HỒI KÝ NHỮNG NGƯỜI TÙ CUỐI CÙNG CỦA PHẠM GIA ĐẠI - KỲ 1
1 2 3 4 5 6 7
Thiên Hồi Ký về "Những Người Tù Cuối Cùng" nhằm nói lên tinh thần bất khuất, sức chịu đựng phi thường cùng lòng dũng cảm và sự tương thân tương ái của những quân dân cán chính VNCH đã bị giam giữ, lưu đầy trong các trại gọi là "Tập Trung Cải Tạo" của Cộng Sản sau khi miền Nam sụp đổ vào ngày 30-4-1975.
Thiên Hồi Ký cũng để nêu lên những sự diệu kỳ và linh thiêng của Ơn Trên, của Trời Phật của Mẹ Việt Nam đã che chở cho những người tù....trong nhà tù CS.
Đọc xong thiên Hồi Ký này, chúng ta sẽ thấy những sự tuyên truyền xuyên tạc của Cộng sản nhắm vào chế độ VNCH đã từ từ tan rã như bọt nước; và những sự trả thù tàn bạo của Cộng Sản dành cho những người tù chế độ cũ đã không thành công như ý chúng muốn và thế cờ đã được lật ngược như thế nào.
Lời Tác Giả: Để kỷ niệm 35 năm ngày 30-4-1975 mất miền Nam vào tay Cộng Sản, hồi ký "Những Người Tù Cuối Cùng" sẽ được khởi đăng Phần I ngày hôm nay trên những diễn đàn thân hữu và gửi đến gia đình và bạn bè xa gần. - PHẠM GIA ĐẠI
Trời đã sẫm lại từ lúc nào, bóng tối đã bao phủ cả khu vực trại giam Z-30D Hàm Tân,Thuận Hải, tất cả đều yên tĩnh và chỉ còn nghe vẳng từ thật xa tiếng gió xào xạc qua những khu rừng lá.Bên phía các buồng giam tù hình sự im ắng lạ thường bởi vì hầu hết đều kéo lên hội trường để xem phim bộ và những ngọn đèn vàng không đủ chiếu sáng cái sân trại quá rộng.
Tôi ngồi trên chiếc ghế đá trước cửa buồng và nhìn lên bầu trời xanh thẳm không một gợn mây với những ngôi sao lung linh như muốn đem thêm chút ánh sáng xuống cho một vùng trái đất đang đi vào bóng đêm.
Chợt một ngôi sao đang đổi ngôi. Tôi nhớ có ai đó nói với tôi rằng nếu mình ước nguyện điều gì khi có một vì sao đang đổi ngôi thì sẽ được toại nguyện, nên vừa nhìn ngôi sao đó tôi vừa cầu nguyện cho tất cả các tù nhân chính trị chế độ cũ đang bị giam giữ ngay chính trên quê hương họ sẽ sớm được trả tự do.
Sau bữa cơm chiều, tôi đã ngồi đó một mình trên ghế đá.
Trong buồng, các bạn tôi đang đọc sách báo, nằm nghỉ trên giường, hay đang ngồi uống trà hàn huyên để chuẩn bị đi ngủ.
Phía bên phải căn buồng là một căn phòng được xây cao hơn với bực tam cấp và dành cho bốn ông Tướng còn lại là Lê Minh Đảo, Trần Bá Di, Lê Văn Thân và Đỗ Kế Giai.
Mỗi ông tướng đều có một nét riêng mà anh em chúng tôi đều kính mến như những người anh cả trong gia đình.
Anh Đảo thì văn nghệ, và là người hùng của trận Xuân Lộc nơi mà sư đoàn 18 bộ binh của ông dù súng đạn đã cạn nhưng tinh thần vẫn bất khuất và vẫn anh dũng chặn đứng và cầm chân bốn sư đoàn Bắc Việt trong tỉnh Long Khánh hơn hai tuần lễ và chúng đã không thể tiến thêm được một bước nào về Sàigòn như kế hoạch đã chỉ thị. Anh Di thì luôn tươi cười khi nói chuyện với anh em. Anh Thân thì hoà nhã, và anh Giai thì luôn thâm trầm nhưng lại rất cởi mở và rôm rả khi chúng tôi ghé lên mấy bậc tam cấp thăm các anh.
Tôi nghe thấy tiếng sáo du dương của ông Thân hòa với tiếng đàn ghi ta của ông Đảo vẳng xuống trong một bản nhạc mà ông Đảo đã sáng tác riêng để tặng cho Mẹ. Chợt tôi thấy lòng mình như lâng lâng theo tiếng đàn và tiếng sáo và một nỗi buồn man mác từ đâu đưa tới vì mới đó mà đã bốn năm rồi kể từ khi chuyển trại vào miền Nam và chúng tôi vẫn còn ở lại nơi đây.
Quả là thời gian thật vô tình và lạnh lùng như giòng suối ngày đêm róc rách không ngừng chảy qua khu rừng lá Buông này vậy.
Bây giờ là tháng Tư năm một chín chín hai và chúng tôi vỏn vẹn chỉ còn đúng hai mươi người trong đó có bốn tướng và mười sáu anh em từ cấp đại tá, trung tá, thiếu tá, trung úy, một anh hồi chánh viên, một thiếu úy trinh sát tỉnh (PRU), hai anh trong Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo (PĐUTƯTB) và một anh về từ tầu Việt Nam Thương Tín (VNTT).
Mỗi người đúng là một vẻ khác nhau nhưng thẩy đều có một điểm chung là đang đi trên quãng đường gian nan cuối cùng của một cuộc hành trình tưởng rằng sẽ không bao giờ tới đích.
Đây là những người tù cuối cùng đã bị bắt hay "tập trung cải tạo" từ sau khi mất miền Nam, những người đã cùng tôi đi suốt chặng đường dài lịch sử của mười bẩy năm "tập trung cải tạo" ròng rã. Một quãng thời gian mà không một ai dù là có một trí tưởng tượng phong phú đến cách mấy có thể hình dung được chiều dài của nó với bao nhiêu là biến động thăng trầm và sóng gió của một đời người trong trại giam Cộng Sản, nhất là ở một đất nước nghèo đói và lạc hậu nhất thế giới như tại Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngoài các vị tướng lãnh và đại tá, trung tá An Ninh Quân Đội (ANQĐ) hay các thiếu tá Cảnh Sát Đặc Biệt (CSĐB) là những người mang "nợ máu với nhân dân" như Cộng Sản vẫn tuyên truyền thì anh Hoà chỉ là thiếu úy trinh sát tỉnh (PRU) và anh Miên một hồi chánh viên hay anh Bửu Uy, một nhân viên PĐUTƯTB mà không hiểu vì sao cũng mang một lý lịch thật "nặng ký" mà Bộ Nội Vụ họ không muốn thả.
Cũng như anh Hiểu, người về từ tầu VNTT, chỉ vì nhớ vợ nhớ con mà đã nhất định bỏ bến bờ Tự Do mà mình vừa đặt chân tới để bước lên con tầu định mệnh mà trở về.
Nhưng than ôi khi tầu vừa vào hải phận Nha Trang thì các người trên tầu đều bị điệu ngay vào bờ và nhốt ngay vào trại giam không cần xét hỏi gì trước. Anh Hiểu thì bị kiên giam ngay trong điều kiện vô cùng ngặt nghèo bởi vì lý lịch anh là làm việc cho toà lãnh sự Mỹ tại Vùng II trước đó, cho nên họ nghi anh và các người trên tầu đều là gián điệp của Mỹ gửi về để đánh phá "Cách Mạng"?
Anh không những không về được căn nhà cũ để thăm vợ con để được nhìn mặt những người thân yêu một lần nữa mà cũng không ra khỏi khu biệt giam để rồi bất ngờ bị ném vào một cuộc hành trình kéo dài tới mười bẩy năm "tập trung cải tạo" tưởng như dài vô tận đầy những gian nan và uất hận.
Tổng kết một cách sơ lược thì thấy số tù nhân còn lại đều thuộc về những ngành dính dáng đến an ninh và tình báo như ANQĐ, CSĐB, và PĐUTƯTB, họ được xem như những nhân vật "nặng ký" nên được "chiếu cố" một cách kỹ lưỡng suốt mười bẩy năm, qua bao nhiêu là trại giam từ Nam ra Bắc và lại từ Bắc xuôi về Nam.
Nhưng nhìn những nét mặt bình thản có vẻ vô tư của họ và những nụ cười mà họ trao đổi với nhau, ít ai hiểu được bao nhiêu là gian truân hiểm nguy, nhọc nhằn, và tủi nhục mà họ đã phải đi qua trong suốt chiều dài của mười bẩy năm tù đầy và lao động khổ sai triền miên trên chính đất nước và quê hương của họ dưới mũi súng của quân thù nay là kẻ chiến thắng. Nhiều lúc nhìn lại chính tôi cũng không hiểu tại sao mà mình còn sống sót đến giờ phút này.
Phải chăng ông Trời phú cho con người một sức chịu đựng phi thường, một tiềm năng vô tận để đáp ứng lại mọi tình huống khó khăn nhất, căng thẳng nhất cả về tinh thần lẫn vật chất?
Phải chăng những lời cầu nguyện của chúng tôi hằng đêm đã động đến lòng thương xót của Trời Phật và Ơn Trên đã cứu giúp?
Có những tai nạn xẩy ra hầu như hàng ngày mà chúng tôi vẫn thoát khỏi trong đường tơ kẽ tóc bao nhiêu năm qua có phải đã có bàn tay mầu nhiệm nào che chở?
Tôi chợt nhớ tới một đoạn trong thông điệp gửi nhân dân Mỹ vào dịp Giáng Sinh vào khoảng năm một chín tám ba, Tổng Thống Ronald Reagan "đã đề cập đến tình hình thế giới, chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Nga Sô, và cuối bản thông điệp Tổng Thống có gửi lời thăm hỏi đến gia đình và những tù nhân chính trị tại Việt Nam; những con người trước kia đã hằng ngày đối mặt với quân thù ngoài chiến trường, và nay trong trại giam vẫn hằng ngày đối diện với kẻ thù, đang phải chịu những sự trả thù một cách tàn bạo và hy sinh trong lặng lẽ âm thầm, và Tổng Thống nhắn nhủ rằng ông và chính phủ Hoa Kỳ không bao giờ quên họ - những vị anh hùng".
Sau đợt thả Tết năm Nhâm Thân đầu năm một chín chín hai thì tổng số những người tù cuối cùng của Ba Sao chuyển vào Hàm Tân bốn năm trước từ một trăm năm mươi tư người bây giờ chỉ còn lại đúng hai mươi người. Hai mươi người này được tập trung hết vào đội 23 để tiếp tục lao động mỗi ngày, nhưng tình hình đã hoàn toàn đổi khác thuận lơị một cách bất ngờ. Chúng tôi chỉ đi ra hiện trường lao động cho có lệ chứ không còn phải lao động theo chỉ tiêu như trước.
Quân số đội 23 là hai mươi người, nhưng đúng ra phải kể cả con chó Pepsi rất là dễ thương của Hoàng Hiểu -người về từ VNTT- nữa là hai mươi mốt.
Con Pepsi này anh Hiểu đã xin khi nó mới sanh ra và nuôi nó lớn lên thành con vật được cưng chiều nhất của đội, được mọi người yêu thích và mỗi khi đội xuất trại lao động là nó chạy theo.
Anh đặt tên cho nó là Pepsi không biết có phải để nhớ lại vùng đất Tự Do mà anh vừa đặt chân đến nhưng đã chối bỏ nó rồi bước lên tầu VNTT để tìm về với vợ con và sa chân vào gông cùm xiềng xích?
Khi anh Hiểu vào rừng đi đốn củi cho đội thì con Pepsi cũng chạy theo, hay lẽo đẽo theo tôi ra chỗ lao động nằm trong bóng mát nhìn các ông chủ của nó cuốc đất hay trồng cây, hoặc theo anh Thắng, đầu bếp của đội nằm trong lán để chờ đến chiều trước khi về trại là được anh Hiểu, tôi hay anh Thắng tắm cho nó bên cạnh giòng suối. Những lúc nó được tôi sát sà bông và tắm rửa sạch sẽ xong thì thường nhìn tôi với cặp mắt biết ơn rồi lon ton theo đội vào trại.
Có lần nó chạy vào rừng sâu rỡn chơi cái gì không biết, khi về thì ôi thôi hôi hám chịu không nổi và tôi đã phải nhấn đầu nó xuống giòng suối một lúc rồi mới dám sát sà bông và cọ rửa cho nó. Bực quá, tôi phát cho nó mấy cái thật mạnh vào mông vậy mà nó biết lỗi và im lặng chịu đòn đuôi cúp xuống va không dám phản ứng gì.
Có những lần tôi được gọi ra khu thăm nuôi và trong khi đang ngồi nói chuyện với gia đình, tôi nghe thấy tiếng cào cào vào cánh cửa và cái đầu của con Pepsi ngó vào trong để cho tôi thấy là nó cũng có mặt như là một thành viên trong gia đình vậy, thật là dễ thương hết sức. Nó chờ cho đến khi tôi bước ra vuốt đầu nó khen ngoan thì mới vẫy đuôi chạy mất về đội.
Nhiều lúc tôi cũng không giải thích được, y như là nó nghe được tiếng người vậy nên khi thấy tôi chuẩn bị vô trại thì sau đó nó chạy theo và ra tận khu thăm nuôi để tìm tôi cho bằng được.
Trong thời gian tại trại Hàm Tân, một điều đặc biệt là buồng giam chúng tôi không có khoá cửa ban đêm, trong khi cứ sáu giờ chiều là khu bên trại hình sự cửa ngõ đều khoá trái. Chỉ có điều là đúng chín giờ tối thì có một cán binh bảo vệ đi tuần ngang qua và nhắc chúng tôi vào trong buồng không ở ngoài sân nữa và khép hờ cửa lại mà thôi. Điều này làm tôi nhớ lại khi mới bị tập trung vào "cải tạo" tại trại cô nhi Long Thành thì chung quanh chỉ có một hàng rào dựng lên với những tấm liếp bằng tôn đơn sơ mà thôi và các căn phòng thì không có cả cửa sổ và cửa ra vào nữa, không khóa cửa y như bây giờ, một chu kỳ đã khép kín lại chăng?
Một đặc biệt nữa của trại Hàm Tân này mà thiếu tá Nhu trưởng trại dành cho chúng tôi là tù nhân chính trị được mời đi xem các phim bộ mỗi đêm trên hội trường miễn phí trong khi hình sự nam và nữ phải mua vé. Đây cũng là một hình thức kinh doanh rất thành công của thiếu tá Nhu vì trong tù có gì mà giải trí đâu cho nên tối đến là hội trường đông nghẹt tù nam và tù nữ trong những bộ quần áo thời trang và cũng là dịp cho họ hò hẹn gập gỡ nhau.
Một nhóm chúng tôi thường hay đi cùng với nhau những buổi tối để xem những phim bộ nổi tiếng lúc bấy giờ như "Võ Tắc Thiên", "Thái Bình Công Chúa",v.v., và mỗi khi đến cổng hội trường thì các anh chị trật tự đều chào hỏi chúng tôi một cách trân trọng, và đứng qua một bên nhường đường cho chúng tôi vào và hai hàng ghế trên cùng là ưu tiên để trống dành cho các bác, các chú, các anh tù chính trị.
Nơi ăn ở của chúng tôi vì số lượng còn lại quá ít nên được dành cho hai buồng nhỏ nhưng sạch sẽ trong một góc trại, và có giường đơn riêng cho mỗi người chứ không còn phải nằm xếp lớp như cá mòi trước kia trên những phản gỗ hay xi măng; còn toàn khu trại rộng mênh mông là dành cho tù hình sự nam và nữ.
Trong thời gian này, chúng tôi có phần may mắn vì dù là ít người nhưng phía bên hình sự từ trật tự viên đến tù nhân nam nữ thẩy đều tỏ ra có thiện cảm với chúng tôi nên những năm tháng cuối cùng ở đây cũng dễ chịu và không có gì nguy hiểm. Một phần cũng do khi họ có cần gì thì anh em chúng tôi đều bảo nhau giúp đỡ cho họ về thuốc men hay thực phẩm khô khi gia đình họ chưa tới thăm kịp thời. Đây cũng là phẩm chất của người Quốc Gia trong con người tù nhân chính trị, cho nên khi đi đến đâu cũng đối xử với lòng hảo tâm và nhờ đó mà chiếm được nhân tâm mọi người, làm dịu đi sự căm thù của tuyên truyền chống lại họ hay chuyển thù thành bạn.
Thật là hoàn toàn trái ngược với thời gian khi mới chuyển trại từ Nam ra Bắc sau khi mất miền Nam, và phải ở chung với bên hình sự với sự đối xử như muốn nhận chúng tôi xuống bùn đen.
Ban ngày thì lao động và khẩu phần ăn thiếu thốn đã làm chúng tôi kiệt quệ về sức khoẻ, ban chiều về trại lại phải nghe những tiếng mắng chửi thậm tệ nào là "bán nước" nào là "Mỹ Ngụy",v.v., từ phiá các đội lao động hình sự mà tôi tin là có bàn tay khích động của các cán bộ của họ đằng sau lưng. Mục đích là làm cho chúng tôi thêm ê chề và là một hình thức trả thù cả về thể xác lẫn tinh thần đối với những người bại trận.
Nhìn lại bốn năm trước, khi chuyển trại từ Ba Sao Nam Hà về Hàm Tân Z-30D, miền Nam, chúng tôi chín mươi người tù cuối cùng tại miền Bắc được tập trung với những anh em còn lại trong Nam thành tổng số khoảng một trăm năm mươi tư người và chia ra thành hai đội để đi lao động.
Đội 23 gồm các tướng và các anh tuổi từ năm mươi lăm trở lên và được lao động nhẹ hơn, và phần còn lại dưới năm mươi lăm tuổi thì được "biên chế" về Đội 20 và lao động chỉ tiêu theo như bên hình sự. Được cái thuận lợi là khí hậu miền Nam dù ban ngày có nóng nực đi chăng nữa nhưng ban đêm thì rất dễ chịu chứ không nóng như nung người về đêm của mùa Hè hay giá lạnh căm căm của mùa Đông mưa phùn gió bấc của xứ Bắc nên sức khoẻ chúng tôi cũng dần dần khá lên. Gia đình cũng ở gần nên sự tiếp tế được thường xuyên hơn.
Nhưng sau mười ba năm lưu đầy từ Nam ra Bắc, không ngờ cuối cùng về Hàm Tân chúng tôi lại bị cưỡng bách lao động khổ sai trong khi tay trưởng trại công khai tuyên bố là các anh về đây để được ở gần gia đình và chờ ngày được thả về mà thôi.
Một hôm, có bão rớt ở miền Trung và vùng khu rừng lá Buông này thì chỉ mưa lất phất nhưng gió mạnh, và tụi tôi được lệnh "vô thung" tức là theo các đội hình sự vào sâu trong thung lũng để trồng cây đào lộn hột bấy giờ là mục tiêu sản xuất chính của trại.
Khi đi qua một khu rừng thưa, dù là vác trên vai cuốc xẻng mà chúng tôi vẫn cố lần từng bước một để bám chặt chân xuống đất vì gió thổi quét ngang rất nguy hiểm. Mãi mới di chuyển ra khỏi được vùng gió xoáy đó.
Không ai bảo ai chúng tôi đều quẳng các đồ nghề xuống bên đường và ngồi nghỉ, người vấn điếu thuốc, người nhấp ngụm nước trước cặp mắt ngạc nhiên của tay quản giáo và bảo vệ trong khi các đội hình sự khác vẫn từ từ qua mặt. Tay quản giáo kêu anh đội trưởng cho đội tiếp tục lên đường để vào khu sản xuất, anh đội trưởng nói là anh em đều đã mệt và phải nghỉ một chút rồi mới đi được. Thường thì bao giờ quản giáo ra lệnh thì đội mới được nghỉ ngơi, bây giờ tự dưng tất cả đội nghỉ ngang xương làm cho tay quản giáo vừa tức giận vừa ngạc nhiên. Y sợ trách nhiệm nên hối thúc mọi người đứng dậy.
Có lẽ tức nước vỡ bờ vì tuổi đời đều đã cao, sức khoẻ không còn mà vẫn bị cưỡng bách lao động theo các đội hình sự trẻ tuổi nên anh em mỗi người một câu để chống đối lại sự cưỡng bức lao động phi lý đó nên như ngọn sóng càng lúc càng lên cao dần và bùng nổ ra thành một cuộc biểu tình ngồi lần đầu tiên xẩy ra của đội 20 trước con mắt tròn xoe của tay quản giáo và đám cán bộ của các đội khác đang xúm lại chỉ chỏ.
-"Các ông phải biết rằng con vật mà dồn nó vào chân tường thì nó cũng phản ứng chứ đừng nói gì con người" .
-"Ông vào trong trại thông báo cho Ban biết rằng chúng tôi không thể lao động như thế này được nữa và tùy Ban quyết định."
Tay quản giáo đành phải bảo chúng tôi vào một căn nhà hoang bên đường để tạm nghỉ trong khi hắn đạp xe đạp vào trại để xin chỉ thị.
Đến nước này rồi thì không thể lui lại được nữa và anh em chúng tôi nhìn nhau và sẽ chấp nhận bất cứ hình phạt nào chứ nhất quyết không lao động ngày hôm đó.
Một giờ đồng hồ trôi qua không thấy gì, rồi một giờ nữa thì có tay thượng úy, phó trại và hai cán bộ đến nói chuyện. Sau khi nghe các anh em trong đội phân tích và phản đối cách lao động không hợp lý dành cho đội 20 thì tay thượng úy có lẽ đã được chỉ thị trước, đồng ý cho đội rút về trại.
Kể từ ngày hôm đó thì đội 20 sẽ chỉ lao động chung quanh trại mà thôi và không phải theo chỉ tiêu như bên hình sự nữa. Anh em chúng tôi thở ra nhẹ nhõm với chiến thắng bất ngờ đó và lục tục kéo về trại trước những cặp mắt ngạc nhiên của các tay cán bộ và cán binh bảo vệ vì nếu như bên hình sự mà chống đối như vậy thì cùm ít nhất hai tuần lễ, biệt giam và cắt thăm nuôi.
Trong bốn năm chúng tôi ở trại Hàm Tân, quy chế về thăm nuôi cũng được nới lỏng nên gia đình đến thăm có thể truyện trò thoải mái chứ không bị khó chịu vì sự hiện diện của tay cán bộ phụ trách như những năm mới được gia đình đến thăm tại các trại ở miền Bắc.
Tay trại trưởng thiếu tá Nhu cũng tỏ ra rất nể trọng các cấp chỉ huy của tù chính trị và thỉnh thoảng buổi tối lại mời mấy ông tướng tù chính trị ra nhà riêng để uống trà và thăm hỏi.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, vậy mà chúng tôi đã trải qua bốn năm rồi ở trại Hàm Tân, ngồi trên chiếc ghế đá hơi sương đêm bắt đầu thấm lạnh. Tôi đứng dậy bước vào buồng để lại một đêm nữa sắp qua đi. Cái lạnh làm cho tôi nhớ lại một đêm về sáng, một đêm mà suốt cuộc đời tôi không sao quên được.
Phần II: Cánh Cửa Địa Ngục
Chúng tôi ngồi đó trên dốc đồi thoai thoải nhìn xuống hướng xa lộ chạy về Sàigòn phía bên ngoài của một lớp hàng rào đan vào nhau bằng những tấm tôn mỏng chạy vòng chung quanh khu làng cô nhi Long Thành nay đã được biến thành trại tạm giam cho các tù "cải tạo" thuộc chế độ cũ .
Trời đã mát và bóng nắng đang lùi xa dần về hướng xa lộ, hơn ngàn anh em chúng tôi - những người đang bị tập trung tại cái cô nhi viện hoang vắng này đã một năm rồi - thường vẫn hay đi tản bộ quanh khu nhà hay ngồi bên dốc đồi mà mắt hướng về phía Sàigòn sau bữa cơm chiều. Có lẽ trong mỗi người, tuy không nói ra nhưng ai cũng tự hỏi bây giờ những người thân yêu của họ đang làm gì và có nhớ đến họ như họ đang thương nhớ đây không? Và cuộc sống của những người thân thương ấy bây giờ ra sao sau một năm dài không tin tức?
Tôi nhớ lại một năm trước, hôm xách ba lô và nhờ cậu em họ chở đến nơi tập trung là trường Chu Văn An trước đôi mắt mở to ngạc nhiên của hai đứa con lúc đó mới bốn và năm tuổi và chúng hỏi tôi rằng Bố đi đâu vậy và bao giờ thì Bố về? Tôi cố ngăn niềm xúc động đang dâng lên trong lòng và bảo cậu em họ nổ máy xe ra đi mà không dám ngoảnh nhìn lại và cũng không ngờ rằng tôi sẽ chẳng bao giờ còn trở về mái nhà đó nữa.
Ngày ra đi ấy theo như lời tuyên truyền của Uỷ Ban Quân Quản thành phố thì sẽ kéo dài một tháng, nhưng không ngờ thời gian đó đã thành như thiên thu bất tận nhằm nghiền nát cuộc đời của hàng trăm ngàn thanh niên miền Nam trong những trại giam mà được khoác cho chiếc áo lừa bịp cả trong nước và thế giới là "khoan hồng nhân đạo" và "tập trung cải tạo".
Khi bước chân vào ngôi trường Chu Văn An năm xưa, lòng tôi không khỏi bồi hồi nhìn lại ngôi trường thân yêu mà đúng mười năm trước tôi đã thi đậu Tú Tài II để rồi trôi vào giòng đời. Mười năm rồi, thời gian đủ để cho vật đổi sao dời nhưng sao ngôi trường vẫn những hình nét ấy không đổi thay.
Một người dáng thư sinh vừa đi ngang qua chỗ tôi ngồi ngoài hành lang, đúng là ông thầy trẻ tuổi dậy Anh văn chúng tôi năm Đệ Tam. Vẫn cái dáng thư sinh và gọng kính trắng ấy, nhưng hình như thầy gầy ốm đi nhiều và tâm trí thì để nơi đâu nên cứ lầm lũi bước đi qua đám người trong đó có tôi, đang nằm ngồi ngổn ngang bên trong và ngoài các lớp học, những con người với một tương lai vô định.
Sau khi chiếm được miền Nam, với cái chiến thắng quá nhanh và hầu như bất chiến tự nhiên thành đó, Cộng quân quá ngỡ ngàng nên có nhiều thành phố bỏ ngỏ cả tuần lễ sau Cộng quân mới dám lò dò đến để "tiếp thu" vì vẫn còn e ngại là người Mỹ chưa thực tâm bỏ rơi miền Nam hay dụ họ vào thành phố bỏ hoang để tiêu diệt như một số cán binh họ nói lại sau này.
Ủy Ban Quân Quản với sự chỉ đạo của miền Bắc đã tuyên truyền ầm ĩ trong nước và trên thế giới về cái gọi là chính sách "khoan hồng nhân đạo" và cho hàng triệu người đã cộng tác với chế độ cũ "được đi học tập cải tạo" ba ngày tại địa phương cho sơ cấp và mười ngày hay một tháng cho trung và cao cấp.
Tôi được thông báo là chuẩn bị đi một tháng và tập trung tại trường Chu Văn An. Ngồi nhìn chung quanh, tôi chưa gập một khuôn mặt thân quen nào, có thể vì quá đông. Tôi bèn nằm dài ra dựa vào ba lô tìm giấc ngủ. Khoảng nửa đêm thì nghe tiếng của một đoàn xe căm nhông Nga Sô loại Motorola chạy vào khuôn viên của trường và chúng tôi được đánh thức dậy để lên hết trên xe, rồi đoàn xe di chuyển dọc theo xa lộ và thẩy chúng tôi xuống làng cô nhi Long Thành này.
Lúc đó cô nhi viện này chỉ còn là những cái xác nhà trống tuyếch không cửa sổ lẫn cửa ra vào và nằm thành hai dẫy.
Ngày thứ hai mươi chín tại trại Long Thành, anh Thúy thuộc Phủ Đặc Ủy TƯTB nằm đối diện, nhìn tôi nheo mắt lại ý nói rằng thời hạn một tháng như họ tuyên bố đã chấm dứt. Anh Lộc, Quyền Đặc Ủy Trưởng thì hỏi tôi nghĩ ra sao và khi tôi chưa kịp trả lời thì anh đã nhìn tôi một cách rất bi quan và nói là anh không tin họ sẽ thả chúng ta ra đúng một tháng như họ đã tuyên truyền.
Ngày hôm sau đúng một tháng tròn đi "cải tạo", tất cả đều yên tịnh không có một dấu hiệu gì khác lạ và y như một ngày thường; cho đến buổi chiều thì đột nhiên có một nhóm cán bộ mặc quần áo đồng phục xanh theo kiểu "giải phóng", đội mũ tai bèo và vài tên chỉ huy Bắc Việt vào trại và ra lệnh cho chúng tôi tập hợp lại hết trong một căn nhà trống.
Có một anh Bảy nào đó đứng ra nói chuyện về chính sách "khoan hồng nhân đạo" và về những "tội" mà chúng tôi đã làm trước kia "chống lại nhân dân". Cuối cùng anh nói một câu thật là ngắn gọn và thật là giản dị rằng thời hạn một tháng đã chấm dứt và chúng tôi không phải đóng tiền gạo hàng tháng nữa mà từ nay Đảng và Nhà Nước sẽ nuôi các anh "học tập" cho tốt để trở thành "người dân lương thiện" hầu hội nhập với xã hội sau này, và hỏi xem ai có thắc mắc gì không.
Khi anh vừa dứt tiếng, cả căn nhà dùng làm hội trường chợt im lặng, một cái im lặng chết chóc khác thường đang bao phủ tất cả chúng tôi và không ai bảo ai mọi người đều lặng lẽ trở về chỗ nằm.
Đêm ấy, tôi không tài nào chợp mắt được, đêm Long Thành thật là mát mẻ, trên trời ánh sáng lung linh mờ ảo và nhạt nhòa của Mặt Trăng thượng tuần tỏa xuống thật yếu ớt không đủ đem xuống một chút tin yêu nào cho những con người đang sa cơ thất thế trong tay địch. Tôi ra ngoài hàng hiên ngồi tựa vào tường và nhìn ra xa lộ lúc đó đã tím thẫm và lâu lắm mới thấy một chiếc xe chạy vụt qua như nó cũng sợ bóng đêm vậy.
Một lát sau, tôi thấy lục tục một số bạn cũng ra hàng hiên ngồi hút thuốc và tâm sự với nhau. Một anh bạn đốc sự Phó Quận nói nhỏ với tôi:"Họ chỉ cần giam giữ chúng ta như thế này thôi thì buồn chán quá chúng ta từ từ cũng chết."
Không biết đó có phải là điềm báo trước hay không vì sau đó không những thời gian giam cầm không còn hạn định nữa mà họ cũng chẳng cho chúng tôi ngồi không để buồn chán đến chết, mà chiến dịch "Lao Động là Vinh Quang" còn làm cho chúng tôi dần dần kiệt sức trong tình trạng sống dở chết dở.
Buổi tối hôm đó, lần đầu tiên tôi hút hết bao thuốc Basto xanh với anh bạn bên cạnh và nằm thao thức mãi chờ trời sáng.
Chúng tôi bắt đầu làm quen với lao động tay chân như trồng khoai, sắn, rau muống, lên luống và thời gian từ từ trôi qua cho đến đúng sáu tháng thì có một đợt thả lớn và hầu hết các chị và các anh em tương đối "nhẹ tội" hơn đã được kêu tên ra về và tổng số hơn ba ngàn người chỉ còn lại hơn một ngàn và được "biên chế" về hết bên dãy trái, còn dãy bên phải thì bỏ trống.
Sau đó thì họ sàng lọc lại và "biên chế" chúng tôi vài lần nữa và tôi được đưa về căn nhà số sáu cùng với một anh Sửu, bạn cùng ngành nhưng khác sở và một số sĩ quan cấp tá của ngành đặc biệt, một số thuộc ngành an ninh và Phủ Đặc Ủy.
Sống trong trại Long Thành được một năm thì một đêm, một đêm cũng bình thường như những đêm khác, nhưng tôi không bao giờ quên được cái đêm tăm tối ấy.
Buổi tối hôm đó, đang nằm ngủ thì tự dưng có linh tính gì khiến tôi thức dậy, đồng hồ mới chỉ một giờ sáng, tôi tung cái mùng ra và bước ra ngoài hiên nhìn ra sân.
Cả khu trại yên lặng như tờ và đen như mực không một ánh sáng gì của trăng sao, chỉ thỉnh thoảng mới thấy vài cán binh mũ tai bèo và bộ đội Bắc Việt vác súng đi tuần ngoài sân ra hiệu cho tôi trở vào căn nhà.
Vừa quay mình định bước chân vào thì tôi chợt thấy lấp loáng ánh đèn pin từ phía cổng trại chiếu vào về phía tôi đang đứng và tiếng người nói lao xao và chỉ một phút sau thì khoảng vài chục bộ đội đa số là Bắc Việt và súng AK lăm lăm trong tay di chuyển thẳng về căn nhà tôi đang ở.
Tôi vội chui lại vào trong mùng và huých tay đánh thức hai thằng bạn hai bên thức dậy. Vừa lúc đó thì đám bộ đội đó xộc vào căn phòng và ra lệnh cho chúng tôi ra tập hợp ngoài sân.
Tôi cảm thấy một thoáng hơi lạnh chạy dọc theo xương sống rồi bình tĩnh trở lại nhưng mấy anh bạn khác thì không biết có phải vì sương đêm đang đổ xuống thấm lạnh nên tay châm điếu thuốc mãi mà không cháy.
Chúng tôi nhìn nhau lần nữa và trong đầu nghĩ rằng thế là xong và mỗi người sẽ lãnh một viên đạn trả nợ cuộc đời - cái giá cho kẻ thua trận.
Căn nhà chúng tôi đang ở gồm hai trăm người và sắp hàng trước sân, toán bộ đội khoảng bốn chục người chia ra bao vây chúng tôi rồi một tay chỉ huy rút một tờ giấy trong túi ra nói rằng những ai có tên thì đứng qua một bên.
Anh ta còn trẻ và không đeo "quân hàm" nên không rõ cấp bậc gì. Rất thản nhiên và cũng rất là từ từ anh ta đọc tên từng người một, đến người thứ tư là họ tên của tôi trong tổng số tất cả bốn mươi người đã được sàng lọc trong danh sách hai trăm người.
Tay chỉ huy này với cặp mắt lạnh lùng bảo chúng tôi bốn mươi người hãy gấp rút chuẩn bị để di chuyển với hành lý gọn nhẹ, trong khi các tay cán binh thì lăm lăm tay súng như chực nhả đạn và mắt thì nhìn chúng tôi một cách thù hận.
Tôi vội vã nhét được những gì có thể vào trong một cái ba lô và ra dấu cho các bạn còn ở lại những món đồ mà tôi không đem đi được để họ tiếp tục có cái mà dùng, rồi quay ra giúp cho anh bạn cùng ngành với tôi xách theo cái thùng đựng nước. Tôi cũng không rõ anh đem theo cái thùng này để làm gì trong khi có nhiều thứ khác cần mang theo hơn, hay có lẽ thấy cái gì trong tầm tay thì anh xách theo vì đầu óc cũng đang bối rối chăng.
Ngoài sân, trời thì tối đen và chúng tôi chỉ có thể phân biệt được là đang di chuyển về phiá cổng trại nhờ ánh đèn đường yếu ớt chiếu xuống và ánh đèn pin loang loáng của các cán binh đi theo áp tải.
Anh bạn đang đi bên cạnh tôi chợt thở dốc có lẽ vì cơn suyễn và buông cái túi xách xuống dừng lại để thở, một tên cán binh bước lại giơ báng súng lên thúc dục, tôi vội giơ tay ra cản và xách dùm cái túi và đi kèm sát bên anh.
Cuối cùng thì chúng tôi cũng ra đến chỗ đậu xe cách đó gần nữa cây số. Tên chỉ huy lúc nãy ra khẩu lệnh cho chúng tôi khi đoàn xe di chuyển, nhắc lại từng điểm chúng tôi không được làm khi ngồi trên xe, và nói sẽ trừng trị nếu ai vi phạm, và lần đầu tiên trong đời tôi biết cái còng số tám và sợi xích sắt. Vì số còng đã hết nên họ đã dùng những sợi dây xích bằng sắt để xích hai người lại với nhau. Tay trái tôi xích vào tay phải của anh Sửu và tên cán binh siết lại thật chặt rồi mới tra ổ khoá vào. Cổ tay anh Sửu lớn hơn cổ tay tôi nên tôi nhìn rõ nét đau đớn hiện lên trên khuôn mặt sạm nắng của anh.
Anh cũng làm cho toà đại sứ Hoa Kỳ (HK) tại Sàigòn như tôi, anh thì yểm trợ cho Tổng Nha Cảnh Sát Đô Thành còn tôi thì cho Phủ Tổng Thống. Anh đã đi theo bao nhiêu là chuyến bay trong tháng Tư năm một chín bẩy lăm từ Sàigòn ra Guam và vài căn cứ nữa của Mỹ trên Thái Bình Dương (TBD) để chuyên chở tài liệu và nhân viên không thiết yếu di tản trước.
Các nhân viên sứ quán Mỹ cần thiết thì đã nhận được lệnh là phải ở lại yểm trợ cho chính phủ VNCH cho đến giờ phút cuối cùng rồi mới được di tản sau. Không ngờ chuyến cuối cùng thì anh bị kẹt lại Sàigòn vì chương trình di tản bằng đường hàng không từ Tân Sơn Nhất đã bị đình chỉ vì tên phi công nằm vùng Nguyễn Thành Trung đã lợi dụng tình hình để bỏ bom vào sân bay Tân Sơn Nhất; và chỉ còn con đường độc nhất di tản là bằng trực thăng mà thôi.
Riêng tôi thì ba ngày trước khi Sàigòn sụp đổ đã được các cố vấn Mỹ thân cận trong buổi họp sau chót tại sứ quán Hoa Kỳ hứa hẹn là tôi vẫn nên hết sức yểm trợ phía chính phủ VNCH đến cùng, và họ sẽ đem trực thăng đến đón gia đình tôi tại nhà dù là trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng.
Kế hoạch di tản thứ nhì là năm ngàn thủy quân lục chiến Mỹ (TQLC) từ Đệ Thất Hạm Đội ngoài khơi TBD sẽ vào để thiết lập một vòng đai an toàn từ Sàigòn ra tới Vũng Tầu cho chương trình di tản bằng đường bộ được tiếp tục nếu đường hàng không bị trở ngại.
Khi buổi họp kết thúc, mọi người đều tin tưởng rằng chương trình di tản sẽ được thực thi hoàn hảo và những nhân viên thiết yếu của sứ quán HK cũng sẽ được ra đi chu toàn trước khi Sàigòn rơi vào tay quân Bắc Việt.
Chiếc trực thăng hứa hẹn đón gia đình tôi ấy không bao giờ xuất hiện và vòng đai an toàn Sàigòn-Vũng Tầu của TQLC Mỹ đó cũng trôi theo giòng nước như những lời hứa cam kết không bao giờ bỏ miền Nam của chính phủ và các Tổng Thống HK.
Thế rồi chúng tôi leo lên những xe cam nhông bít bùng, chỉ hở phía sau, chạy bon bon trên xa lộ, thỉnh thoảng mới thấy dọc hai bên có một vài hàng quán ven đường đang chuẩn bị mở cửa cho một ngày buôn bán mới, với những ngọn đèn dầu hiu hắt. Thành phố hình như đang say ngủ, còn tất cả chỉ là bóng đêm và gió thổi xào xạc trên những ngọn cây.
Khoảng một giờ đồng hồ sau khi xe chạy trên xa lộ và rẽ quặt vào qua ba cánh cửa sắt đến trong sân thì chúng tôi nhận ra đang ở trong trại Cải Huấn Thủ Đức.
Khi bốn chục người được dồn chung vào một căn phòng xong thì cánh cửa sắt to lớn nặng nề đóng sầm lại và khoá trái bên ngoài.
Một năm ở trại Long Thành, họ đã để cửa ngỏ, bây giờ lần đầu tiên họ chính thức đối xử với chúng tôi như những tù nhân.
Sau ba ngày giam giữ tại trại Thủ Đức, đêm ngày thứ ba nghe thấy tiếng lách cách mở khoá, chúng tôi ngồi dậy và được lệnh nhanh gọn tập trung di chuyển nữa.
Ra đến sân trại thì thấy chai lọ và các vật dụng cá nhân linh tinh vất đầy sân bừa bãi, như vậy là đã có những toán khác vừa ra đi xong.
Hai chiếc xe âm thầm chạy trong đêm hướng về thành phố, tim tôi tự dưng đập mạnh hơn khi nghĩ đến những người thân yêu chắc giờ này đang say ngủ nhưng rồi hai chiếc cam nhông không đi vào thành phố mà lại rẽ vào phi trường và đổ đám tù nhân xuống bên cạnh chiếc máy bay vận tải khổng lồ Hercules C-130 của HK để lại cho Không Quân VNCH,
Ngồi trên chiếc C-130 với phi công là một trung tá cũ của không quân VNCH lòng tôi ngổn ngang trăm mối vì chỉ mới mấy ngày qua mà bao nhiêu là biến đổi và không biết tương lai mình và các bạn mình sẽ đi về đâu?
Chiếc C-130 này là loại máy bay mà tôi sử dụng nhiều nhất trước kia khi còn làm việc cho Đệ Thất Không Đoàn Hoa Kỳ trong những chuyến bay ra miền Trung nhưng không ngờ bây giờ tôi lại ngồi trên chiếc ghế vải này trong thân phận tù tội, cuộc đời quả thật không ai học được chữ ngờ. Sau này tôi được tin là viên trung tá phi công VNCH chở tụi tôi chuyến đó và một vài chuyến nữa xong cũng được Đảng và Nhà Nước Cộng Sản chiếu cố "khoan hồng" cho đi "cải tạo". Họ chỉ sử dụng một số nhân tài của miền Nam tạm thời xong là cho đi luôn nếu có dính dáng gì đến chế độ cũ.
Một thời gian sau, tôi còn nghe được tin là đám "Mặt Trận Giải Phóng miền Nam" cũng được Hà Nội cho đi chỗ khác chơi, và "Thành Đồng" đã trở thành "đồng nát" hết.
Chiếc C-130 cứ bay lặng lẽ hết giờ này qua giờ khác, chúng tôi nhìn nhau tự hỏi hay là họ cho phi cơ bay vòng vòng sợ chúng tôi đoán biết được nơi sẽ đến? Có anh em đoán rằng họ sẽ đem tù ra Phú Quốc để giam giữ tại đó nhưng sau khi bay được khoảng gần bốn tiếng đồng hồ thì tay cán bộ ngồi cạnh tôi, tóc bạc, không đeo cấp bậc quay sang hỏi tôi là đã đi trên chiếc C-130 này lần nào chưa và có biết đi đâu không. Khi ông ta hỏi lần thứ nhì thì tôi mới trả lời là đã nhiều lần rồi và không biết. Khi ông ta nói nơi máy bay đang đáp xuống thì tất cả các anh em ngồi gần nghe được thẩy đều bàng hoàng.
Chiếc Hercules khổng lồ đang lượn cánh để đáp xuống phi trường Gia Lâm, miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Chúng tôi cũng như hàng vài chục ngàn người tù chính trị khác đã được phân loại "nguy hiểm cho chế độ" và phải được di chuyển ngay bằng mọi phương tiện từ Nam ra Bắc. Bứng chúng tôi khỏi mọi gốc rễ miền Nam để họ rảnh tay đưa miền Nam mau chóng vào quỹ đạo của xã hội chủ nghĩa.
Lúc đó trời đã rạng sáng và vào cuối mùa Hè, chúng tôi đặt chân xuống đất bên cạnh những túi xách hay ba lô cá nhân, hai người một vẫn bị còng lại với nhau suốt chặng đường từ trại Cải Huấn Thủ Đức ra sân bay và trên máy bay.
Nhìn sân bay Gia Lâm, một sân bay được coi là lớn vào hàng thứ nhì tại miền Bắc mà hoang tàn và hoang phế như một sân cỏ với những đám cỏ tranh và bông lau cao đến nửa người mà không ai buồn ngó ngàng tới, tôi như có một linh cảm không lành về đợt chuyển trại này. So với sự nhộn nhịp của phi trường Tân Sơn Nhất thì sân bay Gia Lâm này là vùng đất chết. Tôi như cảm nhận được cái gì thật lạnh lẽo u ám không sinh khí khi vừa đặt chân xuống sân bay và miền đất hoang dã này.
Qủa thật chỉ trong một đêm, không ngờ chúng tôi đã giã từ miền Nam thân yêu để đặt chân lên miền Bắc xã hội chủ nghĩa hoàn toàn xa lạ như đến một đất nước khác không phải trên quê hương mình.Trên bước đường lưu đầy, tôi cũng không thể nào ngờ rằng bao nhiêu những gì tăm tối nhất, đọa đầy nhất, ngục tù nhất trên thế gian đang chờ đón tôi và các người tù này trong suốt mười hai năm trời ròng rã.
Nếu lúc đó họ ban cho mỗi người chúng tôi một phát súng thì họ còn một chút nhân đạo nhưng mười hai năm lao động khổ sai lưu đầy trong tình trạng thiếu ăn thiếu mặc và suy dinh dưỡng, qua những mùa Hè nắng chói chang kiệt sức ban ngày và oi bức mất ngủ ban đêm và những mùa Đông dài âm u lạnh thấu xương tủy thì chúng tôi chợt hiểu rằng họ không muốn cho chúng tôi chết đi dễ dàng.
Chính sách "khoan hồng nhân đạo" đó làm chúng tôi sống dở mà chết đi cũng không được bởi vì họ đã áp dụng đúng mức cái phương pháp "cải tạo" của Nga Sô và Trung Cộng trong các trại tập trung. Họ đã tìm ra cách trả thù thâm độc nhất là để cho chúng tôi sống nhưng chết đi từng giờ, từng ngày, từng tháng, và từng năm.
Chúng tôi đã vừa bước chân vào chốn Địa Ngục trần gian, nơi không có ngày tháng, nơi hoang vắng tình người, nơi mà sự sống và cái chết luôn kề cận bên nhau như bóng với hình, và nơi mà tính mạng con người không hơn cọng rơm và cỏ rác.
Cánh cửa của Địa Ngục vừa mở rộng ra để đón nhận chúng tôi vào.
Phần III: Hạnh Phúc Mong Manh
Anh ngồi bên những luống cải, rau muống và mấy cái dàn mướp, bí bầu và khổ qua, nghỉ một lát để chờ giờ nhập trại với các bạn trong đội 23. Các bạn anh hầu hết ai cũng tìm một mảnh đất nhỏ nào để canh tác riêng cho mình, nhờ thế mà vừa có được rau tươi sạch sẽ cho bữa cơm lại vừa giữ được sức khoẻ.
Anh là một trong 20 người tù chính trị của chế độ cũ còn sót lại sau bao nhiêu là đợt thả ở trại Hàm Tân Z-30D này. Vì số lượng còn lại quá ít nên trại đã hầu như để cho anh và các bạn được thoải mái lao động tự giác chứ không còn chế độ giao chỉ tiêu nữa, nên nhờ Trời cũng dễ thở hơn.
Bầu trời chiều nay một mầu xanh thẳm và trong vắt không gợn một áng mây. Anh nhìn ra chung quanh toàn là những cây Buông lớn nhỏ bao quanh khu vực sản xuất và những con suối róc rách chẩy qua gần đó, một vùng mà ngày trước là khu rừng thiêng nước độc ít ai dám ở, sau nhờ vào các người tù hình sự về đây đầu tiên rồi đến những tù chính trị về khai phá và đã làm cho khu vực này trở thành thuần hóa hơn và phát triển mạnh và đem lại sự sung túc cho trại từ dạo ấy.
Nhìn lại mình, anh vẫn không thể tượng tượng rằng mình vẫn còn sống, thật như là một phép lạ. Tay anh rờ một bẹ cải xanh đang vươn ra chắc nịch, nâng trái bí đã quá nặng lên trên dàn, để cảm nhận đích thực rằng mình vẫn còn hiện hữu trong một cuộc sống quá lênh đênh trên cõi đời này. Nhiều lúc anh cho rằng mình đã sinh ra dưới một ngôi sao xấu để tự an ủi mình mà thôi nhưng dầu sao thì mình vẫn còn đây dù là những người thân yêu nhất của anh thì bây giờ đã xa cách nghìn trùng.
Hạnh phúc nhỏ nhoi nhất của anh là những khi được thư từ hay những món quà nho nhỏ từ nửa bên kia vòng trái đất gửi về, dù là anh biết đêm hôm đó mình sẽ không thể nào đi tìm được giấc ngủ. Ban đêm, ngồi một mình trên chiếc giường đơn trong cái mùng vải trong khi đọc kinh và khấn nguyện trước khi đi ngủ, anh có lần thầm trách ông Trời bất công, tại sao vừa cho anh một chút hạnh phúc nhỏ nhoi thì đã lấy lại của anh một giấc ngủ? Tuy vậy, anh vẫn thầm nghĩ rằng số phận cuối cùng đã mỉm cười với anh bởi vì anh vẫn còn sống.
Những buổi chiều êm đềm như buổi chiều hôm nay với tiếng gió thì thào thổi qua rừng lá Buông, tiếng chim hót líu lo như gọi nhau bay về tổ ấm của chúng vì màn đêm sắp buông xuống, thì tâm hồn anh thật nhẹ nhàng và thấy như lòng mình lắng đọng và những cảnh vật chung quanh như mờ dần đi và cái con tầu ấy như từ từ hiện rõ dần ra như một cơn ác mộng mà anh không thể nào quên được...
Cuộc đời anh quả thật như một cuốn tiểu thuyết đầy những yếu tố bất ngờ kể từ khi anh và hàng ngàn người Việt Nam đã quyết định trở về quê hương trên con tầu Việt Nam Thương Tín (VNTT) định mệnh đó.
Chuyến trở về trên con tầu định mệnh mà đã vùi dập cuộc đời của hàng ngàn người chỉ vì lòng thương nhớ gia đình, thương nhớ quê hương của họ.
Khi miền Nam đang chìm trong khói lửa của biến cố 30 tháng Tư tang tóc thì anh may mắn đi thoát được đến đảo Guam, bến bờ của Tự Do - niềm ao ước vô biên của hàng bao nhiêu triệu người Việt Nam vào ngày mà Sàigòn sụp đổ và những năm tháng sau đó.
Vậy mà anh đã quyết định trở về sau một thời gian ngắn đến được đảo Tự Do này bởi vì vợ con anh đều bị kẹt ở lại Sàigòn.
Hình ảnh người vợ hiền và những đứa con dại còn ở lại quê nhà cứ ám ảnh tâm trí anh dù là anh đang được sống trong bầu không khí Tự Do và tạm đầy đủ về vật chất trên đảo này.
Trách nhiệm người chồng, người cha trong hoàn cảnh loạn ly đã không quay về kịp để đón vợ con mình và đành phải ra đi ngậm ngùi một mình đã làm cho anh bao đêm thao thức và đó cũng là tâm trạng của những người quyết định lên tầu VNTT để trở về quê hương.
Nhưng có một điều họ quên rằng quê hương của họ nay đã đổi thay, căn nhà xưa nay đã đổi chủ.
Khi những người trong đoàn bước qua cái cổng sau cùng để lên chiếc tầu VNTT thì những người Mỹ trong chương trình định cư đã hết lời khuyên can họ nên quay lại vẫn còn kịp bởi vì về tới Việt Nam (VN), họ sẽ bị giam giữ và tù đầy; nhưng lòng thôi thúc vì thương nhớ vợ con gia đình và quê hương đã thắng.
Anh cũng như họ bỏ ngoài tai những lời cảnh cáo của giới chức Hoa Kỳ và bước lên con tầu định mệnh.
Khi con tầu nhổ neo quay mũi hướng về hải phận VN thì họ không thấy đâu cái anh chàng mà tranh đấu hăng nhất thậm chí còn đốt phá một số căn lều trên đảo để đòi về VN mọi giá cho bằng được đâu nữa. Lúc ấy mọi người mới lờ mờ hiểu ra rằng anh ta là một Việt Cộng (VC) nằm vùng thì cũng đã quá trễ rồi.
Hoá ra là VC trong kế hoạch hậu chiến của chúng đã cài người vào giòng người di tản qua Mỹ để tiếp tục phá hoại trong cộng đồng chúng ta tại hải ngoại.
Con tầu vẫn lặng lẽ rẽ sóng và khi người tài công báo cho biết là sắp vào hải phận Nha Trang thì mọi người đều reo hò mừng rỡ vì người Quốc Gia chúng ta ai lại không nặng lòng vì gia đình vợ con và vì quê hương đất nước?
Nhưng niềm vui đó không kéo dài được bao lâu thì được lệnh từ trong bờ đánh ra là tầu phải bỏ neo ngoài khơi và không được tiến gần sát vào bãi biển khi chưa có lệnh làm mọi người đều thắc mắc.
Họ phải chờ đến gần tối thì mới thấy ba con tầu nhỏ có võ trang và bộ đội trên đó ra đón và đưa hết họ vào bờ để con thuyền VNTT lẻ loi nằm lại cho sóng vỗ rì rào ngoài khơi.
Lúc đó họ mới cảm thấy một cái gì nguy hiểm đang rình rập chung quanh nhưng đã quá muộn màng vì một màn lưới giăng ra đã phủ chụp xuống đầu họ bất ngờ, tóm gọn hết toàn bộ những người trở về trên con tầu VNTT. Một lực lượng vũ trang hùng hậu và một đoàn xe vận tải đã chờ sẵn để chào đón họ trên bãi biển.
Tất cả đều bị tống giam theo lệnh từ trên đưa xuống trong sự ngỡ ngàng đến cùng cực của mọi người và những lời phân bua giải thích như tiếng kêu trong sa mạc.
Một vài ngày sau thì những đàn bà và con nít được thả ra cho về trước, còn các thanh niên và đàn ông đều phải trải qua cuộc thẩm tra ngày đêm vì họ nghi ngờ rằng tình báo Mỹ đưa người về lại VN để đánh phá "cách mạng". Anh đúng là từ trên Thiên Đường phút chốc rơi xuống Hỏa Ngục trên đất nước của mình.
Anh đã bị họ khám xét không còn một chỗ nào trên người thoát khỏi cặp mắt cú vọ của mấy tên công an và phản gián. Những lời khai của anh là vì nhớ vợ con mà quay về không được họ chấp nhận và những cuộc hỏi cung như liên tu bất tận làm cho anh kiệt sức.
Họ khám xét từng centimét trên con người của anh từ cọng tóc đến ngón chân, thậm chí soi cả vào cổ họng, hốc mũi, hai vành tai cho đến cả hậu môn làm cho anh cảm thấy mình không còn là con người nữa trong tay của họ. Những tháng ngày giam giữ sau khi tầu về đến VN là những ngày tháng kinh hoàng cho anh và những người trở về.
Họ xem xét kỹ từng tờ giấy, chiếc bút bi, áo quần, giầy vớ, và tịch thu hết vòng vàng, đồng hồ và dĩ nhiên tất cả đô la mà anh đem về.
Một số nhỏ sau đó được thả về, còn đa số bị chuyển đến trại giam khác và bắt đầu một cuộc hành trình đến một nơi vô định với một bản án không công bố và không có thời hạn vì chủ trương của họ là thà giam lầm hơn thả lầm.
Anh còn bị chiếu cố kỹ hơn nữa vì trước năm 1975, anh là nhân viên của tổng lãnh sự Mỹ tại Nha Trang nên họ kết luận ngay là điệp viên Hoa Kỳ và không cần xét xử gì lâu la hơn.
Giấc mơ được về sum họp với gia đình được nhìn thấy vợ con của anh tan ra như bọt sóng đại dương một cách thật không thể nào hình dung ra nổi với cái chế độ mới kỳ quái này trên cái quê hương này nữa.
Anh không những không được nhìn thấy vợ con mình, gia đình anh cũng không hề được thông báo là anh đã trở về để đến thăm anh mà thân anh tự dưng sa vào vòng tù tội không biết lúc nào ra.
Cuộc đời anh từ đó gian nan và phiêu lưu còn hơn câu chuyện người tù khổ sai Papillon anh từng đọc khi trước.
Sau nhiều năm qua nhiều trại giam và ra lưu đầy tại miền Bắc thì anh mới bắt đầu nhận được tin gia đình như một cái sét đánh ngang tai vì vợ con anh quá nhớ thương anh và không chịu nổi đời sống kìm kẹp và tàn bạo của chế độ Cộng Sản nên đã lên đường vượt biển. Anh từ bên kia bờ đại dương theo tầu trở về, không gập được những người thân yêu, rơi vào tù tội trong khi vợ con anh lại nghĩ rằng anh đang trên đất Tự Do và lao ra biển để tìm đường sum họp. Ông Trời quả thật là quá trớ trêu để cho con Tạo xoay vần như không.
Bao nhiêu năm sau đó anh sống như người mất hồn trong một thân xác trống rỗng cho đến khi qua những gia đình bạn anh đến thăm nuôi thì anh được tin là vợ con anh đã đến được bến bờ Tự Do bình yên, lúc đó anh bắt đầu bình tĩnh trở lại và cố gắng sống còn để mong còn có ngày đoàn tụ.
Những ngày tháng đầu tiên trong phòng biệt giam, ăn uống thiếu thốn toàn khoai sắn và thẩm vấn căng thẳng ngày đêm, đã có những lúc anh nghĩ đến sự giải thoát cho thân xác hết đau khổ, nhưng hình ảnh vợ con hiện lên làm anh lại cố gắng chịu đựng từng ngày. Sau một thời bị biệt giam, anh được đưa ra buồng giam lớn và may mắn được ở chung với các bạn tù chính trị chế độ cũ và sức khoẻ của anh dần dần hồi phục.
Năm 1979, khi từng đoàn người trong Nam tải hàng tiếp tế cho chồng con của họ đang bị giam trong các trại miền Bắc thì việc thăm nuôi đó, những sự hy sinh đó của gia đình đã đem lại luồng sinh khí cho những người tù này trong đó có anh.
Ngay cả những trại giam và những cán bộ phụ trách khu thăm nuôi cũng bẩy tỏ lòng thán phục với gương hy sinh của những người vợ, người Mẹ hay thân nhân vất vả từ Nam ra Bắc. Ngoài ra, anh cũng lên tinh thần khi biết phía bên kia bờ biển Thái Bình Dương cũng có nhiều cá nhân hội đoàn VN và Hoa Kỳ đang ngày đêm tranh đấu cho những người tù chính trị sớm được thả ra khỏi trại giam.
Nhờ vào những sự tranh đấu này và sự tiếp tế vật chất tiền bạc thuốc men từ gia đình mà cuộc sống của anh và các bạn trong lao động khổ sai và lưu đầy cũng bớt phần gian khổ và nhân phẩm được tôn trọng hơn. Những người tù này không còn phải mặc áo quần đóng dấu "cải tạo" sau lưng nữa, có thể mặc quần tây áo sơ mi gia đình gửi đến, và buổi tối được ở ngoài sân cho đến chín giờ thì mới phải vào buồng giam.
Anh dù là qua bao nhiêu gian truân bao nhiêu là thăng trầm như từ cõi chết trở về cõi sống nhưng lúc nào anh cũng tỏ ra hoà nhã và vui vẻ với mọi người chung quanh nhất là với các bạn tù đống cảnh ngộ và được anh em thương mến.
Nhiều người cũng về từ tầu VNTT và cũng bị lưu đầy ra miền Bắc nhưng dần dần họ được thả ra về hết. Anh Hoá, Trung Úy cũng vì theo tầu về mà bị giam mười ba năm là người bị giam lâu nhất sau anh. Sau đợt thả lớn vào tháng chín năm một chín tám bẩy và dịp Tết năm một chín tám tám thì chỉ còn chín mươi người tù chính trị còn lại trên đất Bắc trong trại Nam Hà và anh là người duy nhất còn lại của chiếc tầu định mệnh VNTT.
Thời gian sống chung tại trại Nam Hà, những khi kể về con tầu VNTT, anh kể lại với một sự bình tĩnh và chấp nhận số mệnh và không hề tỏ lời than trách Chúa hay Ơn Trên và vẫn dốc tâm cầu nguyện hằng đêm theo tôn giáo của mình. Anh cũng tìm niềm vui khi xin nhận con chó con Pepsi về nuôi và chia sẻ niềm vui đó cho cả đội. Đối với các cán bộ trại, anh luôn tỏ ra điềm tĩnh và sẵn sàng giúp đỡ cho họ hay khu gia binh nếu cần đến thuốc men hay vật dụng gì mà anh có và do đó anh cũng thâu được cảm tình và sự vì nể của các cán bộ trại giam. Chính vì những con người như anh mà cuộc sống của những tù nhân bên chính trị được cởi mở hơn và tình trạng căng thẳng giữa tù nhân và phía trại giam cũng không còn và lần đầu tiên mà nhiều người trong khu gia binh đã gọi anh và các bạn là ân nhân của họ. Mỗi khi có chuyển trại thì khu gia binh kéo ra đầy đường và giơ tay của mấy đứa con nhỏ đang bồng lên vẫy chào và luyến tiếc những người tù nhiều lòng vị tha này.
Có những cán bộ nữ thường xuyên liên lạc với chúng tôi về mua bán tại căng-tin chẳng hạn thì chạy xe đạp thẳng vào trại đến trước cửa buồng giam để chúc chúng tôi
mạnh khoẻ khi vào trại mới, và mắt thì đỏ hoe và giọng nghẹn ngào xong thì lại vội vã chạy xe đạp ra sợ các người khác trông thấy. Có tên trực trại trước kia được mệnh danh là "hung thần" khi thấy chúng tôi lần lượt lên xe di chuyển vào Nam thì thốt ra một câu:"Các anh đi rồi chúng tôi như chết đi nửa người và trại này sẽ hoang vắng lắm".
Chúng tôi đều không ngờ rằng sau mười mấy năm bị tập trung "cải tạo" thì người bị cải tạo lại chính là họ, những người phía bên kia chiến tuyến.
Anh nhìn tôi và các bạn và trong lòng chúng tôi đang rộn lên một niềm vui vì kết cuộc thì sự nhẫn nhục chịu đựng và lòng vị tha của những người tù này đã khiến cho một điều không thể xẩy ra được đã xẩy ra, đó là những bông hoa đã nở ra được trong lòng Địa Ngục trần gian trên miền Bắc.
Anh là Hoàng Hiểu, người về từ con tầu VNTT, một trong 20 người tù cuối cùng, chỉ vì lòng thương nhớ vợ con mà đã phải trả bằng cái giá của mười bẩy năm tù đầy.
Anh được thả ra khỏi trại Hàm Tân, Bình Thuận ngày 29 tháng Tư năm một chín chín hai. Một năm sau thì anh được đưa vào danh sách Z-05 theo chương trình H.O. và qua Mỹ đoàn tụ với gia đình. Một cuộc đoàn tụ đầy xúc cảm và nước mắt nhưng là những giọt nước mắt của hạnh phúc sum vầy; một hình ảnh đoàn tụ mà anh cứ tưởng sẽ đến với anh mười bẩy năm trước khi anh leo lên con tầu VNTT để về lại quê hương.
Phần IV : Huyền Thoại Về Một Vị Sư
Mỗi năm cứ vào tháng Tư âm lịch thì chúng ta lại liên tưởng đến lễ Phật Đản, đến đạo Phật thậm thâm vi diệu đã ăn sâu trong đời sống dân gian từ hàng ngàn năm nay và đã trở thành mẫu mực cho một xã hội đạo đức và thịnh trị từ ngàn xưa .
Kính Phật thì phải trọng tăng nhưng không dễ gì trong cuộc sống đời thường mà chúng ta có cơ duyên gập được các vị cao tăng, các vị chân tu đức hạnh cao dầy, huống chi là trong những năm tháng đọa đầy trong ngục tù tăm tối của các trại giam dưới chế độ Cộng Sản tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Vậy mà thật là bất ngờ tôi lại có được cái diễm phúc ấy, không những được gập mà còn được sống chung trong một trại và nhiều khi cùng một buồng giam với những vị sư Nha Tuyên Úy Phật Giáo của chế độ cũ Việt Nam Cộng Hòa, và những vị Linh Mục, Mục Sư Tuyên Úy nữa trong một thời gian dài của hơn năm năm lưu đầy.
Lúc đó khoảng cuối năm một chín tám mươi mốt, tất cả các vị Tuyên Úy được chuyển trại từ Thanh Cẩm, Thanh Hóa ra miền trung du để về trại giam Hà Tây, Hà Sơn Bình và hai năm sau thì tất cả lại được di chuyển về trại Nam Hà, Hà Nam Ninh.
Mỗi vị trong Nha Tuyên Úy đều có một sắc thái khác nhau, nhưng vị sư này là một con người rất bình dị nhưng đã làm được những việc phi thường của một bậc xuất phàm mà nếu muốn viết thật đầy đủ về thầy thì phải một cuốn sách dầy mới nói hết được những huyền thoại về cuộc đời của thầy, nhất là trong hơn mười hai năm thầy bị tù đầy giam cầm thầy đã chia sẽ gian khổ bên cạnh các người tù chính trị chế độ cũ như thế nào.
Đó là Trung Tá, quyền giám đốc Nha Tuyên Uý Phật Giáo, Thượng Tọa Thích Thanh Long. Thầy đã đứng ra nhận trách nhiệm điều hành Nha Tuyên Uý khi Thượng Tọa Thích Tâm Giác viên tịch để chăm sóc về tinh thần cho các quân nhân Phật tử và cũng vì lẽ đó mà thầy và toàn thể các vị trong Nha Tuyên Uý đều phải vào tù khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản vì các thầy đều được phong cho cấp bậc từ đại úy đến trung tá của QLVNCH để dễ làm việc với các quân nhân Phật tử.
Khi đó thầy Long và thầy Tâm, hoà thượng Thích Thiện Chánh là hai vị chức vụ cao nhất trong Nha Tuyên Uý tại thủ đô Sàigòn được lệnh của mấy tay sư quốc doanh trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đến gập họ để bàn giao các cơ sở Phật giáo trong Sàigòn.
Họ chiêu dụ hai thầy hãy gia nhập vào phong trào "Phật Giáo Yêu Nước" mới thành lập này để tránh không phải đi tập trung "cải tạo".
Thầy Long rất bình tĩnh từ chối lời đề nghị ấy nhưng nghiêm khắc chỉ vào mặt Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu là những nhà sư hoạt động cho Cộng Sản trước kia mà mắng rằng:" Thân tôi dù có làm kiếp dòi bọ trong hố xí thì cũng phải biết đến đạo đức và liêm sỉ. Các ông đã dựng lên cái "Phật Giáo Yêu Nước" này thì con đường các ông chọn lựa các ông cứ đi, còn tôi, tôi chấp nhận vô tù cùng với các Phật tử và chiến hữu của tôi."
Hai vị sư này chính là người mà Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã bắt giam trước năm 1975 vì hoạt động cho Cộng Sản. Thích Minh Nguyệt đã bị đày ra Côn Đảo, còn Thích Thiện Siêu thì thường được gọi là ông sư chùa Từ Đàm vì tu ở chùa này ngoài Huế.
Sau đó chính Thượng Tọa Thích Thanh Long là người đã đứng ra bảo lãnh cho họ ra khỏi tù để ăn năn hối cải mà trở về lại con đường tu hành vì họ đã bị lộ hình tích.
Không ngờ hai nhà sư thân Cộng này vẫn không hối cải và vẫn tiếp tục phản lại đạo và phản lại Quốc Gia và xuất đầu lộ diện sau ngày 30 tháng Tư.
Khi bàn giao thủ tục xong thì Thầy Long và thầy Tâm thanh thản ra về và thanh thản bước chân vào chốn lao tù. Mấy tay sư quốc doanh đó cũng sượng mặt vì biết rằng thuyết phục cũng không làm gì lay chuyển được thầy. Chúng có âm mưu lôi kéo thầy vào để huyênh hoang thêm về cái tổ chức Phật giáo quốc doanh đó nhưng đã không thành công mà còn bị mất mặt trước đám cán bộ tiếp thu cơ sở hôm đó nữa.
Trước khi Sàigòn sụp đổ, hai toà đại sứ bạn là Trung Hoa Dân Quốc và Úc đã cho người đến đón thầy đi di tản ra nước ngoài nhưng thầy đã cám ơn họ và nhã nhặn từ chối để ở lại trên quê hương mình vì thầy không thể bỏ chùa và bỏ Phật tử mà ra đi một mình như thế được. Thầy nói rằng tu hành thì ở đâu cũng là tu.
Nhìn bề ngoài, thầy giống như một ông già nhà quê chất phác hiền hậu mới ngoài lục tuần nhưng thường thấy trên môi thầy nở nụ cười hỉ xả như một người chẳng có gì phải âu lo trong kiếp sống lưu đầy khổ cực này vậy.
Thầy chẳng bao giờ nghĩ đến cá nhân mình mà luôn trải lòng vị tha và lòng thương xót của mình với tất cả những người tù chung quanh không kể tôn giáo, còn mạnh khoẻ hay đang đau yếu.
Những năm sau, khi có mấy người Phật tử thuần thành từ chùa Giác Ngạn miền Nam ra thăm thầy và đem theo ít vật dụng thức ăn chay và bột đường thì khi vào trại thầy đã mang tất cả những quà cáp mà thầy vừa nhận được đến từng chỗ nằm của mỗi người tù, ưu tiên những người bệnh hay suy nhược .
Người bệnh nhiều thì được một thỏi đường móng trâu, bệnh nhẹ thì nửa thỏi, phân phát hết mà không hề nghĩ đến bản thân mình.
Thầy chia sẻ cả những viên thuốc tây như trị đau bao tử, thuốc bổ, thuốc trị đau nhức cho những anh em nào đang cần và chưa có gia đình đến thăm kịp thời.
Có sống trong những giai đoạn đó mới thấy một hạt muối, một cục đường quí giá như thế nào, có lẽ vàng cũng không sánh được.
Vì sau mấy năm bị giam cầm qua bao nhiêu mùa Hè nắng cháy da, mùa Đông rét lạnh căm căm, những người tù với ăn uống quá thiếu thốn và lao động khổ sai đã trở nên suy nhược và suy dinh dưỡng trầm trọng chỉ còn như bộ xương cách trí và khoảng hai phần ba trọng lượng cơ thể vì thiếu chất bột là cơm gạo, thiếu chất béo là thịt cá và thiếu chất ngọt là đường.
Bởi thế nên nghĩa cử của thầy đem phân phát ân cần từng cục đường, viên thuốc cho các bạn đồng cảnh tù, cho những người đau yếu lúc đó là hành động trông rất bình thường của một con người tu hành nhưng lại mang một tính cách phi thường và vô cùng nhân bản của đạo sống giữa đời trong cõi địa ngục trần gian, nơi mà kẻ thù chỉ mong muốn cho họ chết dần đi từng ngày trong đau đớn và tủi nhục.
Những năm tháng mùa Đông trên đất Bắc, người tù còn vất vả hơn nữa vì cái giá rét sương mù mưa phùn gió bấc còn làm cho họ càng thêm điêu đứng và bệnh tật nhiều hơn và cái đói cái rét lại càng dầy vò họ triền miên ngày đêm cho đến độ bất cứ con gì nhúc nhích hay rau cỏ bên vệ đường thì đều ăn được cả. Từ đó lại thêm căn bệnh về đường ruột làm suy yếu thêm cơ thể vốn dĩ đã suy nhược.
Có môt hôm, tôi đang ngồi nhâm nhi miếng bột hấp bằng ngón tay cái - là khẩu phần dành cho người đi lao động, ở lại buồng vì đau ốm thì không có - thì anh bạn đang nằm dưỡng bệnh bên cạnh là một thiếu tá cảnh sát chế độ cũ đã bị phù thủng lâu rồi không đi lao động được, chợt hai tay buông thõng xuống và trút hơi thở cuối cùng.
Tôi vội kêu các bạn khác đến để khiêng anh xuống bệnh xá cấp cứu nhưng không còn kịp nữa. Anh ra đi thật nhẹ nhàng y như một ngọn nến vụt tắt khi không còn một chút sáp nào nữa vì đã cháy đến cuối tim đèn vậy.
Hôm ấy, tụi tôi trong buồng vẫn xuất trại đi lao động bình thường, nhìn các bạn cùng đội đang lúi húi cuốc đất khai quang một vùng đất hoang để trồng thêm rau xanh cho trại, tôi hiểu rằng trong đầu họ cũng đang nghĩ như tôi là bao giờ thì đến lượt mình ra đi đây.
Có lần bàn tay tôi co duỗi không được nữa mỗi buổi sáng khi thức dậy và khi ra lao động phải khó khăn lắm mới cầm vững được cái cuốc hay cái xẻng.
Thế mà như là một phép lạ, khi có phái đoàn ngoại quốc ghe thăm trại thì bọn họ dàn cảnh bán cho mỗi tù nhân chính trị được một lon sữa đặc có đường. Tôi bèn đục ngay ra uống một hơi một phần ba lon sữa đặc xong thì sáng hôm sau tỉnh dậy thấy hai bàn tay mình đã co duỗi lại như thường, hoá ra là cơ thể quá thiếu chất đường gây nên sơ cứng cơ bắp và gân cốt cho hai bàn tay và cả cơ thể của mình nữa.
Như là một vì sao sáng trong bóng tối, Thầy luôn an ủi, khuyến khích, nâng đỡ các bạn tù về cả tinh thần lẫn vật chất và nhiều lúc kể chuyện hay giảng một chút về đạo Phật để xoa dịu nỗi đau khổ của chúng sanh và để cùng dìu nhau đi hết quãng đời tù tội.
Rất nhiều anh em hỏi thầy về đạo Phật, có khi thầy từ tốn giảng giải đôi điều về nghiệp chướng, về thế nào để giữ được lục hoà là sự hòa hợp trong gia đình, bạn bè, cuộc sống, nhưng cũng có khi thầy chỉ mỉm cười và nói: "Hãy cứ làm điều Thiện là Tu Hành rồi", một câu nói rất đơn giản nhưng bao hàm gói ghém trong đó bao nhiêu là triết lý cao sâu của đạo Phật.
Bởi thế mọi người đều gọi thầy bằng Bố một cách kính trọng và như thầy Khuê, một đại đức trong Nha Tuyên Uý và là huấn luyện viên Tam Đẳng Nhu Đạo của võ đường Quang Trung, Sàigòn trước kia, đã nói với tôi rằng thầy là một bậc chân tu và là biểu tượng của đạo Phật trong tù. Thầy Khuê bảo tôi rằng các ông thầy trẻ cũng có ông có sai lầm của họ vì họ cũng là con người dễ bị cám dỗ bởi vậy không nên vì một hai ông thầy trẻ này mà mất lòng tin vào đạo Phật.
Ngược lại, đối với kẻ thù thì thầy lại đối đầu với chúng tuy bề ngoài trông rất là bình tĩnh nhưng lại thật là cương quyết, dũng cảm, không bao giờ đầu hàng, và không bao giờ nhường chúng dù chỉ là một bước; làm cho chúng ta nhớ tới những vị quốc sư thời Lý, Lê, Trần đã gầy công dựng nước và giữ nước ngày xưa.
Những lần cán bộ của Bộ Nội Vụ đến trại bắt hàng loạt tù nhân ra thẩm vấn và làm bản tự khai về tội lỗi của mình đối với "Cách mạng" với "nhân dân", đến phiên thầy thì thầy ung dung ngồi xuống và chép nguyên bài "Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh" rồi đưa lại cho họ.
Chúng tức điên người lên, đập bàn quát tháo và doạ nạt thầy đủ điều nhưng thầy bình thản bảo họ rằng từ bé đến giờ thầy chỉ thuộc có bài kinh đó chứ đâu có biết cái gì nữa đâu mà khai báo. Chúng đưa lại tờ giấy giấy khác và baỏ thầy vào buồng giam suy nghĩ cho kỹ rồi viết.
Hôm sau, thầy đem nộp lại cho họ cũng đúng bài "Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh" và nói với họ rằng thầy là người chỉ huy, các ông đại đức Tuyên Úy dưới quyền chỉ là theo lệnh của thầy mà thi hành thôi cho nên họ cứ thả hết các vị sư trong Nha Tuyên Úy ra và muốn giam giữ thầy bao lâu cũng được.
Bọn cán bộ hỏi cung, lúc đầu hùng hổ, sau đổi chiến thuật qua dụ dỗ thầy cũng không xong. Điều kỳ diệu là sau các buổi thẩm vấn và qua cung cách đối đáp và giảng giải đạo Phật thay vì phải khai báo về mình của thầy, bọn họ, sau nhiều năm khai thác không được, đã tỏ lòng kính phục vị sư già này. Họ đã đổi cách xưng hô gọi thầy bằng "anh" qua cách gọi bằng "thầy" khi họ đến làm việc lần cuối trước khi thả một đợt lớn tất cả các vị Tuyên Úy vào tháng Chín năm một chín tám bẩy.
Buổi chiều hôm đó, khi tôi đi cùng dạo sân với thầy chờ kẻng điểm danh vào buồng thì lần đầu tiên tôi thấy thầy quàng vai qua tôi một cách rất thân thương như người cha ôm đứa con vậy và thầy tâm sự với tôi rất lâu.
Thầy nói rằng họ đã hỏi cung thầy nhiều lần và cuối cùng thì họ đã thất bại vì - thầy ghé nhỏ nói vào tai tôi là - dù họ có lấy trái bom nguyên tử mà ghè vào đầu thầy thì thầy vẫn không đầu hàng và thầy nở nụ cười thật tươi và mãn nguyện.
Trong lòng tôi lại càng thêm kính phục một vị chân tu đã làm sáng ngời tôn giáo của mình trong tù và một người chiến sĩ Quốc Gia can trường hiên ngang và dũng cảm đối đầu với quân thù ngay trong hoàn cảnh thất thế và đã làm kẻ thù phải nể phục.
Thầy bảo với tôi rằng cuộc đời của thầy không có gì phải ân hận vì những điều mình làm đều đúng theo lương tâm.
Khi mới lớn thì Bố Mẹ thầy bắt thầy về từ chùa để lập gia đình nhưng thầy đã cương quyết xin Bố Mẹ cho tiếp tục con đường tu hành vì thầy đã chọn nó. Tôi có hỏi thầy người con gái đó là ai, thì thầy cười bảo rằng sau đó thì Bố Mẹ thầy chấp thuận cho thầy con đường đã chọn và cô ta đã sang Pháp và lập gia đình với một anh bác sĩ; và thầy cũng đã xin lỗi cô ấy vì đã không tuân theo lời Bố Mẹ được. Mỗi khi nghĩ lại, thầy nói rằng mình đã làm đúng và trong lòng thấy thanh thản.
Đối với việc hai toà đại sứ bạn đưa người đến để đón thầy di tản trước ngày Sàigòn sụp đổ và thầy đã quyết định ở lại quê hương và về quyết định của thầy từ chối lời đề nghị hợp tác với "Phật Giáo Yêu Nước" của Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu, rồi chấp nhận vào tù - trong những năm tháng cực kỳ gian nan và đói khổ triền miên và bị kẻ thù hành hạ một cách tiểu nhân trong các trại giam từ miền Trung ra miền Bắc- mỗi khi nghĩ lại, thầy nói rằng thầy rất an tâm vì mình đã có những quyết định đúng vì thầy bảo với tôi rằng Cộng Sản nó là Qủy Dữ đấy không thể hợp tác được và phải vào tù cùng với các Phật tử chứ bỏ đi một mình coi sao được.
Tâm sự của thầy cũng y hệt tâm sự của thầy Tâm là vị thầy đã khai sáng cho tôi trong đạo Phật và cũng là dưỡng phụ tinh thần của tôi.
Thầy là bực chân tu nên có được Huệ Nhãn và biết được các chuyện quá khứ vị lai nên đã ưu ái dành cho tôi một buổi dạo chơi trong sân để thắp sáng hơn nữa cho tôi niềm tin vào tương lai vì có lẽ thầy biết rằng thầy trò sẽ chẳng bao giờ còn gập lại nhau nữa và biết rằng tôi sẽ còn phải đi nốt quãng đời tù tội cho đến cuối cùng chăng.
Chính tôi không ngờ rằng buổi chiều hôm đó là lần cuối cùng hai thầy trò gập nhau và có lẽ tôi là người duy nhất có được may mắn mà thầy đã dành cho nhiều thì giờ tâm sự như vậy bởi vì chỉ một hay hai ngày sau thì có đợt thả lớn trong đó toàn bộ các vị tu sĩ, linh mục và mục sư, kể cả thầy Long và thầy Tâm, đều có tên.
Thầy tu từ nhỏ với Sư Ông và đã đạt đến trình độ cao thâm nên có thể thông hiểu các chuyện quá khứ vị lai. Có lần thầy bảo một anh đại úy cùng buồng giam khi đi lao động phải thận trọng về sông nước. Năm đó nước lũ kéo về vùng trại giam Thanh Cẩm ruộng nương đều trắng xoá và mưa gió rét mướt nhưng những người tù vẫn phải đi lao động mỗi khi trời đất êm đi mưa bão.
Khi vượt qua một con suối các tù nhân phải nắm tay nhau chầm chậm và dò dẫm từng bước một để băng qua nhưng anh đại úy đó đã vắn số và bị nước lũ cuốn phăng đi.
Một lần khi tôi đang ngồi sau buồng giam để đun nước uống bên cạnh thầy và anh Nguyễn Duy Xuân là viện trưởng viện đại học Cần Thơ thì đột nhiên thầy quay qua anh Xuân và nói rằng anh phải cẩn thận đấy vì thầy thấy có một cái gì cực độc đang ở trong người anh. Lúc ấy anh Xuân đang mặc áo đà như một người tu tại gia và trông khoẻ mạnh, mỗi sáng đều tập thể dục thường xuyên.
Đâu có ngờ rằng chỉ ít lâu sau thì anh trở nên ăn khó tiêu và sức khoẻ xuống dần. Gia đình anh bên Pháp gửi về cho anh thuốc bổ gan và thuốc lọc máu nhưng bệnh tình không thuyên giảm.
Anh có đưa cho tôi vài gói thuốc lọc máu và bảo tôi uống đi nhưng tôi từ chối vì không cần thiết. Anh rất là hiền hoà và tỏ ra một con người trí thức và không hề mở miệng than trách một điều gì ngay cả khi đã biết mình vướng phải căn bệnh nan y là ung thư bao tử.
Những năm tháng anh nằm dưới bệnh xá của trại, chiều nào lao động về tôi cũng cùng anh Triệu Huỳnh Võ, thứ trưởng Bộ thông tin -người mà tôi thường gọi đùa là người chỉ có họ mà không có tên - thả bộ xuống bệnh xá thăm anh thì anh vẫn còn cười và bảo tôi rằng tại sao tôi cứ gọi anh là ông viện trưởng vậy vì mình mất hết rồi còn gì đâu. Tôi nắm tay anh nói rằng chúng ta mất hết nhưng học thức của mình không mất, và tôi cũng cho anh biết tình hình phía Hoa Kỳ đã can thiệp để Hà Nội phải thả hết các tù chính trị đang diễn ra tốt đẹp để anh có thêm sức mạnh tinh thần mà cầm cự với căn bệnh quái ác đó.
Trong bệnh xá, có bác sĩ Trương Như Quýnh rất là giỏi và anh đại tá Đức thuộc lực lượng đặc biệt và anh Trung đại úy cảnh sát hết lòng chăm sóc nhưng anh Xuân, người viện trưởng mà tôi rất qúy mến ấy đã nhắm mắt lại đúng vào ngày Quốc Tế Nhân Quyền.
Ngày trước hôm anh mất, tôi và anh Võ xuống thăm mà không cầm được nước mắt vì thân hình anh trên giường bệnh chỉ còn là đúng một bộ xương khô. Nếu không có cặp môi còn chút mấp máy thì không ai biết là anh còn sống vì cái đầu óc uyên bác của anh trước kia nay tóp lại chỉ còn là một cái đầu lâu không hơn không kém. Trong những ngày cuối anh chỉ sống thoi thóp nhờ vào những giọt nước anh Trung nhỏ từ từ vào cho thấm môi vì ung thư đã di căn lên từ bao tử chẹt lấy yết hầu và làm anh không thể ăn gì được dù là vài giọt cháo loãng.
BS Quýnh và anh Đức đều nhìn tôi và lắc đầu nói rằng bệnh xá đã làm đơn xin cho anh Xuân được về cho gia đình chăm sóc từ lâu rồi mà họ không chấp thuận.
Bộ Nội Vụ biết rằng anh đã bị căn bệnh ngặt nghèo đó nhưng vẫn nhất định không thả. Một lần nữa họ đã cho chúng tôi thấy rõ "chính sách khoan hồng" của họ như thế nào và lòng hận thù nhỏ nhen của họ đối với chúng tôi như thế nào.
Đó là những dẫn chứng mà tôi tin rằng Thượng Tọa Thích Thanh Long là người đã đạt đến bực chân tu và thầy chỉ nói những gì thật là cần thiết với những người tù đồng cảnh ngộ mà thôi chứ không thể tiết lộ thiên cơ được.
Khi được thả về, thầy Long đã về lại ngôi chùa Giác Ngạn nằm ở cuối con đường Trương Minh Giảng gần nhà Mẹ tôi tại quận Ba, Sàigòn, là nơi mà thầy đã trụ trì trước kia. Thực tế đau lòng là đã có một vị sư được Nhà Nước cử đến để coi ngôi chùa này kể từ khi thầy vào tù và họ cho thầy trú trong một góc chùa nhưng các Phật tử đã mừng rỡ đến thăm thầy rất đông để chăm sóc sức khoẻ cho thầy.
Ít năm sau thì tôi nghe tin thầy ngã bệnh và viên tịch trong sự thương tiếc của hàng ngàn Phật tử và hàng ngàn người đã đưa tiễn thầy lần sau cùng.
Khi ấy tôi vẫn còn trong trại giam Hàm Tân ở miền Nam và nhìn lên bầu trời cao xanh thăm thẳm kia, tôi như thấy một đóa hoa sen đang rực rỡ tỏa sáng, một đoá sen hồng chân tu mà tôi vô cùng kính phục đã trả xong nợ của một kiếp người và đã bay về miền Vĩnh Cửu; nơi mà chỉ có An Lạc Hạnh Phúc, nơi không còn hận thù chém giết và đọa đầy, nơi không còn oán tằng và sinh lão bệnh tử.
Viết xong vào dịp đại lễ Phật Đản năm 2554
Quận Cam, California năm 2010
Phần V: Những Vị Sư Nha Tuyên Úy
Lời Tác Giả: "Những Vị Sư Nha Tuyên Úy" là Phần V của thiên hồi ký "Những Người Tù Cuối Cùng" mà tác giả cố gắng ghi lại những lời giáo huấn của hai vị sư chân tu trên bước đường lưu đầy. Những lời giáo huấn quí giá đã giúp cho nhiều anh em tù nhân vượt qua được những chặng đường gian khổ và những thử thách lớn lao nhất trong cuộc đời của họ. Hồi ký này cũng là lời tri ân dâng lên cố Hoà Thượng Thích Thiện Chánh và cố Thượng Tọa Thích Thanh Long.)
Nhìn lại giòng lịch sử của dân tộc Việt Nam, đất nước chúng ta như đắm chìm trong chiến tranh tàn khốc, Hòa Bình chẳng khác gì những mảnh áo còn lành lặn trên một chiến bào tả tơi vì thương tích.
Ngày mà Sàigòn sụp đổ mới như hôm nào mà đã 35 năm qua rồi với bao đau thương tang tóc trên quê hương miền Nam dưới chế độ cai trị hà khắc của Cộng Sản (CS).
Nếu chúng ta không viết lại những chiến tích oai hùng của QLVNCH, những công lao to lớn của hàng triệu người đã đứng dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ để chiến đấu bảo vệ những giá trị quí báu như Dân Chủ, Tự Do cho ngôn luận, báo chí, tín ngưỡng tại miền Nam suốt hai mươi năm 1954-1975, thì những gía trị ấy sẽ dần dần bị rơi vào quên lãng và con cháu chúng ta sau này cũng thiếu tài liệu trung thực để tham khảo về quãng thời gian hai mươi năm ấy.
Khi miền Nam mất vào tay CS, hàng triệu người quân dân cán chính của chế độ cũ đã lần lượt vào tù, và như nhận xét của đài VOA lúc đó thì hầu như những thành phần ưu tú nhất của chế độ VNCH đang nằm trong lao tù CS từ Nam chí Bắc.
Trong số hàng triệu tù nhân kể trên, đặc biệt còn bao gồm cả các nhà sư, các vị linh mục, và mục sư trong các Nha Tuyên úy Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo và Tin Lành vì các vị này đã được gắn lon sĩ quan giả định để ủy lạo, nâng đỡ tinh thần và làm những nghi thức tôn giáo trong những đơn vị quân đội.
Vì vậy các vị này cũng bị tập trung "cải tạo" và cưỡng bách lao động trong trại giam y như những sĩ quan khác của QLVNCH.
Đứng đầu Nha Tuyên Úy Phật Giáo là Thượng Tọa Thích Thanh Long, quyền Giám Đốc, thứ hai là Thầy Minh Tâm hay Hòa Thượng Thích Thiện Chánh, Chánh Sở Phật Giáo Đô Thành.
Kỳ trước, tác giả có đề cập đến những huyền thoại về thầy Thích Thanh Long. Kỳ này đề cập đến thầy Minh Tâm với những lời di huấn của thầy đã khai sáng lại niềm tin vào tôn giáo trong những năm tháng lưu đầy khi mà những người tù không còn một nơi nào để bám víu vào mà tồn tại.
Khi mà đồng minh Hoa Kỳ đã bỏ rơi để họ sa vào tay kẻ thù, khi mà gia đình thì quá xa vời và cũng đang khốn khổ bên ngoài vì gọng kìm siết chặt của kẻ thắng trận, khi mà chung quanh họ chẳng còn ai khác ngoài các chiến hữu cũ, bốn bức tường và những cai tù cay nghiệt đang đọa đầy thân xác họ.
Khi đó chợt xuất hiện những vị lãnh đạo tinh thần trong Nha Tuyên Úy trong trại mà tôi đang bị giam giữ, không biết đó là điều ngẫu nhiên hay định mệnh đã an bài để cứu vớt những người tù?
Nhìn bề ngoài, Thầy Long giống như một ông già nhà quê Bắc Kỳ bình dị và chất phác trong bộ áo nâu sòng, nhưng ở con người thầy như thoát ra một dòng điện nhu hòa đem lại yên bình cho những người chung quanh của một nhà sư mà Tâm đã định, Trí đã ngộ và Huệ đã như bông sen nở ra để cứu độ chúng sanh.
Thầy Minh Tâm thì đúng là chân chất thật thà như người dân miền Nam Bộ. lúc nào cũng cười hiền hậu và sẵn sàng giúp đỡ các anh em đau ốm như cạo gió hay lể nếu bệnh nặng, hay nói chuyện đời chuyện đạo để an ủi họ.
Hình như Ơn Trên đã xui khiến cho nên hai thầy đều đã từ chối sự giúp đỡ của các tòa đại sứ bạn không di tản, để vào tù cùng với các vị linh mục và mục sư mà cứu độ các người tù trong cõi hỏa ngục trần gian.
Bởi tôn giáo trong suốt thời gian đó chính là niềm hy vọng cuối cùng cứu rỗi cho họ, những con người bị bỏ rơi trong tuyệt vọng. Bởi lúc đó, con người sống trong nhục nhằn, đau khổ và đói khát đến tận cùng và hầu hết đã mất niềm tin vào tôn giáo; cho nên những trại giam nơi có bước chân của quí thầy đi qua đã củng cố lại niềm tin ấy và còn giúp cho đạo Phật được hoằng dương ngay tại những nơi hoang vu thâm sơn cùng cốc và nghèo nàn nhất.
Thế rồi như một phép lạ, Lễ Phật Đản đầu tiên khoảng năm 1984 đã rơi vào ngày Chủ Nhật và được tổ chức qui mô nhất trong không khí trang nghiêm, trật tự và được Thầy Thích Thanh Long chủ trì.
Một căn buống giam đã được chọn, quét dọn gọn gàng sạch sẽ và hai tầng trên có một bàn thờ Phật, một bình bông và nhang đèn đầy đủ với hàng trăm tù nhân Phật tử tham dự ngồi đầy hai tầng trên và cả hai tầng dưới.
Một hình ảnh thật lạ lùng không ngờ và huyền diệu chưa từng có trong lịch sử trại giam tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Thầy Khuê, Đệ Tam Đẳng Huyền Đai của võ đường Nhu Đạo Quang Trung khi xưa được cử ra canh giữ ngoài cổng cùng với hai thầy đại đức khác để đề phòng đám cán bộ trại có thể bất ngờ vào trại xin trà cà phê thuốc lá.
Nhưng đúng như Thầy Long nói vì mình thờ Phật và kính Tam Bảo nên mình được chư vị Sơn Thần Thổ Địa che chở, và như Thầy Tâm thì trại gần chùa Hương Tích nơi thờ Phật Bà Quán Thế Âm nên được hưởng những an lành, cho nên hôm đó bên ngoài trại hầu như trống vắng vì họ kéo rốc hết ra thị xã để xem một trận đá banh nên buổi lễ mừng Phật Đản năm đó đã diễn ra hết sức viên mãn.
Thầy Long chí tâm đảnh lễ chư Phật xong thì trì niệm chú Đại Bi, bài Thập Chú, Sám Pháp, Thập Nhị Nguyện Quán Thế Âm, v.v.
Các Phật tử trì niệm theo, những lời kinh trầm trầm êm êm, nhẹ nhàng và thanh thoát bay lên không trung và mọi người như cảm thấy tuy thân trong tù nhưng tâm hồn như đã thoát vút lên cao và những lời kinh cầu đó như xoa dịu đi những nỗi đau của kiếp biệt xứ lưu đầy.
Buổi sáng hôm đó tôi lại học thêm một bài học nữa khi chạy qua khu nhà Văn Hóa vì bên đó nhờ bàn tay các anh em nghệ nhân mà có một vườn hoa rất đẹp vừa hoa hồng, vạn thọ, hướng dương đủ cả, để xin bó hoa cắm bình bông cho buổi lễ. Khi về Thầy Long thấy và bảo tôi rằng chỉ nên lấy vừa đủ bông hoa thôi, không cần nhiều thế, còn để cho Trời Đất cùng hưởng hương thơm của cây cảnh.
Từ đó, tôi ngộ được rằng con người ta không phải sống lẻ loi mà cùng với Trời Đất tồn tại. Trời Đất cũng biết thưởng thức hoa cảnh và thiên nhiên như con người và cùng chịu đựng cả những sự tàn phá thiên nhiên mà con người gây ra nữa.
Không những năm ấy là năm duy nhất mà chúng tôi đã tổ chức được một đại lễ Phật Đản trong tù mà vào dịp cuối năm các anh em, do quí vị linh mục và mục sư hướng dẫn cũng đã tổ chức được một lễ Giáng Sinh thật là huy hoàng chưa bao giờ có.
Hàng đoàn người đã mang theo tượng Đức Mẹ và Chúa Giê Su đi rước lễ từ buồng này qua buồng kia và hát những bài thánh ca thật là thanh thoát. Buổi lễ mừng Chúa Giáng Sinh cũng thành công rực rỡ ngoài dự định vì không kể các con chiên còn có nhiều Phật tử trong đó có tôi cũng xin tham dự.
Tôi còn may mắn trong thời gian ở chung buồng với quí thầy thì một hôm Thầy Tâm gọi tôi xuống ngồi cạnh bên chiếc võng thầy đang nằm và bắt đầu nói chuyện với tôi về đời và đạo.
Tôi cũng không ngờ rằng chính Thầy đang trang bị cho tôi một kiến thức về đạo Phật để giúp cho tôi sau này đủ nghị lực để chống chỏi với những thử thách lớn lao hầu như khó vượt qua nổi của những năm tháng sau cùng còn trong tù khi mà các bạn tù của mình lần lượt ra về, và khi mà chiếc phao cuối cùng là người vợ thì không còn đến thăm tôi trong trại giam nữa.
Tôi dần dần làm quen với những sự trống vắng đó vì biết rằng nếu không quen dần đi thì nó sẽ giết mình dần theo thời gian và sức khoẻ sẽ suy kiệt.
Có thể Thầy đã tham thiền nhập định và thông hiểu các chuyện quá khứ vị lai nên thầy luôn khuyên tôi phải luôn giữ chánh tâm mà niệm Phật "Lục Tự Di Đà" để giải trừ bớt nghiệp chướng.
Thầy ví trại giam như cái tấm lưới của cái võng mà thầy đang nằm, nếu ta chấp nhận nghiệp thì nó sẽ như cái võng nhưng nếu ta chống lại nó tức là nghịch lại với nghiệp chướng thì nó sẽ là những sợi dây thừng siết cổ mình lại.
Thầy bảo rằng mỗi chúng sanh đều có nghiệp riêng và quốc gia cũng có lúc hưng thịnh hay suy vong. Mất nước thì con dân đều phải gánh chịu một phần, kiên tâm chịu đựng thì tương lai sẽ còn. Cái gì đã An Bài thì chúng ta không thể đi ngược lại được Định Mệnh mà phải xuôi theo giòng để xem tương lai sẽ về đâu.
Thầy kể cho tôi nghe về Sư Ông là người thầy của thầy, tu tại chùa Châu Viên tại vùng Thất Sơn, Châu Đốc, là một vị chân tu mà Việt Minh cũng sát hại Sư Ông một cách dã man bằng cách trói tay bằng dây kẽm gai và chặt đầu bằng mã tấu như thời Trung Cổ vậy.
Lúc ấy, Thầy Tâm mới mười mấy tuổi nhưng cảnh tượng hãi hùng đó cả đời thầy không bao giờ quên được; và Thầy dặn tôi rằng không bao giờ chúng ta có thể sống chung với họ được. Họ đây chính là Việt Minh mà sau này đã lộ bộ mặt thật ra là Cộng Sản, tay chân của Nga Sô và Trung Cộng.
Qua những lần thăm nuôi có một vị Tuyên Úy đã bí mật đem vào trại cuốn "Đức Phật và Phật Pháp" và cho tôi mượn. Tôi có lẽ có duyên với đạo Phật hay sao nên tất cả quí thầy nhỏ lớn đều yêu mến tôi nên thường hay gập tôi trò truyện những cái hay cái dở của các thầy, nhờ đó tôi lại hiểu thêm nhiều về cả đạo lẫn đời, về căn tu, về Duyên, Nghiệp và Quả Báo.
Trong trại giam họ đặt ra nội qui nghiêm cấm tất cả sách báo từ ngoài vào cho nên có được một cuốn sách Phật trong tay là điều kỳ diệu.
Tôi đã đọc một mạch từ đầu đến cuối cuốn sách và những dòng chữ ấy như từ từ thấm vào trong người và đem lại cho tôi một bản lãnh mà trước đó mình chưa hề có.
Trước kia, tôi thường hay thắc mắc không biết hỏi ai vì sao hai anh em tôi cùng một mẹ cha, cùng cắp sách học chung trường, cùng lớn lên dưới một mái nhà mà anh tôi, Thiếu Tá HQ lại đoàn tụ được với vợ con hạnh phúc bên Mỹ - Thiên Đàng của Hạ Giới - trước khi Sàigòn sụp đổ, trong khi đó thì tôi sa vào chốn địa ngục này không biết ngày nào ra, và gia đình thì chia ly rồi tan vỡ?
Tại sao đêm ngày 29 tháng Tư ấy tại cổng sau của tòa đại sứ HK, tôi không can đảm ra đi một mình như Mẹ tôi đã căn dặn là Mẹ sẽ ở lại và lo cho vợ con tôi để tôi yên tâm ra đi vì an nguy của bản thân mình, mà lại vì vợ con ở lại để sống trong kiếp lưu đầy và cuối cùng thì gia đình cũng chẳng còn gì?
Tôi muốn hỏi "tại sao" hàng trăm lần nhưng bây giờ sau khi đọc xong cuốn sách Phật, được nghe những lời giảng huấn của quí thầy, nhất là Thầy Minh Tâm và Thầy Long thì tôi đã hiểu và sẽ cam tâm chịu đựng cái số kiếp của mình và cái định mệnh đã an bài.
Những buổi tối sau một ngày lao động mệt mỏi thì những lúc ngồi cạnh Thầy Tâm nghe thầy nói chuyện là những lúc an ủi nhất cho tôi.
Thầy bảo với tôi rằng Ơn Trên đã xui khiến cho thầy về trại này để độ trì cho tôi vì tôi là một trong bốn đệ tử của thầy. Tôi vừa bàng hoàng vừa vui mừng tiếp nhận ân sủng đó, nhất là khi thầy nhận tôi làm dưỡng tử.
Cũng nhờ Thầy Minh Tâm luôn khuyến khích bên cạnh mà tôi đã làm được một công đức mà thầy gọi là vô lượng là sau mấy tháng ròng rã đã trì trí mà chép xong được hai bộ kinh rất quí giá là Pháp Hoa và Địa Tạng.
Thầy Tâm đã cung kính thắp một nén nhang dâng cuốn tôi sao chép lại kinh Pháp Hoa lên chư Phật và cuốn Địa Tạng thì hồi hướng công đức cho Ba tôi đã mất.
Thầy luôn nhắc nhở cho tôi nhớ là chúng ta đang sống trong thời Mạt Pháp, lành ít dữ nhiều, là thời của Qủy Đỏ đang tung hoành nên phải chuyên tâm niệm Phật, bố thí và làm Phước.
Sau hơn mười hai năm tù giam thì tất cả các vị Tuyên Úy đều được thả ra khỏi trại và theo xe lửa về Nam, như đem theo cả một phần sinh khí của trại cùng xuôi về phương Nam với các vị ấy.
Tôi còn ở lại trong sự trống vắng mênh mông của những buồng giam và sự trống rỗng ngay cả trong tâm hồn mình.
Nhớ đến các lời thầy đã dặn dò và chỉ dậy như vẫn còn văng vẳng đâu đây, tôi đứng dậy ra sân trại, nhìn về phía những rặng núi xanh xanh xa mờ chập chùng mây trắng bao phủ chung quanh và tự nhủ lòng rằng sẽ phải hết sức sống còn để ra khỏi cõi U Minh này.
Viết xong rạng sáng ngày Rằm Tháng Tư năm Canh Dần tại California
Phần VI: Ba Người Tù Tổ Điện
Cuộc đời con người ta trong cõi trần gian này cũng giống như con thuyền nan lênh đênh trên giòng nước, có lúc nó trôi thật êm đềm như lượn lờ thơ mộng dưới ánh trăng, có nhiều lúc nó như nhỏ bé li ti trên giòng nước mà lao đao qua bao thác ghềnh và giông bão gian nguy, nhưng nếu vững tay chèo lái thì con thuyền ấy vẫn đến được bến bờ hạnh phúc bình yên.
Mỗi lúc nhìn lại thì hình như có một bàn tay mầu nhiệm nào đó đã che chở cho con thuyền nan ấy đã không tan tành ra mảnh vụn khi bị cuốn hút vào cơn cuồng nộ của những bão táp phong ba trên sóng nước đục ngầu một mầu đỏ.
Quả thật vậy, chúng tôi đã vừa vượt qua được bốn năm đầu tiên gian khổ thiên nan vạn nan nhất trong cuộc đời tù tội và lưu đầy từ miền Nam ra xứ Bắc với những mùa Hè nóng như thiêu như đốt và mùa Đông lạnh cắt vào da thịt của những người tù vốn đã gầy ốm và chẳng còn hơi sức.
Bao nhiêu người đã ngã xuống tan tành như chiếc thuyền nan không qua khỏi cơn bão nhưng những người còn lại thì vẫn đứng thẳng người bước về phiá trước dù là họ chỉ còn như cây sậy hay bộ máy biết cử động theo từng tiếng kẻng đánh thức dậy chuẩn bị một ngày lao động mới và lên chiếc chiếu chỗ nằm của mình theo tiếng kẻng đi ngủ.
Lúc đó khoảng đầu năm một chin bẩy chín khi mà những người tù đang đi đến vực sâu của tuyệt vọng thì bỗng đâu ánh sáng nhiệm mầu hiện ra như nước cam lồ bắt đầu soi chiếu xuống trại giam và hai điều thần kỳ bắt đầu xẩy ra cùng một thời gian đã vực họ sống lại.
Điều kỳ diệu thứ nhất là những chuyến xe chở hàng thăm nuôi bắt đầu đến các trại giam ở miền Bắc để tiếp tế cho những người tù sau bốn năm họ đã phải cố gắng sống còn với khẩu phần ăn ít ỏi, với áo quần mong manh, để chống lại cái lao động khổ sai, cái mưa phùn gió bấc mùa Đông có thể làm họ ngã gục bất cứ giờ phút nào.
Đầu năm ấy, phía trại giam họ thông báo như là một ân huệ của chính sách "khoan hồng nhân đạo" của Nhà Nước cho các người tù được viết thư về gia đình để xin các thứ cần thiết nhưng tuyệt đối không được tiết lộ tên trại nơi giam giữ ở miền Bắc mà phải đề là đang bị giam tại trại giam 50-A Chí Hòa - Sàigòn, miền Nam.
Báo hại cho Mẹ tôi tưởng thật là con mình còn ở miền Nam nên đã chuẩn bị rất là công phu những thứ gì gửi cho tôi đầy cả một giỏ và mang các món ăn nóng mà trước kia tôi rất thích như chả giò, giò lụa, chả quế đem đến tận trại giam Chí Hòa và năn nỉ tên lính gác cho vào thăm tôi.
Tay lính gác đó đương nhiên là từ chối thẳng thừng vì tụi tôi làm gì có mặt tại Chí Hòa thời gian ấy mà cho Mẹ tôi vào thăm với nom.
Cuối cùng năn nỉ mãi không được, Mẹ tôi đành rưng rưng nưóc mắt mà bỏ giỏ quà lại đó cho họ và đi về mà trong lòng dâng lên một niềm căm phẫn khôn nguôi đối với cái chế độ XHCN ác độc này.
Các gói quà đó đã được tập trung hết lại để xe tải quân đội của họ chuyên chở từ Nam ra Bắc hết ba ngày đêm cộng thêm một ngày trại kiểm tra nữa, nên khi tôi ra nhận vào rồi mở ra thì các thức ăn đã đóng thành một khối mốc meo xanh xám không nhận ra được món gì cả.
Trong lúc đang cần thức ăn bồi dưỡng, nhìn gói quà đầu tiên từ gia đình gửi cho sau bốn năm trời không liên lạc, tôi và tên bạn thân là Luận nằm bên cạnh cố gắng mà cũng không phân tích được là món gì trong đó cho đến khi thư của Mẹ tôi trại kiểm duyệt xong đưa lại thì tôi mới thấy tiếc và thương Mẹ tôi cất công đi gửi cho con mà chẳng được gì.
Dầu sao thì cũng còn vài thức ăn khô, một tuýp kem đánh răng Leyna, và vài bộ quần áo lót lấm lem với các mốc xanh xám ấy.
Việc họ cho thăm nuôi nhận quà gia đình chẳng phải vì lòng nhân đạo thương tiếc gì mấy người tù chính trị này mà vì hai lý do.
Lý do thứ nhất là thế giới đặc biệt tại Mỹ và Châu Âu đang dấy lên phong trào cứu giúp thuyền nhân vượt biển, lên án chế độ Cộng Sản cai trị hà khắc phi nhân nên dân chúng đã phải lao ra biển đi tìm Tự Do trong cái chết; và đòi thả hết các tù chính trị.
Lý do thứ hai là số tù chết và bệnh tật trong trại lên cao, những người tù còn sống thì hầu hết đã quá suy dinh dưỡng và sắp hết khả năng lao động để làm ra của cải vật chất cho trại nên phía Nhà Nước Cộng Sản đẩy trách nhiệm qua cho gia đình để họ đỡ tốn kém mà lại được tiếng với thế giới. <
Gia đình thì vì lòng thương xót của cha mẹ dành cho con, vợ dành cho chồng mà cố gồng gánh thêm việc thăm nuôi trên đôi vai vốn đã trĩu nặng những âu lo trong cuộc sống mới dưới chế độ xã hội chủ nghĩa đầy những cam go, tinh thần thì bị khủng bố liên tục, và tương lai thì bất định.
Dầu sao thì những đợt thăm nuôi đầu tiên tựa như giòng suối tiên tưới vào những cành cây đã bao năm khô héo và làm nó sống lại.
Những người tù chính trị như vươn vai đứng dậy sau bao năm say ngủ và sức khoẻ của họ cũng hồi phục được một phần.
Điều kỳ diệu thứ hai cùng trong năm bẩy chín là tất cả tù đã được di chuyển từ các trại Hoàng Liên Sơn ở miền biên giới Việt-Trung và từ Vĩnh Phú xuôi về miền trung du và đồng bằng với khí hậu bớt khắc nghiệt hơn để tránh cuộc chiến tranh sắp xẩy ra giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Việc di chuyển trại khởi nguồn từ một hai năm trước đã xẩy ra tình trạng giết người Việt hàng loạt gọi là "cáp duồn" bên Campuchia, không những nhắm vào thường dân mà các bộ đội Bắc Việt cũng cùng chung số phận.
Thây người bị giết bị chặt đầu thả trôi đầy trên sông. Đa số các đơn vị Bắc Việt tại Miên bị tấn công là thành phần thân Nga Sô.
Để tái lập trật tự và nắm quyền kiểm soát lại Campuchia, phía Hà Nội đã tung ra một cuộc hành quân qui mô với bộ đội chính qui của họ để càn quét Khmer Đỏ bên Miên năm một chín bẩy tám và một chính phủ thân Hà Nội được thiết lâp lên tại Nam Vang.
Việc này đã động chạm đến quyền lợi của Trung Cộng và Bắc Kinh quyết định dậy cho Việt Nam một bài học. Nhờ đó mà hàng chục ngàn người tù chính trị chế độ cũ hầu hết là các sĩ quan đã được vội vã chuyển trại sâu xuống phía nam trước khi cuộc chiến diễn ra tại sáu tỉnh biên giới vào đầu năm một chín bẩy chín.
Tình cờ, anh cả của tôi là Thiếu Tá sư đoàn 5 BB và tôi đã mất liên lạc ngay trước ngày Sàigòn sụp đổ, được chuyển về cùng trại với tôi và hai anh em đã gập nhau thật là ngẫu nhiên một cách lạ lùng.
Mẹ tôi khi hay tin cũng thầm cảm ơn Trời Phật là hai anh em đã gập được nhau và ở cùng một trại để cho việc thăm nuôi dễ dàng hơn.
Tôi cũng rất mừng là có dịp chăm sóc cho anh mình vì ông anh cả của tôi tính tình rất là thờ ơ chẳng để ý đến chuyện gì hết, cho nên bao nhiêu gói quà gia đình gửi vào cho hai anh em, anh ấy giao cho tôi giữ hết để ăn chung và chia sẻ cho các anh em còn thiếu thốn.
Trước đó, tôi chỉ biết anh tôi khóa 20 Võ Bị Đà Lạt và cậu em họ là Tạ Mạnh Huy khóa 19 Đà Lạt cũng bị giam ở miền Bắc nhưng không rõ ở những trại nào vì lúc đó hằng trăm trại giam cho tù chính trị mọc lên như nấm suốt từ Nam qua miền Trung ra Bắc đến tận các vùng biên giới.
Sau một loạt "biên chế" thì buồng giam của tôi nhận thêm ba người mới- đó là ba anh cấp bực Trung Tá làm trong Tổ Điện mà tôi đã có duyên được quen biết.
Ba người tù trong Tổ Điện này là bộ phận duy nhất phụ trách toàn bộ máy chạy điện và các đường dây trong ngoài trại và cũng là những con người mà tôi vô cùng khâm phục về trí thức về sự can trường và cách sống của họ.
Lúc đó, một phần lớn anh em đều đã được gia đình trong Nam, hay thân nhân ngoài Bắc đến thăm, hay gửi hàng qua bưu điện, nhưng ba anh Tổ Điện này thì vẫn chưa. Tôi và một số anh em trong phòng đã đem ít thực phẩm, trà thuốc đến biếu ba anh và rồi quen nhau thật là thân tình lúc nào không hay.
Ba anh gọi nhau theo thứ tự gia đình, anh Hai là người Bắc lớn tuổi hơn, Trung Tá Không Quân có bằng Master khi du học tại Hoa Kỳ, người đọc được bẩy thứ tiếng; kế là anh Ba người miền Nam hiền lành và ít nói, Trung Tá tốt nghiệp kỹ sư Phú Thọ; và anh Tư cũng là người Bắc, Trung Tá Hải Quân rất giỏi về cơ khí.
Ban đầu tôi thân với anh Tư hơn vì anh rất là cởi mở vui vẻ và sởi lởi, nhưng dần dần tôi và anh Hai lại thân hơn vì tôi nhìn thấy ở anh ngoài tính gương mẫu của cấp chỉ huy, là sự hiểu biết uyên bác của anh và sự dũng cảm đương đầu với số phận và không nhận một sự gia ân nào từ phía cán bộ trại và gia đình họ.
Tôi để ý thấy trong buồng giam anh Hai chỉ nói chuyện xã giao với mọi người nhưng lại đặc biệt tâm sự nhiều nhất với tôi mỗi buổi tối trong các buổi trà đàm. Anh có cái dáng dong dỏng cao, bước đi rất là khoan thai lúc nào cũng nhàn nhã và khuôn mặt trí thức với cặp kính trắng và thỉnh thoảng nói chuyện lại cười thật tươi lộ chiếc răng khểnh rất là có duyên.
Công việc của các anh tuy không nặng nhọc bằng lao động ngoài hiện trường hay đồng áng nhưng có những ngày mùa Đông lạnh căm căm giá buốt, mấy anh đi sửa điện cho khu gia binh mà bắt mãi không được mấy con ốc vít vì quá đói làm cho tay run lên và đến hoa cả mắt đành phải ngồi xuống nghỉ một lát.
Bất chợt có một cán bộ nữ có lẽ biết tình cảnh thiếu thốn trong trại nên từ trong nhà đem ra cho các anh một đĩa xôi lạc mà chị ta vừa nấu xong vẫn còn nóng.
Lúc đó, một củ khoai một củ sắn cũng quá là quí rồi chứ đừng nói gì đến xôi lạc nữa là điều không ai dám mơ ước, nhưng anh Hai nhất định bảo anh Tư phải đem vào trả lại và cám ơn họ. <
Chị cán bộ kia lại bước ra ân cần đưa tận tay anh đĩa xôi, nhưng anh vẫn nhất quyết từ chối và cám ơn một cách từ tốn.
Một điều không ai ngờ là người nữ cán bộ này sau đó lại đem lòng thương yêu anh Tư và gửi cho anh những lá thư chứa đầy tình thương và tình người và thổ lộ rằng các anh là thần tượng của khu gia binh và của cô ta nữa và vì các anh hoàn toàn khác hẳn với đám cán bộ luôn bon chen, lừa gạt lợi dụng lẫn nhau mà cô ta phải sống và làm việc cạnh nhau hàng ngày.
Anh Tư có lần đã cho tôi xem một phần bức thư ấy và nói rằng anh rất cảm động nhưng hai chiến tuyến ngăn cách và anh đã gập người phụ nữ ấy và nói rằng anh rất cám ơn tình cảm chân thành dành cho anh nhưng anh không thể đáp lại tình cảm ấy được nhất là tin tức gia đình anh vẫn biệt tăm mấy năm nay.
Tối hôm đó, tôi ngồi tâm sự rất lâu với anh Tư và hết sức an ủi anh rằng gia đình anh chắc còn khó khăn chưa xin phép địa phương đi thăm anh được mà thôi. Nhưng có điều tôi cũng không ngờ rằng sau này chính tôi lại rơi vào tình trạng bi thương tương tự như vậy.
Những nghĩa cử mà tổ điện đã giúp đỡ cho khu gia binh đã làm cho họ nhìn chân ra được sự thực là những người tù này chẳng phải ăn gan uống máu người như phía Nhà Nước họ vẫn tuyên truyền mà là những người đầy lòng nhân ái luôn giúp đỡ tận tình cho khu gia binh không nề hà khó nhọc, không những về điện nước mà còn phổ biến cả kiến thức phổ thông giúp cho họ hiểu cách sống và cách ăn uống như thế nào để phòng tránh bệnh tật và còn chỉ dậy cho con cái họ nữa.
Từ khi các anh lo cho đường dây điện của trại thì tình trạng bị cúp điện ít khi xẩy ra nữa và cái máy phát điện cũ kỹ từ thời Pháp để lại cũng được sửa chữa và thay thế nhiều bộ phận cần thiết nên ít hư hỏng hơn trước.
Không những tay cán bộ Tổ Điện tỏ ra có thiện cảm và nể nang với cả ba anh thợ điện dưới quyền mình mà hầu như toàn thể khu gia binh đều bàn tán nhiều về ba người tù học thức và "khác thường" này.
Chính ba anh cũng là một trong nhiều anh em đã biến đổi cách nhìn của cán bộ trại đối với tù chính trị từ hận thù qua cảm thông và không khí ngột ngạt không còn nữa và phía bên tù hình sự cũng tự nhiên ngưng các việc chửi bới vu vơ và nhục mạ nhắm vào bên tù chính trị.
Trong thời gian quen biết và ở cùng phòng với ba anh trong Tổ Điện tôi học hỏi được rất nhiều, không những về kiến thức, sự nhận xét tinh tế của anh Hai, sự thâm trầm bình thản chấp nhận số phận của anh Ba và sự năng động thích ứng với mọi hoàn cảnh của anh Tư; mà nhờ đó sau này tôi biết cách ứng xử và thich nghi nhanh hơn với mọi tình huống để tồn tại khi mà càng về sau lại càng đòi hỏi người tù một tinh thần vững vàng bình tâm hơn nữa nêú muốn sống còn.
Thời gian đó, ngoài việc gia đình đến thăm đem lại nguồn sống cho những người tù về vật chất mà còn làm tinh thần họ vươn lên cao khi biết tin tức gia đình, và nhất là tin tức về những hội đoàn như Hội Tù Nhân Chính Trị của bà Khúc Minh Thơ, của các cá nhân Việt-Mỹ đã tranh đấu với chính phủ Mỹ để làm áp lực buộc Hà Nội phải sớm thả hết các tù nhân, và về sự đặc biệt quan tâm của Tổng Thống Ronald Reagan đối với vấn đề tù chính trị.
Một điều tôi không ngờ là tin tức của ba anh thợ điện, đúng ra là từ anh Hai lại vô cùng chính xác về những cam go trong các công cuộc tranh đấu này. Những tin tức anh cho biết, tôi lại thông báo kín đáo cho các bạn thân và nhờ đó mà hầu hết anh em đều hay tin vui này và giữ được sức khoẻ để đi nốt quãng đường còn lại.
Khi biết với phương tiện nào mà các anh đã thâu lượm được những tin tức quí giá và hoàn toàn chính xác như thế thì tôi lại càng khâm phục ba anh, nhất là anh Hai là người đầu não của tổ đã có những s áng kiến thật là độc đáo về kỹ thuật thông tin.
Cũng nhờ vào những tin tức phấn khởi liên tục như vậy từ những gia đình thăm nuôi đem đến và từ anh Hai tiết lộ cho tôi và vài người bạn thân trong nhóm, rồi loan truyền đi qua các buồng giam khác đã thực sự đem đến cho chúng tôi một niềm tin rằng mình sẽ có ngày trở về.
Bởi vì Cộng Sản Việt Nam đã dập khuôn đúng theo trại tập trung "cải tạo" của Liên Xô, cứ hết ba năm tù thì lại chồng thêm ba năm nữa không cần kêu án và người tù cũng không cần phải ra trước tòa làm gì mất thì giờ.
Bởi vậy khi người dân ngoài Bắc nghe đến chữ tập trung "cải tạo" là họ đều rùng mình sợ hãi còn hơn là bản án tù chung thân.
Tôi gập hai cậu nhỏ có lẽ chỉ 17 tuổi bên tù hình sự, cả hai đều bị bắt về một tội là trộm một con gà nhưng cái cậu bị bắt quả tang thì lãnh án 5 năm còn cậu kia chỉ vì bạn mình khai ra thôi và dù là không bị bắt quả tang thì bị lãnh án tập trung cải tạo.
Sau ba năm được giảm án, cậu bé 5 năm tù được thả ra về còn cậu kia vẫn còn trong tù vì hết ba năm rồi thì tự động cứ chồng thêm ba năm án tù tập trung nữa không cần xết xử bởi gia đình cậu ta chẳng có tiền mà đút lót cho chuyển qua có án.
Luật pháp dưới chế độ XHCN là như vậy đấy.
Từ khi có gia đình đến thăm, hình như cái nghiệp chướng tù đầy cũng vơi đi nhiều và chúng tôi tìm thấy niềm vui bên cạnh nhau uống chén trà hút
điếu thuốc và hàn huyên mỗi buổi tối.
Những cuối tuần vào tối thứ Bẩy thường hay có party văn nghệ bỏ túi và không ngờ trong anh em xuất hiện nhiều tài năng, có những người hát rất hay đàn thật giỏi. Trong caí không khí vắng lặng của trại giam, vì các cán bộ trại đều kéo hết ra chơi ngoài thị xã ngay từ chiều thứ Bẩy, những bài hát tình cảm ngày xưa như "Chiều trên phá Tam Giang", "Thuyền Trăng", "Thiên Thai","Nha Trang Ngày Về", "Hòn Vọng Phu", "A time for us", "Love Story", v.v. đã như cho ta sống lại cái không khí của ngày nào thật thơ mộng và êm đềm, ngày nào thật là hạnh phúc khi còn ở Sàigòn năm xưa và tạm quên đi số phận tù đầy.
Các cán binh đi gác hay đi tuần tra ban đêm không ngờ cũng là những khán giả thuờng xuyên của các phòng trà bỏ túi đó.
Ban đầu thì họ khuyến cáo giải tán văn nghệ đi để đi ngủ, nhưng anh em đưa cho họ điếu thuốc ba số 5 hay bi thuốc lào ngon, chung nước trà móc câu thì họ đều ngồi lại bên ngoài cửa song sắt bỏ cả súng ống qua một bên để nghe nhạc.
Nhiều lúc họ kéo nhau hai ba đứa đến một lúc bỏ cả canh gác, ngồi ngoài cửa sổ cùng uống trà hút điếu thuốc và cùng thưởng thức những bản nhạc ngày xưa và còn yêu cầu các bài bài mà họ thường nghe tại các party bỏ túi này. Họ nói rằng nhạc của các anh hay quá và thích nghe hơn là các bài hát tuyên truyền vẫn phát ra rả hàng ngày qua loa phóng thanh.
Anh Hai cũng tâm sự với tôi rằng trước kia vì có bằng cấp bên Mỹ nên khi về nước, anh đã được đơn vị biệt phái qua làm việc với một bộ phận Quân Báo của Đệ Thất Không Đoàn HK trong Tân Sơn Nhất và được người Mỹ rất tin cậy cho nên được tháp tùng theo trong một vài phi vụ bí mật thử các loại vũ khí mới của HK trên chiến trường miền Nam.
Anh nói rằng người Mỹ họ không muốn chiến thắng chứ với những vũ khí tối tân như hiện nay chiến lược biển người kiểu như Việt Minh tại Điện Biên Phủ 1954 hay Trung cộng áp dụng biển người tại cuộc chiến Triêù Tiên 1950 đã hoàn toàn lạc hậu và hoàn toàn vô tác dụng.
Để giải vây cho một tiền đồn của một đại đội Dù 101 Mỹ trên ngọn đồi trong vùng Khe Sanh đang bị hai trung đoàn quân Bắc Việt bao vây với ý đồ sẽ làm cỏ đại đội này, không quân HK đã được trưng dụng để thử một loại vũ khí mới.
Hai trái bom đã thả xuống hai trung đoàn địch là loại bom nhằm hút hết chất nước trong người ra trong chu vi một cây số vuông. Chỉ nửa tiếng đồng hồ sau thì không còn nghe những tiếng gào thét tấn công man rợ của lính Bắc Việt nữa và chiến trường đột nhiên im tiếng súng vì quân Bắc Việt đã âm thầm tháo chạy hết bỏ cả cờ xí, súng ống.
Không quân HK còn đem thử cả loại súng bắn bằng tia Laser để triệt hạ một họng pháo phòng không mà Bắc Việt đã dấu trong lòng núi cũng trong khu vực Khe Sanh.
Khẩu phòng không này rất lợi hại vì ẩn trong núi nên nó đã hạ nhiều loại máy bay của VNCH và Mỹ bay qua trong vùng làm cho tôi nhớ đến cuốn phim "Les Canons de Navarrone" với hai họng súng khổng lồ của Đức Quốc Xã dấu trong hang núi đã bắn chìm bao nhiêu chiến hạm Đồng Minh khi qua vùng vịnh đó và cuối cùng nhờ đến toán biệt kích Anh Mỹ xâm nhập được vào tận nơi mới đặt mìn triệt hạ được hai họng đại pháo này.
Loại súng gắn tia Laser này được đặt trên một vận tải cơ và khi đến nơi nó đã cắt họng súng phòng không của Bắc Việt ra từng mảnh như cắt bánh và ánh sáng của nó đã làm cho các pháo thủ địch bị mù mắt chỉ còn biết đắt díu nhau xuống núi.
Anh nhìn tôi và nói rằng tiếc là người Mỹ họ không giúp chúng ta đến nơi đến chốn chứ chúng ta không thua trận.
Trong ba người, anh Hai lại đặc biệt hợp với tôi và mỗi lần chín giờ đêm khi anh tan ca trực và được đưa lại vào buồng giam cũng đi ngang qua chỗ tôi nằm nói nấu ít trà.
Lúc đó tôi biết ngay là anh có điều gì muốn kể lại sau một ngày ra ngoài công tác hay có được tin gì hấp dẫn, và thời gian cứ thế tuần tự trôi đi cho đến vài năm sau thì ba anh được chuyển trại vào trong Nam và chúng tôi xa nhau từ đấy.
Tối hôm ấy anh kể cho tôi nghe hai chuyện đáng chú ý.
Câu chuyện thứ nhất chiều hôm đó khi anh đang đứng canh máy điện cạnh một con đê chạy sang một làng bên kia sông thì thấy một bà cụ chống gậy định đi hướng vào ngôi làng thì rẽ qua gập anh.
Nhìn cái áo Treillis mầu hoa rừng anh đang mặc hỏi có phải anh là tù chính trị trong trại không và cấp bực gì rồi cho anh vài cái bánh lá.
Anh không dám nhận sau khi cám ơn bà cụ thì bà cụ nhìn anh một cái nhìn vừa thương mến vừa trách móc:
-”Thật là đẹp mặt nhỉ! Chúng tôi cứ ngỡ là các anh ra đây giải phóng ngoài này chứ ai đâu ngờ ra nông nỗi này", và cụ thở dài:
-"Âu thôi cũng là số Trời đã định.”
Anh nói rằng lúc đó, tuy anh là con người rất cứng rắn chưa hề nhỏ một giọt nước mắt dù đau khổ đến đâu trong suốt bốn năm qua, nhưng không hiểu sao câu nói ấy đã khơi dậy một nỗi đau sâu kín nhất trong lòng và bất chợt anh quì xuống xin lỗi cụ vì mình bất tài đã không giữ được nước.
Những giọt nước mắt anh cứ tuôn ra không thể cầm lại được nữa trên đôi gò má sạm nắng như cho vơi đi những u uẩn trong lòng bấy lâu nay, trong tiếng xào xạc của ngọn gió từ bờ sông thổi qua rặng cây bên đường trong khi ráng chiều đang ửng lên cho một ngày nữa lại sắp tàn trên con đê vắng bóng người.
Nhìn dáng cụ chậm rãi bước trên con đê quanh một giòng sông nhỏ là nhánh của sông Hồng về phía ngôi làng bên kia sông, anh thầm nghĩ bà cụ là ai hay một vị tiên vừa giáng xuống an ủi những tù nhân?
Tối hôm đó hai anh em tôi mắt đều đỏ hoe, điếu thuốc và chén nước trà sao nghe thật đắng trên môi và trong lòng một nỗi u hoài không sao ngủ được khi nhớ đến lời nói trách móc nhẹ nhàng nhưng thấm thía của bà cụ trên con đê chiều nay.
Không phải là các anh trong những Biệt Kích nhẩy toán ra miền Bắc mà tôi đã được gập tất cả đều trông mong QLVNCH chúng ta ra Bắc giải phóng cho họ mà trong thâm tâm người dân cũng mong có ngày đó.
Nhưng than ôi đúng là Định Mệnh quá khắc nghiệt và số Trời đã định để chúng ta thành kẻ bại trận như lời bà cụ.
Câu chuyện thứ hai là con Ma dấu mặt.
Lý do là dạo này điện chạy cả đêm cho nên các anh và cả tay cán bộ Tổ Điện cũng phải thay nhau ngủ canh máy điện suốt đêm ngoài cái chòi bên con đê.
Tối nào cứ vào giấc khoảng một giờ sáng thì các anh thấy mặt mình lạnh toát hóa ra y như có ai lật cái chăn mền đang đắp.
Anh Tư là người dạn nhất nên đã quyết tâm tìm ra thủ phạm và đêm hôm qua anh Tư trực nằm đắp chăn nhưng cố gắng không ngủ dù là rất mệt mỏi thì quả thật qua nửa đêm anh thấy rõ ràng một bàn tay người con gái mặc đồ trắng lật tấm chăn xuống, anh vùng dậy thì chỉ thấy một bóng trắng mà khuôn mặt thật mờ ảo nhẹ nhàng lướt đi về phía con sông rồi biến mất.
Các anh hỏi tay cán bộ thì hắn cũng xác nhận rằng hắn ta cũng thấy đúng như vậy vì vùng này họ đặt tên cho nó là con Ma dấu mặt.
Có lẽ là một thiếu nữ nào đó ở làng bên đã chết oan tại con sông này và không siêu thoát được.
Ba anh trong tổ điện cũng là những người đã đóng góp nhiều vào sự thành công phải nói là vang dội của đội văn nghệ của trại và làm thay đổi hẳn 180 độ cách đối xử của trại đối với tù chính trị.
Số là năm đó trại quyết định thành lập một đội văn nghệ và giao trách nhiệm cho bên tù chính trị để thành lập đội.
Các anh em có năng khiếu lần lượt được chuyển vào đội này.
Lúc đó tôi vẫn còn bên đội gạch, là một đội lao động nặng nhất trong trại, một đội trừng giới mà bất cứ anh em nào bị kỷ luật thì đều bị đưa về đội này như một hình thức tiếp tục trừng phạt.
Mãi hơn một năm sau, vài người bạn có lẽ thương tình hay sao mà tìm cách kéo tôi về được đội văn nghệ và nhờ đó mà tôi được đi theo trong một chuyến lưu diễn tại cây số 60 - một kỷ niệm không bao giờ quên được trong đời.
Ba anh tổ điện cũng nằm trong nhân số của đội để lo cho phần âm thanh và ánh sáng và thành phần nhân tài cũng rất là đông đảo.
Linh hồn của đội lúc bấy giờ phải nói tới các nhạc sỹ ghi-ta như anh Cầm, trung úy - đội trưởng, anh Qúi biệt danh Quí Lùn - đại tá, soạn hòa âm, anh Sỹ - thiếu úy, violon là bác Định. Các ca sĩ như anh Bửu Uy kiêm về hòa âm và hát bè, Tuấn, Hùng, Công, V.T. An, Bình - đại uý pilot trực thăng.
Cải lương vọng cổ kép chánh là anh Diệp Tùng, anh Đẹp, Hùng đen, ông Hữu Vị trung tá; phụ trách designer là anh Linh - đại uý pilot với ria mép rất bảnh trai.và những anh đàn vọng cổ, v.v.
Bước đầu là vô cùng gay go vì trại họ muốn hát các bài của họ nhưng phía anh em đều phản đối.
Nhóm đầu não của đội mới ngồi lại bàn bạc trong đó cũng có các anh thợ điện và cuối cùng đã đưa ra được một chương trình dung hòa bao gồm vài bài hát tình cảm nổi tiếng thời bấy giờ của họ kèm theo những bài hát Anh, Tây Ban Nha, Pháp, kết hợp với các vũ điệu.
Sau nhiều lần thuyết phục, tay quản giáo văn ngh ệ nói trại chịu chương trình văn nghệ đầu tiên đó và cho tập dượt.
Chương trình này, ngoài ba tiết mục vọng cổ và tân cổ giao duyên, còn lồng trong những vũ điệu rất là lả lướt là các bài hát nhạc Pháp, Anh, Tây Ban Nha như “Un Homme Est Venu”, “Dans Le Soleil Et Dans Le Vent”, “Main Dans La Main”, “La Paloma”, "Beautiful Sunday", v.v, và một vở hài kịch.
Bản nhạc Guantanamera, lời Tây Ban Nha, được dàn dựng thành một ca khúc mở màn với hợp ca hai bè và vũ khúc với hai anh Linh và Tân nhẩy múa theo điệu Habanera trong y phục Mễ Tây Cơ và mũ rộng vành sombrero.
Khi bắt tay vào mới thấy thật nhiều khó khăn trở ngại vì mọi thứ đều thiếu thốn từ quần áo, make up, đến nhạc cụ, nhưng mọi người đều quyết tâm và nói như họ là tạo "khí thế".
Khi chương trình đầu tiên trình diễn trước trong trại thì ngoài cơ quan đều kéo rốc hết vào xem hết. Chương trình đầu tay đó đã thành công ngoài dự tính vì không ngờ là dân ngoài Bắc lại rất mê cải lương và các bài hát phương Tây cùng các vũ điệu mà chúng ta vẫn nhẩy trong Nam trước kia nên thành công bất ngờ ấy đã như là một chấn động vang xa ra đến tận Hà Nội.
Các buổi diễn sau đó thì khu gia binh và cả thân nhân họ từ Hà Nội cũng vào xem, tay quản giáo nói là họ mê nhất là vũ khúc mở màn bài Guantanamera và các bài hát Tây phương và vọng cổ.
Thời gian đó, hầu hết khu gia binh đều không còn che dấu tình cảm của họ dành cho đội nữa, mỗi khi gập chúng tôi đi lao động gần khu họ ở hay gần cơ quan thì các cán bộ nữ và các bà trong bếp chạy ra hỏi thăm tíu tít.
Họ mượn đâu ra hai cây đàn ghi ta và yêu cầu chúng tôi hát ngay tại một gốc cây cạnh hiện trường lao động bài "Beautiful Sunday" và nghe một cách say mê.
Thế rồi lúc đó khoảng năm một chín tám mốt, bất ngờ trại quyết định cho đội văn nghệ đi lưu diễn qua trại cây số 60 và cho đồng bào xem.
Đây cũng là một dấu mốc quan trọng cho sự chuyển hướng về thái độ của họ đối với tù chính trị.
Chúng tôi có ba ngày để chuẩn bị cho buổi lưu diễn và sau đó tất cả khoảng gần ba chục người lên ba chiếc xe vận tải hở mui cùng tất cả phông màn trang trí phụ tùng trực chỉ cây số 60.
Trại này lấy tên cây số 60 vì cách thị xã đúng 60 cây số.
Trước kia, một số anh em cấp Trung Tá đã bị giam giữ ở đây nhưng bây giờ chỉ còn toàn tù hình sự.
Ba chiếc xe chay bon bon trên con đường độc đạo về phía cây số 60, nhiều lúc chúng tôi phải thụp xuống vì những nhánh cây to bên đường có thể quét văng ra khỏi xe lúc nào không hay.
Một vài anh không để ý thì người mất nón lá người mất cái mũ.
Lần đầu tiên ra khỏi trại giam sau hơn sáu năm trời, chúng tôi thấy cái gì cũng lạ lẫm, nhất là những ngôi nhà lá vách đất trong những khu làng nghèo xơ xác với những con trâu già ì ạch như không kéo nổi cái cầy nữa bên người nông phu cũng luống tuổi. Có lẽ trai tráng thanh niên đều đã ra đồng hay lên núi lao động hết rồi.
Khi vào đến sân trại, chúng tôi được tiếp đón như là các người khách chứ không như tù nhân và được cho ở riêng một căn buồng giam.
Nhìn điều kiện vệ sinh rất thấp kém của trại này và tình trạng thường xuyên khan hiếm nước, chúng tôi đã hiêủ vì sao các anh Trung Tá bị giam ở đây truớc đó đã ngã bệnh rất nhiều đưa đến một số tử vong vì tiêu chẩy và kiết lỵ.
Trại chỉ có một giếng nước và cứ đến mùa khô là nó cạn chỉ còn trơ đáy giếng đầy đá lởm chởm và để có nước nấu ăn, nhà bếp đã phải ngày ngày kéo các xe cải tiến với các thùng phuy to đi xa vài cây số ra các làng bên để xin nước chở về.
Các tù nhân phải tự túc về nước uống cho nên khi ra lao động phải tắm tại một nhánh sông nhỏ và đem ít nước về trại để dùng.
Nhưng nhánh sông ấy vào mùa Hè thì cũng cạn trơ cả lòng sông và chỉ còn ít nước cho nên nhiều lúc tù nhân phải vục xuống các vũng trâu nằm mà uống nước nên hầu hết đều bị bệnh đường ruột.
Buổi chiều khi kẻng tan giờ lao động, các tù hình sự lần lượt theo đội mà nhập trại, họ như những bộ xương còn biết đi và phấp phới bay trong bộ quần áo rộng thùng thình đi đầy sân trại để lãnh phần ăn chiều là mấy củ sắn khô. Một hình ảnh thật là ghê rợn của trại tù miền Bắc.
Nhìn họ, tôi nhớ đến chúng tôi một v ài năm trước cũng chẳng khá gì hơn và vẫn thắc mắc tại sao họ còn sống được trong điều kiện mất vệ sinh và thiếu ăn thiếu cả nước uống như vậy?
Chỉ có những tù phục vụ trong nhà bếp và trật tự viên là còn có da có thịt vì được trại ưu đãi cho phần ăn khá hơn.
Khẩu phần ăn cho chúng tôi tương đối khá hơn một chút vì có thêm ít mỡ màng bồi dưỡng và khi đang ăn thì một số tù hình sự đến gần nhìn rất là thèm thuồng.
Anh em chúng tôi bèn nhường bớt phần ăn cho họ và lấy phần lương khô đem theo ra ăn một chút cho đỡ đói vì ai cũng mệt vì chịu sóc trên xe vận tải hai tiếng đồng hồ, bởi nhiều khúc con đường lởm chởm đá mà tài xế vẫn không giảm tốc độ có lẽ muốn đến cho đúng giờ quy định.
Buổi tối lúc giăng mùng đi ngủ chúng tôi mới thấy hãi hùng vì từ trong vách tường đất nứt nẻ hiện ra hàng đoàn rệp bò như xe tăng xuống dọc theo tường và vào đầy các chỗ nằm; và dù có tấn mùng kỹ cách nào thì nó cũng chui vào được để xin tí huyết.
Anh Phát nằm cạnh tôi, người Huế và rất là hiền lành thì niệm Phật và cười: "Thôi thì tối nay anh em mình cũng hoan hỉ cho chúng một bữa ăn no vậy thôi, có lẽ chúng đói cũng lâu rồi vì buồng naỳ có vẻ như bỏ trống một thời gian rồi, nhện giăng đầy bốn góc."
Báo hại mỗi buổi sáng thức dậy chúng tôi phải lôi hết mùng màn ra sân nắng bắt từng chú rệp một cả hai tiếng đồng hồ mới xong để chuẩn bị cho một màn chiến đấu nữa với xe tăng rệp vào ban đêm.
Để quảng cáo cho dân làng chung quanh và những nơi xa xôi bên kia rặng núi về chương trình văn nghệ tân cổ giao duyên này, một điều lý thú là trại cho một số anh em chúng tôi mặc quần áo dân sự đi theo trên hai chiếc xe díp có vẽ bảng quảng cáo đầy mầu sắc gắn hai bên xe là..."Đoàn Cải Lương Sàigòn 7" sẽ lưu diễn hai đêm trong và ngoài trại để đồng bào đến xem.
Anh em chúng tôi thực sư ngạc nhiên vì không ngờ họ bốc phét ngang nhiên như vậy nhưng chỉ cười không nói gì vì thấy mấy tay cán bộ trại có vẻ thực sự thích thú vì đã từ lâu họ cũng không được xem một tuồng tích cải lương nào.
Sau buổi diễn thành công trong trại cho tù hình sự xem, anh trật tự chính của tù hình sự đến thăm chúng tôi bầy tỏ lòng ngưỡng mộ và không ngờ ít lâu sau anh ta được chuyển về cùng trại với tụi tôi và trở thành một tay đắc lực đã ngầm giúp nhiều lần mua bán các thực phẩm cần thiết cho anh em chúng tôi một thời gian dài.
Tên anh ta gọi là anh Binh, lúc đầu tôi tưởng là tên cha mẹ đặt cho, sau hỏi ra mới biết đó là biệt hiệu vì dáng anh cao lớn và tên tù nào lạng quạng là bị "binh" ngay thôi cho nên đám hình sự rất là sợ anh ta. Không hiểu sao, đặc biệt với tôi và mấy anh Tổ Điện, anh tỏ ra nhiều cảm tình và nhất định mời vài anh em qua buồng anh để thết đãi vài chung rượu trắng.
Ở một nơi thâm sơn cùng cốc này nước còn không đủ uống mà đem rượu ra mời thì phải là khách quí lắm cho nên tôi đưa mắt nhìn anh Tư và anh gật đầu.
Khi tôi và anh Tư qua thăm họ xã giao thì thấy chỗ anh nằm đã được quét dọn sạch sẽ, anh trải chiếu mới mời ngồi rồi rót ba chung rượu chúc mừng sự thành công.
Anh nói rằng anh rất cảm phục những người tù chính trị từ khi các anh Trung Tá còn ở đây vì tác phong, nhân cách và lòng thương người của các tù chính trị đối với phía hình sự.
Anh Binh nói rằng buổi diễn tối mai cho dân chúng sẽ còn thành công hơn nữa vì tâm lý khán giả bây giờ thích xem và nghe nhạc tây phương, cổ nhạc và các bài hát về quê hương Hà Sơn Bình như chúng tôi trình diễn hơn là chương trình nặng về tuyên truyền của các đoàn văn công trung ương.
Từ đó tôi hiểu được rằng không kể những người tù, mà lòng người dân ngoài Bắc cũng đã quá chán ngán những bài hát ca tụng chiến tranh sắt máu nhưng không dám công khai chống lại thôi.
Sáng hôm sau, chúng tôi có cơ hội hiếm có và là lần đầu tiên trong hơn năm năm trong tù là tản bộ ra ngôi làng gần bên để xem dân cho biết sự tình. Hai tay cán binh đưa chúng tôi đến một quán nước thì hẹn sau hai tiếng sẽ quay lại đón rồi biến mất.
Ngôi làng quê này sao giống y như trong các sách của Tự Lực Văn Đoàn ngày xưa mà các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng hay Thạch Lam đã mô tả.
Cũng những mái tranh nghèo, những con đường đất quanh co bên vài thửa ruộng cằn cỗi, lũy tre làng một mầu xanh ngát bao quanh, ít hàng quán mà đa số chỉ là quán bán nước chè xanh, trà móc câu, vài nải chuối, ít kẹo lạc, thuốc lào, vậy thôi, và người dân làng thì chất phác hiền lành suốt đời chỉ quanh quẩn trong thôn xóm với ruộng đồng nương khoai; nhiều cụ già trong làng cũng chưa hề biết đến thành phố thị xã là gì.
Chúng tôi xin một bình trà và hai chị em đưa ra một giỏ ấm trong đó có một bình trà bằng sứ còn nóng và rót ra các cái chung nhỏ xíu nhưng uống thì rất là thơm ngon.
Hai c ô b é h àng n ư ớc kho ảng ch ừng m ư ời t ám đ ôi m ư ơi v à da
tr ắng ch ứ không rám nắng như các thôn nữ khác và ăn nói thì lại dịu dàng.
Khi biết chúng tôi trong đoàn văn nghệ thì cô em gái yêu cầu hát một bài nhạc xưa và khi anh Hùng đen vừa ca tân nhạc rồi cổ nhạc chay, vì không có đàn, thì cô em nắm trong tay tờ hóa đơn gì đó và nghe say sưa đến vò nát tờ giấy lúc nào không hay.
Khi trả tiền tôi loay hoay mãi đếm không xong vì chưa quen với tiền hào tiền xu của họ, hai cô em nhất định không lấy tiền bình trà nhưng chúng tôi cứ bỏ tiền lại trên bàn rồi nhắn họ vào xem văn nghệ đêm hôm sau rồi rút lui.
Hóa ra chị em cô hàng nước là một trong số những gia đình người Hà Nội ngày xưa đã bị đuổi ra khỏi thành phố và tống lên vùng hoang vu này khi Việt Minh nắm chính quyền sau tháng bẩy năm 1954.
Một số không nhỏ những người gốc Hà Nội này đã kiệt sức chết vì khí hậu của nơi rừng thiêng nước độc và vì thiếu thuốc men và thực phẩm.
Kỷ niệm khó quên là buổi diễn tối hôm sau ngoài trại dành cho đồng bào.
Từ trưa chúng tôi đã chuẩn bị sân khấu, căng phông màn cho các tuồng tích rất là chu đáo vì nghe nói ở đây hàng chục năm cũng chưa có đoàn văn nghệ nào đến lưu diễn nên anh em chúng tôi cố gắng để lại cho dân làng một kỷ niệm tốt đẹp về những người tù chính trị.
Trại dành cho chúng tôi có lẽ là một đặc ân vì mỗi người được một thùng nước giếng để tắm rửa chuẩn bị cho màn biểu diễn buổi tối.
Dự trù 7 giờ tối khai mạc chương trình nhưng khi 6 giờ hơn rồi tôi nhìn xuống bãi cỏ rộng mênh mông dành cho khán giả chỉ thấy lèo tèo vài đám con nít và người già và nghĩ rằng buổi diễn chắc phải hủy bỏ.
Thế nhưng chỉ một lát sau khi trời sập tối thì tôi thật ngạc nhiên khi thấy một quang cảnh kỳ lạ chưa nhìn thấy bao giờ và không tin vào mắt mình nữa, là từ phía bên kia rặng núi, đồng bào Kinh và Thượng đi nối đuôi nhau như rồng rắn với những bó đuốc sáng rực trên những con đường mòn chạy quanh để vượt dẫy núi mà hướng về phía trại.
Chỉ một giờ sau thì bãi cỏ đã đầy kín những người là người không còn chỗ trống. Một số đồng bào trong đó có hai chị em cô hàng nước hôm qua cũng có mặt và còn đem lên tặng chúng tôi n ào l à chuối, đu đủ mà họ trồng trong vườn.
Khi mở màn thì khán giả mới biết đây là đoàn văn nghệ của tù chính trị nhưng họ vẫn vỗ tay và ở xem cho đến tiết mục cuối cùng sau ba tiếng rưỡi đồng hồ.
Tiếng vỗ tay của khán giả vang dội cả một khu vực trại giam khi hạ màn và nhiều người còn quyến luyến chưa chịu về.
Có người nói họ đi bộ hơn mười cây số từ bên kia rặng núi qua để xem văn nghệ, có người nói là họ đạp xe đạp suốt ngày lúc tờ mờ sáng từ nhà để đến xem cho kịp.
Trước khi tản ra về vì màn đêm đã buông xuống tối sẫm cả bầu trời, khán giả đều vẫy tay chào các người nghệ sỹ bất đắc dĩ là chúng tôi và với những thái độ rát chân thành họ chúc cho chúng tôi mau được trở về đoàn tụ với gia đình thật là cảm động.
Ngày hôm sau là ngày cuối cùng tại trại cây số 60 và điều bất ngờ là từ sáng tôi và một số bạn được đánh thức dậy để đi thăm chùa Hương Tích vì chỉ cách trại này có ba ngọn núi thôi.
Quả thật tôi cứ ngỡ như trong mơ có một dịp may như vậy, nhưng phải trèo qua ba ngọn núi mới đến chùa Hương được.
Anh em chúng tôi khoảng bẩy người ráng lắm cũng chỉ vượt được hai ngọn núi vì phải có một tay cán binh leo trước dẫn đường, leo từng nấc một, có lúc dễ nhưng nhiều khi chênh vênh tốn thời gian mới leo qua được một khúc cho nên trước khi đến qủa núi thứ ba thì hết giờ và đành phải tiếc nuối quay về vì xe vận tải đang chờ.
Lối đi mòn này là của dân điạ phương thường vượt phía sườn núi bên này để đến chùa Huơng chứ không phải là con đường chính thức vào động Hương Tích.
Chỉ có toán anh em đi lên núi từ năm giờ sáng thì đã đến được Chùa Hương và mua về được một số kỷ vật.
Tôi cứ tiếc mãi là đã vượt qua hai phần đường rồi mà vô duyên nên không kịp đến thăm được động Hương Tích, không được đảnh lễ Phật Bà nơi có ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng nhất miền Bắc này.
Vài năm sau thì tất cả các trại giam tù chính trị đều tập trung về trại Ba Sao - Nam Hà rồi một đợt lớn di chuyển tù nhân vào Nam năm một chín tám ba trong đó có anh cả của tôi và ba anh trong tổ điện.
Tôi mừng cho anh tôi và các bạn được xuôi trên chuyến tầu vào Nam, miền quê hương nắng ấm, gần gia đình hơn nhưng họ cũng đem bao nhiêu là tình cảm và kỷ niệm trong tôi theo với chuyến tầu.
Một năm sau nữa là năm một chín tám bốn, tôi được tin anh tôi và một số sĩ quan cấp tá đã được thả ở trong Nam.
Sau đợt di chuyển tù vào Nam, thì đội văn nghệ giải tán và chúng tôi những người còn lại vẫn tiếp tục con đường "cải tạo" qua lao động.
Mỗi khi nghĩ lại những quãng đường trong cuộc đời mình đã đi qua, tôi nghiệm thấy rằng hình như con người ta có số mạng.
Trên những chặng đường mình đi, hình như Định Mệnh đã an bài để ta gập những người bạn nào đó trong giai đoạn khó khăn ấy ngõ hầu giúp cho ta thêm kiến thức, thêm phong cách, thêm hiểu đời hơn, sức chịu đựng bền bỉ hơn, rồi sau đó họ tự nhiên biến mất y như khi họ bất ngờ xuất hiện.
Tôi muốn nói đến những người bạn thân trong tù mà tôi đã sống chung một thời gian chia sẻ những vui buồn, trong đó có ba anh thợ điện mà tôi rất mến phục.
1 2 3 4 5 6 7
HỒI KÝ NHỮNG NGƯỜI TÙ CUỐI CÙNG CỦA PHẠM GIA ĐẠI - KỲ 2
1 2 3 4 5 6 7
Thiên Hồi Ký về "Những Người Tù Cuối Cùng" nhằm nói lên tinh thần bất khuất, sức chịu đựng phi thường cùng lòng dũng cảm và sự tương thân tương ái của những quân dân cán chính VNCH đã bị giam giữ, lưu đầy trong các trại gọi là "Tập Trung Cải Tạo" của Cộng Sản sau khi miền Nam sụp đổ vào ngày 30-4-1975.
Thiên Hồi Ký cũng để nêu lên những sự diệu kỳ và linh thiêng của Ơn Trên, của Trời Phật của Mẹ Việt Nam đã che chở cho những người tù....trong nhà tù CS.
Đọc xong thiên Hồi Ký này, chúng ta sẽ thấy những sự tuyên truyền xuyên tạc của Cộng sản nhắm vào chế độ VNCH đã từ từ tan rã như bọt nước; và những sự trả thù tàn bạo của Cộng Sản dành cho những người tù chế độ cũ đã không thành công như ý chúng muốn và thế cờ đã được lật ngược như thế nào.
Phần VII: Thước Đo Lòng Người
Năm đó đột nhiên Trời nắng hạn, cây cỏ đều ủ rũ vì thiếu nước, trâu bò thì phì phò mệt nhọc trong đám ruộng thưa và cái nóng như gia tăng theo với cái khô khan trong không khí làm con người như muốn nghẹt thở, nhất là trong các buồng giam chật hẹp và chật ních người.
Tất cả đều tìm một bóng mát của một tàng cây rợp lá hay chút mát lạnh của ao nước bờ sông hay nhớ lại những ngày mưa bão. Nhiều người thì nghĩ sắp có thiên tai hay dịch bệnh vì chưa bao giờ mà nóng đến như vậy.
Thế rồi sau cơn hạn hán nắng cháy đó bỗng nhiên Trời đổ cơn mưa.
Nghe nói mưa rất lớn từ trên thượng nguồn và đổ về miền Trung Du và làm mực nước sông Hồng dâng cao tới mức báo động đỏ.
Trại giam nằm cạnh một con sông nhánh của sông Hồng và sau một tuần nước trên nguồn đổ về thì con đê bị vỡ ra một mảng và nước tràn vào làng xóm hai ven bờ sông và ngập luôn các buồng giam. Muốn đi đâu thì cũng phải lội bì bõm trong nước đục ngầu đầy rác rưởi tới đầu gối.
Thời Pháp thuộc hệ thống đê điều còn được sửa chữa và bảo quản thường xuyên nhưng từ khi Việt Minh cướp chính quyền thì các con đê bị xuống cấp rất nhanh và mỗi mùa mưa bão là dân chúng lại lo sợ con đê sẽ vỡ.
Người dân làng thì vốn đã nghèo xác xơ lo chưa xong hai bữa ăn hàng ngày, nhiều gia đình không đủ tiền đóng tiền học phí cho con đi học mà con đê không giữ được làn nước lũ tràn vào làng thì không những sinh mạng con người bị đe dọa mà trâu bò gia súc và ruộng nương sẽ không còn.
Trở lại với con đê đang bị nước lũ tràn qua và có nguy cơ cả vùng chung quanh sẽ bị ngập lụt trong mưa lũ thì bất ngờ một buổi sáng vừa thức dậy, tôi nghe tiếng kẻng trong trại đánh đồn dập và bên ngoài thì phèng la inh ỏi chưa biết chuyện gì thì ba tay cán bộ trại bước vào và ra lệnh cho chúng tôi đi hộ đê.
Từ bé đến giờ, tôi chỉ ở thành phố nên chẳng hay hộ đê là làm sao, bây giờ mới hiểu cách họ hộ đê là làm như thế nào ở một nước giật giải quán quân về nghèo và lạc hậu nhất thế giới.
Chúng tôi được dẫn ra tới bờ sông thì thấy mực nước đã mấp mé tràn qua con đê và khoảng cứ sáu người xuống một chiếc thuyền chèo ra ngoài xa bờ chỗ nông một chút rồi nhẩy xuống dùng mai và xẻng xúc từng cục đất lớn một đổ lên thuyền. Nước thì ngập lên đến ngực mà mỗi lần xúc được một tảng đất lớn thì mừng lắm nhưng khi kéo nó lên trên mặt nước thì đất tan rã dần chỉ còn vài nắm tay nên họ yêu cầu phải ngụp lặn xuống mà xúc đất lên cho nhiều. Chúng tôi thay phiên nhau lặn xuống xúc đất lên mãi mới được gần lưng chiếc thuyền rồi chèo vào bờ đổ lên đắp vào con đê. Tôi sực nhớ tới ngày xưa thời Bắc thuộc, ông cha chúng ta cũng phải xuống biển mò ngọc trai san hô cho quân Tầu đang đô hộ thì mới thấy thương tổ tiên ông cha mình ngày trước.
Nhìn thành quả của hai tiếng đồng hồ mà chỉ như muối bỏ biển, ai cũng ngao ngán, một phần vì ngâm nước quá lâu nên ai cũng bắt đầu thấm lạnh và run lập cập. Suốt một ngày quần thảo với mấy cục đất ngụp lên lặn xuống mà chỉ được có bốn chuyến đổ đất lên đắp con đê cũng chẳng làm cho nó chắc hơn được chút nào nhưng mà công tù có mất gì đâu.
Khi về đến buồng thì ai nấy đều mệt rã người ra và lạnh cóng.
May mắn năm đó nước lũ chỉ tràn vào có một lần, nếu nước sông Hồng dâng cao lên nữa làm vỡ đê thì không biết chuyện gì sẽ xẩy ra.
Trước đó, trong những ngày đi lao động bên ngoài trại dọc theo con đê, chúng tôi thường thấy mấy em bé trai gái đi chân đất, áo quần xốc xếch cắp sách đi ngang qua trên đường đến trường.
Một hôm khi mấy anh đại tá tù chính trị đang cuốc đất thì thấy một em bé gái khoảng độ bẩy tám tuổi đi qua khu vực lao động của đội vừa đi vừa khóc. Mấy anh mới hỏi thăm thì được biết là em vừa bị đuổi học vì thiếu tiền đóng học phí cho trường.
Thấy vậy, mấy anh bèn bảo cháu là ngày mai cũng giờ này ra đây sẽ có tiền đóng học phí.
Tối hôm đó về buồng, mấy anh đại tá quyên góp được một số tiền và quần áo và sáng ngày hôm sau đem ra cho cả cô bé và Bố mẹ cô ta nữa giỏ quần áo, một số tiền và nhờ đó mà cô bé ấy đã được quay trở lại trường.
Ít hôm sau cô bé học sinh đó đem ra nào là đủ thứ trái cây trồng trong nhà và cả chục trứng gà nói là Bố Mẹ cháu biếu mấy bác mấy chú nhưng không thể ra gập để cám ơn được, và gia đình cô bé ấy đã lan truyền ra cả ngôi làng về tấm lòng nhân ái cuả mấy người tù chính trị.
Mấy anh từ chối và nói rằng thấycháu được đi học lại như những đứa trẻ khác là vui rồi và bảo Bố Mẹ các em đừng bận tâm.
Từ đó đội các anh còn nhận cô bé đó làm con nuôi nữa và thấy cô bé đã ăn mặc tươm tất hơn và luôn nở một nụ cười thật tươi mỗi khi đi học qua khu vực lao động của các Bố nuôi. Các anh vẫn tiếp tục trợ giúp gia đình bé gái ấy và vài gia đình nữa cho đến khi vài năm sau chuyển trại.
Trên một tờ báo Nhân Dân xuất bản tại Hà Nội, tôi có đọc một bài viết của Nguyễn Khắc Viện, giáo sư đại học bấy giờ về "Giấc Mơ Năm 2000" và rất là ngạc nhiên bởi vì sau 45 năm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người sống tại Hà Nội vẫn còn những ước mơ rất là giản dị mà không bao giờ thực hiện được.
Ông Nguyễn Khắc Viện viết lên một giấc mơ về một Hà Nội đến năm 2000 thì sẽ khang trang sạch sẽ và sẽ không còn bị ngập lụt mỗi khi một cơn mưa lớn đổ xuống thành phố. Tôi lúc đó cứ thắc mắc mãi là sau khi cướp được chính quyền năm 1949 rồi thì Việt Minh họ đã làm được những gì cho nhân dân khi mà 45 năm sau người dân tại ngay thủ đô vẫn còn mơ ước một Hà Nội không bị ngập lụt sau mỗi cơn mưa? Người dân bên ngoài còn nhiều khắc khoải như vậy thì tù nhân trong trại tập trung sẽ sống còn được hay không?
Chế độ "tập trung cải tạo" (TTCT) là bắt chước y khuôn các trại tập trung lao tù của Nga Sô và một phần được "tô điểm" thêm từ Trung Cộng cho nên khi nó du nhập vào miền Bắc sau năm 1954 thì đã gieo kinh hoàng cho dân chúng ngoài Bắc để cho người dân phải sợ hãi đến tê liệt hết ý chí không còn dám chống đối Nhà Nước Cộng Sản nữa.
Sau khi xâm chiếm miền Nam tháng Tư 1975 thì kẻ chiến thắng đã dùng ngay con bài này để vừa trả thù vừa trừ khử những sĩ quan và viên chức chế độ VNCH cũ trong các trại TTCT này, và là đòn răn đe cho những ai còn mang lý tưởng chống đối lại chế độ vô sản chuyên chính của họ.
Đòn đầu tiên quật ngã ý chí của người tù là giam giữ không có bản án nghĩa là sau ba năm bị giam trong tù thì tự động chồng lên ba năm nữa không cần xét xử hay công bố, để khủng bố tinh thần những người tù mà họ gọi một cách mỵ dân và lường gạt dư luận là "cải tạo viên".
Đòn thứ hai là cưỡng bức lao động khổ sai nhưng chỉ cho ăn thật thiếu thốn cả về chất lượng và số lượng để những người tù này phải đói khát, giá lạnh, khổ cực triền miên hàng ngày, hàng tháng, hằng năm mà ... không chết được.
Họ phải chịu cái giá lạnh vì một năm Nhà Nước chỉ cung cấp mỗi người hai bộ quần áo tù và một cái chăn mền dù là họ đang bị giam tại những vùng nhiệt độ ban đêm có thể xuống tới zero độ C.
Nhưng nếu họ không lao động cật lực để qua lao động cải tạo bản thân họ thì nhà kỷ luật, thùng Connex, nhà biệt giam sẵn sàng mở cửa tiếp đón.
Lao động thế nào là tốt hay xấu là tùy theo sự phán xét của tay quản giáo và của trại giam và người tù không được có ý kiến.
Trên thế giới từ cổ chí kim có lẽ chưa có một quốc gia nào, một đất nước nào bắt người tù phải đóng tiền cơm để vào tù như chế độ Cộng Sản sau khi chiếm đóng miền Nam năm 1975.
Rồi sau đó loan báo là Nhà Nước sẽ nuôi các "cải tạo viên" nhưng khi giam giữ họ một thời gian thì ra lệnh cho tất cả trại giam đều phải tự túc lương thực có nghĩa là những người tù phải lao động cật lực để tạo ra của cải vật chất làm giầu cho trại và tự nuôi lấy mình hay nói một cách khác Nhà Nước giam giữ tù mà không hề tốn một xu nào cho ngân quỹ.
Thực tế, nhiều trại không những tự túc được về lương thực mà còn làm ra nhiều tiền nữa để trại đem nộp lên cấp trên của họ tuy nhiên khẩu phần ăn của tù nhân thì vẫn như cũ.
Mức quy định cho mỗi tù nhân còn sức khỏe đi lao động một tháng là 15 ký chất bột còn người nằm bệnh xá hay bệnh tại buồng chỉ còn 13 ký rưỡi.
Chất bột có nghĩa là nếu không có gạo thì thay bằng bo bo, sắn, khoai lang, khoai tây, bột mì quy ra bột. Nhiều trại cả năm chỉ vào những ngày Tết hay lễ lớn thì mới thấy nhà bếp phát cơm và ít thịt heo hay chỉ chút canh có mỡ màng, còn thì quanh năm suốt tháng chỉ có khoai sắn và bo bo.
Nhiều khi khoai sùng và sắn mốc xanh trong kho cũng được nhà bếp nấu cho ăn, chính vì chế độ ăn uống thiếu thốn và suy dinh dưỡng và thiếu vệ sinh như vậy đã làm cho người tù dần dần kiệt sức hay ngã bệnh.
Có anh đã cho tôi xem thư gia đình trong đó viết vợ và bẩy đứa con của anh hiện nay không biết sẽ xoay sở ra sao vì nhà đã hết gạo. Tôi nhìn đôi mắt đỏ hoe của anh mà trong lòng như bị xát muối. Người tù vốn đã cùng cực rồi còn phải chịu thêm nỗi đau cho vợ con ở nhà, không biết Ông Trời ở nơi đâu?
Hình như sau khi quê hương mất vào tay Cộng Sản thì toàn thể dân chúng miền Nam đều hứng chịu nỗi khổ đau phong ba bão táp, nhưng có lẽ những gì thiệt thòi nhất vẫn dành cho những người tù như trong lá thư của Phượng, người con gái Sàigòn sau này đã dành cho tôi bao tình cảm khi đến thăm tôi tại trại Hàm Tân.
Trong tình hình khó khăn như vậy nhưng có nhiều anh đã rất can trường và oai hùng đã thẳng thắn từ chối sự bảo lãnh của thân nhân ở phía bên kia và chấp nhận sự lưu đầy và lao động, nhưng cũng có nhiều người đã vượt quá sức chịu đựng của họ và trở nên lãng trí hay mất trí luôn.
Đại tá Luân, chỉ huy trưởng của đơn vị 101 có kể cho tôi nghe rằng Ba của anh đến trại thăm và ngỏ ý sẽ bảo lãnh cho anh sớm được thả.
Anh đã qùi xuống xá ông ba cái để trả ơn công sinh thành ngay tại nhà thăm nuôi nhưng nói rằng mỗi người có một lý tưởng khác nhau. Lý tưởng Tự Do của người Quốc Gia trong anh không bao giờ thay đổi, anh chào từ biệt Ba anh và thanh thản bước vào trại.
Anh Bửu Uy, một bạn thân của tôi cũng có người cha đi tập kết ra Bắc và vào thăm anh để tiến hành thủ tục bảo lãnh nhưng anh cũng thẳng thắn từ chối. Anh cũng là một trong hai mươi người cuối cùng bước chân ra khỏi trại giam Hàm Tân năm 1992 sau mười bẩy năm tù.
Quả thật là như trong Kinh Dịch nói "Cùng thì tất Biến", trong những lúc đói khổ thiếu thốn như vậy thì xui khiến cho chính bà vợ của tay trưởng trại lại là người cung cấp thức ăn tươi cho tù nhân chúng tôi mới là điều nghịch lý.
Trại nơi tôi ở có bà vợ ông trưởng trại rất là độc đáo. Phải nói là bà ta có nhiều cái độc đáo thì mới đúng.
Trong khi chồng bà là Thiếu Tá Dũng luôn tỏ ra nguyên tắc thì bà ngược lại chỉ nghĩ rất thực tế là buôn bán, móc ngoặc làm giầu qua việc bán hàng cho tù nhân, đặc biệt là tù chính trị.
Bà ta là người có đầu óc phóng khoáng, phi chính trị, cho nên thường vẫn nói một cách tỉnh bơ với anh em chúng tôi là: "Các anh là tù quốc tế mà, việc gì mà phải sợ chúng nó, cứ mua bán ăn uống vào cho khoẻ". Chúng nó đây là đám cán bộ trực trại thỉnh thoảng lại tịch thu các món hàng anh em chúng tôi mua của bà ta khi gánh hàng qua cổng trại.
Phải công nhận rằng thời gian đó nhờ vào các thức ăn tươi rau trái mua được từ nguồn cung cấp là bà ta, cho nên sức khoẻ anh em tôi cũng đỡ phần nào.
Tuy giầu có như vậy, nhờ buôn bán với tù nhân trong trại, nhưng đi đâu cũng là chân đất. Hôm nào chúng tôi đang lao động mà thấy bà ta xỏ vào đôi guốc là có đại sự hoặc là lên tỉnh hay lên Hà Nội đi cất hàng.
Có hôm chúng tôi không nhịn được cười khi bà ta khoe rằng:" Các anh không biết chứ ngày xưa tôi là hoa khôi trong làng nên ông ấy mới mê mà lấy đó!" trong khi bà ta thì gầy đét như que củi và bộ răng như một hàng hiên mái nhà che mưa mà lúc nào cũng cứ tự khen mình là hoa khôi ngày xưa.
Ngoài ra, rất nhiều anh có hoa tay nên đã biến những cái sừng trâu thành bao nhiêu là cái lược sừng khắc tên cho vợ con ở nhà, bao nhiêu là tượng Phật, tượng Chúa rất đẹp và quan trọng nhất là cái lò nấu bằng dầu hôi chế tạo từ những lon sữa bò hay hộp cá mòi. Chính nhờ cái lò dâù hôi này mà mùa Đông chúng tôi có thể nấu ít nước trà nóng hay ít canh rau để giữ ấm được thân nhiệt. Các anh có đầu óc sáng chế và tài hoa này phải kể anh Quát, anh Quang Sừng, v.v.
Nội quy do trại đặt ra thì nghiêm cấm đủ mọi thứ vì vi phạm là kỷ luật, và mục đích của nó là đóng khung người tù trong điều kiện sống khắc khổ nhất để họ chết dần chết mòn.
Bởi vậy, tuân theo nội quy cứng ngắc đó không khác gì cho cổ vào dây thòng lọng bởi vì nó chỉ áp dụng cho tù nhân mà thôi còn cán bộ họ muốn làm gì thì làm cũng giống y như luật pháp bên ngoài xã hội vậy.
Trại giam cũng như một xã hội thu nhỏ lại, tù nhân là dân chúng bên ngoài đã bị tịch thu hết tài sản còn bị tròng vào cổ bao nhiêu tầng áp bức trong khi cấp lãnh đạo Nhà Nước thì làm giầu trên xương máu nhân dân nhưng lúc nào thì cũng hô hào nhân dân làm chủ, cũng phô trương lừa bịp với thế giới rằng chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp hơn chế độ tư bản ngàn lần.
Viết Xong mùa Hạ năm Canh Dần, Nam California
PHẦN VIII: Tấm Lòng Người Vợ
Phụ nữ Á Đông, đặc biệt là người phụ nữ Việt Nam nói chung, so với những phụ nữ khác tại Á Châu, Âu châu, hay trên thế giới thì không những đẹp hơn về vóc dáng mảnh mai, khuôn mặt thanh tú, mà còn hơn hẳn về phương diện đức hạnh tức là cái đẹp ẩn tàng bên trong và cũng vựơt xa hơn về tình thương yêu vô bến bờ dành cho chồng con mình.
Cái đẹp này đã không mất đi mà còn thể hiện đậm nét hơn và tô đẹp hơn hình ảnh của người phụ nữ trong vai trò người vợ dù bao nhiêu cuộc chiến điêu tàn và thảm khốc đã diễn ra trên quê hương chúng ta.
Sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản dưới chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì xã hội đã bị đảo lộn, trật tự không còn, căn bản đạo đức bị những người Cộng Sản làm băng hoại và phẩm giá con người, nhất là người phụ nữ, đang bị hủy diệt.
Trong khi chồng con bị giam giữ trong các trại tù mọc lên khắp nước thì một lần nữa, người phụ nữ, người vợ trong gia đình đã phải gánh vác trách nhiệm nặng nề là nuôi con cái và nuôi cả người chồng còn trong vòng tù tội và đọa đầy.
Các chị đã phải hứng chịu bao phũ phàng và kỳ thị mà kẻ chiến thắng đã phủ lên gia đình họ như là một hình thức trừng phạt.
Con cái thì không được tiếp tục con đường học vấn lên đại học dù là các cháu học rất giỏi và khi đi tìm việc làm thì bị đẩy ra vì lý lịch của người cha, nhưng các chị vẫn vững bước trên con đường mình đi để kiếm cách mưu sinh nuôi con cái trong lúc người chồng đã ra đi mà không biết ngày nào có thể trở lại.
Đa số các chị trước năm 1975 đều là nội trợ, chân yếu tay mềm sống vào đồng lương ba cọc ba đồng của chồng, nay phải đương đầu với bao khó khăn trong cuộc sống đảo điên của chế độ XHCN và còn phải chắt chiu dành dụm từng đồng một để thăm nuôi và tiếp tế cho chồng mình trong tù. Qủa là một cơn ác mộng dài.
Người chồng trong tù đã phải chịu đựng những sự trả thù tàn bạo của kẻ chiến thắng trên thân hình còm cõi của họ, nhưng người vợ ở nhà cũng không được yên thân với bao nhiêu là hạch sách nhiễu nhương bởi phường khóm, bị đuổi nhà và đầy đi vùng kinh tế mới, bị đánh tư sản, bị công an địa phương rình rập ngày đêm để tìm cách gây khó khăn và hãm hại.
Thế rồi khi được thư của người chồng báo tin là trại giam bắt đầu cho thăm nuôi thì người vợ vừa mừng vừa lo.
Mừng vì sau bốn năm trường bặt tin, bây giờ sẽ có cơ hội được gập mặt người chồng yêu thương nhưng lại lo lắng vì tìm đâu ra một số tiền lớn để mua vé xe lửa và chi phí trong chuyến đi ba ngày trời theo con tầu Thống Nhất ra tận ngoài Bắc mà thăm nuôi ? Chưa kể những trở ngại mà phường khóm và công an địa phương cố tình gây ra về giấy tờ thủ tục rườm rà để cản trở việc thăm nom đó với mục đích làm tiền một cách trắng trợn.
Chị Lãm là một trong những người vợ đang trong tâm trạng ấy.
Bốn năm qua, chị sống trong tình trạng khắc khoải lo âu vì không biết họ giam giữ chồng mình ở đâu và anh ấy còn sống hay đã chết?
Bây giờ được thư của anh Lãm thì chị bàng hoàng cả người vì không ngờ họ đã đầy ải anh ra tận ngoài Bắc trong khi ra đi thì anh có đem theo một cái áo ấm nào đâu?
Rồi không biết làm sao anh chịu nổi cái lạnh khủng khiếp của mùa Đông băng giá ngoài đó trong tình trạng thiếu ăn thiếu mặc?
Cầm lá thư của chồng trong tay mà hai hàng nước mắt thương chồng của chị lăn dài trên hai gò má xanh xao và nhỏ xuống thấm ướt cả lá thư.
Hai đứa con mới hơn mười tuổi nhìn chị hỏi có thư của Ba hả Mẹ làm chị lại càng đau xót, chị ôm hai đứa con và cả ba mẹ con đều ôm nhau khóc cho vơi đi bao nỗi tủi nhục từ ngày mất nước và cho vơi đi bao niềm thương nhớ chất chứa bấy lâu trong lòng.
Chị đâu có thể nào kể cho hai con nghe vì chúng còn nhỏ quá cũng không hiểu được rằng ngày ba nó ra đi để bước chân vào con đường tù đầy trong trại tập trung "cải tạo", thì ba nó đã mang theo cả bao nhiêu thương nhớ và cả nửa phần hồn của mẹ rồi. Thời gian sau, mẹ trở nên xanh xao qua bao nhiêu cuộc biển dâu của cái xã hội mới này, nhưng một phần cũng vì trằn trọc hằng đêm thương cho người chồng hiền hậu không biết có sống nổi hay không trong cái hoả ngục trần gian ấy.
Thế rồi thời gian cứ lặng lẽ trôi và công việc mỗi ngày của chị là phải đi giao hàng những đồ nan tre rổ rá thúng mủng cồng kềnh được máng vào và cột trên chiếc xe đạp đã mòn cả đôi lốp để kiếm từng đồng nuôi hai đứa con tại Sàigòn.
Nhiều khi các hàng tiểu thủ công nghệ bằng nan tre này hầu như muốn che khuất luôn cả con đường trước mặt và che mất luôn cả con người của chị, nhưng chị vẫn kiên nhẫn leo lên chiếc xe đạp cũ kỹ và nắm vững tay lái để giao từng chuyến hàng, từng chuyến hàng một để qua ngày đoạn tháng và nhất định không đầu hàng số phận nghiệt ngã đã phủ xuống gia đình của chị cũng như của hàng trăm ngàn gia đình viên chức sỹ quan chế độ cũ sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản tháng Tư năm 1975.
Anh Hoàng Lãm là một đại úy trong QLVNCH và được biệt phái sang Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo thuộc Phủ Tổng Thống, cho nên anh cũng như các anh em tù nhân chính trị khác trong ngành tình báo, an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt, đều bị cho vào danh sách các thành phần nguy hiểm cho chế độ và bị tập trung hết đưa ra Bắc để qua con đường lao động mà "cải tạo bản thân để trở thành người công dân tốt".
Bốn năm tập trung lao động trong một thứ xã hội phát triển ngược chiều, đưa con người ta trở lại thời kỳ sơ khai đồ đá như chế độ Cộng Sản tại miền Bắc đã làm anh kiệt sức nhưng tinh thần anh thì vẫn vững vàng.
Khi đặt bút viết lá thư đầu tiên sau bốn năm xa cách về cho người vợ yêu dấu, anh cũng trong tâm trạng vừa mừng vừa lo và không khỏi đắn đo vì anh biết bên ngoài người dân trong đó có vợ anh cũng đang chật vật gian khổ từng ngày để kiếm sống và đề sinh tồn trong một cái xã hội mà nó cũng chỉ là một nhà tù rộng lớn hơn mà thôi.
Chị Lãm cũng chỉ là một trong hàng trăm ngàn người vợ của tù "cải tạo", những người vợ chịu đựng bền bỉ bao đắng cay vùi dập sau khi Cộng Sản xâm chiếm miền Nam, nhưng sao tôi thấy ở chị một cái gì rất là đặc biệt.
Dù sống trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn và vật lộn với đời sống hàng ngày nhưng lúc nào chị cũng tỏ ra lạc quan, ít nhất cũng là trong thời gian lúc thăm gập người chồng và gập những bạn của chồng khi họ đang lao động hay trong khu thăm nuôi, và không bao giờ chị hé môi cho chồng mình biết về những gì bên ngoài để người chồng bớt phần lo lắng cho vợ con.
Những khi mà chị không thể ra thăm anh Lãm được thì chị gửi các bưu kiện để anh có thêm thức ăn và thuốc men hầu giữ gìn sức khỏe chờ ngày đoàn tụ.
Sau đó các chị liên lạc được với nhau và thành lập như một cái hội của các người vợ có chồng đi "cải tạo" để giúp đỡ nhau, thông báo cho nhau hay cùng nhau đi thăm chồng hoặc đem dùm các thùng hàng thăm nuôi nếu có chị nào không đi được chuyến đó ngõ hầu các người chồng trong tù không bị thiếu thốn về thực phẩm và thuốc men.
Nhờ có chị và các chị khác thay phiên nhau đi thăm nuôi chồng và tải đồ tiếp tế cho các bạn của chồng mà chúng tôi có được thêm thức ăn khô và thuốc men thường xuyên hơn.
Ngoài ra việc đến thăm chồng trong trại giam, các chị còn đem những tin vui về việc phái đoàn Hoa Kỳ thương thuyết với Hà Nội để sớm trả tự do cho những tù nhân chính trị và nhờ đó mà tinh thần các người tù được lên cao và sức khỏe cũng khả quan hơn.
Mỗi lần nghe tin chị đến thăm là hầu như cả khu giam bên tù chính trị đều vui mừng vì chị thường đem theo vài chục thùng hay giỏ quà tiếp tế cho hàng hai ba chục người bạn của chồng mình nữa.
Chúng tôi vui vì vừa đỡ được một buổi lao động cuốc đất ngoài nắng, vừa được ra khu thăm nuôi gập chị, mà lại được biết thêm tin tức về gia đình của mình và những gì chúng tôi cần nhắn nhủ lại gia đình thì chị đều chuyển về đầy đủ.
Chỉ nghĩ đến cảnh chị đã vất vả khuân bao nhiêu là thùng đồ bao nhiêu là giỏ quà từ Sàigòn lên tầu hỏa và phải canh giữ chúng ba ngày đêm trên tầu sợ mất cắp, rồi lại kiểm soát từng thùng từng giỏ một để khuân chúng xuống tầu và thuê xe chở vào đến trại mất bao nhiêu công sức chúng tôi không khỏi xúc động và cám ơn chị nhưng lúc nào chị Lãm cũng xua tay và nở một nụ cười thật tươi.
Từ khi chị Lãm bắt được lá thư của chồng gửi về thì chị cứ như con thoi đi lên xuống từ Nam ra Bắc thăm nuôi anh ròng rã suốt 12 năm trời không biết mệt mỏi theo các chuyến xe lửa từ Nam ra Bắc và cho đến khi anh được chuyển vào Nam năm 1988 thì chị lại cho hai con đến thăm anh tại trại Hàm Tân Z-30 thường xuyên hơn nữa.
Nhiều lúc tôi cũng rất phục chị Lãm và những người vợ có chồng đi tù như chị vì ở nhà chị đã phải đóng vai người Mẹ và cả vai người cha bươn chải ra ngoài kiếm tiền nuôi con và nuôi chồng nữa trong một xã hội bị cai trị bởi những con người Cộng Sản vô nhân tính đang tìm cách trù dập những gia đình có thân nhân theo chế độ cũ.
Tôi tin rằng Trời Phật đã nhủ lòng thương xót mà độ trì và che chở cho các chị để được mạnh khỏe và bôn ba được trong cái xã hội mới đầy hận thù ấy mà nuôi chồng nuôi con mình.
Tại trại Ba Sao, Nam Hà ở ngoài Bắc cũng như trại Hàm Tân trong Nam, không những tên của chị Lãm trở thành quen thuộc với chúng tôi mà tên của các chị Trần Q. Lựu, chị Trương V. Thụy, chị Trần T. San, chị Lê V. Hoan, chị Nguyễn H. Trân, chị Huỳnh T. Nhơn, v.v., cũng không còn xa lạ với chúng tôi trong trại vì các chị không những thay phiên nhau đi thăm nuôi chồng mình mà còn tải hàng cho các gia đình bạn chồng nữa.
Các chị cũng liên lạc thường xuyên với Mẹ và các em tôi trong những lần thăm nuôi để cùng hỗ trợ nhau và nối kết với nhau trong một tấm chân tình thật là hiếm có trong khi mà các giá trị đạo đức và nền tảng gia đình của người Việt Nam từ nghìn xưa đang bị những “con người mới” và các đảng viên của xã hội chủ nghĩa này chà đạp và chối bỏ.
Khu thăm nuôi nhờ có các chị và gia đình đến thăm nom thường xuyên nên khởi sắc, như sống lại và đã làm tan biến đi phần nào sự u ám nặng nề của trại giam.
Sau một thời gian tiếp xúc, các cán bộ phụ trách khu vực này cũng dần dần tỏ ra nhiều thiện cảm với những gia đình tù nhân chính trị và tỏ vẻ cảm động trước tình nghĩa vợ chồng bền chặt và gắn bó của những gia đình tù nhân chính trị từ trong Nam chuyển ra Bắc.
Họ cũng rất thành thật nói rằng so với phụ nữ trong Nam thì đàn bà ngoài Bắc ngày nay không thể sánh bằng được, chưa nói đến chồng vào tù một thời gian thì đã bỏ đi lấy chồng khác chứ chẳng chờ đợi năm tháng dài đằng đẵng như các chị trong Nam đâu.
Trong suốt 12 năm chị Lãm đi thăm anh từ ngoài Bắc vào đến trại giam trong miền Nam, thông thường thì cứ khoảng ba tháng là chị lại vào trại thăm anh một lần hay gửi quà qua bưu điện, qua xe đò hay qua các chị bạn và bao giờ cũng kèm một lá thư thăm hỏi anh.
Bẵng đi một thời gian cả sáu tháng, chúng tôi không thấy chị đến thăm anh tại Hàm Tân và cứ ngỡ là chị đã vượt biên? Anh cũng thao thức không yên cho đến một hôm chị lại xuất hiện nhưng gầy ốm hơn tuy miệng lúc nào cũng tươi cười khi gập anh em chúng tôi.
Tối hôm đó, ngồi uống trà và hàn huyên với anh Lãm thì tôi mới hay hung tin là chị Lãm đã bị chứng bệnh nan y là ung thư bao tử và đang chờ mổ và điều trị. Một điều may mắn là bác sỹ phẫu thuật lại là một bác sỹ quân y ngày trước của VNCH cho nên khi biết tình cảnh của chị thì ông hứa sẽ hết sức giúp đỡ.
Tôi thấy hai mắt anh đỏ hoe và anh thẫn thờ như người mất hồn và chỉ biết an ủi anh là có bác sỹ giỏi thì không sao đâu mà thôi, rồi nín lặng vì ai cũng đang theo đuổi ý nghĩ riêng của mình.
Tôi chợt nhớ đến bài hát “Mầu Tím Hoa Sim”: “Sao không chết người trai khói lửa mà chết người em nhỏ hậu phương?” mà thấy ông Trời sao bất công quá.
Chị đã vượt qua không biết bao nhiêu là khó khăn gian nan để đeo đuổi không mỏi mệt việc thăm nuôi anh trong 12 năm ròng rã từ năm một chin bẩy chín đến một chín chín mốt để anh có sức khỏe và sống còn trong tù với một ước vọng chính đáng duy nhất là vợ chồng sẽ sớm có ngày đoàn tụ. Nhưng khi mà trái cây sắp chín và ngày đoàn tụ gần kề thì chị lại ngã bệnh. Quả thật chúng tôi không bao giờ ngờ được đó là sự thực.
Khi gia đình báo tin qua khu thăm nuôi là chị vừa mổ xong và đang nằm trong bệnh viện Sàigòn thì một sự kiện lạ lùng xẩy ra lần đầu tiên và duy nhất trong tù. Đó là tay cán bộ phụ trách khu thăm nuôi đã đề nghị với trại, lúc đó Thiếu Tá Nhu là một trưởng trại có đầu óc rất cấp tiến, để cho anh Lãm được đặc biệt về Sàigòn một ngày để thăm chị và đề nghị đã được chấp thuận.
Anh về thăm chị trong ngày rồi lại trở vào trại nhưng rất may mắn là chỉ vài tháng sau thì anh có tên trong đợt thả sau mười sáu năm bị giam giữ trong các trại tập trung. Anh là một trong số hơn một trăm người tù cuối cùng tại trại hàm Tân Z-30D.
Khi tôi được thả về một năm sau đó, tôi lại thăm gia đình anh chị và vẫn thấy tinh thần lạc quan ở con người đang mắc phải căn bệnh hiểm nghèo nhất của thế kỷ. Chị vẫn tươi cười dù là gầy ốm nhiều hơn trước.
Khi về thì anh làm thủ tục cho gia đình đi theo chương trình H.O và qua định cư tại Los Angeles, California một năm sau khi ra tù.
Sau khi cắt bao tử tại Sàigòn, chị Lãm lúc qua Cali đã được các bác sỹ Mỹ tận tâm chữa trị bằng Chemotherapy. Tôi đến thăm anh chị trong căn phòng apartment trên Los Angeles và không ngăn đựoc niềm xúc động vì sau vài năm chữa trị chị chỉ còn như bộ xương với làn da trắng trước kia bây giờ là xám đen vì hóa chất.
Vài năm sau khi qua được miền đất Tự Do thì chị trút hơi thở cuối cùng.
Rất đông bạn bè, nhất là những người đã cùng ở tù với anh Lãm đều đến phúng điếu và đưa chị ra nghĩa trang hoa hồng để an giấc nghìn thu.
Nhìn chiếc quan tài của chị đang hạ dần xuống để lấp đất, tôi chào vĩnh biệt chị lần cuối và nói khẽ với chị rằng chị là một trong những người phụ nữ Việt Nam, một người vợ của bạn mình mà tôi vô cùng mến phục.
Chị không những đã làm tròn bổn phận của một người vợ tù “cải tạo”, không những đã làm cho kẻ thù phải cảm động vì tình nghĩa vợ chồng trong xã hội của miền Nam ngày xưa, mà chị cũng đã làm bao nhiêu công đức giúp đỡ cho các bạn của chồng mình nữa trong suốt hơn một thập niên.
Nhờ có chị mà anh đã phục hồi được sức khỏe, lên tinh thần và đã sống sót sau mười sáu năm tù đầy. Gia đình chị đã được đoàn tụ trên vùng đất Tự Do, hai cháu bây giờ đã khôn lớn và đều có gia đình rồi cho nên chị hãy yên tâm an nghỉ.
Con người ta có sinh thì có tử nhưng con người ta không dễ gì mấy ai làm nổi những nghĩa cử như chị, không mấy ai có được một tấm lòng Bồ Tát như chị.
Vĩnh biệt chị Lãm
Viết xong vào dịp lễ Independent Day 2010 tại miền Nam California
Phần IX: Thân Mẫu Tại Đường - Như Lai Tại Thế
Trong thời gian được ở chung trong cùng một trại giam ở miền Bắc với quí thầy Nha Tuyên Úy Phật Giáo, tôi có cơ duyên học hỏi nhiều điều hay cả về đời và về đạo. Một lời chỉ dậy mà tôi ghi nhớ nhất trong lòng là hình ảnh diệu kỳ của người Mẹ trong câu:
"Thân mẫu tại đường -Như Lai tại thế".
Câu châm ngôn này nói lên vai trò và công lao to lớn nuôi nấng con cái của người Mẹ khi còn sống trong gia đình cũng ví như Đức Phật đang còn tại trần gian để cứu vớt chúng sanh ra khỏi sự trầm luân của bến mê khổ ải.
Điều này cũng nói lên sự may mắn cho những gia đình nào còn có Mẹ thì sẽ vững vàng và được che chở giống như trên Thế gian còn Đức Phật đang đi hoằng dương Phật Pháp vậy.
Quả thật Mẹ tôi đã đóng một vai trò rường cột suốt bao nhiêu năm trong thời bình hay trong thời loạn lạc giặc giã triền miên hơn bốn chục năm trên đất nước Việt Nam từ Bắc vào Nam.
Mẹ tôi là con gái lớn trong gia đình và quê bên ngoại tôi trong tận Thanh Hóa. Vì là chị lớn trong nhà nên Mẹ tôi đã sớm phải rời sân trường mà ra đời buôn bán để đỡ đần ngoại và nuôi các em, và trở thành trụ cột của gia đình .
Tôi ít khi nghe Mẹ kể về ông Ngoại và chỉ biết là ông mất sớm và bà ngoại thì rất là hiền lành và chân chất của người phụ nữ miền quê.
Chuyện tình của Ba Mẹ tôi thì thật giản dị nhưng không kém phần lãng mạn.
Trong những chuyến đi buôn bằng xe lửa từ Thanh Hóa ra Bắc, Mẹ tôi đã gập Ba tôi lúc đó là "xếp" trên đoàn xe và y như trong tiểu thuyết, Ba tôi đã bị một “cú sét” khi nhìn thấy Mẹ tôi trong những chuyến tầu ngược ra Bắc để bỏ hàng.
Mẹ tôi tuy ở miền thôn dã ngoại ô của thị xã Thanh Hóa nhưng lại có một vẻ đẹp rất là tỉnh thành và tuy mới mười tám tuổi nhưng đã rất là chững chạc và đảm đang và rất nhiều trai tráng trong làng quê đã theo đuổi nhưng Mẹ tôi chẳng chịu ai cả.
Khi gập Ba tôi, một con người học thức, điển trai và "ga lăng" luôn giúp đỡ Mẹ tôi trong từng chuyến hàng thì Mẹ tôi cũng không khỏi cảm động trước tình cảm ấy.
Lúc đó chắc Mẹ tôi cũng không thể ngờ rằng cuộc đời mình sẽ phải trải qua ba giai đoạn thử thách ghê gớm theo vận nước thăng trầm mà nhiều người đã không vượt qua nổi.
Mỗi khi nghe Mẹ kể lại về cuộc đời mình, tôi đều nghĩ rằng chính cái Tâm của Mẹ tôi thật tốt, trung hậu và hay giúp đỡ người cho nên Trời Phật đã độ trì cho qua được bao nhiêu là gian nan thử thách và hiểm nghèo trong một quê hương đã quá lầm than vì giặc giã, chiến tranh và đói khổ.
Giai đoạn đầu tiên là khi Ba Mẹ tôi lấy nhau được hơn một năm thì chiến tranh Thế Giới lần Thứ Hai bùng nổ, Mẹ tôi không kịp về được Thanh Hóa để đón Ngoại và các em mà phải theo chồng ngược lên Yên Bái để đứng ra khai phá một đồn điền cao su với người em rể là chồng của cô em út Ba tôi.
Công việc tuy vất vả nhưng tiến triển rất tốt cho đến khi chiến tranh lan dần đến Yên Bái và các đồn điền trở thành vùng mất an ninh và hoang dã vì Việt Minh bắt đầu phá hoại các ruộng vườn và trang trại để chống lại Pháp trong chiến dịch "Vườn Không Nhà Trống", nên Ba Mẹ tôi lại tản cư về Nam Định để giúp ông chú rể là chồng bà cô ruột của Ba tôi gây dựng nên xưởng làm sà phòng.
Ông chú này chỉ biết công thức sản xuất nhưng lại không biết phương pháp làm sao để chế tạo ra được sà phòng nên mới mời Ba tôi cộng tác.
Nghĩ tình bà cô ruột của mình nên Ba tôi nhận lời. Chỉ một thời gian ngắn sau với sự tìm tòi và nghiên cứu ngày đêm của Ba tôi, xưởng sà phòng mới mang tên "Sao Mai" này đã thành công ngoài mức dự tính vì phẩm chất của nó còn tốt và rẻ hơn cả xà bông "Cây Đờn" của ông Trương Văn Bền, lúc đó hầu như là nổi tiếng nhất và chiếm lĩnh hầu hết thị trường từ Nam ra Bắc.
Nhưng thực tế thật là phũ phàng vì sau khi thành công và nắm được cách sản xuất và pha chế trong tay thì ông chú rể đã nhẫn tâm hất Ba tôi ra để hưởng lợi một mình.
Ba tôi quá tức giận và qua nhà ông chú này tính chuyện sẽ hỏi thăm sức khỏe cái ông chú rể vô lương tâm này nhưng mà bà cô ruột thì chắp hai tay lại mà xá Ba tôi xin tha cho ông chú rể và Mẹ tôi lại khuyên nên bỏ qua và tìm công việc khác vì Ba tôi là người có tài vì nếu có chuyện gì không hay thì Ba tôi sẽ vào tù, còn người nào ăn ở không phải thì Trời Đất sẽ trừng phạt họ.
Quả nhiên chỉ vài tháng sau thì nghe tin ông chú rể đó mắc bệnh nan y và đã qua đời, cũng chẳng mang theo được đồng xu nào.
Rất may là Ba tôi đã nghe theo lời Mẹ tôi khuyên nên bỏ qua, hơn nữa lúc đó bom đạn lại bắt đầu tàn phá thành phố Nam Định và các xưởng thợ nên Ba Mẹ tôi lúc đó được bốn con trai mà tôi là thứ tư vừa sanh được mấy tháng thì lại tản cư và gia đình rời Nam Định ra làm ăn ở Hải Phòng.
Trong suốt các thời gian gây dựng lên cơ nghiệp từ làm đồn điền đến nhà máy dệt, xưởng sà phòng, bao giờ Mẹ tôi cũng là người theo sát bên Ba tôi như hình với bóng để yểm trợ và cố vấn những lúc khó khăn.
Điều mà tôi phục Mẹ tôi nhất là dù không được theo học hết bậc tiểu học nhưng đầu óc tính toán đâu vào đấy và làm gì cũng đều hợp tình hợp lý, và những lúc còn hàn vi hay khi đã giầu có thì Ba Mẹ tôi vẫn coi trọng tình cảm và họ hàng trên đồng tiền.
Đằng sau sự thành công của Ba tôi với ba lần thành triệu phú trong khoảng hơn mười năm loạn ly ấy chính là công lao cần cù nhẫn nại và hy sinh của Mẹ tôi.
Khoảng năm một chín năm mươi thì Ba Mẹ tôi về đến Hải Phòng, còn gia đình cô ruột em út của Ba tôi là cô Hanh thì về Hà Nội và phát triển ngành buôn nước mắm vì có mấy người bạn thân của Ba tôi là bác Tăng và chú Huê trong Nam đang làm ăn phát đạt tại Phú Quốc và Phan Thiết.
Rồi không ngờ nước mắm Việt Hương của Ba Mẹ tôi lại được ưa chuộng và thế là phất lên thành triệu phú một lần nữa tại Hải Phòng và cô tôi thì triệu phú tại Hà Nội. Đó chính là công sức vô cùng kiên nhẫn và khổ cực của Mẹ tôi đã phải đi chào những mẫu hàng nước mắm ngon từ Hải Phòng qua Hải Dương lên gần đến Hà Nội mấy năm trời đến gầy rộc đi vì lao lực.
Ba tôi là người rất thương vợ con cho nên đã mua đủ thứ sâm, nhung, yến để tẩm bổ cho Mẹ tôi và ông Nội tôi cũng hốt thêm nhiều thang thuốc bổ nữa cho con dâu và pha chế các sâm nhung đó với các vị thuốc bắc và nhờ đó mà Mẹ tôi mau lại sức.
Ba tôi khi về Hải Phòng đã mua tặng cho Mẹ tôi đủ thứ nữ trang, kim cương, và vòng vàng ngọc thạch để đầy cả một hộp, nhưng trong những quà tặng của Ba tôi dành cho Mẹ thứ mà tôi thấy quí nhất là cái áo choàng bằng lông thú mầu trắng tinh mà khi mặc vào thì Mẹ tôi trông thật là đẹp và sang trọng.
Cái áo đó tôi nghe Mẹ nói là giá tới mười ngàn đồng, theo thời giá bấy giờ thì lương của công chức chỉ khoảng một ngàn một tháng.
Tôi còn nhớ khi còn rất nhỏ ở trong căn nhà rộng lớn như một dinh thự hơn một mẫu đất tại đường Cầu Đất, Hải Phòng, mỗi buổi tối tiền bán được trong ngày đổ ra đầy cả hai cái chiếu và bốn anh em chúng tôi ngồi xuống chung quanh chiếu để đếm và sắp xếp lại ngay ngắn từng chồng tiền một, từ loại một đồng, năm đồng cho đến mười đồng cho Mẹ. Mỗi ngày Mẹ lại cho anh em chúng tôi mỗi người một đồng bỏ vào ống để dành để dậy cho các con tính tiết kiệm.
Lúc đó chúng tôi chưa biết đến giá trị của đồng tiền nhưng quả là sống trên nhung lụa, nhưng tiếc rằng Ba Mẹ quá giầu có khi mà mình thì lại còn bé nên chẳng hưởng được bao nhiêu thì Hiệp Định Giơ Neo 20-7-1954 chia đôi Nam Bắc và khi chúng tôi trưởng thành trong miền Nam thì gia đình lại suy vi.
Suốt trong những năm tháng chiến tranh liên miên giữa Nhật và Pháp rồi Pháp và Việt Minh, bao lần gây dựng nên cơ nghiệp rồi lại đổ vỡ, bao lần tản cư đi tránh đạn pháo thì Mẹ tôi chính là người đã đem lại sự yên ổn và an toàn cho gia đình và nhiều họ hàng nữa cho đến ngày di cư vào miền Nam.
Giai đoạn thử thách thứ nhì là khi di cư vào miền Nam được năm năm thì Ba tôi bị bạo bệnh và qua đời khi Mẹ tôi mới vừa bốn mươi.
Bây giờ nghĩ lại thì lứa tuổi bốn mươi thật ra còn quá trẻ mà Mẹ tôi đã nhất quyết ở vậy để nuôi con chứ không bước đi bước nữa.
Thời gian đó tôi thương Mẹ tôi rất nhiều vì thấy có lúc Mẹ đau khổ quá vì chồng thì không còn nữa mà nợ nần tứ tung. Khi ấy tôi đang học Đệ Tứ trường Trần Lục ở Tân Định và mỗi buổi tối phải nhận lại tư gia kèm thêm cho các em thi tiểu học để kiếm thêm ít tiền giúp cho Mẹ trong khi các anh lớn đã vào quân đội và các em gái thì tập may vá thêm.
Nhưng Mẹ tôi đã can đảm đứng lên làm lại từ đầu và chuyển qua nghề may sản xuất quần áo trẻ em và nhờ đó mà gia đình đứng vững trở lại và từ từ đã trả hết nợ nần khi Ba tôi mang bệnh.
Một lần nữa Mẹ tôi lại cứu gia đình thoát khỏi cơn nguy biến và gia đình bắt đầu hưng vượng trở lại khi tôi học xong Tú Tài II, vừa vào đại học vừa đi làm giúp cho Mẹ, và khi mà hàng quần áo trẻ em cũng đang trên đà phát đạt với cửa hiệu ngay ngoài mặt đường Trương Minh Giảng, Quận Ba, Sàigòn.
Giai đoạn thử thách thứ ba khi mất miền Nam vào tay Cộng Sản năm 1975 mới chính là khoảng thời gian mà hình ảnh người Mẹ hiền lại hiện lên rõ nét nhất để giữ vững cho đại gia đình anh em chúng tôi không bị tan vỡ trước những âm mưu thâm độc của kẻ thù nhằm phá hoại các gia đình có thân nhân theo chế độ cũ VNCH.
Trong lúc mà ba anh em chúng tôi đang bị giam giữ tại các trại tập trung thì ở nhà Mẹ tôi có tên trong sanh sách những gia đình trong thành phố Sàigòn bị trục xuất đi kinh tế mới để bọn cán bộ phường khóm tịch thu nhà cửa và tài sản theo chính sách ăn cướp của Đảng và Nhà Nước của chúng trên toàn miền Nam.
Bao nhiêu lần chúng kêu Mẹ tôi ra Phường, ra Khóm để họp hành nhưng mục đích là để ký tên vào tờ đơn giao nhà cửa cho chúng nhưng Mẹ tôi đã cương quyết không ký không giao nhà và cũng không đi vùng kinh tế mới luôn.
Bọn chúng tìm cách chụp mũ Mẹ tôi là chống lại chính sách của Nhà Nước nhưng Mẹ tôi nói rằng Mẹ tôi chỉ hoãn thi hành chứ không phải chống lại lệnh của Nhà Nước. Lý do chưa thể giao nhà cho địa phương quản lý và chưa đi vùng kinh tế mới được vì ba con trai đang đi tù "cải tạo", nếu giao nhà thì khi ba người con được thả về biết tìm mẹ tôi ở đâu.
Suốt một năm trời chúng hạch xách mẹ tôi đủ thứ nhưng Mẹ tôi vẫn cương quyết theo lý luận của mình và không ký nhận bất cứ đơn từ nào.
May mắn là sau đó chúng đã để cho Mẹ tôi được yên thân trong một thời gian vì bọn cán bộ địa phương đã tịch thu được không biết bao nhiêu là căn nhà và tài sản trong thành phố Sàigòn để chia chác cho nhau và cho cả bọn cán bộ từ ngoài Bắc vào nữa.
Thế nhưng Họa vô đơn chí vì mới tạm yên vụ đi kinh tế mới thì chúng quay sang đánh tư sản để một lần nữa lại trấn lột một cách trắng trợn người dân miền Nam.
Các bài bản trước kia áp dụng tại miền Bắc sau năm 1954 bây giờ bọn chúng đem ra thi hành tại miền Nam để ăn cướp công khai và vơ vét thêm một lần nữa tài sản dân chúng.
Mẹ tôi chỉ có một cửa hàng bán quần áo trẻ em coi như một tiểu thương tại Quận Ba mà cũng không thoát khỏi cặp mắt cú vọ của chúng. Rất may cho gia đình là một anh trước kia giúp việc cho Mẹ tôi đã thông báo cho biết tin này nên Mẹ tôi đã di tản được hầu hết vải vóc, quần áo và những thứ quí giá ra khỏi nhà kịp thời.
Phường khóm đã cho một tiểu đội thanh niên nam nữ vào nhà Mẹ tôi và trú đóng ngay trong nhà 10 ngày đêm để đào bới, cậy vách, đào sân, xâm xoi mọi nơi chủ yếu tìm tiền và vòng vàng để tịch thu.
Mỗi khi các em gái tôi đi chợ thì chúng cũng cho người đi theo suốt từ nhà ra chợ và từ chợ về nhà, sợ tẩu tán tài sản.
Cuối cùng chán nản chúng cũng bỏ cuộc và rút quân bởi bọn chúng không lấy được gì vì còn mấy lạng vàng thì Mẹ tôi để ngay trước mắt bọn chúng trong phần giẻ lót của cái giỏ nan bọc cái ấm tích nụ vối mà Mẹ tôi vẫn uống hàng ngày mà bọn chúng không biết.
Ngoài việc phải căng thẳng đầu óc đối phó với bọn phường khóm ngày đêm rình rập để hãm hai, Mẹ tôi còn thường xuyên liên lạc với gia đình vợ con anh em chúng tôi để giúp đỡ, nhờ đó mà gia đình tôi trong những năm tháng tôi trong tù, cũng không đến nỗi cơ cực như nhiều gia đình khác.
Mỗi khi các cháu thiếu thốn gì thì lại chạy ra bà Nội ở Trương Minh Giảng, cho nên tuy các cháu sống cạnh bên Ngoại trong Phú Lâm nhưng lại gắn bó nhiều với bên Nội và các cô chú trong những năm tháng đầy khó khăn đó.
Đến khi mà gia đình được phép vào thăm nuôi anh em chúng tôi trong trại giam ở miền Bắc thì Mẹ tôi là người tổng chi huy việc mua bán, sắp xếp các thùng quà hay giỏ hàng, xin giấy phép tại địa phương, mua vé xe lửa ra Hà Nội, v.v. và giao cho các em tôi mỗi đứa một việc.
Trong khi chuẩn bị các thứ gửi cho hai anh em tôi thì ở nhà Mẹ và các em tôi lại luôn dành dụm tiết kiệm mọi thứ để ưu tiên cho hai anh em tôi trong tù
Chuyến đầu tiên ra Bắc thì Mẹ và cô em gái tôi là người đi thăm hai anh em tôi trước tiên để dò xét tình hình ra sao rồi những chuyến sau thì Mẹ tôi mới chuẩn bị đầy đủ cho hai nàng dâu ra thăm chồng.
Sự chu đáo của Mẹ và các em tôi trong suốt mười bốn năm trời ròng rã gửi quà và đi thăm nuôi từ Bắc rồi vào Nam, cộng với sự trợ giúp từ Mỹ gửi hàng về của vợ chồng anh Ba và vợ chồng cô Bẩy em gái tôi, đã giúp cho hai anh em tôi phục hồi được sức khỏe và thêm sức chịu đựng những năm sau này trong trại giam.
Anh cả tôi khi đang bị giam trên Hoàng Liên Sơn năm một chín bẩy chín đang trong tình trạng kiệt sức, đã nói rằng nếu mà không nhận được mười gói bưu kiện một ký lô gồm thuốc men, quần áo ấm và thực phẩm khô mà Mẹ tôi gửi ra ngay sau khi nhận được thư của anh gửi về, thì anh đã không còn trên cõi đời này rồi.
Lúc đó họ chỉ cho nhận mỗi người một bưu phẩm một ký lô mà thôi nhưng Mẹ tôi đã tìm ra đượcmột người quen làm trong Bưu Điện Sàigòn và nhờ đó mà em gái tôi đã gửi đi trót lọt mười gói mỗi gói đúng một ký nhưng trong mười ngày khác nhau.
Đó quả là một sáng kiến độc đáo mà tôi phục Mẹ tôi sát đất vì nếu gửi một gói 10 kí lô hay gửi 10 gói mỗi gói 1 kí cùng một lúc thì không những anh tôi không nhận được gói nào cả vì gói quà vi phạm quy định của trại giam mà còn có thể bị làm kiểm điểm.
Thế nhưng gửi làm nhiều lần khác nhau thì ở trại họ không để ý và anh tôi từ từ nhận được đủ cả mười gói bưu phẩm trước con mắt thán phục của các bạn tù.
Nhiều lúc nghĩ lại tôi nhận ra một điều là hình như có bàn tay an bài trước của Trời Phật cho người nào ra đi, cho người nào ở lại, người nào vào trong tù, khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản, để bốn năm sau khi gia đình đã liên lạc được với thân nhân ở hải ngoại thì cũng là lúc mà trại giam cho phép gia đình gửi quà vào cho tù nhân.
Nhờ thế mà nguồn tiếp tế không những từ gia đình ở miền Nam mà còn từ nhiều nước trên thế giới gửi về Sàigòn nữa và nguồn hàng ấy và cả những thư từ cũng được chuyển vào trại giam đến những người tù.
Tôi nhớ lần đầu tiên nằm trong buồng giam, cầm trong tay lá thư của anh Ba tôi gửi từ bên Mỹ nằm trong thùng quà gửi vào, tôi không khỏi xao xuyến và ngậm ngùi trong lòng.
Bức thư có đoạn viết mà lúc đó tôi chưa lý giải được như sau: "Tôi không hiểu tại sao và không thể giải thích được tại sao tôi và chú lúc nhỏ mình rất gần gũi và chơi thân với nhau và cùng một cha một mẹ, cùng đi học một trường, mà lớn lên bây giờ hai hoàn cảnh thật khác xa nhau".
"Tôi bên này thì đầy đủ trong một cuộc sống tạm gọi là sung túc và hạnh phúc có vợ con đoàn tụ trong khi chú thì gia đình ly tán và đang trong hoàn cảnh thật gian nan và đầy thử thách?".
Sau này khi tôi gập được Thầy Tâm và được đọc cuốn "Đức Phật và Phật Pháp" thì tôi từ từ hiểu rằng đó là do Nghiệp lực.
Năm 1989, sau mười một năm bảo lãnh thì Mẹ và hai em út tôi được anh Ba tôi bảo lãnh sang Hoa Kỳ và định cư tại miền Nam tiểu bang California từ đó đến nay.
Năm 1991 thì vợ chồng cô em gái kế tôi cũng được ông anh này bảo lãnh qua và một năm sau thì gia đình cô em kế nữa cũng rời Sàigòn để qua Mỹ trong chương trình ODP do anh tôi bảo lãnh.
Thấm thoát nhìn lại thì đã hơn hai chục năm kể từ ngày Mẹ tôi đặt chân lên vùng đất Tự Do ra khỏi vòng kìm kẹp và kiểm soát của chế độ Cộng Sản.
Mẹ và các em tôi thỉnh thoảng vẫn nhắc lại những ngày gian truân còn ở trong nước bị địa phương làm khó dễ vì thế mà Mẹ tôi mới mắc phải bệnh cao huyết áp và bàn chân với vết sẹo vẫn còn đau khi trở trời vì vấp trên toa xe lửa trong chuyến ra thăm tôi ngoài Bắc lần đầu tiên, và nhắc cả những khó khăn vất vả chuẩn bị quà cáp thuốc men quần áo đi thăm nuôi hai anh em tôi trong tù những ngày ấy.
Bây giờ Mẹ tôi đã già, sức đã suy yếu nhưng Mẹ tôi vẫn luôn luôn hãnh diện là cả cuộc đời mình đã hy sinh hết cho chồng, cho các con và không bao giờ đầu hàng và chấp nhận bọn Cộng Sản tại địa phương dù là chúng hăm dọa và áp bức gia đình dưới mọi hình thức trong những năm đầu khi chúng chiếm được miền Nam.
Mẹ tôi đôi khi nhìn con cháu và nói :
" Mẹ sẽ không bao giờ về VN khi mà bọn Cộng Sản còn ngự trị dù là Mẹ rất nhớ quê hương mình, nhớ miền quê Thanh Hóa của bên ngoại, nhớ căn nhà to như một dinh thự ở Hải Phòng, nhớ con đường Trương Minh Giảng đầy kỷ niệm và miền Nam hiền hòa, nhưng Mẹ nhất định không về."
"Chẳng hiểu sao bọn Cộng Sản chúng nó ác độc như vậy mà Ông Trời cho chúng nó sống lâu và quá sung sướng như thế?"
"Trên đời này có những người đã hãm hại Ba Mẹ để lấy tiền nhưng Mẹ đã tha thứ cho họ, chỉ riêng bọn Cộng Sản là Mẹ không bao giờ tha thứ cho các tội ác tầy trời của bọn chúng”.
Viết để riêng tặng Mẹ hiền - Cali mùa nắng ấm năm Canh Dần
Phần X: Sức Người Trong Vòng Xoay Định Mệnh
Phần X của thiên hồi ký này là một chương đặc biệt mà tác giả ghi lại để kính dâng lên hương linh của tất cả các quân dân cán chính của VNCH đã vị quốc vong thân và dâng lên hương linh của tất cả các đồng bào tử nạn trong cuộc chiến tranh trước năm 1975 và sau khi Sàigòn sụp đổ.)
Khi xâm chiếm xong miền Nam và nhuộm đỏ toàn bộ đất nước, và cái ngày mà Sàigòn sụp đổ thì nhà cầm quyền Bắc Việt đã hoạch định sẵn một kế hoạch khổng lồ và âm mưu thâm hiểm nhằm diệt trừ hết những mầm mống của chế độ cũ VNCH trên con đường đưa miền Nam vào hẳn trong quỹ đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Một mặt họ tập trung "cải tạo" hàng triệu viên chức sĩ quan chế độ cũ theo chế độ "học tập 10 ngày" hay "học tập 1 tháng" trong khi hàng triệu người khác phải theo học một khóa ngắn hạn ba ngày tại địa phương.
Mặt khác họ "cải tạo" lại xã hội bằng cách xua đuổi nhân dân trong các thành phố, nhất là tại Sàigòn ra khỏi nơi đang cư trú để đi vùng "kinh tế mới" mà thực tế là những vùng hoang dã chưa khai phá hay nơi rừng thiêng nước độc vắng bóng người, để chiếm đoạt nhà cửa và tài sản của người dân trong mục tiêu củng cố thế lực và triệt tiêu các lực lượng "thù địch".
Mấy năm sau thì họ đổi tiền và mỗi gia đình chỉ được đổi tối đa lúc ban đầu là khoảng 200 đồng mà thôi, nếu có nhiều tiền hơn thì nó sẽ trở thành tờ giấy trắng vô giá trị. Mục đích của đổi tiền là nhằm "bần cùng hóa" nhân dân để cho dân chúng trong miền Nam vốn giầu có hơn miền Bắc sẽ phải trắng tay và nghèo đói như nhân dân ngoài Bắc để có thể dễ bề cai trị hơn.
Một Định Mệnh cay nghiệt vừa phủ xuống miền Nam từ thành phố về đến ruộng vườn nông thôn sau tháng Tư năm một chín bẩy lăm. Cả miền Nam bị đắm chìm trong đau thương sau những chính sách và biện pháp trục xuất dân đi kinh tế mới, rồi đổi tiền và đánh tư sản của cái chế độ mới tự xưng là chính quyền của nhân dân.
Mọi người dân lành chất phác của một miền Nam hiền hòa phút chốc rơi vào hoàn cảnh cực kỳ bi thương, thẩy đều ngơ ngác bởi từ ngàn xưa đến nay chưa từng xẩy ra trên đất nước và quê hương này bao giờ - chính người Việt đang tiêu diệt người Việt vì ý thức hệ Tư Bản đã bị thay thế bằng thể chế Cộng Sản.
Những con người của chủ nghĩa Vô Sản đang giáng những đòn chí tử vào chính nhân dân họ và reo rắc những nỗi kinh hoàng khắp nơi để làm tê liệt ý chí đối kháng nếu có còn rải rác trong xã hội.
Trong khi đó thì trại giam mọc lên khắp ba miền đất nước để giam giữ, trả thù và đầy đọa những người trước kia đã từng chiến đấu chống lại cuộc xâm lăng của miền Bắc vào miền Nam, và cũng để cô lập các viên chức sĩ quan chế độ cũ khỏi gia đình và ra khỏi xã hội.
Cái chế độ "khoan hồng nhân đạo" và "học tập cải tạo" thực chất chỉ là một nhà tù tập trung vô nhân đạo nhất trên thế giới nhằm giết dần mòn những tù nhân chính trị này từng ngày, từng tháng và từng năm với một cuộc sống tù tội, xúc phạm nhân phẩm con người, lao động khổ sai hàng ngày ngoài nắng mưa của mùa Hè hay sương gió giá lạnh của mùa Đông mà đói khát, thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu thuốc men, và phải sinh sống trong những điều kiện vệ sinh hết sức tồi tệ của các trại giam.
Rồi trong các mùa viêm nhiệt tại miền Bắc thì các tù nhân phải hứng chịu các dịch bệnh tiêu chảy và kiết lỵ do vấn đề thời khí quá oi bức, buồng giam chật ních tù nhân, cộng với việc nấu ăn trong nhà bếp không vệ sinh và bảo quản không tốt.
Những dịch bệnh nhất là kiết lỵ tại nhiều trại đã cướp đi không biết bao nhiêu sinh mạng của tù nhân chính trị với lý do đơn giản là không có thuốc điều trị. Kiết lỵ là một bệnh rất đễ chữa trị nếu có thuốc trụ sinh vì là bệnh nhiễm trùng đường ruột vậy mà nhiều người đã chết vì nó một cách dễ dàng và oan uổng. Thực tế mà nói thì chính ngoài dân chúng cũng còn không có thuốc men thì làm sao mà trong tù có thể có được.
Bởi vậy nếu làm tù nhân trong các nước tiên tiến thì còn có thể giữ gìn được sức khỏe và còn có cơ hội sống sót mà trở về chứ sống trong một xã hội như miền Nam sau ngày Sàigòn sụp đổ thì cũng đã khó mà tồn tại rồi, đừng nói gì là trong bốn bức tường tập trung của trại giam XHCN.
Những đợt dịch bệnh ấy như những làm mây đen bao phủ các trại giam và quật ngã không biết bao nhiêu tù nhân. Nhưng trong những trường hợp bị căn bệnh quái ác này có một trường hợp thật lạ lùng và đối với tôi lúc đó mang tính cách huyền bí là anh Luân, Đại Tá chỉ huy trưởng đơn vị 101.
Khi đó anh Luân đang bị biệt giam tại trại Hà Tây, tỉnh Hà Sơn bình, thì anh bị kiết lỵ, trại cũng chỉ cấp cho Xuyên Tâm Liên và anh dần dần kiệt sức chỉ còn nằm chờ chết vì không ăn uống được gì dù là cháo loảng.
Thế nhưng, có một cái gì thôi thúc anh cố gắng ngồi dậy và dựa vào bức tường trong phòng biệt giam rồi anh chuyên tâm niệm danh hiệu Đức Phật Bà Quán Thế Âm Cứu Khổ Cứu Nạn. Khi nào quá mệt thì anh nằm xuống nghỉ một chút rồi lại gượng ngồi dậy để chuyên chú niệm danh hiệu Đức Phật Bà trong mấy ngày đêm liên tục.
Trong thâm tâm anh cũng chỉ cầu mong Đức Phật Bà nghe được thì sẽ được Ngài thương xót mà đem anh đi khi anh nằm xuống mà thôi, nhưng như là một phép lạ, anh cảm thấy trong người từ từ bớt đau nhói trong bụng, kiết lỵ cầm dần dần, anh từ từ húp được ít cháo và sức khỏe dần dà hồi phục lại.
Anh đã khỏi bệnh truyền nhiễm này mà không có một viên thuốc trụ sinh nào trước con mắt cực kỳ kinh ngạc của bọn cai tù vì chúng đã bảo bên tù hình sự chuẩn bị làm sẵn một cái quan tài bằng gỗ mộc rẻ tiền để chờ khiêng anh lên ngọn đồi nghĩa trang của trại.
Sau này khi ra khỏi khu biệt giam, anh thực hành quán Thiền với thầy Tông và các anh Trãi, đại tá không quân và anh Đồng Tuy, một người thầy về khoa Tử Vi, và dù có gia đình thăm nuôi sau đó nhưng anh vẫn giữ ăn chay trường. Nhìn anh tóc bạc phơ nhưng lúc nào nói chuyện với tôi, anh cũng nở nụ cười hiền hậu như một tiên ông, tôi cũng học thêm được một nhân cách đáng quí của một con người mà tôi kính phục.
Trước kia khi còn là chỉ huy trưởng của cả một đơn vị quân báo oai hùng, anh vẫn luôn được sự kính trọng của thuộc cấp, bây giờ dù thân tù tội anh vẫn hiên ngang không đầu hàng kẻ địch dù đang sa cơ thất thế nên cuối cùng chúng cũng phải cho anh ra khỏi khu biệt giam. Tôi tin rằng Trời Phật đã ngó xuống và cứu anh trong giây phút thập tử nhất sinh đó bởi anh là một anh hùng.
Một thời gian sau anh được gọi ra thăm nuôi và khi vào trại, anh gọi tôi ra ngồi với anh trên băng đá trong sân thì anh tâm sự với tôi là chính Ba của anh vào thăm nhưng ông ta là người của phía bên kia, không phải người Quốc Gia VNCH mình cho nên anh đã dứt khoát từ chối lời đề nghị bảo lãnh của ông để anh có thể ra tù sớm. Tôi lại càng thêm yêu mến anh hơn vì anh đã đặt lý tưởng và chính nghĩa Quốc Gia VNCH của mình lên trên tình Phụ Tử dù là người cha đó biệt tích đã lâu nay bất ngờ xuất hiện.
Muốn trị các bệnh tật thì phải có thuốc nhưng thuốc men cung cấp cho các tù nhân không có gì ngoài Xuyên Tâm Liên, nó giống như một loại thuốc tễ cao đơn hoàn tán hình viên tròn nhỏ, không ai biết nó được bào chế ra sao, gồm những hợp chất gì, và không biết nó dùng để trị bệnh gì nữa.
Nhức đầu, cảm, sốt cao độ cũng cho Xuyên Tâm Liên, kiết lỵ cũng Xuyên Tâm Liên, đao bao tử cũng nó luôn, có anh khai bị ói mửa cũng Xuyên Tâm Liên. Riết rồi chẳng ai muốn đi khai bệnh xin thuốc làm gì vì đã biết loại thuốc nào mà bệnh xá trại sẽ cung cấp.
Chính vì thế mà trong ba năm đầu tiên chúng tôi bị chuyển ra Bắc, sức người chỉ có hạn trong những điều kiện khắc nghiệt của thời tiết và chế độ ăn uống thiếu thốn nên người nào cũng ốm o gầy mòn dần một cách thảm thương như những bộ xương khô còn cử động bởi vì chúng tôi cũng giống như một sợi giây đã bị kéo ra quá căng rồi. Mỗi lần dịch bệnh tái phát thì có khi đến hàng nửa đội lao động bị bệnh phải nằm tại buồng hay khiêng xuống bệnh xá.
Vào năm thứ hai ở ngoài Bắc thì một đợt dịch Cúm lan tràn vào đến trong trại giam và hầu như tất cả mọi anh em chúng tôi đều bị nó quật ngã vì lúc ấy sức đã quá yếu rồi. Ngoài đó dân chúng cũng rất là sợ cái căn bệnh "ông Cúm bà co" này nhưng vì thiếu ý thức và thiếu kiến thức về bệnh dịch nên một khi nó xẩy ra thì bùng phát rất là nhanh.
Bệnh xá trại không còn chỗ trống và bệnh nhân phải nằm ngay tại buồng giam của mình và không gì ngán ngẩm hơn là các cán bô y tá của họ vào để chẩn bệnh xong rồi cũng phát cho mỗi người vài chục viên Xuyên Tâm Liên rồi quay gót ra đi.
Cuối cùng khi thấy quá nhiều người bị Cúm thì họ tìm cách trấn an người tù bằng hình thức cho các bộ phận y tế của trại vào từng buồng giam để nhỏ nước tỏi vào mũi.
Anh Lạt bạn thân của tôi, là một Thiếu Tá Cảnh Sát đặc Biệt, khi còn ở trại giam Long Thành, miền Nam, năm đầu tiên, dáng người khỏe mạnh rắn chắc như lực sỹ, bây giờ như que củi và nói với tôi rất bi quan rằng có lẽ mình sẽ không qua khỏi được cơn bệnh này.
Lúc đó tôi cũng chẳng khá gì hơn và chỉ biết an ủi anh rằng hy vọng đợt Cúm này sẽ chóng qua, nhưng không ngờ rằng ngày hôm sau thì chính tôi lại bị sốt cao độ và cơ thể đau nhừ khắp người như bị tra tấn rồi mê man không còn biết gì nữa.
Đến khi tỉnh dậy thì thấy mình nằm trong bệnh xá trại và các giuờng đầy nhóc tù nhân. Chỉ có hai ngày bị "ông thần" Cúm này tấn công, tôi trở nên hốc hác đến độ các bạn tù xuống thăm không nhận ra tôi nữa dù là họ đang đứng ngay bên giường của tôi và hỏi thăm xem tôi đang nằm ở đâu.
Thế rồi tôi cũng chẳng hiểu sao, từ từ tôi lấy lại sức dù rằng bệnh xá cũng chẳng có gì "bồi dưỡng" ngoài ít cháo loãng mỗi ngày hai bữa, và vừa đứng dậy được thì chúng tôi được lệnh phải ra lao động ngay vì đợt Cúm đã làm cho kế hoạch sản xuất của trại bị chậm lại.
Đội của tôi lúc đó được phân công nhổ cỏ trong những đám ruộng còn ngập nước mà tay quản giáo nói là trại đã "ưu ái" cho lao động nhẹ.
Nhưng không may cho tôi là người chưa khỏe hẳn mà chân ngâm trong nước suốt ngày nên đêm hôm đó tôi lại lên cơn sốt mê man lần nữa.
Người lúc nóng ran lúc lạnh run như lên cơn sốt rét đến độ anh Luận, một Trung Úy trẻ tuổi nằm bên cạnh, phải lấy hai tấm chăn đắp cho mà hai hàm răng tôi vẫn đánh lập cập. Hôm sau tôi và cùng với ba anh nữa được cho nghỉ tại buồng ăn cháo một ngày.
Tôi tin vào Định Mệnh và có lúc cũng nói với anh Lạt lúc hai đứa đang bệnh một câu có vẻ như vô nghĩa nhưng rất thực tế và khôi hài rằng nếu mình không chết thì…mình sẽ sống và cả hai thằng đều mỉm cười.
Sau một năm tại trại Long Thành, miền Nam, và ba năm ngoài Bắc thì hình như Định Mệnh đã mỉm cười với chúng tôi khi mà gia đình trong Nam nhận được thư chúng tôi gửi liên quan đến vấn đề thăm nuôi và các thứ thật cần thiết như nhu yếu phẩm, thuốc men và quần áo ấm.
Tôi tin rằng Ơn Trên và Trời Phật đã nhủ lòng thương xót những tù nhân chính trị này mà xui khiến cho đám vô thần đó mở cửa cho gia đình chúng tôi được ra thăm nom và tiếp tế kịp thời. Nếu trễ một vài năm nữa thì có lẽ nhiều người trong đó có tôi sẽ chẳng bao giờ còn nhìn thấy ánh nắng Mặt Trời nữa.
Đến khi Mẹ và em gái tôi đến thăm lần đầu tiên, nhìn những loại thuốc tây hiếm quí mà anh thứ Hai của tôi là Quân y nên đã gửi ra rất đầy đủ từ thuốc trị kiết lỵ tiêu chẩy, cảm cúm Contac, B-complex, Aspirin cho đến cả kẹo ngậm ho thì lòng tôi rất vui vì nghĩ rằng mình sẽ có dịp dùng nó để trị bệnh cho mình và cho các bạn bè của mình nữa.
Con người ta sau nhiều năm bị tù đầy giam giữ cũng ví như một cây khô hạn mà sự sống chỉ còn lung linh như ánh nến trước cơn gió.
Cũng bởi vậy mà khi có được các loại thuốc men trong tay thì tác dụng kỳ diệu của các viên thuốc này giống y như thần dược trong các truyện cổ tích mà chúng ta đọc khi còn bé.
Một hôm tôi thấy anh bạn nằm cạnh bên là anh Bạch, Trung Úy trong số mấy trăm anh em từ trại Thạnh Mỹ Tây trong Nam theo tầu Sông Hương chuyển ra Bắc và về cùng trại với tôi đang ghè đầu vào tường.
Tôi lớn hơn Bạch hai tuổi nên coi như anh em nên lấy làm lạ bèn hỏi anh:
-"Ê! Cậu làm sao vậy?"
-"Nhức răng quá chịu không nổi phải ghè đầu vào tường cho bớt đau."
Tôi suy nghĩ mãi vì thông thường thì nếu ở ngoài xã hội thì chỉ có đi Nha sĩ mới chữa được thôi nhưng trong hoàn cảnh này đời nào họ chịu chở tù nhân ra thành phố để...chỉ chữa răng? Đến bệnh trầm kha nhiều lúc họ cũng vất xuống bệnh xá trại và chờ khi nào có chỉ thị mới đưa đi chữa bệnh ngoài tỉnh được nữa là.
Tôi sực nhớ trong tờ giấy anh Hai tôi chỉ dẫn là thuốc Aspirin chữa được các loại đau nhức nhưng không uống lúc bụng đói. Tôi bèn tự đóng vai bác sỹ bất đắc dĩ và lục trong ba lô ra ba viên Aspirin và đưa cho Bạch mà trong lòng cũng cầu cho bạn mình qua được cơn đau nhức này:
-"Anh mình bảo rằng Aspirin chữa được đó, bây giờ cậu ăn ít bánh bột hấp - là phần ăn mỗi ngày của chúng tôi trong khẩu phần 15 kí chất bột cho người lao động - xong rồi uống một viên rồi hai tiếng nữa uống thêm viên nữa xem sao.
Tôi không dám cho uống cùng một dose 2 viên vì sợ quá mạnh cho bao tử.
Bạch nghe lời tôi uống hai viên Aspirin trong hai tiếng đồng hồ và đúng là phước chủ may thầy không hiểu sao anh ta hết đau răng luôn từ đó.
Bạch chưa có gia đình thăm nuôi cho nên tôi bảo anh giữ lại viên Aspirin kia phòng hờ nếu nó có hành đau nhức lại thì uống khi không có tôi bên cạnh. Từ đó chúng tôi thành bạn thân ngoài tình anh em làng giềng nằm cạnh nhau. Bạch là một người rất dễ thương, tính tình nhỏ nhẹ như con gái và thường cười để lộ cái...răng vàng sáng chói.
Năm sau thì anh được tha về và có ghé thăm Mẹ và các em tôi tại Sàigòn kể những chuyện vui buồn khi tụi tôi sống chung trong traị những năm tháng tù đầy cho Mẹ tôi nghe trước khi anh về tỉnh.
Một trường hợp nữa về sự diệu kỳ của thuốc gia đình gửi vào là một ngày khi tôi đang nằm ở từng trên thì thấy có ai giựt chân mình, hóa ra là anh Nhơn, Đại Úy pilot trực thăng.
Tôi cũng thường là một khán giả hay nghe Nhơn kể chuyện về không quân ngày trước với những chiến công oai hùng của KQ VNCH.
Một trong những truyện làm tôi vô cùng xúc động là về người anh hùng phi công trẻ tuổi nhất của KQVN là Thiếu Tá Nguyễn Dzu, và về sự tàn bạo vô nhân tính như ác quỷ của những người cộng Sản.
Khi anh được vinh thăng Thiếu Tá thì cấp bậc đó đã bị hoãn lại một thời gian vì anh quá trẻ để gắn lon Thiếu Tá. Anh lập không biết bao nhiêu là chiến công kể cả diệt hàng chục xe tăng T-54 của Cộng Sản, phi đội của anh đã chặn đứng cả một trung đoàn địch không vượt qua được con sông Thạch Hãn. Anh luôn tình nguyện lái thay các bạn mình về phép nhưng không ngờ chuyến bay của anh thay cho một người bạn bên bờ sông Thạch Hãn trong Mùa Hè Đỏ Lửa năm ấy lại là chuyến bay cuối cùng của Định Mệnh oan nghiệt.
Khi phi đội anh hoàn tất nhiệm vụ và lạng cánh bay về thì anh nhìn thấy một cụm pháo phòng không của địch, cụm pháo này đã bắn cháy một khu trục trong trận chiến hôm đó và anh quyết định vòng trở lại một mình bất chấp các bạn trong phi đội can ngăn và khi anh bắn được trái rocket trúng mục tiêu cũng là lúc mà máy bay anh trúng đạn phòng không bốc cháy và anh bị trúng thương nơi chân.
Anh phải nhẩy dù khẩn cấp và không may cho anh là tuy cố gắng để lái chiếc dù về phía bên này bờ sông nhưng gió lại thổi nghịch chiều và anh đáp xuống phía bên kia bờ sông nơi mà địch quân đang kiểm soát, một chân trên bờ một chân dưới nước.
Các bạn anh đều quay lại để tiếp cứu và ngăn được ba lần toán VC và du kích địa phương từ những tàng cây trong rừng nhào ra để bắt anh nhưng đến lần thứ thư thì không kịp nữa vì chúng đã lôi được anh vào trong rừng. Viên Đại Tá cố vấn Mỹ của Không Đoàn khi nghe tin anh vừa bị bắt thì lên ngay tần số và phát thanh liên tục ra ngoài Bắc và yêu cầu họ đối xử tử tế với Thiếu Tá Nguyễn Dzu, nhưng tin tức về anh thì vẫn biệt tăm.
Năm 1973, khi có trao đổi tù binh giữa hai miền Nam Bắc thì có một Hạ sỹ quan của chúng ta được trao trả có khai rằng anh đã phải mục kích cảnh bọn VC và quân Bắc Việt lập tòa án nhân dân trong rừng để xử Thiếu Tá Nguyễn Dzu. Thiếu Tá Nguyễn Dzu vẫn kiêu hùng không khuất phục nên chúng tức quá ra lệnh tra tấn anh, nhưng anh vẫn ngửng cao đầu, rồi chúng điên cuồng lên và ra lệnh hành hình anh bằng tùng xẻo cho đến khi anh trút hơi thở cuối cùng.
Tùng xẻo là cứ đánh một tiến trống thì xẻo một miếng thịt cho đến khi tội nhân chết thì thôi, một thứ hành hình dã man như thời Trung Cổ mà chỉ có VC còn áp dụng trong thế kỷ thứ 20 này.
Anh Nhơn cũng kể rằng trong các cơ khí sửa máy bay có một anh Hạ sỹ quan rất giỏi về khoa Tướng số có xem cho Thiếu Tá Nguyễn Dzu rằng anh có đại nạn về sông biển và nên cho anh ta đi theo trong một phi vụ trực thăng nào đó ra ngoài biển với Thiếu Tá Dzu thì anh hy vọng có thể cứu mạng được.
Thế rồi chiến sự lan rộng và quá căng thẳng những tháng ngày năm 1972 của Mùa Hè Đỏ Lửa và Thiếu Tá Dzu phải bay liên tục để yểm trợ quân bạn, không có một giây phút nào nghỉ ngơi và từ từ mọi việc dần rơi vào quên lãng nên người Hạ sỹ quan đó không có dịp "cải số" lại cho người pilot anh hùng tên Dzu. Âu cũng là Định Mệnh.
Dòng tư tưởng của tôi chợt bị ngắt quãng bởi câu hỏi của anh Nhơn và mấy cái lay chân của anh:
-"Nghe nói toi có thuốc trị tiêu chẩy phải không, để cho moi vài viên?
-"Xin lỗi nẫy giờ mình đang nghĩ về câu chuyện khác nhưng mà ông biết là tôi có bao giờ bán thuốc tây đâu chỉ dùng nó để chữa bệnh thôi, nhưng ai bị vậy?"
-"Ông Bẩy Bớp nằm dưới kia kìa, hai ngày nay có ăn uống tí cháo nào đâu?"
-"Ông đưa cho ông ấy uống ngay một viên Imodium này, đây là loại tốt nhất mới có và nói ông ấy ráng húp ít cháo đi và tối uống thêm viên nữa, khỏi nói là thuốc của tôi nghe.
Thuốc Imodium khi ấy trị liệu như thần và sau khi uống hai viên xong thì ông Bẩy Bớp đi lại được và không còn bị đi cầu nữa. Bẩy Bớp là biệt danh mà không biêt anh em nào đã đặt cho ông Tân là một người tù trong thành phần Đảng Phái cũng bị giam giữ.
Trước cửa buồng chúng tôi là một cái sân nhỏ và một bể chứa nước bơm vào từ nhánh sông Hồng cạnh con đê.
Buổi chiều trước khi kẻng điểm danh vào buồng thì chúng tôi hay đi bộ trong sân. Một hôm sau khi họ "biên chế" lại các buồng thì có một số anh chuyển qua buồng tôi và tôi chú ý thấy một anh đang cố chống gậy tập đi đi lại lại trong sân. Tôi bước lại hỏi thăm thì hóa ra là anh biết tôi do bạn bè nói vì tôi có thuốc tây nhưng anh rất ngại nên không tiện mở lời trước, tên anh là Chính, Thiếu Tá quận trưởng, anh nói:
-"Bà xã moi viết thư sắp ra thăm nên mấy hôm nay moi cố tập đi lại vì hai chân suy dinh dưỡng nên đã rất yếu, moi không muốn bà xã ra gập moi trong tình cảnh chống gậy như thế này thì tội nghiệp cho bà ấy lắm nhưng không biết phải làm sao. Nghe nói toi có thuốc bổ nên không biết nó có giúp gì được không?"
Tôi lại tìm trong các loại thuốc
bổ ông anh gửi vào và đọc kỹ lại tờ hướng dẫn. Cuối cùng buổi tối hôm đó tôi đến chỗ anh nằm và đưa tặng anh một vỉ B-Complex của Pháp vì trong đó nó có B1, B-6 và B-12 hy vọng có thể làm cho hai chân anh mạnh hơn.
Sau khi anh uống hết vỉ B-Complex đó, tôi rất vui mừng vì anh đã bỏ được chiếc gậy và lững thững đi được từng bước một. Tôi bèn biếu anh một vỉ nữa và quả là như một phép lạ, hai chân anh trở nên vững hơn và anh đi lại được gần như thường.
Hôm mà bà xã anh đến thăm thì cũng đúng lúc anh bỏ được cây gậy, mặc vào người bộ áo Treillis mà trại phát một cách oai hùng như xưa mà ra gập vợ.
Khi anh trở vào trại sau lần thăm nuôi đó thì anh rất là vui và tinh thần phấn chấn hẳn lên và nắm tay tôi:
-"Cám ơn toi nhiều nhe, nếu không có thuốc của toi thì chắc bà xã mình khóc hết nước mắt rồi, vì moi không muốn thấy vợ mình khóc trước mặt bọn chúng, toi hiểu không?". Tôi gật đầu nói:
-"Anh may mắn lắm đó vì tôi chỉ có độc nhất hai vỉ B-Complex gia đình gửi cho chứ chẳng có thuốc bổ nào khác cả."
Tối hôm ấy anh mời tôi và một số bạn đến chỗ anh nằm để thưởng thức trà và cà phê ngon gia đình mới đem vào, và từ đó tôi trở thành một người bạn thân mà anh thích tâm sự.
Thời gian khi chúng tôi chuyển trại vào Hàm Tân, trong Nam thì lúc đó mới có loại trụ sinh Amoxycilin thay thế cho loại Ampicillin đã lỗi thời vì Amox có thể uống bất cứ lúc nào không cần bụng đói như Ampi. Có lần chính tôi bị viêm họng, cổ họng vừa đau rát lại mẩn đỏ nên ăn uống không được, may có anh bạn nằm đối diện là Lê Văn Hoan, Thiếu Tá Cảnh Sát Đặc Biệt, đưa cho tôi có một viên mà uống xong thì ngày mai thấy hết ngay bịnh. Quả là thần sầu thuốc men trong tù.
Luận, anh chàng nằm cạnh tôi trước kia, mà không biết ai đặt tên cho là "Nhái" có lẽ vì nhỏ con, một lần nói với tôi rằng:
-"Ông mà cho người ta thuốc men thì…ông khỏi phải uống nó chứ có sao đâu".
Sau này khi mà tôi có cơ duyên gập được thầy của tôi là Thầy Tâm thì thầy cũng bảo tôi rằng trong tù thuốc men rất là quí hiếm, một phần mình uống để chữa bệnh cho mình và một phần mình đem cho anh em là rất có phước. Cái Tâm tốt của mình truyền vào viên thuốc đó sẽ giúp cho viên thuốc bội phần công hiệu.
Chính nhờ vào tình thương yêu ruột thịt của gia đình đùm bọc và cưu mang nên tôi cũng như hàng chục ngàn người tù khác đã có được sự tiếp tế liên tục trong suốt bao nhiêu năm trời mà tôi ví như nước Cam Lồ tưới vào các thân cây khô héo. Cũng nhờ vậy mà chúng tôi, người có dư lại giúp đỡ những người thiếu thốn hay người ít có thân nhân đến thăm hay gửi quà, nên đa số chúng tôi sức khỏe dần hồi phục và tinh thần cũng hưng phấn, thêm sức chịu đựng để chờ ngày ra khỏi trại về đoàn tụ với những người thân yêu.
Kể từ đó tôi bắt đầu tin rằng con người ta có số mạng. Số chúng tôi không chết trong tù nên xui khiến cho gia đình đã gửi bưu phẩm và đến thăm nuôi kịp thời.
Trong thời gian ở trại Ba Sao Nam Hà ngoài Bắc, tôi có ở chung trại với anh Nguyễn Phát Lộc, Quyền Đặc Ủy Trưởng của Phủ ĐUTƯTB.
Anh là tác giả của cuốn Tử Vi Hàm Số rất nổi tiếng xuất bản trước năm 1975, không may là anh bị bạo bệnh và được ra ngoài thị xã chữa trị nhưng cũng không thuyên giảm. Anh vẫn thường nói với anh em chúng tôi rằng số anh không chết trong tù.
Một hôm anh có gia đình đến thăm nuôi nhưng anh sức đã quá yếu không đi nổi nên phải cáng trên băng ca đưa anh ra khu thăm nuôi ở ngoài trại khoảng vài trăm thước và ngày hôm sau thì anh qua đời trong vòng tay của những người thân ruột thịt của anh.
Anh xem cũng đúng, vì khi anh mất anh không ở trong vòng rào của khu trại giam.
Tôi cũng tin vào Định Mệnh An Bài như anh Đồng Tuy đã chỉ dậy cho tôi một phần trong khoa Tử Vi: "Nhất ẩm, nhất trác giai do tiền định" tức là "Một miếng ăn, một miếng uống là đều có định trước".
Phần XI: Những Giấc Chiêm Bao
Lời Tác Giả: Những giấc chiêm bao nhiều khi chính là điềm báo mộng, chúng cho ta một cảm giác rằng ngoài cái cuộc sống hiện hữu trên Trái Đất này ra còn có một thế giới khác rất gần với chúng ta. Các giấc mơ này đều có thật và bài viết này đã được đăng trên báo Người Việt tại Quận Cam, California vào tháng Năm năm 2001, bút hiệu của tác giả lúc đó là Phạm Đăng Trâm.
Cuộc đời của con người nếu trải dài được một trăm năm thì có lẽ không đêm nào mà chúng ta không thấy một giấc mơ dù là ngắn hay dài, và sẽ không thể đếm được bao nhiêu đêm đã ngủ say trên gối mộng.
Khi tỉnh lại thì nhiều khi tiếc nuối vì nó đẹp và ngắn ngủi quá, nhưng cũng rất nhiều lần ngủ dậy rồi chẳng nhớ được điều gì.
Tôi có cô em gái khoảng mười năm trước nằm mơ thấy mình trúng số Super Lotto, đến khi thức giấc thì cứ tiếc ngẩn ngơ vì tại sao nó không là sự thật. Tôi thì suy đoán rằng thời gian đó vì vốn liếng dành dụm của gia đình cô của cả nửa đời người phút chốc đã tan ra mây khói theo Mutual Funds và Stock ; và cô ta ban ngày thì cứ ao ước trúng số để bù vào số tiền khổng lồ đã không cánh mà bay đi cho nên ban đêm tiềm thức đã làm việc và tạo ra giấc mơ đó.
Có những giấc mơ đúng là chỉ đi qua chúng ta trong giây lát và không để lại một chút gì trong trí nhớ nhỏ nhoi, nhưng rất nhiều giấc mộng dù là đã trải qua bao nhiêu năm tháng vẫn còn in hằn trong ký ức như mới tự hôm nào.
Có những giấc mơ hay chiêm bao đến thật là rõ rệt y như điềm báo mộng trước về những chuyện gì sắp xẩy ra cho chúng ta.
Thời gian tôi còn bị giam giữ tập trung "cải tạo" tại miền Bắc ở trại Ba Sao Nam Hà thuộc tỉnh Hà Nam Ninh thì Hòa Thượng Thích Thiện Chánh, là thầy Tâm của tôi là một vị sư trong Nha Tuyên Úy Phật Giáo của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có bảo tôi rằng miền đất này gần chùa Hương Tích rất linh thiêng, nơi thờ phượng Đức Phật Bà Quán Thế Âm cho nên được hưởng nhiều phước lành.
Những núi đồi trùng trùng điệp điệp bao quanh khu trại giam cũng có nhiều vị Sơn Thần Thổ Địa ngày đêm hộ trì cho anh em tù nhân chính trị chế độ cũ.
Một buổi tối, thầy Tâm chỉ lên trên một đỉnh núi và hỏi tôi:
“Con có nhìn thấy gì không?”
-“Thưa thầy không.” Vì quả thật tôi chẳng thấy gì trên ngọn núi đó cả.
-“Trên đỉnh núi ấy, nhất là những đêm sáng trăng thì nhìn thấy rất rõ một vị Thần một chân đang chống gậy và nhìn về phía trại tù này. Đó là vị Sơn Thần vùng này.” Và thầy nói tiếp:
-“Các Sơn Thần Thổ Địa ở đây đều được lệnh là bảo vệ chúng ta trong trại giam này chính vì thế mà cuộc sống của chúng ta trong tù gần đây cũng đỡ vất vả hơn và ít tật bệnh nguy hiểm hơn.” “Con biết tại sao không?”
-“Dạ không.”
-“Bởi vì chúng ta có Chính Nghĩa, và bởi vì chúng ta biết thờ Trời, thờ Phật và các vị Thần Linh.” “Chúng ta mất Nước vì đó là Thiên Ý.”
Thầy bảo rằng chúng tôi đang phải trả nghiệp chướng cho chính mình và cho cả đất nước bị suy vong.
Tôi càng lúc càng thấy lời thầy nói là đúng vì những lúc cuốc đất đến hoa mắt trong mùa Hè nắng cháy da cháy thịt mà trên đầu chỉ có một chiếc nón lá đơn sơ; hay những ngày mùa Đông khi gió Bấc thổi qua từng cơn đứng giữa trời lạnh buốt mà hai chân trần đang đạp lên từng lớp đất sét dù đổ nước lên mà vẫn cứng như đá để sản xuất ra gạch ngói; thì tôi tự dưng nhận thức ra được rằng đây chính là cái nghiệp dành cho mình khi đất nước đã mất; và chính tôi phải gánh lấy và không một ai trên cõi đời này có thể làm hộ dùm mình.
Nếu từ chối nó thì vào nhà biệt giam cũng như nhau mà thôi.
Trại Ba Sao, nhìn từ bên dưới thung lũng và đầm lầy nhìn lên thì sừng sững và kiên cố như một pháo đài thời Trung cổ đúc toàn bằng đá và chỉ liên lạc với thế giới bên ngoài qua một con đường đất sỏi đá độc đạo, ngoằn ngoèo chạy bọc quanh sườn núi từ trại qua khu gia binh đến thị xã.
Trong trại, hai dẫy buồng giam nằm hai bên ngăn cách bởi một cái sân rộng hình chữ nhật với hai vách tường cũng bằng đá được xây dựng lên bởi bàn tay của những người tù.
Khi chúng tôi chuyển trại về đây thì đã nghe một câu giống như sấm truyền từ những anh em sống trong trại kể lại:
"Bao giờ vách đá nở hoa, Nam Hà hội tụ thời ta lại về".
Vách đá làm sao mà nở hoa được, chúng tôi cứ thắc mắc mãi cho đến khi các nghệ nhân là những anh em khéo tay được phân công để trang trí và tô điểm lại trong khu sân trại và cho khu nhà ‘Văn Hóa” được nghệ thuật hơn.
Một nhóm thì trồng các loại hoa trong khuôn viên của nhà “Văn Hóa”, và một nhóm khác thì khắc những bông hoa trên hai vách tường đá của khu sân trại ngăn đôi hai dẫy buồng giam, một bên là tù chính trị còn bên kia là giam tù hình sự.
Từ đó, những đóa hoa đã nở ra trên vách đá và năm một chín tám ba thì các tù chính trị từ các trại khác cũng được lần lượt chuyển về hội tụ tại trại Ba Sao Nam Hà.
Như vậy là “Vách đá đã nở hoa” và” Nam Hà đã hội tụ” nhưng cũng còn phải chờ đợi đến hơn ba năm sau nữa thì câu sấm truyền đó mới linh ứng.
Một điểm đặc biệt của khu giam tù chính trị là vụ “cầu cơ” và cụ Phan giáng bút cho những bài thơ thật là hay cả về hình thức lẫn nội dung.
Nhiều anh có ghi chép lại hàng chục bài thơ rất dài Đường Luật này và vừa cảm phục những áng thơ hay của Cụ vừa mừng vì trong ý thơ Cụ cũng hé mở những ánh sang hân hoan vui mừng cho người tù.
Cũng chính tại trại giam Ba Sao Nam Hà này mà nhiều giấc mơ kỳ diệu đã xẩy ra. Một đêm, không bao lâu sau khi tôi có cơ duyên gập được vị sư Nha Tuyên Úy ấy, thì tôi nằm mơ thấy mình đang đứng trước một vị Thánh Mẫu rất là uy nghi ngồi trên chiếc ghế to bọc vải mầu vàng lóng lánh kim tuyến giống như một cái ngai vậy.
Hai bên vị Thánh Mẫu có hai tiên nữ cầm quạt phe phẩy đứng hầu. Hai con mắt Ngài sáng như sao nhưng nhìn tôi thật là hiền từ và vẫy gọi tôi lại gần rồi hỏi tôi đúng một câu và Ngài phán cũng đúng có một câu.
"Con có phải tên họ là Đại, Phạm Gia Đại?"
"Cộng Sản nó sẽ không bao giờ thả con đâu, nhưng cuối cùng thì chúng cũng sẽ phải thả".
Nói xong thì Ngài và hai vị tiên cô biến mất, thoạt đến và thoạt đi, đúng là một giấc mộng linh hiển.
Tôi bèn đem giấc mơ này kể cho thầy Tâm là thầy của tôi nghe thì thầy nhìn tôi rồi bảo rằng đúng đó là vị Thánh Mẫu mà dân gian vẫn thờ phượng và Ngài giáng xuống bảo tôi phải chuẩn bị để chấp nhận những thử thách lớn lao còn nữa sau này.
Thầy nói với tôi rằng Thầy cũng nằm ngủ thấy một giấc mơ giống như vậy tối hôm trước.
Thầy thấy một giòng sông mà nước đã cạn tới đáy nằm trơ ra mấy chục con cá mà lạ lùng thay là một trong những con cá đang nằm thoi thóp đang còn quẫy đuôi trên đáy sông đó lại chính là tôi.
Vào tháng Chín năm một chín tám bẩy và đầu năm dịp Tết Nguyên Đán năm một chín tám tám mới có hai đợt thả tù nhân chính trị chế độ cũ lớn nhất.
Sau hai đợt thả này thì trong toàn trại, tù chính trị chỉ còn sót lại chín mươi người cuối cùng trên đất Bắc và tôi là một trong số đó.
Đợt thả lớn đầu tiên vào tháng Chín năm một chín tám bẩy khi tất cả các vị Tuyên Úy Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo và Tin Lành được ra khỏi trại Nam Hà thì tôi và mấy người bạn có qua thăm thầy Tâm và Thượng Tọa Thích Thanh Long thì thầy Long có bảo tôi rằng phải bốn tháng nữa, đến Tết mới có một đợt thả lớn và các anh ráng giữ gìn sức khỏe.
Lúc đó tôi không tin và nghĩ rằng chỉ vài tuần lễ nữa là họ sẽ thả hết tất cả tù chính trị, vì tin tức gia đình đem vào cho biết là phái đoàn của cựu đại tướng John Vessey, Đặc Sứ của Tổng Thống Ronald Reagan đã thương thuyết thành công sau bao nhiêu là khó khăn và phía Bắc Việt đã đồng ý thả hết.
Quả thật là sau đó không có một đợt thả nào nữa cho đến Tết năm một chín tám tám mới có đợt thả lớn lần thứ hai.
Tôi nghĩ rằng thầy Long là một vị chân tu và nhờ vào thiền và tu hành từ nhỏ mà thầy đã biết được nhiều chuyện quá khứ và vị lai nhưng chỉ nói ra khi thật cần thiết để nâng đỡ tinh thần những người tù còn ở lại.
Khi thầy trò chia tay nhau để tôi vào trại và quí thầy lên xe ra ga Phủ Lý lên xe lửa xuôi về Nam, thầy Tâm kể cho tôi nghe về giấc mộng linh thiêng báo cho thầy biết hạn tù đã hết.
Một tuần trước, thầy nằm mơ thấy Sư Ông là vị thầy của thầy Tâm, người đã bị Việt Minh sát hại một cách man rợ tại một địa điểm gần chùa Châu Viên tỉnh Châu Đốc trong chiến tranh Việt Pháp.
Giấc mơ này y như trong truyện kiếm hiệp mà tôi đọc ngày xưa.
Sư Ông đứng bên ngoài bức tường thành bằng đá của trại giam và cố gắng dùng chưởng lực của mình để đánh sập bức tường này hầu cứu người đệ tử của mình và các anh em tù nhân khác ra nhưng tất cả sức mạnh của Sư Ông như chỉ dội lùng bùng vào một bức tường không phải bằng đá mà là bông gòn và không thể đánh thủng được nó.
Chưởng lực của Sư Ông cuồn cuộn công phá vào vách đá nhưng bức tường chỉ hơi rung rinh như mặt nước bị khuấy động một chút rồi lại trơ ra vô tri vô giác như vách núi và không sao phá thủng được vách tường bao quanh khu trại giam.
Con có biết tại sao không? Thầy hỏi tôi rồi nói bức tường đá đó chính là cái nghiệp chướng u minh quá nặng đã vây kín khu trại giam bao nhiêu chục năm nay không cho người tù thoát ra được.
Thầy thấy sau lưng Sư Ông chợt xuất hiện các vị Sơn Thần, Thổ Địa và Đức Thánh Mẫu với bao nhiêu phép thần thông đang hỗ trợ cho Sư Ông mà vẫn chưa phá thủng được nó.
Thầy chợt nhìn ra phía xa xa thì thấy thấp thoáng bóng hình ẩn hiện của Đức Phật Bà Quán Thế Âm từ hướng ngọn núi của chùa Hương Tích và Ngài vừa ra tay ban phép lành thì bức tường bị phá thủng ngay một lỗ hổng lớn rồi như một phép lạ, thầy và các bạn tù được hút bay ra khỏi lỗ hổng đó ra ngoài trại giam. Đến đó thì thầy giật mình tỉnh dậy.
Bức tường đá đó tượng trưng cho u minh nghiệp chướng bao nhiêu đời của khu trại giam; và sự xuất hiện của các vị Thánh Thần, Đức Thánh Mẫu và Phật Bà Quán Thế Âm là điềm báo hiệu cho sự chịu đựng những nghiệp chướng của những tù nhân đã được hoàn thành viên mãn và cũng đã trả xong nợ tù đầy cho mình và nghiệp cho đất nước.
Thầy trò tôi chia tay nhau kẻ ở người đi và phải mất năm năm sau thì tôi mới được gập lại thầy tại chùa Thới Hòa, đường Quang Trung, quận Gò Vấp, Sàigòn.
Thời gian sau hai đợt thả lớn đó trôi qua thật là lặng lẽ và nặng nề.
Mùa Đông năm ấy còn ảm đạm rét mướt và mưa phùn gió Bấc nhiều hơn những năm trước nữa. Trong lòng thì buồn bã và ngoài trời thì giông bão, có lẽ ông Trời cũng cảm thương cho chín mươi người tù còn lại tại miền Bắc quá xa xôi cái nắng ấm của miền Nam.
Tinh thần chúng tôi lúc đó xuống rất thấp vì số còn lại quá ít chỉ còn chín mươi người trong số hàng trăm ngàn người khi mới ra Bắc trước kia, và cũng không biết cái gì sẽ xẩy ra nữa, chỉ biết là cố gắng mà sống vậy thôi.
Rồi một cái Tết không vui và một mùa Xuân như không còn tiếng cười nữa thì chúng tôi mới được lệnh di chuyển vào miền Nam nhập vào trại Hàm Tân Z-30D trong tỉnh Bình Thuận vào tháng Năm năm một chín tám tám.
Trong khoảng hai năm cuối tôi ở trong trại Hàm Tân thì anh em tù nhân chính trị chế độ cũ chợt bỗng dưng xôn xao hẳn lên không phải vì tin tức các anh em đã được thả về trước đang chuẩn bị ra đi định cư tại Hoa Kỳ theo chương trình H.O. mà vì nhiều người đã được vị Thổ Thần báo mộng cho ngày trở về một hai ngày trước khi trại đọc lệnh tha ra khỏi trại giam.
Một trong những anh em đó là Thiếu Tướng Tất của Biệt Động Quân, hay anh Nguyễn Công Hầu, Thiếu Tá ANQĐ, đã kể lại cho tôi nghe.
Sau đó còn nhiều người khác nữa đều mô tả giống nhau về vị Thổ Thần này râu tóc bạc phơ và chống cây gậy trúc đã hiện ra và báo mộng ngày về của họ.
Tôi nghĩ rằng nghiệp chường tù đầy của các anh em chúng tôi đã đến hồi chấm dứt nên những hiện tượng tâm linh như vậy mới xuất hiện trong giấc chiêm bao có vị Thổ Thần mang niềm vui và ánh sáng chiếu rọi vào trong trại giam.
Mùa Xuân năm một chín chín hai, tôi cũng không ngờ đó là mùa Xuân cuối cùng tôi ăn Tết trong trại. Lúc đó vào cuối mùa Xuân và gần cuối tháng Tư, tôi lại thấy một giấc mộng thật lạ kỳ mà vẫn còn nhớ như mới ngày nào.
Trong giấc mơ tôi thấy ông cụ thân sinh ra tôi hiện về rõ ràng như người còn sống vậy, và không phải là vị Thổ Thần, mà chính là ông cụ tôi đã báo trước cho tôi biết ngày được trở về.
Sáng hôm sau đi ra lao động trong khu lán trai của đội 23– lúc đó chỉ còn hai mươi người kể cả bốn ông Tướng Lê Minh Đảo, Trần Bá Di, Đỗ Kế Giai và Lê Văn Thân, tôi kể lại cho các bạn nghe thì ai cũng bán tín bán nghi.
Sau bao nhiêu năm sống như một cái bóng trong các trại giam từ Nam ra Bắc rồi lại từ Bắc vào Nam, hai chữ Tự Do hình như quá xa vời khỏi tầm tay và có vẻ huyền hoặc.
Ông cụ thân sinh ra tôi bảo rằng bỏ ngày thứ Hai sắp đến, thứ Hai nữa thì tất cả các anh sẽ được thả về. Tôi cứ suy nghĩ mãi vì ông cụ tôi đã mất ba chục năm rồi không lẽ vẫn chưa đầu thai hay vẫn chưa được siêu thoát?
Rồi thời gian vẫn chầm chậm trôi qua và mọi người lại sinh hoạt như một cái máy và quên đi giấc chiêm bao đó của tôi.
Đúng vào buổi sáng ngày Thứ Hai đó, trong lúc anh em đang sửa soạn chờ xuất trại đi lao động như thường lệ thì được lệnh lên hội trường chờ trại trưởng đến nói chuyện.
Tất cả hai mươi người anh em chúng tôi ngồi lọt thỏm trong cái hội trường rộng mênh mông có thể chứa đến hàng ngàn người để chờ đợi khoảng một tiếng đồng hồ sau thì có một tay Thượng Úy đại diện trại đến nói vài câu chuyện xong phát cho chúng tôi mỗi người một tờ giấy để viết kiểm điểm lại những ưu khuyết điểm trong thời gian vừa qua.
Chúng tôi nhìn nhau không hiểu cái gì sẽ xẩy ra?
Sau khi tên Thượng Úy thu góp hết các tờ giấy lại thì hắn mới lôi ra trong túi một lệnh tha các anh em còn lại ra khỏi trại giam, và đọc tên từng người một và ra lệnh mau chóng tập trung để xe đò sẽ đưa về Sàigòn.
Rất may là mọi người đều có kinh nghiệm sau bao nhiêu năm sống dưới chế độ Cộng Sản và nhất là trong trại giam nên chỉ khai rất ngắn gọn vì nếu mà tên Thượng Úy này có điều gì nghi ngờ thì người đó có thể sẽ phải ở lại để "làm việc".
Chúng tôi đều thở ra một cách nhẹ nhõm và trở lại buồng giam để thu dọn hành trang. Đến lúc đó thì tôi mới kêu mấy thằng bạn thân lại và nhắc đến sự chính xác trong giấc mơ mười ngày trước đó mà ông cụ thân sinh ra tôi đã hiện ra báo mộng ngày những người tù cuối cùng được thả ra khỏi trại.
Khi chiếc cổng sắt đóng lại đằng sau lưng chúng tôi thì tôi nhìn lên Trời, bầu trời hôm đó xanh ngắt không một bóng mây và tôi thầm cảm ơn Trời Phật.
Cuối cùng thì tôi cũng có được một ngày trở về
Phần XII: Tình Người Nơi Chốn Không Cùng
Có nhiều người đã hỏi tôi là lý do nào, động cơ nào đã giúp cho tôi sống sót được sau bao nhiêu là năm tháng trong muôn vàn khó khăn thiếu thốn và đầy ải khổ nhục trong ngục tù?
Câu hỏi đó tôi không thể nào diễn tả lại được thật đầy đủ trong một câu trả lời bởi vì không phải chỉ có một lý do, một động cơ, mà có rất nhiều yếu tố đã giúp cho những người tù có thể tồn tại. Chính ngay những người tù khi bước chân ra khỏi trại giam thì họ cũng tự hỏi và phân vân tại sao mình vẫn còn sống sót được?
Trong những yếu tố căn bản cần phải nêu lên thì gia đình bao gồm vợ con, Bố Mẹ, anh chị em, họ hàng đã cưu mang, đến thăm, tiếp tế các nhu yếu phẩm và thuốc men tiền bạc cho họ trong tù là vô cùng quan trọng.
Ngoài ra, những lời nguyện cầu của gia đình và của chính họ hằng đêm cũng thấu đến Trời Xanh và Ơn Trên, Trời Phật đã nhủ lòng thương và ban phép lành cứu vớt những con người cùng cực trong lưu đầy đó và ban cho họ một nghị lực và một sức chịu đựng phi thường để vượt qua được những cơn phong ba bão táp tưởng nhiều lần đã vùi chôn cuộc đời họ trong bốn bức tường trại giam.
Nhưng có một yếu tố rất nhân bản đã giúp cho những người tù thêm sức mạnh trong cái chốn không cùng ấy chính là Tình Người với hai chữ viết hoa.
Trong một nơi chốn mà chỉ thấy toàn chết chóc, bệnh tật, khổ ải như một địa ngục, nơi mà con người không có quyền được sống như một con người hay còn thua một con vật thì Tình Người trong đó là Tình Bạn nở ra lung linh như giọt sương ban mai và tỏa sáng như cành Hoa Sen giữa chốn bùn lầy.
Tình Người mà trong đó là tình đồng đội, là tình anh em chiến hữu đồng cam cộng khổ trong cảnh tù tội, là tình bạn chia sẻ với nhau từng hạt muối, từng điếu thuốc lá thuốc lào trong những ngày Đông băng giá, chia sẻ những giọt mồ hôi nhọc nhằn của những tháng năm lưu đầy và lao động cưỡng bức trong một môi trường phi nhân tính.
Càng ở lâu trong tù thì cái Tình Người, tình bạn ấy lại càng thắm thiết và gắn bó, càng nương tựa vào nhau và đem cho nhau thêm sức mạnh.
Chúng tôi vẫn thường nói với nhau rằng vợ chồng trước kia cũng không ở với nhau mỗi ngày hai mươi bốn tiếng và một tuần bẩy ngày như thời gian chúng tôi trong trại giam được.
Trong những năm đầu lưu đầy trên xứ Bắc với một năm chỉ hai bộ quần áo tù và đôi dép râu cho lao động, chúng tôi đã phải tự kiếm cho mình một đôi guốc mộc, phải nói là nhờ vào các anh trong đội Mộc rất nhiều mới cung cấp đủ guốc và sau đó hầu như ai cũng có một đôi.
Một hôm, tôi đang đi đôi guốc trên hàng hiên bước xuống sân thì trặc chân một cái và bị bong gân, bàn chân bên phải sưng vù lên một cách nhanh chóng và không biết phải làm sao thì anh Trung, Đại Úy Cảnh Sát Đặc Biệt và đệ tam đẳng huyền đai Thái Cực Đạo đã lại bên cạnh dìu tôi vào chỗ nằm và chữa cho tôi. Anh nói phải ráng nhịn đau thì mới chữa được nếu không để đến ngày mai thì chỉ có nước lết đi thôi.
Tôi bám chặt hai song sắt chịu đau và nhờ anh nắn lại ngay chỗ gân bị bong, tôi thấy đau thấu xương luôn nhưng khoảng chỉ mười phút thôi là thấy chỗ sưng từ từ xẹp xuống thật là hiệu quả nhanh chóng và mấy ngày sau thì tôi đi lại được như thường.
Sau đó thì tôi quen thân với anh và lại càng cảm thương cho anh hơn khi biết người vợ mới cưới của anh trước khi anh đi tù đã bước thêm bước nữa. Tuy vậy anh vẫn luôn vui cười với mọi người và hòa đồng với anh em và được mọi người thương mến.
Trong trại tôi ở có hai anh là huấn luyện viên về Thái Cực Đạo cho Cảnh Sát Quốc Gia và đều là đệ tam đẳng huyền đai là anh Trung và anh Xuân, không kể thầy Khuê là đệ tam đẳng Nhu Đạo của võ đường Quang Trung.
Tuy nhiên hành động anh tình nguyện đứng ra cứu giúp ông nguyên viện trưởng viện đại học Cần Thơ là Nguyễn Duy Xuân mới làm cho tôi cảm phục anh nhiều hơn.
Trong ba năm đầu thì ông Xuân tương đối khỏe mạnh và khi đó không hiểu sao lại ông lại thích mặc áo quần mầu đà như những tu sĩ tại gia, có thể lòng ông đã hướng về sự tu hành rồi, nhưng mỗi buổi sáng ông thường rất siêng năng luyện tập thể dục đều đặn.
Ít lâu sau, ông có triệu chứng ăn không tiêu hóa được và nhờ có gia đình vợ con ở bên Pháp gửi về thuốc lọc máu vì nghĩ rằng trong tù ăn uống không được vệ sinh. Lúc đó sức khỏe tôi không khá nên ông Xuân có bảo tôi lấy vài gói về uống thử xem sao. Tôi từ chối vì ông là người cần thuốc hơn.
Thế rồi ông sụt cân mau lẹ và ăn uống rất là khó khăn và cuối cùng phải khênh xuống bệnh xá trong trại lúc ấy có bác sĩ Trương Như Quýnh trước kia tôi nghe nói ông làm việc tại bệnh viện Sàigòn, và anh Đại Tá Đức, trước thuộc lực lượng Đặc Biệt, trông nom.
BS Quýnh là anh của Trương Như Tản trong Mặt Trận Giải Phóng và sau 1975 khi chiếm xong miền Nam thì Bắc Việt trở mặt và loại bỏ các người có công trong Mặt Trận và Thành Đồng trở thành Đồng Nát.
Vì vậy Trương Như Tản đã phải bỏ nước trốn đi và tố cáo Hà Nội đã diệt trừ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sau khi đạt được chiến thắng.
Sau cả sáu tháng trời ông Xuân được điều trị tại bệnh xá và đưa ra thị trấn chẩn bệnh thì BS Quýnh một hôm nói nhỏ với tôi và anh Triệu Huỳnh Võ là ông Xuân bị cancer bao tử. Cả hai đứa tôi đều bàng hoàng khi nghe tin ấy vì ông Xuân rất là trí thức, hiền hòa và dễ mến không ngờ lại mắc phải chứng bệnh quái ác này.
Ông Quýnh nhìn chúng tôi lắc đầu nhưng vần đề ở đây là cần phải có một người túc trực bên ông Xuân vì ông Xuân không còn khả năng tự ăn cháo hay uống nước được nữa.
Khi đó thì anh Trung xuất hiện và anh tình nguyện xin xuống bệnh xá để tự tay chăm sóc cho ông Xuân những tháng ngày cuối đời.
Anh Võ, trước kia là Thứ Trưởng Bộ Thông Tin VNCH, và tôi rất là thân nhau và mỗi buổi chiều sau giờ lao động về trại thì vội vàng ăn qua loa để xuống thăm ông Xuân cho kịp trước giờ kẻng đánh vào buồng.
Khi ông Xuân còn tương đối tỉnh táo thì ông thường hay hỏi tôi về thời sự bên ngoài và về việc Mỹ can thiệp thả tù nhân có hay không?
Tôi cố tóm lược một số tin quan trọng lien quan đến vấn đề này cho ông nghe là mọi việc đang tiến triển tốt nhưng trong lòng lại nghĩ rằng có lẽ khi nó đến thì đã quá trễ rồi vì bệnh của ông đang phát ra rất nhanh.
Ông nắm tay tôi và nói:
-“Anh hãy nhớ rằng mai mốt có người bạn của anh nằm trên ngọn đồi ngoài kia nhe!”.
Tôi vội quay mặt chỗ khác để ngăn sự xúc động và cố an ủi ông:
-“Ông viện trưởng đừng quá bi quan, BS Quýnh của mình rất là giỏi và sẽ cố chữa cho ông mà, đừng lo.”
Thực ra thì ngay ngoài đời cũng còn bó tay với căn bệnh này, huống chi trong trại giam thiếu đủ thứ thuốc men và phương tiện.
-“Sao anh cứ gọi tôi là viện trưởng vậy?”
-“Chúng ta mất hết cả rồi nhưng cái học thức của mình thì không mất.”
Từ khi anh Trung xuống bệnh xá thì ông Xuân vui hẳn lên và tinh thần cũng phấn chấn hơn nhưng chẳng ai thoát khỏi Định Mệnh.
Lúc đầu anh Trung còn đút cho ăn được vài thìa cháo, sau thì BS Quýnh nói rằng nó đã di căn từ bao tử lên chẹt lấy cổ họng rồi nên ông Xuân phải khó khăn lắm mới nhấp được vài giọt nước cầm hơi.
Một hôm khi tôi và anh Võ xuống đến nơi thì tôi không cầm được nước mắt nữa vì nhìn ông Xuân chỉ còn đúng là một bộ xương và cái đầu chỉ còn là một cái sọ người không hơn kém. Nếu không có cái môi trên còn mấp máy một chút thì đó là một bộ xương của người đã chết rồi mà thôi.
Tôi và anh Võ lại nói chuyện một lát với BS Quýnh và anh Đức rồi vội về buồng.
Anh Đức tại bệnh xá một hôm kể cho tôi nghe về Mẹ của anh cũng bị cancer ruột trước năm 1975 và chỉ còn nằm chờ ngày ra đi mà thôi nhưng cụ vẫn kiên tâm hàng đêm niệm Phật và cầu nguyện Đức Phật Bà Quán Thế Âm.
Thế rồi một buổi tối khi đang ngủ thì Mẹ anh nằm mơ thấy Phật Bà hiện về sáng một góc trên Trời và Ngài rưới bình nước Cam Lồ xuống đúng vào miệng của Mẹ anh và Mẹ anh uống được một hớp nước thánh ấy.
Ngày hôm sau cụ tự nhiên thấy trong người khỏe lại và đòi ăn cháo rồi ăn cơm và dần dần bình phục hoàn toàn trước con mắt kinh ngạc của vị bác sĩ điều trị cho cụ. Anh nói rằng chính là Mẹ anh đã khỏi bệnh một cách diệu kỳ như vậy cho nên anh mới tin và theo đạo Phật, nhưng anh không biết cụ đã khấn nguyện những gì, nếu biết thì anh sẽ khấn cho ông Xuân.
Chỉ vài ngày sau thì ông Xuân qua đời đúng vào ngày Quốc Tế Nhân Quyền. Hôm đó là một ngày mùa Đông tiết trời ảm đạm mây xám giăng mắc đầy trời, gió Bấc thổi từng cơn lạnh buốt qua ngọn cây và lùa vào trong buồng giam.
Có lẽ ông Trời cũng thương cảm và tiếc nuối cho một nhân tài của đất nước vừa nằm xuống.
Bệnh xá đã đề nghị nhiều lần khi ông Xuân mới phát hiện ra bệnh xin cho về nhà để mau ra thì kéo dài thời gian gập đựợc vợ con nhưng các đơn xin đó đều bị bác.
Chính tôi cũng không hiểu sao họ ác độc đến độ không cho ông về nhà một thời gian để được chết bên cạnh người thân.
Ông trước kia chỉ là viện trưởng đại học và dù có tham gia vào Nội các cuối cùng của Dương Văn Minh đi chăng nữa thì ông cũng đâu có làm gì đến độ Cộng Sản họ phải căm thù mà nhất định không tha ông trong những ngày ông lâm trọng bệnh cuối đời?
Điều mà tôi rất khâm phục ở ông viện trưởng là khi biết mình mang trong người căn bệnh nan y của thê kỷ và hết phương thuốc chữa trong tình trạng tù tội nữa thì ông Xuân rất là bình tĩnh và sống với một thái độ can đảm chấp nhận chứ không than thân trách phận hay lộ vẻ bi quan.
Ngay cả khi căn bệnh phát tác dữ dội và di căn lên chẹt ngang cổ họng gây khó thở, bao nhiêu là đau đớn, và không uống được dù là chỉ vài giọt nước thì ông vẫn bình thản đón chờ thần chết đang dần đến bên giường.
Anh Trung sau mấy tháng trời thức đêm thức hôm trông coi người bệnh thì người sút giảm trông thấy, nhưng anh vẫn gắng gượng cười nói chuyện với các bạn xuống thăm ông Xuân.
Đến khi ông Xuân mất thì anh Trung trở về ở cùng buồng giam với tôi và anh gần như kiệt sức và nhuốm bệnh. Tôi thấy buổi tối anh tìm cách xông hơi để ra bớt chất độc trong người nhưng không có phương tiện nên anh phải trùm chăn kín với cây đèn dầu hôi bên trong và ngồi dưới đất trong một góc phòng suốt ba đêm liền thì mới thấy anh tỉnh người ra một chút.
Trước khi chuyển trại thì chúng tôi có dịp đi làm cỏ ngọn đồi nghĩa trang và tôi có dịp tảo mộ và dựng lại tấm bia cho ông Xuân lần chót.
Ngọn đồi này trại không chịu làm hàng rào quanh khu nghĩa trang nên chỉ một thời gian sau là trâu bò qua lại sẽ phá húc đổ hết các mộ bia và dẫm đạp lên cả mộ phần nhưng cũng chẳng mấy ai quan tâm.
Ngày mà tôi được “biên chế” về đội gạch, tôi cũng không ngờ rằng công việc lao động lại quá nặng nề khủng khiếp đến như vậy như vậy, chả trách nào mà đội gạch được coi như đội trừng giới và bên tù chính trị bị kỷ luật xong thì đều thẩy về đội này.
Chỉ sau hai tiếng lao động của ngày đầu tiên thì chúng tôi mới biết thế nào là lao động khổ sai, hầu như ai cũng oải vì toàn thân đau nhừ và trong 15 phút “giải lao” thì đều nằm xõng xoài trên những tấm phên bằng tre nứa để nghỉ mệt.
Tay quản giáo đầu tiên đi qua nhìn chúng tôi rồi nửa đùa nửa thật:
-“Sao đã rã xương ra chưa?”
Tụi tôi vì quá mệt nên cũng chẳng ai buồn lên tiếng.
Khi con người ta gập phải những gian nan và hoạn nạn thì hầu như ông Trời cũng hé mở cho con người ta một con đường sống.
Trong những ngày tháng đầu tiên làm gạch, từ xúc đất sét chở về khu sản xuất của đội bằng xe cải tiến, đến đạp bằng chân trần những cục đất sét cứng như đá cho nó mềm ra để sang mai đánh chúng thành những bánh, rối cắt chở vào cái máy cũ kỹ cho ra từng viên gạch còn mềm, đem ra phơi nắng, rồi gánh chúng vào lò nung ba ngày đêm thành những cục gạch, tôi cứ nghĩ rằng mình đang làm một công việc quá sức người và chỉ một thời gian ngắn là phải bỏ cuộc.
Nhưng trong hoàn cảnh cực kỳ khó nhọc đó, tình bạn, tình đồng đội xuất hiện như một vì sao chợt sáng chói trên vòm trời, vì hình như tất cả anh em trong đội đều cùng một nhận định như vậy và cùng hiểu rằng nếu mình không cùng chung lưng lại làm được thì không có ai phụ giúp mình được cả - và đây là cái giá phải trả cho người thua trận.
Khi ấy anh Võ và tôi đều trong đội gạch, anh ở tổ máy còn tôi tổ đất nhưng không hiểu sao anh rất mến tôi và có gì đặc biệt là có mặt tôi.
Khi mới được thăm nuôi thì anh Võ có ít cà phê và phích đựng nước sôi. Trong đó nhất là vào mùa Đông mà có phích nước nóng thì không còn gì mơ ước hơn.
Mỗi buổi trưa có hai giờ để nghĩ ngơi tại buồng nên khi vừa ăn xong cái bánh bột hấp là khẩu phần ăn trưa thì anh pha một phin cà phê đen với cái vợt pha cà phê tự tạo, và ra dấu cho tôi qua cùng thưởng thức. Các bạn thì đều đang nằm sắp lớp như cá mòi trên ván gỗ để tìm giấc ngủ hầu lấy sức lại cho buổi lao động chiều nên tôi bước nhè nhẹ qua từng người một đến chỗ anh Võ.
Ngồi nhấp ngụm cà phê đầu tiên và khi tôi gật đầu là anh biết hôm đó anh pha ngon. Hai đứa cùng im lặng thưởng thức những giọt cà phê xong không ai nói với ai một tiếng, rồi về tìm giấc ngủ. Tình bạn đơn giản như vậy nhưng thật khó mà quên được.
Ngoài ra, uống trà không ngờ vừa là một thú vui trong tù nhưng cũng đem lại những người bạn cùng hợp “gu” với nhau. Anh Đại Úy Sơn Không Quân, Thiếu Tá quận trưởng “Y-Trong”, ông bầu Ngọc, anh Xuân võ sư, những anh Thiếu Tá Cảnh Sát Đặc Biệt như Huỳnh Thanh Nhơn, Nguyễn Hữu Trân, hay chú Wòng người Tầu, đều là những bạn trà tâm đắc của tôi một thời trong tù.
Uống trà nó có hai cái lợi là giải khát trong mùa Hè và sưởi ấm người trong mùa Đông. Vào mùa Hè, nhiều khi quá khát mà uống bao nhiêu nước cũng không hết khát, hoặc nhiều khi khát quá uống liều cả nước sông có thể gây ra nhiễm trùng đường ruột, nhưng chỉ một vài chung trà nhỏ là hết khát ngay.
Cũng như mùa Đông lạnh lẽo, buổi tối ngày thứ Bẩy ngồi quay quần với nhau ở tầng trên, vì là kín đáo hơn, bên cạnh một ấm trà nóng với vài bi thuốc lào hay vài điếu thuốc lá rồi uống chung trà “móc câu” và nghe buổi văn nghệ bỏ túi thì không còn gì hơn khi ngoài trời gió Bấc vi vu thổi từng cơn qua các hàng cây. Ngoài Bắc họ gọi trà “móc câu” là những đọt trà non xấy lên xoăn lại giống như hình móc câu.
Bởi thế dần dần trà trở thành một thú tiêu khiển của chúng tôi lúc nào không hay, nhưng vẫn không bì được với bên hình sự, họ uống trà với xác trà ngập lên đến một nửa lon guigoz, đắng nghét.
Trở lại với thành phần trong đội thì đa số là các anh cấp Úy còn trẻ tuổi từ trại Thạnh Mỹ Tây trong Nam chuyển ra Bắc theo tầu Sông Hương hay từ Hoàng Liên Sơn và Vĩnh Phú chuyển về, nhưng trong đó lại có vài người lớn tuổi như bác A., trước là Hội Đồng tỉnh, hay một anh nghĩa quân nữa, không hiểu sao cũng bị đưa ra Bắc.
Vì bác A. lớn tuổi nên thường khi ra lao động các anh trong đội vẫn nhường cho bác công việc nhẹ nhất hay nấu nước uống cho đội.
Thời gian ấy thiếu ăn thiếu mặc thiếu cả chất đường và muối nữa. Trại cấm tích trữ muối và chỉ thỉnh thoảng họ mới cho một ít “nước chấm”. Tụi tôi tưởng là nước mắm nên cũng mừng nhưng họ là siêu đẳng về môn lừa bịp và lường gạt cho nên “nước chấm” thực chất chỉ là nước muối pha loảng. Vì lao động mất rất nhiều chất muối trong người mà họ không cung cấp muối cho mỗi khẩu phần ăn cho nên nhiều người mới xỉu khi đang lao động tại ngay hiện trường.
Mỗi tháng mỗi tù nhân được cấp cho ba đồng để tiêu vặt, sau khi mua kem đánh răng, sà bông, vài bao thuốc lá hay thuốc lào thì tôi vẫn dư ra được khoảng một đồng. Một hôm bất ngờ trại cho bán bánh nướng và xe của nhà bếp lọc cọc kéo đến bên ngoài cửa sổ của từng buồng để bán, bán chứ không cho.
Bác A. cũng giống như một số anh khác là luôn luôn cạn tiền bởi vì ba đồng bạc đâu có là bao, và trong đội thì bác mến tôi nhất cho nên mỗi lần như thế thì bác lại nhìn tôi và tôi lại ra dấu cho bác cứ mua đi. Các anh em cũng chung lại với nhau để rồi cuối cùng thì ai cũng có một miếng bánh ăn cho vui buổi tối nhất là trong người đang thiếu chất ngọt dù là nó cứng vì làm bằng bột gạo và nhân thì chỉ pha ít bột đậu xanh không thơm ngon và mềm như bánh Trung Thu mà chúng tôi mơ tưởng nhưng cũng ấm lòng đôi chút vào mùa Đông.
Khoảng thời gian làm mẻ gạch để nung đầu tiên thì đầy những khó khăn và cực nhọc nhưng không ai bảo ai chúng tôi cùng nhẫn nhục chịu đựng, cố hết sức nương vào nhau, chia sớt nhọc nhằn để cùng nhau làm xong các chỉ tiêu mà họ giao cho mỗi ngày.
Có những hôm tôi tưởng không còn hơi sức mà lao động nữa nhưng nghĩ đến nếu mình bịnh nghỉ ở nhà thì các bạn mình lại phải gánh thêm một chút trên vai nên lại cố đi cùng với đội ra lao động.
Mỗi người ai cũng quyết tâm như vậy cho nên những mẻ gạch đầu tiên đã ra lò thành công ngoài dự tính cả về số lượng và chất lượng và tay Tự Giác là một anh tù hình sự chung thân và tay quản giáo đội vô cùng mừng rỡ. Quả thật tôi cũng không ngờ rằng các bạn mình trước kia chỉ quen cầm súng nay lại tài giỏi như vậy dù là sức khỏe chẳng còn bao nhiêu. Đúng là thời thế tạo anh hùng.
Tay quản giáo rất trẻ tên Tâm là một người tương đối hiền lành nói rằng trong đội có những anh là kiện tướng về lao động nên mới đạt được thành qủa như vậy, anh ta cũng tỏ ra rất là vì nể những người tù chính trị này cho nên mỗi khi ra chỉ tiêu cho đội thì nói rất là ôn tồn, chứ không có vẻ nghênh ngang như tay quản giáo trước, hay lúc nào cũng la lối như các quản giáo khác bên tù hình sự.
Anh ta cũng còn khen là đội gạch có nhiều anh đẹp trai hơn mấy đội khác nữa làm chúng tôi nhìn nhau mỉm cười không biết y có cà tửng hay không.
Về sau khi ngồi uống trà trong giờ “giải lao” anh ta tâm sự với chúng tôi thì tôi mới hiểu lý do là khi anh về quê thăm cha mẹ thì hai ông bà thân sinh ra anh đều bảo anh phải đối xử tử tế với những người tù chính trị này.
Không những quản giáo vì nể mà ngay cả anh tự giác là chuyên viên về nghề gạch của đội sau một thời gian làm việc chung với chúng tôi cũng tỏ lòng kính trọng và có gì cũng luôn bàn bạc với các anh em có trách nhiệm trong đội chứ không dám chuyên quyền, trong khi các trật tự hay tự giác khác đối với tù hình sự thì họ thẳng tay không thương tiếc đôi lúc chúng tôi cũng bất nhẫn nhưng không thể can thiệp được.
Vào mùa xuân và mùa Thu thì việc lao động tương đối bớt cực khổ một chút nhờ thời tiết mát mẻ. Mùa Hè thì khủng khiếp với cái nóng đến nung người mà phải ở ngoài trời suốt ngày và thỉnh thoảng lại thấy có người xỉu vì trúng nắng. Mùa Đông là mùa chúng tôi sợ nhất vì ngoài cái băng giá mưa phùn gió Bấc là những cục đất sét nó cứng còn hơn đá mà phải rưới nước và dầm nó mềm ra bằng đôi chân trần của mình.
Đội gạch, đội ngói, đội rau xanh, và đội mộc, đội rèn là những đội đã đem lại nguồn lợi nhuận to lớn cho trại, không những đã giúp trại tự túc được về lương thực mà còn dư ra nữa.
Tuy nhiên chúng tôi vẫn chỉ được 15 cân quy ra chất bột mỗi tháng không hơn, thỉnh thoảng thì họ thưởng cho một bát rau muống luộc là hết, tiền dư ra không hề biết họ làm gì.
Họ dùng chữ chất bột, ban đầu tôi cứ nghĩ là gạo nhưng khi họ cấp phát thì toàn là sắn hay miền Nam gọi là khoai mì khô có khi đã mốc meo hay khoai tây nhỏ xíu thứ không bán được giá, hay khi thì bo bo, bánh bột hấp, v.v. thì cũng không ai thắc mắc gì được.
Chính là tình anh em đồng đội đùm bọc lấy nhau và sự can đảm chấp nhận cái lao động khổ sai đã giúp cho chúng tôi sống sót qua được giai đoạn đầy gian khổ ấy.
Một đêm khi đang ngủ thì anh Trãi, Quốc Gia Hành Chánh, đánh thức tôi dậy và nói rằng cậu Út nằm bên cạnh đang ói mửa ra đầy cả mùng chiếu.
Anh Trãi và cậu Út đều là hai người làm việc rất giỏi của đội và ba người chúng tôi nằm cạnh nhau ở sàn trên. Trong ba người thì anh Trãi lớn hơn tôi và Út nhỏ nhất nên thường gọi cậu ta là Út.
Hỏi ra thì tôi mới biết là Út uống thuốc tự tử nhưng bị phản ứng thuốc.
Tôi bèn bảo Út vào trong mùng ngủ chung với tôi đêm đó và ngày hôm sau khi ra lao động tôi cố sức khuyên:
-“Út à! Đừng có dại dột làm vậy nữa nhe. Ít nhất thì Út cũng nghĩ đến Má ở miệt quê vẫn ngày đêm trông chờ Út về”.
Tuy nói như vậy nhưng tôi hiểu rằng cuộc sống trong tù quá là cực nhọc, không có một tia ánh sang nào cho người tù bám vào để mà hy vọng, chỉ còn nhìn về gia đình như cái phao cấp cứu, nhưng người yêu và là hôn thê của Út đã lập gia đình thì đi tìm cái chết cũng không có gì là lạ.
-“Út không có hứa gì với anh được vì lần sau Út biết rồi, uống một liều là đi luôn.”
Luôn hai ngày tôi theo sát bên Út và không thể tìm cách nào mà thuyết phục cậu ta được vì nói gì thì Út cũng khăng khăng bác đi.
Tôi suy nghĩ mãi và trong lòng rất lo lắng vì biết cậu ta nói là làm và lần sau mà Út tự tử thì không biết lúc nào mà ngăn cản được.
Một hôm tôi kéo Út ra một góc sân vắng chỉ có hai người và tôi đã tìm mọi lý lẽ để thuyết phục, tìm cách trả lời hết những câu hỏi của Út thì cuối cùng Út móc ngéo ngón tay tôi và hứa sẽ từ bỏ ý định tự tử.
Tôi vô cùng mừng rỡ và báo tin cho anh Trãi biết và chúng tôi lại sánh vai nhau với các anh em hàng ngày xuất trại đi lao động bình thường.
Sau này có cơ duyên gập được thầy của tôi là Hòa Thượng Thích Thiện Chánh thì thầy Tâm có bảo tôi rằng:”Cứu một mạng người còn hơn xây ba cảnh Chùa, nhất là người đó lại đang trong khổ nạn như con.”
Khoảng năm năm sau thì anh Trãi và Út có tên trong danh sách được thả ra khỏi trại và Út đã về đoàn tụ cùng với bà Mẹ tại miệt vườn ở Tiền Giang.
Khi tôi qua Mỹ vài năm và đang làm cho Hội Cộng Đồng Người Việt tại Quân Cam, một hội thiện nguyện để giúp cho những người tỵ nạn từ Việt Nam mới qua, thì bất ngờ chị Xuân từ bên Pháp đến Cali, đi theo một người bạn đến thăm tôi.
Tôi kể cho chị nghe hết thời gian khi anh mang bệnh và được BS Quýnh, anh Đức nhất là anh Trung tận tình chăm sóc ngày đêm như thế nào.
Chị nghe xong, cám ơn tôi, lau nước mắt và ra về.
Khoảng bẩy năm trước tôi có dịp đến Virginia thăm gia đình người bạn, thì lại gập được những người bạn tù cuối cùng như anh Đệ biệt danh Cả Đẫn và anh Sửu con Trâu rồi ghé vào một ngôi chùa để thăm anh Trung.
Lúc đó anh Trung đã xuống tóc và trụ trì ngôi chùa nhỏ trong thành phố nhưng không có duyên gập anh vì anh vừa hướng dẫn một đoàn Phật tử đến một công viên để thuyết pháp vì nơi chùa cư ngụ không cho tập trung đông người.
Khi về lại Cali tôi gọi điện thoại thăm anh Trung và anh rất là mừng rỡ nói chuyện với tôi về những năm tháng còn trong tù và tôi cũng nhắc lại công đức anh đã làm được khi tận tụy với ông Xuân cả năm trời tại bệnh xá của trại và cầu chúc cho anh thân tâm thường an lạc.
Thời gian trôi qua thật nhanh như bóng câu qua cửa sổ nhưng mỗi khi nghĩ lại cuộc đời tù đầy và những năm tháng lưu đầy trên xứ Bắc ấy, tôi vẫn không sao quên được sự chịu đựng bao đau đớn một cách can đảm và sự ra đi trong âm thầm lặng lẽ của ông viện trưởng viện đại học Cần Thơ Nguyễn Duy Xuân; không thể quên được những hình ảnh hào hùng vị tha cứu người của anh Trung võ sư; không quên được ly cà phê đen cùng chia sẻ với anh Võ; và nhất là khuôn mặt còn nhiều nét ngây thơ và thất tình như mất hồn của cậu Út.
Sau đó thì tôi không được tin tức gì thêm về cậu Út nữa ngoại trừ là Út đã về đoàn tụ với bà Má, nhưng vài năm sau khi qua Mỹ, trong kỳ tôi đi công tác cho hội thiện nguyện lên Sacramento, tôi có dịp gập lại anh Võ và mời anh ăn trưa và ly cà phê đen. Anh Võ, tôi cùng với một người bạn nữa chúng tôi cùng ngồi bên nhau trong khoảng thời gian thật là ngắn ngủi và hồi tưởng lại những kỷ niệm không bao giờ quên được của một cơn ác mộng dài.
Con người ta khi vừa mới sinh ra với tiếng khóc chào đời thì quả thật mỗi người đã mang theo một số mệnh khác nhau không biết đâu mà nói trước được là ai sẽ còn ai sẽ mất trong chốn hồng trần này, khi mà miền Nam đã mất và Sàigòn không còn nữa.
Bởi vậy cứ chuyên tâm “Làm Phước” như lời thầy Thích Thanh Long vẫn thường khuyên bảo là điều nên làm hơn cả nhất là trong thời Mạt Pháp, như thầy Tâm vẫn thường nhắc nhở tôi, khi mà Quỷ Dữ đang lộng hành.
Viết xong vào cuối mùa Hạ năm Canh Dần, Quận Cam, Nam California
1 2 3 4
No comments:
Post a Comment