôi có thêm thì giờ mà chạy thoát. Thế là cả gia đình cắm đầu chạy như ma đuổi.






Trời đã về chiều mà chúng tôi không có nơi ăn, chốn ở. Lúc đó khoảng 2, 3 giờ chiều, tôi bèn bàn với chồng tôi:






“Anh ơi, có lẽ em và các con sẽ trở về lại Việt Nam. Em ra trình diện với bộ đội Việt Nam để trở về nhà, tiền mình còn ít qúa, chắc không đủ cho cả gia đình mình đi đến Thái Lan đâu. Còn lại số tiền này, anh hãy giữ lấy mà tìm đường đi tiếp. Chứ mình đi như vầy hoài, tiền gần cạn hết rồi, biết tìm ai mà đi tiếp?”






Khi nghĩ đến chuyện chia tay, kẻ ở người đi, lòng chúng tôi ngậm ngùi và tan nát. Thế là chúng tôi bị bỏ rơi lần thứ hai rồi.






Vừa đau khổ, tôi vừa cầu nguyện. Không một lối thoát, ngôn ngữ không đủ để xin người bản xứ cứu giúp hay dẫn đường cho gia đình mình đến biên giới. Bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu vấn đề nan giải hiện ra. Tôi ước ao được chết ngay lúc đó, chết chung với chồng và các con, để khỏi phải lo âu và khắc khoải nữa, để khỏi phải chịu cảnh đói khát dưới cơn nắng khủng khiếp ấy nữa.






Trong tuyệt vọng thì tìm ra đường sống.


Khi chúng tôi đi ra đường thì gặp một người phụ nữ Miên chừng 25 tuổi, chị ấy hỏi chúng tôi rằng : “Việt Nam?” Tôi buồn bã gật đầu. Chị ấy chỉ ra phía trước, ra dấu hai tay sẽ bị còng và nói liên tiếp. Tôi chỉ hiểu rằng chị bảo chúng tôi coi chừng ra ngoài ấy sẽ bị bộ đội Việt Nam bắt còng tay và cho vào tù.






Biết chị là người có lòng tốt, tôi kể lể bằng tiếng Việt Nam về nỗi khổ của mình. Không biết chị có hiểu gì không nhưng chị ấy dắt chúng tôi về căn lều của gia đình chị. Chúng tôi vui mừng vì thấy một lu nước. Vừa xin phép chị, gia đình tôi vừa nhào đến thi nhau uống nước. Dù nước rất đục nhưng có nước còn hơn không. Cơn khát đã hành hạ chúng tôi từ lúc sáng đến giờ.






Câu chuyện thì dài lắm, nhưng kết quả là gia đình chị ấy chịu hướng dẫn chúng tôi đi qua biên giới Thái với điều kiện là chúng tôi phải trả hết số tiền bằng chiếc nhẫn kin cương mà tôi đã dấu trong cạp quần và một số tiền mặt khác.






Đêm hôm ấy, gia đình tôi được tắm mát nơi cái giếng cạn của gia đình chị Miên. Đêm ấy, vợ chồng tôi được bình an vì biết rằng mình đang ở trong tay một gia đình tốt lành.






Ngày hôm sau đó, gia đình chị cho chúng tôi lên ba chiếc xe bò trong một đoàn xe bò, rồi họ trả tiền cho ba người chủ xe bò. Từ đó trở đi, họ và chúng tôi không còn gặp nhau nữa vì gia đình tôi nay thuộc quyền của ba người chủ xe bò. Đến khi khám phá ra là họ bỏ mình cho những người chủ xe bò, vợ chồng tôi hoảng hốt và lo âu trên suốt cuộc hành trình ấy. Giữa đường đi, chúng tôi lại bị cướp thêm một lần nữa. Anh Vĩnh ngồi chiếc xe bò thứ hai, tôi và hai con gái ngồi trên xe bò thứ ba, còn hai con trai của chúng tôi ngồi trên xe bò thứ bốn.






Cuộc hành trình qua biên giới đầy gian khổ vì đói khát và sợ hãi. Ở vùng biên giới này, nhiều người tị nạn Việt Nam bị bộ đội Việt Nam bắt giữ và gửi về Việt Nam để bị giam trong các nhà tù. Cũng tại rừng biên giới này mà nhiều phụ nữ Việt Nam bị hãm hiếp bới bọn lính Miên, tức là lực lượng Para, một thứ linh chống chính phủ Phnom Penh. Tại nơi đó, nhiều người tị nạn bị giết chết vì lằn đạn pháo, vì bị lính Miên nghi ngờ, hay vì bị rắn cắn.






Sau đây, tôi xin được kể lại ngày thứ 15 trong cuộc hành trình vươt biên của gia đình chúng tôi:






Điển hình là ngày cuối cùng của lộ trình:


Ngày 10 tháng Tư năm 1980, tức là ngày 25 tháng Hai năm Canh Thân), cũng là ngày thứ mười lăm của lộ trình.






Sáng tinh sương, khoảng bốn giờ sáng, bà già Miên chủ xe bò đánh thức chúng tôi để đi tiếp. Đoàn xe bò lại lọc cọc lăn bánh dưới ánh trăng mờ nhạt. Tôi không đủ ngôn ngữ để hỏi bà già đó xem bao giờ thì tới Thái. Lòng phân vân, hoang mang, lo nghĩ, tôi ngồi ngủ gật trên xe bò. Khoảng năm giờ sáng, bà già quay lại nói:






"Bộ đội Việt Nam"






Tôi giật mình ra dấu hỏi. Bà ta chỉ về phía trước mặt. Thế là chúng tôi lại cho các con tôi nằm chôn dưới bao rơm, đậy miếng nilông lên. Tôi lại được mượn cái nón đội che nửa khuôn mặt. Cơn hãi sợ lại ập đến bủa vây tôi. Tôi cố giấu mặt trong chiếc nón gồi và liếc nhìn qua vành nón tỏa rộng. Nếu không được bà ta cho mượn nón, có lẽ tôi đã bị lộ rồi.






Đoàn xe vẫn lăn bánh lọc cọc trên đường mòn gập ghềnh sỏi đá Mỗi bước đi đến gần trạm kiểm soát là mỗi chút hồi hộp tăng dần. Tôi có cảm tưởng như máu trong cơ thể mình đông đặc lại.






"Càng gần biên giới, sự kiểm soát càng chặt chẽ, liệu mình có an toàn đến nơi không?"






Câu hỏi như gắn chặt trong tâm trí. Tôi run rẩy chờ đợi. Khoảng năm giờ rưỡi sáng, chúng tôi đã đến đầu bìa rừng biên giới - sau này tôi mới rõ. Đó cũng là trạm kiểm soát cuối cùng có Cộng Sản Việt Nam. Từ xa, tôi thấy lố nhố một số lính bộ đội. Họ la lớn bằng tiếng Việt:






"Đứng lại hết, chờ xét đã!"






Thế là đoàn xe bò dừng hẳn lại. Đám đàn ông trên xe bò lật đật leo xuống xe, đứng rải rác gần đó. Anh Vĩnh, chồng tôi, cũng vội vàng bước xuống xe và trà trộn ngay vào đám đàn ông Miên ấy. Tim tôi hồi hộp và đập thình thịch. Tôi cảm thấy rét run như bị cơn sốt rét. Hai tay run lẩy bẩy như bị động kinh phong. Giờ phút sống còn đã điểm. Một là tới Thái, hai là vào tù lần nữa.






Có sáu người lính Việt Cộng. Họ vác súng chạy rầm rập từ phía đầu của đoàn xe bò đến phía cuối. Họ lục xét để kiếm gà. Tiếng họ nói oang oang:






"Gà đâu? Gà đâu? Có gà thì "tâu", ót gà ót tâu!" (Có gà thì đi, không gà không đi!)






Vừa lục xét họ vừa cười nói và chửi thề luôn miệng. Giọng nói quê và nặng của dân quê miền Bắc Việt Nam. Tôi hơi mừng thầm vì thấy họ chỉ nhắm đến việc xét bắt gà vịt của người Miên đi xe bò hơn là nhằm mục đích xét người Việt Nam vượt biên. Có lẽ họ sống đói khát và thèm thuồng ở vùng núi biên giới này đã lâu nên chỉ mong cướp cạn để thỏa mãn sự thiếu thốn.






Hai tên lính xét xe bò thứ nhất, ba tên lính chạy xuống xét xe bò đi sau chót. Còn một tên đứng cách xe bò của tôi độ hai mét, tay hắn cầm cây súng chĩa lăm lăm về phía đoàn xe chúng tôi.






Đến xe bò thứ nhất, họ lật các bao rơm để kiếm gà. Tôi sợ đến ngộp thở. Chắc chết đến nơi rồi vì chỉ còn có một xe nữa là đến xe các con trai của tôi đang núp trong lớp rơm. Tàn đời rồi. Lại vô tù lần nữa thôi.






"Chúa ơi, cứu con với!"






Tôi hét thầm trong lòng. Rồi, họ xét đến xe Vĩnh đã ngồi là xe thứ hai. Họ lục lọi và lật tìm gà nơi các bao rơm. Họ bóp giỏ đồ của Vĩnh treo nơi xe mà không mở ra - nếu họ mở ra, chắc họ sẽ biết ngay chúng tôi là người Việt vì quần áo người lớn, con nít tùm lum. May mà anh Vĩnh đã trà trộn trong đám đàn ông kia rồi!






Khi họ bước qua xe bò thứ ba - nơi mà hai con trai của tôi đang được dấu dưới lớp rơm che kín-thì trái tim tôi như ngừng đập. Thôi rồi, lộ tẩy rồi! Thay vì tìm ra gà, họ sẽ tìm thấy ra hai cậu bé Việt Nam. Tôi lẩm bẩm cầu xin Thượng Đế che chở.






Lại một phép lạ của Thượng Đế! Khi họ định lục xe bò có hai con trai tôi thì bỗng ba tên lính Việt Cộng ở phía xe bò đàng sau chạy lạch bạch tới, tay họ cầm hai con gà. Họ vui mừng hét thật to:






"Có gà rồi! Có gà rồi chúng mày ơi! Đến hai con gà cơ!"






Hai tên lính này mừng quá, bỏ chuyện xét xe bò thứ ba và xe thứ tư - nơi tôi ngồi - để xúm lại bàn tán về thành tích cướp cạn vừa kể. Họ hý hửng cười, đập tay vào lưng, vào vai nhau một cách khoái trá và quên đi chuyện xét xe bò tiếp.






Trong khi ấy - cháu Kim 4 tuổi, vì bị chôn dưới lớp rơm và bao ni lông trên xe bò quá lâu nên mệt. Cháu la lên:






"Nóng quá! Khát quá mẹ ơi!"






Tôi lại giựt mình vì những người lính Việt Cộng chỉ đứng cách xe tôi ngồi có hai thước mà thôi. Tôi vừa sợ vừa giận nhưng chỉ biết im lặng vỗ vỗ vào lớp rơm che cho cháu để dỗ nó mà thôi. Con bé vẫn khóc y ỷ như chè thiu. Chắc là có ơn trên che chở, làm cho các anh lính bộ đội Việt Cộng bận chú ý về mấy con gà nên họ không thể nghe tiếng bé Kim khóc và nói bằng tiếng Việt Nam. Vả lại, lúc ấy trời còn mờ mờ tối nên đám lính này không thấy cảnh chúng tôi ngụy trang.






"Con bé này cứng đầu quá chừng, chuyên mang nỗi khó khăn đến cho cha mẹ!"






Tôi nghiến hai hàm răng để cắn chặt cơn giận và tiếng la mắng:






"Chuyến này mà lộ thì ăn đòn chết, nghe con!"






Tôi giận tái người vì đứa con dại khờ, cái chết bên mình mà vẫn không biết.






Trong lúc ấy, bà già Miên, chủ xe bò của chúng tôi cũng sợ hết hồn. Bà ta thò tay vào lục trong giỏ mãi mới kiếm được một quả xoài xanh nhỏ bằng trái trứng gà. Rồi bà ta đưa trái xoài cho tôi. Tôi bèn giả bộ cúi xuống, vén lớp rơm và để quả xoài vào bàn tay con bé. Con bé nắm chặt quả xoài rồi nín ngay, không khóc nữa.






Nó bắt đầu tìm cách đưa quả xoài vào miệng, vì thế tấm ni lông lại sột soạt di động. Tôi phải gõ gõ để nó hiểu mà tạm nằm yên. Trong lúc ấy mấy anh lính Việt Cộng lấy súng gõ vào thành gỗ của một vài chiếc xe bò và hét to lên:






"Tâu đi! Tâu đi!" (Đi đi, đi đi!)






Đoàn xe bò chậm rãi chuyển bánh. Anh Vĩnh và đám đàn ông lẹ làng đi bộ qua mặt nhóm lính Việt Cộng. Tôi thở phào nhẹ nhõm như vừa thoát khỏi một gánh nặng.






Trời đã hơi sáng, đoàn người đi lặng lẽ vào rừng thưa. Lúc này đã vào rừng rồi - rừng biên giới Cambodia và Thái Lan. Qua khỏi trạm gác khá xa, các con tôi mới được trút bỏ lớp rơm che đậy chúng để ngồi lên như cũ. Trời vẫn còn sớm nên người đi lại thưa thớt. Dần dần, trời đã sáng bạch, chúng tôi đã tiến sâu vào rừng, qua con đường mòn cỏ cây đan nhánh. Tôi ngồi trên xe bò mà nhủ thầm:






"Mình còn sướng hơn các người đi bộ kia, chắc là họ mệt lắm - mình còn hên nhiều!"






Tôi chợt nghĩ đến cảnh những người vượt biên đi sau tôi - nếu họ đi vào tháng Năm, tháng Sáu mà gặp mưa thì chết cóng vì lạnh và ướt thôi. Suốt cuộc hành trình là nằm ở ngoài bờ bụi, làm sao họ chống trả nổi với cơn mưa suốt đêm? Rồi họ phải lội ruộng, lội đồng. Nếu nước ngập làm sao họ có thể bước đi mau được khi mà đường thì dài vô tận? Đã có bao nhiêu người bị chết vì cóng lạnh dưới cơn mưa, trên đường đi vượt biên, trước gia đình tôi? Và sẽ còn bao nhiêu người chết vì cơn nóng, cái đói khát sau gia đình tôi?






Tôi không trả lời được mà chỉ biết thương xót cho họ. Người dân Việt Nam - có cả chúng tôi - đã trả giá quá đắt cho sự kiếm tìm tự do. Họ trả giá bằng chính sinh mạng của họ và gia đình họ. Tôi đã nếm mùi vượt biên. Nếu yên lành đến nơi, tôi sẽ viết thư về để ngăn cản, không cho bà con, bạn bè đi bằng đường bộ nữa.






Ghê gớm quá, khủng khiếp quá. Tôi ngồi thừ ra suy nghĩ mãi. Xe bò đi sâu vào rừng. Chung quanh là cây cao bóng mát. Bóng mát ở đây nhiều nhưng riêng tôi, tôi vẫn chưa tìm thấy bóng mát của cuộc đời. Một cuộc đời trôi nổi, đầy thiệt thòi và mất mát. Hai lần bỏ xứ ra đi: Một lần từ Bắc di cư vào Nam, và lần này, từ Việt Nam bỏ tất cả để dấn bước phiêu lưu đi tìm tự do.






Tôi lớn lên để bị chứng kiến những cảnh đổ vỡ của gia đình và của đất nước. Tôi đã khóc rất nhiều trước những cơn bão táp ấy. Tôi còn nhỏ lúc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào năm 1963, nhưng tôi đã khóc khi thấy hình Tổng Thống Diệm bị đốt. Tôi thấy đau đớn khi ngọn lửa ăn dần hình ảnh hiền hậu của vị Tổng Thống ấy. Hình như đôi mắt ông Diệm đã khóc khi lửa liếm dần và thiêu rụi. Tôi nhủ thầm, nếu Tổng Thống Diệm không bị ám sát thì chắc đất nước mình vẫn còn thanh bình và thịnh vượng như thời kỳ 1960, có đâu mà dân tộc mình phải chịu đắng cay và đau khổ như bây giờ? Có đâu mà mình và gia đình phải chịu đủ mọi khổ sở như vầy?






Cảnh rừng thưa vào ban mai thật đẹp và hùng vĩ. Cây mọc chằng chịt, chỉa cành ra phía đường mòn, ánh nắng như được lọc qua bóng cây, đổ xuống tràn đầy. Tiếng chim hót líu lo, tiếng bánh xe bò kêu lọc cọc đưa tôi về thực tại. Các người đàn ông đi bộ nay đã leo lại lên xe bò. Xe vẫn đi chậm như rùa bò.






Tôi đưa trả bà già Miên chiếc nón mà bà đã tử tế cho tôi mượn để hóa trang. Tôi mở luôn chiếc khăn quàng để hít thở thoải mái bầu không khí trong lành của buổi sáng sớm trong rừng đầy cây xanh. Một cách cẩn thận, tôi chỉ tay về phía trước, ra dấu và hỏi xem còn bộ đội Việt Nam ở trong rừng không thì bà già Miên lắc đầu. Tôi mừng rỡ, thở phào nhẹ nhõm rồi ngửng mặt lên nhìn ngắm vòm cây xanh cao trước mặt. Những trái xanh treo lửng lơ trên cây. Tôi không biết là loại trái gì nhưng vẫn cầu mong cho một vài trái rớt xuống để mút đỡ khát. Tôi thì thầm câu nói của một bà già trong truyện Tấm Cám:






"Thị ơi! Thị rụng bị bà


Bà để bà ngửi chứ bà không ăn.”






Buồn thay, chả có trái nào rụng xuống. Tôi nuốt nước bọt mà thèm. Một chút gì êm ả, một chút gì ngọt ngào thoáng đến trong hồn tôi. Hình như hồn quê hương tôi còn quanh quẩn đâu đây với cảnh đẹp thiên nhiên này. Tôi sung sớng hít thở mãi.






Lúc này, người ta đi lại tấp nập hơn. Người đi bộ, người đi xe bò, kẻ đi xe đạp. Những người đi cùng chiều với tôi thì đa số đi tay không hay xách giỏ nhỏ. Trái lại, những người đi ngược chiều với tôi - từ biên giới Thái về - thì chở đầy hàng hóa, thuốc lá và vải vóc mà họ đã mua từ biên giới về.






Họ dùng xe đạp để chở đồ đạc. Người thì dắt xe, người thì tải hàng, cứ thế, họ đi bộ về chợ trời Soay - gần Sisophon. Còn các xe bò ở biên giới về thì chở đầy các bao gạo, loại một trăm kí lô gram. Xe bò đi về cũng khá nhiều. Tính ra, họ cũng rất giàu. Khi đi thì chở người Việt Nam vượt biên, khi ở biên giới về thì chở gạo về Miên bán, hay chở vải vóc, thuốc lá, đồng hồ về bán. Xem ra người dân Miên buôn bán tự do hơn người dân Việt Nam ở quê hương tôi.






Thỉnh thoảng, tôi thấy một người ngồi bên đường để bán nước đá sirô, dưa hấu và xoài chín. Những ly nước sirô có đá màu đỏ, màu cam như trêu, như chọc cơn thèm khát. Những miếng dưa hấu đỏ óng như mời, như gọi. Những trái xoài vàng đậm như đợi, như chờ chúng tôi với tay đến. Những thỏi nước đá trắng trong vắt, trông đẹp như pha lê.






"Trời ơi! làm sao mình có tiền để mua được đây?"






Tôi dán chặt mắt vào các món giải khát ấy rồi nuốt nước bọt. Các con tôi cũng nhìn một cách thèm thuồng. Chúng tôi cứ mơ và ước đến các món giải khát mãi.






Thình lình, từ trong lùm cây rậm rạp, có hai tên lính Miên mặt non choẹt, trông chỉ độ mười bốn, mười lăm tuổi, mặc quân phục rằn ri như lính nhảy dù, chúng xông ra chận xe bò của tôi lại. Chúng lăm lăm chĩa súng vào người mẹ con tôi và hét lên:






"Việt Nam, Việt Nam, xuống, xuống ngay!".






Tôi sợ điếng hồn. Tưởng là đã thoát ách bộ đội Việt Cộng thì hết sự nguy hiểm rồi. Thế mà nay lại bị bắt nữa rồi. Tôi lúng túng đứng lên. Bọn chúng - sau này tôi mới biết chúng là lực lượng Para, một loại lính biệt kích của kháng chiến quân Cambodia. Có người thì nói là lính của Sihanouk, của Lon Nol, của Son Sann, của chính phủ Thái thuê để đánh lại bộ đội Việt Cộng và lính Cộng Sản của Miên - lại la lên:






"Xuống! Nếu không thì "ông lớn" bắn chết!"






Chúng nói tiếng Việt không rõ. Rồi chúng hung hăng chụp cháu Kim vứt xuống đất. Con bé hoảng sợ, khóc thét lên. Chúng túm lấy cháu Trang đuổi xuống. Tôi sợ quá, vội vàng nhào xuống xe. Rồi tôi quay lại bà già Miên để nhờ lấy đồ đạc của tôi ở trên xe xuống hết.






Đàng trước, chiếc xe bò chở hai con trai tôi cũng đã ngừng lại, ông già Miên cũng lật đật bỏ hai con tôi xuống đất. Thế là năm mẹ con tôi riu ríu đi theo hai người lính Para vào bụi rậm để chúng lục xét. Trong khi ấy, xe bò chở Vĩnh đã đi thoát về phía trước. Tôi vái trời cho Vĩnh đi thoát, bề nào thì anh ấy là đàn ông, nếu bị bắt lại thì lại bị tù tội gk có ngày về. Bọn Para hỏi lớn:






“Chồng bòn đâu?” ("Bòn" là anh hay chị).






Tôi lắc đầu quầy quậy và làm bộ ngớ ngẩn để tránh câu trả lời. Bọn lính Para bực tức hỏi to hơn:






-Chồng bòn đâu? Nói! Nói đi! Không thì ông lớn Para bắn chết!”






Tôi hoảng hốt nên làm thinh và chỉ tay về phía đoạn đường vừa đi qua. Bọn Para không tin, chúng quay lại hỏi vói tới mấy người Miên trong đoàn xe bò. Lập tức, một trong số những người ấy chỉ tay về phía trước và nói tía lia.






Ngay tức khắc, một tên lính Para đạp xe đạp chạy đuổi theo xe bò chở anh Vĩnh. Thôi rồi! Anh Vĩnh cũng sẽ bị bắt rồi! Thằng còn lại lấy báng súng đánh mạnh vào lưng tôi, rồi thuận chân, hắn đá vào người tôi một cách giận dữ vì tôi đã đánh lừa nó. Đôi giầy săng đá - bốt đờ sô - đánh vào mông tôi. Tôi đau đớn rú lên. Tuy vậy, cái đau của thể xác không làm cho tôi đau bằng cái nhục nhã của một con người bị một đứa con nít đáng tuổi con cháu mình xúc phạm mình.






Lúc ấy, cả năm mẹ con tôi ngồi thụp xuống đất, co ro và run rẩy như bầy chiên ở trước nanh vuốt cọp dữ. Từ đâu không biết mà bọn lính Para người Miên kéo tới khoảng mười tên. Tất cả đều còn rất trẻ, chỉ độ hai mươi lăm tuổi trở xuống đến mười bốn, mười lăm tuổi. Thằng nào cũng mặc đồ lính dù, rằn ri hoa lá. Thằng nào cũng đeo súng, đeo bùa màu đỏ tòn ten trên cổ. Chúng đeo tượng Phật vàng trên cổ. Sau này tôi mới hiểu tại sao mà chúng có vàng vòng nhiều vậy - đó là do việc cướp bóc tài sản của dân ty nạn đường bộ người Việt Nam. Nơi cổ, nơi ngực, nơi tay chúng đều xâm hình Phật và nhiều chữ Miên.






Khi đó, chúng cười hằng hặc vì đã túm được con mồi là gia đình tôi. Tôi sợ quá rồi. Chỉ cần nhìn những khuôn mặt đen đúa của chúng, chỉ cần nghe giọng cười khả ố là tôi sợ đến khiếp đảm.






Tất cả những câu chuyện mà tôi được nghe hồi ở Việt Nam chợt hiện đến trong đầu. Nào là dân tỵ nạn Việt Nam bị chặt cổ, nào là họ bị bắn, bị mổ bụng ở rừng biên giới. Nào là chuyện “cáp duồn”: Vào các năm 1970, 1971, người Việt Kiều ở Miên phải hồi hương vì người Miên nổi lên chặt đầu, hãm hại và giết chóc người Việt. Tôi chợt nhớ đến câu chuyện sử mà thầy giáo tôi đã kể hồi tôi học lớp Nhất (lớp Năm bây giờ) rằng Chúa Nguyễn Ánh đã sai tướng Lê Văn Duyệt đánh phá Cao Miên và tiến đánh Siêm (Thái Lan). Quân lính Việt Nam hồi ấy đã giết hại quân lính Miên rồi dùng dao chặt đầu họ để kê làm bếp nấu cơm - Cứ ba cái đầu người Miên làm thành một cái bếp. Rồi lại cướp đất của người Miên để làm đất của người Việt Nam. Do đó, hai dân tộc căm thù nhau vô cùng. Tôi nhớ đến những câu chuyện ấy mà rùng mình, rởn gai ốc. Không hiểu đó là sự thật hay do thầy tôi thêm thắt, dệt thêm. Dòng tư tưởng đưa tôi liên miên suy nghĩ và liên hệ đến thực tại. Tôi nhủ thầm:






"Chắc bọn họ chờ dịp này để hãm hại dân mình rồi đây, mình là nạn nhân của sự trả thù ngàn đời về trước rồi!"






Chúng tôi run sợ như lũ nai tơ bị bầy chó sói bao vây để hãm hại. Sau này, tôi được biết là trong cánh rừng đó, bọn lính người Miên tên Para, Pol Pot và lính kháng chiến quân của người Lào cũng ở đó. Không một ai thoát khỏi nanh vuốt của bọn lính này. Hàng ngày, hàng giờ, bọn chúng chia nhau ngồi ở hai bên đường mòn để chực bắt các người tỵ nạn Việt Nam. Chúng dùng tiếng Miên để kiểm soát và lọc ra những người không hiểu tiếng Miên. Vả lại, nét mặt, màu da, dáng điệu của người Việt khác xa người bản xứ. Chỉ cần quan sát kỹ cũng đủ nhận ra. Nếu may ra mà gặp lính của vị tướng người Lào thì đỡ hơn vì tương đối họ tử tế và có tác phong tốt hơn.






Bọn lính Para ra dấu hiệu cho chúng tôi đi theo chúng vào sâu trong rừng cây. Ba thằng lôi tôi vào bụi rậm, bắt tôi cởi hết áo quần. Trong lúc tôi đứng tơ hơ thì bọn chúng chia nhau lục xét áo quần và xà rông của tôi. Rồi chúng chia nhau xét cái giỏ quần áo của tôi. Chúng bắt tôi chổng mông để chúng móc ở hậu môn, ở cửa mình để kiếm vàng. Bàn tay chúng thô và to như những trái chuối. Tôi đau đớn và hổ thẹn, muốn khóc mà khóc không được. Cái nhục không thể nào kể xiết được. Nỗi hận thù chất đầy tâm trí. Tôi không dám chống cự và la hét vì sợ bị giết ở ngay tại đó, tội nghiệp cho bầy con vô tội ngây thơ.






Sau đó, bọn lính bóp miệng tôi để xem có vàng nhẫn dấu trong miệng tôi không. Rồi chúng nắm tóc tôi gỡ ra từng đám để xem tôi có cột nhẫn vàng trong tóc không. Xét kỹ lưỡng mà chúng chả tìm được một xu nhỏ nơi tôi, bọn chúng tát cho tôi mấy cái tát tóe lửa rồi xô tôi té nhào vào bụi gai. Tôi rú khẽ vì quá đau. Máu từ vết thơng bị gai đâm rỉ ra. Tôi đau quá, ứa nước mắt sống ra. Trong lòng tôi, tôi nhủ thầm:






"Bọn khốn nạn, chúng mày sẽ phải trả giá đắt cho việc làm chó má của chúng mày!”






Tới phiên các con tôi, chúng lôi các cháu vào nơi khác để xét. Chúng bắt các cháu cởi quần áo để chúng mong tìm chút vàng hay tiền. Cuối cùng, chúng lôi được tờ bạc hai mươi dollars mà tên lính Miên hôm qua đã thí lại cho chúng tôi từ chiếc quần của cháu Trang. Thế là chúng đánh con tôi túi bụi vì con bé đã không chịu đưa cho chúng ngay, phải đợi chúng xét mới thấy.






Con gái tôi khóc rấm rứt vì bị đòn. Chúng cũng xét miệng các cháu, bóp miệng, nắm tóc móc hậu môn. Xét chưa xong thì tên lính Para kia đã đưa được anh Vĩnh đi ngược về. Chúng xô Vĩnh té nhào xuống đất, rồi đánh anh bằng báng súng. Mặt anh tái nhợt. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau mà ứa lệ. Ngôn ngữ không đủ để diễn tả cho phút nhục nhã cực điểm ấy Thế rồi chúng bắt anh Vĩnh tới lùm cây khác để xét của. Chúng bắt Vĩnh cởi truồng, chổng mông để chúng tìm nhẫn vàng trong hậu môn. Rồi lại một màn bị bóp miệng, bị đánh đấm nữa. Chúng bực bội vì gặp một bọn nghèo mạt như gia đình tôi. Chúng hung hăng như bầy quỷ dữ. Chúng nói đủ thứ mà tôi không thể hiểu được. Rồi chúng hất hàm cho phép chúng tôi mặc quần áo. Chúng tôi cắm đầu mặc đồ vội vàng, không dám nói chuyện hay hó hé gì cả.






Từ xa, có những tiếng súng nổi lên rồi có những tiếng hét thảm thiết của phụ nữ. Chúng tôi đoán chừng chắc là nhóm lính Para khác đang tra tấn, hành hạ những người ty nạn Việt Nam khác. Tiếng kêu thét như tiếng heo bị thọc tiết, ai oán, nghe như xé ruột, vang động cả núi rừng. Rồi thì tiếng gầm thét của bọn lính. Tôi không ngờ mình đã gặp phải một bọn quỷ râu xanh như bọn Para này. Tôi hoảng quá vì sợ chúng hãm hiếp mình. May mà tôi đang có thai sáu tháng, bụng đã to, chứ không thì... Tôi rùng mình và không dám nghĩ hết.






Bọn lính Para hằn học đá tung mấy cái giỏ của chúng tôi và ra dấu cho gia đình tôi ngồi lại một chỗ chung với nhau. Từ nãy đến giờ, những người chủ xe bò thấy chúng tôi bị bắt xét, nên họ cũng ngừng xe lại để nghỉ ngơi, cho trâu bò ăn rơm và để nấu cơm cho bữa ăn trưa.






Một ông Miên tuổi trung niên, đi trong đoàn xe bò của tôi bước đến nói rất nhiều với nhóm lính Para. Tôi đoán chừng chắc ông ta kể cho chúng là chúng tôi đã bị cướp sạch từ ngày hôm trước rồi. Rồi bọn Para nói đủ thứ như dặn dò ông trung niên nọ điều gì. Chúng tôi ngồi lo nghĩ, mặt hướng về phía đường mòn và mong cho sớm được thả. Nếu được thả sớm thì còn đi ké theo đoàn xe bò. Chứ nếu được thả trễ, đám người kia ăn cơm xong rồi đi tiếp thì xe đâu mà đi, biết đường đâu mà lần tới biên giới? Tiền đã mất trọn, không có người đưa đi thì chắc chết cả gia đình. Mà còn kéo dài những phút này, còn sợ bị bọn chúng hãm hiếp và giết hại.






Thời gian như ngừng đọng lại, tôi đưa mắt nhìn ông Miên trung niên kia ra vẻ cầu xin ông giúp đỡ. Mắt tôi nhìn ông, rồi quay nhìn chồng con, rồi lại nhìn bọn Para. Ông ta hiểu ý, quay lại nói với bọn Para nữa. Khoảng độ nửa tiếng sau, chúng hất hàm ra dấu cho chúng tôi được đi tiếp. Chúng tôi mừng quá chạy vội đến xe bò, không dám chần chờ vì sợ chúng đổi ý thì chết. Nắng lên đã cao. Dù ở trong rừng, cơn nắng vẫn quái ác, tác hại đến chúng tôi. Cái khát làm bỏng cổ họng.






Chúng tôi leo lên lại hai xe bò. Tôi và hai cháu gái một xe, hai cháu trai một xe, hai xe này khác hai xe chúng tôi đã đi. Còn anh Vĩnh thì bị ông Miên trung niên đòi hết số giấy tờ quan trọng của gia đình chúng tôi. Ông ta bọc số giấy tờ của chúng tôi vào người ông rồi ông dắt Vĩnh đi bộ với ông ta. Tôi không hiểu ý ông ta muốn gì mà lại giữ giấy tờ của gia đình tôi và lại còn bắt Vĩnh đi bộ sát ông ta. Chắc bọn kia đã dặn dò ông ta làm như thế. Bây giờ chúng tôi như cá trong rọ, chim trong lồng nên chỉ biết nghe lời người ta.






Trời đã về trưa, chúng tôi đi giữa cái nóng, cái nắng và sự lo âu. Cháu Ninh kêu mệt và nằm ngửa trên xe bò, dưới cơn nắng. Dù đang ở trong rừng nhưng nắng vẫn ác nghiệt đổ xuống đầu chúng tôi. Tôi đau xót nhìn con trai nhưng không làm gì giúp con được vì cháu ngồi xe phía trước, còn tôi ngồi xe phía sau. Bố nó lại phải đi bộ một cách khổ cực.






Cứ thế chúng tôi câm nín đội cái nắng mà đi. Các con trâu, con bò cũng mệt mỏi, chúng chẳng thèm bước, chủ chúng phải rút ra cái roi có đinh nhọn để đánh chúng, buộc chúng đi. Chúng kêu lên đau đớn. Trông thật tội nghiệp. Đi khoảng nửa giờ, chúng tôi lại gặp một bọn Para khác, chúng lại bắt chúng tôi xuống xe bò, vào bụi. Lại một màn xét, lục lọi, nắn bóp và đánh đập, và chửi rủa. Chúng tôi làm thinh chờ. Bọn lính này tức giận vì không kiếm được một xu nơi chúng tôi. Còn gì nữa đâu mà cướp mà lấy?






Lúc này, cháu Ninh đã mệt lả, cháu xỉu luôn tại lùm cây đó. Mặt cháu tái xám, đôi mắt nhắm chặt như chết rồi. Tôi thương con quá. Rồi chúng tôi xúm lại lôi dầu cù là ra để bôi và giựt tóc mai cho cháu. Tôi biết chắc là cháu không trúng gió gì cả mà chỉ vì đói, khát và trúng nắng mà thôi. Sức cháu yếu, sự chịu đựng chỉ có hạn mà sự khổ sở thì vô vàn. Cháu xỉu là phải. Tôi quay nhìn bọn Para hung dữ, cổ chúng toàn màu đỏ và đủ loại bùa. Chúng xâm hình tượng Phật đầy mặt mũi tay chân. Mặt thằng nào cũng đen đúa. Tôi chỉ cháu Ninh, rồi chỉ một bình nước ra ý muốn xin cho cháu một ngụm nước. Chúng gật đầu, chúng tôi liền đưa vào miệng đứa con. Đứa bé vội mở mắt, uống ngay. Nhưng, cháu vừa uống được một hớp thì một tên Para giằng bình nước lại và cất đi. Tôi tức muốn khóc. Cháu Ninh vẫn nằm thiêm thiếp, mặt tái mét.






Ở góc cây phía xa, tôi thấy hai cô gái Việt Nam đứng run rẩy, nét mặt còn hằn vẻ đau đớn, nước mắt còn lưng tròng. Quần áo các cô rách nát tả tơi. Tôi đau nhói trong lòng, không dám hỏi han, chỉ biết thương và xót cho các cô gái xinh tươi đó. Anh Vĩnh ghé sát tai ông Miên giữ giấy tờ của chúng tôi, anh ra hiệu để ông ta nói với bọn Para cho đi tiếp.






Đoàn người đi buôn lậu vẫn tấp nập qua lại trên đường rừng. Một số người thấy cảnh tình con tôi bị xỉu thì họ đứng lại xem và bàn chuyện. Chúng tôi biết chỉ có cách là chịu nhịn, năn nỉ bọn lính Para mà đi thì mới mong yên thân, nếu còn ở lẩn quẩn đâu đây, nếu chúng buồn tình lia cho một tràng đạn thì uổng công, uổng đời quá.






Đã đến lúc cùng cực ấy, tôi chịu nhục, chắp tay lạy bọn Para để xin cho đi tiếp; chúng cười ha hả vì thấy có kẻ lạy chúng. Tôi chỉ tay liên tiếp về phía cháu Ninh đang nằm bất động để mong chúng động lòng thương hại. Chúng suy nghĩ rồi gật đầu. Thế là Vĩnh cõng con trai chạy thật lẹ đi kiếm xe bò.






Đoàn xe bò đã đi khuất từ lúc nào, có lẽ từ lúc chúng tôi cạo gió cho con. Chúng tôi đành lếch thếch kéo nhau đi bộ dưới cái nóng tàn bạo. Ông người Miên dẫn chúng tôi đi tiếp. Tôi dặn Vĩnh phải bám sát ông ta kẻo lạc ông ta là mất hết giấy tờ quan trọng của mình. Cứ thế, chúng tôi lại đi bộ như lết. Vĩnh cõng cháu Ninh, tôi cõng cháu Kim, còn hai cháu lớn lếch thếch chạy bộ phía sau. Tay chúng tôi còn hai xách giỏ quần áo, thùng nước và hai chai nước. Hai chai nước còn quý hơn mọi thứ gì khác, mất chúng là chết khát.






Như một bọn ăn mày lem luốc, chúng tôi bước đi nặng nhọc. Hai chân mỏi rã rời. Cơn khát làm bỏng cổ, cháy họng. Cái nắng chói chang làm chúng tôi tối tăm mặt mày, hoa cả mắt, mắt nổ đom đóm. Các con tôi hết sức để mà nói, mà than thở. Chúng phải chạy mới theo kịp ông Miên dẫn đường. Tôi bâng khuâng tự hỏi không biết mình còn chịu cảnh "vác thập giá" này đến bao nhiêu lâu nữa?






Tôi đoán chắc năm xưa, Chúa Giêsu vác thánh giá chắc cũng đau đớn như chúng tôi lúc đó là cùng, khác hơn là Chúa chỉ có một mình. Còn chúng tôi phải lo nghĩ, băn khoăn cho sự sống và an sinh của gia đình gần bảy người.






Cái nắng bây giờ đã ở trên đỉnh đầu nên càng làm chúng tôi mệt mỏi hơn. Phân bò rơi rải rác đầy đường mòn nên chúng tôi phải đi cẩn thận để khỏi đạp trúng các đám phân bò ấy. Chân chúng tôi bắt đầu sưng tấy lên và gây cơn nhức nhối. Tôi lên tiếng kêu Vĩnh kéo ông Miên dẫn đường đứng lại để chúng tôi được nghỉ dừng chân một tí cho đỡ mệt. Nhưng kệ, ông ta vẫn cắm đầu bước thật mau. Hình như ông đã quá quen với việc đi bộ và với lộ trình này. ông ta nói tía lia và chỉ tay về phía trước. Vĩnh chẳng hiểu gì nhưng anh vẫn hỏi:






"Xiêm? Xiêm?" ý là "Tới Thái Lan chưa?"






Ông Miên gật đầu và ra dấu cho gia đình tôi bước mau hơn. Trên lưng Vĩnh, cháu Ninh mắt nhắm chặt, mặt xám ngắt. Cháu đã bất động từ hồi lâu rồi. Tuy cơn mệt mỏi đã lớn và giãn nở ra, nhưng chúng tôi buộc lòng phải cố mà lết về phía trước để hy vọng đến trại tỵ nạn sớm mà xin cơm, nước và thuốc cho cháu Ninh và các đứa con khác của tôi.






Trên lưng tôi, cháu Kim rên rỉ vì quá khát, nó cũng chẳng còn sức đâu mà khóc, mà nói nhiều nữa, nó chỉ rên khẽ trong miệng. Thời gian như ngưng đọng lại. Từ phía sau của chúng tôi, một cô gái người Miên - người mà tôi đã gặp lúc chúng tôi dừng lại để nấu cơm cùng với bọn người đi xe bò chiều hôm trước - đã đi bắt kịp chúng tôi và sau đó, ông Miên và cô gái vừa đi vừa thảo luận. Tôi nghe mà chẳng hiểu gì. Cơn mệt quá sức. Cơn khát quá sức chịu đựng. Tôi đứng lại thở hắt ra và la lớn:






"Tắc, tắc, bòn ơi! Tắc, tắc!" (Uống, uống, ông ơi, cho tôi uống!)






Hai người Miên kia quay lại nhìn tôi và nói thật to những tiếng Miên mà tôi chẳng hiểu gì, nhưng qua ngôn ngữ quốc tế, tôi đoán là chắc sắp đến nơi rồi.






Hai đứa con lớn của tôi vừa đi vừa chạy, mặt chúng đã xạm đi vì cháy nắng. Chúng đưa mắt nhìn tôi cầu cứu và van lơn. Hai chai nước đã trống rỗng vì hết đã từ lâu nhưng chúng tôi vẫn phải giữ cái vỏ chai để dành khi gặp vũng nước ao tù hay ao nước bùn thì lấy nước dùng. Hai cái vỏ chai mà chị Tư đã cho lúc này đập long coong vào nhau vì cháu Khang đã đuối sức, nó cứ để cho hai cái vỏ chai trống rỗng tha hồ đập vào nhau.






Lúc ấy, tôi chỉ sợ lỡ hai chai đó bể thì sẽ chết khát vì không còn gì để đựng nước. Vì thế tôi quay về hướng Khang và hất hàm ra dấu cho cháu đeo hai chai nước lên vai. Làm như vậy thì cháu đỡ phải xách vì một chai ở phía trước còn chai kia ở sau lưng. Sau này, cũng nhờ hai cái vỏ chai tầm thường đó mà chúng tôi có đồ chứa nước để chạy giặc và để dấu kỹ trong lều tỵ nạn.






Đối với dân ty nạn đường bộ như chúng tôi thì những đồ đựng nước còn quý hơn vàng bạc. Ở các trại tỵ nạn sâu trong rừng hoang, cho dù có tiền vẫn không thể mua gì được vì không có chợ cũng không được đi ra ngoài vòng rào của trại. Về sau, người ta ăn cắp chai nước của nhau đều đều. Kẻ bị mất chai nước thì sáng hôm sau dậy khóc la thảm thiết vì tiếc của.






Rồi dưới cơn nắng đổ lửa, chúng tôi lết đi theo sự dẫn đường của hai người Miên. Cực hình đeo đẳng, chúng tôi chỉ mong chết ngay lập tức để tránh nỗi khổ sở đó. Con đường trước mặt như cứ dài thêm lên. Đứa con trên lưng cứ chực muốn rớt tuột xuống. Lâu lâu, tôi phải đứng dừng lại để sửa vị trí đứa con lại cho ngay ngắn. Mỗi lần như vậy, tôi phải chạy mới theo kịp những người khác.






Đến khoảng một, hai giờ trưa ngày 10 tháng 4 năm 1980, gia đình chúng tôi đến một đồn lính. Lúc đó, tôi chẳng biết ở trong đó có những ai, nhưng vì tưởng tượng nhiều quá nên tôi nghĩ rằng chắc nơi đây có hội thiện nguyện, có người Âu Mỹ. Chắc họ sẽ đón tiếp mình ân cần lắm vì hội thiện là một tổ chức nhân đạo. Tôi lại hình dung đến những ly nước đá mát rượi, những chai nước si rô màu đỏ, màu cam hay những miếng dưa hấu đỏ óng ánh và những trái xoài chín vàng thơm ngon. Có lẽ họ sẽ cho mình các thức ăn đó.






Tôi cố nuốt nước miếng và quay ra hỏi ông Miên dẫn đường, dù biết rằng ông ta không hiểu tôi nói "trại ty nạn.” là cái gì. Ông Miên đáp:






"Ông lớn Para!"






Từ ngữ "Ông lớn" này được tất cả những người Miên mà tôi gặp trên xe bò hay trên đường đi dùng để nói về bọn lính Para. Họ nói chữ "Ông lớn" bằng tiếng Việt Nam. Bọn lính trẻ Para mà tôi gặp ở trong rừng cũng từng tự xưng là "Ông lớn". Về sau tôi còn được biết nghĩa chữ ông lớn dịch ra tiếng Miên là "Lục thum" hay "Lục thung.”






10. Kết Luận:


Cuối cùng, khi chúng tôi đến được biên giới Thái Miên thì ai cũng tơi tả và rách rưới như những người hành khất.






Đến được trại Non Chan, chúng tôi nhập đoàn vói nhóm ông Phạm Thanh và gia đình ông Lê Tấn Lý. Chúng tôi sống lây lất trong 7 tháng trời trong cơn đói khát và khổ cực.






Những gì xẩy ra trong các trại tỵ nạn mà gia đình chúng tôi ở như ở các trại Non Chan, Northwest 9 (NW9), Panatnikhom Holding Center, và Rangsit Transit Center thi cũng đã được mô tả kỹ lưỡng trong các phần kể chuyện của những người bạn tỵ nạn của chúng tôi ở các chương trước.






Trong lúc mang thai cháu bé, gia đình chúng tôi phải chạy giặc nhiều lần, mỗi lần chạy giặc về thì rơi mất dép, mất các chai nước để dành trong lều và mất luôn quần áo.






Cùng với những người tị nạn khác sống trong trại Non Chan và NW 9, chúng tôi luôn phải chạy trốn vì trại tị nạn nằm giữa hai lằn đạn của Việt Công và Thái Lan. Nhưng nỗi thống khổ vô cùng lớn lao, bút mực không tả xíêt. Cảnh đói khát, áp bức, tranh giành và hiếp đáp xẩy ra hằng ngày như một tấn bi hài kịch trên sân khấu.






Một điều đặc biệt là tôi sinh ra một cháu gái có tên là Hà Thái Thiên Hương vào đêm rạng sáng 17 tháng 7 năm 1980. Cháu sinh ra mà không có nước để tắm, không có quần áo tã lót để mặc. Mẹ cháu phải đi bộ rất xa để đến các hố vệ sinh, dù vừa sinh con. Gia đình tôi phải xin một miếng vải bao gạo để làm võng cho cháu bé nằm. Thấy con sinh ra giữa cảnh không nhà, không tiền bạc, không quần áo, không nước tắm, lòng chúng tôi xót xa ngậm ngùi.






Ngày nay, sau 27 năm, cháu Thiên Hương đã tốt nghiệp đại học UCI. Cháu là đứa con rất thông minh, tài giỏi và ngoan ngoãn nhất trong gia đình. Vợ chồng tôi luôn cảm tạ Thiên Chúa và Mẹ Maria vì hồng ân cao cả mà gia đình chúng tôi đã nhận được. Lòng biết ơn của gia đình chúng tôi thể hiện nơi cái tên mà chúng tôi chọn cho cháu Thiên Hương. (Hương Thơm của Thiên Chúa.)






Đi vượt biên đường bộ mà không bị bắt hay bị giết, không lạc thân nhân, không bị hãm hiếp thì đó là một hồng ân mà muôn đời chúng tôi không ngớt ngợi khen Danh Chúa. Tuy nhiên, chúng tôi không quên cầu nguyện cho các bạn tị nạn xấu số. Họ mãi mãi bị vùi xác

nơi rừng hoang biên giới, chết tức tưởi mà không ai biết nơi chôn.






Xin quý vị cùng các bạn cùng giữ thinh lặng trong giây lát để dâng một lời cầu nguyện chân thành cho các hương hồn người tị nạn đường bộ Việt Nam đã dám hy sinh mạng sống để tìm tự do. Xin Thiên Chúa đầy Lòng Thương Xót giải oan và giải thoát cho linh hồn các nạn nhân này sớm hưởng Nhan Thánh Chúa!






Kim Hà


22/4/07 (Những Ngày Của Tháng Tư Đen)


Hồi Ký Của Ông Lê Tấn Lý


Posted: Sunday, November 14, 2010 by Hưng in


0


"Đi chừng vài cây số thì đau đớn thay, chúng tôi thấy xác chết của bảy người bạn đồng hành trên chuyến đi ấy. Đây là những người bạn đã từ giã chúng tôi để ra đi đêm hôm trước. Họ bị giết chết bằng súng vì chỉ nhìn các vết thương của họ, chúng tôi cũng đoán được.













Thường thì người Miên giết người bằng giáo mác hay dao búa, nhưng bảy người này bị bắn chết. Có lẽ họ bị một trong các lực lượng chiến đấu bắn chết. Nạn nhân không nằm gần nhau: Bốn người thì nằm cách gần nhau, còn ba người kia thì nằm chết cách xa đó độ hai trăm thước. Có lẽ họ đã chạy được mà bị đuổi theo để bắn chết..."















Ông Lê tấn Lý vượt biên bằng đường bộ cùng với hai con trai. Ông cùng hai con đến trại Non Chan, sau đó qua trại NW 9,rồi trại Panatnikhom và một vài trại khác trước khi đến Hoa Kỳ vào tháng 7, năm 1981.















Hiện nay ông đã được đoàn tụ với vợ và hai con gái. Gia đình ông hiện đang cư ngụ ở Anaheim, California.




Gia đình ông đã may mắn tới nơi, trong khi bảy người bạn đồng hành của cha con ông đã bị bắn chết trên đường đi.






Tuy tôn trọng quan điểm của ông khi nhận xét về lực luợng Para, nhưng tôi không đồng ý với sự nhận xét đó. Lý đo vì chính ông và gia đình ông không ai bị hãm hiếp hay giết hại bởi bàn tay của lực luợng này.










Cuộc Hành Trình Vượt Biên Bằng Đường Bộ Từ Việt Nam Qua Thái Lan.






Ba cha con tôi ra đi từ Sàigòn vào ngày 2 tháng 4, năm 1980. Mỗi đầu người phải trả bốn lạng vàng cho ban tổ chức. Tôi bắt liên lạc với đoàn xe vận tải chuyên chở gạo từ Sàigòn đến Battambang ở Cambodia.






Tổ chức này làm giấy giả cho tôi để giả dạng làm lơ xe và phu khuân vác gạo. Đoàn xe này khi rời Sàigòn đến Nam Vang thì có mười lăm chiếc. Nhưng từ Nam Vang đến Battambang thì chỉ có ba chiếc xe thôi. Vì thế, con đường đi của chúng tôi rất gian nan và nguy hiểm. Lý do chính là nếu đi mười lăm chiếc thì dễ trà trộn hơn là chỉ có ba chiếc thôi.






Khi tới Nam Vang thì xe vận tải đậu ở ngoại ô thành phố. Chúng tôi ở tại đây được hai ngày. Sau đó thì đi Battambang. Tới Battambang, chúng tôi sợ luôn những người tổ chức trong đoàn xe vận tải ấy. Lý do vì họ không phải là người nhận tiền của chúng tôi.






Người nhận tiền vì lý do nào đó đã kẹt ở Sàigòn, nên anh ta giao chúng tôi cho một nhóm người khác để họ đưa chúng tôi đi. Nhóm này hỏi chúng tôi có vàng thêm thì đưa cho họ. Dù trong túi còn vàng, chúng tôi vẫn làm bộ hết tiền để khỏi chi thêm cho họ.






Vì thế, họ để cho nhóm lính kiểm soát thẳng cánh xét hỏi chúng tôi mà họ không hề binh vực chúng tôi điều gì. Trên đoạn đường đi từ Nam Vang đến Battambang dài độ hai trăm năm mươi cây số, mỗi lần gặp trạm kiểm soát, chúng tôi phải đưa giấy tờ giả ra cho họ xem. May mắn là qua thoát được hết cả. Chúng tôi run sợ trong suốt cuộc hành trình đó.






Khi đến Battambang, cha con tôi rời ngay đoàn xe vận tải để tìm đến địa điểm hẹn mà người trong ban tổ chức đã chỉ dẫn. Chúng tôi đến được một quán ăn có bán hủ tiếu và nước ngọt. Nơi đây, tôi gặp người dẫn đường là một người Miên nhưng có vợ là người Việt Nam. Ông này nói tiếng Việt rất giỏi. Ông ta đưa chúng tôi đi từ Battambang đến Sisophon bằng xe mô tô ba bánh, kiểu xe thồ.






Dọc đường, có hai trạm kiểm soát của người Miên, chúng tôi cũng giả làm người Miên nên đi qua trót lọt. Đến thành phố Sisophon, người dẫn đường dắt chúng tôi vào nhà một người quen để ăn uống và chuẩn bị cho cuộc đi bộ vào ban đêm. Họ nói từ Sisophon đến biên giới Thái độ chừng tám mươi cây số. Nhưng tôi tính ra thì chỉ độ khoảng năm mươi hay sáu mươi cây số mà thôi.






Chúng tôi nhập bọn với bảy người đàn ông trai tráng nữa . Trong số ấy cũng có người lớn tuổi như tôi, cỡ trên năm mươi tuổi. Thế là chúng tôi đi bộ trong rừng mà không có đường mòn. Mỗi lần đi phải vạch cây lá mà đi.






Từ Sisophon đến Non Chan, chúng tôi phải đi trong bốn đêm. Cứ tối, độ 7:00 giờ hay 8:00 giờ tối là bắt đầu đi cho đến độ 5:00 giờ sáng thì được nghỉ. Thường thì người dẫn đường dắt chúng tôi gửi vào nhà người quen để khỏi bị lộ, và để ăn uống và ngủ lấy lại sức, chờ đến tối thì đi tiếp.






Tối đến thì chúng tôi lại được giao cho một toán dẫn đường khác. Như thế họ cứ thay đổi người dẫn đường mãi. Nhờ chúng tôi đi số đông, hết thảy là mười người đàn ông nên chúng tôi bênh vực và bảo vệ cho nhau, do đó những kẻ dẫn đường dù có tà tâm cũng không thể giết chúng tôi được.






Sau ba đêm, đến một chỗ vắng, chúng tôi bị giao cho một nhóm dẫn đường khác. Nhóm người này cầm búa và rìu trông vẻ mặt thì dữ tợn và bất lương. Họ đưa chúng tôi vào rừng rồi bắt cởi hết quần áo để họ xét và ăn cướp tất cả.






Lúc đầu họ còn nói ngọt ngào để chúng tôi viết giấy về gia đình nói là đã đến biên giới rồi. Như quy ước, nếu đến nơi, nếu như viết đúng nội dung mật hiệu đã quy định thì người nhà tôi mới giao đủ số vàng còn lại. Tôi đã dùng mật hiệu báo cho vợ tôi biết là tôi chưa đến nơi. Chứ nếu không viết thư thì chúng làm khó dễ và bỏ rơi mình.






Ở tại khu rừng ấy, có lẽ chỉ cách trạm gác của Bộ đội Việt Nam độ vài cây số, thì bọn cướp này cướp tất cả mọi thứ của cải của chúng tôi. Khi chúng tôi vùng vằng phản đối thì bọn chúng dọa sẽ tố cáo với Bộ đội Việt Nam để chúng tôi bị bắt.






Vì thế, chúng tôi nghi là bộ đội Việt nam chắc là ở không xa nơi này là bao. Bọn chúng cướp tất cả những quần áo lành lặn mà chúng tôi đang mặc trên người. Khi thấy chúng tôi trần truồng, trông khó coi qúa thì chúng bèn vứt cho chúng tôi vài cái quần đùi, vài cái áo rách rưới và hôi hám, và vài khăn quàng của người Miên.






Lúc ấy, chúng tôi thấy cái chết trước mắt, không còn cách gì mà đến được biên giới nữa rồi. Chỉ còn một hy vọng mong manh làkhi bọn hắn đã lấy khá nhiều vàng, đồng hồ và quần áo rồi, chắc là chúng sẽ tiếp tục dắt mình đi nữa.






Khoảng 7:00 giờ tối, bọn cướp bèn dùng đèn pin dắt chúng tôi đi tiếp độ hơn nửa cây số. Đến một lộ đất, chúng nói gạt chúng tôi rằng chỉ còn có hai cây số nữa là đến trại của quân Kháng Chiến chống Cộng sản Việt nam, đó tức là lực lượng Para. Nghe như vậy, chúng tôi rất nôn nóng và thèm khát được đến đó vô cùng.






Khi vừa ra khỏi lộ đất thì bọn chúng tắt đèn và rút lui mất dạng hồi nào mà chúng tôi không hay biết. Chỉ còn mười người chúng tôi tiếp tục lần mò đi theo hướng mà chúng đã chỉ. Đi độ chừng một cây số thì con tôi là cháu Tiến bị xỉu ngay tại chỗ mà không còn đi được nữa. Có lẽ Tiến bị xáo trộn tinh thần qua việc bị cướp bóc mà xỉu.






Tôi bèn yêu cầu cả đoàn ở lại nghỉ mệt để chờ con tôi bớt mệt rồi cùng đi tiếp. Ban đầu, bọn họ làm thinh. Sau đó, họ bàn bạc và quyết định để ba cha con tôi ở lại, còn họ đi tiếp vì họ không thể vì một người xỉu để mà ở lại hết.






Thế là họ chào chúng tôi và tiếp tục lên đường vào lúc độ 9:00 giờ tối. Buồn tủi và bàng hoàng, ba cha con tôi đành ở lại vì không còn đi được nữa. Chúng tôi đi sâu vào trong rừng, rồi đạp cỏ tranh dẹp xuống để làm thành một chỗ mà nằm ngủ tạm. May là không bị rắn cắn trong đêm ấy.






Đêm đó, tôi sợ hãi mà không dám ngủ, trong khi hai cậu con trai của tôi ngủ say và ngáy vang trời. Vốn là sĩ quan của chế độ VNCH, tôi đã biết cách di chuyển ở những vùng biên giới nguy hiểm. Lại nữa, tôi nghĩ rằng nơi đây là vùng ranh giới, nơi có nhiều lực lượng quân sự khác nhau như quân đội của Cộng Sản Việt nam, của Cộng Sản Miên, của lực lượng Kháng chiến, và của Khmer Đỏ tức là Pol Pot. Ngoài ra, còn có lực lượng du kích hoạt động về đêm và cả dân buôn lậu nữa.






Chính vì tính cách đa dạng và nguy hiểm của vùng biên giới, bởi bất cứ lực lượng nào cũng có thể bắn mình nếu họ khám phá ra có bóng người di chuyển. Vì vậy tới đây, ta không thể di chuyển ban đêm được nữa, mà phải di chuyển vào ban ngày để bảo đảm sự an toàn hơn.






Sẵn dịp Tiến bị xỉu, tôi phải chờ đến lúc rạng đông có mặt trời lên để biết hướng tây mà đi. Tôi nghĩ mình cứ chực chỉ hướng tây thì thể nào cũng đến được biên giới Thái. Lúc ấy tôi cũng chưa biết gì về lực lượng lính Para cả.






Sáng 10 tháng 4, năm 1980, lúc đi dọc đường, chúng tôi thấy từ xa có đoàn xe bò từ biên giới về, nên cha con tôi lại nhảy vào bụi rậm để trốn núp. Đoàn xe đi ngược lại hướng chúng tôi đang đi. Khi họ đi qua, chúng tôi thấy trên xe bò chỉ có đàn bà và con nít chứ không có vũ khí. Biết họ chỉ là dân lành nên tôi cũng yên tâm. Tuy nhiên chúng tôi cũng chờ họ đi qua một đoạn khá xa rồi mới đi tiếp nữa.






Vì thế nên chúng tôi đi rất lâu. Độ một tiếng sau, tôi quay lại dặn hai con:






- Ba đã lớn tuổi rồi có chết cũng được, không sao cả. Còn hai con còn trẻ, chết sớm tội nghiệp lắm. Bây giờ ba đi trước, còn tụi con đi sau khoảng vài trăm thước. Nếu thấy ba bị bắt thì tụi con phải nhảy vào rừng trốn ngay, chứ để bị bắt chung cũng không có lợi gì. Rồi từ từ, các con đi sau. May ra thì cũng tới nơi!






Các con tôi không chịu, chúng sợ tôi đi một mình nguy hiểm nên chúng cứ đi theo sát tôi. Vì thế tôi lại càng phải cẩn thận hơn. Đi độ một lúc nữa, chúng tôi vì khát qúa mà lại ở trong rừng khô, không có nước, nên chúng tôi phải đi tiểu vào bi đông để uống lại nước tiểu của mình.






Một chập, chúng tôi thấy bóng năm, sáu người đi bộ từ đàng xa. Họ đang gánh một cây sào dài, trên đó có bao gạo, sô nước và đồ dùng. Chúng tôi lại trốn núp chờ họ đến gần. Biết chắc là nếu gặp họ thì cũng không có gì nguy hiểm, nên tôi bèn nhảy ra chận họ lại để xin nước uống. Ban đầu họ nghi ngờ tôi, mà tôi cũng sợ họ.






Sau họ thấy tôi ra dấu muốn xin nước uống, họ liền cho tôi uống ngay. Tôi bèn đổ bi đông nước tiểu để xin họ cho một bi đông nước uống. Họ cũng vui vẻ cho tôi nước. Trông họ rất thật thà và tử tế, khác hẳn với những người Miên cầm quân và những kẻ dẫn đường đã cướp hết của cải của chúng tôi. Lũ người kia thật là ác độc và tham lam.






Vừa khi ấy, hai con trai tôi lững thững từ trong rừng bước ra. Tôi đưa tay chỉ con đường phía trước và hỏi họ:






”Xiêm?”






Họ bèn gật đầu và hỏi tôi xem phía sau lưng tôi có Bộ đội Việt Nam hay không? Họ nói được bốn tiếng ”Bộ đội Việt Nam” bằng tiếng Việt. Chúng tôi hỏi đường rồi tiếp tục đi nữa.






Đi chừng vài cây số thì đau đớn thay, chúng tôi thấy xác chết của bảy người bạn đồng hành trên chuyến đi ấy. Đây là những người bạn đã từ giã chúng tôi để ra đi đêm hôm trước. Họ bị giết chết bằng súng vì chỉ nhìn các vết thương của họ, chúng tôi cũng đoán được.






Thường thì người Miên giết người bằng giáo mác hay dao búa, nhưng bảy người này bị bắn chết. Có lẽ họ bị một trong các lực lượng chiến đấu bắn chết. Nạn nhân không nằm gần nhau: Bốn người thì nằm cách gần nhau, còn ba người kia thì nằm chết cách xa đó độ hai trăm thước. Có lẽ họ đã chạy được mà bị đuổi theo để bắn chết.






Tôi không thể gom họ lại và chôn xác họ được, mà chỉ biết van vái cho họ giúp chúng tôi đến nơi chốn bình yên. Chỗ họ chết chỉ cách biên giới Thái chừng mười lăm cây số mà thôi! Ôi, giá của tự do qúa đắt! Họ đã trả giá bằng chính mạng sống của chính mình! Định mệnh thật đáng sợ. Tôi chợt nhớ đến số phận mình. Nếu Tiến không xỉu đêm ấy, chắc ba cha con tôi cũng chịu chung số phận bất hạnh như họ rồi.






Thế rồi chúng tôi lại đi tiếp, mỗi lần gặp những người đi ngược chiều với mình, thì đó là những người đi buôn lậu và xin gạo từ Miên về, là chúng tôi hỏi tiếp đường đi. Đến khoảng 10:00 giờ sáng thì chúng tôi gặp một người đàn ông Miên đang đi ngược chiều với chúng tôi, tay anh ta cầm chiếc búa đẽo cây.






Một điều lạ lùng là khi anh ta thấy chúng tôi thì vội xoay người lại để đi cùng chiều với chúng tôi. Dáng vẻ anh như đang suy tính điều gì quan trọng. Chừng như anh ta là quân thám thính và đang muốn trở về báo cáo với cấp trên về sự hiện diện của ba người lạ mặt là chúng tôi. Lúc ấy, chúng tôi sợ hãi vô cùng. Muốn chạy mà chạy cũng không được. mà muốn trốn thì sợ họ nghi. Tôi còn một niềm hy vọng là sớm gặp các lực lượng binh sĩ chống Cộng.






Đi khoảng nửa cây số thì tôi gặp một đám lính tóc dài, mặc quần áo dù rằn ri như quân phục của Quân đội VNCH ngày xưa. Tôi mừng thầm vì nghĩ rằng họ là lực lượng chống Cộng Sản, tức là đồng minh của mình. Bọn họ chận chúng tôi để lục xét tiền bạc và quần áo. Con trai tôi là Nhân còn giữ được một miếng vàng nhờ nó kẹp giữa bó vải bó cái chân bị sưng phồng.






Thế là họ cướp miếng vàng ấy và dặn chúng tôi khi vào trong trại Para thì không được khai là đã bị họ cướp vàng. Nếu khai đã bị họ cướp thì họ sẽ giết chúng tôi ngay. Cũng may là chúng tôi còn chút vàng để cho họ cướp thì họ mới cho đi ngay. Còn nếu không, chúng tôi không biết sẽ bị đối xử ra sao.






Sau đó, đám lính Para này cho chúng tôi vào trại Para. Tại văn phòng của lực lượng nàycó một vài người biết nói tiếng Anh và tiếng Pháp. Họ vặn hỏi lý lịch của chúng tôi. Họ còn hỏi xem chúng tôi có thân nhân ở nước ngoài không. May cho tôi là xấp giấy tờ tùy thân còn nguyên vì bọn cướp đường không thèm lấy. Họ lục coi từng chữ một, xong họ cho chúng tôi ra ngồi phía trước văn phòng. May là tôi có thân nhân ruột thịt ở Mỹ quốc nên họ cũng không đối xử tử tế hơn với chúng tôi.






Sau đó, họ cho chúng tôi ra ngoài bụi tre. Tại đây tôi gặp gia đình ông Mỹ là bốn nguời, gia đình ông Nê là bốn người, anh em anh Hoà, anh Trung, vợ chồng anh Cho, vợ chồng anh Vĩnh (gia đình Kim Hà). Còn cô Oanh đến trước và bị nhốt ở trại bên kia. Cô ta tới trại lúc 12:00 giờ khuya.






Tại đây, nhóm lính Para phát gạo cho dân tị nạn ăn và cho muối để làm thức ăn. Sau đó, khoảng ba, bốn giờ chiều, cả đoàn tị nạn gồm ba mươi tư người được đưa qua nhà thương Non Chan.






Lực Lượng Para










Lực lượng Para nằm ngay biên giới Thái và Cambodia. Họ là lính vô kỷ luật. Dù có tinh thần chống Cộng nhưng sức yếu, chống không nổi Cộng Sản Việt và Cộng Sản Cambodia.






Ở chiến khu, họ tìm quỹ tiền bạc để sống bằng cách chận những người buôn lậu từ biên giới Thái Lan về để cướp của. Họ còn chận bắt những người tị nạn Việt Nam để bắt bớ, cướp của, hãm hiếp và giết hại.






Đương nhiên ở tại vùng biên giới, họ là ngưỡng cửa để chận cả hai bên mà ăn cuớp. Xong xuôi, họ còn bắt giữ dân tị nạn Việt Nam lại để làm gia mặc cả và đòi hội HTTQT nếu muốn cứu dân tị nạn thì phải trả cho họ khoảng 5 tạ gạo cho mỗi đầu người dân tị nạn.






Lực lượng kháng chiến Para vì chuyện chận bắt người buôn lậu và người Việt tị nạn để cướp của, hãm hiếp và giết hại. Nên từ đó, những người đứng đắn và có chính nghĩa ở trong Mặt Trận Giải Phóng Quốc Gia Cambodia đã rút lui hết. Chỉ còn lại toàn phường đầu trộm đuôi cướp mà thôi.






Nhân số của lực lượng này chỉ độ năm trăm người lính vô kỷ luật, toàn là quân ăn cướp và sát nhân. Những lần đụng trận với Cộng Sản Việt Miên thì họ đều bị đánh bật ra, phải tràn qua Thái Lan và nhờ lính Thái đánh trả lại lính Cộng sản.






Có thể nói lực lượng Para là những con thú dữ chống Cộng Sản. Họ phải tự tìm phương kế sinh sống nơi biên giới bằng cách cướp của giết người.






Hãy thử tưởng tượng năm trăm con người chiến đấu ở vùng biên giới. Trước mặt và sau lưng đều có kẻ thù: Lực lượng Khmer Đỏ Pol Pot và lực lượng Cộng Sản Việt Nam. Nếu họ không được tài trợ và nuôi đưỡng đầy đủ thì họ làm gì để sống và để duy trì cơ sở căn bản của mặt trận của họ. Tuy nhiên, họ đã đối xử độc ác với những người tị nạn Việt Nam đi ngang qua căn cứ địa của họ. Họ sống ở trong rừng, thiếu thốn mọi nhu cầu, kể cả nhu cầu sinh lý. Vì thế họ đã làm bậy bằng cách hãm hiếp các phụ nữ của dân tộc khác.






Những thanh niên Para này lại ít học và ngu dốt. Sau khi đã cướp của, hãm hiếp và giết người, họ sợ tiếng xấu loan truyền ra ngoài. Vì thế, họ phải giết người để ngăn tiếng xấu. Ai ngờ tiếng xấu cũng vẫn lọt ra và làm cho giá trị mặt trận thấp kém và mất uy tín đi.






Lực luợng Para muốn mua lòng dân chúng Miên. Họ dùng dân tị nạn Việt nam để đổi lấy số gạo từ hội HTTQT, nhưng phát gạo cho dân chúng Miên. Hễ dân Miên nào đói khổ, tới xin gạo thì họ đều cho gạo để mang về nhà ăn. Cũng nhờ vậy mà dân Miên lên xin gạo, để rồi người tị nạn Việt mới có lối đi vượt biên.






Người dân Miên đi xin gạo có hàng đoàn dài, đa số đi bằng xe bò. Có người đem dân tị nạn cho Para để nhận thêm phần gạo đem về. Số này cũng không nhiều vì có truờng hợp nhiều người tị nạn bị dân dẫn đường bỏ rơi dọc đường.






Lực lượng Para là một nhóm quân lính ở trong rừng rú, không văn phòng, không kỷ luật. Người lính thì bản chất còn man dại, mang thú tính, không văn hóa và không có sợ răn dạy.






Người tị nạn Việt nam nếu muốn tới nơi thành công thì cũng phải dùng tất cả mưu trí và sự chịu đựng. Sự cực khổ càng nhiều thì càng chứng tỏ mức độ thông minh và mưu trí của người tị nạn. Mình còn sống đây là vì đã biết chịu đựng nhịn nhục vô cùng. Mình nhịn còn nhiều hơn là ”Hàn Tín luồn trôn”. Đôi khi luồn trôn vẫn còn qúa dễ hơn là những người tị nạn phải chịu nhục nhã bởi sự đàn áp và hành hung của lính Para.






Nguyên nhân nào làm cho lính Para trở thành bọn cướp đường hung ác? Ta hãy nhìn lại qúa trình lịch sử của đất nước Cambodia. Sau năm 1975, dân tộc họ bị Pol Pot tàn sát khoảng hai, ba triệu người. Sau đó vào năm 1979, Việt Cộng xâm lăng Cambodia và áp đặt chính phủ bù nhìn lên dân tộc Cambodia.






Vì thế bọn Para đã chống đỡ hàng ngày, quen thói giết người. Họ giết người theo luật rừng xanh, không cần tòa án. Họ tập trung năm, sáu trăm người gan lì nhất, những kẻ chấp nhận cái chết và sự giết chóc. Họ giết người mà không bị ở tù.






Người Miên lại có mối thù truyền kiếp với dân tộc Việt Nam. Vả lại, người nào trong đám đó hầu như cũng có một tiểu sử thù hận nên mới ở lại trong rừng để chiến đấu. Nếu không thì họ đã đi làm ruộng hay đi tị nạn như một số dân Miên khác.


TRẠI TỊ NẠN NON CHAN


Tại trại tị nạn Non Chan, chúng tôi được ban đại diện trại phát cho sáu tấm ni lông xanh để căng lều và ngủ chung với nhau. Hội HTTQT là những người can đảm và đầy lòng bác ái. Trong những nhân viên người Mỹ, Hoà Lan, Thụy Sĩ, Bỉ và Pháp thì cô Denyse Betchov là người can đảm và dũng cảm, lai có lòng thương yêu người yếu kém.


Khi ở trại Non Chan, tôi vì già nên được miễn lao động, còn hai con tôi phải làm lao động cho lính Para. Họ đánh đập dân tị nạn, như trường hợp anh B. bị họ đánh đập khi anh ấy đang bị bịnh.






Cũng may là trong nhiều đêm chúng tôi ở Non Chan, nếu giả sử có một đêm mà Cộng Sản tấn công vào Non Chan, chắc chắn lính Para đã giết sạch sáu trăm người tị nạn Việt Nam rồi. Lúc ấy đúng là giai đoạn thập tử nhất sinh.






Khoảng trung tuần tháng 4 năm 1980, khi chúng tôi còn ở trại tị nạn tạm thời ở Non Chan, hội HTTQT đã đem một trăm bốn mươi chiếc xe vận tải để chở gạo đến tại Non Chan. Lúc ấy, gần sáu trăm người tị nạn Việt Nam ngồi trong vòng rào ngó ra. Lòng ai cũng mừng khấp khởi vì tưởng là những xe ấy, sau khi đổ gạo xuống sẽ di chuyển chúng tôi đến trại tị nạn ở trên đất Thái Lan.






Lính Para kiểm soát số gạo xong thì hứa với hội HTTQT là sẽ cho người tị nạn đị đến trại tị nạn trên đất Thái. Tuy nhiên, chúng lại giở quẻ và đi tìm bắt phụ nữ tị nạn để hãm hiếp. Bọn chúng giở trò đánh đập và cô lập người tị nạn, không cho bất cứ người nào được buớc chân ra khỏi vòng rào của trại Non Chan, dù là để đi phóng uế hay tìm nước uống. Ai cãi lại đều bị đánh bằng roi.






Để đối phó với tình hình khẩn trương đó, ban đại diện cử trên mười người họp nhau ở một khu lều xanh để tìm cách đối phó. Vào đêm 20 tháng 4, năm 1980, có chừng trên mười người trong nhóm lính Para đã đến khu lều phụ nữ và con nít để tìm bắt cô Phụng Tiên, một cô gái đẹp người Hoa để đem về cho người chỉ huy tư lệnh của lực lượng Para hãm hiếp.






Mười mấy anh em uy tín, trong đó có tôi, bèn bàn nhau để đối phó. Có anh đề nghị là nên hy sinh cô Phụng Tiên để mà cứu lấy gần sáu trăm người tị nạn khác. Nhưng có anh lại bàn rằng nếu mình nhượng bộ, chúng sẽ đòi được cô ta, rồi chúng sẽ tìm bắt hết các phụ nữ trong trại để làm nhục. Vì thế thì phải chận ngay từ đầu.






Thế là cô Phụng Tiên được dấu trong bao gạo. Họ lục xét không tìm được cô ta, nên họ giở trò đòi bắt sáu anh em trong ban đại diện là những người biết tiếng Miên, Anh và Pháp ra để bắn chết, trong đó có cả anh Vinh. Các anh ấy sợ qúa chạy trốn, chỉ có hai anh giả bộ đánh lộn để đánh thức tất cả mọi người và yêu cầu họ la lên đồng loạt.






Khi bọn chúng tiếp tục lôi kéo tìm các phụ nữ khác thì tiếng la khóc của những người bị bắt nổi lên, rồi cả trại cùng đồng thanh la lên một giọng. Bọn Para tức giận vô cùng. Chúng chỉa súng đòi bắt tất cả những người mà chúng nghĩ là giật giây. Tất cả bà con lại la lên nhiều lần. Cuối cùng, bọn chúng đành phải hậm hực rút lui.






Đến sáng hôm sau, ngày 21 tháng 4 năm 1980, lúc 8:00 giờ sáng có một xe cứu thương của người Nhật Bản đến trại cấp phát thuốc men cho dân tị nạn. Một số người trong ban đại diện yêu cầu nhóm ấy can thiệp để cứu dân tị nạn. Nhưng họ trả lời là họ không có quyền hạn để làm việc ấy.






Khoảng 11:00 giờ trưa hôm đó, cô Denyse Betchov, nhân viên hội HTTQT lọt vào trại. Cô ta dùng máy truyền tin của xe cứu thương Nhật Bản để liên lạc với Thái Lan và xin được phép đưa gần sáu trăm người tị nạn đi vào lãnh địa Thái Lan. Sau đó, các vị chỉ huy của hội HTTQT đều có mặt để săn sóc dân tị nạn. Suốt ngày ấy, dân tị nạn không được phép ra ngoài lấy nước. Vì thế, nhân viên hội HTTQT ở vùng biên giới phải lái xe chở nước đến cho đồng bào tị nạn uống.






Cuối cùng, vào khoảng 5:00 giờ chiều có khoảng chín xe vận tải đến đón dân tị nạn. Bà con mừng rỡ dọn dẹp trại sạch sẽ rồi sắp hàng trật tự để được lên xe. Đến khoảng 5:00 giờ chiều, mọi nguời mới lên xe hết. Xe bắt đầu chuyển bánh và đi về hướng tây bắc để đến trại NW 9.





TRẠI TỊ NẠN NW 9



Đoàn sáu trăm người này do anh Vinh làm đại diện gọi là trại B. Khi đến trại NW 9 thì ở nơi đó chỉ là một rừng cây, có rải rác vài tấm lều ni lông xanh của lính Thái canh gác. Tại đó có ba trăm người tị nạn vừa ở Non Samet đến vào ba ngày trước. Đoàn ba trăm người này gọi là trại A, do anh PNB làm trưởng trại. Anh B. là cựu trung úy, rất giỏi Anh văn.






Khi chúng tôi đến nơi thì được anh B. và ba trăm người tị nạn đến trước ra chào đón. Họ cũng đã cất một số lều, nấu cơm nóng và cá hộp để đón chúng tôi. Sau đó, cứ mỗi ba người lại được phát một tấm vải ni lông màu xanh để trải ra ngủ tạm trên đất đầy cỏ và cây cối. Cũng đêm ấy, một con rắn bò qua tay cô Oanh. Cô này hốt hoảng la hét lên, thế là cả trại cũng hốt hoảng hét to theo.






Lúc đầu, ông George Verheil, nhân viên hội HTTQT đã chuyển lời của viên đại úy TháiLan có tên là Viroj để dằn mặt chúng tôi:






“Các bạn được ở tạm đây và được coi như là những người nhập cư bất hợp pháp. Cuộc sống của các bạn sẽ không có ai bảo đảm. Các bạn không được đi ra khỏi giao thông hào chống chiến xa ở trước trại, cũng không được đi ra khỏi vòng dây giới hạn làm vòng rào. Nếu ai cãi lệnh sẽ bị xử bắn ngay.”






Các binh lính Thái Lan thì đóng rải rác ngay chung quanh trại này. Từ tháng 4 năm 1980 đến tháng 6, năm 1980, không có phái đoàn nào tiếp đón chúng tôi. Đến tháng 6 năm 1980, viên đại úy Thái là Viroj cho biết là nếu đến ngày 31 tháng 7, năm 1980 mà không có phái đoàn nước nào nhận chúng tôi thì tất cả mọi người sẽ bị đuổi về lại biên giới Thái và Cambodia, chứ không được ở nơi đây nữa.






Ban đại diện và các thân hào, nhân sĩ bèn họp nhau quy tụ những người giỏi sinh ngữ để viết thư cho ba mươi bốn nơi trên thế giới để xin cầu cứu. Chúng tôi viết thư đến các chính quyền Thái Lan, Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp và Anh, kể cả việc việt thư cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II ở La Mã, Ý và Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Tây Tạng.






Sau đó, chúng tôi họp tất cả khoảng ba ngàn người tị nạn trong trại NW 9, đọc cho họ nghe và xin thêm ý kiến. Rồi chúng tôi nhờ nhân viên hội HTTQT là ông Leon de Riedmatten chuyển thư đi.






Vì tuyệt vọng và lo sợ bị trả về biên giới rồi sẽ bị nhóm lính Para, Pol Pot hay Việt cộng bắn giết, hãm hiếp và bỏ tù, nên một số chúng tôi trong ban đại diện đã bàn với nhau để thống nhất một kế hoạch chung, chuẩn bị nếu người tị nạn bị trả về vùng biên giới sôi động.






(Lúc ấy, các người đàn ông và thanh niên chúng tôi sẽ trở về đầu quân cho cho quân Kháng Chiến chống Cộng Sản của người Cambodia. Sau khi được phát súng để chiến đấu, chúng tôi sẽ tìm đường vượt biên giới Thái, đi về hướng đông nam của đất Thái, lấy tàu bè của của dân Thái để vượt biển lần nữa đi đến Mã Lai hay Singapore. Lý do là vì lúc ấy đâu còn tiền để mua thuyền được. Có thể vào giờ cuối, chính quyền Thái vì lý do nhân đạo sẽ chỉ cứu vớt những gia đình có con nhỏ. Còn đám đàn ông, thanh niên như chúng tôi thì luôn chịu sự thiệt thòi.)






Sau đó một tháng thì có một phái đoàn của vị thứ trưởng bộ Ngoại Giao Mỹ đến thăm trại chúng tôi. Tất cả dân tị nạn trại NW 9 mừng rỡ vô cùng vì nghĩ rằng trại sắp được giải quyết. Khoảng hai tuần lễ sau thì có một danh sách gồm một trăm bốn mươi mốt người được phái đoàn Mỹ chấp nhận cho rời NW 9 để đến trại Panatnikhom ở sâu trong nội địa Thái, gần Bangkok.






Vào giờ chót, chính quyền Thái Lan gạt ra một số người để buộc họ ở lại, chỉ còn hơn một trăm người được tiếp tục đi. Trong số người bị gạt lại đó có tên ba cha con tôi vì chúng tôi không có trẻ con và phụ nữ.






Khi chúng tôi đến trại NW 9 thì nhân số vào khoảng chín trăm người. Nhưng khi chúng tôi rời trại thì nhân số lên đến ba ngàn người. Dân tị nạn đến rải rác hàng ngày và đều do xe của hội HTTQT chở đến từ các trại thuộc quyền kiểm soát của Para và Pol Pot. Mỗi ngày người tị nạn đến chừng vài ba chục người. Lúc ấy có tôi, ông C. và anh H. làm giấy tờ lý lịch (Tracing cards) cho những người mới đến.






Sau khi bị gạt tên trong danh sách, mãi đến hai tháng sau, gia đình tôi mới được đi tới trại Panatnikhom. Chúng tôi còn phải qua trại Galang ở Indonesia cho đến ngày 10 tháng 7, năm 1981 mới được đặt chân lên Oakland, San Francisco thuộc tiểu bang California.”






Lê Tấn Lý


1 2 3 4 5 6 7 8 9



Posted by KÝ TẾ at 23:30


Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên TwitterChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest



















KỲ 2













1 2 3 4 5 6 7 8 9

"Trên suốt con đường mòn trong rừng biên giới, chúng tôi đã bị chận xét và lục soát để lấy của đến mấy chục lần, bởi hết toán lính này đến toán lính khác. Cuối cùng, chúng tôi chẳng còn một thứ hành trang nào khác, ngoài bộ quần áo đen mặc trên người.






Tiền hết, cơn đói rã rời, cơn khát cháy cổ, tất cả những lo âu và bận tâm ấy làm chúng tôi mệt đến muốn ngất xỉu. Chúng tôi bèn hỏi những người dân Miên đi buôn rằng bao giờ tới Thái Lan. Ai cũng trả lời còn năm hay mười cây số nữa thôi. Tuy nhiên, lần nào hỏi cũng chỉ nghe năm hay mười cây số. Chúng tôi tưởng chừng muốn điên lên vì qúa sức khổ và đói khát."





Lời nói đầu: Ông Trần Chí Thành sinh năm 1957, đã cư ngụ tại Sàigòn. Hiện nay ông sinh sống tại Garden Grove, California. Ông Thành là một nhạc sĩ Tây Ban Cầm khá nổi tiếng trong các ban nhạc ở Orange County, California. Ông đã đi vượt biên bằng đường thủy đến ba, bốn lần nhưng đều thất bại vì bị lừa gạt. Cuối cùng, vào tháng 4, năm 1980, ông ra đi bằng đường bộ và thành công sau bao gian khổ.Quý vị sẽ tìm thấy bàng bạc qua lời kể chuyện là tâm tình của ông thể hiện các ưu điểm đáng yêu và đáng qúy của một con người nghệ sĩ chân chính: yêu nhân loại, yêu gia đình, yêu tự do, và yêu thiên nhiên. Ông lại có nhiều rung cảm trước những sự cố vui buồn xảy ra. Là một thanh niên còn trẻ mà ông đã có lòng xót thương nhân loại.








Cuộc Hành Trình Vượt Biên Từ Sàigòn Đến Thái Lan.






Nhóm chúng tôi ra đi từ Sàigòn đến Thái Lan. Chúng tôi có sáu thanh niên đi theo sự hướng dẫn của người đàn ông Miên gốc Việt. Chúng tôi khởi hành từ Sàigòn lúc 8:00 giờ sáng ngày 20 tháng 4, năm 1980.






Vượt biên bằng đường bộ là một điều hoàn toàn mới lạ với chúng tôi. Chúng tôi đã tiên liệu trước những nguy hiểm mà mình sẽ đối đầu: phải đi băng qua một đất nước lạ là xứ Cambodia với ngôn ngữ khác hẳn tiếng mẹ đẻ. Trời nước mênh mông mà mình lại không hiểu được tiếng nói của dân địa phương.






Đã ra đi là chúng tôi chấp nhận hai điều: một là thành công, hai là chịu hậu qủa thật thảm khốc như bị bắt giữ, cầm tù hay bị chết, bỏ xác trên quê người.






Tuy đã dự đoán những nguy hiểm trước mặt, nhưng xuyên qua cuộc hành trình vượt biên đường bộ gian nan trong mười lăm ngày, rồi xuyên qua kinh nghiệm xương máu ở trại tị nạn, tôi đã gặp phải nhiều sự khó khăn, nguy hiểm, đau khổ và chua xót mà không thể ngờ trước được.






Từ Sàigòn, chúng tôi khởi hành tại Xa cảng miền Tây để đến Long Xuyên và Châu Đốc. Sáu chúng tôi phải hóa trang giả làm công nhân và dùng những giấy tờ giả mạo để đi đường. Thời ấy, dân chúng không được tự do đi lại mà phải trình Công an quận, nếu họ cho phép mới được đi đến tỉnh khác.






Vì thế sự nguy hiểm đã đến với chúng tôi ngay từ phút đầu tiên, vào sáng hôm ấy, ngày 20 tháng 4 năm 1980. Chúng tôi có thể bị bắt bất cứ lúc nào, bất cứ ở trạm gác nào nếu bị Công An Việt nam phát hiện ra là giấy giả hay nếu họ tìm thấy một điều khả nghi nào nơi chúng tôi.






Từ Xa Cảng miền Tây, chúng tôi ngồi xe đò đi qua Long An, rồi Bắc Mỹ Thuận, nơi mà dòng sông Cửu Long chảy qua, nơi có những vườn cây xum xuê đầy trĩu trái. Cứ thế, chúng tôi đến Long Xuyên và Châu Đốc vào buổi xế chiều.






Đêm ấy, chúng tôi nghỉ ngơi tại nhà của người dẫn đường. Đêm đầu tiên xa nhà, lại nằm trên chiếc ghe đậu bên bờ sông bến vắng. Tôi trằn trọc mãi, nhớ nhà, nhớ gia đình, nhớ nhất là mẹ tôi. Hơn nữa, tôi lại phải lo nghĩ vẩn vơ đến việc ra đi trước mặt của mình.






Chung quanh tôi đầy những âm thanh của tiếng dế gáy, tiếng ễnh ương kêu, tất cả hòa lên một điệu nhạc buồn thê lương và áo não. Tôi nghe hồn mình bồng bềnh theo nhịp sóng êm đềm vỗ nhẹ bên bờ ghe. Thế rồi lâu lắm tôi mới chợp mắt và thiếp đi một lúc.






Hôm sau, khoảng mười hai giờ trưa ngày 21, tháng 4, năm 1980, chúng tôi dùng ghe đến Tân Châu. Khi tới nơi thì vì ghe hư nên chúng tôi buộc lòng phải ngủ đêm tại Tân Châu, một thị trấn sát biên giới Việt Miên.






Nơi đây, dấu vết của chiến tranh vẫn còn vì cách đó vài tháng vừa có cuộc giao tranh giữa hai lực lượng Cộng Sản Việt và Miên: Nhà cửa đổ nát, tường nhà loang lổ ghi đầy vết đạn. Tình hình thành phố căng thẳng, sự nguy hiểm như rình rập đó đây. Quân đội của Cộng Sản Việt Nam giăng đầy khắp thành phố. Do đó, chúng tôi đã hạn chế đến mức tối đa việc di chuyển.






Lại một đêm xa nhà thứ hai. Tâm sự tôi ngổn ngang trăm mối. Tôi nhớ mẹ tôi vô vàn, người mẹ già suốt đời tận tụy hy sinh cho đàn con và chồng mình. Chắc hẳn giờ này mẹ tôi cũng đang thao thức vì lo cho tôi và nhớ đến tôi. Mẹ ơi! biết đến bao giờ con mới được gặp lại mẹ lần nữa?






Sáng hôm sau, ghe máy đã được sửa xong, nên khoảng mười giờ sáng ngày 22 tháng 4, năm 1980, chúng tôi đi bằng ghe đến Vĩnh Xương, một quận lỵ sát biên giới Việt và Cambodia. Không khí chiến tranh ở quận này càng rõ rệt và căng thẳng hơn bao giờ hết.






Chiếc ghe của những người dẫn đường vẫn thong thả ngược dòng sông MéKong để đi qua nhiều trạm kiểm soát rất chặt chẽ của Công an Biên phòng Việt Nam. Trong lúc đó, người đưa đường đưa sáu chúng tôi xuống phà đi vào phía rừng để bọc trong rừng hầu tránh các trạm kiểm soát. Chúng tôi đi qua phà khoảng nửa giờ thì đến khu rừng.






Sau đó, chúng tôi xuống phà và đi bộ lặng lẽ trong rừng, tiến sâu hơn vào những cánh rừng chừng hai tiếng đồng hồ. Đến khoảng 1:30 giờ trưa, chờ khi lính Cộng sản Việt Nam canh gác lơ là, thì chúng tôi đã vượt biên giới một cách chớp nhoáng.






Qua khỏi bìa rừng, chúng tôi đi về phía bờ sông để tìm về ghe cũ. Các người đưa đường đã đi ghe qua các trạm gác dễ dàng vì họ là người Việt gốc Miên, có giấy phép đàng hoàng, nên họ không bị trở ngại. Chúng tôi lúc này chia làm hai nhóm, rồi leo lên hai chiếc ghe để đi tiếp.






Lúc qua khỏi biên giới Việt và Cambochia, tôi cố trấn tĩnh tâm hồn để đè nén những nỗi cảm xúc đang dâng lên dào dạt trong lòng. Từ đây tôi sẽ rời bỏ quê hương, gia đình và kỷ niệm để đi nơi vùng đất Cambodia xa lạ. Tôi đã thực sự bắt đầu cuộc sống xa quê hương.






Chúng tôi phải thay đổi quần áo để cải trang thành dân quê người Miên. Chúng tôi quăng hết quần áo công nhân xuống sông và mặc những bộ đồ đen, có những khăn quàng cà ma để che đầu cho giống người bản xứ một chút.






Kể từ giây phút này trở đi, chúng tôi phải cảnh giác tối đa, không được nói bất cứ một tiếng Việt nào. Mọi sự hướng dẫn đều phải thầm lặng. Chúng tôi theo dõi lẫn nhau, phải khôn ngoan và nhanh trí để sẵn sàng đối phó với tình thế mới. Chúng tôi nhất trí phải bám sát nhau và tuân theo sự chỉ dẫn của người dẫn đường.






Hai chiếc ghe của chúng tôi đi ngược dòng sông MéKông vào chiều hôm đó. Chúng tôi phải đi qua rất nhiều trạm gác. Hễ thấy trạm gác có cờ đỏ là chúng tôi phải cho ghe tấp vào để trình giấy. Hai ghe của chúng tôi đều giả làm ghe buôn có chở đầy trái cây như dừa, chuối, cam, xoài và bánh kẹo.






Hễ tới mỗi trạm gác thì người dẫn đường vừa lên trình giấy, vừa phải hối lộ cho lính Cộng Sản Miên vài trái dừa khô, vài nải chuối hay ít bánh kẹo. Có những trạm gác khó thì lại phải hối lộ vàng và tiền nữa.






Cứ mỗi lần đến trạm kiểm soát là chúng tôi run lên, hồi hộp và nơm nớp lo sợ. May nhờ người dẫn đường có giấy tờ hợp lệ, nên chúng tôi không gặp trở lại mà êm xuôi. Ghe đi mãi trong đêm khuya vắng vẻ. Tiếng ghe chèo đập trên mặt sông nghe thật êm tai. Giá như đi chơi trên sông như thế này vào những ngày thanh bình thì còn cái thú nào bằng.






Nhưng tiếc nỗi, con sông MéKong lúc đó không phải là hồ Động Đình để cho người thi sĩ đối ẩm vịnh thơ, mà tôi cũng chẳng phải là một thi nhân hay văn nhân hưởng nhàn, mà chỉ là một thanh niên trốn chui, trốn nhủi để đi tìm tự do.






Đến nửa đêm, người dẫn đường cho thuyền dừng bên bờ sông vắng. Ông ta bảo đi ban đêm rất nguy hiểm. Vì thế, chúng tôi lặng lẽ tìm đến một ngọn đồi hoang để ngủ đỡ. Đêm trở nên vắng lặng đến rùng mình. Chúng tôi không dám nổi lửa hay chuyện trò to nhỏ vì sợ bị lộ.






Tờ mờ sáng hôm sau, 23 tháng 4, năm 1980, vào lúc năm giờ sáng, hai chiếc thuyền của chúng tôi lại tiếp tục lên đường, và lại vượt qua nhiều trạm gác ven sông nữa. Bất ngờ, khoảng sáu giờ sáng, khi trời còn tờ mờ chưa sáng rõ, hai chiếc ghe của chúng tôi bị một chiếc thuyền kiểm soát của lính Cộng Sản Miên đuổi theo và bắt lại.






Họ ra lệnh kéo hai chiếc thuyền của chúng tôi chạy ngược về phía sau, nơi chúng tôi đã đi qua. Thế rồi, họ kéo hai chiếc ghe chạy khoảng nửa tiếng đồng hồ để về một đồn canh gác của họ. Chúng tôi tái mặt, điếng hồn và lo sợ, chờ đợi sự trừng phạt. Tôi nghĩ thầm có lẽ cuộc ra đi đã chấm dứt, lại cảnh tù đày và lao động khổ sai.






Khi về đến đồn canh gác, người dẫn đường đã khôn khéo hối lộ vàng cho lính canh. Nên sau đó, họ lại cho phép chúng tôi đi tiếp. Cho đến lúc ấy, bọn chúng tôi vẫn không hề nói lời tiếng Việt nào cả nên có lẽ họ không biết chúng tôi là người Việt mà giữ lại. Chúng tôi lại tiếp tục đi ghe cho đến 9:00 giờ sáng thì chúng tôi đến bến phà Hố Lương.






Khi đến bến phà này, chúng tôi bỏ ghe đi bộ lên bờ. Ở đây, cách thức sinh hoạt của người Miên thật từng bừng và tấp nập. Chúng tôi thấy bóng dáng lính Bộ đội Việt Nam rất nhiều. Các xe vận tải chở gạo của công ty hợp doanh số năm đậu ở đây nhiều để chờ phiên qua phà đi Nam Vang.






Người đưa đường ra hiệu cho chúng tơi tìm cách đứng hay ngồi xa nhau, cứ rải rác ở những ngã tư vắng vẻ gần đó. Thế rồi, ông ta thì đi tìm các tài xế xe vận tải để móc nối cho chúng tôi lên xe vận tải đi tiếp đến Nam Vang.






Trong lúc chờ đợi, chúng tôi rất lo sợ vì hễ một người Miên đến hỏi chuyện mà chúng tôi không biết tiếng Miên để trả lời là bị lộ ngay lập tức. Vì thế, chúng tôi càng ẩn mình chừng nào thì càng tốt. Chúng tôi không dám lộ vẻ gì đặc biệt để khỏi bị chú ý. Riêng tôi thì dùng khăn cà ma quấn nhiều vòng để che mặt hay cột đầu, hay quấn quanh cổ để dấu khuôn mặt mình lại.






Sau một hồi lâu, người đưa đường đi về phía chúng tôi và dùng mắt ra hiệu cho chúng tôi theo sau ông ta để leo lên một chiếc xe vận tải. Các xe vận tải này đều chở gạo từ Sàigòn đến Nam Vang rồi qua Battambang.






Chúng tôi hồi hộp leo lên xe vận tải này. Sàn xe rất dơ, người và súc vật đều ngồi trên sàn xe. Chúng tôi ngồi lẫn lộn trong đám người Miên, lưng đụng lưng nhau. Ai nấy nói cười và chen lấn nhau. Xe thì chật mà số người ngồi thì đông đúc.






Chúng tôi rất lo ngại vì các người bạn đồng hành cứ tìm cách gợi chuyện với chúng tôi. Nếu nói thì không biết tiếng Miên để mà bắt chuyện. Mà nếu im lặng thì sợ họ nghi là người Việt Nam đi trốn. Xe chật chội và ngột ngạt vì mùi mồ hôi người. Người ta cứ thích chen lấn và cạ sát lưng vào chúng tôi, rồi họ xấn đến hỏi chuyện và nói cười thoải mái. Cực chẳng đã, chúng tôi cứ giả bộ nhắm mắt ngủ hay giả bộ ngu dốt để tránh những sự giao thiệp khó khăn và bất lợi.






Trong chuyến xe ấy, có một thanh niên người Việt Nam mà sau này tôi đoán hắn là lính Quân báo của Cộng Sản Việt Nam. Hắn cứ lăm lăm nhìn và quan sát chúng tôi. Chừng như thấy chúng tôi không giống người Miên nên hắn vỗ vai một người trong nhóm chúng tôi và gặn hỏi:






-Anh có phải là người Việt Nam không?






Anh bạn tôi giật nẩy mình, và vì theo quy ước là tuyệt đối không được nói năng một tiếng Việt Nam nào, nên anh đã làm thinh và giả bộ quay mặt đi chỗ khác. Hắn ta bèn quay qua tôi và giáng ngay một chưởng:






-Nếu các anh đi vượt biên thì phải coi chừng. Ở đây có lính Quân báo của Việt Nam nhiều lắm!






Tôi hoảng hồn nhưng cố giữ vẻ thản nhiên và im lặng. Không hiểu xuất xứ của hắn ra sao vì hắn dám nói tiếng Việt công khai giữa đất Miên mà không sợ hãi gì cả. Tôi đoán hắn có thể là một bộ đội Việt Nam được về phép hay cũng có thể hắn là công nhân viên của nhà nước Việt Nam mà được biệt phái sang làm việc ở đất Miên. Tựu trung, hắn không thể là bạn của mình được. Chúng tôi rất lo sợ nhưng vẫn im lặng, không hé ra một tiếng Việt Nam nào.






Trong suốt lộ trình từ Hố Lương đi Nam Vang, chúng tôi lo sợ vô cùng, lòng chỉ mong cho chóng đến nơi để tìm cách thoát khỏi sợ dòm ngó của anh chàng người Việt tò mò ấy.






Chừng 12:00 giờ trưa, xe đến Nam Vang nên chúng tôi xuống xe từ ngoài thành phố để nối đuôi nhau đi vào thành phố Nam Vang. Chúng tôi cũng đã đi ngang qua những trạm gác của lực lượng lính hỗn hợp Việt Miên mà lòng thì hồi hộp và bất an.






Sau cùng, chúng tôi đi rải rác theo nhau vào một ngôi chợ ở Nam Vang để ăn trưa. Trong lúc chúng tôi đang tụ họp ăn uống thì anh thanh niên Việt Nam hồi nãy từ đâu đi tới, hắn vỗ vai tôi và nói:






-Những người vượt biên qua đây bị lính quân báo bắt nhiều lắm!






Hắn gằn giọng từng tiếng một. Mỗi câu nói của hắn dường như những mũi tên găm sâu và trái tim bồi hồi của chúng tôi. Sau đó, hắn bỏ đi. Ngay lập tức, tôi vội vàng chạy tới phiá người đưa đường để trình bày mọi việc và cũng để kiếm cách đào thoát. Ông dẫn đường cũng tái mặt vì sợ hãi.






Thế là chúng tôi vạch kế hoạch để lẩn trốn, phân tán mỏng và đánh lạc hướng nhóm lính quân báo ấy, nếu có. Ngay sau đó, người dẫn đường đứng lên, ra dấu bằng mắt để chúng tôi bám đuôi nhau đi lần lượt ra phiá cửa chính của chợ. Chúng tôi đứng lấp ló để chờ đợi ông ta hành động.






Khoảng mười lăm phút sau, khi ông dẫn đường thuê xe đạp thồ xong, ông ta trở lại ra dấu cho chúng tôi leo lên sáu chiếc xe đạp thồ để đi. Như đã thỏa thuận trước, những người Miên đi xe thồ chờ chúng tôi leo lên xe là họ phóng xe đi như bay.






Dọc đường họ cứ tưởng chúng tôi là người Miên nên nói liên tiếp và đấu hót tưng bừng. Riêng chúng tôi thì cứ ú ớ như người câm. Chúng tôi sợ phát rét trong khi ấy, cơn nắng và nóng của bầu trời Nam Vang thật dữ dội. Chỉ cần một kẻ đạp xe thồ nhiều chuyện mà muốn kiếm điểm là có thể sáu chúng tôi vào ngay trong trạm kiểm soát của lính Cộng sản Miên ngay lập tức.






Theo sự chỉ dẫn của người dẫn đường, sáu chiếc xe đạp chở chúng tôi chạy lòng vòng trên các đường phố của Nam Vang. Chúng tôi cũng chẳng còn lòng dạ nào để mà ngắm nghía và quan sát cái thủ đô đẹp đẽ của xứ Chùa Tháp này nữa.






Sau cùng, khi đến một khu nhà thật vắng vẻ ở Nam Vang, người dẫn đường ra hiệu cho chúng tôi xuống xe. Thế là cả bọn lục tục nhảy xuống xe đạp và phân tán mỏng ngay tại một ngã tư. Chúng tôi chia nhau ngồi ở ghế đá, ở vệ đường, ở gốc cây để chờ đợi. Tuy ngồi rải rác và làm bộ như không biết nhau, nhưng thần kinh chúng tôi căng thẳng, lúc nào cũng nhìn dáo dác để quan sát chung quanh.






Người dẫn đường cũng có những ưu tư và lo lắng riêng. Ông ta nghĩ rằng làm theo cách này là để tránh được sự theo dõi của lính Quân Báo Cộng Sản, và đánh lạc hướng những kẻ muốn theo dõi chúng tôi.






Đến độ ba, bốn tiếng đồng hồ sau, nhóm chúng tôi được chia ra làm hai nhóm. Mỗi nhóm ba người để đến hai trạm quen của người dẫn đường tại Nam Vang. Đó là đêm 24 tháng 4, năm 1980 , nhằm ngày thứ hai trong tuần.






Suốt trong ba ngày nằm chờ đợi tại nhà của một bà Miên gốc Việt, chúng tôi không được xuất đầu lộ diện. Bà chủ nhà phải tiếp tế đồ ăn cho chúng tôi như cơm, thức ăn, cà phê sữa đá. Xóm của bà ta qúa nhỏ nên cả xóm đồn ầm lên là bà chủ nhà chứa ba người Việt Nam.






Thế là tối hôm ấy, lúc bảy giờ tối, lính du kích ấp đã phát giác ra chúng tôi. Họ bắt chúng tôi ra trụ sở ấp. Ôi, thế là đời mình tàn rồi, sự nghiệp tiêu ma hết rồi! Chúng tôi sợ đến nỗi run rẩy như bầy cừu non trước nanh vuốt cọp dữ.






Họ hỏi chúng tôi đủ thứ, nhưng vì ngôn ngữ bất đồng nên họ không thể lấy khẩu cung để làm báo cáo mà gửi lên cấp huyện được. Họ nói lõm bõm tiếng Việt rằng:






”Dzun tâu Xiêm” (Việt Nam đi Thái).






Sau đó, họ bắt chúng tôi chờ ở đấy. Chừng mười lăm phút sau, họ trở lại và đem theo một người Bộ đội Cộng Sản người Việt, nói giọng miền Bắc. Anh bộ đội tự giới thiệu mình là một sĩ quan thiếu úy. Cho đến giờ này, tôi không hiểu có phải là phép lạ, vì tình đồng hương hay vì sự thương hại trước sự run rẩy của chúng tôi mà anh Bộ đội Việt Nam ấy nói:






-Nếu các anh đã biết lỗi thì nên quay về vì người Miên ở đây đã kết tội các anh là những người vượt biên ”Tâu Xiêm”. Tội vượt biên có thể bị bắt giam ít nhất là sáu tháng.






Nói xong, anh ta ra mệnh lệnh cho toán lính Miên (Lúc đó, Bộ đội Cộng Sản Việt Nam có uy quyền đối với lính Miên) là hãy để cho chúng tôi tự do và rồi ngày mai chúng tôi sẽ quay trở về Việt Nam.






Tuy thế, viên trưởng ban xã ấp người Miên vẫn không tha cho chúng tôi. Hắn đặt ngay chiếc ghế bố trước nhà bà Miên để canh chừng chúng tôi phòng khi chúng tôi lén lút trốn đi.






Đêm hôm ấy, chúng tôi lòng rối như tơ vò, phần thì mừng hú hồn vì được giải thoát mà không ngờ trước, phần thì trằn trọc và lo sợ vì người Miên kia nằm canh gác ngay bên ngoài. Còn người dẫn đường thì sợ hãi quá nên không dám đến liên lạc nữa. Chúng tôi qúa sức sợ vì mình đang bị giam lỏng. Dù chúng tôi bảo rằng qua Miên để thăm bà con, nhưng họ vẫn biết ngay là chúng tôi đi vượt biên nên vẫn theo dõi và dò xét.






Sáng hôm sau, chúng tôi ra chợ, đến ngồi tại quán cà phê và gặp lại người dẫn đường. Anh này ngồi ở góc bàn phía xa, anh viết tay trên bàn chữ ” Năm N”. Chúng tôi về suy nghĩ và bàn luận chắc có lẽ là điểm hẹn, nhưng mình không biết tiếng Miên thì làm sao mà đi được. Chúng tôi thắc mắc mãi mà không biết câu giải đáp. Cảnh tù giam lỏng làm cho chúng tôi thấy ngột ngạt và khổ sở.






Thình lình lúc sáu giờ chiều hôm ấy, bà Miên trở về và ra dấu cho chúng tôi trốn đi bằng cửa sau. Vừa trốn ra khỏi cửa, chúng tôi đã thấy người dẫn đường đứng sẵn và ra hiệu cho chúng tôi chạy thật lẹ. Thế là chúng tôi cắm đầu chạy thục mạng về phía anh ta.






Tới nơi, chúng tôi thấy ba người đạp xe đạp thồ đang chờ sẵn. Thế là cả ba anh em tôi nhào lên xe. Ba anh đạp xe thồ đạp thật mau. Chúng tôi lại tẩu thoát lần nữa. Đi lòng vòng một hồi lâu thì chúng tôi được chở tới một công trường bên cạnh nhà ga.






Nơi sân ga, có rất đông người Miên nằm, ngồi la liệt để chờ đợi xe lửa đến. Họ trải chiếu rồi bạ đâu nằm đó. Cũng tại đây, tôi gặp lại nhóm ba người bạn kia. Thế là sáu người lại gặp nhau. Cẩn thận một chút, chúng tôi ngồi thụp xuống, và cố gắng trà trộn trong đám người dân Miên để mong khỏi bị lộ.






Bất thình lình, người bạn tôi nhìn ra và bắt gặp một người đang lái xe Vespa Sprint vòng quanh công trường, mắt ngó dáo dác như đang tìm bắt một người nào đó. Chúng tôi đồng loạt ngó ra và hoảng hốt khi nhận ra đó chính là tên trưởng ban xã ấp người Miên đã rình rập chúng tôi. Chắc hẳn hắn đã khám phá ra rằng chúng tôi đã trốn thoát nên giờ này hắn đi tìm để bắt lại.






Nhanh như một mũi tên bắn, chúng tôi vội nằm thụp xuống và bò đi theo người dẫn đường để đào tẩu lần thứ hai. Thật giống như tình tiết éo le trong một câu chuyện mạo hiểm phiêu lưu hay phim gián điệp. Chúng tôi bò đi và phóng thật mau vào một con đường nhỏ ở gần đó rồi đi bộ rải rác hai bên vệ đường theo dấu người dẫn đường.






Cũng may, lúc đó trời vừa sập tối nên không ai để ý. Chúng tôi cứ lếch thếch đi theo người dẫn đường mãi đến khi rã rời hai đầu gối. Lúc này, ai cũng đi như lết qua khắp các nẻo đường của thành phố Nam Vang để mong đánh lạc hướng tên trưởng ban xã ấp kia. Cứ thề mà đi lòng vòng mãi gần khắp các nẻo đường.






Cuối cùng khi biết chắc chắn là người kia đã không thể theo dõi được nữa thì người dẫn đường đưa chúng tôi vào ngủ trên những sạp hàng của người Miên ở giữa chợ. Những sạp bán thịt cá ban ngày nên tối đến mùi hôi thối bay lên. Không còn có sự lựa chọn nữa nên bọn tôi đành leo lên các sạp hàng để ngủ. Đêm hôm đó thật hãi hùng, tôi thiếp đi và ngủ quên bên cạnh tiếng những con chuột tranh ăn kêu chí chóe, tiếng dế gáy và tiếng côn trùng kêu rỉ rả suốt đêm.






Sáng hôm sau, 27 tháng 4 năm 1980, chúng tôi thức dậy sớm, trước khi buổi chợ họp nhóm. Theo quy ước, chúng tôi phân tán đi lang thang trong chợ để chờ đến mười giờ sáng thì tập trung ở cổng chính của ngôi chợ này. Lại một lần nữa, chúng tôi phải trà trộn trong đám người Miên, giả dạng đi ngắm hàng hóa hoặc mua bán. Tuy vậy, chúng tôi vẫn phải đề cao cảnh giác vì mình có thể bị phát hiện bất cứ lúc nào và bị nguy hiểm bất cứ ở đâu, nếu có người nào chận lại hỏi mình vài câu tiếng Miên.






Khoảng mười giờ sáng, chúng tôi tập trung tại cổng chính của chợ để đi bộ theo người dẫn đường tới nhà ga. Khoảng 11:00 giờ trưa, chúng tôi được luồn dưới một cổng nhỏ vào ga. Có lẽ người dẫn đường đã mua bằng vé chợ đen để vào nhà ga. Đúng 12:00 giờ trưa, chúng tôi leo lên xe lửa để đi từ Nam Vang đến thành phố Battambang.






Có lẽ đến suốt đời tôi, tôi không thể nào quên được chuyến xe lửa đặc biệt và kỳ lạ như thế. Hồi còn ở Việt Nam, tôi đã từng đi nhiều chuyến xe lửa chật chội và chậm rì. Nhưng nay, tôi vẫn không thể nào tưởng tượng ra được một chiếc xe lửa nào mà đông người như cá hộp, lại còng chạy chậm hơn rùa bò như chiếc xe lửa này.






Xe lửa đông và chật đến nỗi các toa tầu phía dưới đã hết chỗ chứa, mà ở trên mui cũng đông. Hàng ngàn người ngồi san sát đến nỗi không còn một chỗ chen chân. Chúng tôi đành leo hết lên mui toa xe lửa.






Khổ thật, lần này lại phải chung đụng với người bản xứ, cơ hội bị lộ đến nữa rồi. Người ta cười đùa, nói chuyện và chửi rủa nhau. Nhiều người mua bán, trao đổi và xô đẩy nhau thật là nguy hiểm. Cũng may, với vận tốc chậm rì , độ hai mươi lăm cây số một giờ, nên xe lửa không chao đảo nhiều lắm.






Bởi thế, chúng tôi dù ngồi trên mui xe lửa, dù bị xô đẩy cũng không té được. Nhưng chỉ một sơ xuất nhỏ cũng đủ để chúng tôi rớt xuống đất, nếu không bị té chết thì cũng bị thương hay gẫy tay chân. Thật sự, trên chiếc xe lửa đi từ Nam Vang đến Battambang, tôi thấy đã có nhiều người sơ xuất và lọt chân rớt xuống hai vệ đường. Tôi không được biết số phận những người đó ra sao, nhưng chắc chắn là họ bị thương nặng vì té từ trên cao xuống đất trong khi xe lửa vẫn di chuyển.






Lúc ấy trời nóng như lửa cháy, lại bị những người khách trên xe lửa xô lấn nên người dẫn đường đã ngồi xa chúng tôi, vì thế mà chúng tôi không còn liên lạc được với anh ta nữa. Khổ thay, trong túi chúng tôi lại không có một đồng nào để mua nước hay thức ăn khi tàu lửa ngừng lại ở các ga trên lộ trình.










Từ lúc rời Nam Vang vào buổi trưa đến lúc tới Battambang là vào trưa hôm sau, chúng tôi đành nhịn đói và nhịn khát nên ai cũng mệt lả, người thì khô cứng ra. Người dẫn đường không hề tiếp tế lương thực hay nước uống, còn chúng tôi thì sợ lộ tông tích nên không dám xin xỏ những người ngồi chung quanh mình.






Cuối cùng vì quá khát nên tôi đánh bạo vỗ vai một thanh niên Miên bên cạnh và chỉ vào bình nước của anh ta. May mắn thật, anh ta vui vẻ gật đầu. Thế là tôi vội vàng cầm lấy bình nước tu ừng ực.






Đêm hôm ấy, xe lửa ngừng ở Pursak nên chúng tôi tạm ngủ ở vệ đường khoảng vài tiếng đồng hồ. Chúng tôi cũng không được ăn uống gì cả. Sáng hôm sau, khoảng năm giờ sáng, chúng tôi lại leo lên xe lửa để đi tiếp. Xe chạy mãi đến khoảng một giờ trưa thì đến Battambang. Thật là một chuyến xe lửa qúa hãi hùng để rồi mãi mãi tôi sẽ không thể nào quên được cái kinh nghiệm đau khổ ấy.






Từ Battambang, người dẫn đường thuê những chiếc xe lôi để chở chúng tôi tới Sway và Sisophon. Trước khi lên xe đi Sisophon, thì người dẫn đường dẫn chúng tôi đi ăn uống để lấy lại sức khỏe và phục hồi tinh thần sau một ngày và một đêm nhịn đói và khát.






Anh ta còn mua ba chiếc xe đạp cho chúng tôi. Lúc ấy, chúng tôi mới lấy lại tư thế thăng bằng về mặt tinh thần. Thế nhưng từ đây trở đi, vì là gần biên giới nên đường đi khá gay go. Người dẫn đường đã báo động rằng gần đây, vì tình hình biên giới sôi động nên quân lính đóng ở đây rất đông, vì thế tình trạng rất nguy hiểm.






Khoảng sáu giờ chiều hôm ấy, chúng tôi qua trạm Cầu Sắt để đi vào thành phố Sisophon. Tại trại này, lính Bộ đội Việt Nam canh gác rất cẩn thận. Vì thế, chúng tôi phải trà trộn trong đám dân đi qua lại để băng qua cầu này.






Chúng tôi chia ra nhiều tốp, mỗi tốp gồm hai người chở nhau trên một chiếc xe đạp. Bọn chúng tôi phải cố trấn tĩnh và cảnh giác tối đa để có đủ can đảm mà đi qua cầu này. Tôi và Sơn chở nhau đi qua trót lọt. Sau đó, Phước và Đông cũng trót lọt. Nhưng chiếc xe thứ ba gồm có hai bạn Đức và Hải, vì còn trẻ tuổi và khuôn mặt trắng trẻo nên họ vừa tới cầu thì bị lính Cộng Sản phát hiện và chận bắt ngay lập tức.






Lính Cộng Sản Việt Nam ở Cầu Sắt này nổi tiếng là kiểm soát chặt chẽ. Tội nghiệp cho hai người bạn bất hạnh của tôi. Sau này tôi được biết là Đức và Hải bị bắt giam sáu tháng tại Miên rồi sau đó bị chở về Việt Nam để bị tù tiếp ở khám Chí Hòa. Số mệnh thật đáng sợ. Cuộc đời thật ghê gớm và khủng khiếp qúa. Sáu người cùng đi chung mà hai người đã bị bắt, chỉ còn lại bốn người.






Sau khi biết hai người bạn đồng hành của mình bị bắt, chúng tôi đau đớn, bàng hoàng và thương xót cho nỗi bất hạnh lớn lao của bạn mình. Cuộc hành trình tìm tự do đã gần đạt đến đích, thế mà họ mãi mãi chịu số phận long đong, trở nên những tù nhân ngay trên xứ người và chính quê hương của mình. Định mệnh thật là khắt khe vì số họ chịu sự khốn khổ và kiếp lưu đày.






Nỗi bất ổn đè nặng tâm tư của chúng tôi nhiều hơn. Chúng tôi biết mình có thể bị bắt bất cứ lúc nào. Thêm vào đó, cái không khí chiến tranh sôi động của một tỉnh biên giới thật căng thẳng đến phát sợ. Đêm hôm ấy, chúng tôi ngủ đêm tại vùng Sway-Sisophon, nằm trên một vỉa hè đường, nằm ngủ trà trộn với dân địa phương đi buôn.






Sáng hôm sau, khoảng sáu giờ sáng ngày 29 tháng 4, năm 1980, chúng tôi bắt đầu lên đường qua biên giới. Trời mờ sáng nên ít người qua lại. Vì sơ ý đi quá sớm nên chúng tôi đã bị một người bộ đội Miên chận bắt. Thế là bốn chúng tôi và người dẫn đường mạnh ai nấy chạy trốn. Tôi cũng cắm đầu chạy thục mạng vào một ngã tư gần đấy, lòng bâng khuâng không biết số phận bạn mình ra sao.






Chờ đến sáng tỏ rồi tôi mới lò mò đi thì chỉ gặp người dẫn đường và một bạn trong nhóm. Anh dẫn đường giao cho tôi một chiếc xe đạp và bạn tôi một chiếc nữa. Tâm hồn chúng tôi bối rối và căng thẳng. Tình thế thật là nguy hiểm: Đi sáu người rồi còn bốn, đang bốn người nay lại còn có hai. Chúng tôi đi xe đạp về phía đường mòn để hướng về biên giới.






Khoảng 11:00 giờ trưa, chúng tôi bị toán lính Bộ đội Việt Nam chận bắt. Cả ba người: hai chúng tôi và người dẫn đường đều bị hành hạ và đe dọa đủ điều nhưng chúng tôi không chịu khai điều gì khác những gì mà họ thấy. Họ lục xét và cướp hết số vàng bạc và tiền trong người chúng tôi.






Thấy số vàng khá nhiều nên họ thả cho chúng tôi đi tiếp. Lại có một phép lạ xảy ra vì tại đây, chính mắt tôi thấy bọn ho đã bắt những người vượt biên người Việt Nam, rồi trói ké lại thật chặt như những con heo để giải họ về giam giữ ở Việt Nam. Nhìn thấy các nạn nhân trông thương tâm và đáng tội nghiệp. Thế mà bọn họ lại thả chúng tôi đi. Đúng là một phép lạ của Thượng Đế!






Sau đó, người dẫn đường vội vàng dắt hai chúng tôi vào một trạm nhà sàn ở bìa rừng gần đó. Ông ta cho tôi và Phước ăn cơm và nghỉ trưa tại nhà này. Còn ông ta đi ngược về Sway-Sisophon để kiếm hai người bạn tôi đã thất lạc trong lúc chạy tán loạn, không biết bây giờ họ ở nơi đâu.






Mãi đến ba giờ chiều hôm ấy, ông ta tới và đem theo hai người bạn đã bị thất lạc. Chúng tôi bồi hồi và sung sướng gặp lại nhau. Thật không còn nỗi mừng nào to lớn hơn. Tinh thần chúng tôi cũng lên cao hơn vì nghĩ mình có một người dẫn đường đáng tin cậy và vì tái ngộ với hai bạn tưởng đã mất đi.






Kể từ đây, theo lời ông đưa đuờng thì con đường dẫn tới Thái Lan không còn bao xa. Nếu tính theo đường chim bay thì còn cỡ hai mươi lăm hay ba mươi cây số nữa. Nhưng có hai phương cách để đi đến đích. Cách thứ nhất là đi theo đường đi buôn của dân Miên. Họ đi từng tốp xe đạp để chở hàng hoá về. Họ đi con đường thẳng, đến ngã ba thì quẹo trái để ra đường qua biên giới Thái Lan.






Nếy muốn đi lối này thì gặp rất nhiều trạm kiểm soát của Bộ đội Việt Nam cũng như Bộ đội Cộng sản Miên. Những người lính canh gác ở đây rất dữ dằn và canh gác nghiêm nhặt vì đây là những trạm gác cuối cùng để đi đến biên giới và cũng là những trạm gác địa đầu nếu từ biên giới Thái trở về Cambodia. Nếu đi vượt biên lối này thì rất khó thoát vì chính mắt tôi đã thấy rất nhiều người Việt Nam bị bắt hôm nay.






Cách thứ hai là đi tắt vào đường rừng để đến biên giới. Nhưng đi trong đường rừng rất khó mà định phương hướng. Ngoài ra ta sẽ gặp mìn, hay không thể kiếm mua lương thực và nước uống, như vậy có thể đói và chết bỏ xác dọc đường.






Sau khi bàn tính để so sánh lợi hại giữa hai cách đi, chúng tôi liền nhớ lại cảnh hai người bạn bị bắt hôm trước vì đi qua các trạm kiểm soát. Với phương cách giả dạng dân Miên đi buôn, chúng tôi không tin rằng mình có thể đi trót lọt qua nhiều trạm kiểm soát gắt gao của vùng địa đầu biên giới này.






Tính tới hôm nay, chúng tôi đã trải qua mười ngày đường đầy gian khổ và hiểm nguy. Chúng tôi đã qúa mệt mỏi cả về tinh thần lẫn thể xác: ăn uống thất thường, nằm bờ ngủ bụi. Thần kinh của chúng tôi đã căng thẳng đến mức tột cùng. Không một giây phút nào mà không phải lo âu và suy nghĩ. Sự đau khổ và nỗi hãi hùng cứ chồng chất thêm vào bước chân đi tới.






Lính Cộng Sản Việt Nam giăng lưới bủa vây khắp nơi. Chúng tôi khiếp hãi đến tột độ. Thôi! thà ráng chọn lối đi vào rừng, dù cho nó có dài hơn và khổ hơn nhưng vẫn tốt hơn là cứ phải đối diện với kẻ thù và không biết họ sẽ bắt mình lúc nào nữa. Do đó chúng tôi đều chọn lối đi vào rừng, dù có thể đạp mìn, có thể đói khát vì thiếu luơng thực và nước uống.






Sau khi nghỉ trưa ở trạm bên bìa rừng, vào khoảng 4:00 giờ chiều ngày 29 tháng 4, năm 1980, chúng tôi bắt đầu đi bộ tắt vào đường rừng, băng qua núi theo sự hướng dẫn của một thổ dân ở đó để tránh khỏi đạp những ổ mìn của tất cả các phe phái chính trị.






Đêm hôm ấy, chúng tôi ngủ tạm ở trong rừng biên giới. Ánh trăng sáng vằng vặc làm không khí khu rừng đỡ buồn tẻ. Chúng tôi vẫn lo sợ và cảnh giác tối đa.






Sáng hôm sau, vào đúng ngày 30 tháng 4 năm 1980, đúng 5 năm,sau khi Cộng Sản Việt Nam chiếm miền Nam Việt Nam, và cũng là ngày Quốc Hận, chúng tôi đã dậy thật sớm và bắt đầu đi băng qua đường rừng. Suốt ngày hôm ấy, chúng tôi chịu cảnh đói khát. Tay chân mỏi rã rời. Nắng cứ quái ác rót đổ trên đầu làm mồ hôi chúng tôi toát ra như tắm.






Nhưng nhất định phải cố mà đi, nếu sơ hở một chút thì chúng tôi lại có thể bị bắt ngay hay bị đạp mìn mà chết banh xác trong rừng biên giới. Sự nguy hiểm đã và đang rình rập chúng tôi trên từng bước. Con đường rừng trải dài trước mắt và chúng tôi cứ lầm lũi quyết chí tiến lên.






Sau cùng, chúng tôi cũng đã lần mò đến được con đường mòn của dân đi buôn lậu. Tới đây, người dẫn đường cười hớn hở và quay lại nói với chúng tôi rằng:






-Tới đây, các anh đã thoát khỏi tầm hoạt động của Cộng Sản Việt Nam rồi. Bắt đầu từ đây, các anh có thể gặp lính Miên của Lon Nol, Sihanouk, Son Sann hay lính Khmer Đỏ của Pol Pot. Họ có thể bắt các anh để tra hỏi và cướp của. Các anh đừng trốn tránh và cứ để cho họ bắt. Cuối cùng, họ cũng giao các anh cho người Mỹ!






Chúng tôi mừng rỡ vì đã thoát khỏi vùng kiểm soát của Bộ đội Việt nam. Thế là chúng tôi lại tiếp tục đi mãi trên con đường mòn biên giới. Người dẫn đường dặn dò chúng tôi:






-Các anh cứ đi thẳng theo đường xe bò này là tới trại tị nạn!






Rồi sau đó, anh ta bỏ rơi chúng tôi ở dọc đường. Kể từ 5:00 giờ sáng khởi sự đi trên đường mòn, chúng tôi gặp rất nhiều dân Miên đi buôn bằng xe đạp. Họ nói cười và đùa giỡn rất vui vẻ. Còn chúng tôi thì đã qúa mỏi chân và mệt nhoài. Thử đánh bạo, chúng tôi ngoắc họ lại để xin đi qúa giang nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối. Chán nản cùng cực, chúng tôi lại tiếp tục đi bộ tiếp.






Bất ngờ, chúng tôi bị ba người lính Miên chặn lại. Những nhóm lính này không mặc quân phục giống Bộ đội Cộng sản Miên hay Bộ đội Cộng Sản Việt Nam, mà họ lại mặc quân phục rằn ri như lính nhảy dù của VNCH ngày xưa. Chúng tôi đoán đây là lực lượng kháng chiến của Lon Nol hay Sihanouk.






Đám lính này tra xét và khi biết chúng tôi là người Việt Nam thì họ cười đùa thích thú, rồi họ ra lệnh cho chúng tôi đi theo họ vào sâu trong rừng, xa khỏi đường mòn. Tại đây, họ chỉa súng vào người chúng tôi và nhanh như chớp, họ bắt chúng tôi lột trần như nhộng để họ khám xét mọi chỗ trong cơ thể và hành lý để cướp của. Sau đó, họ lại cho chúng tôi đi tiếp.






Trên suốt con đường mòn trong rừng biên giới, chúng tôi đã bị chận xét và lục soát để lấy của đến mấy chục lần, bởi hết toán lính này đến toán lính khác. Cuối cùng, chúng tôi chẳng còn một thứ hành trang nào khác, ngoài bộ quần áo đen mặc trên người.






Tiền hết, cơn đói rã rời, cơn khát cháy cổ, tất cả những lo âu và bận tâm ấy làm chúng tôi mệt đến muốn ngất xỉu. Chúng tôi bèn hỏi những người dân Miên đi buôn rằng bao giờ tới Thái Lan. Ai cũng trả lời còn năm hay mười cây số nữa thôi. Tuy nhiên, lần nào hỏi cũng chỉ nghe năm hay mười cây số. Chúng tôi tưởng chừng muốn điên lên vì qúa sức khổ và đói khát.






Trời cực nóng, nắng sôi đổ lửa trên đầu, con đường mòn như cứ kéo dài ra. Rồi cuối cùng, chúng tôi cũng đã lần mò và tìm đến gặp một đồn lính của lực lượng Para vào khoảng lúc trời nhá nhem tối, độ 6:30 giờ chiều.






Tôi tưởng rằng mình sắp đến trại tị nạn rồi nên mừng rỡ. Thế là từ đây sẽ không còn ai dám làm gì hại được chúng tôi nữa rồi. Một ngày qua đi với hơn năm mươi cây số lội bộ đường rừng, với cơn đói và khát khô cổ.






Chúng tôi đã băng qua một khu rừng đầy những quân lính của bao nhiêu phe phái, nghe nhiều tiếng súng nổ, vượt khỏi những bãi mìn giăng đầy. May là chúng tôi có người dẫn đường chỉ dẫn cho đi vào con đường mòn. Chứ nếu không, có thể chúng tôi đã chết banh xác vì đạp nhằm mìn từ lúc đi băng rừng rồi.






Thoạt đầu, chúng tôi tưởng mình sẽ được thoải mái khi được ở đồn Para vì chúng tôi đã thoát khỏi tay lính Việt Cộng. Nhưng rồi, qua kinh nghiệm, chúng tôi thấy bọn Para cũng độc ác và nguy hiểm không kém.






Bọn này không để cho chúng tôi yên, chúng cứ thay phiên nhau lục xét để cướp của. Thậm chí vào ban đêm, chúng cũng rọi đèn pin vào mặt rồi dựng đầu chúng tôi dậy đi, bất chấp cả khi chúng tôi đang ngủ ngon lành.






Chúng tôi ở tại đồn Para trong hai đêm. Đến ngày 2 tháng 5, năm 1980, lúc 9:00 giờ sáng, thình lình hai phe Para và Pol Pot đụng độ nên bắn nhau đữ đội, đạn bay vù vù trên đầu. Chúng tôi qúa sức hoảng sợ nên nhất loạt nằm cúi rạp xuống đất để tránh tầm đạn.






Lúc này, bọn Para đã hoàn toàn ở vào tư thế ứng chiến. Chúng vội vàng đeo bùa vào cổ, vào tai và tay. Bùa màu đỏ, đeo tòn ten trên người nên trông chúng còn dữ dằn hơn lúc bình thường. Nhóm Para này núp vào các bụi cây để bắn trả nhóm lính Pol Pot một cách quyết liệt. Bọn họ nằm cách chúng tôi chỉ có vài chục thước. Còn chúng tôi thì không có một tấc sắt trên tay, chỉ biết nằm úp mặt xuống đất, mặc cho định mệnh an bài.






Sau khoảng nửa giờ giao tranh, hai phe im tiếng súng. Trưa hôm đó, nhóm Para đưa bốn chúng tôi đến trại Non Samet, tức là trại 007.






Trại Tị Nạn Non Samet (007)










Chúng tôi ở trại này trong sự băn khoăn chờ đợi vì không biết số phận mình sẽ được định đoạt như thế nào. Trong lúc ấy, nhóm lính Para ở trại này vẫn lại tiếp tục lục xét. Cái trò lục xét và bắt nạn nhân cởi quần áo và chổng mông cho họ móc trong hậu môn đã làm cho chúng tôi chán ghét và cảm thấy tủi nhục thêm vì thấy thân phận mình còn thua một con chó. Họ muốn hành hung và hạ nhục mình lúc nào cũng được.






Trong thời gian này, tôi lân la bắt chuyện với một người lính Para và được biết trại này chỉ cách ranh giới Thái Lan có mười cây số. Tôi nghĩ thầm:






-Nếu đi mười cây số thì chỉ mất có hai tiếng đồng hồ là cùng. Mình phải đi thôi, nếu không thì cứ phải chịu đựng cái cảnh chờ đợi mỏi mòn và chịu nhục vì bị họ lục soát mãi.






Tôi bèn bàn luận với ba người bạn và rủ họ cùng trốn qua đất Thái Lan. Nhưng ba người bạn tôi lắc đầu từ chối nên tôi phải trốn đi một mình với hai bàn tay trắng. Tôi nhắm hướng theo lời chỉ dẫn của tên lính Miên để đến Thái Lan.






Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, khi đã vào trong một cánh rừng nọ, thình lình tôi gặp một nhóm lính khác, mặc sắc phục khác hẳn nhóm lính Miên ở đây. Có lẽ họ là lính Thủy Quân Lục Chiến của Thái Lan vì họ mặc quần áo rằn ri, có nón sắt và đi xe thiết giáp.






Tôi sung sướng qúa vì giây phút chờ đợi từ lâu nay đã đến. Tôi mừng rỡ chạy lại phía họ vì nghĩ rằng họ sẽ đón tiếp tôi vì tôi là người tị nạn Cộng Sản để tìm tự do. Nhưng hỡi ơi! Năm người lính Thái, với vẻ mặt hung dữ đã chiả súng vào tôi và ra lệnh cho tôi đứng yên để họ lục xét.






Có lẽ họ ngỡ tôi là dân Miên, muốn vượt biên giới để trốn qua Thái, nên họ ra lệnh cho tôi hãy trở về phiá biên giới Cambodia. Thất vọng qúa nên tôi rút giấy tờ tùy thân mà tôi vẫn giữ ở trong bóp ra để chứng minh thân thế của tôi là người Việt nam đi tị nạn Cộng Sản.






Cuối cùng, viên xếp của lính Thái lắc đầu và tiếp tục đuổi tôi về lại biên giới. Tôi đau đớn và bàng hoàng vì đã phải trải qua mười lăm ngày đường vất vả hiểm nguy, đã bỏ tất cả sự nghiệp, xa lìa cha mẹ anh em, hy sinh chính mạng sống mình để đi tìm tự do. Không ngờ khi đã đến bến bờ tự do, tôi lại bị bạc đãi và bị đuổi một cách nhục nhã. Nhưng nếu không trở về thì làm sao đây? Mà nếu liều vượt biên giới thì lính cũng sẽ bắn chết.






Thành ra, tôi buồn tủi, đau đớn, chua xót và ngậm ngùi mà phải trở lui, đi ngược về phía làng Para. Về lại chốn cũ trong mệt mỏi rã rời, tôi gặp lại ba người bạn đồng hành. May mắn là bọn lính Para không hề hay biết gì về cuộc đào thoát tới Thái của tôi. Nếu họ biết thì chết. Họ có thể hành quyết tôi ngay mà không suy nghĩ.






Thế rồi chúng tôi đành sống tiếp tục ở trại Non Samet cho đến hôm sau, vào ngày 4 tháng 5, 1980, thì một chiếc xe của hội HTTQT đến trại. Có một người Âu Châu đứng tuổi đến để lãnh dân tị nạn đến trại tị nạn.






Sau đó, chúng tôi được kêu lên phòng làm việc của viên Para chỉ huy để làm thủ tục giấy tờ, rời nơi đó mà đến trại tị nạn. Tại văn phòng của viên chỉ huy Para, tôi gặp một tốp người Việt Nam ở đó. Nhóm này gần mười người, gồm các gia đình khác nhau. Họ dường như vất vả và cực khổ hơn chúng tôi nhiều.






Chúng tôi là bốn thanh niên nên chỉ bị khám xét, lột lấy vàng bạc. Tuy tinh thần chúng tôi mệt mỏi, nhưng chúng tôi vẫn còn lành lặn. Nhóm người tị nạn Việt kia thì tội nghiệp hơn. Có ba người đàn ông trong nhóm thì một người da bị cháy nám, một ông già hơn thì không còn đi được nhưng chỉ lết mà thôi. Ba người phụ nữ trong nhóm thì da mặt đều cháy nám đen, vẻ mặt mệt mỏi và hằn đầy nét tủi nhục.






Theo lời những người đàn ông kể lại thì ba người phụ nữ này khi ở tiền đồn Para đã bị bọn lính Para làm nhục rất nhiều lần. Họ bị hãm hiếp tập thể và còn bị chúng hành hạ đớn đau. Tôi nghe mà chỉ biết đau đớn, ngậm ngùi và thương xót cho họ chứ còn biết làm gì hơn?






Trong đám người đến sau này, tôi thấy ông già bị liệt chân vì cuộc đi bộ triền miên, cứ ngồi tỉ tê khóc mãi. Tiếng khóc thổn thức làm cho người nghe phải cảm thương và xót xa cho thân phận ông. Khi hỏi ra thì mới rõ rằng ông ta đi với một con trai nhỏ và một con gái. Nhưng khi ông ta đến nơi thì chỉ còn hai cha con, còn con trai nhỏ của ông đã bị thất lạc, có thể đã bỏ xác trong rừng rồi.






Cạnh đó là một gia đình khác gồm người mẹ trên bốn mươi tuổi đi cùng ba con nhỏ. Bà L. này đến nơi thì gửi thư về Việt Nam cho chồng và hai con còn lại để họ đi sau. Vài tuần lễ sau, chỉ có hai con của bà được hội HTTQT đem vào trại ti nạn. Còn chồng bà L. thì biệt tin tức, chắc chắn ông ta đã bị giết chết hay bỏ xác trong rừng biên giới rồi. Thật đau khổ khi người cha thì mất tích, còn hai người con bơ vơ đến được trại tị nạn gặp lại mẹ.






Còn nhiều trường hợp như hoàn cảnh của anh L., anh đến bến bờ tự do cùng với đứa con ba tuổi. Còn vợ và đứa con một tuổi của anh đã bị lính Cộng Sản bắn chết ở Battambang, trên con đường vượt thoát.










3. Kết Luận.






Ngày 4 tháng 5, năm 1980, lúc 4:15 giờ chiều, sau mười lăm ngày dài cực khổ và hiểm nguy, chúng tôi đã được hội HTTQT đón và đưa về trại tị nạn NW 9. thoát nạn khỏi bàn tay của lính Para, một nhóm người chuyên sống bằng luật rừng xanh.


HỒI KÝ VƯỢT BIÊN ĐƯỜNG BỘ - KỲ 3






1 2 3 4 5 6 7 8 9

"Tối hôm ấy là ngày 28 tháng 3 năm 1980, bọn lính Para đến bắt hai cô gái của gia đình người Tàu khác và kéo đi. Những người đã sống trong trại Para vào ngày hôm đó thì tất cả đều sở đến bủn rủn tay chân. Tiếng la hét thất thanh xin cầu cứu của những người con gái bất hạnh lúc bị sa cơ nghe rùng rợn và bi thương, kèm theo đó là những tiếng chửi rủa của bọn Para. Rồi sau đó là tiếng thét thê thảm cùng với những loạt súng. Thế là xong đời hai người con gái vô tội "





Ông Phạm Thanh, tự là Phạm Đình Khanh hiện cư ngụ tại Long Beach, California cùng với vợ con. Ông sinh năm 1959, vượt biên vào năm 1980, và đến Mỹ vào năm 1981. Ông đang làm việc cho Nha Bưu Điện của chính phủ Mỹ.


Cuộc Hành Trình Vượt Biên Bằng Đường Bộ.






Tôi khởi hành từ Sàigòn để đi vượt biên vào ngày 20 tháng 3 năm 1980. Nói chung, cuộc hành trình của tôi từ Việt Nam đến Thái Lan xét ra thì có gian khổ nhưng không sánh bằng hoàn cảnh những người tị nạn khác khổ sở hơn nhiều. Thời gian mà tôi cảm thấy khổ nhất trong đời người tỵ nạn là thời gian ở tại trại Panatnikhom Holding Center. Tại đây, nhiều người cảm thấy sướng thì trái lại, tôi cảm thấy cảm thấy khổ.






Khởi đầu cuộc ra đi, chúng tôi gồm 5 người đàn ông, cùng ngồi trên xe Jeep đi với ba người dẫn đường vốn là bộ đội phục viên đi tới gần thành phố Sisophon thì rất êm xuôi. Chúng tôi được cấp đầu đủ giấy tờ với tư cách là các bộ đội trinh sát lãnh công tác ở Sisophon.






Nhưng đến cây cầu sắt gần vào Sisophon thì chúng tôi bị đám lính kiểm soát cầu cống bắt giữ lại để xét giấy. Những ai đi vượt biên đường bộ đều rất sợ khi đi qua cây cầu này. Đây là nơi đã bắt giữ rất nhiều người vượt biên. Nghe đâu họ có một trại giam rất lớn ở gần cây cầu này để giam giữ những người vượt biên đường bộ. Các người tị nạn này đi từ lối Gò Dầu Hạ thuộc tỉnh Tây Ninh, Việt Nam.






Tại cây cầu sắt đó, có một viên đại úy Việt Cộng chận xe Jeep chúng tôi lại và hỏi chúng tôi đi đâu. Chúng tôi đều đáp là đi công tác trinh sát ở Sisophon, rồi đưa hết giấy tờ ra chứng minh: nào là sự vụ lệnh, giấy công tác...Tên này không tin và nói rằng đó chỉ là những giấy tờ giả mạo mà thôi.






Chính vì sự làm khó dễ này mà nhóm chúng tôi phải hối lộ một cây vàng để được đi tiếp. Chúng tôi phải nói lý do là đi qua vùng biên giới để mua đồ lậu đem về Sàigòn bán để kiếm lời. Họ có vẻ tin là chúng tôi đi buôn lậu hơn là những người giả dạng bộ đội để đi vượt biên giới.






Thoát nơi nguy hiểm ấy, chúng tôi dừng lại ở chợ trời Sisophon để mua gà, gạo và các thức ăn để đi nhậu một lần chót, trước khi đi. Qua khỏi Sisophon độ mười lăm hay mười bảy cây số, chúng tôi dừng chân tại một nhà dân địa phương.






Lúc đầu, chúng tôi không biết họ có ở trong đường dây vượt biên nhưng mãi về sau mới biết. Chúng tôi bèn đưa gà và gạo đã mua ở chợ trời để họ làm đồ ăn cho mọi người cùng ăn. Họ tiếp đãi chúng tôi rất ân cần vì họ được trả tiền công độ là một chỉ vàng.






Sau này, chúng tôi được biết là những người bộ đội giải ngũ này đưa chúng tôi đến gặp đám dân địa phương để họ dắt chúng tôi vượt biên giới. Gía cả mà hai bên thỏa thuận thì chúng tôi hoàn toàn không được biết rõ.






Mọi người ăn uống rất vui vẻ nhưng riêng tôi, tôi không ăn được gì vì chỉ ngửi mùi đồ ăn Miên là tôi chịu không nổi. Chỉ có khi ăn ở nhà người Miên mình mới thấy, mới cảm được cái mùi vị đặc biệt ấy. Từ tô nước lạnh đến những thực phẩm họ ăn đều có một màu sắc và mùi vị riêng mà tôi không thể chịu được.






Mùi vị này không phải là mùi mắm ”Bò hóc”. Trái lại, tôi rất ghiền ăn món mắm ”Bò hóc”. Khi còn ở các trại tị nạn như Non Chan, tôi và các bạn vẫn thường kiếm mua mắm Bò hóc để ăn.






Sau đó, khoảng 2:00 giờ hay 3:00 giờ chiều, chúng tôi được những người dẫn đường căn dặn là hãy nằm nghỉ ở đó để chờ đến 5:00 hay 6:00 giờ chiều, đợi khi mặt trời lặn rồi mới đi. Chúng tôi lúc ấy rất sợ vì nghĩ đây không phải là một đường dây vượt biên mà chỉ là nhà của dân địa phương mà thôi.






Bản tính tôi là ưa đi chơi nên tôi tìm cách đi chơi lòng vòng. Tình cờ, tôi gặp một người đàn bà Miên. Lúc sau tôi mới biết bà này lai Tàu nên giọng nói lơ lớ. Bà ta hỏi tôi một câu làm tôi vô cùng sửng sốt:






-Cậu là người Việt Nam hả? Bộ cậu tính qua Thái Lan hay sao?






Tôi khựng lại vì không ngờ rằng bà ta nói tiếng Việt rành như vậy. Bà ta tự giới thiệu là người Miên lai Tàu. Thời kỳ 1970, khi người Miên nổi lên giết và chặt đầu người Việt Kiều ở Miên thì bà ta có di cư về Sàigòn ở được 5, 6 tháng. Sau đó, bà ta lại rời Sàigòn để trở lại Cambodia sinh sống bằng nghề buôn đồ lậu.






Tôi trở về nha và thuật chuyện lại với anh Vinh vì anh Vinh được coi như người trưởng đoàn. Anh tự xưng là một sĩ quan VNCH cấp tá. Anh Vinh là một người rất sáng suốt và can đảm. Chúng tôi đã nhờ ơn anh rất nhiều trong cuộc hành trình đầy gian khổ ấy.






Đoàn chúng tôi gồm 5 người: Một ông trên 50 tuổi có tên là Khanh. Cháu của ông là Liêm, học sinh trung học cũng đi trong nhóm. Thêm anh Kha là đại úy pháo binh vừa từ trại cải tạo về, để lại vợ và một con tại Việt Nam. Anh Kha hiện đang ở tại Orange County, California. Còn anh Vinh cỡ 40 tuổi. Anh Vinh hiện đang ở Los Angeles, California. Người thứ năm là tôi.






Đến chiều hôm ấy, ngày 22 tháng 3 năm 1980, gia đình người Miên này lại dọn cơm cho chúng tôi ăn lần nữa. Cơm gồm có gà hấp muối và một ít hành ngò, trông chẳng hấp dẫn gì cả nhưng chúng tôi cũng cố gắng nuốt để có sức mà đi bộ.






Khoảng 5:00 giờ chiều thì có hai người Miên đến liên lạc với anh Vinh. Anh Vinh nói tiếng Pháp rất rành, ông Khanh cũng biết tiếng Pháp. Còn tôi, dù đã học hết chương trình trung học ở trường Pháp nhưng vẫn nói sai văn phạm.






Vì thế, anh Vinh được coi như người duy nhất nói tiếng Pháp để liên lạc với bọn dẫn đường. May mắn, người Miên này cũng nói tiếng Pháp. Dĩ nhiên, tiếng Pháp của họ sai lỗi văn phạm.






Người dẫn đường này báo cho chúng tôi biết là chúng tôi sắp đi. Họ dặn chúng tôi nên mang giày Bata, mặc quần áo dầy và chắc. Lúc ra đi, tôi đã mang hai bộ đồ jeans tốt của Pháp do bà cô tôi gửi về cho và mặc một bộ đồ kaki, một loại vải Jeans của Việt Nam.






Tôi dự định đem hai bộ đồ Jeans này để khi đến trại thì đi diễu qua, diễu lại, làm ”le” trong trại. Tôi rất qúy hai bộ đồ Jeans ấy vì lúc đó giá mỗi bộ rất đắt. Vì thế, tôi cẩn thận bỏ hai bộ đồ Jeans hiệu Wrangler ấy trong một túi xách nhà binh. Nhưng người dẫn đường bảo là không nên xách túi nhà binh, lỡ gặp Việt Cộng chận bắt rất là phiền phức. Do đó, tôi phải bỏ túi xách ấy vào trong một túi ni lông khác để dấu.






Toán bộ đội gồm ba người thì đã tạm biệt chúng tôi lúc ở Sisophon. Họ cho biết là họ rất muốn vượt biên nhưng sợ là vì họ thuộc thành phần cán binh Việt Cộng, e rằng chính quyền Mỹ và các nước Tây Phương không chấp nhận cho họ đi định cư. Chi bằng họ ở lại đi buôn lậu và dẫn người vượt biên thì tốt hơn.






Theo sự nhận xét của tôi thì họ không có lời nhiều trong chuyến đưa người đi vượt biên như thế này. Mỗi đầu người vượt biên là ba cây vàng. Chúng tôi đưa trước một cây rưỡi. Khi đến biên giới Thái, sẽ chụp hình, viết thư và đưa mật hiệu cho người dẫn đường đem về nhà. Lúc đó, người nhà chúng tôi sẽ giao tiếp một cây rưỡi nữa.






Về sau, họ không lấy được thêm một cây rưỡi vàng nữa vì chúng tôi có được đưa tới Thái đàng hoàng đâu? Tôi còn hên nữa là khi ở Sisophon, tôi xin họ lại một chỉ vàng để đến Thái Lan đánh điện tín về. Do đó, tôi chỉ mất trước sau có một cây và bốn chỉ thôi. Lúc ấy, tôi dặn họ về lấy thêm nơi mẹ tôi thành một cây và sáu chỉ vàng.






Các anh cán bộ Cộng Sản đưa đường này rất dễ chịu. Họ sẵn sàng đưa cho tôi một chỉ vàng với hy vọng về lấy lại nơi mẹ tôi. Họ lại sẵn sàng cung phụng những nhu cầu ăn uống và tiêu xài của chúng tôi. Nào là cơm thịt, thuốc lá 555, bia Tiger... Vì thế, tôi mới tính ra và đoán rằng họ không có lời nhiều. Có lẽ họ chỉ có lời khi mang hàng lậu trốn thuế về bán. Lúc ấy, đồng hồ điện tử ở Thái Lan nhiều đến nỗi họ cân ký bán. Trong khi đó, đồng hồ điện tử ở Việt Nam lại có giá.






Lúc chúng tôi ra đi thì trời đã xâm xẩm tối. Chúng tôi gồm có 5 người và 2 người Miên dẫn đường. Một người đi đầu dẫn đường, và một người đi sau bọc hậu. Họ cho biết đoạn đường chỉ dài độ ba, bốn chục cây số. Nhưng chúng tôi phải đi bọc đường rừng để tránh bộ đội. Do đó con đường dài hơn, chắc phải độ chừng hai trăm cây số. Chúng tôi phải đi đến hai ngày và một đêm. Cho rằng mỗi giờ đi được 5 cây số thì không thể nào với lộ trình dài ba mươi hay bốn mươi cây số mà đi với một thời gian dài như vậy.






Vào buổi sáng, chúng tôi không thể đi được mà phải nghỉ vì bộ đội Việt Cộng hoạt động gần đó có thể phát hiện ra chúng tôi ngay. Cuộc hành trình rất là gian khổ. Chúng tôi hoàn toàn đi bộ. Mỗi người đều thủ một bi đông nước. Khoảng 7:30 giờ tối, chúng tôi rời nhà người Miên để đi theo hai người Miên dẫn đường, trong đó có một người biết tiếng Pháp. Trước đó, chúng tôi có gặp một đám người Miên, họ cho biết là họ không đủ người để dắt đi nên chỉ có 2 người này thôi.






Hôm ấy, khoảng mùng 5 tháng 2, năm 1980 (năm Canh Thân) nên có trăng lưỡi liềm, cảnh vật rất nên thơ: đồng ruộng trống vắng và hoang vu, bầu trời đầy sương mù giăng mắc. Đi rất lâu mà vẫn thấy đồng trống. Có những nơi là vùng đất cỏ tranh, hoặc vùng đất có gốc rạ đâm lên tua tủa làm đau chân vô cùng.






Chúng tôi đi được bốn, năm tiếng đồng hồ thì qúa mệt mỏi vì đa số không hề đi bộ lâu như thế. Chúng tôi bèn kêu anh Vinh nói với người dẫn đường cho nghỉ mệt, nhưng anh dẫn đường nhất định không cho nghỉ. Anh ta bảo rằng Bộ đội Việt ở đây rất đông, rằng vùng này rất nguy hiểm nên không thể để cho chúng tôi nghỉ mệt được, vì như thế có thể bị Bộ đội Việt bắt giữ bất cứ lúc nào.






Đến 2:00 giờ sáng thì mọi người đều quá mệt nên khi được lệnh cho nghỉ lại thì cả bọn chúng tôi té rầm xuống đất và ngủ như chết. Chỉ có một người không mệt mỏi là anh Vinh. Trước khi đi ngủ, tôi còn cố nhướng mắt để xem coi anh ta làm gì thì thấy anh Vinh đang tập thể dục rồi hít đất và chạy. Tuy vậy, chúng tôi cũng chỉ ngủ được có độ 5 hay 10i phút mà thôi.






Trong khi đi tiếp, chúng tôi vừa đi vừa ngủ rất hào hứng: Mắt nhắm lại để ngủ nhưng chân đi theo người ta mà chẳng biết đi đâu. Lúc đó, tôi rất sợ vì nếu mình mệt mà ngừng chân một lát thì lạc ngay.






Khoảng cách giữa chúng tôi và người dẫn đường tương đối khá xa. Người bản xứ đi rất lẹ, còn mình đi chậm nên phải cố gắng đi mau hơn, vừa đi vừa thở hồng hộc. Mình vừa đi vừa nhắm mắt mà vẫn cảm thấy như có người ở trước mặt mà đi theo. Đó là điều kỳ diệu nhất.






Ngày còn ở Việt Nam, tôi có một số bạn học chung ở trung học rồi sau đó họ đi nghĩa vụ quân sự và làm công tác ở Cambodia. Khi đi, họ mang theo ba lô, túi truyền tin, cuộn dây điện, súng AK, nồi niêu và mấy lít gạo. Họ cũng vừa đi vừa ngủ mà vẫn đến nơi bình yên.






Giờ đây, tôi cũng đang hưởng những cảm giác kỳ lạ ấy. Dù mệt nhưng tôi vẫn cảm thấy thích thú bởi vì bản chất của tôi là thích những gì mới lạ và ngộ nghĩnh. Lúc ấy, tôi chỉ sợ gặp Việt Cộng chứ tôi không hề biết rằng có thể bị Pol Pot bắt và chặt đầu hay bị bọn thảo khấu, cướp rừng ”làm thịt.”






Tôi cảm thấy thích thú vì đây cũng là một chuyến phiêu lưu. Có thể người gìa họ sợ khác những điều mà tôi sợ. Còn tôi vì là thanh niên nên vẫn cảm thấy vui vì nghĩ rằng mình đang đem cuộc đời mình ra để đổi lấy tự do, một điều mới lạ và vui mà tôi hằng khao khát, dù rằng chưa biết tương lai sẽ ra sao.






Có lẽ vì từ đầu đến giờ phút ấy, tôi được người đưa đường đối xử rất tử tế. Ở nhà, tôi không được hút thuốc ngon hay uống bia ngon, mà nay lại được hút thuốc thơm 555, uống bia Tiger, và ăn toàn đồ ngon. Vì thế mà tôi thích nên còn hăng, nên chưa biết sợ, ”Trâu nghé không sợ cọp” là vậy đó!






Đi lâu đã qúa mệt nên chúng tôi năn nỉ người dẫn đường cho nghỉ mệt, nhưng họ nhất quyết không chịu vì đây là vùng nguy hiểm. Đi mãi, chúng tôi thấy trong cánh đồng trống có ánh sáng từ đàng xa. Lúc đó, chúng tôi mệt qúa, định nghỉ lại thì nghe người dẫn đường nói:






”Bộ đội, bộ đội.”






Vì thế, sau đó, chúng tôi phải đi đường vòng thật lớn để tránh bộ đội, chứ không đi đường thẳng như trước đã quy định.






Lần này, chúng tôi phải đi vào những khu rừng nhỏ. Rừng ở đây không giống rừng già Phi Châu. Vì thế, rừng không rậm rạp đáng sợ nhưng cây cối đây khô cằn và còn có đồn cát. Cơn khát làm chúng tôi qúa sức mệt, nhưng rồi ai cũng có bi đông nước riêng nên còn cầm cự được.






Tới khoảng rạng sáng, chúng tôi đến một làng nhỏ và kiếm các lùm cây để ngủ. Lúc ấy, mọi người đều đã hết sạch nước uống nên mệt vô cùng, cơn mệt có thể chết được. Ai cũng muốn chết ngay để khỏi chịu cảnh đói khát và mệt này. Không còn ai tha thiết muốn sống nữa.






Người dẫn đường lúc đó cũng không còn nước để uống. Lúc ấy khoảng bảy, tám giờ sáng rồi nhưng chúng tôi vẫn lăn ra ngủ. Chỉ có anh Vinh thức canh chừng bọn dẫn đường. Anh Vinh bảo:






-Nếu mọi người ai cũng mệt mà ngủ hết thì bọn dẫn đường sẽ bỏ đi mất. Phải có một người mạnh, cho dù không mạnh vẫn phải tỏ ra mình mạnh, để lỡ nó có ý định bỏ đi là mình giết liền.






Vì lẽ ấy, anh Vinh tình nguyện đứng ra canh họ. Chúng tôi rất khâm phục anh và gọi anh là ”Superman”. Không biết anh có sức mạnh thật không hay là anh ngụy tạo. Nhưng dù sao, anh cũng làm cho chúng tôi tin tưởng và làm cho bọn dẫn đường ngán anh. Anh còn có vóc dáng to lớn, lại biết tiếng Anh và tiếng Pháp.






Chúng tôi lúc đầu tin tưởng vào hai anh Vinh và Kha. Rốt cuộc anh Kha còn có vẻ mệt hơn chúng tôi nhiều, có lẽ vì anh mới ở trại cải tạo ra. Còn tôi, vì đã ở hướng đạo, đã đạp xe đi cắm trại, đi chơi vùng Thủ Đức, Biên Hòa nên tương đối còn khỏe hơn anh Kha.






Cơn khát lại hành hạ chúng tôi nên mọi người đều lăn lộn, và ngủ không được lâu. Mà nếu đi thì cơn nắng lên cao, lại càng khát nữa. Chúng tôi núp vào các bụi rậm, mình có thể nhìn thấy người đi ngoài, nhưng người đi ngoài lại không thấy được mình.






Dù mệt nhưng tôi vẫn có cảm giác thú vị vì các bụi rậm này giống như các nơi mà tôi đã đi cắm trại ở Thủ Đức và Đường Sơn Quán. Anh Vinh vẫn tỉnh táo để canh chừng. Thình lình có một cơn mưa nhỏ đổ xuống. Chúng tôi mừng qúa, lấy các tấm ni lông mà hai người dẫn đường đã mang theo để hứng nước uống. Quần áo ai cũng ướt nhẹp vì nước, nhưng ai cũng thấy thoải mái và thích thú. Khí hậu của Cambodia lúc ấy rất nóng mà nay lại có cơn mưa xuống nên đỡ nóng hẳn.






Khoảng mười hai giờ trưa, chúng tôi lại đi tiếp đến một giờ trưa. Vẫn hai người dẫn đường cũ. Họ vẫn đem theo hai cái mác (rựa). Hai cái mác ấy dùng để chặt đầu là ngon ơ. Vì thế, chúng tôi để ý và rất là phiền vì chúng. Nhất là anh Vinh, anh ta luôn chăm chú nhìn những cái mác ấy vì rằng bọn dẫn đường chỉ cần ”để nhẹ” một cái là một cái đầu của chúng tôi văng ra. Nào ai biết được họ muốn làm gì với cái mác ấy. Có lẽ họ dùng nó để chặt cây khi đi vào rừng.






Chúng tôi thì chẳng ai có vũ khí để tự vệ, anh Vinh có một con dao nhíp nhỏ dùng để cắt móng tay, móng chân mà nếu đụng trận thì chắc cũng chẳng làm được gì. Còn tôi, tôi chỉ thủ có hai bộ đồ Jeans mới tinh mà tôi rất qúy.






Đến khoảng một giờ trưa, chúng tôi đến một làng có rừng dừa đầy trái. Chúng tôi được nghỉ trưa tại đó. Khi ấy, có một số người địa phương ra nói chuyện bằng tiếng Miên với hai người dẫn đường của chúng tôi. Chúng tôi rất vui vì biết là họ quen nhau và như thế là mình đã đi đúng đường dây rồi. Lúc ấy, ông Khanh hỏi:






-Ê! Đứa nào còn tiền, còn vàng thì bỏ ra mua dừa ăn đi!






Dừa trái rất lớn, to bằng đầu người, trông có vẻ ngon lành. Chúng tôi hỏi họ rằng:






-Chúng tôi muốn ăn và uống nước dừa, muốn ăn cơm trưa nữa, vậy thì giá tiền là bao nhiêu?






Họ đòi một chỉ vàng. Thế là ông Khanh móc ra ngay một chỉ vàng để trả tiền ăn uống. Đây phải kể là một hành động hào sảng của ông Khanh. Nếu là một thanh niên thì đói khát cũng chịu, không sao, nhưng là người lớn tuổi thì có lẽ ông ta nghĩ:






”Kệ! Ăn đại đi rồi chết cũng được.”






Tôi có bàn với ông Khanh:






-Đi đường đã mệt mà uống nước dừa tươi dễ chết lắm, chú Khanh coi chừng!






Ông Khanh nổi cục, nạt tôi:






-Tao ăn thì mặc kệ tao. Mày muốn ăn thì ăn, còn sợ chết thì đừng ăn! Để tao ăn hết cho!






Lúc đó, vì đói khát nên tôi cũng nhào lại, dành ăn với ông Khanh. Chúng tôi chỉ có 5 người mà ăn làm sao hết được đến mười tám trái dừa, mà trái dừa nào cũng to bằng đầu người.






Uống xong, anh Vinh dặn mọi người nạo cùi dừa rồi bỏ trong bao ni lông quấn ngoài một lớp lá chuối để đem theo. Khi nào đói thì ăn cùi dừa cho đỡ đói. Cùi dừa lại không làm cho khát nước vì nó mỏng lại ướt nữa. Thế là chúng tôi y lời, mượn đồ của dân làng ấy để nạo ra bỏ vào bao ni lông để dành.






Lúc chúng tôi hoàn toàn no rồi thì có người đàn bà Miên mặc sà rông, gánh một gánh cơm lại. Cả bọn, không còn ai ăn được, ngoại trừ một mình tôi. Người Miên này đem cả mắm ”Bồ hóc” ra cho chúng tôi ăn. Ai cũng sợ mắm ”Bồ hóc”, kể cả người bạo gan như anh Vinh.






Theo truyền thuyết của người Việt Nam khi nói về mắm ”Bồ hóc” thì đây là loại mắm đặc biệt của người Miên đi rừng làm ra. Họ đeo những ống tre chứa sẵn muối rồi đi vào rừng. Hễ họ gặp bất cứ sinh vật nào ở rừng như thằn lằn, kỳ nhông, cắc kè, cóc nhái, giun hay sâu bọ thì họ nhét vào cái ống tre để dành ăn. Lâu ngày các sinh vật ấy chết và trở thành loại mắm ”Bồ hóc”. Bởi lẽ ấy, ai cũng chết khiếp khi nghe tên loại mắm này.






Thế nhưng, tôi lại rất ghiền loại mắm ”Bồ hóc” này, là vì nó rất ngon. Nó được làm bằng cá, có thêm thơm, tỏi, đường nên ăn rất ngon miệng. Nó giống như mắm Thái ở Việt Nam, ngon tuyệt vời. Hồi tới Non Chan rồi ra trại Panatnikhom, tôi vẫn kiếm mua mắm Bồ hóc để ăn cho ngon miệng.






Vì không ai ăn cơm nên tôi ăn rất nhiều mắm Bồ hóc. Chính vì thế mà tôi bị khát nước nhiều vì bị cơn khát hành hạ và dằn vặt. Cho dù chất đường và tỏi trong mắm làm kích thích thêm, và chất muối làm tôi đỡ mệt nhưng tôi rất khát nước.






Tuy vậy, tôi vẫn còn đỡ khổ hơn ông Khanh vì ông ta uống qúa nhiều nước dừa nên mệt. Khi ấy chúng tôi được nghỉ trưa đến ba, bốn tiếng đồng hồ. Hai người dẫn đường nói chuyện với người địa phương những gì mà chúng tôi không hiểu. Nhưng chúng tôi nghi ngờ là bọn họ muốn bỏ rơi chúng tôi trong đoạn đường kế tiếp.






Anh Vinh đã chuẩn bị đối phó. Đoạn đường sắp tới rất nguy hiểm vì là vùng phi quân sự giữa các lực lượng đấu tranh của hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản như: Việt Cộng, quân đội của chính quyền Nam Vang thân cộng, lực lượng Khmer Đỏ tức là Pol Pot, lực lượng kháng chiến chống chính quyền Nam Vang như của lãnh tụ Sihanouk và Lon Nol. Ngoài ra, còn có lực lượng quân kháng chiến của người Việt Nam tự do và của người Lào do tướng Dàn Pao lãnh đạo.






Chúng tôi sợ nhất là hai lực lượng Việt Cộng và Pol Pot vì họ có thể cầm tù hay giết chết chúng tôi. Nhưng nếu gặp lực lượng của tướng Dàn Pao của Lào thì sẽ được tiếp đãi ân cần. Lúc ấy, chúng tôi không hề biết gì về lực lượng Para người Miên cả. Nghe đâu họ làm việc cho Thái và được Mỹ trả tiền.






Khi hoàng hôn về thì chúng tôi được dẫn đi tiếp. Khoảng mười lăm phút sau, chuyện bất ngờ đã xảy ra ngoài dự liệu của chúng tôi. Thình lình có tiếng súng, rồi một đám bốn, năm người ăn mặc như kiểu người da đỏ, ở trần trùng trục, mặc quần lính, mang dao mác, lựu đạn và một cây súng Colt xông tới như vũ bão.






Họ dùng cây bao vây và tấn công chúng tôi rồi bắt chúng tôi qùy xuống để họ khám xét và lấy tiền của chúng tôi. Biết là gặp bọn thảo khấu cướp rừng nên chúng tôi lột vàng giao cho chúng để được sống yên. Chúng cướp hết những quần áo và đồ dùng của chúng tôi luôn. Cái buồn và đau nhất của tôi là chúng cướp mất hai bộ đồ Jeans ”cáo cạnh” nhất của tôi. Chúng còn cướp luôn cái gọng kiếng vàng của ông Khanh vì chúng nghĩ là gọng có vàng. Ông Khanh tức vô cùng vì mất cái kiếng là kể như mù rồi.






Hên cho tôi là tuy mọi người mất sạch nhưng tôi vẫn còn sót một chỉ vàng mà tôi đòi người bộ đội dẫn đường cho mượn. Tôi dấu chỉ vàng này vào một chỗ kín ở cái bóp da cũ mèm. Cái bóp này cũng đã được bảy tám tuổi. Nó là kỷ vật mà ba tôi đã cho tôi trước ngày ông tử trận vì tổ quốc. Bọn cướp đã lục xét kỹ cái bóp ấy, nhưng vì thấy bóp cũ qúa nên chúng vứt lại, vì thế mà tôi vẫn còn chỉ vàng.






Khi bọn cướp lấy hết của cải thì ai cũng buồn và tiếc của. Tôi bèn an ủi:






-Bà con đừng lo, Thanh sẽ kiếm được tiền để qua bên Thái Lan đánh điện tín về Việt Nam.






Mọi người nghe tôi nói thì lên tinh thần. Họ cũng chưa biết là tôi sẽ làm gì để có tiền. Nhưng nghe vậy thì họ cũng yên tâm. Lúc ấy, tôi cũng chẳng hào sảng gì vì tôi biết rằng qua đến xứ người mà chỉ có một chỉ vàng là một điều rất qúy và cần thiết cho mình.






Tuy nhiên, tôi nghĩ lại rằng với các bạn đồng hành đang đói khổ thì một chỉ vàng rất cần và đáng qúy cho cả đám. Vả lại tôi thấy mình còn nợ ông Khanh khi ông này dám bỏ tiền ra mua cơm và dừa cho cả nhóm. Anh Vinh thì đi mình không nên chẳng mất mát gì cả vì anh đã biết có mang tiền đi cũng mất vì tay bọn cướp hết.






Khi đã móc hết của xong, tên chúa đảng cướp ra lệnh đuổi chúng tôi trở về Việt Nam mà không cho đi Thái nữa. Hắn còn ra lệnh tuyệt đối cấm người dẫn đường không được dẫn chúng tôi đi Thái Lan nữa. Người dẫn đường có vẻ sợ hãi. Tôi không hiểu là họ giả đò đóng kịch hay là thật.






Khi ấy, chúng tôi cố gắng xin họ cho chúng tôi đi theo hướng mặt trời lặn là hướng tây. Mới đầu họ không cho chúng tôi đi theo hướng ấy, nhưng vì chúng tôi năn nỉ qúa nên họ chịu cho chúng tôi đi theo hướng tây.






Tội nghiệp anh dẫn đường, anh không nỡ bỏ rơi chúng tôi dù rằng sau này chúng tôi biết được anh ta ở trong phe của bọn cướp. Khi ấy chỉ còn có một người dẫn đường mà thôi mà anh này chẳng có kinh nghiệm gì cả, còn người dẫn đường chuyên nghiệp đã bỏ trốn rồi.






Chúng tôi vẫn cố gắng đi về hướng tây. May là chúng tôi đã đi vào hướng đường mòn của những người đi xe bò. Người Miên lũ lượt đi xe bò từng đoàn dài. Họ chở đầy loại hàng hóa trên xe bò và trên cả xe đạp nữa.






Nhìn người ta đi lại chúng tôi cũng cảm thấy vui vui trong lòng. Đi hướng đường mòn là đi đúng đường tới Thái. Nhưng chúng tôi không dám đi ra đường mòn vì sợ tông tích mình bị phát hiện. Nếu người dân Miên thấy thì biết đâu chừng họ sẽ chỉ điểm cho Việt Cộng để bắt mình vì họ cũng đâu có thích gì người Việt Nam?






Đó là chưa kể là các trạm gác của bộ đội Việt Cộng thường canh giữ xe bò để đóng thuế và kiếm chác. Nghĩ vậy nên chúng tôi phải tách xa đường xe bò để đi vòng quanh con đường đó cho bảo đảm sự an toàn.






Trời đã về tối, trong rừng rất nguy hiểm. Xa xa chúng tôi còn được nghe tiếng nhạc từ các đơn vị đồn trú của Việt Cộng. Chúng tôi hoang mang và lo sợ vô cùng vì càng đi càng chỉ thấy rừng cây u tối mà chẳng thấy Thái Lan đâu cả.






Nỗi cực khổ gia tăng đến mức trầm trọng. Chúng tôi mệt đến đứt hơi. Tiếng chân đi sột soạt, rồi tiếng thở dài mệt mỏi. Chúng tôi qúa khát rồi mà các Bi đông nước đã hết sạch. Cảnh khát nước đường bộ khổ gấp mười lần đường biển vì khi mình càng đi thì mồ hôi càng ra nhiều và chất nước trong cơ thể càng mất nhiều hơn. Chúng tôi cứ phải năn nỉ người dẫn đường cho nghỉ lại để xả hơi và để tìm nước uống ở chung quanh.






Lúc đó, chúng tôi thấy các bờ ruộng ở chung quanh đều gặt hái xong nên bỏ trống. Chúng tôi đều mệt lả đi, chỉ còn có anh Vinh là khỏe. Anh ấy bèn cùng người dẫn đường đi vòng quanh để kiếm nước cho mọi người.






Anh Vinh đi rất lâu, có đến một tiếng đồng hồ mà chưa về. Vì thế, chúng tôi rất lo sợ cho anh ấy, bởi vì anh là người lãnh đạo của nhóm. Chúng tôi sợ vẩn vơ vì nghĩ dại rằng anh Vinh có thể bị chuyện gì không hay xảy ra. Lúc ấy chẳng phải là lòng thương yêu mà là do lòng íck kỷ mà ra. Ai cũng thương và lo cho thân mình cả. Nay thấy người lãnh đạo có chuyện gì xui xẻo thì mình cũng xui chung.






Khi trở về, anh Vinh kể lại là cách đó độ hai cây số có một dòng nước rất trong và nước rất ngọt và tốt. Anh ta đã uống no bụng và xách về cho mọi người một bình nước đầy.






Lúc này mới thấy lòng ích kỷ của con người khi tất cả dành nhau một bi đông nước. Ông Khanh dành trước và nói:






-Tao già rồi, tụi bay phải nhường cho tao uống trước vì tao khát.






Anh Vinh đã dặn rằng ai cũng nên uống ít thôi, nếu uống nhiều sẽ mệt thêm mà thôi. Ông Khanh đã già nên ông ta lấy bình nước uống ừng ực, uống cho đã miệng, không còn nghĩ tới ai cả. Tôi lúc ấy rất khát nhưng nếu giành giựt với ông ta thì kỳ nên tôi chỉ nhắc khéo:






-Bác Khanh à! Uống thì uống ít ít thôi, để nhường cho người khác với chứ, ai cũng khát hết mà.






Nghe tôi nhắc khéo, ý chừng cũng nhột nên ông Khanh đưa bình nước cho anh Liêm là cháu ông ta. Liêm là thanh niên, uống nhiều cũng thấy kỳ nên còn biết chừa lại chút đỉnh. Đến phiên tôi, tôi cũng muốn uống cho đã khát nhưng lại sợ uống nhiều tức bụng làm bao tử mệt. Phải công nhận là nước sao lúc này qúa ngon và tuyệt diệu. Ông Khanh thì luôn miệng khen:






-Ồ! Nước này ngon giống như sữa đậu nành qúa!






Người khác thi so sánh:






-Nước này ngon như bia 33!






Nghỉ một chút thì chúng tôi lại đi nữa. Bấy giờ thì qúa mệt vì bụng ai cũng đầy nước, lúc đi thì bụng kêu óc ách, mệt chi lạ! Khi đi nửa chừng thì anh Vinh nói:






-Tôi thấy cái bảng biên giới Thái Lan rồi!






Nghe đến hai chữ Thái Lan thì mọi người hân hoan, dù đang mệt cũng thấy khỏe lên liền. Mọi người giờ đây hăng hái đi ào ào. Lúc ấy tôi mới biết là cái móng chân cái của tôi đã sút hẳn ra vì đi vớ trong giày qúa lâu, lại phải đi bộ qúa xa. Máu mủ bầy nhầy trong giày nhưng tôi không dám mở giày ra vì khi mở ra, máu mủ sẽ văng ra và chân ấy sẽ không còn xử dụng để đi bộ tiếp được nữa. Đau đớn đã nhiều nhưng tôi vẫn cố gắng bước đi vì nghĩ rằng biên giới Thái Lan đã gần kề rồi.






Một điều đáng buồn cười là ai cũng nghĩ rằng hễ đến biên giới Thái Lan thì mình chỉ việc nằm xoải tay, xoải chân ra đợi hội HTTQT đưa băng ca ra đón, rồi họ sẽ chở vào Bangkok cho mình nghỉ ngơi lại sức chừng hai, ba tháng rồi cho mình lên máy bay đi thẳng tới Mỹ.






Vì thế dù ông Khanh đã già và mệt nhưng ông ta vẫn hăm hở bước đi thật mau. Dù sức ông không bền nhưng mắt ông vẫn sáng rực niềm hân hoan. Sau này khi đến trại tị nạn, anh Vinh mới kể cho chúng tôi biết là cái bi đông nước đó không phải là nước suối mà chỉ là nước sình lầy lấy từ vũng bùn có trâu bò nằm, tắm rửa và bài tiết ra. Nước chỉ có độ ba, bốn ly cối ở vũng lầy đó; vì thế, nước xanh lè và đen thui. Nếu nói thật thì không ai dám uống cho nên anh Vinh phải nói dối thì mọi người mới mạnh miệng uống.






Đến lúc này thì ông Khanh đã đuối sức cũng vì uống nhiều nước nên mệt sớm. Chân ông cũng bật máu như chân tôi. Ông ta đi lùi lại phía sau vì chịu đau không nổi. Thế là ông bắt đầu mở giọng van lơn, cầu cứu xin mọi người và cháu ông đừng bỏ rơi ông ta, mà hãy bước chậm lại để chờ ông ta với vì sức ông đã tàn ở đây rồi.






Nghe ông van nài thì ai cũng thấy ái ngại . Ông Khanh lại lên tiếng kêu gọi cháu ông hãy vì tình ruột thịt mà ở lại với ông. Lúc hoạn nạn mới biết người xấu hay kẻ tốt. Nghe ông ta van lơn đứa cháu trai, ai cũng không cầm lòng được. Tôi cũng mệt qúa nhưng lòng tự ái không cho mình nói là mình mệt, nên tôi làm bộ đề nghị:






-Thôi, thấy bác Khanh mệt qúa thì mình cũng nên đi chậm lại hoặc nghỉ một chút vì biên giới Thái đã ở trước mặt rồi! Tới đó tha hồ mà nghỉ!






Đề nghị này được mọi người hưởng ứng vì ai cũng qúa mệt mỏi rồi. Việc đầu tiên là mọi người tìm bình nước để uống. Lúc ấy, tôi bèn nói đùa một câu mà chắc rằng ai cũng còn nhớ:






-Tại sao mình uống nước ở đây làm gì? Gần đến biên giới Thái Lan rồi, sao không đợi qua Thái uống nước Coca với đá lạnh từ Bangkok đưa qua? Thôi tôi để chừa bụng để uống Coca ”đã” hơn nước lạnh.






Từ nhỏ đến nay, tôi vẫn ”mê” Coca hơn cà phê vì đó là món giải khát mà tôi ưa thích hơn mọi thứ khác. Qủa thật, lúc ấy đã gần tới biên giới Thái rồi. Đi thêm một chút nữa thì người dẫn đường bảo rằng:






-Sắp tới trại Para rồi, chuẩn bị để tụi nó đón tiếp!






Ý của anh ta là nếu ai còn vàng thì lo mà dấu diếm đi. Lúc ấy, thật sự tôi không biết gì cả. Chỉ ước đoán là trại Para chắc là một trại có lính canh, có hàng rào kẽm gai, có đèn pha sáng chói như các trại lính của các nước tư bản khác. Vì thế, chúng tôi vừa đi vừa tò mò nhìn xem trại lính đó ra sao.






Đồn Trại Của Lực Lượng Para Bên Bờ Biên Giới.






Khi đến trại Para, chúng tôi hoàn toàn thất vọng vì trại này giống như một cái chợ trời biên giới. Đây đó là những lều nho nhỏ, thắp đèn dầu, đèn cầy, đèn dầu hôi, lại có chỗ đốt lửa. Khi chúng tôi đến nơi thì gặp những đoàn xe bò ở đầy tại đó. Trại này nằm trong làng Non Chan. Diện tích trại cũng khá lớn.






Sau đó, chúng tôi phải nhờ những người đi xe bò vào thông báo cho Para để họ đón tiếp chúng tôi. Lúc này vì quá mừng là đã đến vùng tự do nên chúng tôi nằm dài, xoải tay chân ra để chờ Para và hội HTTQT ra tiếp đón mình. Hình như giờ khắc ấy, cả trời mệt nhọc kể như đã qua mất đi hết rồi. Riêng phần chân tôi đã sút móng ra nên máu tuôn lai láng, vết thương hành tôi đau đớn và nhức nhối.










1.Cách đối xử của lính Para đối với người dân tị nạn Việt Nam.






Cứ thế, chúng tôi chờ độ một hai tiếng đồng hồ. Sau đó có bốn tên lính mặc quần áo rằn ri nhảy dù đi ra. Mặt thằng nào cũng non choẹt của con nít vừa lớn. Chúng không có dáng vẻ gì thân thiện của những người ở xứ tự do ra đón những người vừa ở ngục tù Cộng Sản đến. Những tưởng rằng họ sẽ đón tiếp chúng tôi niềm nở và nồng ấm, nhưng thái độ của họ đã làm chúng tôi ngạc nhiên hết sức.






Họ đồng loạt lên đạn và chỉa súng vào người chúng tôi, rồi họ ra lệnh bắt mỗi người phải đến gốc cây. Khi đó, chúng tôi sợ rằng họ sẽ bắn chúng tôi bởi vì đạn đã lên nòng. Ngọn súng thì cứ lăm lăm chỉa ngay vào đầu của mỗi người chúng tôi. Họ chỉ cần nhả đạn và vùi thây chúng tôi là xong , nào ai biết được? Luật rừng xanh mà!






Nhưng họ chỉ ra lệnh cho chúng tôi vào những bụi cây um tùm để lục soát và khám xét để tước đoạt hết những gì còn lại của chúng tôi. Áo của tôi bị họ đánh đổi bằng cái áo vải xấu, may bằng loại vải áo sà rông của người Miên. Cái quần Jeans nội hóa đã mòn và trầy của tôi thì chúng không thèm.






Trở lại chuyện anh Miên dẫn đường: Sau khi anh ta giao chúng tôi cho những người Para thì họ thưởng gạo cho anh đem về xứ. Gạo lúc ấy cũng là một đơn vị tiền tệ ở Cambodia như vàng, tiền của Việt Nam và tiền của chính phủ Nam Vang.






Hội HTTQT đã tiếp tế gạo một cách dư dả cho dân tị nạn người Miên và cho đám lính kháng chiến Para. Hễ chúng giao người tị nạn Việt cho hội thì hội thưởng chúng khoảng năm tạ gạo, tức là 500 kí lô grams cho việc trao đổi mỗi đầu người.






Sau đó, chúng tôi được đưa vào gặp bộ chỉ huy của lực lượng Para. Đây cũng là lúc chúng tôi được hạnh phúc hơn mọi người tị nạn đồng cảnh ngộ. Anh Vinh rất khôn ngoan, anh chuẩn bị, phân phối và sắp xếp khéo léo. Theo lời dặn dò của anh Vinh nên ai cũng chuẩn bị tinh thần để đối phó với tình hình mới đầy bất trắc này.






Trước khi vào gặp họ, anh Vinh đã dặn ông Khanh phải xưng mình là giáo sư đại học môn Pháp Văn, anh Vinh sẽ xưng là giáo sư đại học môn Anh văn và Pháp văn. Anh Kha cũng là giáo sư đại học, còn tôi và Liêm thì là sinh viên đại học, biết cả tiếng Anh lẫn Pháp. Khổ một nỗi là tiếng Pháp của tôi thì ít ỏi, còn Liêm thì lại không biết cả tiếng Anh lẫn Pháp.






Rất may là chúng tôi được gặp một phụ nữ biết tiếng Việt và tiếng Pháp thông thạo. Bà ta cho biết rằng bà là người Việt có cha là người Miên. Bà đã sống ở Cambodia rất lâu rồi. Bà rất thân thiện và lịch sự. Bà dọn đồ ăn và nước uống cho chúng tôi dùng bữa. Điều làm tôi ngạc nhiên là họ chỉ cho uống nước thường mà không cho Coca Cola gì cả. Tôi bèn hỏi xin nước đá thì bà trả lời:






-Ở đây là rừng chứ không phải thủ đô, các anh đòi nước đá thì tui cũng không biết đâu mà kiếm cho anh cả!






Đây cũng là người phụ nữ đầu tiên mà tôi gặp trong rừng đó. Sau khi bà nói chuyện với ban Chỉ huy Para thì bà cho chúng tôi biết rằng luật ở đây bắt buộc phải khám xét kỹ lưỡng. Mà họ khám kỹ thật! Đôi giày đầy máu me của tôi cũng bị họ bắt tháo ra để xét, rồi họ lấy luôn đôi giày ấy. Lúc này, chân của tôi đã nhức đau qúa chừng, tôi bèn đánh bạo nói với bà ta:






-Chị làm ơn can thiệp để xin lại cho em đôi giày, nếu họ lấy giày của em đi thì tội cho cái chân đau của em lắm.






Khi ấy, bọn lính Para đứng đầy chung quanh với võ trang và súng ống chỉa vào chúng tôi. Lạ một điều là tất cả bọn họ còn rất trẻ, chỉ độ mười hai, mười ba tuổi mà thôi. Bà này liền nói một tràng tiếng Miên. Thế là một thằng lính Para vội đem đôi giày trả lại cho tôi. Tôi nhận thấy bà là một trong những người có quyền hành chỉ huy nơi đây. Như vậy, mình có thể nhờ vả bà ta được rồi đây. Bà ta còn nói:






-Sáng hôm trước có một nhà báo Mỹ vào đây nhưng mà anh ta đã về vào lúc chiều nay rồi.






Ahh Vinh liền sáng mắt ngay khi nghe tin có một nhà báo Mỹ tới đồn Para. Anh ta nghĩ đến cách phải liên lạc với những nhà báo ngoại quốc chứ không thể sống với đám lính Para này được. Còn nhóm chúng tôi thì ai cũng lên tinh thần. Nếu có nhà báo, có nghĩa là có hội HTTQT, và có lẽ chúng tôi sẽ được đưa đi trại tị nạn trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ thôi.






Sau đó, bà chỉ huy này nói tiếp:






-Thôi anh em hãy đi nghỉ đi, ngày mai việc gì tới, sẽ tới!






Thế là chúng tôi được đưa đi chỗ khác. Trên đường đi, tôi miên man nghĩ đến những chiếc lều có giường chiếu tử tế, có mền gối ấm êm để cho mình ngả lưng cho bõ những ngày gian khổ trong rừng. Đi vòng quanh một hồi thì chúng tôi được đưa tới một cái chuồng làm bằng những bụi tre đan nhau và chỉ có một cái lỗ để chui vào.






Vừa bước vào, chúng tôi nghe nhiều tiếng xầm xì bàn tán của người Việt Nam:






-Ma mới tới kìa tụi bây ơi!






-Có mấy tên mới tới kìa!






-Tới gì mà khuya lơ, khuya lắc vậy?






-Có ai bị làm thịt không vậy?






Tôi và toán của tôi đều hết sức ngạc nhiên và sửng sốt khi biết là ở đây cũng có thêm nhóm người Việt Nam khác. Một tên lính Para hỏi một người Việt đã ở đó từ trước:






-Tụi bây còn cơm cho họ ăn với!






Tất cả đều đồng loạt trả lời:






”Không!”






Có lẽ vì lúc ấy đã qúa khuya, họ đang ngủ say nửa chừng lại bị đánh thức, nên họ nói như vậy. Tên Para không tin, hắn đi sâu vào trong, bươi trong đám tô chén và lôi ra được một nồi cơm. Hắn bèn nói:






-Tụi bây Việt Nam không tốt!






Ý nghĩ đầu tiên đến trong đầu tôi là những người đồng bào tị nạn Việt Nam của tôi đã không tốt với chúng tôi là người đồng hương, đồng cảnh ngộ với họ. Điều đau lòng là từ sự nhận xét của người ngoại quốc trẻ con và thất học như tên lính Para vừa thốt lên.






Trong đám người tị nạn đến trước đó có anh Cung ( không phải là tên thật), sau này anh ấy là trưởng trại của chúng tôi. Chúng tôi vì mệt mỏi nên chỉ ăn sơ vài miếng cơm rồi kiếm chỗ để ngủ. Cho dù nơi đây là cảnh màn trời chiếu đất, nằm giữa đêm đen với sương khuya gió lạnh, chúng tôi vẫn hân hoan vì nghĩ là mình đã đến được bến bờ tự do. Trước sau gì thì mình cũng được đi thôi. Thế rồi chúng tôi ngủ ngay lập tức.






Sáng hôm sau có những người tị nạn Việt Nam đêm hôm qua đến chơi với chúng tôi. Bọn họ khoảng mười người. Họ hỏi thăm xem chúng tôi đi bằng lối nào, đi từ hồi nào và cách đi ra sao. Sau khi chuyện trò thì chúng tôi được biết rằng họ cũng đi từ Sisophon đến, cũng ghé ở nhà người Miên địa phương ở lại như vậy.






Tôi bèn hỏi một anh rằng anh ta đến trại Para này đã bao lâu thì anh chàng ”phịa” là đã ở đó khoảng sáu tháng. Có lẽ anh ta muốn tỏ ra ta đây ở đó lâu nên thành thạo, nói được tiếng Miên, có thể đi kiếm chác thuốc lá cho các bạn bè.






Có những người khác đứng tuổi và đàng hoàng hơn, gốc từ Sàigòn. Họ đến đây đã hai ngày, có lẽ ngày mai họ sẽ được hội HTTQT đến đón đi. Thật ra đó chỉ là cách nói và lối suy nghĩ đầy tưởng tượng rằng có sự đón tiếp ân cần như một thượng khách. Họ nói rằng:






-Chúng tôi chuẩn bị để lãnh gạo rồi mua thực phẩm, nước uống và nước tắm.






Tôi nghe vậy thì rất ngạc nhiên vì không biết họ dùng gạo để làm gì. Sau này thì mới biết đơn vị tiền tệ là lon gạo. Từ đó tôi bắt đầu học chút đỉnh tiếng Miên để có thể giao thiệp khi đi chợ. Ở làng Non chan có một khu chợ rất lớn như một cái chợ trời. Ở chợ này có bán đủ thứ. Hễ có gạo là mua gì cũng dễ dàng như mua bằng đơn vị tiền bạc.






Lúc này, bọn Para cho chúng tôi đi đứng tự do. Đến vài ngày sau thì dân số tị nạn lên đến mười mấy người. Có một nhóm người Việt gốc Hoa khác vừa nhập trại, trong đó có ba cô con gái. Chiều hôm ấy, thêm một nhóm khác có hai cô gái. Hai cô gái đến sau rất đẹp và dễ thương đến nỗi giờ này tôi vẫn còn nhớ khuôn mặt của các cô. Tất cả các cô gái lọt vào trại này đều gặp bao nhiêu đau khổ và nhục hình.






Lúc ấy, anh Vinh phải đứng ra lo việc điều hành đám người tị nạn với mục đích liên lạc với các nhân viên của hội HTTQT để cho sớm được thoát ra khỏi trại Para sớm chừng nào thì tốt chừng ấy.






2. Sự may mắn của một nhóm nhỏ người tị nạn.






Theo lời người Miên thì tối ngày 28 tháng 3, năm 1980 là ngày chiến sĩ trận vong của người Miên nên trại Para này tổ chức cúng cô hồn các đẳng và vui liên hoan. Bọn Para mời Anh Vinh, ông Khanh và tôi đến dự tiệc và nhậu nhẹt với bọn họ với tư cách là giáo sư và sinh viên đại học. Đây được xem là vinh dự lớn cho ba chúng tôi nhưng điều này cũng làm những người tị nạn khác ghen ghét.






Cách mời của bọn lính Para không lịch sự như người Tây phương mà họ dùng súng AK, B40, lưỡi lê và lựu đạn chỉa vào đầu chúng tôi, rồi kêu chúng tôi đi theo họ. Ba người chúng tôi tưởng là tận số rồi nên bị chúng bắt đem đi giết. Vì thế chúng tôi riu ríu đi theo với tâm trạng hoang mang và lo lắng.






Đi theo con đường mòn một hồi thì chúng tôi gặp lại tên chỉ huy trưởng của đồn Para. Tên này chỉ biết có chút ít tiếng Pháp nhưng lại muốn sử dụng cái vốn Pháp ngữ ít ỏi của mình. Chúng tôi cũng có thể hiểu và nói lại với anh ta bằng tiếng Pháp. Dĩ nhiên, dù có tệ, nhưng vốn Pháp Văn của chúng tôi còn vượt xa anh ta.






Anh chỉ huy Para này chỉ nói bập bẹ vài câu: ” Oui, Monsieur,” ”Non, Monsieur,” ” Qu'est ce que c'est?” ”Bien sure,” Rồi anh ta pha cả tiếng Miên vào. Lúc ấy, chúng tôi vẫn đoán và hiểu được ý của anh ta. Vì thế mà anh ta rất hài lòng vì có thể đối thoại và thông cảm được với nhóm chúng tôi. Từ hài lòng đến sự ưa thích và mến mộ.






Qua một tuần rượu, anh ta khoe rằng anh có mua được một thùng rượu đế từ Sisophon về. Anh ta muốn uống với chúng tôi cho vui. Lúc này tôi đã đỡ mệt vì cuộc hành trình nên tôi trổ tài uống rượu đế với anh chàng chỉ huy của Para. Hễ anh ta uống tới đâu thì tôi cũng uống đến đó.






Trong nhóm ba người của chúng tôi chỉ có tôi là uống được rượu đế vì tôi được ”chữa lửa” bằng nước Coca Cola. Vốn thèm Coca từ lâu nên nay vừa được uống rượu, vừa được uống Coca Cola thì dù rượu có thuốc độc tôi cũng không sợ.






Dĩ nhiên tửu lượng của tôi không thể nào theo kịp với một tên chỉ huy Para nằm trong rừng ngày đêm, nhưng tôi cũng làm cho anh em trong nhóm nở mặt và đồng thời chiếm được cảm tình của viên chỉ huy Para ấy. Sau đó, có lẽ thích tôi nên anh ta cao hứng nói:






-Tôi còn món này ngon muốn đãi cho anh em ăn cho vui!






Nói xong, hắn mở đồ hộp gồm có cá mòi và cà ri gà. Tôi mừng quá vì xưa nay tôi vốn thích đồ hộp. Đã vậy, ở trại tị nạn lâu nay làm gì có đồ hộp để mà ăn. Thật là tuyệt diệu, tôi ăn rất ngon miệng. Anh Vinh và ông Khanh không quen uống rượu nên mệt rồi, ăn không được. Vì thế, tôi cứ ăn thẳng cánh. Thế là tôi đã thành công về vấn đề giao tế trong trại Para rồi.






Vấn đề giao tế thứ hai mà tôi thành công nữa là việc xin lương thực cho bà con trong toán, nhất là việc xin gạo. Tôi nhờ biết hát và đàn nhạc Pháp. Hồi còn ở Việt Nam, tôi tham dự văn công cho phường khóm. Vào những dịp mùa khô, khi Việt Cộng dự định đánh qua Cambodia thì thành đoàn thanh niên dạy cho chúng tôi học hát những bài nhạc Miên và biết múa những điệu vũ cổ truyền của dân Miên để dễ tuyên truyền. Thế là nơi đây tôi lại có dịp trổ tài hát và đàn bậy bạ để mà kiếm ăn rất khá.






Trong khi mọi người đói khổ vì thiếu ăn và thiếu tiền thì tôi sống rất sung sướng: tôi có thuốc lá Samit mà tụi lính Miên vì thích nghe nhạc nên sẵn sàng tặng cho tôi. Tôi lại đem về chia cho các bạn tị nạn vì họ rất thèm thuốc lá.






Trong đám dân tị nạn, tôi và Thiện tương đối kiếm chác thuốc lá và đồ ăn dễ nhất. Thiện là một lính bộ đội Việt Cộng nhưng biết nói tiếng Miên, mồm miệng hắn tía lia. Hắn có tài nói dóc và dụ dỗ những tụi lính nhóc con Para nên chúng thích hắn lắm. Vì thế hai chúng tôi rất khoái chí vì khi nói có người nghe, mà chúng lại là những kẻ có phương tiện giết người trong tay, rất đáng sợ.






Buổi đầu tiên khi tôi đi tắm thì gặp Lợi, một người tị nạn trẻ tuổi và biết đánh đàn guitar cổ điển hay. Hai chúng tôi rất thích đánh đàn, nhưng làm sao tìm được đàn ở trong trại này? Vì thế, khi hai chúng tôi tắm ở một ao tù thì thấy một thằng lính Para đang cầm một cây đàn guitar và đánh đàn. Chúng tôi thèm tiếng đàn qúa nên bất chấp sự nguy hiểm, bèn nhào tới mượn hắn cây đàn để chơi.






Tôi còn nhớ bản đầu tiên chúng tôi chơi là bài ”Guantanamera”. Lợi còn cao hứng đàn thêm nhiều bài nhạc cổ điển Tây Phương bằng chiếc đàn thùng hiệu Thái Lan ấy. Cũng chính vì thế mà hai chúng tôi trở nên nổi danh. Tuy đối với với các ban nhạc trẻ thì chúng tôi chơi không ra gì, nhưng đối với các tên lính Para trong rừng rậm thì chúng tôi đã là hai ngôi sao sáng rồi.






Khi chúng tôi chơi được một số bài nhạc thì thấy chung quanh mình có độ năm mươi tên lính Para bao vây. Thằng nào cũng tay súng, tay lựu đạn hay dao búa. Chúng ngồi uống và yêu cầu chúng tôi chơi những bản nhạc mà chúng ưa thích, đại loại như những bài: Beautiful Sunday, Never On Sunday, hay bản Không hát tiếng Việt Nam. Bản nhạc Không đã được dịch ra tiếng Miên và rất thịnh hành ở Cambodia. Hầu hết dân Miên ai cũng ưa chuộng bài nhạc này.






Thế là từ đấy, chúng tôi trở nên nổi tiếng. Lâu lâu có một thằng Para đến nhờ chúng tôi ca cho một bài rồi hắn thưởng thuốc lá. Lâu lâu lại có một thằng xách đàn nhờ chúng tôi chỉ cho một vài nốt nhạc.






Một hôm, chúng tôi đang ngồi ăn cơm thì bỗng nhiên có bốn tên lính Para cầm súng B40 đến chỉa vào đầu tôi và Lợi rồi bắt chúng tôi đi theo bọn chúng. Trên đường đi, chúng tôi hoang mang vô cùng, không biết là gặp chuyện xui hay hên. Từ trước đến giờ,bọn chúng đối xử tốt với mình, tại sao nay lại bắt mình đi như vầy? Mà nếu mời mình đi đâu, tại sao không mời như kiểu thượng khách?






Cuối cùng chúng tôi được đưa đến một nơi có khoảng một trăm người đang ngồi chờ đón chúng tôi. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên hơn là họ mời chúng tôi ngồi trên một bộ ván ở giữa trời. Trên bộ ván có đầy đồ ăn hấp dẫn như gà tươi nấu cà ri, mắm và cơm.






Sau đó, chúng tôi gặp một cô gái rất đẹp, đó là vợ của viên chỉ huy Para. Cô ta có vẻ đẹp Tây phương với làn da trắng tươi. Cô nói tiếng Anh với chúng tôi, dù rằng giọng Anh của cô không đúng lắm. Đây là lần đầu tiên mà tôi nghe một người nói tiếng Anh ở trại Para này. Lúc ấy, dù tiếng Anh của tôi cũng chẳng khá gì nhưng tôi cũng cố gắng để hiểu ý cô ta nói.






Cô này yêu cầu chúng tôi chơi những bài nhạc tình cảm để cô gợi nhớ kỷ niệm của những ngày xưa cũ ở Nam Vang. Thế là hai chúng tôi trổ hết ngón nghề ra để trình diễn. Trình độ thưởng lãm của họ cũng không cao lắm nên chỉ cần nghe na ná giống thì họ vui rồi. Sau đó, họ đối xử rất ân cần với chúng tôi. Họ còn tiễn chân chúng tôi với mấy gói thuốc lá nữa


3. Thảm cảnh bị hãm hiếp của người phụ nữ Việt Nam.






Trên đường trở về lều, chúng tôi gặp một cô gái đẹp và dễ thương. Cô này đi một mình và bị bọn Para bắt giam. Cô ta đã một thời làm tôi mê đắm. Tên cô là KDBC, con gái của nam ca sĩ nổi tiếng KDT. Hiện nay nghe đâu cô ở vùng Los Angeles, do ca sĩ Khánh Ly bảo lãnh để đến Mỹ.






Lúc ấy, B.C. đang bị bắt giam và khám xét. Cách khám xét của bọn lính Para thì thô bỉ, không có một chút nhân tính gì cả. Chúng bắt nạn nhân cởi đồ trần truồng rồi móc đủ nơi. Tôi thấy tội nghiệp cho B.C. nhưng không biết làm cách nào để giải vây cho cô ta cả. Sau này, khi trò chuyện với cô ta, tôi được biết rằng hồi ở Sàigòn, cô B.C ở cách nhà tôi không xa. Nhà tôi ở gần đường Cao Thắng và Hồng Thập Tự, còn cô ta ở vùng ngã bảy, đường Lý Thái Tổ.






Tuy vậy, cô B.C. hên hơn các thiếu nữ khác vì khi vừa vô nhập trại, cô ta đã bị một tên chỉ huy chụp lấy và giữ làm của riêng. Bà vợ ông ta, tức là người đàn bà mà tôi đã gặp, biết được nên giữ cô ta ở chung với bà ta. Nhờ vậy, về sau, khi quen với tôi, mỗi lần ăn món gì ngon thì nàng đều để dành và bưng qua cho chúng tôi. B.C. ở tại đó ăn uống thỏa thuê vì cùng ăn với gia đình viên chỉ huy.






Trở lại chuyện đêm 28 tháng 3, năm 1980, chúng tôi cùng ăn nhậu ầm ỹ với viên chỉ huy trại Para, lúc ấy đàn trống nổi lên inh ỏi, đèn đuốc sáng trưng. Vào chiều hôm đó, có một gia đình người Tàu với hai cô con gái cũng vừa đến trại. Anh Vinh bảo tôi:






-Tối nay thể nào tụi nó cũng sẽ mò vô kiếm mấy cô con gái này. Hễ không có con gái thì thôi, hễ có con gái thì phiền. Vậy mình phải bàn tính cách nào để bảo vệ những cô con gái đó. Bây giờ mỗi người chịu làm chồng hờ của mỗi cô thì họa may, tụi nó mới lơ cho!






Nghe nói vậy, ai cũng nhát gan cả. Họ làm ngơ như không nghe và biết chuyện gì xảy ra bởi vì họ sợ nguy hiểm đến tính mạng của chính họ. Ông Khanh cũng không dám nhận vì sợ ăn đạn. Rốt cuộc tôi vì nể lời anh Vinh mà nhận cô chị làm vợ hờ. Còn Vinh nhận cô em là vợ hờ. Sau này họ trở thành vợ chồng thật. Nhưng cô chị lại không thành vợ của tôi. Đó cũng là điều đáng buồn cho tôi.






Tối hôm ấy là ngày 28 tháng 3 năm 1980, bọn lính Para đến bắt hai cô gái của gia đình người Tàu khác và kéo đi. Những người đã sống trong trại Para vào ngày hôm đó thì tất cả đều sở đến bủn rủn tay chân. Tiếng la hét thất thanh xin cầu cứu của những người con gái bất hạnh lúc bị sa cơ nghe rùng rợn và bi thương, kèm theo đó là những tiếng chửi rủa của bọn Para. Rồi sau đó là tiếng thét thê thảm cùng với những loạt súng. Thế là xong đời hai người con gái vô tội






Lúc ấy, ai dù có nhẫn tâm cách mấy đi nữa cũng rất đau lòng. Trong đời tôi, đây là lần đầu tiên tôi thấy một cảnh tượng vô nhân đạo đến thế. Một câu chuyện thật rất đau lòng nhưng chúng tôi đành bất lực, không dám can thiệp nếu còn muốn sống sót.






Sở dĩ có sự hận thù đưa đến việc giết chóc ấy là vì hai dân tộc Việt Nam và Cambodia có mối thù truyền kiếp từ ngàn xưa. Lính Para rất thù người bộ đội Việt Nam, do đó họ ghét luôn người tị nạn Việt.










4. Bị lính Para ngược đãi, bị bịnh dịch tả hành hạ.






Từ sau hôm ấy, bọn Para không còn đối xử tử tế với chúng tôi nữa. Họ bắt các thanh niên và các người già đi đào giao thông hào sâu để chống chiến xa. Dụng cụ đào đất thì thô sơ, lương thực thì kém dinh dưỡng. Thời tiết khí hậu ở Cambodia thì nóng khủng khiếp, gấp mười lần cái nóng của miền Tây Ninh. Mọi người đều cực khổ và vất vả. Hàng ngày, mỗi người phải làm xong phần đất đã được giao phó theo tiêu chuẩn. Nếu đào xong mới được trở về. Riêng tôi thì may mắn không phải đi đào mương hay đào kinh.






Tôi chịu khó học tiếng Miên rất lẹ. Chỉ trong vòng ba ngày là tôi đã biết một số vốn tiếng Miên căn bản đủ để đi chợ và biết cách trả giá. Trời cho tôi có khiếu ăn nói nên người bản xứ cũng dễ cảm thông. Khi ấy tôi phụ trách việc đi chợ mua đồ ăn để bồi dưỡng. Hễ mọi người đi lao động về đến lều thì đã có cơm nước đầy đủ.






Được cái người bản xứ cũng thích tôi nên dễ cho việc đi chợ của tôi. Như một người nội trợ chuyên nghiệp, tôi cũng trả giá kỹ càng dù rằng tiếng Miên không phải là tiếng mẹ đẻ của tôi. Người ta phải tốn chừng mười lon gạo để mua một cây đường cục, còn tôi chỉ tốn có bảy hay tám lon gạo mà thôi.






Phần lời thì tôi tự bồi dưỡng cho mình như mua Coca Cola uống. Khi tôi đi chợ thì thường có người trong đám dân tị nạn Việt đi theo vác gạo, mỗi lần khoảng ba mươi hay bốn mươi kí lô grams để ra chợ đổi đồ ăn.






Cũng tiện nói luôn là trong đám người Việt vượt biên qua Thái Lan thì cũng có một số bộ đội Việt Cộng đào ngũ trốn đi. Họ ở Miên khá lâu nên nói tiếng Miên rất rành. Tôi học tiếng Miên là do họ dạy cho. Khi tôi đến trại Para thì gặp ba người này, đó là Thiện, Hiệp và Hà.






Họ là những thanh niên ở Sàigòn, không được học hành bao nhiêu, nhưng bị bắt buộc đi thi hành ”nghĩa vụ quốc tế trong sáng ” cho chính quyền Cộng Sản. Họ sống trong rừng khá lâu nên rành tiếng Miên. Họ cũng có sức chịu đựng khá dẻo dai. Vì thế tôi dùng trí óc và sự khôn khéo, còn họ thì dùng sức mạnh để hợp nhau mà làm việc mưu lợi. Thường thì Thiện là người vác gạo từ trại Para ra chợ để đổi gạo lấy đồ ăn.






Bấy giờ khu tị nạn ở trại Para đã lên tới bốn mươi, năm mươi người rồi. Vì sống chung đụng trong sự thiếu thốn các phương tiện vệ sinh tối thiểu, lại thiếu hầm cầu tiêu nên ai cũng đi tiêu bừa bãi, ruồi bọ sinh sôi nẩy nở theo cấp số nhân.






Hễ ta để cục đường ra ngoài thì một lát sau chỉ thấy một cục ruồi đen đặc. Nếu ngáp lớn cũng sẽ bị ruồi chui ngay vào miệng. Khi ăn cơm mà há miệng to thì ruồi sẽ chui ngay vào miệng.






Vì thiếu vệ sinh, thiếu thuốc men và thiếu lương thực bồi dưỡng nên bịnh tiêu chảy hoành hành dữ dội. Lúc đầu chỉ có một hai người bị tiêu chảy. Từ từ đến mười mấy người bị bịnh này cùng một lúc. Anh Vinh là người thấy được vấn đề hệ trọng đó nên anh tỏ vẻ ưu tư và lo lắng cho mọi người. Đã có nhiều người nằm liệt giường và đi tiêu ngay tại chỗ vì không còn đi nổi được nữa. Cũng may là chưa ai bị thiệt mạng.






Thấy tình trạng nguy cấp nên anh Vinh liền kêu tôi và Lợi chạy lên lều của bộ chỉ huy Para để yêu cầu Para hoặc là cho thuốc hoặc là liên lạc với hội HTTQT để cứu chúng tôi ra khỏi chỗ đó, nếu không thì bịnh dịch tả sẽ giết hết chúng tôi.






Dạo này, chúng tôi đã chơi nhạc và nhậu chung với viên chỉ huy Para nên mới dám đánh liều mà lên đó. Ban chỉ huy Para từ chối việc cấp thuốc nhưng hứa sẽ liên lạc với hội HTTQT để giúp chúng tôi.






Rất may là anh Vinh, tôi và một số người không bị bịnh. Vì thế, chúng tôi phải bỏ công nhiều để đào hố phân, làm vệ sinh, dọn dẹp để giảm thiểu mức độ bịnh hoạn được chút nào thì hay chút đó.






Thuốc chữa bịnh cho các bịnh nhân chỉ là cơm nấu cháy đen mà chúng tôi gọi đùa là Carbon Ganidine, một loại thuốc thông thường chữa bịnh thổ tả. Bịnh này càng gia tăng và nguy ngập hơn. Trong số năm mươi người thì đã có ba mươi người bị bịnh này.






Mọi người đều nằm liệt giường và tiêu tiểu tại chỗ. Ruồi cũng từ đó mà gia tăng thêm. Chúng tôi sợ đến nỗi không dám uống nước vì ruồi đậu từ phân của người bịnh có thể đậu vào nước rồi lây bịnh cho người uống nước.






Bịnh dịch tả đã đến mức độ tàn hại khủng khiếp. Chúng tôi còn may nên chưa bị bịnh. Vì thế, chúng tôi cố gắng giảm ăn uống để tránh bịnh. Không ai ăn gì ngoài cơm cháy khét lẹt. Chúng tôi không dám uống nước trong ao tù của trại mà phải chạy ra đổi gạo lấy nước từ những hố nước của người Miên ở ngoài trại. Khi uống xong thì đậy lại và cất thật kỹ và thật xa. Hễ bị cơn đau bụng nhỏ là chúng tôi lo cuống cuồng.










5. Được hội HTTQT cứu giúp và đưa đến trại tị nạn Non Chan.






Về sau, nhờ sự giúp đỡ của bộ chỉ huy Para mà chúng tôi được gặp nhà báo Hoa Kỳ mà bà Miên lai Việt, thuộc bộ chỉ huy đã kể cho chúng tôi nghe. Ông này hứa là sẽ liên lạc với hội HTTQT để xin họ giúp đỡ cho chúng tôi.






Sau này chúng tôi mới biết rằng lính Para giữ chúng tôi ở lâu tại đó vì họ phải kỳ kèo lên giá đổi gạo với hội HTTQT. Họ muốn đòi số gạo nhiều hơn thì mới chịu đổi dân tị nạn cho hội. Cuối cùng vì muốn cứu chúng tôi, hội HTTQT đã nhượng bộ và trả cho họ nhiều gạo hơn để đánh đổi các sinh mạng người tị nạn Việt.






Đó là lần đầu tiên chúng tôi được báo chí Âu Mỹ chụp hình và đăng báo. Anh Vinh hiện còn giữ bài báo mà anh phóng viên Hoa Kỳ đã viết. Sau đó, tôi cũng được đọc bài báo ấy. Có thể tờ báo chẳng nổi tiếng nhưng sự kiện được phóng viên Mỹ chụp hình và đăng bài nói về mình trên báo tiếng Anh là một vinh dự rất lớn đối với chúng tôi, vốn là những kẻ tị nạn ở trong rừng biên giới.






Lúc ấy, chúng tôi cảm thấy rằng sự ra đi của mình không phải chỉ một ngày, một giờ mà kéo dài qúa lâu. Hôm ấy là ngày quyết định, một số nhân viên hội HTTQT đến nói chuyện với chúng tôi rất ân cần. Đó là lần đầu tiên tôi được thấy vài người Âu Mỹ ở khu rừng đó. Thế là bọn chúng tôi nôn nao và rộn ràng hẳn lên. Ôi thôi biết bao nhiêu mộng đẹp cho ngày được đến trại tị nạn









Trại Tị Nạn Non Chan.






Khi được dời trại, chúng tôi đều đi bộ. Đi chưa được một cây số thì đã đến nơi gọi là trại tị nạn Non Chan. Chúng tôi cảm thấy thất vọng vô cùng. Trại tị nạn ở bên hông của nhà thương Non Chan. Nhiều người tị nạn Việt Nam đã ở sẵn nơi ấy từ lâu rồi. Họ chờ đợi dưới cơn nắng chói chang và cơn nóng khủng khiếp, với cái đói khát triền miên.






Nỗi thất vọng chán chường lớn mạnh hơn vì chúng tôi cứ tưởng là được dời sâu vào trong đất Thái hay ít ra cũng gần thủ đô Bangkok. Ai dè nơi này qúa tệ. Khi còn trong trại Para, tôi còn được ăn uống đầy đủ: ăn nhậu, uống nước ngọt Coca Cola, có thuốc lá đều đều. Còn khi ra đến trại Non Chan thì tôi hoàn toàn đói khổ vì ở đó có nhiều tệ nạn xảy ra.






Lúc chúng tôi tới trại Non Chan thì vào khoảng tuần lễ đầu của tháng 4, năm 1980. Sau đó, khoảng ngày 15 tháng 4, năm 1980 là tết của người Miên. Nhóm chúng tôi đi từ trại Para đến nơi này, và cảm thấy mình hoàn toàn xa lạ với những người đã đến từ trước.






Nơi đây, có một số người đến vùng nhà thương này mà không phải qua trại Para nên họ còn giữ được tiền và vàng. Phần chúng tôi thì bắt đầu hối hận, vì chỉ cần đi qua một vòng là thoát khỏi trại Para để đến nhà thương Non Chan thì giữ được của cải để tiêu xài rồi.






Tại sao mình không biết ra vùng này mà lại đâm đầu vào trại Para cho chúng lột sạch bách? Cuối cùng, ai cũng đành chép miệng mà nói rằng đó là số mệnh cả.






Lúc ấy có khoảng năm trăm người tị nạn Việt và Tàu Miên nằm chờ nơi những lều nhỏ làm bằng vải dầu ni lông màu xanh ở bên hông nhà thương Non Chan. Khí hậu ở Miên lúc ấy thật nóng bức và khô. Vì thế, ít người dám ngồi chịu trận trong các lều vào mỗi buổi trưa hè oi ả ấy.






Cứ buổi trưa thì họ ngồi hai bên nhà thương để tránh cơn nóng và hóng gío mát. Khi đó có một số ít người tị nạn còn dấu được tiền nên họ lén đi chợ mua đồ ăn và dạo cảnh. Thậm chí có một số còn giữ thói quen là buổi sáng ăn hủ tiếu, uống cà phê và phì phèo điếu thuốc lá. Những người bị Para lột sạch tiền thì cắn răng nhịn đói.






Khi mới đến nơi, chúng tôi được phát mền và được nhà bếp nấu cơm cho ăn. Cái khổ nhất là nạn thiếu nước. Nước uống luôn đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của dân tị nạn.






Nước được những xe nước từ Thái Lan đem qua. Họ đổ vào bồn nước chứa chừng một ngàn lít nước ở trên cao. Mỗi ngày họ chở hai xe nước đến cho người tị nạn Việt, còn các xe khác thì cấp nước cho những người Miên tị nạn ở quanh đó. Tiêu chuẩn một đầu người khoảng hai lít nước cho một ngày.






Trong khi thiếu thốn này, tôi mới hối hận vì đã bỏ lại ở trại Para tất cả nồi niêu, tô chén và muỗng nĩa. Tôi chỉ thủ có hai chai nước, loại vỏ Coca Cola cỡ một lít. Kinh nghiệm đường bộ xương máu cho thấy hai chai nước rất qúy cho cuộc hành trình. Vỉ thế chúng tôi không dám bỏ vỏ chai đi vì biết là nó rất cần thiết cho cuộc sống. Có nước là còn cuộc sống.






May là tôi còn thủ theo một cái muỗng ”inoxydable” để mà có cái múc đồ ăn. Tôi đã mang theo cái muỗng ấy trong suốt thời gian tị nạn, từ trại này đến trại khác. Chỉ khi lên máy bay đi định cư thì tôi mới vứt bỏ cái muỗng ấy đi. Như vậy đủ biết cái muỗng qúy hóa đối với một người tị nạn như tôi biết dường nào.






Đời sống ở Non Chan rất khổ cực. Thực phẩm hiếm hoi. Một hộp cá được chia cho mười hai người để ăn trong một tuần lễ dài. Chắc chắn là chẳng ai thấy được con cá hộp như thế nào. Tôi rất khổ vì chung quanh vì có người còn tiền nên ăn uống đầy đủ, còn mình chẳng phải vì thua kém nhưng vì bị cướp hết nên đành bó tay thúc thủ, chỉ đành buồn cho số phận hẩm hiu của mình thôi.






Vào khoảng ngày 12 tháng 3 năm 1980, có lẽ vì lý do an ninh bất ổn nên xe nước không đến, ai nấy đều run sợ. Lúc này trưởng ban chấp hành tạm thời của trại là anh Cung. Anh này là sĩ quan quân cảnh của VNCH, anh Cung vào trại Para sớm hơn tất cả mọi người, lại biết tiếng Pháp nên lo về mặt giấy tờ. Anh ta họp mọi người lại để hỏi ý kiến làm sao để lo cho một trại gần năm trăm người khi không có nước tiếp tế. Gạo cũng gần hết nếu xe lương thực không đến hôm ấy.






Thế là nhiều lời đề nghị được đưa ra: nấu cháo thì qúa tốn nước, mà rang gạo ăn thì ăn xong gạo rang là khát khô cổ. Nhân viên hội HTTQT cũng không đến vì họ bị chận lại tại biên giới. Thế là tại trại Non Chan chỉ có người tị nạn Miên và Việt. Mạnh ai nấy thủ. Thật là thê thảm vô cùng.






Không ai dám cử động mạnh vì như vậy sẽ đổ mồ hôi và khát nước thêm. Mọi người nằm chết lịm dưới các lều ni lông, trên thì mặt trời chói nắng, dưới thì đất nóng bỏng. Chưa bao giờ tôi thấy mình khốn khổ như vậy. Đến khi chiều xuống thì có cơn gió thổi, tôi bèn thè luỡi ra hít thở để hy vọng sẽ kiếm được một ít hơi nước lẫn trong không khí.






Người tị nạn Miên vì đã sống nhiều năm ở vùng biên giới này nên họ đỡ khổ hơn. Họ đào giếng để lấy nước xài và bán. Lúc ấy, chúng tôi cũng đưa ra biện pháp đào giếng nhưng bị bác bỏ ngay vì không thể nào đào giếng kịp trong một ngày. Vả lại, vùng đất ở khu nhà thương này là vùng đất khô cằn, không có mạch nước. Người Miên đã chiếm những chỗ đất trũng hết cả rồi, còn lại là đất khô, làm gì mà có mạch nước?






Khi đó tôi quá khổ nên không còn biết gì cả. Ai có lén ăn cắp nước hay không, tôi cũng không thèm để ý nữa. May mắn, sáng hôm sau lại có nước như cũ. Sau hôm ấy, một ban cấp nước gồm những tay”cao thủ võ lâm” đến đây trước. Hễ có ban cấp nước là có chuyện rồi.






Các người tị nạn còn tiền thì phòng xa nên mua thuốc lá để hối lộ những anh chàng cấp nước để họ xịt thêm cho một ít nước. Người khác thì mua thêm các sô nồi đựng nước dấu trong lều. Còn những người sạch tiền thì chịu chết.






Trong lúc ấy, một số người thì có những sáng kiến độc địa, ích kỷ và ngu xuẩn hơn. Họ dùng đinh đục lỗ ở các bồn chứa nước để nước rỉ ra từng giọt, rồi thì họ đứng kiên nhẫn hứng từng giọt nước ở các lỗ bị đục lỗ rỉ ra đó. Dần dần một lỗ rỉ ra nhiều lỗ rỉ, nên nước nhỏ ra như mưa.






Tôi cũng đã đứng hàng giờ để hứng nước mát trong những ngày nóng bỏng ấy. Lúc ấy, tôi rất yêu qúy cái bồn nước và chỉ suốt ngày quanh quẩn bên nó mà thôi. Chỉ có đứng gần bên nó mới đỡ nóng nực.






Thấy đời sống của người tị nạn cơ cực qúa nên hội HTTQT đem phát thêm mền và dầu ăn. Đây cũng là lúc mà tệ trạng tham nhũng bắt đầu. Nguyên nhân vì chung quanh trại có chợ búa là nơi cung cấp phẩm vật. Người ta cần tiền để tiêu pha và mua bán. Dân tị nạn lúc ấy vẫn được tiếp xúc với dân Miên để mua bán. Lại thêm các món đồ cứu trợ của hội HTTQT rất qúy đối với người Miên như là: mền, dầu ăn, và gạo... vì họ không có những món đồ viện trợ ấy.






Khi đó, tôi cũng có chân trong ban đại diện với tư cách là một thư ký. Quyền hạn cũng không có gì ngoài việc ghi chép tên tuổi và lý lịch của những người tị nạn mới đến. Lúc này anh Vinh cũng ở trong ban đại diện. Rõ ràng ban đại diện có hai phe. Một phe của anh Cung và Niên. Phe khác thì của anh Vinh, tôi và một số người khác.






Phe của anh Cung rất mạnh vì anh ta nắm nhóm nhà bếp, có gạo, mền, dầu ăn và quần áo. Họ ăn chia rất khéo léo. Anh Cung rất khôn ngoan. Có thể anh không hề đem đồ đi bán, nhưng dưới tay anh có rất nhiều đàn em. Những người này thì theo đóm ăn tàn nên họ có thể làm hết tất cả mọi việc.






Có một lần chính mắt tôi thấy rõ ràng cảnh họ đem một cái mền ở kho ra chợ để đổi lấy thuốc lá, bia và nước ngọt. Họ cố che dấu vì tôi cũng ở trong ban đại diện mà chỗ tôi làm việc lại đối diện với nhà kho. Tôi nghe họ xì xào bàn tán như sau:






“Đẩy cái này để đổi lấy cái gì ăn.”






Ngoài ra, chuyện ăn cắp 5, 10 lon gạo để đổi chác thực phẩm thì nhiều như cơm bữa. Một người có thể gom 5 lon gạo gọn trong áo mình để đổi được một ký đường, mà đường thì qúy giá vô cùng.






Chuyện thối nát của ban đại diện rất tinh vi. Tuy bà con đồng bào đang đói khổ, nhưng họ nghĩ rằng cho dù họ có lấy đi mấy lon gạo thì cũng không làm bà con đói khổ thêm hơn. Từ chỗ có nhiều đồ viện trợ nên trong nội bộ ban đại diện đã nảy ra những sự hiềm khích. Họ ngấm ngầm chơi nhau và hạ nhau để giành ăn.






Những người này đều có một thế đứng. Vì thế khi muốn chơi nhau, họ phải thủ thế. Có một số người thì đeo theo những người ngoại quốc như nhân viên của hội HTTQT để kiếm chác. Đó là trường hợp của anh Triết, người phụ trách y tế. Anh có nhiệm vụ dẫn người tị nạn đi khám bịnh để xin thuốc tây. Anh này có thể kiếm thuốc tây dễ dàng mà thuốc tây là nguồn lợi rất tốt vì người Miên rất cần thuốc tây để chữa bịnh.






Về chuyện thuốc men thì có rất nhiều người than phiền là tại sao người ta bịnh, vết thương làm mưng mủ, họ đến năn nỉ anh Triết để được anh dẫn đi xin thuốc thì anh ta không chịu dẫn đi. Trong khi đó, con gái anh ta thì ngày nào cũng đi xin thuốc như đi chợ.






Cuối cùng vì tôi nằm trong một ổ đang ”ăn bẩn” mà lại không được ăn nên người ta nghĩ rằng tôi sẽ đi tố cáo họ. Giữa một đám người xấu mà mình không xấu thì rồi cũng bị gạt ra khỏi đám ấy. Thật sự lúc ấy tôi cũng muốn ”ăn” nhưng không có hoàn cảnh để mà ”ăn”.






Thành ra họ nghĩ tôi cùng phe đảng với anh Vinh để âm mưu lật đổ họ. Sau đó, đã có nhiềuâm mưu lật đổ ban đại diện. Đây cũng là điều làm cho tôi thấy thấm thía tình trạng chung của người Việt Nam:






“Không bao giờ đoàn kết mà chỉ muốn lật đổ và hạ nhau.”






Ngoài ra ban đại diện còn ăn cắp các bao gạo, loại một trăm ký để bán và đổi vàng rồi chia chác với nhau. Khi việc đổ bể ra thì có một phiên họp với nhân viên hội HTTQT, ban đại diện tuyên bố rằng họ sẽ xét xử và điều tra. Sau đó là huề. Người dân chỉ biết giận thì ào ào lên, sau đó vì ”cơm áo gạo tiền”, vì vật lộn với đời sống vất vả nên dần dần họ cũng quên đi.






Chỉ những khi đói khát, con người ta mới để lộ ra những bộ mặt xấu xa đê tiện. Vì có tin dời trại để qua trại mới nên ai nấy đều lo thủ, rồi dùng những mánh khóe vặt vãnh để tạo một cái vốn nhỏ. Nhưng họ có ngờ đâu những lần dời trại ấy chỉ là đổi trại từ đàng sau ra đàng trước, rồi ra bên hông, lại qua bên kia đường chứ chẳng đi đâu xa cả.






Khi ấy ở trại Non Chan lại sinh ra một nghề mới, đó là nghề buôn bán và trao đổi vàng. Những người trung gian buôn bán vàng là người Tàu. Họ móc nối với những người tị nạn vừa nhập trại mà cần tiền thì họ mua vàng của người mới tới rồi đem ra chợ bán. Họ có thể lời khoảng hai trăm bahts cho một chỉ vàng.






Thủ tục cân đo rất đơn giản. Họ chỉ cần ước lượng xem vàng ấy độ một chỉ, một chỉ hai hay một chỉ rưỡi. Như thế sự cân đo không thể chính xác được. Về sau, tôi cũng đi theo bọn người Tàu tị nạn này để buôn bán vàng. Do đó, cuộc sống của tôi cũng đỡ khổ hơn.






Có một lần dân Miên tị nạn ở quanh đó dọa sẽ đánh úp vào trại của dân tị nạn Việt để cướp tiền. Vì thế, mọi người không ai dám đi chợ cả. Từ đó, mỗi lần người tị nạn Việt đi chợ thì bị người dân Miên chỉ trỏ, chửi rủa, hăm he và dọa nạt cướp của.






Có một vài người biết tiếng Miên và thuật lại lời dân Miên dọa rằng:






”Tụi bây cứ ở đó đi, mai mốt tụi tao sẽ cướp hết cho mà coi!”






Còn người Việt Nam thì vì không biết nên cứ tỉnh bơ, mãi về sau mới biết sợ. Đêm 20 tháng 4 năm 1980, bọn lính Para đánh úp vào trại để cướp phụ nữ Việt đi hiếp dâm. Nhờ vậy mà hội HTTQT đã can thiệp cho chúng tôi di chuyển đến trại mới là trại NW 9. Xin xem tác phẩm Qua Cơn Bão Dữ của Kim Hà để biết rõ về trại NW 9.






Khi nghe được chuyển đến trại mới thì ai cũng phấn khởi, hồ hởi. Ai cũng nghĩ rằng trại NW9 là một trại tị nạn đàng hoàng. Lại thêm một lần di chuyển, không phải đi bộ mà đi bằng xe hơi. Ai cũng dệt mộng đẹp là được đi sâu vào lãnh thổ Thái Lan, chứ không phải dời gần sát nhau như những lần trước. Nhưng khi tới trại NW 9 thì ai cũng hoàn toàn thất vọng vì trại mới này chỉ là một nhúm lều vải xanh nằm rải rác trong rừng hoang biên giới.






Tôi xin ngừng ở đây, khi đến trại tị nạn Non Chan, tôi đã viết những lá thư tỉ mỉ và thật chi tiết để kể lại những nỗi khổ sở và gian truân trên đường đi vượt biên. Vì thế, bà con và bạn bè của tôi đã khuyên nhau không dám vượt biên bằng đường bộ nữa.”






1 2 3 4 5 6 7 8 9


No comments: