Thursday, October 22, 2015

PHAN LẠC TIẾP * MỘT THỜI OAN TRÁI II




TÀO MẠT

Tào Mạt, một tên tuổi lớn trong sinh hoạt văn học miền Bắc, nguyên là Đại Tá quân đội, nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn, sinh ngày 23 tháng 11 năm 1930, mất ngày 13 tháng 4 năm 1983 vì bệnh ung thư.
Kể từ ngày Tào Mạt mất đến nay, đã có nhiều bài viết nói về Tào Mạt, kể cả một cuốn phim tài liệu
ghi lại các hình ảnh về cuộc sống của Tào Mạt, bao gồm quang cảnh nơi sinh thành , làng Nủa, đặc
biệt là căn nhà thời thơ ấu của ông, và các cuộc phỏng vấn xa gần liên hệ đến ông. Nhưng vì nhiều lý
do, có thể là thời cuộc chưa thuận tiện, chưa tiện nói hết những điều tế nhị đã ảnh hưởng đến cuộc đời
của Tào Mạt khi còn sinh tiền, nhất là về quãng thời gian tác giả chưa nổi tiếng, về những biến chuyển tư duy của tác giả trong lòng chế độ Hà Nội. Với tư cách người cùng làng và khá thân thiết với tác giả thuở đầu đời, cũng như những thông tin có được ở thời gian ông ốm đau, sửa soạn “về với tổ tiên”, chúng tôi thấy cần phải viết ra, để con người của Tào Mạt được công luận nhìn rõ hơn, đầy đủ hơn và đúng hơn về ông. Cũng vì thế từ những hàng chữ dưới đây, sự xưng hô giữa Tào Mạt và người viết sẽ tuỳ nghi cho hợp với hoàn cảnh.
Tào Mạt, tên thật là Nguyễn Duy Thục người làng Hữu Bằng — tục gọi làng Nủa —, huyện Thạch
Thất, tỉnh Sơn Tây nay là Hà Tây. Thân phụ Tào Mạt là ông Nguyễn Duy Ngạo, thân mẫu người họ
Phan, cùng họ với người viết. Anh Thục có 4 anh em. Người anh lớn là Thuần, dáng người trắng trẻo,
ăn nói khéo léo, gia nhập Bộ Đội rất sớm. Khoảng 1946-47, anh Thuần hình như là Trung Đội Trưởng,đã cùng đơn vị ghé qua làng Nủa, cố hương, lưu lại vài ngày, nên anh em Bộ Đội có trình diễn mấy buổi kịch tại Văn Chỉ cho cả làng coi. Sau đó không lâu, nghe nói anh Thuần bị chết vì tai nạn lựu đạn nổ sao đó. Hai ngườì em sau của anh Thục sinh sống ở làng từ trước tới nay, cuộc sống của hai người này bình thường, không có gì đáng nói.

Ông thân sinh ra anh Thục, làm quản gia cho quan nghè họ Dương, thường được gọi là cụ Thiếu Vân
Đình, nên ít khi ở làng. Hàng năm, khi Tết đã tàn, gia đình anh Thục mới về quê thăm bà con, làng
xóm, vì “nhà quan ngày tư, ngày tết bận lắm”, ông thân của anh Thục nói thế. Nhưng không như
những người làm ăn từ vùng Tuyên Quang, Yên Bái, được gọi là Mạn Ngược về ăn Tết muộn, phần
lớn không mấy khá giả, nhưng vì nhớ quê quá thì về. Gia đình anh Thục khác hẳn. Tuy không giàu có,
nhưng tươm tất. Anh em anh Thục ăn mặc sạch sẽ, mặt mũi sáng trưng. Ông bà Ngạo bước chân vào
làng bằng những lời chào hỏi tươi vui, gặp ai cũng tay bắt mặt mừng. Sau đó là những ngày gia đình
ông Ngạo sửa lễ ra đình, ra chùa và đem quà biếu tới những vị gia trưởng hai bên nội ngoại. Bao giờ
gia đình ông Ngạo cũng không quên dâng lễ lên ngôi đền Phú Xuân, ngay bên cạnh nhà ông. Ngoài
những lễ vật mang tính chất tỉnh thành như mứt sen, bánh khảo, ông Ngạo đều cho đốt một bánh pháo
dài. Tiếng pháo nổ trong ngày xuân muộn, nhưng cả làng đều biết là gia đình ông Ngạo về làng ăn Tết.
Vì thế dân làng kháo với nhau: “Sướng thế. Nhà ông Ngạo về ăn Tết đây…”
Nhà anh Thục ở xóm giữa. Đi từ phía chợ, trung tâm của làng, hướng về cổng Chợ Bò, rẽ phải vào
Ngõ Giếng, đất cao, còn gọi là Trong Làng. Ở đó có nhà Quan Bác, một dinh cơ lớn trông xuống Ao
Hậu. Những năm Cụ Thiếu từ ngoài tỉnh về quê ăn Tết, nhà Quan Bác từ giữa tháng chạp đã thấy đem
đồ đồng ra đánh bóng ở bờ ao, tàn lọng, y môn đỏ rực đem ra phơi để treo lên trong những ngày Tết.
Rẽ trái, con đường nhỏ nhưng dễ đi, vì ở cuối đường có đền Phú Xuân uy nghi và rất linh thiêng. Bên
trái ngôi đền có một cây xi thật lớn, rễ cây xi tua tủa thả xuống thõng thượt, quét trên mặt một tảng đá
khá to dưới gốc cây xi. Trẻ con thường nắm vào những rể xi đánh đu, lấy đà nhảy xuống ao tắm mát,
rồi lên nằm phơi bụng trên mặt hòn đá khổng lồ này. Dưới bóng mát của lá cây, đây là nơi đùa chơi lý
tưởng cho lũ trẻ nhầng nhầng chúng tôi trong những ngày hè oi ả. Nhà anh Thục ở xế trước ngôi đền.
Tuy là nhà tranh, ba gian hai trái, nhưng khang trang trong một xóm lặng lẽ, bình an, người trong làng
không phải ai muốn có cũng được, khác hẳn hình ảnh ngôi nhà xiêu vẹo, rách nát trong cuốn phim tài
liệu nói về Tào Mạt mà Hà Nội cố tình dựng ra để quay phim, phổ biến trong thời gian qua. Để làm
tăng vẻ nghèo nàn, tương phản, rách nát của ngôi nhà này, người làm phim còn thu nhiều góc cạnh khác
của làng, như cảnh ngôi từ đường họ Phan với dãy tường hoa văn chữ Thọ, dinh cơ của ông quan Bố
bề thế hướng mặt ra hậu cung ngôi đình, và những con đường gạch đỏ au, nhà ngói san sát ngút tầm
mắt, với lời dẫn giải “Tào Mạt đã lớn lên trong ngôi làng giầu có, nhà ngang dãy dọc này…” Mới
đây chúng tôi được biết khi dựng cuốn phim tài liệu này, Tào Mạt không được cho biết. Khi xem cuốn
phim, Tào Mạt bỗng khóc như mưa. Khóc như chẳng thể ngưng được. Trong ngẹn ngào, Tào Mạt nói:
“Sao lại thế. Nhà tôi đâu có như thế. Đâu có như một túp lều của người ăn mày như thế…”
*
Như đã nói, tuy là người làng, và với gia đình chúng tôi, anh Thục còn là họ hàng xa — vì mẹ anh
Thục người họ Phan — nhưng hầu như quanh năm gia đình anh Thục đều không ở làng. Do đó ở tuổi
mới đi học, anh em anh Thục học hành ra sao, chúng tôi chỉ nghe nói mà không biết rõ anh em nhà ấy
học hành ở đâu. Chỉ biết là khi về làng chơi, họ ăn nói, hành xử rất nghiêm túc. Riêng anh Thục, ngoài
chữ Quốc Ngữ, anh còn biết chũ Nho rất khá. Nhà anh ở gần đền Phú Xuân, anh hay lên chơi, lân la
nhìn ngắm các câu đối sơn son thiếp vàng ở những hàng cột trong đền. Ông thân sinh ra chúng tôi vốn
là một nhà nho, thường tới đền làm công quả, đọc văn tế, nhất là ngồi nhìn làn khói nén hương buộc
thõng trước bàn thờ, đọc những lời Thánh giáng thơ. Anh Thục tỏ ra rất chăm chú theo dõi những vệt
khói này để thầm đoán những chữ Thánh cho. Có lần ông thân của chúng tôi bảo anh Thục “Các câu
đối này cháu đọc được không?” Anh lễ phép thưa gửi và đọc được khá trôi chảy các câu đối này.
Trong khi lân la như thế, anh Thục có nói với ông thân sinh của chúng tôi rằng: “Trong làng này, họ
Phan nhà mình làm công quả cũng nhiều bác nhỉ?” Ông thân sinh ra chúng tôi hỏi lại:“Sao cháu
biết?”-“Dạ cháu biết, chứ ạ. Cứ lần lượt đọc các hàng lạc khoản, hàng chữ nhỏ ghi ở hai bên câu
đối thì biết ngay.” Từ đó người làng kháo nhau “Thằng cu Thục giỏi chữ Hán lắm. Nó đọc được hết
các câu đối, hoành phi ở trong Đền Phú Xuân, cũng như ở tất cả các câu đối ở cột đình, cột chùa
làng mình đấy.”
Vốn Hán học đầu đời mà Tào Mạt có được cho đến nay vẫn còn là một câu hỏi chưa có giải đáp thỏa
đáng. Trong cuốn Những Lời Tâm Huyết, Tào Mạt có viết: “Hoành phi câu đối nhà họ Dương
quanh năm tôi ngắm nghía là một môi sinh văn hoá rất tốt tạo nên lòng ham học chữ Hán của
tôi…”
Mấy năm sau anh Thục được cho về ở hẳn quê nhà. Theo trí nhớ của những vị cao niên thì anh Thục
lần lượt theo học các cụ đồ trong làng, như cũ Đồ Nhiên, cụ Đồ Liêm. Cuối cùng anh có theo học cú
Tú Hương, một vị túc nho nổi tiếng hay chữ trong vùng. Với một cái lễ ra mắt hậu hỹ, ông Ngoạn nói
“Cháu nó cũng võ vẽ học được đôi ba chữ từ nhà quan nghè họ Dương mà chúng tôi làm chân tay.
Nay cháu đã lớn, chả đâu hơn là quê nhà, chúng tôi có cái lễ mọn, đem cháu tới ăn mày Thầy thêm
đôi ba chữ…” Từ đó trong số học trò lớn đi học mặc áo dài khăn đóng như các ông chức dịch trong
làng, có thêm anh Thục, cũng quần trắng áo the, nhập vào đám này. Anh Thục viết chữ đẹp như múa.
Thầy hỏi:
-Anh đã học đến sách nào?
Anh đáp:
- Con cũng không nhớ hết, nhưng khá nhiều
- Thế Ngoại Sử, Lục Tài Tử anh đã đọc chưa ?
- Dạ con thích nhất là Tam Quốc Chí…
Do đó, từ khi có anh Thục, hàng ngày cụ Tú dành nửa buổi luận bàn với anh về những trang sách mà
Thầy giao cho đem về nhà đọc trước. Vì thế, trừ lũ học trò còn thò lò mũi ê a Tam Tư Kinh hết giờ là
chạy tốc về nhà, còn những anh học trò lớn tuổi và cả những trò lầng nhầng từ các lớp Sơ Học Vấn
Tâm trở lên, đều muốn ở lại nhà Thầy để nghe Thầy tra sách với anh Thục. Hỏi đâu anh Thục biết đấy
và nhớ sách vanh vách, còn đưa ra những ý kiến luận bàn rất là sâu sắc.
Được hỏi về hai cuốn Tam Quốc và cuốn Đông Chu Liệt Quốc, anh nói: “Mỗi cuốn có cái hay riêng.
Nhưng cuốn Tam Quốc Chí là sách dành cho đàn ông, cho những kẻ dụng binh. Trong đó vai trò
của đàn bà rất mờ nhạt. Nhưng trong cuốn Hán Sở Tranh Hùng thì khác, trong đó vai trò của
người đàn bà được nói đến rất kỹ. Người ta không thể quên hình ảnh rất đẹp và cái chết rất trung
trinh của Ngu Cơ bên cạnh một võ tướng kiệt hiệt là Hạng Võ. Cũng như tâm địa thâm độc, quyết
liệt, tàn bạo của Lã Hậu khi bày mưu chặt đầu Hàn Tín, một người văn võ toàn tài, một công thần
của nhà Hán…”
Đó là nhận xét khá lạ của Tào Mạt. Từ đó cả làng đồn rằng “Cu Thục giỏi lắm. Cụ Tú Hương đã tìm
được người để trao “ấn kiếm” rồi.”
Lời đồn đại ấy không phải không có lý do.
Làng tôi, phe cựu học, nếu nói về gia đình hiển đạt quan lộ đương thời (từ 1945 về trước), không ai
qua được gia đình cụ nghè Nguyễn. Ba cha con cụ Thiếu, đồng triều làm quan lừng lẫy Bắc Hà, danh
giá khó ai bì kịp. Nhưng kể về văn tài thì trong làng không thiếu những vị nổi tiếng hay chữ, mặc dù
các vị ấy chỉ đỗ Tú Tài, hay không đỗ gì cả, chỉ là một ông đồ, ngồi dạy học. Đáng kể nhất là cụ Tú
Khiêm. Vì cụ “ngồi hương sư” dạy học tại trường làng, nơi văn chỉ, nên thường được gọi là cụ Tú
Hương. Ngoài giờ dạy học ở trường, cụ Tú Hương còn mở lớp chữ Nho tại nhà để dạy thêm cho ai
còn luyến tiếc cửa Khổng, sân Trình. Cụ có khá đông học trò, người làng cũng như người hàng tổng.
Trong ngôn từ cũng như qua văn thơ, cụ vẫn cho rằng“học tài thi phận”, đỗ đạt cao là nhờ phúc ấm tổ
tiên là chính. Vì nếu kể về văn tài thì cụ chẳng thua ai. Trong những chốn thâm giao, không thiếu người
được cụ ngâm nga hai câu thơ nói về hoàn cảnh của mình như sau:
Công khai minh nguyệt giai như thử
Tài hữu hoa mai cánh bất đồng.
Nghiã rằng: “Mọi người nhìn trăng sáng thì ai cũng nhận ra. Nhưng với cánh hoa mai thì khác,
phải là người tinh tế mới thấy được vẻ đẹp ý nhị, mới biết thưởng thức hương thơm thanh khiết
của hoa mai.” Ý nói: Cụ chỉ đỗ tú tài thôi, nhưng văn tài của cụ hàm súc, không phải ai đọc cũng hiểu
được ngay. Ẩn ý của cú Tú Hương hầu như cả làng đểu biết. Cụ có ý cay đắng về thân phận mình
trước sự hiển đạt, lừng lẫy của gia đình quan nghè. Nhưng đồng thời qua những bài thơ, những câu đối
mà Cụ viết cho thiên hạ đến xin chữ của cụ, ai cũng phải khen là tuyệt bút, nói ra không hết. Nay cụ Tú
có anh học trò lầu thông kinh sử như thế, tiếng tăm cụ càng lẫy lừng. Có người còn bảo “Nếu thằng
Thục sinh

ra sớm mấy chục năm, thời thi cử cũ, dễ nó chiếm bảng nhãn, thám hoa như chơi”.
Rồi một biến cố xẩy ra.
Không biết anh Thục đã học hành tiến bộ và hành xử ra sao, toàn thời gian anh đi học có được mười
năm như người xưa đã nói “thập niên đăng hoả” hay không mà chỉ khoảng 2 năm sau, cụ Tú cho mời
ông thân sinh của anh Thục tới và nghiêm túc nói: “Thưa ông, kể từ nay cháu Thục không phải tới
đây học nữa.” Ông thân sinh anh Thục sợ hãi, ngỡ ngàng thưa “Dạ, cháu nó làm điều chi sai sót…?”
Cụ Tú điềm đạm đáp: “Không. Cháu nó lễ phép, ngoan ngoãn lắm, tôi không có gì phiền trách
cháu cả. Vả lại, ông bà đối với chúng tôi thật là tử tế, đôn hậu lắm. Mùa nào thức ấy, tết nhất
chúng tôi đều được thừa hưởng lộc Thánh của ông bà đem dâng cúng. Cháu nó không phải đến đây
học nữa, chỉ vì cháu nó… học hết chữ của tôi rồi.”
Anh Nguyễn Duy Thục “học hết chữ của cụ Tú Hương rồi.” Đó là một biến cố lạ lùng ở trong làng,
tuy không ồn ào nhưng cũng thật là đáng suy nghĩ.
Có thể vì quý người học trò thông minh hiếm có mà cụ Tú Hương nói quá đi như thế, nhưng ai cũng
phải nhận anh Thục cực kỳ thông minh, ứng đối mau lẹ và có trí nhớ lạ lùng, nói ra không hết.
Với kiến thức ấy, Nguyễn Duy Thục sẽ làm gì, đi đâu, là những câu hỏi lớn sẽ được giãi bày ở phần
sau. Nhưng chỉ với những dữ kiện nói trên tưởng cũng tạm đủ để thấy Nguyễn Duy Thục tức Tào Mạt
không phải là “từ một người lính có trình độ thấp, Tào Mạt đã phấn đấu trở thành người hiểu biết
sâu sắc về nhiều lãnh vực…” như Thái Doãn Hiếu và Hoàng Liên viết trong cuốn Giai Thoại Nhà
Văn Việt Nam [trang 556]. Lại càng không phải như bà Song Kim, vợ nhà thơ Thế Lữ đã phát biểu
trong cuốn phim tài liệu:“Ấy nó là học trò nhà tôi, mà bây giờ chữ nó tốt thế, nhà tôi phải xin chữ
của nó về treo.”
Đó quả là lời phát biểu nông nổi và thiếu tế nhị của một người đàn bà. Có thể Tào Mạt đã hấp thụ
những tinh hoa về kịch nghệ từ Thế Lữ, nhưng kiến thức, hiểu biết về Hán văn thì khác, khác lắm.
Nhưng qua những bằng chứng trên rõ ràng trong văn giới cũng như trong lòng chế độ Hà Nội không ai
biết rõ con người Tào Mạt được nuôi dưỡng, un đúc học hành ra sao. Một cách cụ thể ,không ai nắm
vững quá khứ, kiến thức của Tào Mạt cả. Đến khi thấy Tào Mạt làm được việc này, việc khác thì uà
lên nhận công, chia phần, và nói theo lối nói thờì thượng — một người kém như thế, nhờ theo Đảng
nên mỗi lúc mỗi thêm tài giỏi. Nếu bảo Tào Mạt không có văn bằng, không học theo lề lối như đa số
thanh niên đương thời, thì đúng. Nhưng bảo Tào Mạt là người kém cỏi, dốt nát thì hoàn toàn sai. Với
tôi, Tào Mạt trước khi lao vào đời, đã đem theo “một bồ chữ” với tất cả tài hoa, khí phách cương trực
của một nhà Nho yêu nước nồng nàn.
*
Nên nhớ, Nguyễn Duy Thục, tức Tào Mạt, sinh năm 1930, năm mà Nguyễn Thái Học khởi nghĩa ở Yên
Bái, rồi cùng 12 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng ngửa cổ nhìn lên lưỡi dao máy chém, như một ngọn
lửa sáng ngời khí tiết, nấu nung lòng yêu nước của bao lớp thanh niên. Sau đó, Pháp đem hình ảnh hành
hình này phổ biến rất rộng rãi, và đem máy chém trình bày ở những thành phố lớn, như một đe doạ cụ
thể với ai còn tơ tưởng tới công cuộc nổi lên chống Pháp. Do đó giữa sự kinh hoàng còn là nỗi bi phẫn
cụ thể nung nấu hận thù của cả dân tộc Việt Nam. Và chỉ sau hơn 10 năm, năm Ất Dậu, hàng triệu
người Việt Nam chết đói. Xác người đen thui, nheo nhách gục khắp đầu đường xó chợ. Khắp miền Bắc
ở đâu cũng có người chết. Nỗi uất hận trước kẻ thù xâm lược lại một lần nữa bùng cháy nơi tâm tưởng
những ai còn chút quan hoài đến sự sinh tồn của dân tộc, của đất nước. Người Nhật, một hình ảnh làm
bừng tỉnh chí khí của người da vàng. Ngoài chiến công lẫy lừng ở Eo Đối Mã, đánh tan hạm đội Nga
hồi đầu thế kỷ, chỉ một đêm 9 tháng 3 năm 1945, toàn cõi Đông Dương do Pháp cai trị gần một thế kỷ,
bỗng tàn tành như mây khói. Người Nhật làm được. Người Nhật là người da vàng. Người Việt Nam
cũng là người da vàng, cũng phải làm được. Rất đông người Việt Nam đã thấy và nghĩ thế. Đó là thời
điểm giữa thập niên 40, cùng lúc với cậu thiếu niên Nguyễn Duy Thục biết nhận thức rõ ràng hoàn
cảnh của đất nước mình. Trong tình trạng ấy, ai cũng được, tổ chức nào cũng được, cứ có người kêu
gọi là những người trẻ yêu nước hăng hái lên đường.
Nên nhớ cũng từ thời điểm này, năm 1930, Đảng Cộng Sản Đông Dương được thành lập, đã ẩn mình,
nín tiếng trong thời gian qua, tới 1945, đúng thời cơ, người Cộng Sản Việt Nam mới ồn ào lên tiếng,
xua dân đi cướp chính quyền. Hầu như ai là kẻ có lòng với dân, với nước cũng sẵn sàng nghe theo
tiếng gọi của Mặt Trận Việt Minh, trong đó có người thanh niên Nguyễn Duy Thục.
Cách Mạng Tháng Tám bùng nổ như một vận hội đầy quyến rũ, cuốn hút người yêu nước ra đi. Tất cả
đã lên đường giành độc lập và chống xâm lăng Pháp từ Nam ra Bắc. Pháp nghêng ngang xe tăng, đại
bác, khiêu khích dân tộc ta giữa lòng thủ đô Hà Nội. Cuối năm 1946, toàn quốc kháng chiến bùng nổ
và lan ra khắp xóm làng. “Từ phố phường trở ra thôn quê, anh em ta quyết chí đi về đồng áng…”
Và“trường kỳ kháng chiến nhất định thành công”. Đó là những lời hát, những khẩu hiệu vang động
một thời, nó có sức thu hút, lôi kéo hầu như cả một dân tộc lao vào cuộc trường chinh cứu nước.
Trong thời gian ấy, làng Nủa, một làng miền trung du Bắc Việt bỗng một hôm đón nhận những đoàn
người từ Thủ Đô tràn tới, cùng với những người con của làng Nủa đi làm ăn xa, từ các thành phổ tản
cư về. Chưa bao giờ làng quê vui thế. Chưa bao giờ làng Nủa đông như thế, đoàn kết như thế. Những
người trẻ của làng Nủa từ Hà Nội về đem theo các huyền thoại của Trung Đoàn Thủ Đô, với những tài
hoa và lòng yêu quê hương bùng phát. Anh Thục đã gặp những thanh niên này, hay chính những người
của Hà Nội đích thực, kể cà những người con nhà quan, cùng với những thanh niên ở quê nhà, những
người chân quê, tất cả như con cái một nhà, họ xúm nhau lại, trước là cùng vui chơi, sau là cố gắng
làm những gì có ích cho xóm làng, cho đất nước. Đó là những cuộc đấu bóng chuyền mỗi chiều khi
vườn cỏ phơi vải đã trống. Đó là những buổi tối đọc báo Cứu Quốc cho cả làng nghe. Và sau đó là tờ
bích báo Tiếng Nủa, mỗi tháng 2 kỳ do thanh niên làng Nủa biên soạn, đem dán ở Ngã Ba. Tờ báo viết
tay mà trình bày thật đẹp. Hai chữ Tiếng Nủa màu đỏ, nét sắc như cắt do một sinh viên hội hoạ vẽ.
Những bài xã luận ký tên Tào Mạt đanh thép xuất hiện. Tiếp theo là nhận định về cuộc Vạn Lý
Trường Chinh của Mao Trạch Đông cũng do Tào Mạt kể và bình. Những dữ kiện mới mẻ, lời văn đanh
thép, khiến nhiều người phỏng đoán Tào Mạt “phải là người có tuổi và từng trải lắm.” Người ta theo
dõi những bài viết ấy nhưng không biết Tào Mạt là ai. Hỏi, không ai trả lời. Rồi những thanh niên làng
Nủa diễn kịch, hát những bài hát mới. Họ viết lấy kịch bản và tự đóng các vai trong kịch bản này: Ông
Đội Cóc. Đó là một nhân vật lịch sử có thật, thuộc làng Chàng Thôn, làng bên cạnh, người theo quan
Đề Thám kháng Tây ở những năm đầu thế kỷ. Người đóng vai liên lạc, cải trang là một nhà sư, tiếng
nói như chuông, ấy là Nguyễn Duy Thục.
Giữa những màn kịch này là các bản đơn ca, các bài hát mới được gọi là “hát cải cách” như Thiên
Thai, Cô Hái Mơ, Con Thuyền Không Bến do người con trai làng Nủa từ Hà Nội tản cư về, hát. Đi
song song với lời hát còn có tiếng sáo rất trong, thật réo rắt. Tiếng sáo từ hậu trường tỏa ra “sao mà
hay quá.” Tiếng sáo trong vắt réo rắt vút lên cao, lên cao nữa như muốn vươn tới sao Hôm, sao Mai
xa tít, khiến mọi người nín thở, lặng đi theo tiếng sáo. Người ta không thấy mặt, không biết tên người
thổi sáo. Nhưng người trong nhà thì biết. Cô T.H. con nhà dì tôi biết ai là người thổi sáo, cô đã chú ý
tới người thổi sáo. Vì những đêm trăng sáng, anh Nguyễn Duy Thục và các người anh của cô ngồi trò
chuyện ở hàng hiên, rồi hát những bài ca mới. Cô ngồi ở bên kia hàng hiên, bên trong cánh-dại, đã lắng
nghe những lời ca ấy, theo dõi tiếng sáo ấy. Có lúc tiếng sáo như bay vào ánh trăng, lan tỏa đầy trời.
Có lúc tiếng sáo trùng xuống, êm nhẹ như một lời tâm sự. Ngay cả khi tiếng sáo dứt rồi, cô như thấy
tiếng sáo còn quanh quẩn bên cô. Ngay cả những lúc ra ao, khỏa nước, rửa chân, nhìn xuống lòng ao
lóng lánh ánh trăng, bên tai cô như còn vương vấn tiếng sáo này. Cô mê tiếng sáo ấy, cô có cảm tình
với người trai ấy, nhất là qua lời khen của các người anh về sự uyên bác của người trai. Sao lại có
con người tài hoa như thế, tài giỏi như thế, giấu kín trong bộ quần áo nâu đơn sơ như tất cả trai làng.
Không biết xưa kia tiếng sáo Trương Lương làm não lòng đoàn quân của Hạng Võ ra sao, nhưng tiếng
sáo của anh Thục đã làm bao nhiêu người ngẩn ngơ, trong đó có cô em con nhà dì tôi, cô T.H. Và đó
cũng là lẽ tự nhiên giữa trai tài gái sắc. Họ yêu nhau. Trước tiên là ông anh tôi biết mà chỉ cười, không
cản. Rồi mọi người trong nhà đểu biết, kể cả dì tôi, chú tôi, không ai nói gì, và cũng chưa đến giai
đọan phải nói gì. Tuổi trẻ lớn lên, lòng mênh mang, êm ả như tơ trời khẽ rung khi có một làn gió
thoảng.Và cuộc tình của họ cũng chỉ có thế qua một vài lá thư trao gửi, kèm theo những bài thơ ca ngợi
mối tình non dại đầu đời, vì:
Ngày ấy xuân chưa về ngực áo
Em bâng khuâng khuôn cửa trăng treo.
*

Cuộc chiến giữa Pháp và Việt Nam mỗi ngày mỗi lan rộng. Quân Pháp đến đâu đốt phá đến đó, trước
khi dựng đồn luỹ thiết lập “hội tề.” Nỗi kinh khiếp ấy không sao kể xiết. Phiá chính quyền Cộng Sản,
với chủ trương Trường Kỳ Kháng Chiến, Vườn Không Nhà Trống đưa ra chủ trương phá sạch những
nhà cửa, công trình xây cất quy mô. Họ lấy cớ để Tây không có chỗ đóng đồn, nên đền, chùa, đình,
miếu lớn nhỏ, những dinh cơ to lớn của dân, đều là mục tiêu phá huỷ. Muốn thế, người Cộng Sản đã
mớm lời cho những thành phần ít học, tụ họp trước sân đình để sẵn sàng giơ tay biểu quyết “phá
đình.”
Ngôi đình làng tôi là một công trình to lớn, uy nghi, dựng từ thời Lê Chính Hoà, thế kỷ thứ XVI. Đây
chẳng những thờ Thành Hoàng mà còn là nơi sinh hoạt, biểu tượng cho nếp sống của làng từ mấy trăm
năm. Chỉ riêng bức hoành phi với 4 chữ Mỹ Tục Khả Phong do vua Tự Đức ban, treo giữa đình từ
bao nhiêu năm là một vinh dự không phải làng nào cũng có. Kế đó là ngôi chùa, tên chữ là Vĩnh Phúc
Tự. Tiếng chuông ngân nga mỗi khi chiều xuống như tiếng ru êm ả, tiếng gọi của Đấng Từ Bi. Văn Chỉ
kia, xuân thu nhị kỳ, là nơi hội họp của Nho lâm, nơi thờ Vạn Thế Sư Biểu, và cũng là nơi để bia đề
tên những ai đã đỗ đại khoa, mang vinh dự về cho làng. Nơi đó còn là ngôi trường, xưa là nơi bình
văn, đọc sách giúp những nho sinh ôn tập trước khi lều chõng đi thi. Nay tuy nền cựu học đã tàn, bỏ
bút lông, những trẻ nhỏ trong làng hàng ngày cặm cụi cầm bút sắt, hàng ngày rùi mài theo những cuốn
Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Trong làng không thiếu người khởi đi từ ngôi trường này, rồi lên huyện, ra
tỉnh học hành thành đạt làm rạng danh cho làng trong nền học mới. Làm gì thì cũng phải nhớ đến Tổ
Tiên. Làm gì thì làm, phàm người vô học thì điều khiển làng nước, quốc gia sao đuợc.
Từ ý nghĩ này, ông bác tôi và một số người bàn với nhau, phải làm mọi cách giữ đình, chùa và văn
chỉ. Trước hôm có cuộc mít tinh phá đình, bác tôi cho mời anh Thục đến nhà. Bác tôi nói: “Tôi biết
anh là người từng đọc sách Thánh Hiền, từng là học trò các cụ đồ, cụ tú trong làng, là một cây lớn
trong Nho lâm. Anh từng là người của Mặt Trận từ trong bóng tối. Anh hiện là cán bộ huyện, là
một người xuất chính. Cũng vì thế khi thời cuộc đến, chính anh đứng ra hô hào dân chúng trong
làng này lên huyện để cướp chính quyền, tôi đã nhiệt liệt ủng hộ. Như anh biết, hôm lên huyện biểu
tình, tôi là người đi đầu cùng với bao nhiêu người cao tuổi khác. Theo sau là lớp lớp thanh niên.
Khẩu súng sáu mà ông Một Chiểu tặng tôi hôm Nhật đảo chính Tây, tôi đã tặng cho Mặt Trận.
Chính anh Đồng, Chủ Tịch lâm thời huyện, hôm đứng trước dinh huyện Thạch Thất đã giơ cao
khẩu súng ấy và bắn một phát thị uy, khiến cả rừng người đang xôn xao, bỗng im bằn bặt … Rồi
khi mặt trận Hà Nội vỡ, các cơ quan từ thủ đô kéo về, như anh biết đấy, tôi lại là người đứng ra
quyên thực phẩm để nuôi quân. Nhiều lắm, nói ra không hết và anh cũng là người biết rõ việc
này…” Nghe nói thế, anh Thục chỉ ngôi im, tay mân mê ly nước. Bác tôi lại nói: “Làm gì thì làm,
thời nào cũng vậy, người làm việc lớn phải là người có học và có tâm mới đuợc. Mà cái tâm ấy lấy
ở đâu ra, nếu không phải là chính từ những yêu thương đùm bọc nhau trong luỹ tre làng, đói no
chia xẻ…Vì thế ta phải cố giữ lấy đình, chùa và văn chỉ. Việc này chúng tôi trông cậy ở anh.”
Cuộc nói chuyện giữa bác tôi với anh Thục khá dài, và mỗi lúc những người có tuổi, những thân hào
nhân sĩ kéo tới góp ý. Cuối cùng anh Thục nói: “Thưa, trên chủ trương như thế, nhưng nay các cụ
nghĩ thế, làng nước nghĩ thế thì hôm hội họp để dỡ đình các cụ hãy tham dự cho đông. Các cụ cũng
cứ như thế mà nói…” Đó là những điều chỉ người trong làng biết với nhau mà thôi.
Hôm hội họp để phá đình, bô lão trong áo dài, khăn đóng tập họp ở đình rất đông, đông không ngờ
được. Các cụ nghiêm túc xếp hàng làm lễ Thành Hoàng, như hôm sau sẽ không còn dịp để cùng nhau
lễ Thành Hoàng nữa.
Sau đó lần lượt các cụ vào bên trái đình thắp hương lên tất cả những bát hương làm-hậu, cũng như
những bát hương thờ các họ, như họ Nguyễn, họ Phí, họ Phan, họ Dư, họ Đỗ… Trong không khí trang
nghiêm đó, viên chủ tịch xã và những toán thanh niên chân tay của xã Quang Trung, bỗng trở nên thiểu
số, ngỡ ngàng. Nhưng viên chủ tịch xã vẫn nói “Chính phủ chủ trương phải phá đình để Tây nó đến,
nó không có chỗ đóng quân. Nào ai có ý kiến gì không?” Giữa hàng hàng bô lão và rất đông trai
tráng trong làng đứng nghiêm trang, hướng mắt vào lòng đình, hương khói vẫn còn nghi ngút. Bác tôi
nói: “Ngôi đình này trải mấy trăm năm, qua bao trận giặc, làng này chưa bao giờ là chỗ đóng
quân. Cuối thời nhà Lê, lúc quân Tam Phủ làm loạn, có tràn về vùng này, cũng không lấy làng này
làm chỗ trú ngụ… Như cột đình hai người ôm kia, từ trên rừng chuyển về, sức nào mà làm được.
Phải có thần phù, quỷ ứng, nước sông dâng lên mới chuyển được gỗ từ trên núi cao về được… Còn
những bát hương thờ hậu, tổ tiên các họ để đó… Nay bỗng phá đi,lấy nơi nào mà hương khói…
Con chim còn có tổ, con người phải biết nhớ ơn tổ tiên. Ai…,ai muốn phá đình cứ ra mà phá…”
Lời nói của bác lan tỏa, vang động vào lòng đình sâu thẳm, bay ra khắp sân đình, và như còn đọng trên
từng kẽ lá đa đang thì thầm, rung rinh ghi nhận.
Tên chủ tịch xã nhìn quanh, thấy đám tay chân của mình thưa thớt, vẻ mặt ngờ ngệch, thất thần. Hắn hứ
một tiếng rồi quay đít ra về. Lũ trai tráng đàn em của y nhớn nhác nhìn nhau rồi từ từ giải tán. Ngôi
đình, ngôi chùa và văn chỉ vì thế không bị phá, nhưng đồng chí Nguyễn Duy Thục, cán bộ huyện, bị
điều đi học một thời gian khá dài. Trong thâm tâm mọi người đều biết, tuy không nói ra, nếu không có
đồng chí Thục ngầm đồng ý, thì mọi sự đã khác. Và riêng ông bác tôi sau đó bị đưa lên rừng học tập
dài ngày cùng đi với một người cháu họ là ông Phan Lạc Vịnh. Vì thời tiết khắc nghệt, đói rét, vì tuổi
già, bác tôi đã lặng lẽ nằm xuống ở một góc rừng. Nhiều năm sau con cháu mới tìm đến để đưa cụ về
nằm trên cánh đồng làng.
*


Rồi cuộc chiến đã lan tràn như một cơn hồng thuỷ, cuốn hút lớp lớp người đi phía này phía khác, với
bao thù hận, chia lìa ròng rã mấy mươi năm. Khi đất nước đã tạm yên, lòng người lắng lại thì đám
thanh niên trai tráng thời xưa kẻ còn người mất. Là một trong những người này, người viết đã nối lại
liên lạc với anh Nguyễn Duy Thục. Người thanh niên làng Nủa khi xưa nay có bút hiệu Tào Mạt, đại tá phục viên, và đang trải những ngày cuối cuộc đời trong nhà thương vì bệnh ung thư. Người viết muốn về thăm quê hương, thăm bạn, nhưng thời cuộc còn trở ngại nên anh em chúng tôi chỉ vội vàng gửi theo thư một chút quà. Nhận được, Tào Mạt đã nguệch ngoạc mấy hàng :
“Hà Nội ngày 2 tháng 2 Quý Dậu, Dương Lịch 27 tháng 2 năm 92.”
“Thục đây,cố sống để được gặp các anh. Làm gì có chuyện kỳ thị giữa những người đã thành tình thành nghiã từ thuở còn thơ trẻ. Cái chữ “không kịp” tôi viết cho chú Tiếp nó tàn nhẫn quá. Hình như
con người đứng trước luật sinh tử của vũ trụ đều có thể phải chịu cái lạnh lùng tàn nhẫn ấy đấy.
Lý Ngọc Kiều là bạn của bà Ỷ Lan chỉ để lại cho chúng mình sau gần 1000 năm có mấy câu: “Sinh
lão bệnh tử. Lý chi thường nhiên…” Tào Mạt là cái gì? Là lớp người sinh ra như cái bọt. Với vũ
trụ mênh mông kia thì con người là hạt bụi…Tôi cố chờ để được nằm chuyện trò, đưa nhau đi chơi
cuối đời rồi có về với tổ tiên mới về…”
Những hàng chữ xiêu vẹo, không ngay hàng. Ở bên cạnh chữ ký cuối lá thư, Tào Mạt viết thêm vài
hàng, nhắc đến người con gái nhỏ, người yêu đầu đời mà không lấy được nhau, đã mất từ lâu, mấy câu
như sau: “Chắc tôi sẽ gặp cô T.H. trước các anh rồi.” Tưởng thế là hết, nhưng không. Như tiếc nuối,
đau xót cho cả một cuộc đời sắp tắt, Tào Mạt viết thêm vài hàng bên dưới chữ ký: “Nước mắt rơi! Vì
cái tết vừa rồi ở cái thế đi, giờ lại tỉnh nhưng không đứng dậy được .”
Tôi buông tờ thư xuống mà bỗng thấy quê nhà sau bao năm xa cách, hiện về với bao nhiêu dâu bể. Tôi
nhớ từng lối đi, từng mái nhà. Nhớ bao nhiêu người với từng điệu cười, tiếng nói. Mái chùa xưa, ngôi
đình cũ. Nhớ thật rõ bài thơ Gửi Về Làng Nủa của người trai làng, Nguyễn Duy Thục, có những câu :
… Ngày xưa em ơi làng ta vui
Say mộng bình yên làng ta cười
Tiếng rộn mỗi chiều chày đập sợi
Rộn ràng hát với màu nâu tươi.
Từ những ngày mới lớn theo tiếng gọi của lương tâm và theo sự lôi cuốn của thời cuộc, Nguyễn Duy
Thục đã gia nhập Mặt Trận Việt Minh rất sớm, từ khi Mặt Trận còn trong bóng tối, nghĩa là trước khi
có cuộc khởi nghĩa năm 1945. Xuất thân từ gia đình làm quản gia cho nhà quan, lại là một người thông
minh, đầy nhiệt huyết, Nguyễn Duy Thục quả là đối tượng lý tưởng cho người Cộng Sản hướng tới.
Đối với mọi người, Nguyễn Duy Thục không cho ai hay anh là người của Mặt Trận, nhưng riêng với
anh em tôi, anh không giấu, vì anh coi anh em chúng tôi là “những người đã thành tình, thành nghĩa
từ thuở trẻ thơ.” Anh không giấu điều gì. Năm 1950, khi cuộc chiến trở nên khốc liệt, đặc biệt Việt
Minh ra mặt tận diệt những ai không phải người của Mặt Trận, chính anh Thục một đêm bên bờ sông
Thao, đã nói với ông anh tôi rằng: “Các anh đi đi. Đây không phải là đất của các anh đâu. Phải đi
ngay trước khi quá trễ. ”Và chính anh đã tiếp tay tổ chức cho ông anh tôi và hai người con trai lớn
nhà dì tôi, bỏ vùng kháng chiến trở về vùng tạm chiếm. Giữa đêm đen, chính anh lội xuống mé nước,
đẩy con thuyền ra giữa sông Thao. Trong phút từ biệt, anh nói với ông anh tôi: “Cái thế nó như thế.
Các anh cứ về đi. Chưa biết sau này giữa chúng ta ai sẽ cứu ai đâu.” Nói rồi anh lội xuống mé
nước đẩy mũi thuyền ra khơi. Anh trơ vơ đứng lại một mình. Bóng anh đen thẫm nhoè dần vào bóng
nước. Anh ở lại với kháng chiến.
Cuộc phân ly bắt đầu từ đó.
Anh em chúng tôi sống trong vùng tạm chiếm, chúng tôi cố gắng đi học lại và trước sau đều là những
quân nhân của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, chống lại sự xâm lăng của Cộng Sản, trong đó có người
bạn thân, người ân nghiã, Nguyễn Duy Thục. Từ cuộc phân ly này mỗi lúc đất nước chúng ta mỗi thêm
oan trái, nhưng mỗi lúc chúng ta đều nhận ra rằng chủ nghĩa Cộng Sản là một thảm hoạ của loài người.
Nhưng như những viên đạn đã lên nòng, nhất là những ai sống trong lòng chế độ Cộng Sản phải nghe
theo, nhất mực phải tin theo một con đường độc đạo: Phải tiến tới, đem toàn lực tiêu diệt đối phương.
Trong thời gian ấy, Nguyễn Duy Thục cũng đã tận lực phục vụ chế độ bằng tất cả tâm huyết của mình.
Anh gia nhập quân đội, qua nhiều giai đoạn, nhiều công tác khác nhau, tại nhiều mặt trận khác nhau,
nhưng không lúc nào anh ngưng sáng tác, phục vụ người lính. Những vở chèo ngắn của anh ra đời.
“Sáu mươi ba năm tuổi đời, 43 năm tuổi quân, Tào Mạt sinh nghề tử nghiệp vì chèo, đã nổi danh
vì chèo, bất tử vì chèo.” Nhận định này Thái Doãn Nhẫn, Hoàng Liên viết rất đúng. Nhưng chỉ thực
sự đúng khị Tào Mạt đã nhận thấy sự xảo trá, tàn bạo của người Cộng Sản mà thôi.
Sao vậy? Trước năm 1975, nghĩa là trước khi nhân dân miền Bắc có dịp tiếp xúc với sự thật, với miền
Nam, những vở chèo của Tào Mạt chỉ gò ép trong nhãn quan Cộng Sản, phục vụ người Cộng Sản mà
thôi, nên những sản phẩm ấy chỉ có giá trị giai đọan, và đi ngược lại bản chất nhân bản của loài người,
nhất là phản lại đặc tính nhân hậu của người Việt Nam. Trong xã hội Cộng Sản con người mỗi ngày
mỗi bị dồn ép, khốn cùng, hành động mỗi ngày mỗi gần với bản năng, thú tính. Người ta đau đáu so bì
với nhau qua lát sắn, củ khoai, vì hầu như lúc nào cũng bị cái đói hành hạ, khiến giữa vợ chồng, con
cái cũng không tin được nhau, còn nói chi đến lòng bao dung, nhân nghĩa. Nhưng sau biến cố 30-4-
1975, người dân từ Bắc vào Nam, như bước vào một khung trời khác biệt. Bỏ đi những lời lẽ đao to
búa lớn của kẻ vênh vang chiến thắng với các khẩu hiệu ở ngoài đường, những bà con thân thuộc hai
miền gặp nhau, chỉ biết ôm nhau mà khóc. Sao chúng ta đã phải trải qua một đoạn đường oan trái này?
Sao lại có sự trái ngược lạ kỳ này giữa hai miền đất nước ? Chỉ ở miền Nam người ta mới dám nói
thật với nhau. Chỉ tại miền Nam, sau bao nhiêu năm người miền Bắc vào, mới nhìn thấy nồi cơm trắng
đầy, không phải độn khoai, sắn. Cơm trắng ăn với thịt, ăn bao nhiêu cũng được.Và ra đường hàng quà
ê hề đủ loại, muốn ăn gì tuỳ ý, không phải xé tem phiếu, không phải xin phép ai, nhìn ngó, dè chừng ai.
Chỉ với cái thẻ căn cước, ở đâu cũng được, đi đâu cũng được, không phải lo hộ khẩu, không sợ tai mắt
anh công an, người hàng xóm. Hoàn toàn tự do. Cái gì cũng thừa mứa. Và lòng người thì giản dị, bao
dung. Thiên đường ở đâu, sự no đủ ở đâu, phải chăng đang có ở nơi này. Không cần lý luận, cả những
cán binh cộng sản trung kiên nhất khi trở về miền Bắc cũng thấy sung sướng trong lòng, vì chẳng phải o ép, xảo trá, “người Nam nhận họ, người Bắc nhận hàng”, ai từ trong Nam về Bắc cũng có bao nhiêu
là quà cho vợ, cho con, cho bố, cho mẹ.
Trong thời gian này, Tào Mạt Nguyễn Duy Thục xin phép vào Nam nhiều lần không được. Mấy năm
sau mới được phép vào Nam 2 tháng, Tào Mạt đã phóng đi tìm bạn bè cũ, nhưng không gặp được ai.
Kẻ đã di tản ngoại quốc, người khác thì đã bị bắt đi tù chưa biết khi nào mới được tha. Những lời
tuyên truyền xảo trá “hoà hợp dân tộc” mà anh tin theo từ bao lâu nay hoàn toàn khác hẳn. Chính thời
gian này, anh thấy rất rõ bộ mặt xảo trá, tham lam, tận tình vơ vét tàn bạo của mọi cấp cán bộ cũng như
quân lính miền Bắc qua các chiến dịch Đánh Tư Sản Mại Bản, Đổi Tiền, lừa dối đuổi dân thành thị
miền Nam đi vùng Kinh Tế Mới. Tất cả chỉ là kế hoạch diệt gọn, vét sạch không hề thương xót. Gặp
gia đình các bè bạn xưa, nói chuyện với nhau trong ngỡ ngàng, trách móc. Theo những thông tin của
thân nhân người viết cho hay “Ông Thục đi Nam về, người thừ ra, chỉ thở dài, không nói. Ông chìm
trong cơn trầm uất rất lâu.”
Sau đó, ba vở chèo Bài Ca Giữ Nước được thai nghén và thành hình trong những năm 1979 – 1985.
Mọi người đón nhận các vở chèo này như những trận mưa rào trút xuống cánh đồng khô nứt sau bao
nhiêu ngày nắng hạ nóng bỏng như thiêu, như đốt. Do đó Huy Chương Vàng Hội Diễn Toàn Quốc được
long trọng trao cho tác giả Tào Mạt. Trong Bài Ca Giữ Nước, tác giả đã dựng lại trang sử oai hùng
ngày cũ, trong đó người dân Việt dũng mãnh chận cuộc xâm lăng đến từ phương Bắc, dẹp được sự
hung hãn của dợ phương Nam, xiển dương được lòng Từ Bi của đấng Như Lai, nói lên sự gắn bó keo
sơn giữa người cùng một nước. Một ngàn năm truớc đây và cả những ngày xa xưa nữa, lúc ấy làm gì
có Đảng để lãnh đạo, làm gì có Bác để nhân dân noi theo? Tất cả đã lấy nhân nghĩa làm trọng, sống
trong thương yêu, gắn bó “bầu bí một giàn” từ bao đời do ông cha để lại. Tào Mạt đã kết thúc vở chèo
bằng những câu đanh thép :
… Nam Quốc sơn hà là non sông đất nước ta
Đất nước ta không chỉ có sông có núi
Phải có người, phải có đầu có cuối
Có nghĩa, có nhân, có trí, dũng. liêm, trung
Áo ấm, cơm no, tướng mạnh binh hùng
Biết nhớ ơn tổ tiên, biết kính cha, thương mẹ
Biết đùm bọc lấy nhau, đói no chia xẻ
Ấy mới xứng câu… Nam quốc sơn hà.
Sau bao năm sống trong sự lừa mị, bạo tàn, nay gặp được miền Nam tươi mát như thế, lại được thưởng
ngoạn những vở chèo ngọt ngào, hùng tráng như thế, nên Bài Ca Giữ Nước đã được cả nước mừng vui,
đón nhận. Những đêm diễn khắp nơi, đông nghẹt người xem. “Lần diễn Nhiếp Chính Ỷ Lan ở Hải
Phòng, 1980, sân khấu và khán giả gần biến thành cuộc mít tinh, cũng như lần diễn Lý Nhân Tông
Làm Việc.” [theo Tường thuật của Tất Thắng trong báo Văn Nghệ, 1-5-1993]. Trẻ nhỏ thuộc lòng
những câu phỉ báng lũ tham quan, ô lại:
Chim khoét, chuột đào. (ớ ơ ) khoét cùng đào…
Cướp đêm là giặc (ới a), cướp ngày là… quan.
Lời hát ấy, người dân nghe mà hả quá, như ai đó nói hộ nỗi căm giận trước những hà khắc, tham ô và
độc ác của bọn cán bộ Cộng Sản. Vì thế, Bài Ca Giữ Nước trong những ngày đầu đã in và phát hành
tới 25.000 bản và bán hết. Chưa kể những lần tái bản sau này. Thật là một biến cố lạ lùng chưa từng
có trong sinh hoạt văn học của xã hội chúng ta. Đáng vui và cũng đáng hãnh diện lắm chứ!
Từ đó trong văn giới đã không thiếu lời ca ngợi tài năng của Tào Mạt, nói đến cách luyện giọng, huấn
luyện lạ lùng của Tào Mạt như sau: “Anh bắt các diễn viên phải đứng ở tư thế hai chân bám chắc
vào sàn diễn, lúc lấy hơi, nhả chữ thì bàn chân, bắp chân, đầu gối…phải hợp đồng với giọng hát…
Như thế, rất tự nhiên từ hát, anh chuyển sang động tác tay chân và từ động tác tay chân, anh
chuyển sang múa lúc nào không biết nữa.” Tóm lại, “tác phẩm chèo là sự tổng hoà của bốn yếu tố
cấu thành: văn, hát, diễn, họa. Cách huấn luyện này đã khiến mọi người nể phục. Ngay cả những
nghệ sĩ chèo từng được mệnh danh là có giọng hát vàng như Thanh Hoàng, Thanh Dinh ... cũng nể
anh và tôn anh là thầy.” Các nghệ sĩ Ngọc Viễn, Xuân Theo của Đoàn Chèo Tổng Cục Hậu Cần sắm
các vai trong Bài Ca Giữ Nước, kể lại sự tiếp thu Tào Mạt, “mặc dù họ cố gắng hết sức, họ vẫn
không sao hát được như anh”.

Trong những lời ca ngợi ấy, tất cả đã ngạc nhiên như Tất Thắng đã thấy “…Mỗi lần nghe anh hát
chèo, ta có cảm tượng rờn rợn, một sự rờn rợn trong tiếng hát của anh như có ẩn một cái hồn, cái
thiêng liêng nào đó nó lôi ta vào, ru ta vào làn điệu chèo. Dường như không phải Tào Mạt hát
chèo mà chèo đã mượn anh, đã qua anh để ngân vang lên cái sức sống và sức cuốn hút ngàn năm
của nó. Anh hát như đắm chìm vào, như nạo cả ruột gan, thân thể ra mà hát…”

Khen tiếng hát chèo của Tào Mạt đến như thế thật quả là ghê, khiến ta thấy qua tiếng hát, giọng hát của Tào Mạt như có chất chứa một ma lực, một thứ hồn thiêng u uẩn từ bao nhiêu kiếp người tụ lại. Phải thế chăng? Không thấy ai nói, ai trả lời, nhưng với tôi, thì tôi nghĩ khác, vì phần nào tôi đã được sinh ra và lớn lên giữa khung trời tràn ngập những tiếng hát giữa đồng quê cùng Tào Mạt. Mà như chúng ta đều biết chèo đã có từ bao nhiêu đời, vui buồn, suớng khổ với con người Việt Nam. Ở miền Bắc, những làng to lớn, đa đinh có đủ thứ sinh hoạt, trong đó thường có một đoàn chèo, để ngày tư, ngày tết, giữa lúc nông nhàn, tài danh trong làng họp lại hát chèo. Làng tôi, làng Hữu Bằng, tuy ruộng ít, dân đông, trước năm 1945, vừa làm ruộng vừa dệt vải, nhưng cũng có một đoàn chèo do một người là ông Kép Ngùng làm thủ lãnh. Thường thì đoàn chèo của ông không diễn ở làng, vì “làng ta xem chán ra rồi, họ đi hát ở thiên hạ.”
Nhưng làng tôi lại hay mời đoàn chèo từ ngoài Hiệp vào hát. Làng Hiệp ở ven sông Đáy, đất cát, chỉ
có thể trồng dâu, trồng miá mà không trồng lúa được, nên mùa gặt đến, trai gái ở Hiệp thường đến các
làng xung quanh gặt thuê. Họ làm rất giỏi và đặc biệt cả trai cũng như gái đều hát rất hay. Theo những
cụ già kể lại thì “dân Hiệp là là dân mới, những kẻ du canh. Họ là tàn binh của quân Tam Phủ, khi
Nguyện Huệ ra Bắc dẹp nhà Trịnh. Những ả đào, con hát và những tay chân có võ nghệ cao cường,
là thủ túc, gia nhân của nhà Chúa giạt về. Họ tài giỏi, khéo léo và hát hay là nghề tổ của họ. Cũng
vì thế, không như những làng mạc khác cư ngụ giữa những cánh đồng, có hàng rào tre bao bọc, là
tàn quân của chúa Trịnh, họ giạt về bãi đất ven sông Đáy, đất bồi khi rộng, khi hẹp theo mùa. Đất
bãi, trồng dâu, trồng mía, bốn bề thông thống, phải là những kẽ “có nghề” để giữ nhà, giữ thân
mới sống được nơi đây.”
Không biết lời kể ấy đúng được bao nhiêu, nhưng quả dân làng Hiệp, Hiệp Hạ cũng như Hiệp Thương,
đàn ông thì võ nghệ cao cường, và cả đàn bà cũng như đàn ông, hình như ai cũng biết hát, và hát thật
hay. Họ không chỉ hát ví, hát ru như mọi người Việt Nam khác. Họ hát những làn điệu rất khó. Họ
không chỉ diễn những vở chèo bình dân, nhu Lưu Bình, Dương Lễ, mà rất giỏi khi diễn những vở tuồng
Tàu, như Quan Công Phò Nhị Tẩu. Hạng Võ Biệt Ngu Cơ. Những “tài tử” làng tôi phục họ sát đất.
Có phải thế không, nhưng trong làng tân nhạc của chúng ta sau này, chúng tôi biết rằng, ban Thăng
Long, ban hợp ca bậc nhất của chúng ta, trừ Phạm Duy ra, gia đình anh chị Hoài Trung, Hoài Bắc,
Thái Hằng, Thái Thanh có quê ngoại ở Hiệp. Và người có giọng ngâm thơ như đổ hột mà hoạ sĩ Tạ Tỵ
đã nói rằng “Tiếng ngâm của Hồ Điệp không ai sánh kịp”. Chị Hồ Điệp, người làng tôi, con bác cả
L., quê ngoại của chị cũng ở Hiệp. Như thế giữa chị Hồ Điệp và chị Thái Thanh là chị em con dì, con
già.
Với vùng đất đã có từ khi chúng ta dựng nước. Với Phú Đa, Phú Lễ, Hạ Bằng, Hạ Lôi, và Kẽm Lôi
Âm, là các địa danh ẩn hiện trong lịch sử từ thời Bà Trưng xa tít. Cái hồn của sông núi, cái khéo của
nghệ nhân, phải chăng đã tụ lại trong tâm hồn Tào Mạt, một người cực kỳ thông minh và vô cùng hiếu
học. Tôi nghĩ chính những yếu tố ấy, qua bao năm tháng miệt mài học hỏi, Tào Mạt đã làm sống lại cái
hồn người Việt Nam qua chèo, nên như Tất Thắng nhận xét “Không phài Tào Mạt hát mà chèo đã
mượn anh, đã qua anh để ngân vang lên cái sức sống và sức sống ngàn năm của nó.” Phải chăng
chính vì thế mà Bài Ca Giữ Nước đã được đón nhận như thế. Nhưng với sự thống trị tà mị, Cộng Sản
không muốn ai hơn họ, không muốn ai được yêu mến hơn họ. Do đó sự vinh quang của Tào Mạt đã
khởi đầu những phiền hà, tai hoạ sau này. Hãnh diện và tai hoạ ra sao?
Tôi đã nghe nhiều, rất nhiều, nhưng cụ thể nhất xin nhường lời cho Nguyễn Thái Hoàng, một trí thức
trẻ của Hà Nội, người được nuôi dưỡng và trưởng thành trong xã hội cộng sản nói qua bài báo Tôi
Viết Về Hồ Chí Minh Nguyễn Thái Hoàng ghi lại những lời của Tào Mạt tâm sự:“Tôi được trung
ương giao cho viết một vở chèo về Bác, thú thật lúc đầu tôi thấy vinh dự lắm liền vào ngay thư
viện ôm một chồng sách về nghiền ngẫm, vào tận quê ông cụ để lấy thêm tư liệu, đọc cả sách ngoại
quốc ca ngợi cụ, rồi để cả năm trời kiểm chứng, cuối cùng phải bỏ, vì cụ Hồ là người hoàn toàn
không tin được, đầy gian giảo, xảo quyệt, khác với những điều bịa đặt trong sách. Bây giờ để có
tác phẩm thay thế, tôi phải viết về Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.”.
Bài viết còn nói nhiều điều khác nữa để chứng minh những nhận định trên. Nhưng riêng với Tào Mạt,
vinh quang là “được trên giao cho viết một vở chèo về Bác”, nhưng Tào Mạt đã không làm, vì thấy
Bác “gian giảo quá”, do đó “Trên” đã kháo rằng Tào Mạt mắc bịnh điên, và trong sách Giai Thoại
Nhà Văn Việt Nam, trang 558, Thái Doãn Hiểu - Hoàng Liên cũng nói “Ở trong ông gần như có
chứng epilepsic, một căn bịnh của Đốt. Cụ thân sinh ra ông cũng có nhiều lần lên cơn động kinh.”
Thật là quá quắt. Hãy về làng Hữu Bằng, tục gọi là làng Nủa, thuộc huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây,
hỏi từ đầu làng tới cuối xóm, từ già đến trẻ xem có ai nói ông Nguyễn Duy Thục là người bất thường
không, hay ông Thục chỉ là người thơ hay và vô cùng thẳng thắn. “Trên” sai bảo, ép buộc không được
thì loại trừ, sa thải. Sa thải nhưng không xoá được các nhận định cương trực của con người đã thấm
nhuần câu “uy vũ bất năng khuất” của nhà Nho nên đã tìm cách tiêu diệt. Điều này, Nguyễn Thái
Hoàng cho biết thêm trong cùng bài viết: “ Không bao lâu tôi nghe tin ông bị người của Đảng rình
bắt tại khu vực 51 Trần Hưng Đạo, 65 phố Nguyễn Du, 9 Nguyễn Đình Chiểu, 19 Hàng Buồm (là
Trụ Sở Hội Liên Hiệp Văn Hoá, nhà xuất bản Tác Phẩm Mới, Hội Nhà Văn Việt Nam…), nơi mà
ông thường xuyên lui tới để gặp gỡ anh chị em trong giới “tối” tác. Cũng may là bà Trần Thị Bát,
một người đàn bà vô cùng quê mùa, nhưng lại rất “tinh đòn” trong việc bắt bớ, rình rập này đã
lăn xả vào giữ chân chồng suốt một thời gian dài không cho ông ra Hà Nội, nên vụ vây bắt không
thành…”
Tào Mạt người làng Nủa, người bạn của tất cả anh em chúng tôi khi chúng tôi còn nhỏ, còn ở trong
làng. Kỷ niệm giữa chúng tôi dày đặc, chất ngất bao nhiêu tình nghĩa, éo le. Sau 1954, chúng tôi ở hai
bên trận tuyến và cùng có những công tác quyết liệt chống lại nhau. Nhưng trong thâm tâm, chúng tôi
đều tin vào những điều nhân nghĩa mà chúng tôi hấp thụ khi còn nhỏ giữa xóm làng. Những khuôn
thước ấy không bao giờ chúng tôi đi xa. Cũng vì thế khi cuộc chiến tàn, bỏ ra ngoài những phiền lụy
của thế sự, chúng tôi đã nghĩ đến nhau ngay, và cũng hiểu ra rằng, dân tộc chúng ta vừa trải qua một tai
biến kinh hoàng. Tai biến ấy không chỉ giết hại hàng triệu sinh linh, phá tan đất nước, mà đau thương
hơn là cả dân tôc đã bị lùa vào một môi trường đầy xảo trá, bất nhân. Kết quả ấy không biết đến khi
nào mới mờ nhoà đi được.
Giữa nỗi bàng hoàng, do dự, chúng tôi đã nghĩ đến nhau, thư từ cho nhau. Và Tào Mạt, Nguyễn Duy
Thục đã viết: “Các anh hãy cố mà về để anh em còn được nắm tay nhau, kẻo chần chừ thì quá
muộn. Anh em ta là những người con của làng Nủa, cùng uống nước giếng Bìm mà thành người,
trước sau vẫn không thay đổi…”
Tôi đã đọc những hàng chữ xiêu vẹo này của Tào Mạt, viết từ trong bịnh viện ở Hà Nội vào giữa năm
1992, gửi qua Mỹ, qua Úc cho anh em chúng tôi. Ngần ngừ mãi, tháng 4 năm 1994, sau 40 năm, tôi về
thăm quê cũ. Lúc ấy Tào Mạt đã mất được 1 năm. Đứng trên căn gác ở đầu làng, nơi thiết trí bàn thờ
Tào Mạt, gió thổi từ cánh đồng Nưa tràn vào lồng lộng. Tôi thắp 3 nến hương, vái 2 vái, coi như anh
còn sống, mà nước mắt bỗng chan hoà. Tôi đã về đây quá trễ, không gặp được anh. Tôi nhìn quanh
tường, những tấm bằng khen lòe loẹt, xiêu vẹo. Trên góc cao gần sát mái nhà, một cái mũ Ông Công
bằng giấy, những mảnh gương và những hàng giấy trang-kim óng ánh. Sau lưng tôi là cảnh trí ngôi đình mới được trùng tu. Để giữ ngôi đình khỏi bị dỡ bỏ, ông bác tôi đã bỏ xác ở trong rừng. Và Tào Mạt, người của Mặt Trận, một cán bộ huyện, đã vị hạ tầng công tác, đi xa. Cây đa mõm-ngựa bị chặt làm củi, mới được trồng lại, đang xanh lá reo vui. Ngôi chùa hướng ra ao Sen, mái chùa uốn cong như đôi cánh con gà mái xoè ra bảo vệ đàn con bé dại.
Và giữa lúc ấy chiều cũng gần tàn. Tiếng chuông thu không bỗng thong thả ngân vang, lan toả. Lòng tôi tan theo, lịm dần theo âm vang của những tiếng chuông đang mỗi lúc mỗi êm đềm chìm dần vào bóng tối.
Tôi nhìn xuống mảnh ao.

Mặt ao Sen ngày nào như thu nhỏ lại nhưng vẫn có những làn sóng nhỏ trôi đi, trôi đi. Tôi nhìn lên bàn thờ anh lần cuối và không biết hồn anh đậu ở chỗ nào, nhưng bỗng nhớ đến câu thơ của anh, viết từ hậu phương, gửi vế làng Nủa năm 1949, 4 câu cuối như sau :
Nhắn hộ ao Sen già nhăn nếp trán
Vuông như cả tấm lòng làng
Nhắn hộ mái chùa nghẹn thầm khói uất
Sắc không chuông gióng kiếp thương mang.



MỘT MẢNH TRỜI HÀ NỘI

Bác tôi là một người hoạt bát, tướng mạo uy nghi, ăn nói dõng dạc. Theo những điều được kể lại thì
bác tôi còn là người có chí khí hơn người. Trong cuốn Hữu Bằng Xã Chí của Sơn Chung Đỗ nhật Tân
có nhắc lại một câu nói của bác tôi như sau: “Làm trai thứ nhất khai quốc, thứ nhì khai mỏ...” Và
bác tôi đã khai mỏ than Hoà Bình, đặt tên là mỏ than Cao Phong. Để tiện đi lại, bác tôi còn mở hãng
xe hàng đặt tên là Cao Phong, chạy đường Hà Nội - Hoà Bình. Mỏ than của bác tôi, như được nói lại,
rất trúng, khai thác rất tốt. Thấy thế, Tây ỷ thế mạnh, chiếm mỏ than này. Bác tôi đưa đơn kiện từ toà
án Đông Dương, qua Pháp, kiện tới Toà Án Tối Cao. Cuộc kiện cáo kéo dài bao nhiêu năm, tốn kém
rất nhiều, bác tôi phải bán căn nhà ba từng, sát bên đình phố Hàng Vải Thâm. Toà Tối Cao Pháp xử
cho bác tôi thắng kiện, nhưng lúc ấy bác tôi đã già, gia tài đã khánh kiệt, về quê an hưởng tuổi già.
Nhận được phán quyết nói trên, bác tôi sai anh hai tôi đọc và dịch lại, rồi cười xoà. Người thì cho là
bác tôi dại, không lượng sức mình. Nhưng cũng có người bảo “Cũng phải cho Tây nó biết không phải
nó muốn làm gì thì làm.”
Vẫn theo sự kể lại, ngoài việc khai thác mỏ, bác tôi cũng còn mở nhà máy sản xuất trà, hầu cạnh tranh
với trà Chính Thái của người Tàu. Vì theo bác tôi, người Tàu họ mua búp trà tươi của mình ở vùng
Thái Nguyên, đem về sao, tẩm rồi đóng bao Chính Thái. Họ muốn bán giá nào cũng được. Người mình
lại ưa những thứ của Tàu nên trà của bác tôi không bán được mặc dù phẩm chất không chênh lệch mà
giá lại rẻ hơn nhiều, việc sản xuất trà cũng thất bại.
Nhưng, vẫn theo sự kể lại, thuở ấy, đầu thế kỷ hai mươi, lúc Tây mới qua, sĩ phu Bắc Hà phân tán. Kẻ
thì nồng nhiệt nêu lẽ Cần Vương, người thì phát động phong trào Đông Du. Một số khác tương kế tựu
kế, học ngay cái hay của Tây để mở mang dân sinh, đất nước. Thuở ấy ở Bắc Kỳ, người ta nhắc đến
việc kinh doanh đường biển của ông Bạch Thái Bưởi và việc khai mỏ của bác tôi. Dù thế nào, giữa
một xã hội lạc hậu, chậm tiến, các cụ đã nhìn thấy văn minh của Tây, như câu vè sau đây :
Thằng Tây nghĩ nó cũng tài
Chế ra đèn điện thắp hoài năm canh
Thằng Tây nghĩ nó cũng sành
Chế ra tàu điện chạy quanh phố phường.
Thật thế, ngọn đèn dầu lạc lù mù sánh sao được với ngọn đèn điện. Đèn dầu lạc le lói ra trước gió là
tắt. Đèn điện sáng suốt đêm, sáng cả lúc mưa bão giữa trời. Đi lại, xưa kia đi võng, đi cáng, đi ngựa
phiền hà diệu vợi. Xe hơi ít người có, nhưng dân chúng Hà Thành có xe điện lanh canh chạy khắp phố
phường, phải nói là Tây nó tài thật chứ. Tiếc là bác tôi sinh bất phùng thời. Chí có mà thời thì không.
Tuy thế, lúc bé ở làng quê hẻo lánh, tôi thấy gia đình bác tôi tượng trưng cho cả một sự thành công.
Bác tôi buôn bán giầu có. Buôn vỏ từ Nam ra Bắc. Làm đại lý sợi Nam Định bán lại cho một số tỉnh
tại Bắc Kỳ. Với dân làng thì bán chịu sợi để dân làng làm nghề dệt vải. Vải dệt xong, bác tôi lại bán
chịu vỏ xó để nhuộm vải trắng thành vải nâu, bán lên mạn ngược và khắp các tỉnh trung du. Thầy tôi thì
đưa khung cửi máy về làng, cải thiện nghề dệt vải. Nhờ thế, làng tôi những năm 1930-1940 phất lên rất
nhiều. Nhà ngói xây thành nhà Tây hai tầng. Xe đạp nhà nào cũng có mấy chiếc, đi lại từ quê ra tỉnh
ngày mấy chuyến. Lúc ấy, bác tôi cho xây lại ngôi từ đường theo kiểu mới, có kiến trúc sư từ Hà Nội
về vẽ kiểu. Nhà hai từng, có hai ban công rộng, từ đó nhìn qua ngọn tre, tuốt ra tận đồng Mát và bao
quát khắp làng. Bác tôi cũng cổ suý đắp lại đường xá và cho lát gạch khắp các lối đi. Nhờ thế từ Hà
Nội về quê, bác tôi có thể đi xe hơi về tận Ngã Ba. Xe hơi hòm mầu tím, đỗ giữa làng, mùi xăng thơm
lừng. Bác tài mặc áo trắng là thẳng cứng, đội mũ lưỡi trai, hệt như bác tài của ông công sứ Pháp khi về
làng kinh lý. Khi xe đỗ, bác tài lấy chổi lông gà nhẹ nhàng quét bụi, khiến ô-tô của bác tôi lúc nào
cũng bóng loáng. Trong cái tủ ở phòng khách, tôi lục được một chồng sách in quảng cáo các loại xe ôtô.
Tôi còn nhớ một câu thế này:
Nào ai muốn sắm ô-tô
Tốt thì nhất hiệu Pơ-Giô bây giờ.
Bác tôi hoạt bát và kinh doanh như thế, nhưng chỉ có một người con trai độc nhất mà tất cả chúng tôi
gọi là anh Trưởng. Anh được hai bác tôi cưng chiều lắm, cho đi học trường Tây, nhưng chẳng đỗ đạt
gì, cả ngày anh chỉ quanh quẩn với mấy quân cờ tướng, lúc thì nắn nót mấy bài lưu thuỷ, hành vân qua
cây đàn nguyệt. Cây đàn nghe nói cũng đắt lắm. Trên mặt gỗ thùng đàn màu ngà êm đềm như lụa bạch,
có khảm một khóm lan dịu dàng bằng thứ vỏ ốc hiếm, ngời lên những ánh vân xanh tím. Trên cần đàn,
giữa những hàng phím lõm sâu, cũng khảm những đoá hoa cúc rất xinh. Trên chót cần đàn buông thõng
hai đầu dây là hai cái ngù màu đỏ so le thật đẹp. Bàn cờ cũng là một thứ gỗ quý, quân ngà. Lúc nhàn
hạ, mà lúc nào anh chẳng nhàn hạ, anh mở kèn hát hiệu Colombia, có vẽ hình con chó ngồi bên cái loa
kèn, để nghe cô Tư Sạng ca vọng cổ, và như anh nói “để thấy được cái thần của tiếng đàn đệm bậc
thầy đi theo tiếng hát. ”Nhưng cả cờ, cả đàn ở anh đều làng nhàng, chả có gì xuất sắc. Hai bác tôi
buồn. Nên khi anh em tôi sinh ra, cũng như anh lớn của Bác Hai tôi nữa, đều được bác tôi cưu mang.
Bác tôi bảo: “Đứa nào học được cứ ra sức mà học, bác nuôi.” Ý bác tôi mong cho con cháu có khả
năng, nối được cái chí ngang dọc kinh doanh của bác.
Trong các con cháu có anh Luông, con của Bác Hai tôi và anh hai tôi. Cả hai đều được bác tôi nuôi
cho ăn học tại Hà Nội từ bé. Lúc học xong lớp Dự Bị ở trường làng, tôi cũng được cho ra Hà Nội học.
Nhà bác tôi đông người, ra vào tấp nập. Tôi như lạc vào một rừng người, bơ vơ. Tôi lột bỏ cái áo sa
đen, để mặc quần xọc, đi giầy ba-ta, hoặc dép cao su Con Hổ. Chính lúc ấy, anh Luông để ý đến tôi
nhất. Hôm vào lớp học mới, cô giáo ra bài luận tả Hà Nội vào mùa cách mạng, tôi lúng túng quá. Anh
Luông đã giảng cho tôi cách vào bài, dàn bài và kết luận. Anh bảo “Gì thì gì, việc gì cũng phải có đủ
những yếu tố như nó xẩy ra ở đâu, lúc nào, như thế nào…Như câu thơ Gà vừa gáy sáng rạng
đông… là tả lúc ngày bắt đầu ở nhà quê… Cái khéo là những điều ấy ẩn dụ trong các sự kiện...”
Tôi thu nhập được lời chỉ dạy ấy, và bài viết của tôi được cô giáo phê “khá”. Phải chăng, ngày nay
tôi có chút khả năng diễn tả sự việc đã bắt đầu từ những chỉ dẫn của anh Luông?
Cũng thời gian ấy tôi đã thấy nạn đói năm Ất Dậu. Giữa Hà Nội xa hoa có những người dân quê đói
khát lừ đừ đi như những con ma, từ các tỉnh lũ lượt kéo về và rải rác nằm chết cong queo, hôi hám ở
các góc phố. Tôi cũng thấy quân Nhật đeo kiếm lệt xệt, cỡi những con ngựa cao, to, oai nghiêm tiến
vào Hà Nội. Rồi quân Tàu kéo sang tước khí giới quân Nhật. Quân Tàu đầu tiên đi trên xe cam nhông
có cắm cờ đỏ sao trắng lũ lượt vào Hà Nội, gọi là “Hoa Quân nhập Việt.” Sau lính Tàu thì đi bộ,
chân quấn sà cạp, quảy gánh, một bên là súng, một bên là quần áo, nồi niêu. Quân Tàu đói, lê lết, trông
thật là hèn. Lúc ấy bọn trẻ con Hà Nội có câu hát, nhại theo điệu hát của bài Tiến Quân Ca: “Đoàn
quân Tàu ô đi sao mà ốm thế. Bước chân phù lang thang trên đường Việt Nam. Cờ sao trắng rách
mướp…” Tôi cũng thấy thanh niên Hà Nội nô nức đi biểu tình, đông nghẹt ở phố Tràng Tiền, tụ họp
trước Nhà Hát Lớn, thấy đoàn Giải Phóng Quân độ trên một trăm người, nghe nói từ chiến khu, tiến
vào Hà Nội. Họ mặc quần áo nâu, người đeo súng, người vác con dao. Có cả mấy cô đeo túi cứu
thương đi lẫn trong hàng. Và từ đó dân Hà Nội líu lo bài hát Nhớ Chiến Khu: “Còn đâu trên chiến
khu trong rừng chiều. Bên đèo tiếng suối reo, đoàn quân réo…” Tôi đã thấy ngày 19 tháng 5 năm
1946, quân Pháp từ Hải Phòng, xe cộ lớp lớp kéo qua cầu Long Biên, dọc theo đường Hàng Đậu,
đường Quan Thánh tiến thẳng vào đóng ở thành cổ. Tôi cũng thấy thanh niên Thủ Đô đội mũ ca-lô
vàng, mặc quần áo ka-ki Mỹ rất đẹp, đứng gác ở các đầu phố, trong đó có anh hai tôi, bạn bè của anh
tôi. Tôi đã thấy Hà Nội sửa soạn tản cư. Dân Hà Nội đục tường từ nhà nọ sang nhà kia sửa soạn cho
ngày toàn quốc kháng chiến. Tôi thấy nhiều quá và càng lúc tôi càng bị cuốn vào những biến động kinh
khiếp của chiến tranh — Các điều ấy tôi đã kể thoáng trong cuốn Quê Nhà, 40 Năm Trở Lại.
Anh Luông không cao mà có lẽ hơi thấp. Chân đi hơi vòng kiềng. Tóc hơi quăn. Anh nói rất nhanh và
có tật vừa nói vừa lấy ngón tay ấn vào một bên lỗ tai, rung rung, như anh thường bị ngứa tai lắm thì
phải. Lúc ấy, năm 1945, anh đã có gia đình, hai con, một trai một gái. Cháu trai tên Khang, nhút nhát,
có tật nói lắp. Anh làm việc tại Viện Đại Học Hà Nội. Lương bổng chắc cũng nhì nhằng. Anh đi làm
bằng xe đạp. Chị Luông, vợ anh, là một cô hàng guốc ngay ngoài cửa chợ Đồng Xuân. Chị cao, gầy,
tuy là con gái Hà Nội nhưng vẫn còn răng đen. Con gái Hà Nội lúc ấy hầu như chưa lột bỏ hẳn cái áo
tứ thân của đồng nội, ăn mặc vẫn nhiều mầu nâu hơn các mầu sắc tươi tắn khác, nhưng căn bản là trang
sức bằng đôi hoa tai vàng, và đi guốc như câu vè :
Tân thời chẳng đáng là bao
Năm xu đôi guốc, một hào đôi hoa.
Con gái Hà Nội đi guốc. Chị Luông tôi là cô hàng guốc. Phải chăng chị đã đóng góp một cách cụ thể
vào vẻ đẹp của con gái Hà thành trong giai đoạn canh tân, đổi mới. Chị ngồi trước gian hàng nhỏ, la
liệt các kiểu guốc. Đôi guốc mộc, gỗ vông, nhẹ, quai da là của đàn ông chân chỉ. Guốc gỗ sơn then,
đáy phẳng là guốc của đàn ông có ăn học, đi lại nhàn nhã. Bên cạnh đó vẫn có những đôi dép da trâu
cũ cho các bà nhà quê đi bộ, quảy gánh trên những con đường thôn giã đầy nắng gió và bụi. Nhưng
phần lớn guốc là dành cho các cô. Guốc sơn then đen bóng, quai chéo, đóng bằng những cái đinh tán
lớn là guốc cho các bà, các cô tân thời. Một vài đôi guốc gót thật cao, nhọn, người ta bảo “gái nhảy
mới đi loại guốc này.” Nhưng vui mắt nhất là những đôi guốc cho trẻ con, đủ cỡ, đủ mầu. Êm đềm
như đôi guốc quang dầu vẽ hình con cá vàng óng ả vi kỳ bay lượn trong lòng guốc. Ấy là guốc cho các
cô gái nhỏ, lên bảy, lên mười. Sặc sỡ quai đỏ, quai tím, quai vàng là guốc cho các em bé lên ba, lên
năm. Chị ngồi thoăn thoắt, vừa tiếp khách, vừa cầm búa đóng đinh, gắn quai vào guốc. Chị giơ búa
lên, chỉ một búa là cây đinh lút cán, không cong queo. Chị buông búa, lấy con dao to bản có hình như
một quả soài, thật sắc, đưa một đường, phần quai guốc thừa rơi ra ngọt sớt.
Lúc ấy tôi mới trên 10 tuổi, ra cửa hàng của chị để xem chị bán hàng thì ít mà để chị gọi quà cho ăn thì
nhiều. Thấy tôi chị cười: “Ăn bún nhá…” Không để tôi trả lời, chị ngoảnh ra phía sau, gọi bà hàng
bún: “Này, cho em tôi một tô bún riêu…” Bát bún riêu cua, loại bát loe miệng, thắt lại ở giữa, gọi là
bát chiết yêu. Những cọng bún nhỏ trắng ngần, cuốn lại với nhau như những quả nhót. Một mảnh gạch
cua mầu nâu được múc khéo léo nằm giữa bát, bên cạnh mấy miếng cà chua nấu hơi nhừ, và vài miếng
sườn non. Vài nhánh húng xanh tươi được để lên trên như một trang trí đẹp đẽ, tươi tắn đầy quyến rũ.
Bát bún bốc khói nghi ngút. Nước bún nóng, nhưng những cọng bún lạnh. Bát bún ấy ăn vào mùa đông
cũng ngon vì thấy được cái ấm nóng, ngọt ngào của nước canh. Nhưng ăn vào mùa hè cũng thật là thú
vị. Những cọng bún mát rượi. Mới và vào trong miệng, không cần nhai, những cọng bún như tự nhiên
êm ả trôi tuột qua cuống họng để lại cho người thưởng ngoạn nỗi bâng khuâng, tiêng tiếc lẫn thoả mãn
lạ lùng.
Bên cạnh hàng guốc của chị Luông tôi còn có hàng bún chả nữa. Những gắp chả kẹp bằng thanh tre, mỡ
nạc lẫn lộn, lật qua lật lại trên bếp than hồng. Những giọt mỡ rớt xuống than lèo xèo, bốc khói, toả
hương thơm lừng, bay quấn quýt làm nôn nao, mời gọi cả một góc phố lúc đông người. Gắp thịt vừa
chín tới, có những miếng già lửa cháy cạnh, nóng hôi hổi được tuốt vào cái bát nhỏ, ngập đẫm vị nước
mắm ngon lẫn chút ngọt của đường pha khéo và thoảng vị hăng chua trên đầu lưỡi của miếng chanh
tươi. Bát thịt ấy được đặt bên cạnh những cọng bún rối trắng, vài lá tía tô tím thẫm làm nền cho các
cọng rau muống chẻ xanh non, xoăn tít như nụ cười mời gọi của bà hàng bún. Tất cả được xếp vào cái
mẹt nan nhỏ, chỉ nhỉnh hơn cái đĩa to, chuyền tay đến người khách đang ngồi chờ đợi. Đôi đũa tre nằm
bên cạnh mẹt. Tất cả đã sẵn sàng. Thơm, ngon biết thế nào mà tả được. Ăn lúc nào mà chả thích. Vì
thế nhớ đến chị, tôi không thể không nhớ đến những món quà quyến rũ kia ở chợ Đồng Xuân, Hà Nội.
Năm 1946 Hà Nội tản cư. Chúng tôi có quê nên về quê lánh nạn. Tôi thích lắm. Được trở lại quê nhà
sung sướng biết bao. Những hôm trời không trăng, nhìn về Hà Nội một vùng ánh sáng hừng lên mà nhớ
đến câu hát của một thời “Hà Nội cháy khói lửa ngập trời. Hà Nội vùng đứng lên. Hà Nội vùng
đứng lên…”
Chị Luông tôi từ Hà Nội về quê, đem theo hai bồ guốc đủ loại. Tất nhiên không thiếu hộp đinh, cái búa
và con dao hình quả soài. Chị đem ra chợ Nủa bày bán. Tết đến, hàng của chị thật đông, bán chưa hết
phiên chợ Tết đã hết hàng. Vì không có ai cung cấp guốc cho chị nữa, chị phải thu dọn hàng lại với
đầy lo lắng. Năm ấy, Tết đến, dù là Tết trong kháng chiến, làng tôi như bừng lên tiếng guốc ròn rã của
chị Luông. Tôi cũng có một đôi guốc mới đi lại lóc cóc từ nhà trên xuống nhà dưới. Nhưng sau Tết,
sau những đêm liên hoan mừng bộ đội, làng tôi cũng như các làng lân cận, rộn rã lo tản cư. Những
người gốc thành thị thì lặng lẽ “dinh tê” về thành. Cuộc sống mỗi lúc mỗi thêm khắc khổ và đầy lo
lắng. Anh Luông tôi, như những thanh niên Tự Vệ Thành, thuộc Trung Đoàn Thủ Đô trong ngày bùng
lên kháng chiến, ở lại để “quyết giữ Thủ Đô ta.” Sau mấy tháng giữ Thủ Đô, anh em Tự Vệ Thành
lặng lẽ rút ra khỏi thành phố. Anh tôi về quê nhà, gặp lại vợ con. Anh ở lại ít ngày, hành trang của anh
chỉ là những kỷ niệm nguy nan, lạ lùng của thanh niên Thủ Đô hầu như không được trang bị gì, đã can
đảm trực diện chống nhau với Pháp. Những ngày đói khát, luồn từ nhà nọ qua nhà kia, lấy bàn ghế,
gạch ngói đắp thành ụ cản đường tiến quân của giặc. Anh lại từ giã vợ con theo anh em lên đường
công tác. Chị Luông tôi, một nách hai con và một mẹ già, cụ Sáu, lưng còng như muốn gập làm đôi,
sống ở giữa làng quê chồng mà bơ vơ lo lắng. Ở hoàn cảnh này, chưa biết lúc nào giặc tới, ai giúp
được ai, lấy gì mà sống. Một đêm tôi thấy chị thổi cơm thật khuya, nắm lại. Quần áo buộc gọn gàng bỏ
vào mấy cái bị cói. Sáng ra, khi tôi tỉnh dậy, nhà đã vắng. Dù không ai nói, nhưng tôi biết mẹ con chị
đã lặng lẽ dinh tê về Hà Nội.
Chị Luông đem con về thành, còn anh Luông tôi thì đi biệt tăm. Cuộc chiến mỗi lúc mỗi gần. Rồi Tây
về càn quét. Rồi du kích đêm đêm bắc loa kêu gọi mọi người đi đào đường để cho xe tăng địch không
đi lại được. Rồi những người khả nghi bị giết. Tiếng súng lẻ loi ban đêm. Những ai có máu mặt, có uy
tín một chút là sợ hãi, chưa biết khi nào du kích đến bắt đi. Một hôm anh Luông tôi về cùng với mấy
người bạn. Người có cái sáo, người có cái kèn Harmonica, người có cái đàn Mandoline. Tất cả đều là
thanh niên Hà Nội, trong đó có một chị. Chị ấy tóc cắt ngắn, mặc áo nâu nhưng thắt chẽn ở lưng. Họ
về, thầy tôi làm cơm đãi. Ao cá trước nhà, ban sáng cá nổi lên đớp bọt. Lấy cái lưới vớt lên. Con thì
rán, con thì nấu với khế chua và rau thì là, rau rút cũng từ ao vớt lên. Những cọng rau dài, cắt ngắn
luộc lên, trộn với vừng làm món nộm. Họ ăn vui lắm. Cơm xong, các người trong toán ra đình trước
để sửa soạn cho buổi nói chuyện về chủ trương Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Định Thành Công.
Anh Luông tôi nán lại, nằm đắp chăn vì lên cơn sốt. Đắp mấy cái chiếu, phủ cả tấm chăn bông lên, anh
vẫn cứ run bần bật. Thầy tôi bảo là ngã nước đây. Cơn sốt xong, anh mệt, nhưng tỉnh lại như vừa qua
một cuộc lên đồng. Thầy tôi gọi anh lên nhà trên, nói với anh điều gì đó, tôi không biết. Nhìn vẻ mặt
hai người khi đi ra hiên, tôi chắc là không vui. Thầy tôi vào gian bên, mở tủ, lấy lọ thuốc ký ninh màu
vàng, đưa cả cho anh và nói: “... Ấy là chú nói thế thôi. Anh nên suy xét cho kỹ. Thời buổi nào cũng
phải lấy nhân nghĩa làm trọng. Cứ như thế này… Thôi chú cho cả lọ thuốc này, cất đi mà dùng.
Nhớ là khi phải dùng đến nó thì nhớ đến lời chú mà về…” Anh Luông cầm ống thuốc, cất cẩn thận
vào túi áo trong, “con cám ơn chú”, rồi lấy ba lô đi ra đình. Anh đi lặng lẽ, buồn bã từ cổng trong ra
đến cổng ngoài. Trước khi rẽ ra đường cái, anh dừng lại, ngoảng lại nhìn. Tôi đưa tay vẫy theo nhè
nhẹ. Anh dừng lại một khắc, ngần ngừ rồi rảo bước bước đi. Tôi đứng đó rất lâu. Khi nhìn lại, tôi vẫn
thấy thầy tôi đứng ở trước hiên nhà, vẻ mặt lặng lẽ. Không hiểu sao trong tôi bỗng ngời lên niềm trống
vắng thế nào. Đó là hình ảnh cuối cùng tôi có với anh Luông. Sau đó nghe đâu anh vào mặt trận Hạ
Lào và không bao giờ về nữa. Không biết anh có dịp dùng đến những viên ký ninh quý hiếm mà thầy
tôi đã cho không.
Như bao nhiêu thanh niên thời đại, anh Luông đã vì yêu nước mà ra đi. Bao nhiêu người đã ra đi và
chẳng trở về. Cuộc chiến mỗi lúc mỗi lan rộng. Làng tôi sau đó phải trải bao nhiêu cay đắng, tang
thương. Tôi lớn dần lên và trở ra Hà Nội học. Chị Luông tôi lại là bà hàng guốc ở trước cửa chợ Đồng
Xuân. Mỗi lần đến thăm chị, tôi không dám ngồi ăn bún nữa mà chị cũng chẳng mời nhiều. Chị đã coi
tôi là người lớn. Khi vắng khách, chị hỏi tôi: “Từ quê em có tin gì của anh không.” Chị thở dài buồn
bã “Anh đi như thế đã trên 8 năm…” Những lúc nhớ anh, chị hay kể ngày hai người xem mặt nhau
“đến là buồn cười. Bà mối bảo chị đi lễ chùa Trấn Quốc. Chị đi cùng hai cô bạn. Lễ xong, lúc ấy
là giữa trưa, đền vắng. Hôm ấy chị mặc áo dài hồng, vấn tóc trần. Gió hồ Tây lồng lộng, khăn san
mầu đỏ của chị bay lất phất. Chị từ trong đền đi ra dưới hàng cau, nhìn thấy anh ấy đi với một
người nữa hơi cao, ăn mặc bình thường, đi vào. Còn anh thì ăn mặc rất đỏm dáng, com lê trắng,
đeo cà vạt đỏ, tóc chải óng mượt, rợn sóng, bồng bềnh. Hai người chỉ chạm mặt nhau ở cổng đền.
Chị đi ra, anh ấy thì đi vào, cổng đền chật., chỉ thoáng nhìn nhau mà ngượng nóng cả mặt. Khi về
găp lại bà mối, bà ấy hỏi thế có bằng lòng không, cái anh đeo cà vạt đỏ ấy. Chị bảo cái anh thâm
thấp đó hả. Bà mối bảo: Vẽ! Còn thấp với cao. Nhà người ta con ông tú, chú ông nghè, lại là ông
phán của trường đại học, hỏi đâu chả được vợ. Còn về phía anh, bà ấy cũng bảo, ấy cái cô cuốn
khăn san màu đỏ ý mà. Anh bảo cô ấy khí cao. Bà mối bảo: Vẽ! Con gái Hà Nội chính cống đấy, lại
có cửa hàng cửa hiệu, nhà chỉ có một mẹ một con, tân thời mà không mới hẳn, vẫn giữ nề nếp cũ,
răng đen nhưng nhức như hạt na, buông ra thiếu gì người hỏi. Chứ cái thứ gái mới đua đòi, răng
để trắng nhơn nhởn như răng chó, đi guốc cao lênh khênh, ưỡn a ưỡn ẹo, báu gì. Ngữ ấy vác về mà
thờ...” Thật là lạ. Thế là anh chị ưng nhau nên vợ nên chồng. Mỗi lần chị kể lại chuyện này, ánh mắt
chị bừng vui, nhưng chỉ một thoáng nỗi vui vụt bay đâu mất. Chị cúi xuống quầng mắt đỏ hoe. Anh vẫn
chẳng về.
Rồi cuộc chiến chấm dứt, chia đôi đất nước. Bao nhiêu người đi Nam. Chị, gia đình chị không đi. Chị
bảo: “Mọi người đi hết, chị ở lại cũng chẳng vui gì. Nhưng chị muốn chờ ngóng tin anh, cho tận
tình, tận nghĩa.” Chị ở lại và chúng tôi đi Nam. Thấy chúng tôi đi, gia đình bác tôi đi, chị bồn chồn,
nói trong nghẹn ngào: “Anh Luông, sao anh không có tin tức gì cả vậy. Anh có về không...” Chị và
hai cháu tôi ở lại. Những người đi kháng chiến lần lượt trở về. Những thanh niên Hà Nội, những Tự
Vệ Thành một thời tan đi kháng chiến khắp miền đồng ruộng, núi non xa, lần lượt trở về. Bạn bè của
anh Luông tôi cũng lần lượt trở về. Kẻ còn, người mất. Nhưng anh tôi thì càng mong càng vắng. Anh
không trở về. Nghe bạn bè nói lại, anh đã nằm xuống đâu đó mơ hồ như một huyền thoại nào xa. Cái
chết thấm đượm chút hào hùng, nhưng cũng ngập tràn ngậm ngùi, chua xót như lời thơ Quang Dũng :
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Anh Luông tôi hình như mất ở mặt trận Hạ Lào. Nỗi thất vọng của chị Luông tôi được gửi qua mấy tấm
bưu thiếp vào Nam, nhạt nhoà nước mắt, rồi thôi. Bắc Nam mỗi lúc mỗi thêm xa cách, mịt mù. Như
thế, chị Luông tôi bỗng trở thành goá phụ của một chiến sĩ văn hoá đã bỏ mình trong cuộc chiến kháng
Pháp. Khang, cháu tôi, dù chẳng muốn, đã là nghĩa tử của người chiến sĩ hy sinh ấy. Trong gian khổ và
đắng cay, thôi thì vớt vát được cái gì hay cái ấy. Thời gian ào ạt trôi qua, một cuộc chiến mới lại tràn
ngập cả hai miền đất nước. Các cháu tôi lớn lên, cháu tôi đã được những gì, phải làm những gì. Rồi
cuộc chiến lại tàn giữa mừng vui và tủi nhục. Những chia lìa, xa cách lại có cơ hội tìm gặp lại để bồi
hồi, chua xót nhìn nhau. Sau 40 năm chia lìa, tôi trở lại miền Bắc, thăm lại Hà Nội, thăm lại làng xưa,
người cũ. Tôi nhớ đến anh Luông. Tôi làm sao quên anh cho được. Qua mấy ngày bồi hồi, sôi nổi, tôi
cùng anh Cả tôi đến thăm chị Luông. Nhiều người đã nhắc: “Chú cũng nên ý tứ. Dù gì Khang cũng là
người của Đảng, có chức phận.” Người khác lại nhắc: “Nhiều lúc buồn lắm. Ngôi nhà thờ đấy,
chia năm xẻ bảy. Từ cái bát hương, đến đôi câu đối, bức hoành phi, thôi thì tranh nhau, chia chác
đến đau cả ruột, sạm cả mặt.” Biết thế, tôi vẫn đến thăm chị Luông và Khang. Dù thế nào chị ấy vẫn
là chị tôi. Khang vẫn là cháu tôi.
Gia đình chị ở ngoại ô Hà Nội, trong một khu mà sau khi rẽ từ đường lớn vào, chúng tôi đi trên những
con ngõ ngoằn ngoèo bên các ao bèo và rác bẩn. Căn nhà ngói khá tươm tất, đấy là nhà của Khang.
Nhà vắng, Khang không có nhà. Anh em tôi đi qua một mảnh sân nhỏ, vào nhà sau: “Chị Luông ở
đây.” Vén tấm màn lên, mắt tôi hoa, không nhìn rõ, nhưng tôi nghe có tiếng hỏi khô và sắc “Ai? Ai
đó?” Đúng là tiếng của chị Luông. Trong một thoáng, mắt tôi như đã quen, đã thuần với vẻ u tối của
căn nhà. Chị Luông vén tấm màn xám bụi nhìn ra. Chúng tôi khựng lại, khựng lại bao lâu tôi không
biết. Rồi tôi lên tiếng trước: “Chị Luông, em đây. Em từ Mỹ về thăm nhà, em đến thăm chị đây…”
Chị Luông vén mớ tóc dày xoã phủ đầy quanh mặt, mở to đôi mắt rồi kêu lên: “Trời! Em ơi. Em về
thật à?” Chị chống đôi tay trần, dài, lần ra mép giường, rồi tiếp tục kêu lên: “Trời ơi. Sướng quá,
phúc đức quá. Bao nhiêu năm xa cách…” Hai anh em tôi kéo cái ghế nhỏ ngồi đối diện với chị. Tôi
lấy bao thư, trao chút quà cho chị. Chị cầm lên, nhìn thoáng qua rồi bỏ xuống bên cạnh giường. Chị lại
nói: “Trời ơi! Phúc đức quá…” Rồi bỗng nhiên chị bưng mặt khóc nức nở. Nỗi xúc động của chị
bung vỡ và tuôn chảy bồi hồi. Một lúc lâu, chị buông tay xuống, vén lại mái tóc loà xoà. Chị cười, chị
nói: “Anh ơi, sao anh chẳng sống mà…về.” Chị nức nở kêu than: “Biết thế tôi đã đi Nam, đưa các
cháu đi Nam…” Rồi chị ho sặc sụa, như lộn cả ruột gan lên và ràn rụa nước mắt. Đôi bàn tay, đôi
cánh tay nhăn nheo, sần sùi khô cứng quơ quơ trước mặt tôi. Tôi lấy lại bình tĩnh, từ tốn nói: “Chị ơi!
Số kiếp cả. Em đã mấy phen tưởng chết. May mà còn sống được…” Chị ôm lồng ngực như cố trấn át
cơn ho, cơn đau. Tóc xoã che kín mặt. Một hồi lâu, chị ngồi im lại, rẽ mớ tóc rối, nhìn tôi cười. Nụ
cười lệch lạc. Chị bảo: “Thế hôm nay nghỉ à?” Tôi hơi choáng váng và băn khoăn thấy chị nói thế.
Chị lại đăm đăm nhìn tôi, cười và bảo: “Này ăn bún nhá. Bún mới ra đấy. Để chị gọi bún cho em
ăn. Bún này nhất chợ Đồng Xuân đấy.” Chị cười ha hả rồi lại ho. Mắt chị lạc thần. Chị lại lâm nhâm
nói, tôi nghe câu được, câu chăng: “Anh sắp về rồi đấy, em ạ.” Anh em tôi lui ra một chút và biết
rằng chị vừa lạc vào cơn mê sảng.
Giữa lúc ấy thì Khang về. Khang chạy vào, vừa hốt hoảng, vừa bỡ ngỡ nhìn chúng tôi và lễ phép thưa:
“Thưa hai chú tới thăm mẹ cháu. Có nghe chú thím về, cháu chưa lên chào, chú đã đến. Xin chú
thứ lỗi cho chúng cháu.” Bao nhiêu năm xa cách, đứa nhỏ rụt rè, nói lắp, con của anh Luông tôi, giờ
là một vị trung niên tóc hơi dài. Vừa lúc ấy vợ Khang cũng về đến. Chưa thấy mặt đã nghe tiếng chị
cất tiếng đon đả chào. Khang giới thiệu vợ với chúng tôi. Qua tuần trà, tôi nói: “Cháu ra nhà sau xem
mẹ cháu ra sao. Nhớ là chú có chút quà để trong bao thư trong giường mẹ cháu.” Vợ Khang tất tả
đi ngay, một thoáng đã trở lại, trên tay cầm bao thư. Chị nói: “Từ bên Mỹ về, xa xôi, tốn kém, chú lại
còn có quà cho mẹ cháu.” Tôi đảo mắt lên tường, xiêu vẹo vài cái bằng khen thưởng đỏ loè mầu cờ.
Tôi nhìn lên bàn thờ. Đôi cây nến trơ vơ. Bình hương, lưa thưa những chân hương xiêu vẹo. Hình anh
Luông tôi ở giữa. Đúng là anh. Tấm hình này lúc bé tôi có thấy: Anh mặc áo vest trắng, thắt cà vạt đen,
ngồi nghiêng người chồm ra phía ống kính, hơi cúi đầu, mắt ngước nhìn lên, như để phô rõ làn tóc rợn
mấy lớp trên đầu. Kiểu tóc của thanh nhiên Hà Nội mấy chục năm xưa. Tôi nhìn rất lâu. Lòng tôi
chùng. Tôi muốn thắp một nén hương lên bàn thờ anh, muốn nói với anh vài lời, nhưng không hiểu sao
tôi lại ngần ngại. Lúc ấy, Khang cúi xuống rót nước. Tôi nhìn thấy cả mái tóc trên đầu Khang, tuy có
rối và khô, nhưng rất giống mái tóc trên tấm hình anh Luông trên bàn thờ. Tôi lặng im, nhìn ra sân.
Mảnh sân gạch cũ. Mấy chậu cây khô ít được săn sóc. Cuối sân là mảnh tường vôi long lở. Bỗng có
tiếng con chim sâu nào kêu lên thảng thốt ở đầu hồi. Con chim vội vã lao vụt đi, mất hút vào khung trời
mênh mông ngập nắng. Hồn tôi chông chênh theo cánh chim không còn dấu tích mà bỗng như vừa tìm
thấy một thời khắc nào xa cũ lắm, lạc về. Tôi nhớ anh Luông quá.
Khang cất tiếng mời tuần trà mới. Tôi hỏi qua về gia cảnh. Khang thưa: “Dạ, nhờ bố cháu mất, chị
cháu mất trong chiến tranh nên chúng cháu cũng được đôi chút hơn người. Cháu đi làm. Vợ cháu
cũng đi làm. Từ khi có chính sách đổi mới, chúng cháu lại tranh thủ mở được cửa tiệm nhỏ nên thu
nhập cũng đỡ vất vả…” Anh cả tôi xen vào: “Cả hai anh chị đều là đảng viên nên con cháu gái
được gửi đi Nga học. Cháu học giỏi lắm, học về văn chương Nga, sắp tốt nghiệp trở về...”
Mấy hômsau vợ chồng Khang lên chỗ tôi tạm trú thăm vợ chồng tôi. Cả hai ăn mặc chỉnh tề. Chồng
mặc com lê, cà vạt. Vợ mặc áo dài. Lúc đến nhà anh Cả tôi, như đã hẹn, nhưng chúng tôi đi chơi chưa
về kịp, cả hai vợ chồng Khang ngồi đợi cả giờ. Tôi xin lỗi vì sự chậm trễ này. Khang nói cẩn trọng:
“Thưa chú thím. Chú thím từ nước ngoài về thăm tổ quốc và bà con, thật là quý lắm. Chú thím
đừng ngại gì cả, trước khác, bây giờ khác. Hơn nữa, dù thế nào cháu vẫn là con của bố cháu, là
cháu của chú thím…” Mọi người cười vui. Khang lại tiếp lời: “Giờ đất nước đã đổi khác. Nước ta
và nước Mỹ đã có bang giao. Biết đâu khi có dịp qua Mỹ công tác, cháu lại có thể đến thăm chú
thím và các em…” Mọi người lại cười và có ai cất tiếng: “Thật đấy. Biết thế nào được.” Vợ chồng
tôi chỉ cười vui đưa đẩy câu chuyện. Đã biết lời phát biểu của Khang rất có thể xẩy ra thật, mà tôi vẫn
thấy chột dạ, lo lắng thế nào. Khang cười, lời nói vấp váp, một vài âm như chùm lớp vào nhau, nhưng
có đôi chút lôi cuốn, phảng phất giọng nói của anh Luông. Tôi cười và nói: “Thôi thì gặp nhau ở đây,
như thế này đã là quý lắm. Bao nhiêu năm chiến tranh tàn khốc quá. Sống được đã là may. Nay lại
còn được gặp nhau thế này…Thôi hãy biết thế.”
Chúng tôi tiễn vợ chồng Khang ra về. Lúc Khang dắt xe xuống lề đường, cúi xuống đạp máy, rồi ngửng
lên, lấy tay gãi gãi vào mái tóc bên tai, ôi chao sao giống hệt như anh Luông hồi nào gãi tai khi tôi còn
bé. Tôi tần ngần nhìn vợ chồng Khang mất hút ở cuối phố. Tôi vẫn đứng đó nhìn theo. Hà Nội buổi
chiều. Những mái nhà đen thẫm, ngói ống già cỗi lô xô. Chân trời đỏ rực, ánh lên những đám mây như
những tảng than hồng nặng trĩu đè nặng ở trên đầu. Một làn gió thổi tới, thoảng chút hơi may lúc ngày
sắp tắt, đêm về. Tôi bàng hoàng. Tôi nhớ anh Luông quá đỗi. Anh đã hăm hở ra đi cùng bao nhiêu ước
mơ. Anh đã lặng lẽ nằm xuống ở một góc rừng nào. Trong những ngày đau ốm trên đường công tác,
chắc anh đã dùng đến những viên ký ninh mà thầy tôi cho. Trong phút lâm chung cô quạnh, anh đã nghĩ
gì, đã nhớ gì đến lời căn dặn, anh đã nghĩ gì đến vợ con. Bao nhiêu người thương quý anh, chờ anh
một đời, nhưng càng chờ càng mất.
Hồn anh bây giờ ở đâu, anh Luông !

Phần Hai : NHỮNG NGÀY LƯU LẠC



 
CÂY THÔNG

Tôi xa đất Bắc gần nửa thế kỷ. Nhớ quê hương khôn tả. Càng lâu, càng xa, nỗi nhớ càng thêm mạnh.
Do đó khi có thể về lại quê nhà, tôi đã về ngay. Giữa sự lo âu và nỗi bất an, còn đầy rung động vì
những điều nhớ lại. Nhớ vô cùng, nhớ từ những cái chẳng đáng nhớ nhớ đi. Trước khi đi mấy hôm tôi
có gọi cho nhà văn Võ Phiến. Ông ngỡ ngàng thấy tôi về Việt Nam thăm quê cũ. Ông nói rất thong thả
như vừa nói vừa nghĩ, sợ có điều gì vội vã chăng. Ông bảo:“Ờ anh về... về thật à...” Dừng lại khá lâu
ông mới tiếp:“Ờ, anh chị còn trẻ, anh chị...Tôi, chà! Chắc tôi không có cơ hội về thăm lại quê nhà
quá.” Câu chuyện đưa đẩy nói về một vài điều khác, bỗng chốc ông trở lại chuyện quê nhà: “Tụi nhỏ
mới qua được đây. Trước khi đi, chúng có về lại nơi quê nhà tôi Bình Định, thăm lại làng xóm cũ.
Chà, thay đổi hết trơn. Cái nền nhà cũ nay có một gia đình nào đó cất một túp lều tranh... Chả
nhận ra được anh à...”
Nỗi nhớ thương quê cũ của nhà văn Võ Phiến đã lưu lại một góc kín trong lòng tôi. Tôi nhớ từng lời
nói, từng đoạn ngập ngừng nơi ông. Trong cái không nói còn “nói” lên bao nhiêu điều xốn xang nhớ
tiếc. Vì thế cũng thật tình cờ, ở Hà Nội, tôi tiếp xúc được với vài người bạn, những người am tường
sinh hoạt văn học nghệ thuật trong mấy thập niên qua. Tôi hỏi:“Liệu ông Võ Phiến về thăm quê nhà
lúc này được chưa?” Người ấy cười, thật từ tốn, cúi đầu nói:“Chưa. Chưa được đâu.” Không đợi
tôi hỏi thêm, người đó tiếp: “Ở đây người ta đánh giá Võ Phiến rất nặng. Họ coi ông ta như một vài
tay lãnh đạo văn học miền Nam trước đây và cả ngay bây giờ nơi hải ngoại.” Tôi lặng đi rất lâu, vì
không ngờ một người viết văn như Võ Phiến lại được “nhìn” kỹ như thế và “nhìn” lâu như thế. Định
hỏi thêm, nhưng thôi, thế cũng là quá đủ. Suốt mấy tuần lễ lưu lại Việt Nam, tôi cứ bị mấy lời nhận
định trên đeo đuổi.
Tôi từ lâu vẫn đọc Võ Phiến. Hầu như tôi đã đọc hết các tác phẩm của ông từ trong nước cũng như tại
hải ngoại. Điều trước hết là tôi gặp ở ông một tâm hồn rất đỗi yêu mến quê nhà, nơi ông sinh ra và lớn
lên. Tôi theo vết chân chị Lê từ miền quê hương miền trung loạn lạc. Chị lấy chồng, bỏ chồng, vào
Nam... Tôi thấy ông tú Từ Lâm, một người từ thế hệ xưa cũ, đại diện cho cửa Khổng, sân Trình, coi
lời của Khổng Tử như khuôn vàng, thước ngọc. Ông tú rồi cũng lưu lạc vào Sài Gòn, rồi gặp lại chị
Lê... Chuyện của hai người xa quê gặp lại nhau, rồi là chuyện của đàn ông và đàn bà... Chuyện như thế
tưởng như rời rạc, nhưng theo tôi, là những chuyện thực, những nhân vật thực ở xung quanh tác giả Võ
Phiến. Ông đã liên tục kể lại suốt mấy chục năm như thế, gắn liền với vận mệnh nổi trôi của đất nước.
Ông đã phả vào đó, qua những dòng chữ, nỗi xót xa của chính ông về số phận quê nhà. Nay các người
ấy là những ai, như chúng ta đã tan tác, đã tan tác tại quê nhà, tan tác tại khắp nơi trên mặt địa cầu. Họ,
như Võ Phiến, đã bồi hồi xúc động mỗi khi nhớ lại những ngày tháng cũ.
Võ Phiến, qua ngòi bút, đâu có dừng lại đơn sơ như thế. Ông thấy cái sai trái, cái bất nhân, tàn bạo của
những người làm nên nỗi bất hạnh, chia lià. Ông còn thấy cả, thấy trước cái dụng ý thâm sâu, ác độc
của những người chủ trương cuộc chiến. Ý tình ấy bao phủ bao nhiêu tác phẩm của ông. Nhưng cụ thể
nhất, rõ ràng nhất là một bài viết ngắn lấy tên là Bắt Trẻ Đồng Xanh. Bài viết hình như phổ biến năm
1968, nói về các cán bộ Việt Cộng, trước đó nhiều năm đã tìm mọi cách bắt đi các trẻ nhỏ tại miền
quê miền Nam đưa ra Bắc. Các đứa trẻ ấy được tôi luyện, hướng dẫn để trở thành cán bộ trở về xâm
nhập miền Nam, tham gia cuộc chiến. Bài viết ấy của Võ Phiến in thành sách, được thi sĩ Hà Thượng
Nhân dịch ra Pháp ngữ, phổ biến rộng rãi tại hội đàm Paris, sau đó được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác,
gây chấn động trước diễn đàn quốc tế về sự hiện diện đầy gian trá của Cộng Sản Bắc Việt tại miền
Nam. Võ Phiến, bằng tất cả lòng xót xa, nhân hậu, nhưng đã làm cho Hà Nội căm tức. Ông quả là quá
xá tinh tế. Họ sợ cái tinh tế ấy của ông.
*
Sau hai tuần lưu lại Hà Nội và về thăm quê cũ Sơn Tây, tôi đã trở lại Sài Gòn để nhìn nơi mà tôi đã
có hơn 20 năm sinh sống. Tôi không đi bằng máy bay mà đi bằng xe hỏa để có thể nhìn tận mắt quê
hương dọc theo con đường số 1 từ Hà Nội vào Sài Gòn. Rời Hà Nội với bao nỗi xót xa. Anh tôi, các
em tôi, các cháu tôi đưa tiễn. Tôi cầm tay từng người trong lúc tự trấn an “cố, đừng khóc nhé.” Xe
hỏa chuyển bánh. Đây là con đường Thống Nhất, con đường chạy qua làng Hà Hồi, nơi trận đánh khởi
đầu của quân Nam tiến ra đại phá quân Thanh năm 1789. Con đường mà có lúc tôi đã vẽ trong đầu là
mình sẽ từ Nam ra Bắc bằng con đường đó. Xe hỏa cứ chạy, quê hương, đất nước hiện ra tiêu điều.
Các địa danh lần lượt trôi qua. Đây là Thanh Hóa, quê hương của vua Lê, mở đầu một thời lẫy lừng,
oanh liệt. Vinh, nơi nhận những quả bom đầu tiên của Không Lực Việt Nam Công Hòa, tưởng đã là tín
hiệu mừng vui mở đầu cho cuộc Bắc tiến. Rồi Hà Tĩnh, Đồng Hới. Hết địa danh của phía trên vỹ
tuyến 17. Bến Hải rồi Đông Hà, những trận đánh tàn bạo, khốc liệt giữa quân hai bên Nam, Bắc. Nơi
đâu là khúc đường oan nghiệt, Đại Lộ Kinh Hoàng hồi Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Huế với những mồ chôn
tập thể, ngập ngụa tang thương, tàn bạo, chất ngất đớn đau, thù hận trong dịp Tết Mậu Thân, 1968.
Tàu hoả qua đèo Hải Vân. Từ đỉnh đèo nhìn xuống, dải núi nhấp nhô ôm ấp Vịnh Hàn. Mặt nước êm
xanh, thấp thoáng những con thuyền nâu nhỏ, những cánh lưới trắng căng ra mỏng manh như màng tơ
nhện, hiện trên một mặt gương. Hòn Tiên Sa và hải đăng quen thuộc trơ vơ. Ghềnh đá sóng vỗ trắng
xoá. Ở đó trước đây là Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải. Bây giờ mấy cầu tàu thẳng tắp, trống
không, không một con tàu. Chính nơi này, bãi biển này, đúng một tháng trước khi Sài Gòn sụp đổ, ngày
30 tháng 3 năm 1975, lớp lớp sóng ngươi trùng trùng tràn tới, xô bung ra biển. Những con tàu của Hải
Quân Việt Nam Cộng Hoà, rất đông bè bạn, tôi làm hạm trưởng, ủi bãi, mở cửa đổ bộ, há miệng đón
quân, đón dân. Một biển người trên bờ cát trào ra mé nước. Người tràn kín khắp lòng tàu thật mau, bu
đặc cả các pháo tháp, các lối đi. Bỗng những quả đạn trái phá từ đâu câu tới, nổ bùng ngay trước bãi,
và quanh thân tàu. Những xác người tung lên cao, rơi xuống lả tả. Bãi biển bê bết thịt xương, nhòe
nhoẹt máu. Tiếng kêu khóc, tiếng súng nhỏ, những tràng liên thanh, tiếng lựu đạn nổ bừa bãi đó đây.
Cửa đổ bộ được lệnh kéo lên, người vẫn bám vào như sung, rơi lả tả quanh tàu. Tàu không còn chỗ
trống, đặc kịt người. Tàu lùi, lùi mạnh để cố lết ra. Những quả trái phá vẫn không ngưng, ào ạt câu tới,
nổ tung giũa một biển người. Khói, cát mờ mịt. Chân vịt quay.Hai máy lùi, lùi hết. Nước xoáy cuộn
ngược về phía trước ào ạt. Những thân người, những cánh tay, những đầu người, những mớ tóc bị cuốn
hút trong xoáy nước chan hoà máu đỏ... Người bạn cùng khoá của tôi, sau này kể lại, đứng trên đài chỉ
huy cao, vừa ra lệnh cho tàu lùi, tay nắm chặt vào thành ghế, cắn chặt môi mà nước mắt tràn ra đầy
mặt...Một làn gió như từ mặt biển êm thoáng thổi về, đưa tôi trở lại với giây phút hiện tại của người xa
nước trở về thăm lại quê hương. Con tàu hoả xuống thấp dần, men theo Vịnh Hàn. Những hàng phi lao
chắn ngang tầm mắt. Biển nhoà đi trong nắng vàng mênh mang, mệt mỏi. Ngực tôi nặng, và nước mắt ứ
lên đầy mắt. Chợ Cồn và những tiếng người rộn rã gợi nhớ một thuở nào xa.
Tàu hỏa rời Đà Nẵng xuôi Nam. Tôi ngồi thu mình trong toa tàu, nhắm mắt dằn những xúc động đang
đột ngột tràn về. Trời đã chiều. Quy Nhơn là đất đai Bình Định, quê cũ của Quang Trung đại đế, cũng
là nơi mà nhà văn Võ Phiến đã sinh ra, lớn lên và đã có bao nhiêu kỷ niệm. Ông đã đem bao nhiêu
cảnh trí, con người của quê ông vào tác phẩm. Trời chưa tắt nắng, những rừng dừa bát ngát chạy qua,
chạy qua. Tôi lấy máy ảnh chụp, nhưng chỉ ghi được vài mái nhà nhỏ, leo lét mấy ngọn đèn buồn bã.
Không biết nơi nào đích xác là quê hương của Võ Phiến. Nhưng chắc chắn cảnh trí này, con đường này
Võ Phiến từng đi qua và ông đã dùng làm bối cảnh cho bao nhiêu truyện. Đặc biệt, với con người yêu
quê hương tha thiết ấy, sau khi tung hoành mải miết bằng văn xuôi, Võ Phiến đã làm thơ. Lúc đầu Võ
Phiến không cho in thơ, chỉ gửi biếu một số bạn bè. Đọc thơ ông, ta thấy những xúc động bồi hồi từ
văn xuôi, như được tóm gọn vào thơ. Độ 40 bài thơ, viết từ năm 1943 ở quê nhà Bình Định cho đến
bài cuối, bài Hôm Qua, viết năm 1994, tất nhiên là viết tại Hoa Kỳ.
Năm 1975, khi rơi bỏ đất nước, trong nỗi bàng hoàng, ông đã viết :
Ra đi tuổi chẵn năm mươi
Năm mươi tuổi nữa nào nơi ta về
Ngàn năm mây trắng lê thê.
Bài thơ chỉ có ba câu. Câu cuối sáu chữ bỏ lửng như thế, như một sự bất toàn. Bất toàn cho cuộc sống,
cho nỗi khắc khoải nhớ về quê cũ. Võ Phiến chưa về, chưa về được. Nhưng bây giờ tôi đi qua các
rừng dừa, quê hương Bình Định của ông. Đêm đang xuống. Đồng xanh đã tím. Dừa bát ngát, âm u.
Làng mạc nào xa. Nơi nào “cách đây chừng một kiếp người”, người con trai tên Đoàn Thế Nhơn tức
Võ Phiến đã nói về mảnh “vườn xưa” với người bạn đời bằng những lời thật mềm, thật lạ và thật
khéo:
Một ngôi nhà
Hôm bắt đầu cuộc sống chúng ta
Em nhớ chứ ! cái đêm dài kỳ lạ.
Gió định đến, chợt ngập ngừng, rút lui êm ả ?
Suốt một đêm cây lá nén hơi.
Tàu chuối toan trở mình, nghĩ lại, bèn thôi
Trời gần sáng mới có mưa rón rén
Những sợi nhỏ li ti vừa rơi vừa thẹn.
Mảnh vườn xưa của ông nơi nào, tôi không biết. Qua bao dâu bể, cảnh vật đã khác xưa. Võ Phiến biết
thế, nhưng không biết nó thay đổi đến thế nào:
Trên mảnh vườn xưa, giờ tan tác mây bay
Giờ nơi đó là gò hoang? Là ruộng lúa ?
Là hang cáo? Ngách chồn? Lơ thơ cỏ úa
Giờ đêm đêm vò võ thâu canh
Trăng thẩn thơ giương con mắt lạnh tìm kiếm một
mình.
Từ cái “hôm bắt đầu cuộc sống” đến nay trải bao nhiêu mùa xuân nồng nàn, ân nghĩa, Võ Phiến nhớ
lại, với tất cả bồi hồi:
Có ai ngửa cổ cười sung sướng
Cổ trắng ngần, ôi... muốn chết luôn
Có ai hất tóc qua vai ấy
Mà đây xao xuyến cả tâm hồn...
Mê mệt nhường ấy, đắm say nhường ấy được nói lên ở cái tuổi “cổ lai hy”, phải kể là đẹp lắm. Một
cuộc tình chan chứa ân nghĩa. Cuộc sống ấy đã tạo ra bao nhiêu tác phẩm quý báu cho nền văn học
Việt Nam của Võ Phiến. Điều ấy bao nhiêu người đã biết, đã nói, đã viết. Bên cạnh các tác phẩm trên,
ông bà Võ Phiến đã sinh ra, đã nuôi nấng một đàn con bốn người. Tất cả đều đã thành đạt. Sau biến cố
1975, những người con lớn kẹt lại, với rất nhiều khó khăn, tất cả bốn người con của ông bà Võ Phiến
hiện đều đã đoàn tụ quanh ông bà ở Cali, và đều đã hoàn tất bằng cấp, nghề nghiệp tại Hoa Kỳ. Trước
sự thành công này, tôi có hỏi Võ Phiến: “Anh là công chức, lương ba cọc, ba đồng, chắc chị phải
làm gì thêm mới nuôi nổi...” Ông Võ Phiến đáp:“Chúng tôi nhà nghèo, bà xã tôi hồi còn ở Việt
Nam chỉ lo nội trợ. Các cháu học trung học ở Quy Nhơn. Khi tôi đổi về Sài Gòn, nhờ anh Doãn
Quốc Sỹ chuyển trường hộ. Thì cứ cơm rau, cốt no bụng là được, cố mà học, chứ còn cách nào tiến
thân nữa...”
Tôi muốn nói kỹ hơn về những cố gắng, những thành công này, nhưng ông Võ Phiến nói: “Việc nuôi
con là trách nhiệm của người làm cha mẹ. Nói ra có khi như là kể công... có lẽ không nên...”
Chính những điều ấy càng làm cho tôi thấy sự bình dị, khiêm cung nơi ông. Một người chồng rất mực
yêu thương vợ. Cụ thể là cái bút hiệu Võ Phiến, nghe lạ chứ, nhưng đó chính là khuê danh của bà Võ
Phiến được nói ngược lại mà thành. Cho nên bút hiệu của ông gắn liền với các tác phẩm lại chính là
tên của bà ở một thời con gái. Thật không có sự yêu thương nào bền chặt như thế, ý nghĩa như thế.
Lòng yêu mến ấy toả rộng là tình yêu người, yêu đất nước dàn trải qua hàng ngàn trang sách, thấm đẫm
vào bao nhiêu tâm hồn người đọc, miệt mài trong mấy thập niên. Nghĩ thế, tôi phải dùng chữ của chính
ông mà kêu lên: “Ồ đằng anh, quá xá.”
Ở miền Nam tự do, Võ Phiến còn được mời làm giám khảo Giải Văn Học Nghệ Thuật, giải văn
chương cao quý nhất của quốc gia, do Tổng Thống trao tặng. Ông đảm nhiệm công tác này nhiều năm,
mặc nhiên được công nhận như một vị đàn anh, vừa có tài năng về văn học, vừa có tư cách và vô tư
trong việc tuyển chọn. Điều này Võ Phiến đã rất khiêm tốn mà nói: “Những người chọn giải, tiếng
gọi phổ thông trên báo chí là người giám khảo. Cụ Vi Huyền Đắc đề nghị dùng một danh từ chính
xác là Hội Đồng Tuyển Trạch Giải Thưởng. Như thế nghe vừa khiêm tốn vừa đúng nghĩa hơn. Vì
có thi cử, có khảo thí đâu mà làm giám khảo.”
*
Một cách tổng quát, nhắc đến Võ Phiến là nhắc đến tiểu thuyết. Ông viết loại này nhiều nhất và tất
nhiên rất đạt. Mấy chục tác phẩm đã được xuất bản. Nhưng với tôi, tôi nghĩ khác. Nét đặc thù nhất của
Võ Phiến là tuỳ bút. Tuỳ bút là loại văn phóng túng, không cần viết dài, nhưng không phải dễ viết. Vậy
mà Võ Phiến đã viết tuỳ bút khá nhiều. Vào thế giới của Võ Phiến, với tôi là lạc vào vùng trời của
những điều tưởng là đơn giản, tầm thường, lại hoá ra thật kỳ thú. Qua tuỳ bút, Võ Phiến đưa ta lang
thang từ vùng này qua vùng khác. Ta vừa ở trên vùng cao nguyên, với núi cao, cây cối bạt ngàn, bỡ
ngỡ với các thổ âm xa lạ, ông lại đưa ta về một vùng “đồng không mông quạnh... Những đám khói
đốt ở chân trời trong nắng trưa, sao mà xúc động cảm hoài... những đám khói ấy ùa lên trong giấc
mơ. Và giấc mơ, không gian mênh mông lại càng vắng lặng, khói tỏa càng chậm, càng bát ngát...”
Thật chẳng có gì, thật đơn sơ, nếu không nói là nghèo nàn cô quạnh, nhưng ta thấy như khói cay đầy
mắt và thương quá quê hương, đất nước mình.
Ở một chỗ khác, Võ Phiến như cười cợt, nhưng lại rất chi tiết cho ta biết các cụ, ông cha ta ở cuối thế
kỷ trước đã ăn mặc ra sao: “Người nghèo khổ chỉ có manh áo cánh và thường thì đóng cái khố...
Người sung túc mới có vài cái áo nâu đen và vài cái quần hoặc nhuộm nâu, hoặc để trắng.” Ông
trích dẫn lời của Lệ Thần Trần Trọng Kim và nêu lên như thế. Ở một chỗ khác, ông nói về vẻ đẹp của
cái áo dài của phụ nữ Việt Nam một cách thật tinh vi và cũng thật dí dỏm: “Nhìn vào một người nữ
mặc áo dài, sau khi bị khích động vì cái phần trên, mắt lần dò xuống, thì ở phần dưới lại chỉ thấy...
gió.” Thật thế, cái duyên dáng của tà áo dài là lúc người mặc nó đi lại, tà áo lúc khép lúc mở, lúc
cuống quýt, lúc lả lơi bay, để phần thân yêu kín đáo như mời, như giữ, như vui, như thẹn và chính là
gió đã lay động tài tình, tinh quái tạo nên.
Võ Phiến viết về cái mặc mà không quên cái ăn, cái uống. Điều nào dưới bút pháp của ông cũng trở
nên duyên dáng, quyến rũ lạ lùng. Mà biết ăn là biết dùng gia vị, nên “ăn”ở Võ Phiến bắt đầu từ “ăn
mùi.” Ông đã “Theo Chân Món Ăn” từ Bắc vô Nam, ra Huế. Ông nói đến nhiều thứ lắm, nhưng không
quên cái bánh tráng nhỏ mà dân Bình Định quê hương ông ăn thay cơm. Cái bánh tráng đơn sơ ấy còn
được coi như một thứ lương khô mà đoàn quân dũng mãnh của Quang Trung đại đế đã dùng trên đường
tiến quân ra Bắc, đại phá quân Thanh mùa xuân 1789. Cứ mỗi món ăn ông tả, tôi lại phải gấp sách lại
để cười một mình. Món ăn tầm thường của người Việt mình sao mà ngon thế, và ngon hơn hết là bút
pháp của ông.
Xin hãy cùng Võ Phiến ghé quê hương ông để cùng thưởng thức một thứ chè (trà) rất lạ: “Anh Ba
Càng Cua mỗi sáng nhất định phải điểm tâm một bát thật đậm rồi mới ra đồng cày bừa được, mà
hễ đã uống nước rồi là khỏi cần ăn; ông Tư và ông Tam Khoang vẫn cầm cự nhau suốt ba mươi
năm nay: Ông này mỗi lần hai bát thì ông kia cũng giữ vững đủ hai bát mỗi lần; ở làng kia có
người uống một lượt đến ba bát Bài Thơ; thôn kia có ông lão hai bát gặp được chàng trai hai bát
rưỡi, lấy làm khoái, gả ngay con gái cưng cho...”
Gớm, thứ trà gì mà lạ lùng, quyến rũ thế. Phải mở Tuỳ Bút của Võ Phiến ra đọc lại bài Hạt Bọt Trà
mới thấy sự sảng khoái của người dân Bình Định uống trà, “uống một hơi bảy chén, đến nỗi gió dậy
dưới nách ào ào...”
Khiếp quá ! Uống trà đến lúc “gió dậy dưới nách ào ào”, tôi chưa thấy ở đâu như thế. Quê tôi, Sơn
Tây, cũng có thói uống nước chè tươi, cũng uống cả bát lớn. Uống rồi mồ hôi vã như tắm thì có, chứ
chưa thấy ai uống nước chè mà gió lên ào ào từ nách.
Thực ra Võ Phiến muốn nhắc đến câu thơ danh tiếng của Lư Đồng, bài Thất Uyển Trà: Thất uyển
khiết bất. Duy giác lưỡng dịch tập tập thanh phong sinh.
Còn bao nhiêu điều nữa Võ Phiến đã liên lỉ viết lại qua thể tuỳ bút. Nhiều lắm.
Lúc ở quê nhà, tôi có nhiều khi lênh đênh trên biển, thời gian thừa như vô hạn. Sau các phiên hải hành,
không ngủ được, lật tờ Bách Khoa ra, theo chân Võ Phiến, thật là thích. Mình không có cơ hội lân la
nơi này, nơi khác, chỉ đọc Võ Phiến, Tuỳ Bút, mà như được thấy tất cả, thật tỉ mỉ và cũng thật hữu ích.
Bây giờ xa đất nước quá, những cái tưởng như chẳng đáng nhớ ấy, đọc lại Tuỳ Bút cuả Võ Phiến, còn
thích thú hơn nhiều. Từ thói quen ghi nhận, ông đã để cho ta một kho tàng. Ông quả là người yêu người
và yêu quê hương lắm lắm.
Vậy mà đã hết đâu. Từ 1975 đến nay, chúng ta lạc loài xứ lạ, không thiếu người vì không thích ứng với
hoàn cảnh mới, đã trở nên hỗn loạn. Hỗn loạn tinh thần và hỗn loạn gia cảnh. Trong hoàn cảnh ấy, ai
giữ được gia đình êm ấm đã là quý lắm. Cũng từ hoàn cảnh này, trong cộng đồng người Việt, bỗng
bùng lên một nhu cầu bày tỏ tâm tư mà hiện tượng rừng báo nổ ra ở khắp nơi có đông đảo người Việt
cư ngụ. Võ Phiến, với một tâm hồn nhạy cảm, với khả năng xử dụng ngòi bút tinh tế như thế, mà không
làm báo. Ông lại làm công chức cho sở thuế, một việc chẳng liên hệ gì đến văn chương. Bà Võ Phiến,
vốn là người nội trợ, như ông tiết lộ, lại làm trong văn phòng luật sư đằng đẵng trên 20 năm.
Thật lạ. Nhưng sau những giờ cặm cụi vơí hồ sơ, với công việc để chu toàn cuộc sống, Võ Phiến vẫn
không quên cái nghiệp, hay trách vụ cuả nhà văn. Ông vẫn viết đều: Thư Gửi Bạn, rồi Lại Thư Gửi
Bạn. Trong các lá thư gửi bạn ấy, chất chứa những nỗi niềm của người Việt trên đất tạm dung. Những
bàng hoàng, xa lạ. Những u uất nhớ nhung. Nỗi đắng cay lồng trong sự tủi mừng được sống trong môi
trường tự do, dân chủ và no ấm cùng bao nhiêu bỡ ngỡ, khó khăn. Khó khăn từ lời ăn tiếng nói, từ cách
cư xử với người xung quanh. Riêng các thế hệ sau, lớn lên ở đất nước người, chúng như cá bơi trong
hồ nước rộng. Nhưng sẽ có lúc chúng soi gương để biết chúng, dù thế nào, cũng khác với người dân
bản xứ. Chúng sẽ tự hỏi: Ta là ai? Ông cha ta đã đến đây khi nào, ra sao? Lúc ấy, những ghi nhận
tưởng như đơn sơ trong những Lá Thư Gửi Bạn, sẽ là chìa khoá cho con cháu ta tìm về với cội nguồn,
nếu chúng còn có chút quan hoài, băn khoăn tìm hiểu. Những lá thư đơn sơ ấy sẽ quý báu biết bao
nhiêu.
Viết lách như thế dù thế nào cũng chỉ tuỳ thuộc vào cái nhìn, cái thấy rất đỗi chủ quan của tác giả, có
thể đúng, có thể sai, có thể thiếu sót. Mặc! “Ấy, tôi thấy thế nào thì viết thế ấy.” Rồi đùng một cái,
Võ Phiến cho nhà Văn Nghệ in cuốn Tổng Quan 20 Năm Văn Học Miền Nam.
Điều này phải nói là rất đỗi ngạc nhiên.
Thời gian đâu, tài liệu nào khiến ông làm được công việc ấy? Đây đâu phải chuyện chơi. Phải nói có
sách, mách có chứng. Vậy mà nó đã thành. Cuốn sách ấy được một người bạn văn kiêm hoạ sĩ, Võ
Đình dịch ra Anh ngữ. Nhờ đó, cuốn sách như có cánh bay xa, nhiều thư viện Mỹ, Úc, Pháp mua, lưu
trữ và nghiên cứu.
Và tất nhiên nó cũng theo chân người Việt về đến quê nhà, gây nên những xốn sang, tìm hiểu của rất
nhiều người. Riêng đại học Úc đã dùng cuốn sách này làm tài liệu giảng huấn về văn học miền Nam.
Nhân buổi họp mặt cuối năm tại nhà thi sĩ Trúc Chi, hôm 29 tháng 1 năm 1995, tôi có nêu thắc mắc
này, ông nói: “Tiếng nói của cả miền Nam thể hiện qua hơn 20 năm văn học phải được giữ lại chứ.
Lúc này họ (Cộng Sản Hà Nội) cả vú lấp miệng em. Nhưng tài liệu mình cụ thể, mình chịu khó sưu
tầm, lưu giữ, sau này sự thực sẽ có ngày sáng tỏ.” Tôi vẫn băn khoăn, hỏi: “Anh làm việc này khi
nào?” Ông tiếp:“Tôi có biết uống rượu đâu, già rồi, đi lại cũng ngại, nên chỉ còn cái thú đọc sách,
nhờ đó tôi cũng đọc được nhiều…”
Ôi, công tác to lớn như thế, cụ thể như thế, ông đã lặng lẽ làm một mình. Thật là kiên trì, nhưng cũng
đầy can đảm. Can đảm vì ông đã không ngần ngại đưa ra các nhận định rất đanh thép đối với một số
tác giả, tác phẩm. Những người ấy là người từng sinh hoạt với ông, quanh ông, là bè bạn thân quen từ
nhiều năm trước cũng như sau này ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Năm 1986, cuốn Tổng Quan
trong bộ Văn Học Miền Nam ra đời.
Sau khi tác phẩm này phát hành, Võ Phiến liên tiếp mấy lần vào nhà thương giải phẫu tim. Phải chăng
qua nhiều lần kề cận với nguy nan, giáp mặt với tử thần, khiến ông có những tư tưởng xa lià cuộc sống:
Ta nằm trong đất cười ra
Tan hoang nhân thế những ta cùng người
Ta nằm lòng đất ta cười.
Ghê quá. Lời thơ ông như vẳng lên từ phần mộ. Nhưng nghĩ cho cùng, chính những câu thơ buồn bã
này, ở một góc cạnh khác lại là cách yêu đời quá đỗi. Vì yêu đời nên lo cho đời quá. Không phải lo
riêng cho thân phận người Việt mình, có lúc ông lo cho cả loài người, cho cả nhân loại ở thế kỷ 21 tới
đây và hàng ngàn năm sau đó.
Ông đã thổ lộ:
Chính phen này, chính thiên niên kỷ tới đây
Sẽ quyết định sự mất còn của loài người và quả đất
Ôi quả đất cứ mỗi ngày mỗi chật
Mỗi xác xơ, bẩn thỉu, mỗi bơ phờ
………………
Nghìn năm nữa, người bao nhiêu trăm tỷ
Muôn vật không còn, năm châu bốn bể
Quờ tay ra người toàn chạm phải người
Biết lấy gì ăn, biết lấy gì nuôi
Lo như thế có quá đáng lắm không. Có lẽ ông đã lo xa quá. Nhưng dù thế nào đó cũng chỉ là những dự
phóng để lo âu.
Suốt mấy chục bài thơ hoàn tất ở cái tuổi tưởng chẳng ai có quyền đòi hỏi ở ông gì nữa, nhưng ta vẫn
gặp được nhiều bài thật hay, thật tha thiết, chan chứa những mặn nồng, những lo toan cho người bạn
đời, khi nghĩ về nỗi cô quạnh của nhau. Ông viết thật ngậm ngùi :
Ta nằm thừa thãi giữa đời
Nghĩ em thừa thãi đứng ngồi nơi nao.
Đến đây ta thấy tấm lòng của nhà văn Võ Phiến mở ra thật đôn hậu, với người thân, kẻ sơ và với cả
mọi người. Việc đời với ông có thể coi như một làn gió thoảng. Do đó tôi đã kết thúc bài viết với
những lời sau:
Thưa anh Võ Phiến,
Xin anh hãy thảnh thơi an hưởng tuổi già. Sự hiện diện của anh trong cuộc sống là tấm gương
trong sáng. Được nhìn anh đi lại, nói cười, được nắm bàn tay ấm áp của anh, với tôi, và tôi nghĩ,
nhiều bằng hữu và độc giả bốn phương, đều rất lấy làm vui sướng. Anh như một cây thông mọc
trên đỉnh núi, gió thổi trùng trùng, nhưng thân cây vẫn thẳng, cành lá lúc nào cũng rất xanh tươi,
tỏa bóng mát rộng lớn cả một vùng.
Tôi xin dừng bài viết ở đây với tấm lòng quý trọng.

                                                                           *
Tôi đã ghi ngày hoàn tất bài viết này: 24 tháng 4 năm 1995. Nhưng không! Trong lặng lẽ của tuổi già,
Võ Phiến vẫn không ngưng nghỉ, ông vẫn làm việc miệt mài. Cuốn Tổng Quan Văn Học Miền Nam
mới chỉ là cái sườn, những điều tổng quát mà thôi. Như chạy thi với ngày tàn của thế kỷ, một thế kỷ
chất chứa tang thương, cuối năm 1999, ông cho nhà xuất bản Văn Nghệ phát hành bộ sách khổng lồ
3232 trang:Văn Học Miền Nam. Riêng về Truyện có 3 tập, đề cập đến 50 tác giả. Ký, 22 tác giả. Các
cuốn khác gồm Kịch, Tuỳ Bút và Thơ đề cập đến 58 tác giả. Trong tổng số 3232 trang có 1667 trang
do Võ Phiến viết và 1561 trang trích của 118 tác giả. Tất cả những điều ấy, phải công bằng mà nói,
Võ Phiến đã vì danh dự của miền Nam mà thực hiện. Công trình đó là một đóng góp lớn lao, vô giá mà
theo tôi, chúng ta có quyền hãnh diện và mang ơn tác giả.
Nói như thế không phải đây là một công trình toàn bích. Vì làm gì có sự toàn bích trong địa hạt nhân
văn, vì chính những định luật của nhân văn đã không tất yếu. Do đó công trình của Võ Phiến không sao
tránh khỏi thiếu sót, càng không thế làm vừa lòng tất cả mọi người. Nhưng ít nhất, trong hoàn cảnh tan
hoang, chia lìa, thất thế của miền Nam, công trình của Võ Phiến đã là một thông điệp cụ thể phản ảnh
nếp sống đẹp đẽ, sung túc và chứa chan nhân phẩm của miền Nam, vượt xa xã hội của kẻ thắng trận là
miền Bắc. Công trình ấy đã để lại cho hậu thế, cho những ai muốn tìm hiểu về 20 năm sinh hoạt rất
phong phú của miền Nam.
Sự mong đợi của Võ Phiến, cũng là sự mong đợi của những ai hằng có chút quan hoài như ông, may
thay đã không phải đặt vào một khoảng thời gian xa tắp ở tương lai. Nó đã xẩy ra một cách đột ngột và
cũng thật đẹp đẽ. Một số sách của Võ Phiến đã được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tiệp và do
những nhà xuất bản lớn phát hành. Nhưng đó mới chỉ là những thử nghiệm, một thứ “quà mới lạ”
trước thị hiếu của Tây Phương.
Những biếncố sau, theo tôi, mới là đánh giá trân trọng về những công trình trước tác của Võ Phiến: đó
là những luận án trình tại các đại học Paris, Pháp quốc. Cho đến nay, theo chỗ chúng tôi biết, có hai
luận án cao học (mémoire de maitrise), một của bà Anne-Marie Aniel, năm 1986, tại Đại Học Paris
III; một của bà Phan Thị Minh Lê, năm 1990, cũng tại Đại Học Paris III, và một luận án tiến sĩ của bà
Trương Thị Liễu, trình ngày 9-10-2001 tại Đại Học Sorbonne, Paris III. Luận án này viết về đề tài
“Võ Phiến, culture nationale, lectures occidentals”, dày ngót 600 trang, được Hội Đồng Giám Khảo
đồng thanh cấp danh vị Tiến Sĩ Tối Ưu với lời khen “Mention très honorable avec Félicitations du
Jury.”Luận án này sẽ được xuất bản trong loại sách Tương Lai Của Quá Khứ – Avenir Du Passé của
nhà xuất bản Harmattan, Paris.
Từ trước tới nay, nếu tôi không lầm, chúng ta mới chỉ nghe thấp thoáng có vài học giả tại các đại học
Tây phương, tìm hiểu và viết luận án về một vài danh nhân trong lịch sử Việt Nam, những người đã
được thời gian gạn lọc, danh vị đã được xác định chắc chắn và vượt ngoài những ảnh hưởng chính trị.
Ở trường hợp Võ Phiến thì khác. Khác hẳn. Phải chăng, đây là trường hợp đầu tiên, một tác giả Việt
Nam còn sống mà công trình trước tác đã được biết đến và vinh danh như thế.
Với tôi, vinh dự này không chỉ dành cho người làm luận án, càng không phải chỉ là cho nhà văn Võ
Phiến mà đó là một vinh hạnh cho nền văn học miền Nam, cũng như cho cả Việt Nam.
Nhưng dù thế nào, thành quả ấy do hàng ngàn trang sách của Võ Phiến, phản ảnh cảnh huống sinh hoạt
của miền Nam mà có, trong đó tất nhiên đậm nét nhất phải là hình ảnh quê hương Bình Định thân
thương của Võ Phiến. Một nét son trong sinh hoạt văn học thế giới có lóng lánh hình ảnh đất nước
chúng ta, trong đó không thiếu những nét bi hùng của quân dân miền Nam chống lại cuộc xâm lăng quỷ
quyệt, đầy man trá đến từ phương Bắc. Trong ngắn hạn, miền Nam đã thua. Nhưng trong đường dài của
tình tự dân tộc, của nhân phẩm, người miền Nam nhân hậu bắt đầu được vinh danh, mà phải chăng, Võ
Phiến chỉ là điểm khởi đầu? Một cánh cửa đẹp đẽ đã rộng mở, mời đón những thế hệ tương lai. Tương
Lai khởi đi từ Quá Khứ – Avenir du Passé.
Thưa anh Võ Phiến,
Anh có thể hoàn toàn yên tâm được rồi.
Được hỏi về niềm vui này, ông Võ Phiến đã cười đùa mà nói: “…những luận án ấy là công trình của
người soạn thảo, nghiên cứu đề tài, chứ đâu phải công trình thành tích của tôi. Ví dụ giáo Sư
Phạm hoàng Hộ ra sách nghiên cứu về cây rau muống, thì đó là công trình của giáo sư Phạm chứ
đâu phải của cây rau muống. Rau muống khoe khoang e lộn chăng.”
Một lời nói bông đùa, ý nhị, tự tại, đầy khiêm cung và cũng thật vô cầu.
Với tôi, Võ Phiến đúng là cây thông già mọc trên đỉnh núi, bốn mùa cây lá lúc nào cũng rất xanh tươi.
( Viết thêm và sửa chữa xong ngày 1 tháng 9 năm 2002)





No comments: