Friday, October 23, 2015

PHAN LẠC TIẾP * MỘT THỜI OAN TRÁI III




MỘT THOÁNG ĐI QUA KHU RỪNG NHẤT LINH
Trong thế kỷ 20 vừa qua, Nhất Linh là một nhân vật lớn trong dòng sinh mệnh của dân tộc chúng ta. Làhọc trò, người đọc sách, người quan tâm đến vận mệnh đất nước, không ai không biết đến ông trong sinh hoạt văn học, xã hội cũng như chính trị. Ông là con đường mở ra trước mặt cho nhiều thế hệ đi tới. Tên tuổi ông là một nhà văn lừng lẫy trong chương trình giảng huấn trung cũng như đại học. Ông là một nhà báo sắc bén, là hoạ sĩ, và ông cũng là một nhà chính trị gắn liền với những giai đoạn cam go của đất nước trong một thời gian dài. Vì thế ông không chỉ là một đại thụ, mà ông chính là một khu rừng với nhiều cảnh trí khác nhau. Khu rừng ấy có những chỗ núi đẹp, cây xinh thanh nhã, nắng gió êm đềm; nhưng cũng không thiếu những góc thâm u đầy gai góc hiểm nguy, ngập tràn bí hiểm. Bởi vậy muốn tìm hiểu về ông, có nhiều lối vào, có nhiều cách để tiếp cận, để học hỏi và ghi lại. Cuốn Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ, Người Chiến Sĩ do nguyệt san Thế Kỷ 21 ấn hành là một trong số công trình khám phá cần thiết và hiếm quý. Cũng vì thế được anh em Thế Kỷ 21 yêu cầu đọc và giới thiệu cuốn sách này, với tôi là một vinh dự, đồng thời còn là một công tác nặng nề, tế nhị. Bởi vậy, với đầy lòng kính ngưỡng, tôi chỉ xin trình bày vài nét đặc thù ghi nhận được qua cuốn sách.

Trước hết đây là một cuốn sách hiếm và đa diện. Hiếm và đa diện bởi đây không phải là công trình
trước tác của một người mà là sự đóng góp gần 20 tác giả thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau, ở nhiều hoàn
cảnh khác nhau đã có những kỷ niệm, những góc nhìn khác nhau trải rộng về thời gian cũng như về địa
lý, viết về Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.
Cuốn sách khá dày, 328 trang. Có người đồng thời với Nhất Linh như Tú Mỡ, Trương Bảo Sơn,
Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Bách. Có người ở thế hệ chuyển tiếp như Võ Phiến, Linh Bảo, Trần
Thanh Hiệp. Có người ở thế hệ sau nữa như Bùi Bích Hà, Thụy Khuê, Phạm Phú Minh, Lưu Văn Vịnh.
Đặc biệt và quan trọng hơn hết là các bài viết của thân nhân, con cháu tác giả như Nguyễn Tường
Triệu, Nguyễn Tường Thiết, Kim Anh, những đóng góp tôi cho là vô giá. Qua những đóng góp hiếm
quý này không chỉ là những góc nhìn, những kỷ niệm thân quý của gia đình được phô bày mà còn có
những tư liệu rất riêng tư như tấm căn cước của ông Nguyễn Tường Tam, những bức vẽ chưa xong,
những trang bản thảo, những bức ảnh gia đình, lá thư viết tay gửi ông Hồ chí Minh, xin từ nhiệm chức
vụ Bộ Trưởng Ngoại Giao…
Không biết độc giả sẽ nghĩ gì khi thấy những tư liệu này, với tôi, chỉ riêng nhìn những màu giấy cũ,
những vết mực hoen, những nếp gấp, tôi như đang đứng trước một tủ thờ, mở cái hòm sắc phủ đầy bụi
bậm, nhưng giữa các tờ giấy ố vàng ấy tôi như còn thấy vương vấn đâu đây bóng dáng và hơi thở của
người xưa.
Và lần theo những tư liệu ấy, tôi bỗng như vừa tìm thấy một nỗi thân quen. Gia đình ông Nguyễn ở số
nhà 39 khu chợ An Đông, Chợ Lớn, xế bên tiệm Cơm Gà Siu Siu nổi tiếng một thời. Nhà anh chị tôi
cũng ở khu này, số nhà 22 mà hầu như tôi lui tới hàng ngày. Hai nhà chỉ cách nhau một khoảng sân
chung dài trên 100 thước. Chợ An Đông xây ở giữa, đường đi xung quanh, bao vòng ngoài là những
căn phố 2 từng, giống hệt nhau, rộng 4 thước và độ 12 thước chiều sâu kể cả cầu thang và nhà bếp.
Từng dưới là nơi mở cửa hàng, từng trên để ở. Anh chị tôi lấy nhau năm 1956, khi có cháu đầu đã thấy
lúng túng, vì không có chỗ cho cháu bé đùa chơi nên đến năm 1961 có thêm mấy cháu nữa, anh chị tôi
đã dọn tới đường Bùi Hữu Nghĩa.
Những năm cuối thập niên 1950 ấy, là những người Bắc chân ướt chân ráo mới vào Nam, nỗi nhớ
thương quê cũ còn rất bồi hồi. Những chiều muộn ba mươi tết, khi chợ An Đông đã vãn, lòng đường
đã có người quét, anh em tôi sau khi thắp nén hương lên bàn thờ gia tiên, từ hàng hiên nhỏ trên căn gác
nhìn xuống mặt đường, đâu đây đã thấy những trẻ em mặc áo mới đi lại. Từ góc cái sân chung ấy, nơi
cửa tiệm bán cau khô, có nhiều xe gắn máy để trước cửa nhà, hầu như năm nào cũng có những bánh
pháo tuy không dài, nhưng đốt sớm. Tiếng pháo nổ lẹt đẹt. Khói pháo thơm nồng bay toả. Tết đã về.
Chính những tiếng pháo ấy đã khiến nỗi nhớ quê đang chất chứa trong lòng anh em tôi bùng vỡ, nghẹn
ngào. Và bây giờ khi đọc cuốn sách trên, tôi biết và tin chắc tiếng pháo nổ sớm đón xuân ấy, làn khói
pháo thơm nồng ấy phát xuất từ nhà ông Nguyễn, chắc chắn cũng đã dội vào tâm hồn nhà văn Nhất Linh
bao nhiêu xốn xang, nhớ về những mùa xuân đất Bắc mà cả ông cũng như chúng tôi luôn tha thiết
hướng về. Được ở cạnh một người hàng xóm kỳ diệu, lẫy lừng ấy trong mấy năm trời mà chúng tôi
đâu có hay.
Trước Tết Ất Dậu 2005, bài viết này được chuyển tới anh Nguyễn Tường Thiết, con trai nhà văn hoá
Nhất Linh. Anh Thiết đã nói “Bài anh viết làm tôi nhớ những ngày ở An Đông quá. Đúng. Chiều ba
mươi Tết là thời gian độc nhất trong năm chợ An Đông bỗng trở nên vắng lặng. Vào lúc ấy, chính
tôi là người đốt bánh pháo sớm để đón xuân. Nhà tôi và nhà ông bà Tàu chủ tiệm cơm ga Siu Siu
chung vách. Nhà ông ta câu điện của nhà tôi, nên nhiều khi chúng tôi ăn cơm gà Siu Siu trừ vào
tiền điện.”
*
Chúng tôi đã không ngờ, không biết nơi bánh pháo nổ sớm ấy là nhà của nhà văn Nhất Linh. Từ căn
nhà này anh Nguyễn Tường Thiết nhớ lại và đã viết:“Căn dưới chật ních những bồ cau khô, trên gác
là nơi cư ngụ của cả gia đình gồm ông bà Nguyễn Tường Tam, nguyên bộ trưởng Ngoại Giao, và 7
người con.” Ở đó, anh Thiết viết: “Khi anh Thạch tôi nhập ngũ khoá 23 Thủ Đức, sau ngày ra
trường, anh tôi mặc đồ trận từ biệt ông cụ tôi ở chợ An Đông để lên đường trình diện Sư Đoàn 23
tác chiến trên Ban Mê Thuột, lúc anh tôi bước xuống cầu thang, anh bắt gặp ông trốn vào cầu tiêu
đang ôm mặt khóc.” (trang 253). Tôi khựng lại, ngưng không dám đọc tiếp. Sao lại thế nhỉ. Những
giọt nước mắt ấy mang ý nghĩa gì. Tình cha con trước những bất trắc của chiến trận, hay là nỗi lo toan cho cả một thời oan trái Bắc - Nam?


Ở một đoạn khác, nhà văn Võ Phiến dẫn lời anh Nguyễn Tường Thiết: “…Có những đêm chúng tôi
lồm cồm bò dậy vì có tiếng khóc trong phòng cha tôi… Sau này tôi biết ông đã khóc âm thầm nhiều
đêm vào những dịp khác.”(trang 56). Và ở cuối trang, Võ Phiến nhắc lại lời ông Vũ khắc
Khoan:“Ông Vũ nói mình biết có những người hoặc bị tù hoặc đã hy sinh tính mạng vì sự tin tưởng
vào ông (Nguyễn) đấy. Không nghe đáp lại. Lát sau ông Vũ quay nhìn, thấy ông Nguyễn đang khóc
lặng lẽ.”
Ồ như thế chăng? Là một người nghệ sĩ dạt dào tình cảm, dấn thân vào con đường tranh đấu, qua bao
giai đoạn, đối đầu với bao gian nan, khuất lấp ngoài sự tiên đoán của mình, từ đó là những thất bại,
chia lìa, kẻ còn người mất. Tất cả đã ám ảnh, dày vò Nhất Linh, đã là nguyên nhân của những đêm âm thầm nức nở? Phải chăng người nghệ sĩ nơi ông đã mãnh liệt hơn, lấn lướt tràn phủ người cách mạng, vượt qua người chiến sĩ ?
Vẫn những tư liệu quý giá ấy đưa tôi trở về Hà Nội trên 50 năm cũ. Này là con đường đầy lá bàng
chao chát rơi, con đường Quan Thánh, số nhà 80, nơi đặt toà báo Ngày Nay, nơi phát giải thưởng cho
nữ sĩ Anh Thơ, nơi ấp ủ và phát xuất các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn. Bức ảnh chụp cây bàng thật khéo (trang 200), khiến tôi nhớ lại những đoạn văn của tác giả từ một thủa nào xa, Nhặt Lá Bàng

. Tôi như còn nghe thấy như từ cuối phố Hàng Giấy đổ về, tiếng chuông xe điện cuối ngày leng keng, kéo theo những toa vàng ánh đèn, trống trải lượn vòng theo bồn đá xây chứa nước khổng lồ ở ngã 5 Hàng Đậu.
Còn bao nhiêu nữa, giữa những hàng chữ ấy được minh hoạ bằng những tư liệu ấy, gợi lên trong lòng
người đọc cả thời vàng son của những con người đầy lý tưởng, với những Loan, những Dũng đi trong
mưa gió, hay họ đã gặp nhau trong những Buổi Chiều Vàng …
Tất cả những dữ kiện đẹp quá, quý quá, càng đọc, càng thấy, càng mở ra những cảnh trí cũ mà nhà văn Nhất Linh đã dàn trải, thấm đẫm vào nếp suy tư mấy thế hệ thanh niên, qua hàng ngàn trang sách. Cho nên với tôi, đọc cuốn sách viết về ông như một cuộc trở về, như khơi vẽ lại một cố hương thơ mộng ở trong tim. Nhất Linh quả là người nghệ sĩ lớn lao. Mà càng vui thay, các con ông, những hậu duệ của ông cũng là những nghệ sĩ. Chính họ là người biết trân quý di sản của cha ông. Họ đã làm đẹp cho quá khứ và làm đẹp cho chính họ.

*
Nhìn lại những sự việc liên quan đến chính trị của ông Nguyễn, đầu tiên phải kể đến việc làm báo, ra
sách để đả phá, “đoạn tuyệt” những nếp sống hủ lậu, xưa cũ, và thổi vào đó tinh thần tự chủ, canh tân
cho xã hội Việt Nam. Ông đã tuyển chọn được một bộ biên tập sắc bén và hùng mạnh, gồm Tứ Ly (tức Nguyễn Tường Long), Trần Khánh Giư, Tú Mỡ, Thạch Lam lúc khởi đầu, sau này với sự cộng tác của Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Thông và cả Phan Khôi, Tản Đà, khiến tờ báo Phong Hoá đang buồn tẻ bỗng bùng lên tươi vui như những Tiếng Cười.


Điều ấy chứng tỏ ông Nguyễn quả là người tinh anh, có mắt dùng người, có tài tổ chức. Ngoài ra ông
còn là người có kiến văn rộng rãi và ước đoán sâu xa khi ông trả lời ông Tú Mỡ “Sao anh không vào
Việt Minh?”, ông đã trả lời: “Việt Minh là cộng sản. Họ chủ trương giành chính quyền bằng súng,
sẽ gây ra chiến tranh chết chóc và tàn phá. Vả lại Mỹ sẽ chống Cộng, Mỹ vừa giàu vừa mạnh. Ta
đi với một đảng thân Mỹ rất có lợi, ta sẽ đấu tranh bằng chính trị, không phải bằng đổ máu, ít ra
cũng giành được quyền tự trị. Mỹ nó chẳng cần cướp nước như Tây. Ta đi với Mỹ để cho nó buôn
bán với ta, đem tiền của mở mang kỹ nghệ, nó có lợi mà mình cũng có lợi…” (trang 118). Một cái
nhìn đúng lúc ấy và còn đúng đến tận bây giờ, trên nửa thế kỷ. Với tấm lòng ấy, trí lực ấy, ông xứng
đáng được coi là người quốc sĩ.
Từ tư thế sáng ngời và dũng mãnh ấy, lẽ ra sau đó phải là những thành tựu đẹp đẽ do ông, do đảng của ông đem lại cho dân tộc, nhưng không. Như ta đã thấy trên thực tế cũng như được kể lại trong cuốn sách này, nhà cách mạng, người chiến sĩ Nguyễn Tường Tam chỉ bắt gặp những buồn phiền, cay đắng.

Thứ nhất, nói về thời ông làm bộ trưởng Ngoại Giao, trong bài của Thụy Khuê, nơi trang 57 như sau:
“Có một lần hiếm hoi ông đã tiết lộ với chúng tôi là thời gian khổ sở nhất trong đời là lúc ông
đảm nhận chức bộ trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp… Sau đó cái khổ sở nhất lại đến
với ông lúc ông đứng ngoài chính quyền, không còn giữ chức vụ gì cả.”


Và đây, trong cuốn sách này, đặc biệt ở phút cuối của đời ông, khi nhìn phóng ảnh tờ Trát Đòi thì tôi
bỗng bàng hoàng, sửng sốt. Tờ Trát Đòi viết “Báo thị cho tên Nguyễn Tường Tam, 58 tuổi, con
Nguyễn Tường Nhu (chết) và Lê Thị Xâm (chết) ngụ tại số 39 đường Chợ An Đông Chợ Lớn để ra
hầu toà...” (trang 16). Chỉ đọc một hàng chữ đó, lòng tôi bỗng rợn lên sự bất nhẫn, pha lẫn ngậm ngùi, hổ thẹn. Từ một nhà văn hoá lẫy lừng, một nhà cách mạng gắn liền với lịch sử, dù toà chưa xử, chưa có án, bỗng được gọi xách mé, hỗn xược như gọi một tên vô loại. Cả song thân của ông dù đã mất, không liên hệ gì với việc ông làm, cũng được gọi bằng tên này, tên kia như thế. Phải chăng những giọng điệu cực kỳ vô sỉ này đã tô đậm thêm nỗi cay đắng đưa đến cái chết của ông Nguyễn.

Ông đã uống thuốc độc để kết liễu đời mình vì, như ông viết trong mấy hàng chữ để trong túi áo:“Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả.” Ông dùng cái chết để phủ nhận quyền lực thể hiện một cách bất nhã trong tờ Trát Đòi nói trên. Một kết thúc tuy chất ngất hào khí nhưng không kém phần bi phẫn,Nđớn đau.


Cái chết của ông Nguyễn cho đến nay đã trên 40 năm. 40 năm với bao nhiêu tang thương dâu bể, đặc
biệt là khoảng trống lãnh đạo hầu như không có ai đủ tư cách để thay thế. Miền Nam Việt Nam trong
một thời gian dài từ cái chết ấy, chìm ngợp trong hỗn loạn, chiến tranh khốc liệt và cuối cùng đưa đến
ngày đau đớn 30-4-1975. Nếu ông Nguyễn không tự vẫn, không chết, có thể đất nước đã có các đổi
thay khác, có các giải pháp khác khôn ngoan hơn, danh dự hơn cho miền Nam, cho cả Việt Nam. Cái
chết ấy của ông Nguyễn quả là một quyết định can đảm, đầy khí tiết, đã bảo toàn danh tiếng cho cá
nhân ông, đồng thời còn là giọt nước cuối cùng làm tràn ly, đưa đến sự sụp đổ của Đệ Nhất Cộng Hoà.
Nhưng với chiều dài của dân tộc, với trách nhiệm của kẻ quốc sĩ, khi quốc gia nghiêng ngửa, cái chết
ấy phải chăng là một phí phạm, và quá vội vàng.
Là một người tinh anh, sắc bén và có viễn kiến như ông Nguyễn, hơn ai hết ông không thể không nhìn ra điều ấy. Từ đó chúng ta có quyền nghĩ nguyên nhân đưa đến quyết định bi thảm này còn có những ẩn số, vì lý do nào đó, chứa được phô bày.
Bí ẩn ấy, trong bài viết của bà Thụy Khuê in trong sách này, cho thấy nhà văn Nhất Linh đã nói đến cái chết, đến tự tử thấp thoáng đâu đó trong những tác phẩm của ông suốt cả những năm dài sáng tác, đặc biệt trong cuốn Bướm Trắng viết từ năm 38-39. Nỗi chết, như một ma lực lạ kỳ, miên man thôi thúc, như một nỗi oan khiên chỉ chờ khi thuận tiện để thi hành, như chính Nhất Linh đã viết “…hèn nhát thì không bao giờ tự tử được, mà can đảm như trời cũng không tự tử được. Tự tử được hay không là ở cảnh chứ không ở người.”(trang 33) Cái (hoàn) cảnh mong đợi ấy phải chăng đã ào ạt đến trong tờ trát đòi kia như một lời mời gọi quyến rũ lạ kỳ, và chính lúc ấy Nhất Linh đã vui vẻ hoá thân, giã từ cuộc sống.
Đó là một góc rừng khuất lấp, ẩn mật sâu kín trong cánh rừng tâm lý Nhất Linh, không dễ gì giải thích.
Dù thế nào thì đó cũng là một kẽ hở vô cùng bất hạnh trong trang sử cận đại của dân tộc chúng ta.
Trong tinh thần vun bồi văn hoá, khơi lại những trang sử đẹp của người xưa, nhất là đưa ra những khúc mắc cần được làm sáng tỏ, chúng tôi xin ca ngợi công trình biên soạn quý báu của nguyệt san Thế KỷM 21, Gia đình nhật báo Người Việt, và xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ,
Người Chiến Sĩ trước độc gia xa gần.
Đây là một cuốn sách hiếm quý.
(Ngày 3 tháng 10 năm 2004)



MỘT LÀN GIÓ TINH KHÔI


Cuộc di tản bi thương ngày nào, đối với đại đa số chúng ta, những người trong cuộc, không thiếu
người vẫn coi như mới. Đêm ngủ vẫn kéo theo những hình ảnh hãi hùng, kinh khiếp, tiếp nối bằng kỷ
niệm của những ngày bỡ ngỡ trên đất tạm dung. Trong những ngày vừa hoang mang lẫn mừng rỡ vừa
tràn đầy lo âu, buồn bã này, câu hỏi của đa số người di tản chúng ta trước khi rời trại tỵ nạn, rời xa
đồng bào, bè bạn thân quen là làm sao liên lạc, tìm lại được nhau đây. Sống làm sao đây trong cái “bể
mênh mông” là nước Mỹ rộng lớn này? Hình ảnh tiễn đưa nhau bên cổng trại là những bàn tay nắm
những bàn tay giữa kẻ đi người còn ở lại, có những mảnh giấy nhỏ viết vội vàng “đây là số điện thoại
của người bảo trợ của tôi…” Xe chuyển bánh, mảnh giấy nhỏ ghi 10 con số, đôi khi nhoè nhoẹt vì
những hàng nước mắt.
Trong nỗi băn khoăn này, điển hình là trại tỵ nạn Pendleton, hàng ngày ở cafeteria gần ngã ba đặt
tượng bàn tay khổng lồ xoè ra đỡ, ôm ấp người tỵ nạn, nhóm anh em nhà báo, nhà văn họp mặt. Nơi
đây cũng được coi như đài “Radio Catina Di Tản”, phát xuất tin tức, tin đồn liên hệ đến mọi vấn đề
của cuộc sống mới trên đất tạm dung. Đáng chú ý nhất là nhà báo Nguyễn Hoàng Đoan. Anh thăm hỏi
mọi người, xin số điện thoại, địa chỉ của những người sắp rời trại. Và cũng chính nơi đây, một số bè
bạn trong làng văn, làng báo bàn bạc “phải có một tờ báo để liên lạc với nhau chứ.” Trong số những
người này, cuối cùng được ra trại và định cư tại thành phố gần trại tỵ nạn nhất là San Diego, có vợ
chồng Nguyễn Hoàng Đoan -Khánh Ly, luật sư Phạm kim Vinh. Tờ Hồn Việt, như nỗi khắc khoải của
người Việt đau khổ rời bỏ quê nhà nhưng lòng không ngớt thương về đất cũ, ra đời ở đây. Toà soạn đặt
trong một nhà in ở một khu vực nhỏ, lúc ấy được coi như nằm ở ngoại ô thành phố, khu Mission
Gorge, của thành phố San Diego. Tờ báo được đón nhận thật nồng nàn. Chỉ một thời gian sau, khi tờ
báo đã có tiếng vang, đã được đồng bào khắp nơi biết đến, một số quần hùng từ các nơi tụ về góp mặt,
trong đó có nhà văn Lê Tất Điều, hoạ sĩ Văn Mộc, và nhiều bằng hữu bốn phương gửi bài về hỗ trợ.
Đó là tờ báo tư nhân đầu tiên của người tỵ nạn, ở cực Nam và cực Tây nước Mỹ. Được mời gọi, trong
những ngày này, tôi cũng đóng góp vài bài như một hành động thân hữu có mặt tại địa phương. Nay,
sau hơn 30 năm tờ Hồn Việt vẫn tồn tại do Ngọc Hoài Phương làm chủ nhiệm, chủ bút phát hành rộng
rãi trong cộng đồng người Việt trong thế giới tự do.
Trong khi đó, nơi được coi là đối đầu với vùng Nam Cali, có tờ Đất Mới ở thành phố Seattle, do anh
Vũ Đức Vinh tức nhà văn Huy Quang, nguyên tổng giám đốc Nha Vô Tuyến Truyền Thanh VNCH
thành lập, được sự tài trợ chính thức của chính quyền địa phương nhằm mục đích thông tin và hướng
dẫn người Việt tỵ nạn sớm hoà nhập xã hội Hoa Kỳ. Lúc ấy vào cuối năm 1975, gia đình tôi đang
chân ướt chân ráo rời bỏ San Diego, đến định cư tại thành phố biển hồ, Salt Lake City, do một số bạn
bè kéo gọi. Sau nhiều tháng dài cổ nhận những lá thư từ chối của các hãng xưởng ở Cali, nay có công
việc tuy không hay ho gì, nhưng nhờ chịu khó và có chút khéo tay, tôi làm việc cho một hãng đóng tàu
nhỏ, loại tàu đi câu cá, chỉ trong 3 tháng đã được tăng lương 3 lần. Giữa khi ấy, anh Huy Quang gọi tới
“Lên đây đi ông. Làm báo có lương, nhà cửa xin cũng dễ”, nhưng tôi không dám thả mồi bắt bóng,
nhất là bà xã tôi cũng có việc làm trong một nhà may sang trọng ở thành phố này. Hơn thế nữa, bạn bè
cùng khoá khá thân ở đây cũng đông, hàng ngày đi lại rất ấm cúng. Nghe anh Huy Quang nói thế, thích
lắm, nhưng tôi đành “Xin cám ơn anh Huy Quang.” Bù lại, tôi viết cho tờ Đất Mới loạt bài về
chuyến di tản của tôi trên con tàu Thị Nại, HQ 502, với hơn 5000 người rời Sài Gòn giữa đêm 29 rạng
ngày 30 tháng 4 năm 1975. Khi ông Dương Văn Minh ra lệnh cho “anh em quân đội ở đâu ở đó, chờ
bàn giao cho Quân Đội Giải Phóng” thì con tàu Thị Nại chết máy, chật ứ người còn nằm cửa sông
Soai Rạp. Con tàu ra được ngoài biển nhập đoàn tàu di tản là một câu chuyện dài, thiên nan, vạn nan.
Nhờ đó hàng tháng tôi đều nhận được mỗi kỳ 2 số báo Đất Mới. Tờ báo lúc này có Thanh Nam làm
tổng thư ký. Những người viết chủ lực ngoài Huy Quang là chủ bút, có chị Tuý Hồng, chị Trần Lai
Hồng, Nguyễn Thanh Trang, Nguyễn Văn Giang, sau này có thêm Mai Thảo nữa. Thỉnh thoảng thấy có
bài của nhà văn, hoạ sĩ Võ Đình và thơ của Nhất Tuấn. Dù những bài viết phải bỏ dấu bằng tay, nhưng
trang báo rất sạch và mỹ thuật. Chẳng những thế, mọi tin tức, dù xuất xứ từ đâu, đều được toà soạn viết
lại, tránh các ngôn từ trái tai gai mắt phát xuất từ Việt Nam. Cũng trên tờ báo này, lần đầu tiên có bài
viết từ trại tỵ nạn ký tên Tưởng Năng Tiến.
*
Ngoài các bài viết, các tin tức liên hệ đến cuộc sống của người tỵ nạn, tờ báo có hai mục hầu như khác
hẳn nhau, mang tên cùng một người viết, đó là mục Trong Lòng Điện Tử và Hành Trình Về Phương
Đông, ký tên Nguyên Phong. Lúc ấy, cách đây gần 30 năm, điện tử là lãnh vực rất mới mẻ, còn trong
vòng khai phá, tìm tòi, dự đoán, xa lạ. Lúc ấy, Nguyên Phong đã trình bày những hiểu biết sâu sắc với
các thông tin trong lòng điện tử. Với tôi, tôi mù tịt, chẳng hiểu gì, nhưng những người bạn của em tôi
đang ngày đêm học về điện tử thì hết lời khen ngợi các bài viết này. Đó là một lãnh vực mới của lớp
người trẻ, của những ngày trước mặt — một lãnh vực như chỉ thấy vừng đông rạng rỡ phát xuất từ thế
giới Tây phương.
Trong khi đó, cũng cùng một người viết, Nguyên Phong, với loạt bài dịch thật lạ lùng, tràn ngập huyền
bí trước một phái đoàn khoa học lỗi lạc phát xuất từ các trường đại học danh tiếng Tây phương, đi tìm
những điều bí ẩn của Đông phương ở những năm cuối thế kỷ 19. Lúc đó nước Nga chưa bị Cộng Sản
cướp chính quyền, nước Tàu còn là miếng mồi ngon để các nước Tây phương xâu xé. Riêng Việt Nam
đang bị người Pháp đặt nền thống trị. Đó là cuốn Journey To The East của Baird Spaling, nhà xuất
bản Adyar, in năm 1924 tại Ấn Độ. Nguyên Phong dịch lại nhan đề là Hành Trình Về Phương Đông,
đăng từng kỳ trên nguyệt san Đất Mới. Tôi say mê theo dõi loạt bài này. Xin hãy cùng đọc lại vài đoạn trong cuộc đối thoại lạ lùng giữa vị đạo sư Ấn Độ với phái đoàn khoa học tây phương dưới đây:
- Trái đất quay quanh trục của nó với vận tốc 1600 cây số một giờ ở giữa đường xích đạo. Nếu
quay chậm 10 lần thì ngày sẽ dài gấp 10 lần và dĩ nhiên sức nóng mặt trời cũng gia tăng gấp 10
lần. Thế thì cây cối, sinh vật đều bị thiêu sống hết còn gì. Nếu cái gì chống được sức nóng thì cũng
chết vì lạnh vì đêm cũng dài gấp 10 lần và sức lạnh cũng tăng lên 10 lần kia mà. Ai đã làm cho trái
đất quay trong một điều kiện tốt đẹp như thế ?

Mặt trời nóng khoảng 5500 độ bách phân. Quả địa cầu ở đúng một vị trí tốt đẹp không xa quá và
cũng không gần quá. Vừa vặn đủ để đón nhận sức nóng của mặt trời.”
Trục của quả đất nghiêng theo một tà độ là 23 độ. Nếu trái đất đứng thẳng, không nghiêng bên nào
thì sẽ không có thời tiết bốn mùa. Nước sẽ bốc hơi hết về hai cực và đông thành băng giá cả”.
Babu yên lặng nhìn mọi người. Không ai có thể ngờ nhà chiêm tinh Ấn Độ lại có thể sang sảng
chứng minh một cách khoa học và hùng biện trước một cử toạ toàn những khoa học gia nổi tiếng
nhất của Âu Châu.

Babu quay sang nhìn giáo sư Allen, một nhà sinh vật học của trường Havard:
- Nếu toán học có vẻ trìu tượng quá hãy thử quan sát thiên nhiên dưới cái nhìn của nhà Sinh Vật
Học xem sao: “Sự sống không có sức nặng hay bề đo mà mạnh mẽ làm sao? Bạn hãy nhìn một rễ

cây non nớt, mềm yếu, vậy mà nó có thể soi nứt một tảng đá cứng rắn. Sự sống chinh phục không
khí, đất, nước. Nó thống trị mọi nguyên tố, nó bắt buộc vật chất tan rã rồi lại kết hợp thành các
hình thể mới”. Chắc chắn trong 25 năm cuối của thế kỷ này sẽ có nhiều thay đổi và có những cố
gắng giúp cho sự tiến bộ của nhân loại, giai đoạn này rất quan trọng.
Các ông là người Âu, tôi xin dẫn chứng bằng lịch sử Âu Châu cho dễ hiểu. Các ông có thể coi nó
là sự trùng hợp ngẫu nhiên cũng được: Năm 1275, Roger Bacon phát động phong trào phục hưng
văn hoá rồi suốt 100 năm sau toàn thể Âu Châu đều thay đổi. Năm 1375, Christian Ros-enkreuz
phổ biến nền văn hoá này khắp tầng lớp dân chúng, đưa Âu Châu thoát khỏi nền tảng hắc ám của
thời Trung Cổ. Năm 1275 và 1375 chả là 25 năm chót của thế kỷ 13 và 14 hay sao?
Và :
- Việc phát sinh ra máy in, ấn loát vào năm 1473 và các cao trào nghiên cứu khoa học vào năm
1578, sự dùng Anh ngữ thay vì Latin để phổ biến kiến thức khoa học của Francis Bacon. Hai việc
này xẩy ra vào 25 năm cuối của thế kỷ 15 và 16. Việc đòi san bằng giai cấp, dẹp chế độ Bảo Hoàng
vào năm 1675 và cuộc cách mạng Pháp 1789 đều là những biến cố xẩy ra trong vòng 25 năm cuối
của thế kỷ 17 và 18. Năm 1875 đánh dấu một bước tiến quan trọng, đó là sự phát triển khoa học
văn minh cơ giới cùng thuyết “Tiến Hoá” của Darwin và phong trào Thiên Chúa giáo tự do. Từ
đây bắt đầu một cuộc tranh chấp giữa tinh thần và vật chất. Có hai mãnh lực rất mạnh phát xuất
từ hai đầu tinh tú đối cực gây nên phong trào Duy Tâm và Duy Vật. Thế kỷ 20 bắt đầu với sự phát
trỉển cực thịnh của thuyết Duy Vật. Con người sẽ bị thúc đẩy vào các sự kiện vật chất, họ sẽ gặp
những thử thách mà nhu cầu bao tử, khoái cảm xác thân tranh đấu với nhu cầu tâm linh một cách
mãnh liệt. Duy Tâm sẽ phát triển mạnh mẽ và phổ biến sâu rộng để thúc đẩy sự tiến hoá tâm linh.
Cuối thế kỷ 20 phong trào Duy Vật sẽ xụp đổ, hiện tượng nghiên cứu các giáo lý bí truyền sẽ bắt
đầu.”
*
Tôi nghĩ khi đọc những hàng chữ trên, quý vị độc giả không khỏi bàng hoàng, tự hỏi: “Thật sao? Cuốn
sách trên đã viết như thế sao?” Đúng thế. Nguyên Phong đã dịch như thế [Hành Trình Về Phương
Động từ trang 47 đến trang 62] mà chúng tôi lược thuật lại đúng như thế. Trở lại với thời điểm cuối
thập niên 70, với đa số người tỵ nạn chúng ta, con số 75 hay năm 1975 còn quá sâu đậm, nặng nề. Năm
75 đã đánh dấu một biến cố lịch sử đau thương không chỉ dành cho Việt Nam Cộng Hoà mà còn là
biến cố đau đớn cho Hoa Kỳ và cả Thế Giới Tự Do. Ngày mà khối Cộng Sản tưng bừng reo vui khi lá
cở đỏ tung bay trên toàn lành thổ Việt Nam. Với sự cai trị tàn độc của Cộng Sản, mảnh đất nào đã lọt
vào tay họ không có mảy may hy vọng thoát ra. Con số 75 đã làm tôi đau đớn, kinh hoàng. Dù chẳng
muốn, cá nhân tôi cũng như hầu hết những người cùng lứa tuổi đã bị cuốn hút vào cuộc chiến tàn khốc
này với kết cục vô cùng ê chề. Vậy mà thời điểm ấy đã được tiên tri, được ghi lại như thế cả trăm
năm. Nhưng cũng vẫn lời tiên tri ấy nói“cuối thế kỷ 20 phong trào Duy Vật sẽ sụp đổ.” Thật chăng?
Làm gì mà tin được. Cộng Sản như con bạch tuộc, những cái vòi chằng chịt của chúng bủa ra đến đâu,
chúng hút chặt cứng ở đó, không thể thoát ra. Từ 1975, thời gian rơi rụng mỏng dần, 25 năm còn lại
của thế kỷ này, mong gì con bạch tuộc kia nhả bớt những miếng mồi mà chúng đã hút chặt, bám vào.
Càng nghĩ càng thêm vô vọng. Vậy mà đầu thập niên 90, như một huyền thoại, thành trì đầu não cộng
sản Liên Xô và những nước vệ tinh ở Đông Âu tan rã. Tan rã trong hoà bình và thật mau chóng. Bức
tường Bá Linh được san bằng. Người Đông và Tây Bá Linh sau bao năm chia lìa đã ôm nhau đầm đìa
giọt lệ mừng vui. Dù đất nước Việt Nam chưa thoát khỏi gông cùm cộng sản, nhưng quả thật chúng ta
có quyền mừng vui, tràn đày hy vọng và càng thấy những điều Nguyên Phong dịch trong cuốn Hành
Trình về Phương Đông như những lời tiên tri, càng lúc càng có những biến cố làm sáng tỏ. Do đó tôi
mong mỏi, ao ước, tìm gặp Nguyên Phong. Người ấy ở đâu, sao anh lại tìm được cuốn sách này, dịch
và phổ biến được những lời linh ứng lạ lùng kia. Làm sao tìm được người đó? Tất nhiên tôi hỏi anh
Vũ Đức Vinh, báo Đất Mới, anh chỉ cười cười và nói: “Đương sự vẫn ở đây. Một người rất trẻ,
nhưng khiêm tốn, hầu như không muốn gặp ai. Có thể một lúc nào đó đủ duyên thì ông sẽ gặp được
anh ta.” Nghe thế, tôi biết không thể làm gì hơn, nhưng trong sâu thẳm của lòng tôi, tôi vẫn mong mỏi
được gặp gỡ người này.
*
Như đã biết, thảm nạn thuyền nhân xẩy ra sau khi miền Nam sụp đổ, và trong ngẫu nhiên tình cờ một
nạn nhân của thảm trạng này là nhà văn Nhật Tiến, một bạn học cũ của tôi từ thời trung học. Những lá
thư viết từ trại tỵ nạn Thái Lan mà chúng tôi nhận được đã là nguyên nhân thành lập Uỷ Ban Báo Nguy
Giúp Người Vượt Biển, do giáo sư Nguyễn Hữu Xương, một người bạn khác của chúng tôi làm chủ
tịch. Từ việc kêu cứu lúc đầu, sau chuyển thành công tác đem tàu đi Vớt Người Biển Đông. Cùng với
các tổ chức quốc tế, một công tác đầy nhân đạo, cụ thể nên đã được cộng đồng người Việt khắp nơi
nhiệt tình hỗ trợ. Để quảng bá công tác này, cá nhân chúng tôi thường thay mặt giáo sư Nguyễn Hữu
Xương đi đến nhiều nơi để trình bày, giải đáp về hoạt động của Uỷ Ban. Tất nhiên với những giao tình
sẵn có, tờ Đất Mới của anh Vũ Đức Vinh đã nồng nhiệt cổ võ, và chúng tôi đã có một cuộc gặp gỡ
bằng hữu tại Seattle, do thi sĩ Vũ Quang Hân tổ chức trong ngôi chùa của thầy Thích Minh Chiếu trụ
trì. Thầy Thích Minh Chiếu, gốc nhà binh, xuất thân từ Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, cùng khoá với anh
Phạm Hậu. Do đó, anh Phạm Hậu, một người bạn khác của chúng tôi, một thời cũng đã làm giám đốc
Nha Vô Tuyến Truyền Thanh, rất sốt sắng làm đầu cầu, dàn xếp, đưa đón và cùng các anh em trong tờ
Đất Mới tích cực hỗ trợ cho cuộc gặp gỡ này. Trong buổi nói chuyện này tại chùa, người đến dự
không đông lắm, chỉ là một số bằng hữu, những người có liên hệ xa gần với tờ Đất Mới và ban trị sự
của chùa mà thôi. Khi tôi chấm dứt phần thuyết trình cùng lúc trên màn ảnh TV, hình ảnh chiếc ghe tỵ
nạn chìm dần xuống lòng biển mênh mông thì thầy Thích Minh Chiếu đứng lên ôm lấy tôi, nhạt nhoà
nước mắt. Thầy nghẹn ngào nói: “Quý hoá quá. Dù xây chín đợt phù đồ…” Thầy sai một thầy tiểu
đưa cho tôi một ly nước và tiếp tục nói: “Đây là một ly sâm, xin tặng ông, ông uống đi cho lấy sức.
Xin các ông chân cứng đá mềm, hãy gắng công, gắng sức để công tác Vớt Người Biển Đông thêm
kết quả.” Một số vị góp tiền cho, nhưng quan trọng nhất là một vị cao niên sau chót đứng lên nói:
“Công việc của quý vị đẹp đẽ quá, cần thiết và đúng lúc quá. Quý vị cần gì nơi chúng tôi, chúng
tôi xin hết sức.” Vì những vấn đề liên hệ đã được nói chi tiết trong bài thuyết trình, tôi bỗng nhớ đến
tờ Đất Mới, tờ báo xuất bản ở nơi này, nhớ đến Nguyên Phong, nên tôi nói dù rất thật lòng nhưng lại
có chút đùa vui “Đến đây chúng tôi chỉ muốn gặp được người dịch loạt bài Hành Trình Về Phương
Đông, anh Nguyên Phong mà thôi.” Vị cao niên này bỗng cười vui: “Dễ quá. Nguyên Phong là con
trai lớn của chúng tôi. Hiện Nguyên Phong đang làm việc ở Los Angeles, khá gần ông...” Tôi mừng
rỡ khôn cùng.
Khi trở lại San Diego, chỉ mấy ngày sau là cuối tuần, anh chị Nguyên Phong và cả 2 cháu, con anh chị
đã từ Los đến thăm gia đình chúng tôi. Để đón anh, chúng tôi nấu một nồi phở vì ngoài những cái ngon, cái tiện do phở mang lại mà Nguyễn Tuân và Vũ Bằng đã hết lời ca ngợi, phở còn có một đặc tính mới được ghi nhận sau biến cố 1975 nơi hải ngoại là “món ăn đợi khách.” Nồi phở để đó trên bếp, khách vì bất cứ lý do gì như kẹt xe không đến đúng giờ như dự liệu, không sao. Khách đến lúc nào ăn cũng  vẫn ngon. Như một người em trong gia đình, anh chị Nguyên Phong rất xuề xoà, vui vẻ ngay từ phút đầu bước chân vào nhà. Vừa ăn vừa trò chuyện, tôi bỗng phát hiện ra anh chị Nguyên Phong và cả hai cháu chỉ ăn bánh phở mà bỏ lại thịt trong bát. Thấy thế tôi hỏi, anh Nguyên Phong cho hay “Thường thì gia đình em ăn chay, nhưng khi đi đâu thì tuỳ hoàn cảnh, không câu nệ. Gặp gì ăn nấy.” Thấy thế, chúng tôi mang mấy đĩa xôi trên bàn thờ xuống, không khí trên bàn ăn tưng bừng đổi khác. Chúng tôi cười vui tiếp tục trò chuyện và chúng tôi biết rằng anh Nguyên Phong, tên thật là Vũ Văn Du, sinh năm 1950, là con trưởng trong một gia đình đông con. Thân phụ nguyên là một vị không xa lạ trong y
giới, cụ là một dược sĩ, đồng thời còn là một người có tâm, có tài, đã đóng góp rất cụ thể với Đại Học
Vạn Hạnh. Các em anh, kẹt lại Việt Nam một thời gian, nhưng cũng đã sang được Hoa Kỳ và hoàn tất
văn bằng về y khoa. Được biết và liên hệ đến công tác Vớt Người Biển Đông, Nguyên Phong cho
hay:“Hàng năm ít nhất một lần, anh em trong gia đình em họp mặt. Thay vì mua quà tặng nhau, em
bảo, không cần, hãy dùng số tiền này gửi về Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển.” Do đó suốt
mấy năm sinh hoạt, Uỷ Ban đều nhận được những chi phiếu trên dưới 4 con số từ gia đình họ Vũ này.
Và cũng hàng năm, tôi phải thảo một lá thư riêng cho giáo sư Nguyễn Hữu Xương, chủ tịch Uỷ Ban ký
để trân trọng gửi đến gia đình họ Vũ.
Trở lại với cuốn Hành Trình Về Phương Đông, tôi không quên nhắc đến những điều trùng hợp, tiên
tri trong cuốn sách. Tôi hỏi Nguyên Phong “nguyên nhân nào đã khiến chú tìm ra tập sách này để
dịch và phổ biến như thế?” Ngấn ngại khá lâu, Nguyên Phong cho biết: “Như anh chị biết, em là một
người khoa học. Trong thời gian trung học, phải nói là em rất coi nhẹ triết lý Đông phương. Như
những người lớn lên trong một quốc gia chậm tiến, em ngưỡng mộ nền học thuật Tây phương,
không chỉ ở lãnh vực khoa học, mà em rất khao khát tìm hiểu những triết gia Âu Châu. Nhưng khi
đã đi sâu vào sự tìm hiểu em thấy nền tríết học Tây phương không giải đáp hết những nan đề của
con người, của khoa học, nhất là trước khủng hoảng xung đột giữa Duy Tâm và Duy Vật hiện nay.
Từ đó em quay về tìm hiểu những triết thuyết Đông phương. Nói ra dài lắm, nhưng em thấy mọi
việc, như Đức Phật nói:“Mọi sự phát xuất từ tâm.”Đặc biệt sau khi em vừa trình xong luận án
Tiến Sĩ thì cũng là lúc miền Nam của chúng ta thất thủ. Trong khi đó, thầy mẹ em, các em của em
đều kẹt lại. Lòng em rối như tơ vò. Biết chẳng thể làm gì được lúc này, những ngày cuối tuần và
những ngày nghỉ lễ, em lên núi, với một chút thức ăn nhẹ, em ngồi thiền.Có khi cả tuần lễ chỉ uống
nước lạnh xuông. Với một tâm hồn thư thản, và một thân hình nhẹ tênh, em nhiều lúc như thấy
được thật rõ những ý nghĩ, những hoàn cảnh của những người thân yêu và em yên tâm chờ đợi.
Chờ đợi một sự nhiệm màu tốt đẹp sẽ đến. Tất nhiên trong thời gian ấy em đến thư viện rất
thường.
Một hôm em đi qua khu sách về tôn giáo, thấy một cuốn sách nhỏ rơi ở lối đi, em nhặt lên, để lên
giá sách, nhưng không nhìn xem là cuốn sách gì. Đi một vòng quay lại, lại thấy cuốn sách kia rơi
trên lối đi. Em lại nhặt lên và có liếc qua tên cuốn sách trước khi xếp nó vào giá. Sau cả một buổi
trong thư viện, khi mọi người đã vãn, ra về, em đi qua khu sách cũ, lại thấy cuốn sách kia nằm
giữa lối đi. Em nhặt lên. Cuốn sách mỏng, nhan đề Journey To The East của Baird Spalding, do
nhà xuất bàn Adyar in năm 1924 tại Ấn Độ. Cuốn sách cũ quá, nhưng bỗng nhiên em không muốn
buông ra, em mượn cuốn sách đem về đọc chơi. Lạ thay, suốt đêm ấy cuốn sách đã chinh phục em,
em đọc một mạch, rồi lại đọc lại. Những điều nói trong cuốn sách như vẽ ra cho em một vùng trời
vừa huyền bí, vừa trong sáng, lại vừa như khơi dậy từ sâu thẳm của em niềm tự hào của nền triết
học Đông Phương. Chính lúc ấy em gặp các anh Thanh Nam và Vũ Đức Vinh với ý định ra tờ Đất
Mới. Các anh ấy mời em phụ trách mục giải đáp khoa học. Em nhận lời ngay với loạt bài Trong
Lòng Điện Tử. Cùng lúc em dịch cuốn The Journey To The East- Hành Trình Về Phương Đông. Em
đưa cho anh Thanh Nam xem, anh Thanh Nam thích quá, bảo em dịch tiếp đi. Thế là trên tờ Đất
Mới em có hai mục như đối chọi nhau, nhưng cùng ký tên Nguyên Phong, Một Làn Gió Mới…”
Sau chuyến gặp gỡ này, chúng tôi liên lạc với nhau luôn và tờ Đất Mới đã không còn ngân khoản để
xuất bản nữa, nhưng ám ảnh của loạt bài kia vẫn in sâu đậm trong lòng tôi. Tôi nói với Nguyên Phong:
“Phải góp lại và in ra đi, bỏ mất phí lắm.” Anh Nguyên Phong ngần ngại mãi, sau cùng tôi đề nghị
gửi loạt bài này lên cho người bạn tôi, anh Lê Đình Điểu, báo Người Việt “xem có thể thì in ra cho
vui.” Báo Người Việt nhận được, nhưng để rất lâu, cả năm sau mới in ra. Kỳ in đầu tiên là năm 1987.
Ai cũng biết sách in ra ở hải ngoại ít khi được tái bản lần thứ hai. Vậy mà trong lặng lẽ, độc giả bốn
phương đả đón nhận cuốn sách này thật nồng nhiệt. Đến năm 1993, cuốn sách đã được in ra đến lần
thứ sáu. Và bên cạnh cuốn sách này, có các cuốn sách khác lần lượt xuất hiện do Nguyên Phong dịch
hoặc phóng tác, mang nội dung, cảnh trí của những vùng núi non thâm sâu, huyền bí, theo bước chân
những người đi về Phương Đông, đặc biệt là Tây Tạng, để tìm thầy, học đạo.
Cuốn Hoa Sen Trên Tuyết, phỏng dịch từ cuốn The Mani Stones của Alan Havey, một bác sĩ Y Khoa
tốt nghiệp từ Đại Học Michigan; Hoa Trôi Trên Sóng Nước, dịch từ cuốn Journey In Search Of The
Way của Satomi Myodo, người Nhật Bản; Huyền Thuật Và Đạo Sĩ Tây Tạng, phóng tác từ cuốn sách
Pháp văn, tựa đề Mystiques Et Magiciens Du Thibet của bà Alexandra David Beel; Bên Rặng Tuyết
Sơn, phóng tác từ cuốn sách của Swami Amar Jyoti, người Ấn Độ; Ngọc Sáng Trong Hoa Sen, phóng
tác từ cuốn The Wheel Of Life của John Blofeld, người Anh. Và các cuốn sách khác nữa của Nguyên
Phong mang cảnh trí và nét huyền bí Đông phương lần lượt xuất hiện đều đặn. Chỉ với những đầu sách
nói trên thôi, trên 2000 trang sách, do những người Anh, người Pháp, người Nhật, người Mỹ và người
Ấn nói về các kinh nghiệm của họ khi tiếp xúc với Đông Phương, với Phật Giáo. Không biết có phải
đây là một chứng minh mà trong cuốn Hành Trình Về Phương Đông đã nói “cuối thế kỷ 20 phong
trào Duy Vật sẽ sụp đổ, hiện tượng nghiên cứu các giáo lý bí truyền sẽ bắt đầu.” Nhưng trong phần
phụ lục của cuốn Ngọc Sáng Trong Hoa Sen, nơi trang 356, tác giả John Blofeld đã viết:“Lành thay,
lành thay, giáo pháp của đấng Thế Tôn đã được vun trồng một cách tốt đẹp tại phương Tây.” Và
một cách cụ thể hãy nhìn vào cộng đồng người Việt ở Nam Cali. Chúng ta có hàng trăm ngôi chùa, khó
có ai đủ thì giờ đi thăm cho hết trong một kỳ nghỉ hàng năm, vài tuần. Có những ngôi chùa nhỏ bé,
khiêm tốn tạm dựng trong một căn nhà. Có những ngôi chùa xây cất uy nghi với tượng Phật, tháp
chuông, vườn cảnh không kém gì các cảnh chùa có tiếng tăm ở quê nhà. Và hơn thế nữa, có những
Trung Tâm Tu Học chiếm cứ cả một cánh rừng mênh mông mấy trăm mẫu đất. Bước vào đây như xa
cách hẳn xã hội Tây phương, như một góc Việt Nam riêng biệt. Đồi núi chập chùng, tiếng chuông ngân
toả giữa tiếng tụng kinh, giảng kinh bằng tiếng Việt cũng như tiếng Anh. Có các khoá tu học với hàng
ngàn người tham dự, với lệ phí khá cao mà đa số là người bản xứ, người Mỹ, trong đó không thiếu
người nổi tiếng, có danh vị trong xã hội, những tài tử điện ảnh. Ba mươi năm trước đây, ai dám nghĩ
có cảnh mấy chục ngàn người ngồi kín cả một sân vận động bỗng cùng cúi rạp mình xuống (năm vóc
sát đất, tứ chi và đầu sát đất), thật yên lặng trong nhiều phút để đón một ông già Á Đông, áo vàng hở
vai, lù khù đi đôi dép mỏng, vừa đi vừa cúi đầu đảnh lễ bốn phương. Đó là một nghi lễ cực kỳ cung
kính của tôn giáo Tây Tạng dành cho Đức Lạt Ma khi ngài xuất hiện.
*
Song song với hoạt động của những tu sĩ đi hoằng hoá giáo pháp của Đấng Thế Tôn, những cuốn sách
của Nguyên Phong, tên tuổi của tác giả trong lặng lẽ đã được rất đông người biết đến và ái mộ. Ái mộ
không chỉ như một tác giả uyên thâm mà còn hàm chứa hình bóng của một nhà tu hành, một vị đạo sư.
Các sách của Nguyên Phong còn được nhiều người đọc vào băng, thu vào dĩa, hoà vào nhạc, phổ biến
rất trân trọng và rộng rãi. Một trong các “trung tâm” này là chị Đăng Lan tại Úc. Trong dip gặp chị đến
San Diego, chị có tặng chúng tôi mấy cuốn băng đọc sách của Nguyên Phong, nhưng chị nói “Em
muốn được gặp ông Nguyên Phong để xin phép mà không biết ông ấy ở đâu.” Chúng tôi chuyển ý
nguyện này tới Nguyên Phong, nhưng anh chỉ cười và nói: “Không cần anh ạ. Chỉ là cái duyên, mỗi
người trong chúng ta, tuỳ theo hoàn cảnh mà chuyển tải lời dạy của Đấng Như Lai thôi.” Nguyên
Phong không quan tâm đến danh, đến lợi. Ngay cả tác quyền những cuốn sách in ra anh cũng không
nghĩ đến. Mỗi khi có sách mới, nhà xuất bản tuỳ khả năng, họ gửi biếu tác giả một số sách. Những cuốn
sách ấy tác giả lại gửi biếu bạn bè, trong đó có gia đình tôi. Thường thì chúng tôi nhận được một thùng
sách khoảng mươi cuốn, trong đó mấy cuốn có chữ ký tặng, số còn lại, tôi cũng tuỳ nghi, biếu bè bạn
thân quen, hay đem lên chùa đẻ ai thích thi thỉnh về đọc. Một năm trung bình Nguyên Phong có 2 cuốn
sách được in, rất đều hoà như thế. Được hỏi, anh cho hay, hàng ngày, sau giờ đi làm về, anh ngồi vào
máy, viết và dịch. Chưa xong nhà xuất bản đã gọi, đã nhắc, đã vẽ bìa cho cuốn sách rồi. Cứ thế, những
cuốn sách của Nguyên Phong in thật đẹp bay đi bốn phương. Những lời dạy của Đấng Như Lai qua
những trang sách của Nguyên Phong đã thấm đượm tới những ai, làm nhẹ được những nhọc nhằn, phiền
muộn của thế nhân tới mức độ nào, không ai lường được. Những hàng chữ ấy, với tôi, tôi coi như
những dòng suối mát, êm ả chảy đi, thấm đượm, nuôi sống bao nhiêu cây trái của cuộc đời này. Con
suối không cần ai biết mà vẫn cứ miệt mài tuôn chảy.
*
Mối giao tình giữa chúng tôi mỗi lúc mỗi thêm sâu đậm. Trong niềm khát ngưỡng tìm hiểu lời dạy của
Đấng Như Lai, khi có sách mới, hay những tài liệu mới, Nguyên Phong không bao giờ quên gửi cho gia
đình chúng tôi và cả các em của chúng tôi nữa. Đáng chú ý nhất là Thông Điệp Của Những Người
Anh, trích từ bài Elder Brothers Warning của Alan Ereira, Nguyên Phong dịch ra Việt ngữ và giới
thiệu như sau: “Tháng 10 năm 1993, đài BBC tại Luân Đôn và đài PBS Hoa kỳ đã cho phát hình
một tài liệu đặc biệt ghi lại nếp sống của một bộ lạc thiểu số tại Nam Mỹ. Cuốn phim này đã gây
chấn động dư luận thế giới và hiện là một đề tài được bàn cãi rất nhiểu trong giới khảo cổ, môi
sinh và nhân chủng học. Lần đầu tiên được trình chiếu trong kỳ đại hội tôn giáo hoàn cầu tại
Chicago, nó đã gây xúc động lớn cho toàn thể cử toạ. Cuốn phim ấy cho chúng ta thấy bên cạnh
thế giới được gọi là văn minh là thế giới của chúng ta, trên trái đất này còn có một nền văn minh
khác của người Kogi sống trên dãy núi Sierra ở Nam Mỹ. Họ sống biệt lập với thế giới của chúng
ta, rất đơn giản nhưng thật hoà bình và hạnh phúc, đặc biệt họ chỉ ăn chay, không sát sinh. Tuy
sống cách biệt nhưng họ vẫn có khả năng theo dõi và quan tâm đến chúng ta, đặc biệt là quan tâm
đến sự an nguy của quả đất này do những hành động vô ý thức của chúng ta tiếp tục gây ra. Bởi
thế, đã đến lúc họ phải lên tiếng cảnh cáo chúng ta trước khi quá muộn. Họ nói :“Nhân loại sắp
bước vào một thảm hoạ rất lớn mà từ trước tới nay chưa hề xẩy ra (…). Chúng ta đều là con cùng
một mẹ nhưng tiếc là các em đã không chú ý đến điều này (…). Mẹ của chúng ta là ai? Chính là
trái đất này, lòng mẹ chính là biển cả và trái tim của mẹ là những dãy núi cao cả có mặt khắp nơi.
Này các em, đốt rừng, phá núi, đổ đồ ô uế xuống biển chính là chà đạp lên thân thể của mẹ đó. Mẹ
là nguồn sống chung và con người không thể sống mà không có mẹ, nếu trái đất bị huỷ hoại thì
chúng ta sẽ sống ở đâu ?”(…) Làm sao các em có thể tự hào rằng mình đã văn minh khi nhân loại
và mọi sinh vật mỗi ngày mỗi đau khổ nhiều hơn xưa? Làm sao có thể nói rằng nhân loại đã tiến
bộ khi con người càng ngày càng thù hận, chỉ thích gây chiến tranh khắp nơi?”
Cuốn băng hình và bài thuyết trình của ký giả Allan Ereina là kết quả của phái đoàn ký giả đài BBC
tại Luân Đôn và PBS tại Hoa Kỳ sau 3 ngày được phép sinh hoạt với người Kogi. Phái đoàn rời rặng
núi Sierra tháng 2 năm 1993 và người Kogi ân cần nhắc nhở “Xin các ông hãy mang thông điệp này
gửi ra cho thế giới bên ngoài để nhân loại biết rằng tình trạng đã nguy kịch lắm rồi. Nếu họ không
chịu thức tỉnh thì đợi đến bao giờ đây?”
Theo đúng lời yêu cầu, Allan Ereira đã mang cuốn phim Elder Brother’s Warning trong đại hội tôn
giáo họp tại Chicago tháng 9 năm 1993. Cuốn phim này cũng được trình chiếu trên các băng tần của
đài truyền hình BBC tại Anh và PBS tại Hoa Kỳ. Và Nguyên Phong đã gửi cho tôi bài viết của ký giả
Allan Ereira cùng cuốn phim tài liệu này. Càng xem, càng đọc bài viết về những lời nhắc nhở của
người Kogi, tôi càng thấy những điều người Kogi biết rất chính xác về những lợi dụng quá đáng của
loài người, làm ô nhiễm môi sinh, hủy hoại môi trường sống không chỉ đối với loài người mà với cả
muông thú, cỏ cây. Nếu những điều này đã đúng thì “loài người sắp bước vào một thảm hoạ rất lớn
từ trước đến nay chưa hề xẩy ra” chắc cũng sẽ đúng. Vậy thảm hoạ đó là gì, khi nào sẽ diễn ra? Đó
là nỗi ám ảnh không rời trong lòng tôi. Rồi biến có 911 ào đến là kết quả của hận thù giữa con người
với nhau. Rồi sóng thần Sunami đổ vào bờ biển Thái Lan và Ấn Độ, cuốn đi nhà cửa và hàng trăm
ngàn người, giữa lúc họ đang an hưởng sự phong phú của thiên nhiên, của cuộc sống. Rồi bão tố và
cuồng phong Katrina ập vào bờ biển nước Mỹ, gây nên cảnh lụt lội rộng lớn cuốn đi bao nhiêu nhà
cửa, ruộng vườn, tàu bè, xe cộ. Tai biến đổ lên nước Mỹ, vùng đất tượng trưng cho giàu mạnh, văn
minh nhất như một cảnh báo cụ thể, một trừng phạt trước sự hung hăng, kiêu mạn về “văn minh” của
con người.
Phải chăng đó là những thảm hoạ mà “Những Người Anh” đã cảnh báo. Như thế đủ chưa, hết chưa hay
hãy còn những tai hoạ nào sẽ diễn ra trong tương lai? Hãy nhìn những đoàn xe nối đuôi nhau bất tận
trên xa lộ, mỗi xe ít nhất 5 chỗ ngồi, thường chỉ có 1 người trong xe. Vì muốn có tự do tuyệt đối, tiện
nghi tối đa, con người đã phung phí tài nguyên của quả đất như thế nào? Những tờ báo hàng ngày hàng
trăm trang, với rất nhiều bài viết về những lãnh vực khác nhau, thường chỉ được người đọc xem qua
loáng thoáng ở những phần mình ưa thích. Các mục khác, hầu như cả tờ báo còn nguyên vẹn, được
liệng vào thùng rác. Để có những trang báo ấy, bao nhiêu cánh rừng đã bị khai quang. Và ai cũng biết,
rừng cây không chỉ cho gỗ, lá mà chính rừng cây là nơi sản xuất dưỡng khí làm tươi mát, nuôi sống
cuộc đời này. Rừng là lá phổi của muôn loài trên hành tinh. Mới chỉ thoáng nghĩ như thế, đã thấy kinh
hoàng trước những lời nhắc nhở kia. Sự suy nghĩ đó càng sâu, tôi càng thấy giữa Nguyên Phong và
mình như có chung một mối lo đượm nhiều sự huyền diệu, lạ kỳ.
Từ đó, nhân hôm Nguyên Phong xuống thăm chúng tôi, một số bạn bè trong nhóm tu học, cùng đến.
Chúng tôi nài nỉ Nguyên Phong cho chúng tôi một cuộc đàm thoại. Anh ngần ngại mãi mới khiêm tốn
nhận lời. Vấn đề trên được mang ra thảo luận. Người nghe không chỉ có những người lớn tuổi mà còn
có cả thành phần trẻ, những người được sinh ra, lớn lên và trưởng thành ở Mỹ. Anh nói bằng tiếng Việt
và tiếng Anh. Vì “vấn đề bao quát quá, xin được thu hẹp trong phạm vi thực phẩm mà chúng ta
dùng hàng ngày.” Sau nhiều thí dụ rất cụ thể, anh kết luận: “Xã hội Mỹ làm gì cũng muốn đốt giai
đoạn, làm thật nhanh để mau có lợi. Trong chăn nuôi, để mau có kết quả, người Mỹ đã trộn nhiều
hoá chất vào thực phẩm gia súc, nhất là trong kỹ nghệ nuôi bò. Sau đó, khi ăn thịt những gia súc
ấy, đương nhiên chúng ta cũng tiếp nhận ảnh hưởng của những hoá chất kia. Những con trẻ dùng
thực phẩm này, cũng lớn nhanh hơn bình thường. Thân xác các em phát triển sớm, nhưng trí tuệ
thì không phát triển kịp, do đó đưa đến những xáo trộn nếp sống, xáo trộn xã hội…” Nghe anh nói
đến đây, tôi nghĩ đến một danh từ thường được dùng trong xã hội này “terrible teenager” và những
chuyện phiền hà, bi thảm, những cuộc thảm sát tại các trường học do trẻ nhỏ gây ra, những “bà mẹ -
trẻ con” bất đắc dĩ khi mới vừa xong tiểu học . . .
Cũng trong dịp này, nhà văn Nguyên Phong kể câu chuyện của một người mê nhậu nhẹt như sau: “…
anh ta rất khoái nhậu món lươn um. Như thường lệ, trước khi làm sạch nhớt, anh ta bỏ con lươn
vào chậu nước sôi, dùng cái que nhỏ dìm con lươn xuống nước. Con lươn cố vùng vẫy để cái bụng
trồi lên khỏi mặt nước nóng. Dìm nhiều lần như thế, cái bụng con lươn vẫn cứ trồi lên. Sau vớt con
lươn ra, mổ bụng nó ra mới hay là con lươn đang có mang. Có lẽ nó đã cố gắng trồi cái bụng lên
để con nó trong bụng khỏi chết chăng?”
Sau câu nói này, Nguyên Phong ngồi im, mọi người nghe cũng ngồi im, nhưng rất nhiều người đầm đìa
những lệ. Trong giây phút ngập tràn xúc động này, Nguyên Phong đã nói:“Mọi sinh vật đều tham
sống, sợ chết, chúng cũng có tình thương, tình mẫu tử chứa chan. Con bò trước khi bị đẩy vào lò
sát sinh đã cố ghì bước lại và hai hàng nước mắt chảy. Những giờ phút đó, nỗi oán hận ngập tràn.
Nỗi oán hận đó tiêu tán đi đâu? Nỗi oán hờn đó thấm vào từng tế bào của thân thể nó. Khi chúng
ta ăn những miếng thịt mang nỗi oán hận này, nỗi oán hận nhiều hay ít đã tạo nên những độc tố
chống lại cơ thể chúng ta. Phải chăng đó là nguyên nhân gây nên những chứng bệnh hiểm nghèo
mỗi lúc mỗi lạ trong cuộc sống của xã hội chúng ta? Tuy chưa có một cuộc nghiên cứu khoa học
nào chứng minh đầy đủ điều này, nhưng cứ lấy cá nhân mình mà suy xét, tôi tin rằng mình dùng sự
khôn lanh, tàn bạo để ăn thịt những động vật khác là không công bằng. Oán oán chập chùng, muôn
loài bị con người tàn sát, chắc không để chúng ta yên đâu. Đức Phật, một vị toàn giác, đã khuyên
chúng ta nên ăn chay. Trong tinh thần ấy, cá nhân tôi, gia đình tôi, cũng như đại gia đình của
chúng tôi từ song thân tôi, anh em tôi, hầu như tất cả đều ăn chay. Chúng tôi ăn chay từ ngày còn
bé.”
Nghe thế, những người lớn, những người có tuổi, từng lên chùa, tìm đọc kinh Phật đồng ý dễ dàng.
Nhưng một vài thanh niên đặt câu hỏi: “Tôi thấy chú nói như thế thật hay. Nhưng có lẽ chú làm
được, các bác làm được. Chúng cháu còn trẻ, học hành và chơi thể thao, cần rất nhiểu nhiệt
lượng, sợ ăn chay không đủ chất bổ, khó theo được cách ăn uống này.” Nguyên Phong tươi cười
đáp: “Đừng lo. Nhiều người cũng đã lo như thế. Hãy lấy cá nhân tôi để chứng minh. Tôi làm việc
cho Boeing ít nhất 10 tiếng một ngày. Cuối tuần nhiều khi phải cùng ông giám đốc công ty đi thăm
viếng các nơi. Tối về nhà tôi đọc và dịch sách, hoặc soạn bài giảng hay xem xét các bài vở cho các
sinh viên làm luận án với tôi. Đặc biệt, không ngày nào tôi không phải nghiên cứu và học thêm.
Những dữ kiện mới lạ tràn ngập. Không học, đứng yên là bị đào thải ngay, còn mong gì chỉ huy
được ai nữa. Thường tôi không bao giờ ngủ trước 12 giờ. 6 giờ sáng tôi đã dậy, ôn tập các bài
võ…”
Nguyên Phong chỉ nói đơn giản thế thôi, nhưng trên thực tế, anh là một trong số rất ít nhân vật quan
trọng, đã có những đóng góp cụ thể và to lớn vào sự canh tân và phát triển của hãng Boeing, hãng đóng
máy bay lớn nhất hoàn cầu này.
*[
Trong bản tin nội bộ của công ty, ISSUES, phát hành tháng 1 năm 1996, đặc biệt vinh danh 2 người
như sau:
“Two people, one the architech of the Boeing’s Intranet and the other an expert in the field of
software process improvement, have named Associate Technical Fellows of the Boeing Company for
1997.”
Bài báo của Paul Swortz nói rõ hơn về các phát minh quan trọng của khoa học gia Nguyên Phong như
sau:
“Vu joined Boeing in 1987 working as a senior computing analyst on CATIA systems supporting the
development of the 777. He now works in sofware Engineering Research and Technology, leading
companywide sofware impro-ment process and consulting in sofware engineering dis-ciplines.(…)
He was lead engineer on the Tomahawk cruise missile navigation system and was technical manager
of avionic systems for the F-15 fighter and AH-64 Apache helicorpter.
During his time at Boeing, Vu has gained a reputation as one of the world’s expert on the Capability
Maturity Model, a tool used to mesure the effectiness of sofware processs. He also co-author of the
company’s Advanced Quality System, which helps Boeing identify, select and establish relationships
with suppliers and the standard used by BCG for subcontractor management.
Vu lives with wife and two children.
He also works with the terminally and is a fourth-degree black belt in karate.”]
[John Vu is senior principal scientist at Boeing’s Sofware Enginering Reseach and Technoloy. He
has more than 20 years of experience as software enginering and project manager; he is currently
the lead on software process improvement in Boeing.
Ngoài công việc chính tại Boeing, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu và là khoa học gia (Senior Scientist) tại
đại học Carnergie Mellon University và Seattle University. Ông còn đi dạy tại một số đại học quốc tế
khác tại Trung Hoa, Nam Hàn, Nhật Bản, Ấn Độ về lãnh vực Softwave Engenieer. Ông cũng vừa cho
xuất bản cuốn sách giáo khoa Software Engineer bằng Hoa ngữ, ( do một số học trò của ông soạn, dịch
từ những bài giảng của ông.). Cuốn sách này là tài liệu giáo khoa chính của rất nhiều đại học Trung
Hoa hiện nay.]
*
Một người thành đạt như thế, hữu hiệu như thế, và lành mạnh như thế, thường thì, dù cố gắng, không
khỏi có sự tự tin, tự mãn và kiêu hãnh, nhưng ở Nguyên Phong thì không, hoàn toàn không. Bởi hàng
ngày anh đều nghiêm khắc và trân trọng làm lễ sám hối. Anh nói: “Một điều tôi không bao giờ quên
trước khi đi ngủ là để tâm rất thanh tịnh làm lễ sám hối. Sám hối những sai lầm dù vô tình hay cố
ý mà ta đã gây ra trong ngày. Lễ với tâm thanh tịnh còn là để giải trừ lòng kiêu mạn của chính ta.
Nếu ta xét trong ngày chúng ta đã không có lỗi gì, thì lễ sám hối để tiêu trừ những lỗi lầm từ ngàn
vạn kiếp của chúng ta từ vô thuỷ đến nay. Trong mịt mù của tiền kiếp, biết bao lỗi lầm chúng ta đã
gây ra. Chính kiêu mạn là nguyên nhân của những hiểu lầm, oán ghét, hận thù, tạo ra những tranh
chấp trong cuộc sống. Chiến tranh cũng từ đó mà phát sinh. Nỗi thống khổ của loài người phải
chăng cũng từ lòng kiêu mạn mà bành trướng?”
Nói rồi, sau một phút lặng yên, không có ai có ý kiến gì thêm nữa, Nguyên Phong nghiêm trang thỉnh
ba tiếng chuông. Tiếng chuông trong veo ngân toả. Nguyên Phong chấp tay, cúi đầu sát đất, xá tất cả
mọi người, khiến ai nấy đều cung kính xá lại, tạo cho sự kết thúc buổi sinh hoạt một vẻ trang trọng,
khiêm cung, tương kính và thương yêu bao trùm tất cả mọi người và cảnh vật xung quanh. Ai nấy bỗng
như vừa tìm thấy một hạnh tu thật đẹp đẽ, giản đơn và cũng thật bình đẳng, phù hợp với nếp sống hiện
tại, mà vẫn không hề đi ngược lời giáo huấn của Đấng Như Lai.
*
Hơn 20năm quen biết một người. Đọc trên dưới 2000 trang sách của người ấy dịch, phóng tác và viết
ra, chính cá nhân tôi đã học từ người ấy nhiều lắm, từ kiến thức hiện đại cũng như cách ứng xử trong
cuộc sống, khiến tôi không thể không viết về người ấy. Đành rằng sau cuộc đổi đời chua chát năm
1975, quanh ta biết bao nhiêu điều trái tai gai mắt làm cho chán ngán, buồn lòng; nhưng trong lặng lẽ,
chúng ta đã chứng kiến bao nhiêu nghĩa cử đẹp đẽ, bao nhiêu nỗ lực bền bỉ và âm thầm từ những gia
đình, từ những cá nhân cố gắng làm nên. Nói về cái xấu đã có nhiều người viết, bây giờ có ai nói thêm
tưởng cũng chẳng ích chi. Riêng tôi, tôi muốn nói về cái hay, cái đẹp, như những viên ngọc trong cộng
đồng chúng ta, tuy lặng lẽ nhưng trân quý biết bao. Dù biết viết như thế là phạm một lỗi lầm, làm sứt
mẻ phần nào tính khiêm cung của những người ấy, nhất là của tác giả Nguyên Phong.
Nguyên Phong, một luồng-gió-tinh-khôi lành mạnh đã và đang thổi vào nếp sinh hoạt của chúng ta nơi
hải ngoại và lặng lẽ thẩm thấu đến mọi phương trời, làm mới suy nghĩ cho những ai tìm đọc sách của
anh, thấy được lời chỉ dạy của Đấng Như Lai. Bài viết này như khêu lên một ngọn đèn nhỏ bé nhưng
hy vọng lần lượt sẽ có những ngọn hải đăng sáng rỡ hơn được thắp lên làm tan đi bóng tối hận thù, độc
ác và lừa dối, cũng như bớt đi những hệ lụy thấp hèn từ bao lâu bao phủ lên dân tộc và cộng đồng
chúng ta. Bao lâu còn có những luồng gió lành mạnh ấy thổi lên, còn nhiều người đón nhận, còn những
kẻ “khêu đèn, tiếp lửa” thì tôi vững tin rằng dân tộc chúng ta chắc chắn sẽ hồi sinh. Trong tinh thần
ấy, tôi cũng xin cúi đầu đảnh lễ bốn phương trời, mười phương đất, xin tất cả chư vị độc giả cũng như
bằng hữu xa gần, đại xá cho những vụng về, thiếu sót khi tôi viết bài này.
Cũng mong anh Nguyên Phong đừng phiền trách.
(16/05 —15/08/2006)
SÀI GÒN THOÁNG NHỚ
Tôi bỏ miền Bắc, bỏ quê hương, bỏ Hà Nội vào Nam. Tôi đã thấy gì khi chạm trán với Sài Gòn, rồi
sống với Sài Gòn trên 20 năm. Sau, ngày 30 tháng 4 năm 1975 phải rời Sài Gòn trong tang thương, và
bây giờ là 50 năm từ khi tôi đến Sài Gòn và 30 năm xa Sài Gòn, ôi bao nhiêu biến đổi, tang thương
nhưng không thiếu những lạ lùng may rủi.
Sài Gòn khác xa Hà Nội. Hà Nội nhỏ bé, thơ mộng nên thân quen. Hà Nội lâu đời nên Hà Nội có
nhiều di tích. Hà Nội nhỏ bé nên lặng lẽ. Đường xe điện leng keng, chỉ ồn ào ở những con đường
chính. Người Hà Nội trong những năm trước khi có cuộc di cư, thường di chuyển bằng xe đạp. Vài
người có xe Velo Solex chạy lọc xọc đã là oai lắm. Xe hơi rất ít người có. Cho nên khi xe điện chiều
tối tụ về ga Bưởi là Hà Nội như nín thinh, êm ả. Hàng phố đa số cửa đóng, then cài. Những đoạn
đường vắng lặng, thấp thoáng có cái xich lô đạp uể oải đạp qua. Tiếng rao hàng đêm của anh xực tắc
khắc khoải vang động len lách, buồn bã.
Sài Gòn thì khác. Sài Gòn là đất mới nên Sài Gòn còn xô bồ. Sài Gòn có nhiều người căng ghế vải ngủ
ở những hàng hiên, tự nhiên, thoải mái như ở nhà. Sài Gòn rộng mông mênh. Sài Gòn năm 1954 là
trung tâm, nối với các vùng ngoại ô bởi những con đường còn nhiều chỗ bỏ hoang. Sài Gòn và Chợ
Lớn còn có một khoảng trống là những kho hàng, xưởng máy, bãi rác. Giữa Cầu Bông, khu Đa Kao,
đến toà tỉnh Gia Định cũng là một bãi rác mênh mông. Nói chi con đường từ Sài Gòn đi phi trường
Tân Sơn Nhất là những thửa ruộng trồng rau, những giếng nước giữa vườn, dàn sào dựng kéo nước
lênh khênh. Khu Trường Đua Phú Thọ còn là một vùng đầy huyền thoại hãi hùng của những người đi
đường về khuya. Trộm cướp và những cuộc thanh toán nhau trong nghĩa trang Nhị Tỳ. Con đường từ
Trường Đua đi Ông Tạ dài ngút ngàn, qua cánh rừng cao su um tùm đen thẫm, thấp thoáng những ụ đất
trước đây là kho đạn. Từ khi người Bắc di cư vào, những dãy nhà cất vội gọi là cư xá rẻ tiền, nhưng
lại có cái tên đẹp đẽ đầy hoài niệm cố đô là cư xá Thăng Long, được xây cất phía trước lối vào
Trường Đua Phú Thọ, biến dần khu này thành một vùng an ninh, sầm uất, dành cho những gia đình công
chức từ ngoài Bắc di cư vào cư ngụ. Tôi ở khu này khá lâu trong những năm đầu, nhà chú thím tôi, như
một thứ quê hương mới. Một nhà thờ được cất ở đây cũng mang tên nhà thờ Thăng Long. Trước nhà
thờ có một tiệm phở mở ra có tính cách gia đình. Sáng ra nồi nước lèo bốc khói, vài cái ghế bày ra
lỏng chỏng. Chẳng bao lâu tiệm phở trở nên đông đúc, cái trái nhà nay đã biến thành hàng hiên với
năm bảy dãy bàn, ăn uống đông vui. Mấy năm sau, bên cạnh khu nhà rẻ tiền này là những dãy nhà xây
cất đẹp đẽ, khang trang, một chung cư không phải ai có tiền cũng mua được. Nữ tài tử Kiều Chinh đã
cư ngụ trong cư xá này, nhìn ra cánh rừng cao su bên cạnh. Trong rừng lá xanh um ấy, từ những năm
1960 về sau, là những biệt thự sang trọng, an ninh dành cho người thuộc giai cấp mới và cho Mỹ thuê.
Giữa khi Sài Gòn thay đổi ấy, ở cuối đường Nguyễn Văn Thoại, ngã tư đường Ông Tạ, có một căn nhà
nhỏ khá xinh. Đặc biệt trước mảnh sân vuông vắn, sát hàng rào, có một cây mai thật đẹp. Cứ mỗi khi
Tết đến, Xuân về, cây mai này nở hoa vàng rực. Tôi đã nhiều lần đi qua, nhìn ngắm cây mai ấy, và trò
chuyện với vị chủ nhà. Khen cây mai thì được, nhưng tỏ ý muốn xin hay mua một cành mai về trưng
trong ngày Tết, thì tuyệt đối không. Vị chủ nhà lễ phép thưa: “Dạ xin đa tạ tấm lòng yêu hoa của quý
vị, nhưng xin hãy để cho cây mai còn là nét vui chung của những ai qua đây.” Lời nói của ông như
thế thật là đẹp. Bây giờ sau bao dâu bể, Sài Gòn bành trướng quá độ dưới những quyết định tàn bạo,
vô tổ chức, không biết cây mai vàng ấy có còn.. . .
Lúc ấy những năm sau 1954, miệt Thị Nghè là cửa ngõ ngoại ô của Sài Gòn. Xa lộ Sài Gòn chưa có.
Đường Hàng Sanh là biên giới của an ninh thủ đô, chạy dài tới Phú Nhuận, rồi đi qua Bộ Tổng Tham
Mưu, rẽ vào lối đi phi trường Tân Sơn Nhất. Từ Hàng Sanh nhìn ra Đồng Ông Cộ ngút ngàn lau sậy và
dừa nước. Người ta bảo mấy năm kháng chiến, du kích hùng cứ vùng này, vì đây là lối di chuyển rút đi
lên miệt chiến khu Đ. Nơi đây còn là vùng thủ tiêu người bị du kích bắt. Nhưng chỉ sau mấy năm yên
ổn, Sài Gòn như bừng nở, lớn lên rất mau. Sài Gòn đã lớn càng trở nên lớn hơn. Khu Đồng Ông Cộ trở
thành vùng ven đô đang phát triển. Một con đường nhỏ có tên là đường Phan Chu Trinh, nhưng dân địa
phương vẫn gọi quen là khu Lò Heo cũ, trong đó có ngôi biệt thự hình như của ông chủ lò gạch Phú
Hữu. Ngôi biệt thự xây ở ven con rạch, hướng mặt ra đường Hàng Sanh gió mát, quanh sân là những
hàng dừa lả ngọn, soi bóng xuống mặt nước. Một dãy nhà kho nhỏ rộng 3mét 5, dài 10 mét được sửa
lại thành những căn phố nhỏ bé dễ thương, bán cho mọi người.
Năm 1965 chúng tôi mới lập gia đình, chồng là quân nhân, vợ là cô giáo, lương lậu ít ỏi. Sau đám
cưới bình thường, bà con xúm lại, anh chị tôi cho thêm, chúng tôi mua được căn nhà nhỏ bé này làm tổ
ấm đầu đời. Nhà tôi sát vách với nhà quái kiệt Trần Văn Trạch nên chúng tôi chung nhau bắt đồng hồ
nước. Hai nhà thân nhau như một. Những buổi trưa ngày nghỉ, nằm hưởng cái lười biếng vắng lặng,
chúng tôi thấy tiếng hát của ông Trạch vẳng qua thật hay “Chiều mưa biên giới anh đi về đâu…”
Tiếng hát ngọt như lời ru, mượt mà như những sợi tơ trời nhẹ nhàng trôi trên vùng đồi núi nào xa,
mang nỗi cô đơn, nhung nhớ của người lính xa nhà. Tiếng hát ấy khác xa, khác hẳn những bài hát vui
nhộn hài hước của ông trong các màn phụ diễn trước những buổi chiếu phim. Buổi tối gió mát, những
cây dừa nước bên nhà lao xao, lấp loáng ánh trăng. Chúng tôi ra ngồi ngoài hàng hiên. Ông Trạch cũng
ra hàng hiên. Ông quấn quanh mình tấm saron, phô mảng ngực trần. Ông nhẹ nhàng hỏi“Tình thế mỗi
lúc mới thêm khó há, trung uý.” Tôi thì hỏi ông “Sao ông không hát những bài ông vẫn hát ở nhà.
Hay quá mà.” Ông bảo “Thôi, để anh em họ làm ăn. Mình đóng vai hài quen rồi, chẳng ai cạnh
tranh.” Khi tôi đeo lon thiếu tá, làm việc tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân, được phát cho cái xe jeep cũ thì
hai con ông Trạch và hai con tôi mỗi sáng đều leo lên xe đi học ở trường Bà Phước, gần chợ Tân
Định. Hai con tôi được anh chị (con ông bà Trạch) săn sóc rất kỹ. Đối với lối xóm, người ta bảo
“Ông bà còn trẻ mà có những bốn cháu, sắp lớn rồi.”
Nhớ lại năm 1968, Tết Mậu Thân, khi ấy tôi và một số sĩ quan Hải Quân khác đang được biệt phái cho
Nha Hoả Xa để lái những con tàu dân sự, nghe nói của gia đình bà Nhu để lại, nên Tết đến sau những
chuyến chở hàng ra trung, chúng tôi đều canh sao cho ngày Tết phải có mặt tại Sài Gòn. Tàu tôi khi ấy
là chiếc Đại Hải, trọng tải 750 tấn, thường chở đủ loại hàng từ Sài Gòn ra Quy Nhơn hay Đà Nẵng.
Chuyến đi chở đầy hàng Tết, rất nhiều bánh mứt, pháo, trái cây… Mùa gió đông bắc, tàu chở khẳm, ra
biển thường sóng đánh phủ mũi tàu, rất mệt. Gần tới Cam Ranh sóng to quá chếch nghiêng, mấy cần
trục hàng lắc lư ngả nghiêng muốn gãy nên tàu phải ghé vào nấp trong vịnh Cà Ná. Tàu neo gần bờ,
nhìn rõ những mảnh ruộng muối trắng phau. Những đụn muối cao chót vót. Từ đó nhìn ra khơi thấy
sóng biển ùa vào cao ngất. Nằm đó gần một tuần, thực phẩm tươi đã cạn. Hàng ngày gọi ghe đánh cá
lại mua tôm tươi và cả tôm hùm rất rẻ, ngon lắm, nhưng chỉ vài bữa đã thấy thèm rau muống hay mấy
lát bí tươi. Nằm trong vịnh nhìn gió hiu hiu lạnh giá thổi vi vút trên mấy dàn cần trục, nghe radio
tường thuật những phiên chợ Tết ở Sài Gòn, buồn thối ruột. Mấy lần nhổ neo cố lết ra, nhưng sóng
đánh ngang hông, tàu muốn lật, lại phải trở vào, nằm thêm ít ngày nữa vừa bằng một chuyến đi - về. Vì
gió bão gây trì trệ, chuyến đi này là chuyến chót của năm. Từ Nha Hoả Xa gọi ra, xin cố bằng mọi giá
mang tàu ra Đà Nẵng vào khoảng 24, 25 để kịp hàng Tết cho người ta… Buổi sáng trời êm gió hơn,
tàu nhổ neo đi Đà Nẵng. Dỡ hàng xong là ngày 28 tết. Không có hàng về. Gió đông bắc thổi sau lái, tàu
không, phải cho nước biển vào hầm tàu để tàu đầm, bớt lắc. Tàu nhẹ, hai máy tiến full, về đến Sài Gòn
là trưa 30 tết. Đậu ở cầu Nguyễn Huệ, nhìn lên bờ, những khu hàng hoa đã vãn, những chủ vựa cây
cảnh cho xe ba gác, xe cam nhông ghé lại chở hàng bán không hết về. Những người quét đường đang
tới tấp thu dọn những đống rác. Mút xa ở cuối tầm mắt là toà Đô Chánh, rừng người đi lại vội vã như
cố chạy cho kịp lúc xuân về. Nỗi mừng vui thênh thang như gió thổi trên mặt sông mêng mang. Vừa
bước xuống cầu thang đụng ngay ông Cang, cai phu bốc dỡ, mặt đỏ bừng và nồng hơi rượu. Ông đứng
nghiêm đùa giỡn theo lối nhà binh, dơ tay chào. Tôi như một phản xạ nhà binh giơ tay chào lại. Ông
nói: “Ông thầy đi chuyến này lâu quá, hàng dành cho chuyến áp tết đành phải để ra giêng thôi.”
Bắt tay ông định gọi xe về, thì ông Cang bỗng nắm tay tôi cản lại. Tôi tưởng ông như các lần khác kéo
ở lại nhậu với anh em phu bến lấy thảo. Tôi cười “Xin phép ông cai, cho tôi về nhà cái đã, kẻo bà xã
mong vàcòn đi chợ vơ vét chút ít cho ngày tết chứ…” Ông Cang không nói gì, nhưng tôi thấy như có
điều gì là lạ. Tôi hỏi “Ông cần nhắc tôi điều gì không?” Ông nói “không”, chỉ nheo mắt cười và
tiếp “cũng nên cẩn thận an ninh thôi.”
Đứng đợi mãi không vẫy được xe, trong lòng áy náy, tôi quay lại tàu, gọi ông cai trực trên tàu, xem lại
mấy trái độn ở hông tàu, đừng để kẹt nghiêng tàu khi nước lên. Tôi mở cửa phòng mình, tần ngần xem
lại cọc tiền lương và tiền thưởng cuối năm để trong tủ áo. Tôi lấy giấy báo gói lại, bỏ vào cái túi nhỏ
đem về nhà. Một quyết định tình cờ mà vô cùng hay. Tôi rời tàu, và nhiều ngày sau mới trở lại được vì
Sài Gòn mấy ngày Tết chìm trong cơn biến loạn Tết Mậu Thân. Số tiền này thật là cần thiết trong
những ngày hỗn loạn. Tôi thầm cám ơn ông Cang và càng thấy những bữa nhậu lấy thảo cùng anh em
phu khuân vác tại bến tàu, thật là cần thiết.
Sau này, sau biến cố Mậu Thân, tôi trở lại Hải Quân, dọn vô khu cư xá Hải Quân, nên phút chót, khi
tàn cuộc chiến, theo tàu đi được và định cư ở Mỹ. Tôi không biết ông Trạch đã thoát đi được như thế
nào, nhưng những năm sau ngày 30 tháng 4, tôi biết qua báo chí và bè bạn là ông Trạch ở Paris có một
mình, lang thang buồn bã vì thương nhớ vợ con còn kẹt lại quê nhà. Mãi hơn 10 năm sau, trong dịp đại
diện cho Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển qua Pháp đón tiếp thuyền nhân, vợ chồng tôi mới
có dịp gặp lại gia đình ông bà Trạch ở bến cảng Ruen. Nói sao cho hết mừng vui, kỷ niệm của những
ngày xa cũ. Sau đó ông Trạch qua Mỹ nhiều lần, chúng tôi lại có dịp gặp nhau. Tôi nhắc tới Ban Gió
Nam, từ Sài Gòn ra Hà Nội, đâu như năm 50, 51 gì đó. Chủ lực là Ban Hợp Ca Thăng Long, nhưng có
sự góp mặt của ca sĩ Trần Văn Trạch. Lúc ấy ca sĩ Trần Văn Trạch hát bản Đêm Đông. Lời ca mượt
mà, với lối phát âm giọng Sài Gòn, mang một phong vị xa lạ thật lôi cuốn. Trong bữa cơm tại một nhà
hàng ở quận Cam, đang ăn ngon, nghe thế ông Trạch bỗng ngưng ăn và nói: “Chà! Độ ấy tôi mặc bộ
đồ lớn màu trắng xuất hiện ở nhà hát lớn Hà Nội. Ngày nào hát xong, màn nhung vừa buông
xuống, tôi cũng nhận được một bó hồng nhung, nhưng không biết người tặng là ai. Cho đến buổi
ra về trên phi trường Gia Lâm, người tặng hoa mới xuất hiện. Một người đẹp thật là Hà Nội.
Người đẹp Hà Nội nói với tôi rằng em muốn trái đất này sụp đổ để hai chúng ta cùng chết với
nhau…”
Sau bữa cơm hội ngộ này ông trở lại Paris, lâm bệnh và mất. Chúng tôi có gọi điện thoại qua Paris
phân ưu và chia buồn cùng bà Trạch và các cháu. Mấy đứa con ông, khi nhỏ, hàng ngày leo lên xe jeep
của tôi, cùng các con tôi đi học trường Bà Phước ở Đakao, giờ cũng lớn hơn tuổi tôi ngày cũ khi hai
nhà ở cạnh nhau. Giờ các con tôi cũng đã là những người trưởng thành, ở riêng. Một quãng đời Sài
Gòn mới đó mà đã xa, quá xa, mù mịt.
*
Riêng về bến sông Sài Gòn, năm 1954 thì lạ lắm.
Cột cờ Thủ Ngữ lúc ấy được coi như biểu tượng của hải cảng này. Ven mặt sông phía bên này thành
phố là những xóm thuyền lá chi chít neo kín, buộc sát nhau lan ra gần nửa mặt sông. Đó là một xã hội
phức tạp, đông đúc, khó ai biết cư dân trên ghe thuyền đó sinh hoạt thế nào. Hình như (tôi nhớ không
kỹ lắm) để đón mừng nền Đệ Nhất Cộng Hoà, 26 tháng 10 năm 1956, khu thuyền-nhà- lá này bị giải
toả, bờ sông mới được chỉnh trang, mặt sông Sài Gòn trở nên thoáng rộng. Cột cờ chính của hải cảng
Sài Gòn được rời về trước Bộ Tư Lệnh Hải Quân, nơi là tiền đường của Trại Bạch Đằng. Mỗi sáng
thứ hai, toàn thể quân, cán, chính thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân xếp hàng nghiêm chỉnh tại đây làm lễ
thượng kỳ. Ở chân cột cờ này mới được gắn 2 khẩu trọng pháo. Bờ sông ở nơi này được tu sửa lại, có
những vỏ thủy lôi phế thải làm chậu cảnh, dính với nhau bằng hàng dây sắt buộc dài theo mé sông.
Trong dịp này có một số chiến hạm lớn của Hoa Kỳ viếng thăm, mừng ngày Quốc Khánh thứ nhất Việt
Nam Cộng Hoà. Trong số chiến hạm Mỹ đến Sài Gòn lúc ấy có chiến hạm lớn mang tên thành phố Los
Angeles.
Hôm 26 tháng 10 năm ấy, tổng thống Ngô Đình Diệm đã đứng trên mui một chiếc tàu nhỏ, có vị Tư
Lệnh Hải Quân trong đại lễ trắng, lon vàng óng ánh tháp tùng, chạy dọc trên sông Sài Gòn, đi duyệt
những chiến hạm Đồng Minh đậu dài ở các cầu tàu. Mỗi khi chiếc tàu nhỏ của tổng thống đi ngang, các
chiến hạm đều bắn 21 phát đại bác đón chào. Do đó cả khúc sông Sài Gòn hôm đó rền vang liên tiếp
hàng trăm tiếng đại bác, như biểu tượng mừng vui của nền độc lập, làm tan đi một giai đoạn lệ thuộc,
chấm dứt trang sử đen tối của dân tộc làm nức lòng hàng chục ngàn người đứng trên bờ sông chiêm
ngưỡng, đón mừng. Và tối hôm ấy, trên bờ sông Sài Gòn bừng lên những dàn pháo bông muôn màu rực
rỡ. Sài Gòn thực sự nở hoa.
Sài Gòn khác xa Hà Nội. Sài Gòn là thủ đô của một quốc gia non trẻ, Việt Nam Cộng Hoà. Cả triệu
người Bắc di cư lúc này hầu như đã ổn định cuộc sống. Cả Miền Nam yên vui trong thanh bình, no ấm.
Những vị nguyên thủ quốc gia đồng minh lần lượt đến viếng thăm Việt Nam, trong đó có cả vua và
hoàng hậu Thái Lan. Do đó người ta thấy lần đầu tiên bà Ngô Đình Nhu đóng vai đệ nhất phu nhân,
mặc áo dài hở cổ, xuất hiện bên cạnh hoàng hậu Thái Lan. Dù có thiên kiến nào cũng không thể phủ
nhận uy tín và công lao ổn định miền Nam của nhà cách mạng Ngô Đình Diệm trong những năm đầu
của Đệ Nhất Cộng Hoà.
Hà Nội nhỏ bé, nên xinh sắn. Hà Nội cổ xưa nên nền nếp. Hà Nội nền nếp nên Hà Nội buồn tẻ, không
vui. Hà Nội nhỏ bé nên Hà Nội lặng lẽ, sạch sẽ.
Hà Nội như một bậc trung niên con nhà nho nhưng nghèo. Người trung niên ấy ăn nói chững chạc, ăn
mặc nhã nhặn, chỉnh tề, nhưng mọi việc thì chi ly, tính toán, không để cho ai thiệt, ngược lại cũng
không ai lợi dụng được mình. Mà thực ra “mình” cũng chẳng có chi nhiều ngoài cái phong thái ứng xử
kia, để người ta lợi dụng.
Sài Gòn thì khác. Sài Gòn như cậu thanh niên mới lớn, cổ còn lang ben vỡ da. Vì Sài Gòn đang trưởng
thành, đang phát triển. Sài Gòn còn vụng về, nhưng Sài Gòn có tương lai. Sài Gòn hào phóng. Vì Sài
Gòn to rộng, di chuyển ở Sài Gòn không thể êm ả bằng xe đạp, xe xích lô. Sài Gòn cần cơ giới hoá nên
Sài Gòn ồn ào.
Với tôi Sài Gòn năm 1954 là những chiếc xích lô máy chạy như bay, máy nổ ầm ỹ, phun khói mù mịt.
Những chiếc xe hơi nhỏ làm xe taxi, bất cứ ai có tiền, có nhu cầu đều có thể vẫy tay, gọi xe lại, leo
lên. Hà Nội không có xe taxi như thế, nên có rất nhiều người suốt đời chỉ nhìn thấy cái xe hơi, nhưng
không bao giờ có hân hạnh ngồi vào. Vì thế Sài Gòn bình dân hơn Hà Nội.
Sài Gòn còn là những con đường rộng thêng thang chạy hoài không hết. Sài Gòn còn là những bãi đất
hoang, những đống rác ngay bên cạnh các toà nhà to rộng, các cao ốc thẳng tắp đang được xây cất. Sài
Gòn còn là những con hẻm sâu hút, đi vào những xóm làng còn nguyên ao, rãnh, đình miếu, những hàng
tre rậm lá, những ông bà già cởi trần ngồi trước hiên như một làng xóm miền quê Lục Tỉnh. Sài Gòn
còn là những phố xá quán ăn mở tràn ra mé lộ. Khách ăn không ngớt, ồn ào. Hà Nội không thế. Hà Nội
ăn uống cảnh vẻ, kín đáo ở trong nhà. Sài Gòn với tôi là một nơi giàu có, no đủ, và rất bình dân.
Sau này càng sống với Sài Gòn tôi càng yêu Sài Gòn hơn, và biết ơn Sài Gòn nhiều lắm. Sài Gòn cho
tôi cơ hội để đi học lại, ở những lớp đêm, tìm bắt những thiếu sót trong những ngày loạn lạc. Sài Gòn
cho tôi tuy không giàu sang nhưng no đủ. Đặc biệt Sài Gòn cho tôi tình bè bạn, xóm giềng. Sài Gòn
cho tôi cơ hội tiến thân. Nên khi tôi là một quân nhân, dù không thích nếp sống này, tôi vẫn thấy tôi cần
có mặt trong hàng ngũ những người phải cố gắng bảo vệ miền Nam, bảo vệ Sài Gòn của chính tôi, gia
đình tôi và bè bạn.
Khi là quân nhân, một cách tình cờ, tôi đã có mặt và theo dõi việc làm đẹp công viên Bạch Đằng. Việc
này lạ lắm. Công viên là nơi hội tụ của nhiều con đường. To nhất là đường Hai Bà Trưng chạy dài từ
miệt Phú Nhuận ra, gặp đường Bạch Đằng là hết, vì trước mặt là sông Sài Gòn. Quanh đó là những
con đường nhỏ xoè ra như một đoá hoa. Thời Đệ Nhất Cộng Hoà, khi bà Ngô đình Nhu làm thủ lãnh
Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới, nơi đây được gọi là Công Trường Mê Linh. Tượng Nhị Vị Anh Hùng
Trưng Trắc, Trưng Nhị được tôn kính, dựng ở nơi này. Đế tượng có ba chân, tượng trưng như một đầu
voi khi Hai Bà ngự trên lưng voi xung trận. Tượng và toàn thể kiến trúc này do kiến trúc sư Ngô Viết
Thụ, giải khôi nguyên La Mã thiết kế và xây dựng. Ngày khánh thành tượng đài, chính bà Nhu đến cắt
băng, chủ toạ. Khi tượng hiện ra, nét điêu khắc kỷ hà rất mới, nét mặt Hai Bà phảng phất như hình ảnh
bà Nhu và con gái bà là Ngô Đình Lệ Thủy. Trong những ngày cuối của Đệ Nhất Cộng Hoà, những lời
tuyên bố hỗn xược của bà Nhu với những vị tu sĩ Phật Giáo tự thiêu, phản đối chính quyền tổng thống
Ngô Đình Diệm, như đổ dầu vào lửa, khiến người dân sôi sục căm thù. Đệ Nhất Cộng Hoà bị lật đổ
ngày 1 tháng 11 năm 1963. Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ bị hạ sát rùng rợn trong lòng xe thiết
giáp sáng ngày hôm sau. Trong những ngày sôi nổi hỗn mang ấy, tượng “hai mẹ con bà Nhu” bị dân
chúng ào tới kéo đổ. Đầu pho tượng rời ra, được bỏ lên xích lô đi diễu trên đường phố. Báo chí trong
và ngoài nước đã in hình ảnh này như một biểu tượng sụp đổ của “Ngô Triều.”
Từ đó miền Nam chìm đắm trong chiến tranh mỗi ngày mỗi thêm tàn khốc. Những chính phủ thay nhau
như cơm bữa. Những cuộc biểu tình, những phân hoá trong mọi từng lớp trong xã hội. Sài Gòn chìm
trong những lo âu, xáo trộn. Những trận đánh quy mô, to lớn diễn ra. Những địa danh như Bình Giả,
Pleime, Chiến Khu Đ, Đắc Tô gắn liền với tang thương, xương máu của thanh niên người Việt, Bắc
cũng như Nam. Cụ thể là nghĩa trang quân đội Gò Vấp không còn khả năng đón nhận những quân nhân
tử sĩ nữa. Một nghĩa trang mới to, rộng là nghĩa trang quân đội ở Thủ Đức được hình thành. Trước lối
vào nghĩa trang này có một pho tượng tạc người lính VNCH, trong áo trận, giày saut, để ngang khẩu
súng trên đùi, bùi ngùi ngồi trên mỏm đá thương tiếc các chiến hữu đã bỏ mình nằm ở phía sau. Tác
giả pho tượng là điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu. Theo ông Thu cho người viết biết, người ngồi làm
mẫu cho pho tượng là đại Tá Cầm, chánh võ phòng của tổng thống Thiệu. Vì nơi đặt pho tượng là lòng
chảo, chỗ trũng nhất bên triền đồi, nằm bên đường đi nên những ai đi xe hơi từ Sài Gòn, hay ngược lại,
lúc đầu nhìn không thấy tượng đâu. Xe càng chạy đến gần, bỗng dưng nhìn lên thấy pho tượng hiện ra
đột ngột. Điều ấy càng về chiều càng gây cho người đi xe trên đường sự sững sờ, khó tả. Do đó có thời
người ta đồn pho tượng Tiếc Thương kia đã tự nhiên đứng lên. Từ đó người ta còn thêu dệt thêm như
đêm đi qua đó có người lính đứng bên đường xin quá giang xe, hay xin nước uống.
Theo ảnh hưởng cuộc chiến, vùng nông thôn mỗi lúc mỗi mất an ninh, người nông thôn tràn về thành
phố mỗi lúc mỗi đông, Sài Gòn càng thêm xô bồ, đông đúc. Tiếng súng và hoả châu hằng đêm toả sáng
quanh Sài Gòn. Quân Mỹ ào ạt đổ vào miền Nam. Bờ sông Sài Gòn càng trở nên nhộn nhịp. Các loại
chiến hạm đủ loại mang cờ Việt Nam Cộng Hoà, cờ Mỹ, cờ Đại Hàn đậu đầy bến. Khu bờ sông trước
cửa Bộ Tư Lệnh Hải Quân được rào lại bằng lưới thép, không còn là nơi hò hẹn của trai thanh, gái
lịch thủ đô nữa. Công trường Mê Linh cũng được rào và ngăn chặn khi hữu sự, không cho dân chúng đi
qua. Ba chân cột tượng khi trước vẫn đứng trơ vơ trước bến sông, gió vi vu thổi tới. Trong hoàn cảnh
rối ren đó, chính phủ quân nhân ra đời với trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch Uỷ Ban Lãnh
Đạo Quốc Gia, thiếu tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung
Ương. Nhưng thực quyền và ồn ào nhất trong chính trường khi ấy là ông Nguyễn Cao Kỳ. Ngày quân
nhân cầm quyền là ngày 19 tháng 6 năm 1965, nên dịp kỷ niệm ngày ấy được gọi là Ngày Quân Lực,
tượng trưng bằng cuộc duyệt binh to lớn, mọi quân binh chủng Việt Nam và đồng minh đều tham dự.
Những đơn vị quân đội Mỹ to cồng kềnh xếp hàng 10 đặc cứng như một khối vuông di chuyển trên đại
lộ Thống Nhất, theo sau là những chiến xa hạng nặng, bề thế súng đại bác đen ngòm, kèm bên ống
nhòm hồng ngoại tuyến. Trên không máy bay phản lực bay qua, vượt bức tường âm thanh bùng vang
như sấm động, thả khói màu quốc kỳ tràn ngập bầu trời. Riêng toán quân của Tân Tây Lan thì khác, họ
ăn mặc như đoàn nhạc công thường thấy ở kinh đô Luân Đôn, Anh quốc, mặc váy kẻ ô, và thổi những
điệu kèn í o, đi hàng một, vòng vèo rất lạ mắt.
Ông Kỳ lên cầm quyền khi ấy mới 35 tuổi, dù chỉ có hai ngôi sao bạc trên vai áo, nhưng khi ông đến
khán đài tất các tướng lãnh Việt và đồng minh 3 sao, 4 sao đều đứng lên nghiêm túc giơ tay chào. Ông
Kỳ với hàng râu đen nhánh, ăn mặc đỏm dáng, mạnh bạo nói năng. Chính phủ của ông có tên “chính
phủ của người nghèo.” Ông đem Tạ Vinh ra bắn ở bùng binh chợ Sài Gòn, với lý do Tạ Vinh là
thương gia người Việt gốc Hoa, chủ những vựa lúa của miền Nam. Theo ông, chính Tạ Vinh làm cho
giá gạo lên nhanh, khiến người dân nghèo đói khốn khổ. Dân Sài Gòn đồn rằng “Tạ Vinh chết là một
Tạ Vinh giả. Tạ Vinh thật đã trốn đi Hồng Kông rồi.” Sự thật thế nào chưa thấy ai nói rõ. Sài Gòn
tạm yên và toàn dân rủ nhau đi bầu hiến pháp mới, những nhà lãnh đạo mới. Đệ Nhị Việt Nam Cộng
Hoà ra đời. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm phó.
Từ đó những tin đồn không vui giữa hai vị chánh phó hầu như không lúc nào dứt. Nhưng cái tên Ngày
Quân Lực thì vẫn còn từ ngày đó đến nay, cả nơi hải ngoại.
Khi chính phủ quân nhân sắp bàn giao cho chính quyền dân sự, chính phủ quân nhân muốn để lại một
số kỷ vật cho thủ đô Sài Gòn, bằng cách ra lệnh cho các Quân Binh Chủng QLVNCH, phụ trách dựng
tượng Thánh Tổ của Quân Binh Chủng liên hệ tại các công viên trong thành phố. Công việc này cụ thể
do Cục Tâm Lý Chiến, lúc ấy đại tá Vũ Quang làm cục trưởng. Phải làm thật mau trước thời gian
chuyển quyền. Mỗi quân binh chủng được cấp một số tiền dựng tượng (hình như 20 ngàn thì phải). Số
tiền quá nhỏ nên hầu như đơn vị nào cũng phải quyên góp anh em quân nhân trực thuộc để phụ thêm.
Công viên trước chợ Bến Thành là trách vụ của Binh Chủng Truyền Tin. Trước Toà Đô Chánh là của
Không Quân. Trước toà nhà Quốc Hội là của Thủy Quân Lục Chiến. Và công viên Mê Linh ở bờ sông
thì giao cho Hải Quân. Do đó công viên này được đổi tên thành công viên Bạch Đằng. Và pho tượng
dựng ở đây là tượng Đức Thánh Trần Hưng Đạo, Thánh Tổ Hải Quân.
Như mọi đơn vị khác, mọi quân nhân Hải Quân đều đóng góp tiền của vào công việc này. Ngoài ra,
mọi vấn đề kỹ thuật như làm cốt, đổ xi măng, dựng tượng đều do Hải Quân Công Xưởng phụ trách.
(Không phải là Công Binh như có tờ báo đã loan). Ngoài ra, trong thời gian này, Hải Quân đại tá Trần
Văn Chơn (sau vinh thăng đề đốc), trở lại Hải Quân, đảm trách chức vụ tư lệnh Hải Quân lần thứ hai.
Đó là một biệt lệ hy hữu. Ông có công hàn gắn các rạn nứt trong Hải Quân từ khi Hải Quân đại tá Hồ
Tấn Quyền bị sát hại sáng 1 tháng 11 năm 1963, và những tranh chấp sau đó. Ông cũng là người, trong
thời gian dài gần 8 năm, khéo léo chỉ huy, khiến Hải Quân bành trướng mau lẹ từ con số trên 4000
người, lên trên 40 ngàn người, để Hải Quân Việt Nam có khả nang tiếp nhận hàng trăm chiến hạm đủ
loại, hàng ngàn chiến đĩnh và những cơ tiếp vận rải rác 5 vùng duyên hải. (Bộ Tư Lệnh Vùng 5 Duyên
Hải đóng tại Năm Căn). Có người cho rằng ông được Đức Thánh Trần phù hộ, vì từ khi ông đi du
học, mất chức tư lệnh ở nhiệm kỳ đầu, về trông coi Lực Lượng Giang Thuyền nhỏ bé, căn cứ đóng bên
kia sông Sài Gòn, gần như đối diện với Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở bên này song, hàng ngày ông đều vào
đền thờ Đức Thánh Trần gần bên Bộ Chỉ Huy thắp hương lễ bái. Do đó khi dựng tượng Đức Thánh
Trần, công tác này còn được Hội Thánh Trần bên Khánh Hội tận tình hỗ trợ vật chất cũng như tinh
thần. Một điều trùng hợp nữa là vị tư lệnh Hải Quân cũng họ Trần như Thánh Tổ. Từ việc tôn vinh
này, trên chiến hạm, ngoài quốc kỳ, chiến kỳ và hiệu kỳ quốc tế, tại mũi chiến hạm của Hải Quân
VNCH, trong các ngày lễ còn cắm một thánh kỳ, lá cờ đuôi nheo như ta thường thấy tại các đền, miếu.
Ở giữa Thánh Kỳ có một chữ Trần, chữ Hán, tung bay. Và trong lễ nghi quân cách xướng ngôn viên
phải chính thức hô: Lễ rước Quốc, Quân và Thánh Kỳ.
Tượng Đức Thánh Trần đứng trên bệ cao, hình trụ tam giác, mũi nhọn hướng ra phía trước, tượng
trưng cho mũi thuyền đang lướt sóng ra khơi. Bệ này nguyên là bệ ba chân, tượng trưng đầu voi khi hai
vi nữ anh hùng Trưng Trắc, Trưng Nhị ngự trên lưng voi xung trận. Nay ba chân ấy được bít kín lại,
với ý nghĩa như trên đã nói. Đức Thánh Trần trong áo giáp, đeo trường kiếm. Tay trái tì trên đốc kiếm,
tay phải chỉ xuống dòng sông trước mặt, để nhắc nhở lời Ngài nói trên sông Hoá ngày xưa: “Phen này
nếu không phá xong giặc, ta thề không trở lại khúc sông này nữa.” Sau biến cố tháng 4-1975, một
số pho tượng ở các công viên Sài Gòn bị Cộng Sản phá bỏ. Nhưng đa số những pho tượng khác, Việt
Cộng chỉ đục bỏ những hàng chữ liên hệ tới các đơn vị cũ, còn bức tượng, là những vị anh hùng của
dân tộc, vẫn thấy để nguyên, trong đó có tượng Đức Thánh Trần ở công viên Bạch Đằng. Nhưng đối
với dân Sài Gòn, nhất là với anh em Hải Quân VNCH, thì họ nói với nhau: “Đức Thánh thiêng thật.
Ngài đã chỉ xuống sông từ lâu rồi, bảo kiếm đường thủy mà đi”
Ông Nguyễn Cao Kỳ nổi tiếng ăn nói ồn ào, nói trước quên sau. Ngày khánh thành tượng Thánh Tổ,
Hải Quân đã trình xin “Thiếu tướng chủ tịch tới chủ toạ”. Ông đã nhận lời. Hôm buổi lễ diễn ra,
quan khách và ngoại giao đoàn đến. Chờ mãi không thấy tướng Kỳ đến, Ban Ba Nghi Lễ gọi điện
thoại, mới hay “Thiếu tướng rất lấy làm tiếc…” Và đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trướng
được thiếu tướng chỉ thị đến thay. Trên nguyên tắc về lễ nghi, đại tướng nhỏ hơn bộ trưởng, nhỏ hơn
những vị đại sứ. Nhưng biết làm sao. Đại tướng đại diện cho thiếu tướng chủ tịch Uỷ Ban Hành Pháp
Trung Ương đến, mọi người từ Quốc Vụ Khanh, Bộ Trưởng, Đại Sứ đều đứng lên đón chào. Cuộc lễ
được diễn ra bình thường. Nay mấy chục năm đã qua với bao dâu bể, tượng Trần Hưng Đạo còn đó.
Những pho tượng ở những công trường khắp Sài Gòn còn đó, uy nghiêm, đẹp đẽ. Không biết do ai
mách bảo, hay chính là ý kiến của ông, trước khi rời chính quyền, ông Kỳ đã để lại cho thủ đô Sài
Gòn, những kỷ vật lịch sử, mà dù kẻ thù vô thần, tàn bạo là Cộng Sản Việt Nam, cũng không dám đụng
vào.
Hồi đầu năm 2004, nhân dịp Tết đi thăm Việt Nam, ông Kỳ ăn nói ồn ào đi ngược lại chính những điều
mà suốt thời trai trẻ ông đã hoạt động, đã tự hào, nhất là đi ngược lại ý muốn của cộng đồng người
Việt hải ngoại, nên ông là đối tượng để dư luận phiền hà, chống đối mạnh mẽ. Nhân nhớ lại chuyện
cũ, có lẽ ta nên cho ông Kỳ một điểm vớt vát, hy vọng ông bình tâm trở lại mà hành xử cho được dễ
coi ở lúc tuổi già.




ĐI MUA ĐỒ CŨ


Từ hômchuyển giao chiến hạm, thủy thủ đoàn xuống ở hẳn trên tàu, tàu tương đối rộng, mỗi sĩ quan có
một phòng riêng. Ngoài giờ đi học, thực tập, buổi tối chúng tôi qua phòng của nhau xem những thứ quà
mà bạn bè đã mua sắm được bày ra đầy phòng. Phần lớn là quần áo và đồ chơi cho trẻ con mua ở
Sears, vài thứ máy móc thì chúng tôi mua ngay trong Navy Exchange rẻ hơn nhiều, vì ở đây hầu như
không phải trả thuế. Nhân một hôm sang nhà anh bạn Trương Văn Tính ăn cơm, ở bên kia đảo
Coronado, nhà anh thuê, đồ đạc rất đẹp, tuy không còn mới, nhưng chúng tôi cũng vô cùng choá mắt.
Tôi hỏi anh “Trang bị một căn phòng như thế này tốn bao nhiêu.” Anh ngần ngừ một chút rồi nói
“Nếu mua thẳng, mới tinh từ Sears chẳng hạn thì một bộ bàn ghế cho phòng khách như vậy độ một
ngàn.” Trước con số ấy năm 1970, phụ cấp cho sĩ quan du học như chúng tôi 12 Mỹ kim một ngày, trừ
tiền phòng, tiền ăn, giỏi lắm để dành được 3 hay 4 Mỹ kim là cùng. Thấy vẻ mặt nghệt ra của chúng
tôi, anh Tính bảo “Nhưng với chúng tôi thì khác. Cả bộ bàn ghế này tôi mua có 25 Mỹ kim. Vì đây
là đồ cũ, tuy còn tốt, nhưng chủ nhà hoặc chán muốn thay đồ mới, hoặc họ đổi đi xa vừa bán vừa
cho. Những đồ đạc này được bày bán trước nhà xe, nên Mỹ gọi là garage sale.”
Biết được có thứ hàng lạ lùng này, hầu như cuối tuần nào anh Tính cũng đến tàu tôi rất sớm để chở
chúng tôi đi mua đồ garage sale. Thôi thì thượng vàng hạ cám, chúng tôi tha về tàu. Nhưng là những
món đồ lặt vặt, để được trong lòng xe nhỏ của anh Tính. Có những cái tủ lạnh hầu như mới tinh, giá
ngoài tiệm cả trăm, nhưng gia chủ chỉ bán 5 hay 10 Mỹ kim. Thích lắm mà đành chịu.
Trong số sĩ quan Mỹ có trách nhiệm huấn luyện và bàn giao chiến hạm, có một vị trung tá. Ông ta rất
có cảm tình với người Việt, vì đã có thời làm việc tại Việt Nam. Ông bảo “Thôi, cuối tuần tới khỏi
phải nhờ ai chở quý vị đi mua đồ cũ nữa. Nhà tôi hiện có rất nhiều đồ cũ, tôi sẽ đến đây đón quý vị
về nhà tôi, tha hồ chọn lựa. Và khi quý vị mua xong, tôi sẽ lấy xe truck của tôi chở những thứ quý
vị mua về tận tàu cho quý vị.” Quá mừng, cuối tuần đó, như đã hứa, vị trung tá đem xe đến cầu tàu
đón chúng tôi tới nhà ông. Xe chạy qua cầu Coronado rồi vòng vào khu dành riêng cho quân nhân Hải
Quân. Căn nhà khá đẹp. Trước nhà trồng cây xoan tây đang độ ra hoa tím, la đà lả ngọn che mát phía
trước căn nhà, làm mát thêm thảm cỏ xanh được cắt tỉa khéo léo bên lối đi là những mảnh đá có vân
xanh dẫn vào cửa chính. Ngay khi chúng tôi mở cửa xe bước ra, phu nhân vị trung tá mở rộng cửa,
đứng đó, tươi cười đón khách trong chiếc áo kimono thêu hình con phượng hoàng xoè đôi cánh vàng
óng ả dọc theo chiều dài bên thân áo. Bắt trước lễ nghi của người Phù Tang, bà chủ nhà chấp hai tay,
cúi đầu rất sâu chào khách, khiến mấy sĩ quan chúng tôi bàng hoàng khựng lại. Vị trung tá cười vui,
nói “Quý vị là những người khách quý đến từ Á Châu.” Chúng tôi chấp tay chào lại và tất cả cùng
cười vui. Bà chủ nhà ngửng lên, tươi như hoa, dơ tay mời chúng tôi vào nhà. Chưa hết ngỡ ngàng
trước bà chủ nhà rất Mỹ, nhưng có những cử chỉ rất Á Đông như thế, chúng tôi lại phải khựng lại trước
khung cảnh mở ra trước mặt. Có lẽ cũng đoán được phản ứng của chúng tôi, nên vị chủ nhà vui vẻ
“mời quý vị an vị đã.”
Ông hạm trưởng của chúng tôi được mời ngồi giữa chiếc ghế dài, hai bên là mấy sĩ quan chúng tôi.
Trước mặt, trên bức tường lớn ở ngay lối vào là một bức tranh sơn mài vẽ cảnh chùa Ngọc Sơn, Hà
Nội, mấy cây liễu rủ, che một khoảng trời óng vàng và có điểm những mảnh vỏ trứng lẩn sâu trong sơn
mài như dáng chiều đang tàn, một nét rất đặc thù của kỹ thuật sơn mài rất Việt Nam. Ở góc dưới bức
tranh có chữ ký của nhà sản xuất Thành Lễ. Ngay dưới bức tranh là hai đôn sứ hình hai con voi, mang
trên lưng hai chậu cây thông bon-sai nhỏ, nhưng dáng vẻ kỳ vĩ, già nua. Ở góc trái bức tranh, treo hờ
một cái nón lá có quai xanh màu hoa lý. Chỉ riêng mảnh tường trước mặt đã khiến những kẻ xa quê
hương chúng tôi như đang trở lại quê nhà, đang ngồi trong phòng khách của ngôi nhà sang trọng nào đó
giữa Sài Gòn mà nhớ về Hà Nội một thuở nào xa.
Bà chủ nhà sau khi chào khách đã lui vào phía trong, bây giờ lại trở ra, vẫn trong tà áo kimono sang
quý, bưng trên tay một khay nhỏ, trên đó là một đĩa bánh xếp thật đẹp trong chiếc đĩa nhỏ sơn mài ửng
hồng có hoa văn là mấy đoá cúc đại đoá mãn khai. Bà để khay bánh trên mặt bàn nước, khiến chúng
tôi cùng nhìn xuống. Mặt bàn nước là miếng kính dày trong, nhưng phía dưới mặt bàn là hình chạm nổi
cảnh Quan Công phò Nhị Tẩu, một tích trong truyện Tam Quốc Chí. Cái khăn gấm đỏ phủ một khay
vuông chân quỳ được mở ra, một bộ đồ trà gồm một ấm trà, một chén tống và tám chén con. Bà chủ nói
“Ngay khi nhà tôi gọi là xe chở quý vị đã chuyển bánh, tôi chờ 10 phút rồi mới rót nước xôi vào
ấm. Bây giờ đã trên 15 phút, tôi nghĩ trà đã ngấm. Quý vị là những người đến từ Á Châu, nơi xuất
phát về trà đạo. Xin quý vị dùng trà và cũng là để chúng tôi được chiêm ngưỡng phong thái tự tại
của quý vị.” Thật là tiến thoái lưỡng nan, nhưng vị hạm trưởng của chúng tôi là người có tài biến báo.
Tôi ngồi sát ông, thấy ông thở một hơi dài rồi xoa tay, với vốn tiếng Anh vừa đủ nhưng nhiều chữ phát
âm gần tiếng Pháp, ông nói“Thưa ông bà, trà đạo được biết nhiều qua người Nhật trong thời gian
gần đây. Nhưng thực ra trà đạo là một nghệ thuật dinh dưỡng tính tình của người Á Đông chúng
tôi từ những ngày rất xa, trong đó có cả người Việt Nam. Nhưng cái cốt tuỷ của trà đạo là phải để
cả tâm, thân thanh tịnh trong khi uống trà. Ấy là dùng lễ mà uống.” Vừa nói ông vừa rót trà từ bình
ra cái chén tống, rồi lại rót trà từ cái chén tống vào các chén con. Những giọt nước chảy thong thả, đều
hoà. Lần thứ nhất rót độ một phần ba vào các ly. Lần sau lại rót thêm, khiến các ly đều có một lượng
nước trà độ hai phần ba ly. Ông ngửng lên nói tiếp “Cái lễ trong trà đạo, cũng như trong giao tiếp
của đời thường, ấy là chén trà đầu tiên phải được dành cho người đáng quý nhất trong những
người tham dự.” Nói tới đó, ông đứng lên, bàn tay trái ông cầm chén trà, bàn tay phải đỡ dưới bàn tay
trái, tươi cười nói“Chén trà thứ nhất danh dự này không của ai khác mà là của bà.” Bà chủ nhà tỏ
ra ngỡ ngàng và lúng túng, chưa dám nhận ly trà, lùi lại một chút, như ngần ngại, và đưa mắt nhìn
chồng. Do đó vị hạm trưởng của chúng tôi cười vui hơn và tiếp “Vậy xin để nhờ ông đưa ly nước này
cho bà.” Ông chủ tươi cười đón nhận ly trà đưa cho vợ. Chính lúc đó vị hạm trưởng của chúng tôi nói
lớn “Xin quý vị hãy lấy mỗi người một ly trà, cùng đứng lên, nâng ly cùng thưởng thức ly trà hiếm
quý này.”
Trong khi chúng tôi, chủ cũng như khách nhâm nhi ly trà thơm, cũng là lúc ông chủ nhà lần lượt giới
thiệu những món đồ trang trí ở trong phòng khách “Dạ, cái bàn nước này tôi mua khi chúng tôi ghé
Hồng Kông. Bức sơn mài trước mặt quý vị tôi mua ở Sài Gòn. Cái nón lá treo cạnh đó chúng tôi
mua ở Đà Nẵng. Tấm thảm dưới chân chúng ta, tôi mua ở Ý. Cái đồng hồ treo ở góc tường kia tôi
mua ở Anh… Hơn 20 năm trong Hải Quân, trong đó có trên 10 năm tôi ở nước ngoài. Mỗi nơi tôi
tới, tôi thường chọn mua một món đồ tượng trưng. Bấy lâu vì cứ đi xa hoài, đa số đồ kỷ niệm này
còn để trong thùng. Giờ sắp vể hưu, chúng tôi chọn nơi này để dinh dưỡng tuổi già, nên mới bày
những thứ này ra treo…” Lúc ấy thì bà chủ nhà tiếp lời chồng “Vâng. Phải chính nhà tôi treo lên
mới được. Chứ có những món đồ tôi chẳng biết phải để thế nào cho đúng. Nhất là mấy chữ Trung
Hoa kia, tôi cứ để lộn tùng phèo hết, không biết trên dưới ra sao.”
Đĩa bánh đã hết. Mấy tuần nước cũng đã xong, mà không thấy ông chủ nói gì đến những món đồ garage
sale. Tôi nghĩ bụng“chẳng lẽ ông ta bán những món đồ mà ông ta đang hãnh diện khoe trong cuộc
đời thu góp của ông.” Đợi cho ông ngưng phần giới thiệu các vật quý trong nhà, tôi mới nói một
câu“Chắc ông không bán những thứ này. ”Vị chủ nhà bỗng trợn mắt cười “No, no.Never — Không,
không.Tôi không bao giờ bán những thứ này đâu.” Ông tiếp “Tôi có rất nhiều thứ khác hiện để
chật nửa nhà xe. Tất cả là 9 thùng lớn, nhiều thứ lắm, tha hồ quý vị lựa chọn.” Mọi người vui vẻ
bước ra nhà xe.
9 thùng giấy cứng tròn to, cao ngang tầm mắt, có nắp đạy và niềng đai sắt. Ông chủ nhà nói “Chúng tôi
có hai chị em. Bà chị tôi lấy chồng xa, ở bên phía Đông, còn tôi hầu như ở hải ngoại từ khi ra
trường nên khi bà cụ tôi mất, chỉ có bà chị tôi bay tới dự đám tang thôi. Tất cả những gì của bà cụ
tôi để lại do văn phòng bảo hiểm họ lo, họ bỏ cả vào trong này. Xin quý vị cứ mở ra, thích cái gì
thì mua cái đó.” Nói rổi ông lấy cây kìm lớn cắt các đai sắt và vứt các nắp thùng vào thùng rác gần
đó. Ông chìa tay mời “Quý vị cứ tự nhiên. Hy vọng từ hôm nay chúng tôi có chỗ để cả hai cái xe
vào trong nhà xe.” Mọi người xúm lại, mỗi người mở một thùng giấy ra coi. Thùng của tôi không đầy.
Trên cùng là cái radio hiệu Philip vuông. Lấy ra, tôi cắm vào lỗ điện cạnh đó, máy phát ra âm thanh rõ
ràng. Tôi ngước mắt hỏi ông chủ nhà xem giá bao nhiêu, ông cầm lên nhìn qua nói “25 cents.” Tuy
không đắt, máy còn tốt, nhưng hơi cồng kềnh. Tôi bỏ xuống. Lục lọi trong thùng thấy mọi thứ như vừa
từ căn phòng ngủ của bà cụ bỏ vào. Cái quạt giấy của Tàu vẽ cành hoa đào. Mấy lọ thuốc buộc chung
bằng băng keo. Cái kéo nhỏ. Cái gương cán mạ bạc đã có chỗ long, đen. Một khuôn ảnh nhỏ không có
hình… Một vật khá to nằm ngăn giữa thùng giấy, đó là một tấm tranh nhỏ cỡ ba, bốn mươi phân, vẽ
bằng bút chì, có mấy cây ở tiền cảnh, trước một cảnh đồi hoang vu. Vài dải mây dài lười biếng giăng
ngang trên nền trời cao. Nền trời ấy đã có chỗ hoen ố. Tất cả toát ra vẻ thoáng đãng, hoang vu, mang
một nỗi buồn nhẹ nhàng vô cớ.
Nhìn một lúc, tôi bỗng thích bức tranh, và nghĩ đây là bức vẽ của một người nhàn rỗi, vương vấn nỗi
nhớ nhà. Tôi đưa bức tranh ra soi dưới nắng và hỏi ông “Ai vẽ bức tranh này, và có bán không?”
Ông chủ nhà cầm bức tranh lên, nói “Chắc là ông cụ tôi vẽ… 25 cents.” Rồi tiện tay ông đập thủng
bức tranh, đưa cái khung nham nhở tờ tranh rách cho tôi, tiếp “10 cents OK.” Tôi sửng sốt không biết
nói sao. Đến lúc ấy tôi chưa mua được gì. Trong khi đó mấy người bạn tôi chọn được nhiều thứ lắm,
xếp ra một đống, hý hửng cười vui. Đợi hồi lâu tôi mới tiếp tục lục sâu xuống thùng đồ cũ. Tôi lôi ra
được thanh kiếm ngắn, có cả dây và cái ngù vàng dính vào thanh kiếm. Tôi rút thanh kiếm. Lưỡi kiếm
có một chỗ hoen rỉ. Tôi hỏi ông chủ nhà về lai lịch thanh kiếm. Ông nói “Đây là thanh kiếm của ông
cụ tôi khi ra trường lục quân. Lúc nhỏ tôi thường thấy ông đeo khi mặc đại lễ đi dự những cuộc
duyệt binh…” Nghe thế, tôi bỗng thấy thanh kiếm linh thiêng hơn, quý trọng hơn, tôi không có ý hỏi
mua bảo vật này. Tôi dựng thanh kiếm vào tường, tiếp tục chọn vài thứ lặt vặt khác, để sang một bên.
Ông chủ nhà cầm lấy thanh kiếm, ngắm nghía, rồi nói với tôi “50 cents.” Tôi bàng hoàng thực sự. Vì
tôi đang nghĩ, nếu ông cụ thân sinh tôi có một cây kiếm như thế, chắc chắn tôi sẽ cất giữ cẩn thận lắm,
để thờ. Tôi bỗng toát mồ hôi. Vì trong ví tôi, từ bao nhiêu năm rồi, khi ông cụ tôi mất, tôi vẫn cất giữ,
đem theo mình tấm ảnh của ông cụ. Tấm ảnh chụp năm 1949 để làm căn cước khi quê tôi lọt vào vùng
kiểm soát của Tây, vùng tề. Nhìn tấm ảnh ông cụ, tóc phủ gáy, râu ria lởm chởm, ngoài đôi mắt sáng,
nhìn thẳng cương nghị, ông cụ như một người vô gia cư, đói khát. Mà đói khát thật, vì khi chụp tấm
hình này, ông đang là một trong số người bị Tây bắt đi lấp đường, xây bốt cho chúng. Vậy mà tôi đã
nâng niu tấm hình ấy không rời. Vì ngoài tấm hình này, những tấm hình khác đã bị thiêu đốt cùng ngôinhà trong ngày Tây về càn quét làng tôi.


Ông cụ tôi là một nhà nho lỗi thời, sinh vào năm cuối cùng của thế kỷ thứ 19, là học trò của cụ nghè
Nguyễn, Thái Tử Thiếu Bảo Đại Học Sĩ, cậu ruột của thầy tôi. Như được kể lại, khi ông cụ tôi 16 tuổi,đã làu thông kinh sách, thông thạo các thể văn cáo, tế, chiếu, biểu có thể lều chõng đi thi được, thì ở Bắc Kỳ năm 1915, dưới áp lực của Pháp, triều đình nhà Nguyễn bãi bỏ những kỳ thi cũ và trên hoạn lộngười ta lấy chữ quốc ngữ và chữ Tây làm chính. Những ngày tôi còn bé dại, vào mùa rét, ông cụ thường cho tôi ngồi trong lòng ông, lấy hai tà áo dạ phủ tréo vào nhau, toàn thân tôi trừ đôi mắt đượcbọc kín, thật chặt, thật ấm. Ông ngồi đàm đạo với bạn bè về lẽ trung dung, không thái quá không bất cập, về tam cương, ngũ thường, trung hiếu tiết nghĩa, quân thần phụ tử phu phụ… mà như quên trong lòng ông có thằng bé lên năm, lên sáu vừa ngủ gật vừa lắng nghe. Những điều ấy như tình cờ thấm đượm trong trí não tôi, đặc biệt khiến tôi thuộc một số bài thơ của ông cụ khi tôi chưa đi học, chưa
biết chữ. Trong đó có bài thơ ông cụ làm để tặng vị thầy học và cũng là cậu ruột mình như sau:
Mừng Cụ Thiếu Bảy Mươi Tuổi.
Cõi thọ đài xuân khéo đắp bồi
Bảy mươi xin chúc chín mười mươi
Áo bào rực rỡ màu pha tía
Da đỏ hây hây tóc điểm mồi
Lộc nước dồi dào ơn vũ lộ
Nếp nhà rạng rỡ vẻ cân đai
Rõ ràng ngũ phúc vuông tròn cả
Thử hỏi nhân gian được mấy người
Trong những câu chuyện ngày xa xưa đó, tôi nhớ có chuyện người đàn bà đi cắt cỏ thi. Cánh đồng bát
ngát cỏ thi. Khổng Tử và học trò của ngài đi trên đường cái, thấy người đàn bà ngồi khóc thảm thiết.
Đức Khổng sai một học trò lại hỏi người đàn bà tại sao mà khóc thảm thương như vậy. Người đàn bà
đáp “Tôi đi cắt cỏ thi, tôi đánh mất cái châm cài tóc bằng cỏ thi, tôi tiếc nên tôi khóc.” Khổng Tử
bảo“Chị đi cắt cỏ thi, mất cái châm bằng cỏ thi, thì lấy cọng cỏ khác làm châm cài tóc, can chi mà
khóc.” Người đàn bà đáp “Đành rằng thế. Nhưng tôi tiếc là tiếc cái tình tôi đã có với cái châm mà
tôi dùng từ bao lâu nay.” Nghe thế, Đức Khổng Tử khen người đàn bà có nghĩa, mới bảo thày Nhan
Hồi ghi lại. Câu chuyện được viết trong Khổng Tử Gia Ngữ và được truyền qua hàng ngàn năm trong
nếp sống người Á Đông. Nhớ lại chuyện cũ, tôi nhìn thanh kiếm lần chót, rồi lặng lẽ bỏ lại vào thùng
đồ cũ. Lòng tôi phân vân, buồn bã khôn nguôi. Tôi không mua một món đồ nào trong hàng trăm món đồ
của người bạn Mỹ.
Trên xe trở lại tàu, mấy người bạn cười vui vì mua được nhiều món đồ rất lạ, rất đẹp với giá như cho
không. Riêng tôi, tôi bị ám ảnh về những điều vừa trải qua và kỷ niệm từ những ngày thơ dại. Trước
mặt tôi là quân cảng San Diego. Bãi biển mênh mông, xanh ngắt. Những con tàu chiến khổng lồ lặng lẽ đậu bến, nhưng tôi biết trong lòng nó là cả một kho vũ khí kinh khiếp có thừa sức tàn phá cả một thành phố trong nháy mắt.Chiếc cầu Coronado thanh tú uốn mình bắc ngang mặt vịnh, gối đầu vào những thảm cỏ cắt xén xanh tươi, cây trồng như vẽ. Trên mặt cầu từng đoàn xe tiếp nối chạy qua, êm ả như trong một bức tranh câm. Tất cả biểu lộ một nền văn minh đương thời sung mãn, đồng thời còn là biểutrưng cho nền văn minh cơ khí của Thái Tây, niềm hãnh diện cho người da trắng với suy nghĩ, hành xử như vị trung tá hải quân Hoa Kỳ đang lái xe chở chúng tôi đây. Sư thịnh vượng đó hiển nhiên, tôi không thể phủ nhận, nhưng hình ảnh những món đồ còn lại của một đời người như tôi vừa thấy, khiến tôi hụt hẫng, như một nỗi bất nhân. Ngước mặt mà đi tới, gạt bỏ những băn khoăn của quá khư mà hướng về tương lai, là đúng; hay vửa đi vừa ngoảnh lại để hoài niệm với người xưa, là đúng.

 Sai đúng như thế nào? Làm sao tìm ra thái độ đúng nhất để đi tới với sự thư thái của tâm hồn? Thế hệ cha ông chúng ta hình như quá lụy về quá khứ nên đất nước ta, dân tộc ta chìm đắm trong lạc hậu, bị người ngoài lợi dụng đưa đến cuộc chiến tranh kỳ lạ đầy khốc liệt này.
Nỗi lòng của tôi, sự đau xót của tôi liệu có mấy ai chia xẻ.


MỘT CHÚT NHỚ, QUÊN
San Diego, thành phố này không xa lạ với tôi, vì năm 1970, tôi đã đến đây với tư cách Sĩ Quan Đồng
Minh du học rồi lãnh tàu, mở đầu cho chương trình Việt Nam hóa chiến tranh. Tôi rời Sài Gòn lúc 12
giờ hôm 25 tháng 2 năm 1970 và đúng như lời thiếu tá Smith, vị sĩ quan liên lạc cho tôi biết, sau 18
giờ bay, tôi đặt chân lên lục địa này, phi trường San Francisco, cùng giờ và cùng ngày khi rời Việt
Nam : 12 giờ ngày 25 tháng 2.
Sau mấy giờ làm thủ tục và chờ đợi, tôi đáp một chuyến bay khác từ San Francisco đi San Diego. Máy
bay nhỏ, bay thấp, bay theo bờ biển tiểu bang California. Từ trên máy bay nhìn xuống, nước Mỹ với
tôi chỉ là những cụm đèn, chỗ nhiều, chỗ ít không dứt. Đến San Diego đã 10 giờ đêm. Tạm trú tại khu
BOQ, nơi cư trú của sĩ quan độc thân trên đường 32. Vừa để hành lý vào phòng, nhìn lên bàn viết đã
thấy chương trình làm việc cho ngày hôm sau và cả tuần lễ sau đó.
8 giờ 30 sáng ngày 26 trình diện đại tá Cassini, chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân San
Diego. Sau đó là những ngày bận rộn liên miên cuốn đi không ngưng nghỉ. Sửa soạn nơi cư trú cho tất
cả thủy thủ đoàn HQ.504 khi đến đây. Góp ý với sĩ quan liên lạc Hoa Kỳ để sắp xếp cho thủy thủ đoàn
thăm viếng các nơi tại địa phương và phụ cận như San Diego Zoo và Disney Land.
Hai tuần sau hạm trưởng và thủy thủ đoàn đến.
Những ngày túi bụi đi học chuyên môn, thực tập và làm quen với chiến hạm. HQ thiếu tá Phan Phi
Phụng là hạm trưởng. HQ đại úy Đinh Mạnh Hùng (Hùng mèo) làm hạm phó. Tôi là sĩ quan đệ tam.
Trở ra phòng khách, ngồi lọt thỏm nghỉ trong chiếc ghế nệm to, dày êm ái. Trước mặt bàn là tờ nhật
báo San Diego Union, nơi trang nhất có in hình chiếc hàng không mẫu hạm rẽ sóng, chui dưới dạ cầu
Coronado, tượng trưng cho ngày lễ khánh thành cây cầu lịch sử này ngày hôm trước, 24 tháng 2 năm
1970. Cây cầu nối liền eo biển từ San Diego qua bán đảo Coronado. Đang nhìn ngắm tờ báo thì có
tiếng người Việt Nam léo xéo từ ngoài cửa. Nhìn ra là một số bạn bè Hải Quân đến đây trước trong
chương trình thụ huấn để sau đó nhận lãnh tàu như chúng tôi. Người chạy lại ôm tôi là Lê Quang Lập,
cùng khoá. Lập nói “Nhìn tờ chương trình làm việc, biệt hôm nay “cụ” tới, mà không rõ giờ nào.
Không ngờ “cụ” tới trễ thế. Sẵn sàng quần áo đi, cần bàn ủi ủi lại quần áo không, qua phòng tui
mà lấy, mai trình diện đại tá chỉ huy trưởng, rồi hàng ngày đèn sách như tụi này, mệt nghỉ…”
Sau mấy tháng huấn luyện về hải hành, điện tử, phòng tai, hành quân đổ bộ thực tập hải pháo rồi rời
BOQ xuống sống hẳn trên chiến hạm. Hạm trưởng Phan Phi Phụng điều khiển chiến hạm, và thuỷ thủ
đoàn đã rất thuần thục trong mọi trách nhiệm của mình, nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy mình ăn nhờ ở
đậu, vì chiến hạm vẫn mang quốc kỳ Hoa Kỳ khi đậu bến cũng như khi hải hành. Chúng tôi chờ đợi
ngày lễ chuyển giao chiến hạm, nghe nói chính tư lệnh Hải Quân Việt Nam, phó đề đốc Trần Văn Chơn
sẽ qua Mỹ để chủ toạ và tiếp nhận chiến hạm này. Và ngày đó đã đến. Lúc ấy vị tư lệnh Hải Quân Việt
Nam mới có 1 sao trên vai áo. Nhưng khi máy bay chở vị tư lệnh Hải Quân từ phi đạo bò vào vị trí
tiếp đón, cánh cửa phi cơ mở ra, dàn quân nhạc danh dự bùng vang điệu nhạc đón chào, và lần lượt 19
phát đại bác từ một góc sân rền vang. Đô đốc Zummwalt, 4 sao trên vai áo, đương kim tư lệnh Hải
Quân Hoa Kỳ trong đại lễ trắng, đeo kiếm vàng bên hông ra tận chân cầu thang giơ tay chào vị khách
danh dự từ Việt Nam vừa đến. Phó đề đốc Trần Văn Chơn xuất hiện, cũng trong đại lễ trắng, và trên
ngực áo chi chít huy chương. Hai vị tướng lãnh tươi cười bắt tay nhau trong lúc ánh đèn ký giả loáng
nhoáng liên hồi. Hai vị duyệt đoàn quân danh dự trong quân phục Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến
bồng súng dàn chào. Dàn nhạc và tiếng đại bác vẫn ầm vang, rộn rã. Khi hai vị tướng lãnh trở lại khán
đài thì dàn nhạc và 19 phát đại bác cũng vừa chấm dứt.
Lúc ấy là tháng Sáu, trời San Diego còn lạnh. Gió từng cơn thổi lật bật những lá quân kỳ. Sau hai bài
diễn văn ngắn của chủ và khách, ông thị trưởng San Diego trân trọng được giới thiệu, tiến lên trao chìa
khoá vàng của thành phố San Diego cho vị thượng khách. Một chiếc xe đen bóng trờ tới, cắm bảng 4
sao và lệnh kỳ tư lệnh Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà. Một đại úy Hải Quân Hoa Kỳ làm sĩ quan tuỳ
viên, cũng trong đại lễ trắng, bao tay trắng, nhanh nhẹn mở cửa xe. Đô đốc Zummwalt chìa tay mời
phó đề đốc Chơn lên xe. Cửa vừa đóng, xe chuyển bánh, nhạc lại trỗi vang lừng. Đô đốc Zummwalt và
quan khách đồng loạt đứng nghiêm, giơ tay chào tiễn khách. Xe và đoàn tuỳ tùng của vị tư lệnh Hải
Quân Việt Nam đi thẳng tới khách sạn danh dự Del Coronado bên kia bờ vịnh San Diego, nơi dành để
tiếp đón những vị nguyên thủ, những thượng khách của thành phố này. Là sĩ quan phụ trách một phần
trong cuộc tiếp rước này, tôi được biết, dù vị tư lệnh Hải Quân Việt Nam mới có một sao, nhưng là tư
lệnh Hải Quân một nước, nên được kính trọng và tiếp rước với đầy đủ nghi thức dành cho vị tư lệnh
Hải Quân một quốc gia, ngang hàng với vị đương kim tư lệnh Hải Quân Hoa Kỳ.
Ngày hôm sau là ngày lễ bàn giao và tiếp nhận 2 dương vận hạm Quy Nhơn, HQ.504 và Nha Trang
HQ 505 được tổ chức trên sân chánh của HQ.504 đậu bên cầu tàu trong căn cứ Hải Quân Mỹ, San
Diego. Trong dịp này, ngoài những vị khách dân sự của thành phố, tôi còn thấy rất nhiều tướng lãnh
Hải, Lục, Không Quân, 2 sao, 3 sao đến dự. Về phía Hoa Kỳ, đô đốc Zummwalt là vị tướng lãnh cao
cấp nhất, ông tới sau cùng. Sau đó tư lệnh Hải Quân Việt Nam mới đến. Khi phó đề đốc Trần Văn
Chơn đến tất cả quan khách trên khán đài đều đứng lên đón chào vị thượng khách Việt Nam. Phần đầu
là nghi thức lễ hạ quốc kỳ Hoa Kỳ, điều khiển bằng tiếng Mỹ. Quốc ca Hoa Kỳ nổi lên. Lá quốc kỳ sao
sọc được từ kéo xuống, một thủy thủ Hoa Kỳ gập lại và trân trọng để trên bàn, trước mặt vị tư lệnh Hải
Quân Hoa Kỳ. Cột cờ trống vắng. Dây cờ lật bật trong gió biển thổi trùng trùng.
Thời gian như ngưng lại.
Bỗng tiếng hạm trưởng HQ.504, HQ thiếu tá Phan Phi Phụng vang lên “Nghi..ê…m. Lễ rước Quân,
Quốc và Thánh Kỳ.” Điệu quân nhạc ngắn, quen thuộc nhưng nghe hơi lạ vì cách hoà âm hơi khác, do
ban nhạc Hải Quân Mỹ trỗi lên. Rồi “Lễ thượng kỳ Việt Nam Cộng Hoà.” Quốc thiều Việt Nam Cộng
Hoà bùng vỡ, tràn ngập cả không gian, làm rộn rã những trái tim. Mọi người hướng về cột cờ chiến
hạm. Anh hạ sĩ giám lộ, quần áo thẳng cứng, trân trọng bưng trên tay lá đại kỳ. Một anh giám lộ khác
kéo dây. Lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ tươi thắm lần lần được mở ra, được kéo lên cao, lên cao nữa
rồi đậu ở đỉnh cột cờ, bay uốn éo trong nắng ấm, giữa bầu trời cao xanh của quân cảng San Diego.
Những tràng pháo tay vang dội. Sĩ quan và thủy thủ đoàn Việt Nam trong đại lễ trắng thẳng tắp lần lượt
hiện diện tại các nhiệm sở trên HQ.504 cũng như trên HQ.505. Không gian và thời gian như vừa đổi
khác. Tôi bỗng thấy tôi cũng vừa đổi khác. Nhìn đâu tôi cũng thấy những thân quen, những nụ cười,
những ánh mắt tưng bừng hãnh diện. Ban nhạc vẫn lần lượt cử những bản hùng ca. Quan khách lần lượt
ra về. Ở hạm kiều, trung úy Vũ Huy trong đại lễ trắng thẳng cứng, đeo kiếm, là vị sĩ quan trực đầu
tiên, đứng bên anh hạ sĩ quan và một thủy thủ trực nhật, cũng đại lễ trắng thẳng cứng đang lần lượt cất
tay chào quan khách rời chiến hạm.
Trong ngày lễ chuyển giao chiến hạm này, ngoài những vị khách chính thức tại địa phương, chúng tôi
có đạt giấy mời tới những bè bạn Việt Nam thân quen tại San Diego và phụ cận. Tôi nhớ trong điện
thoại niên giám ở San Diego năm đó, tổng cộng chỉ có 55 người Việt Nam, đa số là sinh viên du học;
một vài người đàn bà là hôn phối của quân nhân Hoa Kỳ, theo chồng về Mỹ; một số ít là người đang
dạy Việt ngữ cho quân nhân Mỹ trong căn cứ ở bên kia đảo Coronado. Trong số người này có bác sĩ
Nguyễn Tôn Hoàn. (Sau ông về nước làm phó thủ tướng). Nhưng đáng chú ý nhất có lẽ là hai chị em
cô H. Vì sau khi nhận lãnh chiến hạm, ngày cuối tuần hai cô thường tới thăm từ sớm, ở lại buổi trưa và
hai cô đã trổ tài nấu những món ăn rất Việt Nam. Nhà bếp sĩ quan tưng bừng mùi nước mắm, nào bún
bò Huế, phở…
Anh T., đang sửa soạn luận án tiến sĩ, có vợ Mỹ. Một hôm vợ anh, chị M. đem đến một thùng đầy bánh
cuốn đã làm sẵn nóng hổi, với đầy đủ cà cuống, nước mắm dấm, tôm khô giã nhỏ. Tất cả sĩ quan và
khách gần 20 người được một bữa ăn vô cùng ngon và bỡ ngỡ trước tài nội trợ hiếm có của người con
dâu dị chủng này. Được hỏi “chị học ở đâu cách làm bánh cuốn này”, chị bảo “Mẹ chồng tôi ở
Paris, mở tiệm ăn Việt Nam. Vợ chồng tôi sang Pháp nghỉ hè, hàng ngày tôi phải dậy sớm phụ mẹ
chồng làm bếp nên học được cách làm bánh cuốn, kho thịt, làm dưa, và cả nấu canh cá ám nữa…”.
Trong những nơi chúng tôi đi thăm, có trường Đại Học UCSD, và giáo sư Nguyễn Hữu Xương lúc ấy
là người Việt duy nhất giảng dạy tại đây. Lúc ấy ông đã nổi tiếng vì được coi là vị giáo sư thâm niên
nhất của viện đại học này, là giáo sư thực thụ cả 3 ngành Lý, Hoá và Sinh Học. Tất nhiên trong ngày lễ
chuyển giao tàu, ông là một vị khách quý được mời. Nhưng ngày ấy ông bận không đến được. Hạm
trưởng rất lấy làm tiếc, và giáo sư Xương cũng rất tiếc. Do đó hạm trưởng đã tổ chức một bữa cơm
khác trên tàu để mời giáo sư Xương.
HQ.504 tuy là con tàu cũ dược hạ thủy từ thế chiến thứ 2, nay được tân trang để chuyển giao cho Hải
Quân VNCH. Phòng ăn sĩ quan rất đẹp. Thảm xanh dày mầu lá mạ mới tinh, thơm phức. Dàn ghế bành
da to bóng loáng lấy từ phòng ăn của một khu trục hạm cũ, bỏ hoang dành cho phòng họp cấp đô đốc.
Quanh tường, trong lúc rảnh rỗi chính hạm trưởng đã vẽ những hoa văn chữ thọ bằng kim nhũ óng ánh.
Và ngay mảnh tường chính của phòng ăn, gắn một cái đàn cò như một trang chí rất nghệ thuật, rất Việt
Nam. Đây là các sản phẩm tiểu công nghệ được hạm trưởng mua sẵn từ Việt Nam đem theo làm vật
lưu niệm cho quan khách. Hôm nay có khách, cũng là dịp vui của chiến hạm. Bàn ăn rộng, khăn bàn
trắng tinh, thẳng cứng. Trước ghế ngồi có bảng tên viết trong khuôn giấy viền vàng có in mỏ neo ở góc
mặt. (do Tiếp Liệu Mỹ cung cấp). Khi xe của giáo sư Xương đến cổng ngoài của cầu tàu, lính Mỹ đã
gọi điện thoại thông báo cho chiến hạm. Sĩ quan trực, hạ sĩ quan, và một thủy thủ trực hạm kiều trong
y phục tiểu lễ, xếp hàng đón đợi như một vị thượng khách.
Khách vừa bước lên sàn tàu, hạm trưởng từ trong bước ra đón và hướng dẫn vào phòng ăn sĩ quan. Tất
cả sĩ quan đều đứng lên chào. Hạm trưởng giới thiệu vị khách quý với bộ tham mưu chiến hạm. Ghế
của hạm trưởng không bao giờ thay đổi, ở đầu bàn. Ngay bên phải ghế của hạm trưởng, là 1 ghế trống,
dành cho khách. Khi hạm trưởng và khách đã an vị, các sĩ quan mới kéo ghế ngồi vào chỗ đã được
định trước. Ai nấy đều nghiêm túc trong tiểu lễ trắng tinh, thẳng cứng, lon vàng, dây biểu chương óng
ánh. Hạm trưởng nói mấy lời chào, rồi nhường lời cho trung úy Sáu, sĩ quan ít thâm niên nhất, là sĩ
quan ẩm thực đứng lên đọc thực đơn. Bữa ăn bắt đầu. Hai anh hoả đầu vụ cũng quân phục trắng toát,
cà vạt đen trước ngực, bưng một khay bạc (mới mua ở PX Mỹ), lần lượt rót rượu vào ly cho mọi
người một cách rất điệu nghệ. Sau mỗi ly của khách, miệng chai được xoay nhẹ và khẽ nhấc lên, rượu
không rớt ra ngoài một giọt. Một vòng rượu quanh bàn, là một chai vừa hết. Hạm trưởng mời mọi
người nâng ly. Sau đó lần lượt là những món ăn được đem ra, vừa ngon và được xếp đặt rất đẹp.
Bữa ăn đã diễn ra với tất cả nghi lễ rất kiểu cách như định bởi hải quy của các Hải Quân Âu Mỹ. Tuy
nhiên món ăn thì pha trộn, vừa tây vừa ta, trong đó có món chả giò mà bánh tráng, nước mắm được
đem đi từ Việt Nam. Khi món tráng miệng được mang ra, mọi người như đã quen thân, giáo sư Xương
hỏi “Các anh ăn uống trịnh trọng, kiểu cách như vậy, còn thì giờ đâu mà làm việc…” Hạm trưởng
cười, nói “Đâu có. Ở Việt Nam chúng tôi sống rất đạm bạc. Bây giờ ở Mỹ, thực phẩm do Mỹ cung
cấp rất đầy đủ, nên việc đón tiếp giáo sư hôm nay cũng là dịp để chúng tôi thực tập các nghi thức
đã ghi trong hải quy mà thôi…” Mọi người cười xoà. Những nghi thức bỗng dưng tan biến. Hạm
trưởng lấy cây đàn cò treo từ trên tường xuống, trịnh trọng tặng giáo sư Nguyễn Hữu Xương. Từ cây
đàn cò khiến câu chuyện nhắc đến những điệu trống quân, đến các câu ru em, cò lả. Và tôi đã được
bạn cùng khoá, Đinh Mạnh Hùng (mèo) nói “Mày ngâm vài câu đi.” Mọi người ồn ào “Ngâm đi, cò
lả đi…” Không thể từ chối, tôi đứng ở giữa phòng, sửa soạn. Mọi người im phăng phắc, như đợi tiếng
đàn, nhưng mọi người nhìn nhau, chẳng ai biết đàn cả, cười khì.
Tôi đành cất tiếng:
Con cò (mà) bay lả (chứ) bay la.
Bay qua (là qua) ruộng lúa (chứ) bay về (là về) đồng xanh
Tình tính tang, tang tính tình,
Cô nàng rằng, cô nàng ơi rằng…
Mọi người bỗng vỗ tay theo, hát theo và cười vui.
Giáo sư Xương cũng vỗ tay, nhưng tôi để ý thấy mắt ông bỗng rưng rưng lệ. Tan buổi tiệc, giáo sư
Xương hỏi tôi “Là những sĩ quan, các anh có phải là những nghệ sĩ nữa không. Lâu lắm, tưởng đã
quên, tôi mới được nghe lại câu hát này. Câu hát làm tôi nhớ mẹ tôi…” Tôi nói “Không. Chỉ là sự
tình cờ, chúng tôi hát hò tài tử mà thôi.” Chúng tôi quen biết giáo sư Xương từ đó.
Con tàu đã trở nên thân quen với thủy thủ đoàn Việt Nam. Những rộn rã, những buổi tiếp tân, những
chuyến viếng thăm đây đó trên đất nước to lớn và hùng mạnh này đã lắng lại, đã nhạt nhoà. Những bữa
cơm trên tàu bắt đầu mang hương vị quê hương, nhiều rau hơn thịt. Những ngày nghỉ cuối tuần, nằm
trong lòng tàu, nghe tiếng nước êm ả xôn xao chảy miên man ở chân cầu, tôi có cảm tưởng mở mắt nhìn
qua cửa sổ tròn chiến hạm, mình sẽ thấy những hàng dừa xanh đong đưa cành lá ở bến Bạch Đằng.
Trong thinh không, nghe đâu đây như có tiếng xe xích lô máy nổ inh ỏi, khói phun mờ mịt chạy như đi
trốn, mất hút trên đường Trần Hưng Đạo Sài Gòn. Những ngày cuối tuần nằm nướng trong chăn mà nhớ
nhà, nhớ hơi ấm của vợ, nhớ tiếng nói ngây thơ của con. Nhớ con hẻm vào khu nhà mình, nhớ cả tiếng
động buổi mai nơi xóm nghèo bao quanh. Tiếng bước chân ai nặng nề quảy những đôi nước từ đầu phố
vào tuốt sâu trong ngõ mút xa. Nhớ những buổi dậy trưa, vợ chồng đèo nhau trên chiếc vespa màu
nhạt, đi tìm bát phở ấm đầu ngày. Nhớ vị phở ngọn đậm ở thìa nước đầu nếm thử. Nhớ vị cay nhẹ của
lát ớt, vị béo bùi của thớ thịt tái chạm vào đầu lưỡi… Ôi, nói thế nào cho hết. Nhớ từ cái mùi cống
hôi hôi đầu con ngõ phủ đầy rác rưởi nhớ đi. Nhớ đến quay quắt cả người. Nhớ nôn nao trùm phủ cả
trong giấc ngủ. Tôi chỉ mong chóng đến ngày tàu khởi hành về nước mà thôi.
Rồi ngày đó cũng đến.
Hôm tàu rời bến về nước, ngoài ban quân nhạc của căn cứ, trên cầu tàu có mấy người bạn mới quen
đưa tiễn. Anh Trương Văn Tính, một cựu sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, cùng dạy Việt ngữ cho quân
nhân Mỹ với các cô H, và bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn đưa tiễn. Chính anh Tính là người đã tháo khoen
dây cuối cùng cho tàu rời bến, về nước. Nhưng đứng một mình riêng lẻ là một người đàn bà Mỹ, người
bạn gái của một anh trung sĩ của tàu tôi. Không biết từ những quen biết nào mà những ngày cuối tuần
tại đây, những hôm không phải phiên trực, anh xin phép được ngủ ngoài như một quân nhân có gia
đình. Ngày sắp về nước, mọi người đi mua sắm, đồ mới thì ít mà đi mua đồ garage sale thì nhiều. Ai
cũng dành dụm cố tìm mua một cái tủ lạnh cũ đem về tặng vợ con. Đa số là những tủ lạnh còn chạy tốt,
nhưng cổ lỗ sĩ, cồng kềnh. Anh trung sĩ kia thì khác. Người bạn gái Mỹ của anh chở đến tặng anh một
cái tủ lạnh loại vừa vừa, mới tinh, còn bọc trong hộp. Bây giờ tàu rời bến, rời hẳn để ra khơi, vượt
Thái Bình Dương, về nước. Tàu tách bến, quay mũi. Tôi từ trên đài chỉ huy nhìn xuống, những người ở
lại giơ tay vẫy vẫy rồi lần lượt tản mát ra về. Trên cầu tàu, người đàn bà Mỹ vẫn còn đứng đó. Tàu xa
dần. Hình người đàn bà nhỏ dần, đen đậm như một cái chấm nhỏ, đơn độc, trơ vơ. Tàu đi dọc theo bờ
biển chi chít những con tàu nhỏ, loại tàu thể thao. Đường Broadway chạy dài hun hút ở phía tay mặt.
Tàu rẽ trái đi theo hướng chính nam, dọc theo bán đảo Paloma để ra cửa biển. Bên trái là bán đảo
quân sự. Cầu tàu có một hàng không mẫu hạm đậu. Những ngôi nhà thấp, nơi chúng tôi thường lui tới
học hành những ngày tháng qua. Gió đã nổi. Tàu sửa soạn rẽ mặt để thực sự ra khơi. Máy đã tiến 3.
Nhiệm sở vận chuyển và từ giã bến vừa dứt. Còi gọi phiên hải hành réo gọi. Mọi người trong quân
phục xám xanh, thay vì trắng, lên đảm nhận phiên hải hành thường lệ. Tôi ngoảnh cổ nhìn về phía sau,
qua những dãy nhà thấp của bán đảo Coronado, San Diego chỉ còn là mấy đỉnh nhà cao đã phủ mờ hơi
sương, và khói sóng. Không biết người đàn bà, kẻ sương phụ Tây phương kia có còn đứng ở cầu tàu,
hay đã âm thầm lui gót.
Khi con tàu rời khỏi cửa biển Point Loma, hướng mũi ra khơi, qua cái-phao-chuông chòng chành
buông những tiếng kêu lanh canh ở tận cùng cửa biển, lòng tôi vừa mừng vừa bâng khuâng, lo lắng.
Mừng là chúng tôi đang trên đường trở về quê hương, nơi vợ con đang nóng lòng chờ đợi. Bâng
khuâng vì nhớ tiếc những nơi mình đã ở, đã đi qua với tất cả lạ lùng, đẹp đẽ mà con cái mình, vợ con
mình không có cơ may được thấy. Lo lắng vì trước mặt là biển Thái Bình Dương mông mênh, sóng
gió, những trắc trở nào trên hải trình 40 ngày trước mặt.
Nhưng tôi cũng như mọi người trên tàu có lẽ đều nghĩ “Thôi, xin giã từ nước Mỹ. Xin trả lại những
huy hoàng, hùng mạnh của nước Mỹ cho nước Mỹ. Chúng tôi không ở đây nữa đâu.” Con tàu lầm
lũi đi.
Đêm đã xuống. Hải đăng ở mũi Point Loma đã không còn ánh lên nữa. San Diego xa dần và chìm khuất
dưới chân trời đêm còn hừng ánh sáng. Tiếng máy tàu chạy êm ả, đều hoà. Thái Bình Dương, một đại
dương lớn nhất của địa cầu, bỗng trở nên mông mênh, đe doạ. HQ 505 óng ánh đèn hải hành xanh đỏ ở
phía sau. San Diego xa hẳn. Cả vùng sáng mung lung không còn nữa. Thôi thế là giã từ nước Mỹ, và
tôi đã nghĩ tôi không bao giờ trở lại đây nữa. Xin vẫy tay chào.
Sau 7 ngày đêm hải hành ròng rã. Những vị trí hải hành thiên văn liên tục, chồng chất trên những vị trí
của máy loran vẽ trên các tờ giấy trắng không kẻ ô, không có hình núi non gì cả. Quang độ rất giới hạn
vì sương. Những đám sương hay mây mỏng bay la đà khiến mũi tàu nhấp nhô, khi ẩn khi hiện. Biển
đêm và chân trời mịt mùng, mung lung đen đặc. Tàu đi hay đứng nào có khác gì nhau. Phương hướng
cũng mịt mù, tất cả chỉ trông vào cây kim của la bàn. Đứng trên đài chỉ huy mà tôi như thấy có một sức
kéo nặng nề liên tục từ lòng biển sâu miệt mài hút xuống. Tuy biết mọi sự bình thường nhưng tôi vẫn
có cảm giác như tàu đang trôi đi, không định hướng giữa cơn mơ dị kỳ, huyền hoặc. Quanh tàu, dưới
ánh đèn hải hành trắng xoá, mờ nhoà như nỗi lo âu trong lòng tôi, sĩ quan trưởng phiên. Quanh tôi,
những nhân viên im lìm thu mình trong tấm áo ấm, lặng lẽ như những bóng ma. Mình đi đúng đường
không? Mình tỉnh hay thức đây? Radar mở tối đa tầm nhìn chỉ thấy những echo giả lẫn với những đám
mây. Không thấy gì ở trước mặt. Giữa lúc lo âu như thế hạm trưởng lên đài chỉ huy. Ông ngồi thu mình
trên ghế bành da, kéo cao cổ áo, lập loè điếu thuốc trên môi. Mọi người, không ai bảo ai, cả hạm phó
Hùng Mèo đều có mặt trên đài chỉ huy. Tôi lấy compas đo từng bước theo tốc độ.
Cứ như dự trù, chiến hạm chỉ còn cách mũi Diamont của Hawaỉi khoảng 30 hải lý mà thôi. Hạm
trưởng nói “Bảo nhân viên thám xuất cho chạy máy đo chiều sâu và chỉnh lại radar xem sao.” Con
tàu vẫn lầm lũi tiến. Mấy nhân viên quan sát bỗng đứng không, vì ống nhòm bị các sĩ quan xử dụng hết.
Bản đồ Hawaii được mở ra. Hạm trưởng chăm chú theo dõi từng chi tiết. Ông dùng ngọn đèn nhỏ soi
vào hình vẽ hải đăng trên đỉnh núi Kim Cương. Quang độ của hải đăng toả rộng với ghi chú chi tiết về
màu sắc, nhịp chớp tắt và độ xa nhìn thấy trong trường hợp bình thường. Ông quay ra, mỉm cười
“Đừng lo, độ một giờ nữa mình sẽ thấy đèn.” Vừa lúc ấy từ CIC gọi lên “Báo cáo đài chỉ huy.
Radar đã điều chỉnh xong. Đã thấy echo núi trước mặt.” Cả đài chỉ huy bỗng oà lên reo mừng. Hạm
trưởng nói “Báo cáo khoảng cách.” “38 miles!” Là sĩ quan hành quân kiêm sĩ quan trưởng phiên, tôi
đích thân xuống CIC để xem lại vị trí trên màn ảnh radar. Hình bờ biển phía đông Hawaii hiện ra rõ
dần. Vị trí chiến hạm đã được xác định chính xác bằng hai cung của radar. Tôi báo cáo lên dài chỉ huy
“Trình hạm trưởng. Chiến hạm ở bên phải hải lộ 1 hải lý, cách bờ 35 hải lý.” Tôi lên lại đài chỉ
huy, dù giữa đêm tối, tôi thấy như hạm trưởng mỉm cười. Ông nói“Cứ giữ nguyên cap này.” Giữa
đêm đen mù mịt, từ đỉnh hòn Kim Cương đèn xanh tím chớp tắt hiện lên lúc mờ, lúc tỏ ở hướng 11
giờ. Hạm trưởng nói “Ông ghi mọi diễn tiến vào sổ hải hành. Tôi lấy quyền chỉ huy chiến hạm.”Lúc
ấy đã gần 4 giờ sáng. Còi báo đổi quart. Tôi xuống phòng, để nguyên quần áo nằm nghỉ, nhưng không
sao chợp mắt được trước những lao xao, chuyển động của con tàu.
Khi còi tàu vang lên đổi quart, tiếp ngay sau là lệnh “Nhiệm sở vận chuyển, vào bến. Quân phục
tiểu lễ.” Lên lại đài chỉ huy. Trời nắng chói chang. Chiến hạm đang hải hành dọc theo bãi biển
Hawaii. Buổi sáng, biển vắng. Bãi cát vàng mềm mại. Waikiki Beach. Những toà nhà cao xững vút

lên
giữa những hàng dừa xanh ngắt che phủ những con đường sạch, đẹp như trong những bức tranh. Tàu
giảm máy, từ từ vào bến, bỏ khổi kỷ hà màu sáng trắng ở bên tả hạm, đài kỷ niệm những quân nhân
Hoa Kỳ đã bỏ mình trong trận oanh tạc của Nhật vào quân cảng này mấy chục năm về trước trong thế
chiến thứ 2. Tuy không cần, nhưng hai xuồng đẩy của quân cảng đã lởn vởn ở sau tàu. Hiệu kỳ chiến
hạm phấp phới. Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà mới tinh trên đỉnh cột cờ. Hạm trưởng đứng ở tả hạm
trên đài chỉ huy, nhìn bao quát trước sau. Đứng sau ông, nhìn ra sân mũi, tôi thấy mũi tàu đã chếch 15
độ so với cầu tàu. Khi dây số 1 vừa được ném lên, quàng vào trụ trên bờ, một hồi còi do anh giám lộ
rít lên, dây hiệu kỳ tức thì được kéo xuống. Trên bờ dàn quân nhạc, kèn đồng bóng loáng bỗng trỗi lên
một bản nhạc hùng chào đón chiến hạm VNCH cặp bến. Trong tiếng nhạc rộn rã ấy, nhân viên chiến
hạm Quy Nhơn, HQ.504 lo buộc dây và thả cầu lên bến, và bắt dây cho HQ.505 cặp vào hữu hạm. Khi
mọi việc đã xong, vị sĩ quan, hạ sĩ quan và nhân viên trực nhật đã nghiêm chỉnh đứng ở đầu cầu thang,
thì ban quân nhạc trên bờ ngưng cử nhạc. Một chiếc xe hơi đen từ xa từ từ chạy tới, đỗ ngay dưới chân
hạm kiều. Nhạc lại cử. Một vị trung tá Hải Quân Hoa Kỳ, đại diện cho quân cảng Hawaii trong quân
phục đại lễ, đeo kiếm từ trên xe bước xuống. Nhạc ngưng. Trên chiến hạm Quy Nhơn, Hải Quân trung
tá Phan Phi Phụng, (mới được thăng cấp) cũng trong y phục đại lễ, lon mới sáng trưng, kiếm vàng óng
ả, đứng đón khách. Vị khách bước lên hạm kiều, từ trên tàu nhân viên gác hạm kiều thổi một hồi còi
dài. Hạm trưởng và toán dàn chào đều nghiêm chỉnh giơ tay chào cho đến khi vị sĩ quan khách bước
tới sân chiến hạm. Hạm trưởng hướng dẫn khách vào phòng ăn sĩ quan. Ở đó tất cả sĩ quan chiến hạm
đều tề chỉnh đón khách. Bánh bày sẵn và rượu được rót ra, uống ít mà nghi lễ thì nhiều. Khi vị khách
ra về, vẫn ngần ấy nghi lễ. Sau đó dàn quân nhạc dãn ra, nhường chỗ cho một toán độ 10 cô gái
Hawaii, mặc váy bằng lá dừa, vòng hoa tươi tung tăng trên những đôi ngực trần nâu no đầy, chân đất,
nhảy nhót theo dàn nhạc dây nuột nà như sóng lượn. Từ trên tàu toàn thể thủy thủ đoàn nhìn xuống, vỗ
tay, cười nói quá xá.
Trong đám người lô xô trên bờ, một người đàn bà Mỹ cầm khăn tay đỏ dơ lên, khua khua. Từ phòng
lái, có tiếng ai đó gọi lớn “Này con bồ của trung sĩ nhà ta đón đợi kìa.”Theo nghi lễ của Hải Quân,
khi hạm trưởng chưa rời tàu, không ai được phép lên bến. Do đó dù phần nghi lễ đón tiếp đã hết, ban
quân nhạc đã ra về, cầu tàu đã bắc, mà không ai được phép rời tàu. Người bạn gái Hoa Kỳ có lẽ cũng
biết thế, nên đi lại bên hông tàu, chỗ đài chỉ huy, nói với lên, xin phép cho anh trung sĩ, bạn của bà ấy
được phép lên bờ. Bây giờ thì tôi nhìn rõ bà ta, người đã có tuổi, ít nhất là so với người bạn Việt
Nam. Hạm trưởng cũng đã được rõ ngọn nguồn câu chuyện nên ông cười, và nói “Thôi, cho anh ta lên
bờ đi. Tội nghiệp bà ta quá, từ Mỹ bay theo ra tận đây…” Lệnh ấy vừa ban, trung sĩ (tôi không còn
nhớ tên), trong tiểu lễ trắng tinh, từ trên tàu từ từ đi xuống bến. Ở cuối cầu thang, người bạn gái Mỹ đã
đón đợi. Khi anh vừa bước tới, bà ấy mở rộng vòng tay ôm, nhưng anh ta thay vì vòng tay ôm, lại để
hai tay khum khum trước ngực như tự vệ, như cái đệm cách ngăn giữa hai thân thể. Trong giây phút tao
phùng kỳ lạ đó, trên tàu lính tráng nhìn xuống đông nghẹt. Có một người nào đó kêu lên “Má ơi, má ơi,
con dzề nè...” Trên tàu lính tráng bỗng cười bung lên như phá. Người đàn bà Mỹ có lẽ không hiểu câu
nói vừa qua, chỉ thấy mọi người cười vui, nên vội buông người bạn trai ra, hướng mặt lên tàu, vẫy tay
và nói “Thank you, thank you all.” Trên tàu lại cười rộ lên một độ nữa. Trên cầu tàu, anh trung sĩ mặt
đỏ bừng, vội kéo người bạn gái đi xa khỏi cầu tàu. Trên tàu lính tráng tản dần, lo sửa soạn đi bờ, thăm
viếng Hawaii, vì 2 xe bus của quân cảng cũng vừa đến.
Sau mấy ngày nghỉ bến, mua sắm thêm, lấy đầy dầu nước, thực phẩm, HQ.504 và HQ.505 rời quân
cảng xinh đẹp Hawaii, lên đường về nước. Đoạn đường từ Hawaii đến Guam dài hơn nhiều, nhưng
lòng chúng tôi bỗng thấy yên tâm hơn. Ít gì mình đã có kinh nghiệm hải hành từ San Diego đến Hawaii.
Cứ thế mà đi. Trung úy Sáu thường la đà say, hai mắt hơi đỏ, nhưng đôi tay rất mềm, bình minh và lúc
hoàng hôn ông “bắt” những ngôi sao rất nhuyễn. Vị trí thiên văn của trung úy Sáu nằm chi chít sát bên
vị trí của máy loran dọc theo hải lộ. Chiến hạm đi vững như để, cắt đường nhật đạo, hôm ấy trùng vào
ngày lễ lớn của Hoa Kỳ, 4 tháng 7 lúc 3 giờ chiều. Sau phần nghi lễ “tiếp đón Thủy Thần”, trên nhật
ký chiến hạm được tăng lên một ngày. Tới Guam, vẫn ngần ấy nghi lễ đón chào, dàn quân nhạc, nhưng
không có các vũ nữ để ngực trần múa bụng, múa mông như ở Hawaii. Cảnh trí ở đây cũng khác. Không
có những hàng dừa xanh, những khách sạn vút trời, mà chỉ la liệt những căn nhà tôn mông mênh, và
một vùng vịnh lô nhô, lúp xúp san hô và chi chít những cột cờ chiến hạm to nhỏ đủ loại. Đặc biệt ở
trên tường ngay cầu tàu, một hàng chữ trắng thật to, nhìn xa như một khẩu hiệu, chiếm cả chiều cao của
bức tường: No smoking.
Rời Guam trực chỉ Phi Luật Tân, đoạn đường về nước đã gần. Qua eo biển ngoằn ngoèo của Phi, bỏ
quân cảng Subic phía sau, mở radio đã bắt được đài Sài Gòn. Đã nghe được tiếng nói thân thương của
đất nước. Hơn một ngày sau, trên hệ thống âm thoại đã nhận được lệnh từ Sài Gòn “Các anh có một
ngày neo tại Nhà Bè để sơn phết, sửa soạn vào bến. Các anh sẽ cặp cầu K. Bà Thượng Nghị Sĩ
Phan Nguyệt Minh sẽ là người đỡ đầu cho dương vận hạm Quy Nhơn, HQ.504…”
Có những người đi biển suốt cả một đời, khi tuổi già đến, giã từ biển khơi, về với bờ bến, với quê
nhà, nghỉ hưu bỗng tiếc “Mình đi tàu lâu như thế mà chưa xuyên nhật đạo bao giờ.” Mà nào nhật
đạo có gì đâu. Biển vẫn mênh mông, sóng vẫn trùng trùng. Trên hải đồ một đường vẽ tượng trưng phân
chia Đông và Tây của quả địa cầu. Thế thôi! Nhưng lạ thay, không phải ai đi biển cũng có cơ may đi
từ Đông sang Tây bán cầu, hay ngược lại. Qua đó từ Tây sang Đông, người thủy thủ đương nhiên được
tăng thêm một ngày hải vụ, với tất cả quyền lợi của người đi biển. Phụ trội hải vụ được trả thêm một
ngày. Mọi người được tư lệnh Hải Quân thừa lệnh Thủy Thần cấp bằng xuyên nhật đạo. Khi chiến hạm
qua đó, những nghi lễ đón chào Thủy Thần, tùy sáng kiến của thủy thủ đoàn được khuyến khích tổ
chức. Thường là rượu uống tha hồ, nhất là với Hải Quân Pháp và Âu Châu. Và tuy không nói ra nhưng
ai cũng biết, trước khi uống, người thủy thủ đều rót một chút rượu đầu chai xuống nước, như bày tỏ sự
kính trọng lẫn mừng vui cùng với Thủy Thần, quyền uy khuất mặt của biển khơi, cầu mong cho chuyến
hải hành tiếp theo được sóng yên, bể lặng. Tôi dù chẳng ước ao, cũng đã đi qua đường nhật đạo. Cũng
vượt Thái Bình Dương, đại dương lớn nhất của địa cầu. Đã ở Mỹ, tuy không lâu, cũng từng đi đây đi
đó. Coi như đủ cho chút vốn liếng giang hồ. Và tôi biết, biết một cách rất chân chất rằng, dù có đi đây
đi đó, tôi vẫn chỉ là một người nhà quê, sinh ra và lớn lên ở miền trung du đất Bắc. Đi nếm cơm thiên
hạ đó đây, nhưng tôi biết khẩu vị tôi gần gũi với nước mắm, với cá, với rau, hơn là với thịt thà, bơ
sữa. Nước Mỹ đẹp và hùng mạnh, nhưng sao tôi thấy lòng mình chìm ngợp nhớ thương quê nhà. Lúc ấy
năm 1970, nếu có ai hỏi tôi “Anh có muốn ở lại Mỹ không.” Chắc chắn tôi sẽ mỉm cười và thưa “Tôi
kính phục nước Mỹ, nhưng tôi muốn sống ở quê nhà, nơi tôi đã được sinh ra.” Đúng như thế.
Vậy mà chỉ 5 năm sau, ngày 30 tháng 4 năm 1975, cũng trên hải lộ ấy, nhưng ngược chiều, tôi đã cùng
trên 5000 người liều chết ra đi trên một con tàu cùng loại, dương vận hạm Thị Nại, HQ.502, một con
tàu hư đang sửa chữa. Tàu rời bến lúc nửa đêm ngày 29 rạng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Khi tướng
Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, Việt Cộng vào đến Sài Gòn, con tàu tôi còn nằm trong sông Soai
Rạp. Chuyến đi với biết bao gian lao, khốn khổ, thiếu thốn. Sống được đã là may. Tàu lết ra được cửa
biển, nhập vào đoàn tàu, và được kéo tới Subic Bay. Một cuộc lễ hạ kỳ đầy nước mắt. Và quốc kỳ Mỹ
được kéo lên. Quanh tôi chi chít những người, mặt mày hốc hác, mang vác lôi thôi, vợ theo con dắt.
Những người bại trận, không quốc tịch, đang tìm đất tạm dung. Tất cả mấy chục ngàn người được lùa
xuống hầm mấy con tàu chở hàng, đi thẳng tới Guam. Tàu đậu ngay bến cũ có bức tường kẻ chữ NO
SMOKING to tướng.
Và cũng thật tình cờ, gia đình tôi đã được bảo trợ để đến với thành phố này, San Diego. Tại đây trong
bàng hoàng mừng tủi, gặp lại những bè bạn ngày cũ. Bỗng chốc giờ đã trên 30 năm. Thời gian dài nhất
của đời tôi với một địa danh mà tôi cư ngụ, vì chắc rằng tôi còn ở lại nơi này cho đến khi nhắm mắt.
Phải chăng trước đây tôi đã đến đây, như một định mệnh, một an bài : Đến đây để biết, để thấy và để
chọn nơi này làm nơi tạm dung ở cuối cuộc đời. Lúc ấy San Diego còn nhỏ, còn đang mở mang. Cầu
Coronado mới xây xong được 5 năm. Xa lộ 8 coi như là ranh giới phía bắc của thành phố. Xa lộ 15
chưa chỉnh trang thẳng, và to rộng như bây giờ. Xa lộ 52 mới chỉ có một khúc từ 805 tới La Jolla ngắn
ngủn. Vì thế thành phố Santee như một nơi nào xa, khuất, cách trở. Vùng nhà đẹp Scripp Ranch, mới bị
cháy đây, khi đó còn là một vùng cây rừng bạt ngàn, nhà cửa thưa thớt. Khu Mira Mesa được coi như
một khu xóm khuất nẻo, vì con đường Mera Mesa chưa nối hai đầu vào 2 xa lộ 15 và 805. Và cộng
đồng người Việt chúng ta, năm 1975, phần lớn sống quanh quẩn ở vùng Linda Vista, cho gần với cơ
quan thiện nguyện đặt trong khu nhà thờ ở số 6970 Linda Vista Road. Chính từ địa chỉ này là nơi phát
xuất những dịch vụ giúp đỡ người tỵ nạn. Ngoài cơ quan USCC, với ông Nguyễn Hữu Giá làm giám
đốc, đến Trung Tâm Luật Pháp Hồng Đức với luật sư Nguyễn Hữu Khang, nghị sĩ Phạm Nam Sách. Cả
ba người ấy nay đã không còn nữa. Và sau này khi thảm nạn thuyền nhân trở nên khủng khiếp, nơi đây
là trụ sở của Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển, với tiến sĩ Nguyễn Hữu Xương là chủ tịch…
Ôi, bao nhiêu là người, bao nhiêu công tác, cứu người như chữa cháy. Rồi làn sóng người Việt ào ạt
đến, những nhu cầu mới, những dịch vụ mới, lần lượt hình thành một cộng đồng có trên dưới 40 ngàn
người với bao nhiêu sinh hoạt. Nói cho đủ là cả một công trình sưu tầm, biên soạn, to lớn không thể
gói ghém trong một vài trang viết.
Mới ngày nào bỡ ngỡ đến đây, nay nhớ lại đã là câu chuyện của ngày xưa với bao nhiêu quên-nhớ, bùi
ngùi.
VÀI KỶ NIỆM VỚI NGUYỄN THANH HÙNG
Hàng năm đã thành lệ, cứ đến mùa Lễ Tạ Ơn, là vợ chồng tôi khăn gói từ giã San Diego, lên sống một
vài tuần với gia đình thằng con lớn ở vủng Bắc Cali. Vì xuất thân từ Đại Học UCB, quen bạn quen bè,
nên sau hậu đại học thằng con tôi định cư tại vùng này. Lâu dần thành quen, dù rất muốn về gần cha
mẹ, anh em họ hàng, con tôi cũng không thực hiện được.
Ở Mỹ, công việc ở đâu gọi là mình phải đi.
Năm nay cũng thế, chúng tôi rời San Diego từ thượng tuần tháng 11, ở luôn trên vùng Bắc Cali đến đầu
tháng 12 mới về lại nhà. Tới nhà, việc đẩu tiên là ấn nút điện thoại xem có ai nhắn, gọi gì không.
Ngoài những cuộc gọi quảng cáo và vài người bạn hỏi thăm, không có gì phải quan tâm cả. Còn tin tức
trên Email, thì chúng tôi vẫn kiểm soát hàng ngày qua máy xách tay. Vậy mà, chúng tôi đã vuột mất
một tin rất quan trọng : Người bạn lâu năm, có với nhau bao nhiêu kỷ niệm, anh Nguyễn thanh Hùng,
tức nghệ sĩ Nguyễn Thanh đã mất mà chúng tôi không hay. Anh mất vào Ngày Lệ Tạ Ơn, 25 tháng 11
năm 2009, đúng lúc chúng tôi “đóng cừa đi chơi xa.”
Cho tới giữa tháng 12, chính chị Thanh Hùng (Thái Chính Nguyễn Kim Loan) gọi và nói “Anh có biết
nhà tôi đã mất rồi không?” Thật bàng hoàng!
Vì mới đây thôi, không đầy hai tháng, chúng tôi còn nói chuyện với nhau rất lâu, hầu như không dứt,
vậy mà…
Và hôm nay, 21 tháng 12, gần tròn một tháng anh ra đi, chị Thanh Hùng gửi cho tôi một phong thư lớn,
trong đó có các bài viết của bạn bè về những kỷ niệm đã có với anh Thanh Hùng. Qua đó, dàn trải qua
bao nhiêu năm tháng, con người nghệ sĩ Thanh Hùng đã sống, đã vui buồn cùng bạn bè ra sao, đã được
bạn bè yêu mến như thế nào, khó có ai có thể bì kịp.
Là một trong những người bạn khá lâu, từ những ngày anh mới vượt tuyến từ Bắc vào Nam, và cắp
sách đi học lại, tôi không nhớ đích xác anh vượt tuyến vào năm nào, có lẽ là năm 1956, qua ngả đường
Lào. Toà Đại Sứ VNCH tại Lào, sau khi thụ lý, đã chuyển anh về Sài Gòn và giao cho Phòng 5 Bộ
Tổng Tham Mưu (tức Phòng Tâm Lý Chiến sau này) khai thác. Lúc ấy ông anh tôi, đại úy Phan Lạc
Phúc phụ trách phòng này, thay mặt cho trung tá Nguyễn Văn Châu, Giám Đốc Nha Tâm Lý Chiến,
kiêm Trưởng Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu.
Thanh Hùng và ông anh tôi, hai người con trai Hà Nội, cả hai cùng có máu văn nghệ gặp nhau, vui
biết bao nhiêu. Lúc ấy Nguyễn Thanh Hùng chưa có giấy tờ gì, còn trong vòng xem xét, tra vấn, chưa
có tự do.
Nhưng tài liệu mang theo của Nguyễn Thanh Hùng, không phải là những đều liên hệ đến quốc phòng,
mà lạ thay là hàng ngàn bài dân ca miền Bắc mà anh đã sưu tầm cũng như lưu giữ được. Anh nói rằng
“Dân ca là cái hồn nước từ ngàn năm lưu giữ trong lòng dân chúng, mà mỗi miền, mỗi nơi, mỗi
sinh hoạt đều có những cách hát, cách ngâm diễn tả khác nhau. Chỉ riêng hai câu “Trúc xinh, trúc
mọc đầu đình, Em xinh em đứng một mình cũng xinh” có thể có tới 48 cách hát khác nhau.”
Nghe anh nói thế, nhân một buổi ông anh tôi chở anh trên xe jeep từ Bộ Tổng Tham Mưu ra Sài Gòn
rồi về nhà chơi, nhất là để gặp bác sĩ LNA (hiện ở Sài Gòn) là bạn thân của anh Thanh Hùng từ Hà
Nội.
Hai người gặp nhau cười toe:“Bố khỉ, sao hồi năm tư không đi, để bây giờ mới đi cho nó khốn khổ
ra thế?”
Sau cuộc hội ngộ ban đầu, chúng tôi đã coi nhau như bạn cũ, người của Hà Nôi cũ. Từ người này hỏi
lan qua người khác, cuối cùng tôi thắc mắc “Anh nói có 48 cách hát, anh hát được không?” Hỏi đùa
vậy thôi. Anh bảo “Được chứ!” Thế là anh lấy cái xe điếu lúc thì gõ nhẹ vào miệng cái bát, lúc thì gõ
xuống chôn bát, lúc nhẹ lúc mau, và anh cất tiếng hát:
– Này mà trúc xinh (ứ ư ) trúc mọc đầu đình…
Em tôi xinh ( mà em tôi đứng ý a) một mình
(xinh mà) cũng xinh.
Tiếng hát của anh bùng vỡ, chan hoà cả căn phòng.
Mọi người như bị chìm ngợp, cuốn hút theo tiếng hát của anh. Hết cách này, qua cách khách, từ cách
con gái Kinh Bắc hát, tới con gái xứ Đoài diễn tả. “Thầy cúng hát khác. Cô đồng hát khác… Nhưng
căn bản như chúng ta biết qua cách mẹ ru con, bà ru cháu là lối hát êm ả, dễ thấm vào lòng
người…” Anh nói như thế và đều hát biểu diễn theo mỗi loại. Khiếp quá. Sinh ra và lớn lên ở nhà
quê, chúng tôi từng nghe nhiều người hát, thấy nhiều cách hát, nhưng chưa thấy ai có giọng hát khỏe,
vang động và nhiều cách luyến láy, thay đổi lạ lùng như thế.
Sau đó, anh được giới thiệu với báo chí như một “anh hùng vượt tuyến.” Anh được đưa vào yết kiến
tổng thống Ngô Đình Diệm. Tên anh được báo chí nhắc nhở rất nhiều. Anh ghi tên đi học lại tại trường
Kỹ Sư Phú Thọ, ngành cầu cống. Rồi anh có tên trong phái đoàn tham dự Hội Nghị Liên Minh Á Châu
Chống Cộng, đứng đẩu là Trung Hoa Dân Quốc, do tổng thống Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Khi về
nước, anh cho chúng tôi xem một bức ảnh anh chụp cùng tổng thống Trung Hoa Dân Quốc. Bức ảnh rất
đặc biệt với cảnh tổng thống Tưởng Giới Thạch cười rạng rỡ, cười toe và ôm chặt vai anh. Tôi hỏi
“Sao ghê vậy?” Anh đáp “Trong buổi tiếp tân giã từ, Tổng thống Tưởng Giới Thạch hỏi “Có ai
muốn nói gì với Tưởng Tổng Tài không?” Lời người thông dịch vừa dứt, tôi giơ tay và nói: “Lúc
còn bé đi học, hàng ngày tôi phải đi qua phố Phúc Kiến, nơi đây có toà lãnh sự Trung Quốc. Trước
cửa Toà Lãnh Sự có treo bức chân dung một ông tướng thật đẹp, thật oai. Tôi chỉ mong có một bức
ảnh này đem về treo trong buồng học mà thôi. Nào ngờ hôm nay tôi lại có vinh hạnh được gặp vị
tướng oai hùng đó ở đây. Tôi… thật không ngờ…” Lời nói của tôi vừa được dịch xong thì tổng
thống Tưởng Giới Thạch (còn gọi là Tưởng Tổng Tài), nở toang nụ cười, chạy lại ôm chầm lấy tôi.
Máy ảnh bốn phía bấm lia lịa…”
Sau này, như nhiểu người biết, dù đã đậu bằng kỹ sư cầu cống, nhưng Nguyễn Thanh Hùng không hành
nghề kỹ sư mà chỉ xuất hiện trong những buổi trình diễn kịch, ngâm thơ. Khi thì anh làm cán bộ trong
Chương Trình Bình Định Nông Thôn. Và vào những năm cuối của Đệ Nhất Cộng Hoà, xã hội xáo trộn,
nhiều đoàn thể có những sinh hoạt phản đối chính phủ, anh bị nghi ngờ. Anh cho biết “Cảnh Sát, Mật
Vụ theo tớ quá. Liệu khó thoát, tớ mới đem tấm ảnh chụp cùng Tưởng Tổng Tài vào Toà Đại Sứ
Trung Hoa Dân Quốc, xin tỵ nạn. Nhìn thấy tấm hình, mọi người trố mắt kinh ngạc, nhờ đó tớ nín
trong đó cả tháng, hàng ngày được cơm bưng, nước rót, cho đến sau ngày 1 tháng 11 năm 1963,
ông Diệm bị lật đổ tớ mới rời toà đại sứ THDQ ra về.”
Thực ra chuyện vui buồn quanh nghệ sĩ Nguyễn Thanh còn nhiều lắm. Với riêng gia đình nhỏ của
chúng tôi, chúng tôi có một kỷ niệm, một món nợ với anh. Chúng tôi, chồng là quân nhân, vợ là cô
giáo, lương ba cọc ba đồng, nhưng bạn bè đông, ngày cưới không thể hạn hẹp được. Anh chị tôi giúp
đỡ, họ hàng xúm vào, chúng tôi tổ chức lễ cưới tại nhà hàng Văn Cảnh, giữa thủ đô Sài Gòn vào giữa
tháng Giêng năm 1965. Ngoài phần ca sĩ cơ bản, chúng tôi được anh Nguyễn Thanh Hùng nhận làm
ngườì điều khiển chương trình và lo phần phụ diễn. Như thường lệ, sau phần nghi lễ có mấy ca sĩ của
nhà hàng lên giúp vui, nhưng sau đó, khi anh Nguyễn Thanh lên sân khấu, không khí khác hẳn.
Anh ăn nói duyên dáng và trình bày bài thơ khá dài do anh sáng tác, mô tả cuộc sống một chiến sĩ Hải
Quân, ngày đêm lăn lộn với sóng nước, với trăng sao, nhưng lúc nào cũng thương nhớ người vợ mong
chờ bên song cửa. Bài thơ được chính anh ngâm vang, khiến ban nhạc và các cô ca sĩ như chìm lấp
đâu mất. Chúng tôi biết vì yêu mến chúng tôi mà anh đã sáng tác, đã trình diễn bài thơ này, trong ngày
cưới của chúng tôi, như lời chúc mừng — mà lời Chúc Mừng thì bao giờ cũng văn hoa, mang những
ước muốn đẹp đẽ. Biết thế chúng tôi vẫn thấy ngượng và cảm ơn anh rất nhiều. Tôi có hỏi anh, muốn
giữ bài thơ thì anh cườì, bảo“Hứng lên, nhớ đâu cương đó, rồi nhờ giọng ngâm lướt đi, chứ có
sáng tác, tối tác gì đâu.” Bây giờ đã trên 40 năm trôi qua, tuy xa cách, nhưng chúng tôi vẫn hằng
tưởng nhớ đến nhau. Tôi đã định một lúc nào đó sẽ mời anh đến San Diego chơi vài ngày. Chúng tôi
sẽ tổ chức một buổi vui thu hẹp để nghe anh ngâm lại những bài thơ một thời chúng tôi còn trai trẻ.
Nhưng mọi sự đã quá muộn màng. Anh không còn nữa.
Thanh Hùng ơi !
Vợ chồng tôi không bao giờ quên được bạn.
Bạn đã sống như một nghệ nhân không màng danh lợi, với tấm lòng đôn hậu, thanh thản, nhẹ nhàng, hồn
bạn sẽ sớm được thu hút về cõi Vĩnh Hằng, Tiên Cảnh.
Xin vĩnh biệt bạn ta.
( 21 tháng 12 năm 2009)




CỤ HOÀNG VĂN CHÍ, MỘT NGÔI SAO SÁNG


Cụ HoàngVăn Chí sinh ngày 1 tháng 10 năm 1913 tại Thanh Hóa, một tỉnh địa đầu của miền Trung,
cửa ngõ của sĩ phu Bắc Hà lều chõng vào kinh kỳ thi cử. Cụ mất ngày 6 tháng 7 năm 1988 tại Bowie,
Maryland, Hoa Kỳ. Cụ được sinh ra và lớn lên khi nền bảo hộ của Pháp đã thiết lập vững vàng trên
toàn cõi Việt Nam. Và cụ là một trong số ít người được đào tạo trong nền học thuật chính mạch của
người Pháp. Từ năm 1928 đến năm 1935, Cụ theo học tại một trường trung học danh tiếng của Pháp tại
Hà Nội, Lycée Albert Sarraut, và sau đó Cụ tiếp tục học tại đại học Đông Dương, một trường đại học
độc nhất cho cả Việt, Miên, Lào. Cụ đậu bằng cử nhân khoa học năm 1940. Đa số người xuất thân như
Cụ trở thành những viên chức cao cấp của Pháp với quyền cao, chức trọng và nhiều bổng lộc. Nhưng
với Cụ thì không. Vì từ những ngày còn nhỏ, Cụ đã được un đúc và có những hành động yêu nước rất
cụ thể. Năm 13 tuổi Cụ đã gia nhập phong trào đòi Pháp chấm dứt chế độ đô hộ tại Việt Nam. Cụ cũng
từng tham gia ngày tang lễ của nhà cách mạng Phan Chu Trinh. Cho nên khi cuộc kháng chiến chống
Pháp bùng nổ năm 1946, như đa số thanh niên yêu nước thời đó, Cụ đã theo Việt Minh đi kháng chiến.
Với kiến thức chuyên môn, Cụ được giao cho việc in tiền, gọi là tiền Cụ Hồ. Nhưng cũng chính thời
gian 9 năm kháng chiến, sống trong lòng cộng Sản, Cụ đã chứng kiến sự tàn bạo, lừa lọc, vô nhân của
Cộng Sản Việt Nam, nhất là qua trong phong trào Cải Cách Ruộng Đất. Do đó khi có hiệp định
Geneve, chia đôi đất nước, Cụ đã mau mắn rời khỏi vùng Cộng Sản, vào Nam. Với kiến thức và kinh
nghiệm sống, cụ đã thực hiện những tác phẩm sau:
- Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc.
- From Colonialism to Commmunism
- Từ Thực Dân Đến Cộng Sản
- Giai Cấp Mới Ở Miền Bắc.
- Duy Văn Sử Quan.
- Phật Rơi Lệ.
Tất cả những điều trên sau này tôi mới biết, nhưng qua cuốn Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, với tôi
trong các thập niên 1960, 1970, Cụ là một ngôi sao xa lấp lánh. Tôi theo dõi, nghiền ngẫm những bài
văn, bài thơ rừng rực khí phách, những nhận định sắc bén, phản ảnh những suy tư, cảm nghĩ cũng như
hành động dũng liệt rất cụ thể của nhân sĩ Bắc Hà. Qua đó tôi nghĩ, chính những tài liệu sống động ấy
của Cụ Hoàng đã góp phần không nhỏ trong việc thức tỉnh toàn dân qua phong trào chống cộng tại
miền Nam. Sau này khi cuộc chiến khốc liệt giữa Bắc, Nam, những tài liệu ấy càng trở nên có giá trị,
có ảnh hướng rất sâu rộng vào giới trí thức, văn nghệ sĩ miền Nam. Nhờ những tài liệu ấy, mỗi lúc
người ta càng thấy phải cố giữ lấy miền Nam. Bởi nếu thua, chúng ta chẳng những không còn đất sống
mà cả nhân phẩm của chúng ta cũng sẽ bị tiêu tan trước sự huỷ diệt khốc liệt không nương tay của
người Cộng Sản.
Nếu coi cuốn Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc của Cụ như một thứ vũ khí đánh vào lãnh vực tâm lý,
thì cuốn biên khảo của Cụ viết bằng Anh ngữ From Colonisalism to Communism, sau được chính Cụ
dịch ra Việt Ngữ dưới bút hiệu Mặc Địch, nhan đề Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, là một thứ vũ khí
khác đánh vào lãnh vực tư tưởng. Đặc biệt Cụ muốn đem chính những sai lầm, tàn bạo của chủ nghĩa
Cộng Sản mà chính Cụ đã kinh qua, dân tộc Việt Nam đã phải bất hạnh gánh chịu, cụ thể là công cuộc
Cải Cách Ruộng Đất được đảng Cộng Sản Việt Nam thẳng tay đem thi hành tại Bắc Việt vào những
năm giữa thập niên 1950. Tai họa ấy chẳng những đã giết hại, giết oan hàng trăm ngàn người dân Việt
Nam vô tội mà qua cuộc Cải Cách này đã làm đảo lộn cả xã hội Việt Nam, làm bại hoại nếp sống nhân
nghĩa ngàn đời của người dân Việt. Cuốn sách ấy được độc giả trong nước đón nhận trân trọng, và
được coi như một tài liệu hiếm quý, với những chứng cớ cụ thể về sự sai lầm và cực kỳ tàn khốc do
chủ nghĩa Cộng Sản đem lại. Do đó cuốn sách đã được dịch ra 17 thứ tiếng, trong đó có những thứ
tiếng tương đối xa lạ, ít được mọi người biết tới như tiếng Ả Rập, tiếng Urdu. Sau đó Cụ được mời
giữ một vai trò cao cấp trong ngành ngoại giao — Cụ làm phó lãnh sự của VNCH tại Ấn Độ.
Rồi từ đó, thời cuộc đưa đẩy, Cụ không có dịp trở về nước nữa. Tiếng tăm của Cụ vì thế ít được nhắc
nhở ở quê nhà. Nhưng trong sâu thẳm của lòng tôi, tên cụ, Hoàng Văn Chí, vẫn ẩn hiện lấp lánh trong
trí nhớ. Cụ vừa là một vị Thầy uyên bác, vừa là một chính khách kinh qua nhiều kinh nghiệm đắt giá
rút ra từ những ngày sống trong lòng xã hội Cộng Sản. Và thời gian càng trôi, niềm mong mỏi được
gặp Cụ trong tôi càng lúc càng xa.
Sau biến cố 1975, gia đình tôi cư ngụ tại San Diego, Hoa Kỳ. Vào những năm đầu, người Việt mình cư
ngụ ở đây còn thưa thớt. Chỗ đi lại loanh quanh năm bảy người. Một hôm giáo sư Lê Phục Thủy, giọng
trong như con gái, gọi tới “…Ông rảnh không, lại tôi chơi.” Tôi ngần ngại vì sắp đến giờ cơm tối
giữa tuần. Ăn xong như thường lệ, tôi lo đi nằm để sớm mai còn kịp dậy đi làm nên tôi tỏ ra ngần ngại.
Nhưng anh Thủy nói thêm “Ông lại tôi nghe ông chú tôi, cụ Hoàng Văn Chí nói chuyện, và vừa
nghe Cụ nói vừa ăn tối luôn…” Nghe đến tên cụ Chí, tôi mừng vui, nhân lời ngay. Từ nơi tôi ở, vùng
Đông San Diego, tới khu nhà anh Thủy, Mira Mesa khá xa. Lúc ấy đường 15 chưa chỉnh trang to rộng
như sau này. Đưởng Mera Mesa từ xa lộ 15 vào còn nhỏ bé như một đường quê, chưa khai thông nối
với đường 5. Hơi khó đi. Tới nơi, căn phòng khách nhỏ có mặt khoảng trên đưới 10 người.
Cụ Chí ngồi trong một ghế bành, ở góc phòng. Dáng người nhỏ nhắn, râu tóc điểm bạc. Không biết câu
chuyện bắt đầu từ khi nào, về vấn đề gì. Tôi rón rén ngồi nghe. Cụ nói “…Cũng lạ. Thế giới ngày nay
bị 4 người Do Thái thao túng. Hai người đầu là những vĩ nhân. Hai người sau là hai tên ác quỷ.”
Cụ ngưng lại, cười, rung nhẹ đôi hàng râu bạc, rồi Cụ tiếp “Người đầu tiên tôi muốn nhắc đến là
đấng Christ. Người đã rao giảng lòng nhân ái từ gần 2000 năm nay. Người thứ hai, gần với chúng
ta hơn, đó là nhà bác học Albert Einstain, với thuyết tương đối, một cánh cửa mở ra cho nền khoa
học của thế kỷ này.” Cụ ngừng lại , uống một chút trà, rồi tiếp “Còn hai kẻ phá hoại là ai? Thứ nhất
là Freud. Freud đã cho rằng nguyên nhân sâu xa chi phối mọi hành động của con người phát xuất
từ dục tính. Từ đó theo nhận định này, Freud đã kéo loài người xuống hàng súc vật.” Mọi người
bàng hoàng ngồi im, lắng nghe. Cụ lại tiếp “Kẻ cuối cùng trong bốn người Do Thái đó là Marx, đã
đẻ ra chủ nghỉa Cộng Sản. Tên này đã xướng lên thuyết duy vật, và đưa đến cuộc xung đột tàn
khốc giữa hai khối Tư Bản và Cộng Sản hiện nay, mà khốn nạn thay, nơi xẩy ra cuộc thư hùng ác
liệt ấy lại là đất nước Việt Nam chúng ta. Máu xương của đồng bào ta cả Bắc cũng như Nam đã đổ
ra từ đó. Và chúng ta lưu lạc đi khắp mặt địa cầu cũng khởi đi từ đó.”
Lúc ấy mùi đồ ăn đã thơm. Chị Thủy ra hiệu cho anh Thủy mời Cụ và mọi người vào bàn. Trong bữa
cơm chỉ còn là những thăm hỏi về cuộc sống thường ngày. Tôi ngồi ở cuối bàn không có cơ hội được
hỏi Cụ đôi câu, và đêm cũng đã khá khuya. Tôi đứng lên xin phép Cụ và gia chủ, đi về để mai còn đi
làm sớm. Vì thế, tuy đã nhìn thấy Cụ, đã nắm được bàn tay ấm áp của Cụ, nhưng với tôi, Cụ vẫn còn
thật là xa cách. Trên đường về nhà, trời đêm đã khuya, từ vùng ngoại ô, bầu trời sâu thẳm, thấp thoáng
có những vì sao lấp lánh rất xa. Có khi nào tôi được gặp lại Cụ, được trò chuyện cùng Cụ?
Nỗi khắc khoải ấy im lắng trong tôi như một giấc mơ thầm, vậy mà cơ hội ấy đã đến. đến một cách thật
tình cờ và thân thiết.
Năm 1986, năm thứ hai của chiến dịch Vớt Người Biển Đông và là năm hoạt động thứ 6 của Uỷ Ban
Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển — Boat People SOS Committee. Theo đề nghị của chị Trương Anh
Thụy, đại diện Uỷ Ban tại vùng Hoa Thịnh Đốn, và cũng theo lời mời của giáo sư Lê Xuân Khoa, chủ
tịch Trung Tâm Tác Vụ Đông Dưong, tôi được đại diện cho giáo sư Nguyễn Hữu Xương, chủ tịch Uỷ
Ban, đến Hoa Thịnh Đốn gặp một số đoàn thể để chính thức trình bày về hoạt động của Uỷ Ban trước
cộng đồng ta tại đây. Buổi gặp gỡ được tổ chức tại một trường Đại Học, có rất nhiều đại diện cộng
đồng tham dự. Tôi đã trình bày khái quát về sự hình thành cùng những hoạt động tiêu biểu của Uỷ Ban,
đại để:
“… Do một sự tình cờ mà Uỷ Ban được thành lập. Tình cờ nhà văn Nhật Tiến là một nạn nhân của
thảm nạn thuyền nhân…
… Trong quá khứ, giữa chúng tôi và nhà văn Nhật Tiến là đôi bạn rất thân khi còn học trung học ở
Hà Nội. Và cũng tình cờ năm 1970, chúng tôi đi lãnh tàu tại San Diego, chúng tôi đã có cơ may
gặp được giáo sư Nguyễn Hữu Xương, ông là thượng khách xuống thăm chiến hạm. Rồi sau 1975,
chúng tôi lại định cư tại đây, những thân quen được nối lại… Và cũng thật tình cờ giữa lúc thảm
nạn thuyền nhân khủng khiếp nhất thì giáo sư Xương đang là một nhà khoa học, với khám phá mới
được coi là tài sản của quốc gia Hoa Kỳ. Khám phá ấy mang tên ông là Xuong Machine. Từ đó ông
được các đại học danh tiếng tại Mỹ cũng như nhiều nơi trên thế giới mời tới thuyết trình… Nhưng
trên căn bản, giáo sư Xương là một người xuất thân từ đại học Paris nên khi hợp tác với Hội Y Sĩ
Thế Giới của Pháp, mọi việc đã được diễn ra với rất nhiều thông cảm, dễ dàng bằng Pháp ngữ.
…Hơn thế nữa cũng thật tình cờ trong Hội Y Sĩ Thế Giới có một bác sĩ Việt Nam tham dự, đó là
bác sĩ Đinh Xuân Anh Tuấn, thường gọi là bác sĩ Đinh Tuấn, ông đã đóng vai trò bản lề giữa Hội Y
Sĩ Thế Giới và Uỷ Ban một cách thật hữu hiệu. Nói cách khác, nếu không có bác sĩ Đinh Tuấn, hai
tổ chức không gặp được nhau, và suốt mấy năm trường ròng rã, chính vai trò bản lề giữa hai tổ
chức của bác sỉ Tuấn đã khiến các chiến dịch Vớt Người Biển Đông hàng năm diễn ra thật nhịp
nhàng, tốt đẹp.
…Và cũng tình cờ khi Uỷ Ban hợp tác với Hội Y Sĩ Thế Giới đem tàu ra Biển Đông, cần một người
có thì giờ, có chút hiểu biết về hàng hải, nhất là về bờ biển Việt Nam, có khả năng về tổ chức và
viết lách, là chúng tôi. Đang đi làm thì bị thương gãy 3 ngón tay trái (tôi giơ tay trái ra, còn băng
ba ngón tay, nằm nhà), nên chúng tôi mới có thì giờ để đi đây đi đó thay mặt giáo sư Xương giải
đáp những thắc mắc của đồng bào…
…Trong sự tình cờ đó, chúng tôi mong mỏi thảm nạn thuyền nhân mau được giải quyết, hay có ai,
có tổ chức nào đứng ra nhận lãnh thay cho chúng tôi. Chính vì niềm mong mỏi này mà chúng tôi
tới đây, thủ đô Hoa Kỳ, cũng là nơi quy tụ bao nhiêu nhân tài, bao nhiêu nhà văn, nhà báo tiếng
tăm, những học giả lẫy lừng… Biết đâu chính quý vị sẽ thông cảm với nỗi thống khổ của đồng bào,
thông cảm với những khó khăn trong trách nhiệm chẳng đặng đừng mà anh em chúng tôi tại San
Diego đã phải gồng mình thực hiện trong thời gian qua, quý vị sẽ đứng ra cụ thể hỗ trợ chúng
tôi…
… Về hoạt động, trong 5 năm đầu từ 1980 tới năm 1985, như tên gọi, Uỷ Ban là nơi đem thảm
trạng thuyền nhân tới những cơ quan có thẩm quyền, trước dư luận thế giới để những nơi này tìm
giải pháp cứu giúp thuyền nhân. Trong công tác đó vai trò dịch thuật của anh James Banerian đã
đóng góp rất quan trọng. ..
…Từ năm 1985, Uỷ Ban hợp tác với những tổ chức nhân đạo thế giới, đem tàu ra khơi, trực tiếp
cứu vớt thuyền nhân, Uỷ Ban có một chu trình hoạt động kín suốt năm. Khởi đầu thường vào tháng
4, khi gió mùa Đông Bắc vừa hết, biển êm, cũng là lúc kỷ niệm đau thương, ngày miền Nam lọt vào
tay Cộng Sản, chúng ta đem tàu ra biển, khởi đầu cho chiến dịch Vớt Người Biền Đông. Với chiếu
khán xin được và ngân khoản thu được, tàu thường chỉ hoạt động trong vòng từ 45 ngày tới 60
ngày thôi. Những ngày sau đó là việc lo định cư cho những người mà đã vớt được, đồng thời cũng
là thời gian để chúng ta khai thác, cổ võ những thành quả vừa đạt qua những cuộc đón tiếp thuyền
nhân tới định cư tại những quốc gia đệ tam, nơi đã cấp chiếu khán cho họ. Sau đó mùa Đông đã
đến, vùng biển Đông gió Đông Bắc đã thổi, biển động, mùa vượt biên cũng giảm. Nhưng lúc này là
mùa lễ lạc, đoàn tụ như Lễ Tạ Ơn, Giáng Sinh và Tết truyền thống của chúng ta. Đây cũng là lúc
chúng ta khai thác triệt để những thành quả của công tác Vớt Người Biển Đông và tổ chức gây quỹ
quy mô. Sau mùa lễ nói trên, qua những kết quả thu được, chúng ta sẽ dự trù công tác trở lại Biển
Đông trong những ngày sắp đến. Cứ như thế, chúng ta có một chu kỳ kín, mọi công tác giao thoa
nhau, trọn năm…Và Uỷ Ban là một tổ chức bất vụ lơị, được chính quyền của tiểu bang Cali cho
phép hoạt động, nên mọi đóng góp của đồng bào đều được cấp biên lai để trừ thuế. . .”
Khi chúng tôi dứt lời, cựu trung tướng Linh Quang Viên, là chủ tịch cộng đồng tại địa phương lên phát
biểu. Trung tướng đã có những lời rất đẹp ca ngợi Uỷ Ban. Chúng tôi đã thưa lại rằng “Chúng tôi
nghĩ những cảm tình nồng hậu mà trung tướng vừa trình bày, chính là nỗi xót thương trước thảm
hoạ của thuyền nhân mà có. Uỷ Ban chúng tôi không dám nhận lãnh những lời khen ngợi ấy. Xin
trung tướng cũng như toàn thể quý vị hãy cụ thể dành cho đồng bào còn đang gặp ngàn vạn nguy
nan trên Biển Đông. Vì từ bao ngàn năm dựng nước, chưa bao giờ người Việt phải bỏ nước ra đi
như thế, kể cả năm đói, chết hàng triệu người như năm Ất Dậu, 1945…” Ngay khi tôi vừa rời bục
thuyết trình thì chính học giả Hoàng Văn Chí tiến ra. Cụ cười, mở rộng hai cánh tay, và nói “Ông cho
tôi ôm ông một cái.” Một vòng tay thật nồng nàn. Và Cụ kéo chúng tôi trở lại bục thuyết trình. Cụ
đứng im lặng khá lâu, và tôi thấy nét mặt cử toạ như bồi hồi, dịu xuống. Tôi nhìn sang Cụ. Đôi mắt Cụ
đỏ hoe. Đợi cho cơn xúc động lắng đi, Cụ thong thả nói: “Ông Tiếp nói đúng. Nỗi thảm nạn của
đồng bào ta to lớn quá. Suốt bao ngàn năm, qua bao nhiêu cơn gian nan, khốn khó, chưa bao giờ
đồng bào ta bỏ nước, bỏ mồ mả tổ tiên mà ra đi như thế. Bằng mọi giá, là những người đã may
mắn thoát dược đến bờ Tự Do, chúng ta không thể làm ngơ được.” Đứng lặng một chút, Cụ tiếp
“Ông cho tôi gửi lời thăm giáo sư Xương và toàn thể quý vị trong Uỷ Ban. Tôi có được anh Thủy
(giáo sư Lê Phục Thủy), nói nhiều về giáo sư Xương và ông. Các ông không nên khiêm tốn quá.
Như quý vị đã biết, tôi và nhà tôi có lập một hãng tương, một thứ nước chấm thuần túy Việt Nam.
Kể từ hôm nay, hàng tháng chúng tôi sẽ gửi đến Uỷ Ban tất cả lợi nhuận mà chúng tôi thu được.”
Mọi người vỗ tay hầu như không dứt.
Từ đó hãng tương Cự Đà có tên Mỹ là Việt Nam Food & Drink Inc. tại 3824 Ironwood Pl, Landover,
MD 20785, mỗi tháng đều gửi vể Uỷ Ban trên dưới 1000 Mỹ kim. Bên cạnh đó, cũng từ hãng tương
này, những thân hữu, những khách hàng hay những người nói là học trò của Cụ ở Mỹ cũng như ở
Canada, ở Pháp đều tiếp tục gửi chi phiếu tới Uỷ Ban để hỗ trợ cho công tác Vớt Người Biển Đông.
So với những nơi khác, ngân khoản từ vùng Hoa Thịnh Đốn gửi về không nhiều lắm, (nhiều nhất là
vùng San Jose), nhưng mỗi chi phiếu là một đóng góp thật đặc biệt, thật ý nghĩa. Một lần cụ bà Hoàng
Văn Chí gửi về Uỷ Ban một phong bì vàng, lớn, trong đó có tất cả 68 chi phiếu, tổng cộng là 3389 Mỹ
Kim, kèm theo một lá thư Cụ Bà viết “Đây là số tiền của một cặp thanh niên mới cưới ngày 14
tháng 6 năm vừa qua (1987), thu được, bằng cách yêu cầu bà con, bạn bè tới dự lễ cưới đừng cho
quà, đừng cho đồ mừng mà cho một ngân phiếu giúp thuyền nhân.”
Trong buổi họp hàng tháng, giáo sư Xương đã mở phong bì này và đọc bức thư cho mọi người trong
Uỷ Ban được biết. Ai cũng tỏ ra cảm xúc đặc biệt. Do đó ngoài lá thư gửi tới hai cụ Hoàng Văn Chí,
giáo sư Xương còn viết một lá thư gửi tới cặp vợ chồng mới cưới này, với những lời chúc rất ân cần.
Bây giờ, (năm 2008), cuộc hôn nhân này đã trên 20 năm. Có thể cháu đầu lòng của anh chị ấy đã hay
sắp xong 4 năm đại học. Tôi nghĩ các con của anh chị ấy phài là những đứa con hiếu thảo và thông
minh. Các cháu đã được sinh thành, nuôi dưỡng trong môi trường nhân hậu ấy, chắc chắn phải là những
thành phần tốt cho cộng đồng, cho xã hội.
Năm sau, 1988, nhân chuyến công tác tại vùng Hoa Thịnh Đốn, giáo sư Lê Phục Thủy, tân phó chủ tịch
Uỷ Ban, (thay thế luật sư Nguyễn Hữu Khang mới mất), ông được giáo sư Nguyễn Hữu Xương ủy thác,
đại diện Uỷ Ban tới thăm hai cụ Hoàng Văn Chí, trân trọng trao tặng hai cụ tấm huy hiệu của Uỷ Ban
với lời ghi ơn sự đóng góp trân quý của hai cụ. Sau đó ít lâu, chúng tôi nghe tin Cu Ông yếu và mất.
Trước khi qua đời Cụ đã dặn lại người thân “Khi tôi mất, nếu ai có mến thương tôi, xin đừng cho
hoa, cho lễ vật gì cả, mà xin cho tiền. Các chi phiếu ấy xin đề, gửi cho Boat People SOS
Committee.” Tất cả thân quyến và bạn bè đã làm theo. Các chi phiếu ấy tổng cộng gần 7000 Mỹ Kim.
Cầm các chi phiếu này, chúng tôi run tay và ứa nước mắt. Sao lại có người có tấm lòng yêu thương
đồng bào tha thiết, tận tình và cụ thể như thế? Con người chân thật như thế, tha thiết và trong sáng như
thế, bỗng chốc đã biến đi như một đám mây tan loãng mất trong bầu trời. Đành rằng cuộc sống là thế.
Nhưng đọc lại những tác phẩm của Cụ, nhìn lại những hành động của Cụ, với tôi, tôi thấy Cụ là một vị
Thầy uyên bác, một vị Bồ Tát tu giữa cuộc đời. Trong những ngày xa, tôi ao ước được gặp Cụ, được
học hỏi nơi Cụ. Không ngờ trước khi Cụ từ giã cõi đời tôi đã được gặp Cụ, được Cụ ôm bằng một
vòng tay ấm, với tất cả ân tình. Bây giờ cả hai cụ Hoàng đều đã ở Miền Tiên Cảnh. Từ trên cao nhìn
xuống, hai cụ thấy hết, chắc hai cụ đã mỉm cười. Và bây giờ tôi mới biết thêm, sau các tác phẩm mà tôi
nói ở trên, cụ Hoàng Văn Chí đã hoàn tất một công trình biên khảo giá trị, trên 1000 trang, nhan đề
Duy Văn Sử Quan do nhà xuất bản Cành Nam in và phát hành. Tác phẩm này, tôi chỉ nghe mà chưa
được đọc. Phải chăng đó là tác phẩm để đối lại với cuốn Duy Vật Sử Quan của Cộng Sản ?
Được biết, cụ Hoàng Văn Chí là rể của một nhân vật kiệt hiệt Bắc Hà, một học giả Hán Nôm, Cụ Sở
Cuồng Lê Dư. Hai người khác cùng làm rể cụ Sở Cuồng Lê Dư là nhà phê bình văn học nổi danh Vũ
Ngọc Phan, và tướng Nguyễn Sơn, xuất thân từ trường võ bị Hoàng Phố, thiếu tướng của Hồng Quân
Trung Hoa, kẻ đã coi thường kiến thức của Võ Nguyên Giáp, và là người rất được văn nghệ sĩ trong
vùng kháng chiến kính trọng, yêu quý. Cụ Chí còn là cháu gọi cụ Phan Khôi là cậu ruột. Đối với thành
phần trẻ, cụ Chí có một người con nuôi đặc biệt, một cột trụ của nhóm Sáng Tạo, là thi sĩ Thanh Tâm
Tuyền. Theo luật sư Dzư Chất, em ruột thi sĩ Thanh Tâm Tuyền nói “Vâng. Ông Tâm, anh tôi là con
nuôi cụ Hoàng Văn Chí. Vì cụ Chí và ông thân sinh ra chúng tôi là hai người bạn thân…”
Sao lại có những kết hợp lạ lùng kỳ diệu này. Mỗi người là một nhân cách lừng lẫy, một nếp sống đầy
trong sáng và cũng vô cùng khắc kỷ, thật đẹp. Riêng với Cụ Hoàng Văn Chí, tôi đã chiụ ơn Cụ một tấm
lòng. Tôi nhớ những lời Cụ nói và vòng tay ôm ấm áp của Cụ. Tôi viết những hàng chữ này thay cho
những nén hương dâng lên Cụ. Và nhớ lại bầu không khí trong buổi gặp gỡ ấy, dù thời gian đã trôi qua
hơn 20 năm, tôi vẫn thấy rất rõ như mới xẩy ra hôm nào gần đây thôi. Khi cuộc thuyết trình đã hết,
nhưng mọi người còn nán lại trò chuyện rất thân tình. trung tướng Linh Quang Viên còn rất tráng kiện
đang đàm đạo cùng họa gia Trương Cam Khải và một số các vị cao niên khác. Chỗ kia nhà báo Lê
Thiệp cao, gầy, tóc chưa bạc, đang vui cười nói chuyện với anh Ngô Vương Toại. Chỗ khác giáo sư
Nguyễn Ngọc Bích đang đàm đạo với giáo sư Lê Xuân Khoa. Và anh chị Vũ An Thanh cũng đang tíu
tít nói cười, mày-tao rất Trưng Vương. Đông lắm. Và có ai nói vọng qua hàng người quanh tôi “Ông
Ngọc Dũng gửi lời xin lỗi, muốn lắm mà không tới được…” Tôi nhìn quanh mà không thấy anh Lê
Văn của đài VOA đến như đã hứa. Chỉ thấy anh Bùi Bảo Trúc đang gặp người này người khác thu âm,
làm phóng sự. Trong khi đó người bạn thân của chúng tôi là họa sĩ, nhà văn Võ Đình, lừ đừ tới gần,
nhắc khéo “Xong chưa ? Lên núi với tụi này được chưa?” Nghe thế, chị Trương Anh Thụy vội nói
“Ấy, phải ghé nhà tôi đã chứ. Cụ bà tôi đã làm bún nem rán mời quý vị, đang đợị ở nhà…”
Rời nơi hội họp, chúng tôi về nhà chị Trương Anh Thụy. Bước vào nhà như trở lại một Việt Nam thu
nhỏ. Trên tường đầy những tranh mai, lan, cúc, trúc và những bức thư họa, nét chữ thanh thoát như
múa, như bay. Và rất đông người, đa số là người rất trẻ. Mọi người đi ra, đi vào cười nói rất vui. Tất
cả được ôm ấp trong mùi chả giò thơm phức. Cụ bà Trương Cam Khải, từ trong bếp ra tươi cười đón
khách.
Cơm nước xong, anh Võ Đình đón chúng tôi về nơi anh ở khá xa thủ đô Hoa Kỳ, một vùng quê có cây
rừng và đá núi mà anh gọi là Thạch Lũng. Trời lạnh lắm. Anh trao cho tôi đôi ủng bằng nhựa để đi
vòng quanh xem nhà và đá núi rồi vác củi vào nhà đốt lò sưởi. Hai chúng tôi cùng tuổi, lớn lên giữa
lòng quê hương nên dù ở xa đất nước, nhưng lòng hoài vọng cố hương hầu như mỗi lúc mỗi thêm đầy.
Chúng tôi xòe tay trước lửa hồng, kể cho nhau nghe về ngày còn bé của nhau nơi quê cũ và thay nhau
liên tiếp đọc thuộc lòng những câu thơ của Nguyễn Bính.
Tất cả những điều nói trên là khởi điểm cho một Uỷ Ban mới, thay mặt cho Uỷ Ban cũ ở San Diego,
được thành hình và liên tục hoạt động cứu giúp thuyền nhân gần 20 năm qua, do tiến sĩ Nguyễn Đình
Thắng làm giám đốc điều hành. Uỷ Ban mới này mỗi lúc mỗi bành trướng và tạo được bao nhiêu
thành quả thật cụ thể. Nhưng đó là những phần vụ mà cá nhân tôi đã đứng ở bên lề. Chúng tôi đã là
người của quá khứ, người đã có tuổi, đã nghỉ hưu. Phải chăng chúng tôi chỉ là một mảng bè tình cờ trôi
trên mặt sóng cuồng loạn gió gào giữa một thời oan trái, một số nạn nhân đã bám được vào bè và qua
được cơn sóng gió. Trong giờ phút tình cờ đó tiếng kêu của chúng tôi đã được biết bao người nghe
thấy, tiếp tay, hỗ trợ, trong đó có cụ Hoàng Văn Chí và những bè bạn tại thủ đô Hoa Kỳ.


NHỮNG CHẶNG ĐỜI NGHIỆT NGÃ

 Nỗi Oan Chữ Nghiã

Tôi, đã qua cái tuổi mà cổ nhân nói là “cổ lai hy – xưa nay hiếm” nên có nhiều lúc ngồi một mình ôn
lại sự việc đã qua và thấy rằng đời mình dù cố gắng thế nào cũng khó tránh được số mệnh. Lúc nhỏ,
chưa biết chữ tôi đã thuộc hàng trăm câu thơ Nguyễn Bính và rất nhiều câu ca dao, nhập tâm theo lời
hát của mẹ tôi, của các anh chị tôi. Khi đi học, hầu như ở lớp học nào tôi cũng được điểm rất cao về
luận văn. Thấy thế, ông thân sinh ra tôi, vốn là nhà nho lỡ thời, đã nhắc tôi, cũng như nhắc tất cả các
anh tôi trong nhà “Lập thân tối hạ thị văn chương”, nghĩa là làm người, lập thân nhờ văn vào chương
là khốn khổ nhất. Ông cụ còn nói“Cứ nhìn bác Tản Đà kia. Ai hay chữ hơn ông, mà cuộc sống của
bác thật là vất vả”. Lời nhắc nhở đó ăn sâu vào lòng anh em chúng tôi, chúng tôi dù rất yêu thích văn
chương nhưng nhớ lời ông thân sinh dặn, đã cố tránh, mà hầu như không thoát được.
 

Sau khi ra trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang đầu thập niên 60, tôi đổi xuống HQ 09, một trong mấy
chiến hạm được coi là tối tân nhất của Hải Quân Việt Nam lúc bấy giờ. Những ngày dài tuần dương,
thời giờ như vô tận. Hết vùng duyên hải này qua vùng duyên hải khác. Những mũi đất, những hải đăng,
những hải đảo bỗng trở nên thân quen, thông thuộc. Từ đó trong những lá thư gửi về cho “em gái hậu
phương” của tôi, ngoài các nỗi niềm thương nhớ còn có nét đặc thù của những vùng trời biển mà tôi
đã đi qua. Những lá thư ấy sau được thêm, bớt thành Những Cánh Thư Nhà mang tâm tình của người
trai thời chinh chiến, đồng thời còn mang đậm nét địa dư của vùng trời nước dọc theo bờ biển quê nhà.
Bài đầu tiên tôi viết lấy các dữ kiện nhân chuyến đi dựng bia ở quần đảo Trường Sa, xa ngút ngàn và
đầy đặc cánh chim. Bài thứ hai viết về hòn Thổ Châu, hòn đảo hẻo lánh của đất nước chúng ta, ngập
đầy mùi lá mục, nằm trơ vơ trong vùng biển Thái Lan. Những bài viết ấy trước hết được in trong tờ
bích báo Kỳ Hoà của HQ 09, với bài viết và những nét minh hoạ rất tài hoa của hạm trưởng Nguyễn
Bá Trang. Sau anh Song Nam, Đặng Văn Đích in lại trên Lướt Sóng, rồi đăng trên báo Tiền Tuyến và
phát trên Đài Tiếng Nói Quân Đội. Từ đó những bài viết ấy có âm hưởng như một sinh hoạt xa lạ.
Trong gia đình Hải Quân, một số người gặp tôi đã bày tỏ cảm tình và những lời khuyến khích, trong đó
có HQ đại úy Nguyễn Hữu Chí (sau là phó đề đốc), một bậc đàn anh, nhưng cũng là một người đi biển
và làm thơ (bút hiệu Hữu Phương).
Một hôm tình cờ gặp ông Chí ở Bộ Tư Lệnh, ông nói “Đi tàu như thế đủ rồi. Muốn lên bờ làm việc
với tôi không?” Sắp lập gia đình nên tôi đồng ý ngay. Thế là cuối năm 1964, sau gần 2 năm trên HQ
09, từ vai trò sĩ quan ẩm thực, hành quân và xử lý hạm phó, tôi được đổi lên Phòng Nhân Viên (bao
gồm công việc của Phòng 1 và Phòng Tổng Quản Trị sau này) do đại úy Nguyễn Hữu Chí làm trưởng
phòng. Hàng ngày vào sở, ông thường ghé bàn tôi, đưa cho tôi đọc những bài thơ ông mới làm và yêu
cầu góp ý. Lúc đầu tôi cũng ngại, nhưng ngày nào ông cũng ghé bàn tôi nói chuyện văn chương, có khi
cả buổi rất là tương đắc. Chính trong dịp này, ông đưa tập thơ của ông cho tôi đọc. Lúc đầu tên tập thơ
(hình như) là Tâm Tình Người Đi Biển. Sau bàn cãi lung tung, nhớ những ngày dài lênh đênh xuôi
ngược tuần dương, tàu đã “cày nát” cả vùng biển quê nhà, để lại phía sau những luồng sóng trắng xóa.
Từ ý nghĩ đó, tập thơ của ông được đổi là Luống Biển. Luống Biển, ngoài hình ảnh cụ thể nói trên còn
mang theo nỗi niềm của người xa biển, nhớ về những ngày lênh đênh cũ.
Ông cũng hỏi tôi “Có viết tiếp Những Cánh Thư Nhà nữa không?” Tôi nói “Rất muốn, nhưng nay
không còn đi biển nữa, không có những kỷ niệm cụ thể, không “ngửi” thấy độ mặn khác nhau, nên
khó viết.” Ông bảo “Để tôi cung cấp cho cậu qua những kinh nghiệm của tôi. Cậu tha hồ xào nấu
lại.” Do đó những hôm tôi trực tại Bộ Tư Lệnh, ông đem các tấm hải đồ cận duyên xuống phòng trực,
trải ra, bàn cãi. Từ đó mối liên hệ giữa ông Chí và tôi càng thêm thân thiết. Tôi dự trù sẽ hoàn tất
Những Cánh Thư Nhà bao gồm các kỷ niệm của tôi và của thi sĩ Hữu Phương trong vòng 6 tháng. Tôi
sẽ viết về hòn Nam Du, (tên trong hải đồ là Tamassu), lồng trong mối tình giữa một cô giáo và vị hạm
trưởng trẻ, dựa trên chuyện thật và sự tích “ông già xay lúa” tu trong cái am nhỏ trên ngọn núi của
đảo này mà tôi tình cờ gặp được. Về quần đảo Hải Tặc với những chuyện tranh chấp, cướp bóc trong
vùng biển bất trắc, lô nhô đầy đá nhọn. Về đảo Phú Quốc với những con chó tinh khôn, những con mai
biển có những cái gân ngon, giòn nổi tiếng, và cũng là nơi có các hãng nước mắm lừng danh. Về Cù
Lao Chàm đầy khỉ và những vườn cam vàng ối nhưng bổ cam ra ăn thì có mùi xà phòng. Về hòn Phú
Quý, đất của những ruộng hành, ruộng tỏi và hầu như tất cả đàn bà ở đây vành mắt đỏ hoe. … Các
phác thảo ấy, ông Chí tỏ vẻ hân hoan, cổ võ nồng nhiệt. Khi ấy còn trẻ, tôi không để ý tới những ánh
mắt, những dèm pha, ghen ghét của người xung quanh.
Một ngày tôi đảm nhiệm phụ tá Sĩ Quan Trực Bộ Tư Lệnh, trong lúc về nhà ăn cơm, tôi đi thăm người
yêu để bàn bạc thêm về ngày cưới sắp đến của chúng tôi. Khi trở vào nhận phiên trực, bị kẹt xe, trễ 25
phút như đã hẹn với vị trung úy trưởng phiên. Không biết có lý do nào khác không, anh ta viết trong
phúc trình hàng ngày vào sổ trực rồi trình thẳng lên văn phòng Tư Lệnh Phó, không cho tôi coi. Thấy
thái độ kỳ cục của anh ta, tôi cũng lờ đi không quan tâm. Mấy ngày sau tôi bị trình diện ra Hội Đồng
Kỷ Luật với những tội danh như trễ nải trong công vụ, lạm dụng giờ công vụ để làm việc riêng, coi
thường thượng cấp… Trong “phiên tòa” này tôi có nhờ niên trưởng Nguyễn Ngọc Quỳnh, khi ấy là đại
úy là người biện hộ, nhưng kết quả như đã định sẵn. Tôi bị 10 ngày trọng cấm và phải đổi đi đơn vị
tác chiến ngay sau khi thọ phạt. Hai quân cảnh trực sẵn, khi vị chủ toạ hội đồng tuyên phạt, hai quân
cảnh dẫn tôi tống giam ngay vào phòng kín tại trại Bạch Đằng. Tại đây tôi phải viết thơ nhờ anh lính
đưa cơm, báo cho ý trung nhân rằng “Anh bất ngờ phải đi công tác xa. Việc cưới xin, nhà cửa tạm
hoãn lại, độ 2 tuần sau anh về sẽ tính lại.” Sau khi mãn tù, tôi trình diện đại úy Chí, ông lắc đầu nói
“Thật là quá đáng, nhưng tôi không can thiệp được. Thôi chịu khó xuống Giang Đoàn 21 Mỹ Tho
ít lâu, rồi mình sẽ tính sau.” Cầm lệnh thuyên chuyển sang Trại Cửu Long trình diện thiếu tá Đỗ Quý
Hợp, chỉ huy trưởng Giang Lực. Gặp ông Hợp, ông cười ngất, nói:“Gặp tổ kiến lửa rồi. Thơ phú cho
lắm vào! Thôi ở lại đây lo đám cưới cho xong đi rồi hãy xuống Mỹ Tho.” Nói rồi ông quay điện
thoại, nói “… nó trình diện ở đây. Để nó làm đám cưới xong, moa cho nó xuống.” Thế là tình cờ tôi
được nghỉ khá lâu ở Sài Gòn để lo đám cưới. Nhưng ngay sau đám cưới là những ngày cận Tết, như
nhà thơ Hữu Loan viết “cưới nhau xong là đi”, tất nhiên trong lòng tôi không vui sướng gì. Vừa lo âu,
vừa uất hận. Mọi sửa soạn cho cuộc sống phải thay đổi hoàn toàn, rất phiền toái và tốn kém vô ích.
Trong hoàn cảnh này, nếu có thể đào ngũ, tôi sẽ bỏ đi ngay. Nhưng cùng đường, là người Bắc di cư,
không quê quán, những người thân ít ỏi cũng loanh quanh ở cả Sài Gòn nên đành an ủi vợ, khoá trái
căn phố nhỏ mới đặt tiền mua ở khu ngoại ô chợ Bà Chiểu, để vợ ở nhờ nhà bố mẹ vợ như lúc chưa
lấy nhau và tôi lặng lẽ lên đường đi khu chiến Tiền Giang. Những Cánh Thư Nhà cũng vì thế mà phải
xếp lại.
Đường Đi Khu Chiến
Từ nhỏ tôi chỉ có một ước mong là lớn lên làm thầy giáo, vì hình ảnh vị thầy học của tôi là những ông
chú, ông cậu, mấy ông anh bên ngoại, những người sống thanh đạm, mẫu mực tuy không giàu sang
nhưng khiêm cung, chững chạc, được xóm làng nể trọng. Ngược lại, tôi rất xa lạ và không có cảm tình
với cuộc sống nhà binh. Nay phải sống trong quân ngũ, đối đầu với hoàn cảnh này, thật là cay đắng.
Nhưng làm sao khác được, đành ngậm đắng nuốt cay mà lên đường. Cố giữ mình để còn có ngày về
với vợ con. Và cách tốt nhất là cố gắng tìm hiểu, học hỏi bè bạn, mọi người xung quanh, cả ở những
người dưới quyền để mau thích ứng với công tác được giao. Cũng may là ở đây, Giang Đoàn 21 Xung
Phong, chỉ huy trưởng là HQ đại úy Huỳnh Duy Thiệp, (ít tháng sau ông lên thiếu tá), người Nam, rất
bao dung, rộng lượng và có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trong sông. Thêm vào đó, tôi có một số bạn
bè cùng khoá, hay dưới khoá đã ở đây trước tôi. Anh Đặng Diệm cẩn thận, nghiêm túc. Anh Trần Hữu
Khánh can đảm, tinh nhanh nhưng “đa nhân duyên.” Anh Nguyễn Ngọc Giang mưu lược và gan dạ…
Tất cả đều rất thông cảm với hoàn cảnh của tôi. Hầu như nửa năm đầu, tôi chưa phải đem tàu đi công
tác một mình bao giờ, khiến có đủ thời giờ để tìm hiểu, ghi chép những hoàn cành đặc thù trong các
cuộc đụng độ trong sông, từ đó tôi đã tìm ra và nhập tâm những điều căn bản khi hành quân cũng như
làm quen với địa bàn hoạt động. Nói chung thì khi những chiến đĩnh của giang đoàn hiện diện nơi đâu
đều là những thành trì sắt thép làm chủ chiến trường, đem lại niềm tin, điểm tựa cho các đơn vị bạn,
tạo nhiều thắng lợi cụ thể, nhưng không phải không có những điểm yếu đưa đến những thiệt hại đáng
phải quan tâm.
Tôi không tài nào quên được 2 lần công tác rất gần nhau với Đội Hải Thuyền 34 và 37 sau đổi thành
Duyên Đoàn. Lần trước, tôi được chỉ định đem mấy chiếc tàu chở đạn tiếp tế cho đơn vị này. Tới nơi
đã gần trưa, anh Nguyễn Đức Bổng, chỉ huy trưởng đứng chênh vênh ở cầu tàu đón tôi. Nói theo người
Nam, anh nhỏ con, mặc bộ quần áo bà ba đen, đội mũ vải rộng vành, khác hẳn hình ảnh vị đàn anh
khoá trên trong bộ tiểu lễ trắng tinh, thẳng nếp, lon vàng óng ánh trên vai, và nụ cười hiền hoà phô kẽ
răng thưa ở hàm trên mỗi khi gặp bạn bè. Nay anh đang là đầu đề của những chiến công, bắt sống tên
xã ủy Việt Cộng, như những huyền thoại đáng noi gương nơi khu chiến. Bắt tay tôi thật chặt, anh nói
“Cám ơn toa quá. Đi tàu biển thì chỉ cần giữ cho súng khỏi sét thôi, có bắn biếc gì đâu. Ở đây thì
khác, tụi nó quanh đây như chấu, đêm nào cũng đụng, nên đạn lúc nào cũng thiếu…” Sau đó trong
khi chờ nhân viên mang đạn lên bờ, anh mời tôi vào văn phòng uống bia với tôm khô tẩm mật thật
ngon. Vẫn giọng nói hiền hoà, vẫn nụ cười và kẽ răng thưa, tao nhã như một sinh viên, một ông thầy
giáo, mà sao chỉ một thời gian ngắn anh bỗng trở thành một người gan dạ, một kẻ liên tục tạo được
những thành quả, những chiến công, trở thành một người hùng của vùng 3 Duyên Hải, một hung thần mà
địch phải treo giải “1 triệu đồng cho ai lấy được đầu tên Nguyễn Đức Bổng.” Rồi không đầy 2 tuần
sau, với một quân số áp đảo, địch đã phục kích rồi tràn ngập toán quân của duyên đoàn, ta thiệt hại khá
nặng, trong đó chính vị duyên đoàn trưởng là anh Nguyễn Đức Bổng bị tử thương. Những người lính
sống sót trở về đơn vị, đóng chặt hệ thống phòng thủ và trình lên thượng cấp xin viện binh. Ba ngày
sau, một cuộc hành quân quy mô với 1 tiểu đoàn Dù và 1 tiểu đoàn Biệt Động Quân, Pháo Binh và
Không Quân hỗ trợ vào lấy xác các chiến sĩ đã hy sinh. Phía Hải Quân, Giang Đoàn 21 chúng tôi được
huy động đến án ngữ mặt sông, để những ghe, tàu của đơn vị vào lấy xác. Xác những đoàn viên, kẻ thì
lòi ruột, kẻ vỡ đầu, trông rất kinh sợ, sau mấy ngày dãi nắng, gió sương, xác đã biến thể, mùi tử khí
xông lên nồng nặc. Riêng xác anh Nguyễn Đức Bổng được tìm thấy, người ta đã vội lấy tấm mền quấn
lại. Tôi từ trên tàu nhìn xuống lòng chiếc ghe chủ lực, thấy xác anh nhỏ bé, ngắn ngủn như xác một đứa
trẻ lên mười. Tôi không dám nhìn kỹ, nhìn lâu, chỉ thấy một dòng máu tím ngắt chảy ra từ tấm chăn phủ
xác. Một vài người nói lao xao: “Xác không còn nguyên. Xác không nguyên vẹn…” Hình ảnh đó ám
ảnh tôi hoài từ mấy chục năm qua.
Chết Lần Thứ Nhất
Tôi không nhớ ngày tháng của biến cố này, nhưng vào khoảng tháng 8 hay tháng 9 năm 1965 là cùng, vì
việc anh Bổng mất có liên hệ rất đáng nhớ đến gia đình tôi. Lúc ấy bà xã tôi đang có bầu cháu gái đầu
lòng. Trong dịp cuối tuần tôi từ Mỹ Tho về Sài Gòn thăm nhà ngay sau khi đi yểm trợ cho việc lấy xác
anh Bổng về, tôi có viết về sự hy sinh dũng cảm của anh. Tựa đề bài viết là :
Nguyễn Đức Bổng
Kẻ Đã Nằm Xuống Bên Kia Rạch Sọ Dừa
Người viết : Phan Lạc Tiếp.
Trong bài nói về anh, một cách tình cờ tôi không nhắc đến tên anh nữa, mà chỉ viết là “anh.” Đặc biệt
anh Bổng, người nhỏ con, ngang tầm vóc như tôi, và người xướng ngôn trên đài Quân Đội đã đọc là
“Kẻ Nằm Xuống Bên Kia Rạch Sọ Dừa — Phan Lạc Tiếp.”
Bài này phát đi giữa tuần, hình như ngày thứ ba, vào khoảng 3 giờ chiều. Người anh con nhà già tôi,
ông Đỗ Nhật Tân, bút hiệu Sơn Chung. Bà chị tôi cho hay một hôm vào giữa năm, “vào khoảng 3, 4
giờ gì đó, thấy anh Quỹ đến, chị đang bận trao hàng cho khách xem, không bỏ ra được, chỉ đưa
mắt, cúi chào và thưa, anh có việc gì không? Anh Quỹ đáp ngay, việc của chú Tiếp tính sao? Tôi
vừa nghe đài Quân Đội loan tin chú Tiếp đã hy sinh.” Bà chị tôi hốt hoảng, đóng ngay cửa tiệm đang
đông khách, gọi taxi đến tòa soạn báo Tiền Tuyến, nơi ông anh tôi đang làm việc để báo tin trên. Lúc
ấy đã đến giờ các công sở nghỉ việc. Anh tôi gọi qua Bộ Tư Lệnh Hải Quân, không ai biết gì, nhất là
lúc này đa số nhân viên trực về nhà ăn cơm. Trong lúc chờ đợi, anh tôi gục đầu xuống bàn, khóc. Chị
tôi nói “Sau khi sinh nở, đợi cho cháu bé cứng cáp, có lẽ mình nên đem cháu bé về nuôi để vợ của
Tiếp có thể đi lấy chồng. Nó còn trẻ quá, mới 25 tuổi…” Sau 8 giờ tối, anh tôi gọi lại, phòng Hành
Quân Hải Quân không ghi nhận thấy có đụng độ nào với Giang Đoàn 21 trong mấy tuần qua. Họ cho
ông anh tôi số điện thoại, để gọi thẳng xuống Giang Đoàn 21 ở Mỹ Tho. Ở cuối đầu dây, phòng vô
tuyến đơn vị cho tôi hay“Ông thầy, có điện thoại từ Sài Gòn.” Tôi cầm máy, tiếng anh tôi rõ mồn
một “Tiếp đó hả. Có phải Tiếp thật không?” Thấy lạ, nhưng tôi không biết sao anh tôi lại hỏi như
thế. Như để thử lại, anh tôi lại hỏi “Em có đồng ý tên mà anh đặt cho cháu bé của hai em không,
nhắc lại cho anh biết.” Tôi nhắc lại lời anh tôi đã nói “Ngân Hà, con sông huyền thoại ở trên trời,
sẽ quấn quýt với Hồng Hà, con gái mới sinh của anh chị, là tên con sông hiện thực của quê hương
mình xa cách. Cả sông chị, sông em đều cùng chảy về một vùng thương nhớ.” Ông anh tôi cười, và
nói “Cuối tuần này cố xin phép về Sài Gòn chơi, có nhiều điều vui lắm.”
Khi ấy các báo ở Sài Gòn phát hành vào buổi sáng sớm, nên mọi bài vở, tin tức phải làm cho xong
vào buổi tối, để khoảng 11 giờ đêm là cùng, báo bắt đầu in, sáng sớm mai có báo bán. Giữa nhà báo
với nhau, tin tôi vừa tử trận, một số bạn bè nghe thấy đã vội viết lời phân ưu với anh tôi. Khi biết sự
thật đã 9 giờ đêm. Việc liên lạc với các báo để xin đục bỏ lời phân ưu kia thật vất vả. Trong đó có 2
tờ báo đã cho Lời Phân Ưu lên máy chạy rồi, đành chịu. Cũng đêm hôm ấy, một số bạn bè, những
người làm việc ở đài phát thanh Sài Gòn cũng như ở đài Quân Đội, khoảng 9 giờ đêm cũng chạy lại
thăm bà xã tôi. Lội qua khúc đường nhớp nhúa ở cư xá Phú Hữu, bên Bà Chiểu, tới nhà tôi, mọi người
ngơ ngác, vì thấy bà xã tôi bụng mang dạ chửa, đang cúi xuống lau nhà. Ngần ngại mãi, bà Hồng, vợ
nhà văn Nguyễn Đình Toàn mới hỏi “Ông Tiếp ra sao?” Vợ tôi nói “Tuần rồi mới về. Khoẻ.” Họ
lẳng lặng ra về, quay mặt đi và khóc, vì nghĩ vợ tôi chưa biết tin. Sau đó, Mai Trung Tĩnh, đang phụ
trách tờ Phụng Sự, gặp Toàn, nói “Ông thân với Phan Lạc Tiếp, tìm hộ it bài lai cảo của Tiếp, đưa
tôi làm một số đặc biệt về Phan Lạc Tiếp.” Toàn cười “Bố khỉ. Tin lèo. Tuần trước vợ chồng tao và
vợ chồng nó còn ăn cá nướng ở nhà tao…”
Tình cờ, mới đây, 2007, sau hơn 40 năm, khi cuốn Hải Quân Tuyển Tập phát hành rồi, anh Đào Trung
Phú ở San Diego đã đọc bài viết của tôi và bài của anh Phan Hữu Niệm, viết lại rất chi tiết những sự
việc xẩy ra ở duyên đoàn 34 và 37. Anh Phú cho hay “Bài viết của quý vị không đủ. Lúc ấy tôi làm
trưởng ban Tiếp Liệu cho Vùng 3 Duyên Hải, dưới quyền của thiếu tá Nguyễn Xuân Sơn, tình cờ
tôi đã đích thân thấy rất rõ thi thể của mọi người từ trận chiến đem về. Ghê lắm. Riêng thi thể anh
Nguyễn Đức Bổng thì… không còn thủ cấp.” Nghe thế, tai tôi lùng bùng, đầu tôi choáng váng. Cả
một vùng trời nước mênh mang cũ, nơi rạch Sọ Dừa, bãi Ngao năm nào, nơi anh Bổng nằm xuống lại
hiện ra. Tôi như còn thấy hai cánh tay mình nổi gai giữa lúc gió biển thổi vào lồng lộng, đem theo mùi
tử khí tanh nồng.
Tôi, tôi không thể nào quên được.
Trận Ba Rài
Rồi tới trận Ba Rài ngày 29 tháng 9 năm 1965. Một cuộc đụng độ khá lớn. Trong hơn 20 năm chiến
tranh, có lẽ đây là cuộc thư hùng khốc liệt nhất mà Giang Lực VNCH phải đương đầu với địch. Địch
chết rất nhiều, súng bỏ lại gần cả trăm, xác địch những ngày sau nổi lên từng đám đen đặc như những
mảng lục bình trôi theo con nước, tuôn ra sông lớn. Bên ta cũng thiệt hại khá nặng. Hai Giang Đoàn 21
và 27 đem toàn lực tham gia trận này, tổng cộng gần 50 chiếc tàu mới, cũ, đủ loại. Trong đó cả hai
chiếc Tiền Phong Đĩnh với khẩu 40 ly ở mũi tàu, một chúa tể trên sông, đều bị chúng lần đầu tiên dùng
B40 áp đảo từ phút đầu. Một chiếc chìm, HQ 6007, bạn cùng khoá với tôi, trung úy Trần Ngọc Bảo bị
thương cùng với toàn thể đoàn viên trên con tàu này, trên dưới 10 người, đều bị chết chìm theo tàu,
mấy ngày sau xác mới nổi lên. Chiếc Tiền Phong Đĩnh khác, HQ 6001, do trung úy Nguyễn Ngọc
Giang chỉ huy. Giang là sĩ quan khét tiếng can đảm và mưu lược trong sông, lên lon ở mặt trận, cũng bị
địch dùng mọi thứ vũ khí tấn công mãnh liệt, tàu bị B40 bắn thủng phải ủi bãi để tránh bị chìm. (Hiện
anh Giang định cư tại thành phố Houston, Texas. Chiến đĩnh này do trung sĩ I Trọng Pháo Lê Phước
Đức, tục gọi Đức Râu, con hùm sám của Giang Lực làm thuyền trưởng, bị tử thương. Chiến đĩnh đã
quyết liệt chống trả nhiều đợt tấn công, xung phong của địch. Thiệt hại lớn, ý định cướp tàu không
thành, địch đã bỏ đi.
Đoàn tàu lớn nhỏ gần 50 chiếc, rút hết ra ngoài sông lớn, rồi tụ về khúc sông trước quận Cái Bè. Vị
chỉ huy trưởng đi họp với giới chức Bộ Binh. Trong lòng lạch Ba Rài nhỏ hẹp, âm u, con tàu HQ 6001
ủi bãi nằm nghiêng sát bờ. Trên sàn tàu người chết, người bị thương nằm la liệt, sũng máu. Giang cũng
bị thương, nhưng không nặng lắm. Nhìn xuống hầm tàu, trung sĩ I Đức Râu, ngoẹo đầu nằm chết trong
phòng lái. Lính tráng của tàu mệt mỏi, thân thể, quần áo bê bết máu, không còn được bao nhiêu người.
Giang nhớ đến mật hiệu mà chỉ có Diệm và Giang biết, hai người đã giao ước là con số 13. 13 là tổng
số của 2 con số đối đáp giữa hai người, thí dụ Giang gọi 8 thì Diệm phải đáp thật nhanh, không nghĩ
ngợi là 5, để 5+8 là 13. (Anh Đặng Diệm hiện định cư trong vùng Santa Ana, Cali). Lúc ấy hệ thống
truyền tin hành quân vẫn mở. Lời Giang khẩn thiết kêu cứu tất cả gần 50 chiến đĩnh đều nghe được. Ai
cũng nóng lòng, muốn vào giải cứu, nhưng không có lệnh, như sợ bị phục kích nữa nên cấp trên không
cho lệnh trở vào. Khi Diệm nghe Giang kêu, và nói “Tụi nó đi hết rồi, vắng ngắt à…”Để chắc ăn
Diệm kêu 7, thì Giang đáp ngay 6 tức 6+7 là 13. Vài lần như thế, Giang đều đáp rất nhanh và chính
xác. Diệm yên tâm là Giang không bị địch bắt, Giang vẫn rất tỉnh táo. Diệm lấy quyết định một mình,
và hỏi đoàn viên “Ai muốn đi theo tôi thì đi, không ép.” Rất đông anh em muốn đi, nhưng Diệm chỉ
đem 1 chiếc LCM, (một loại quân vận đĩnh) và 1 cặp FOM (một loại thiết giáp đĩnh hộ tống) trở lại
rạch Ba Rài. Diệm gọi Giang: “Anh nằm một bên, vào gần tới nơi tôi sẽ khai hỏa phía bên kia. Anh
lấy đèn pin làm hiệu cho tôi cặp vào.” Khoảng 19 giờ tối, đoàn tàu 3 chiếc chậm chạp từ thượng
nguồn sông Tiền Giang rẽ trái bò vào con lạch Ba Rài, tối om, lạnh ngắt không một tiếng chim. Những
tàn cây đan trên đầu. Vừa qua khúc quanh đã nhìn thấy ánh đèn pin khua lấp loáng. Diệm cho cặp
FOM khai hoả phía đối diện và cho chiếc LCM cặp vào chiếc Tiền Phong đĩnh. Mấy người lính nhảy
qua ôm Giang, kéo sang tàu mình. Người Giang sũng máu. Trên sàn tàu của Giang, người chết, người
bị thương nằm la liệt. Máu nhoè nhoẹt, trơn trượt dưới chân.
Hai con tàu cột chặt vào nhau và quay mũi trở ra sông lớn, rẽ trái trực chỉ Giang Đoàn 21 ở Mỹ Tho.
Tôi đứng đợi ở cầu tàu, với cáng, và xe cứu thương. Hai con tàu cặp vào thật khéo, êm như để. Xác
Đức được đem từ phòng lái ra đã khó vì anh to con, chết đã khá lâu, hơi cứng. Nằm trên cái cáng, nét
mặt Đức vàng bệch dưới ánh đèn. Hàm râu vểnh lên xanh ngắt. Hai mắt vẫn mở. Trung sĩ Thinh lại
vuốt mắt cho anh. Ai đó lấy tấm chăn phủ xác và xe chạy vội qua nhà xác Bệnh Viện Dã Chiến của Sư
Đoàn 7 Bộ Binh. Trung sĩ I Thinh, Quản Nội Trưởng, làm trưởng xa. Diệm mệt mỏi đeo dây lưng có
khẩu súng lục trên vai, ngất ngưởng, mệt mỏi đi, nghiêng đầu nói “Nếu vào mà đụng, thiệt hại, chắc
tôi ra toà án binh.” Phía cầu tàu việc đem người chết và bị thương vẫn tiếp tục. Tới gần sang, mọi
việc đã gọn gàng, trả lại sự tĩnh lặng như những ngày thường của đơn vị.
Trong trận này, ngoài ra còn có đại úy Ellis, vị tân cố vấn và thiếu úy Hoàng Hiền đứng trên mui chiếc
soái đĩnh đã hy sinh. Anh Diệm nói “Khi Hiền bị thương anh ấy vật vã ghê lắm. Tôi phải ôm chặt
anh ấy, sợ anh ấy rơi xuống sông.” Khi tới Cái Bè thi hài hai vị sĩ quan này được trực thăng bốc đi
ngay (Cũng vì thế bài tôi viết về Hoàng Hiền có tựa đề Hoàng Hiền Trên Vùng Trời Cao. Bài này
không còn giữ được.).
Tôi cũng tham dự trận này, nhưng được giao một số tàu nhỏ, đổ quân bên kia sông trước mấy giờ khi
cuộc chiến khai diễn để nghi binh nên coi như đứng vòng ngoài làn đạn, với tiêu lệnh “Chỉ đổ quân ở
mé sông, nằm đó mà không được vào sâu. Sau đó phải đem tàu về lại căn cứ trễ nhất 2 giờ chiều,
rồi liên lạc với Tiểu Khu xin ban nhạc.” Vì tôi phải lo tổ chức lễ gắn huy chương cho vị cố vấn mãn
nhiệm, đồng thời cũng để giới thiệu đại úy Ellis, vị tân cố vấn trước toàn thể nhân viên 2 Giang Đoàn
21 và 27. Như thế đại úy Ellis chưa chức chính thức đáo nhiệm đã hy sinh tại chiến trường. Do đó
chính tôi là sĩ quan duy nhất có mặt tại hậu cứ để lo mọi việc. Từ thuyết trình cho các phái đoàn
thượng cấp tới thăm viếng đến lo đón tiếp gia đình, thân nhân tử sĩ, nhất là lo ký giấy khai tử, xin quan
tài kẽm và phương tiện di chuyển tử sĩ về quê quán. Vì vậy bắt buộc tôi phải tìm hiểu, phải biết những
sự việc liên hệ đến cuộc đụng độ. Một tuần lễ sau, tôi có con gái đầu lòng, được nghỉ phép 1 tuần ở
Sài Gòn, tôi đã viết lại trận đánh, đăng nhiều kỳ trên trang nhất báo Tiền Tuyến.
Trở Lại Sài Gòn
Qua bài viết về Trận Ba Rài, rồi liên tiếp là loạt bài Những Khuôn Mặt Anh Hùng, đăng trên nhật
báo Tiền Tuyến, Chiến Sĩ Cộng Hoà và đọc liên tục trên Đài Quân Đội trong mùa vinh danh những
chiến sĩ anh hùng. Nhất là ảnh trung sĩ Lê Phước Đức được vẽ lớn như bức tường dựng ở công trường
Bạch Đằng, khiến những bài viết này được bạn bè trong cũng như ngoài Hải Quân nhắc đến rất nhiều.
Cùng lúc ấy Hải Quân vừa biến cải một Hải Vận Hạm thành Bệnh Viện Hạm, sửa soạn cho hoạt động,
và tôi được công điện đổi về Sài Gòn làm trưởng đoàn Tâm Lý Chiến Lưu Động. Về trình diện đại úy
Phan Phi Phụng, trưởng phòng Tâm Lý Chiến, ông cười thân tình, nói “Thôi về đây làm việc. Đúng
chỉ số rồi nhá.” Và ông giao cho tôi soạn thảo Lệnh Hành Quân Cửu Long Giang, hoạt động trong
vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong vòng 2 tháng. Vùng sông nước mà tôi vừa sinh hoạt thời gian
qua.
Trong công tác này một địa điểm khiến tôi nhớ mãi là quận Trà Ôn. Buổi sáng tôi dẫn toán Dân Sự Vụ
đi phát quà cho dân chúng giữa một cánh đồng trống, cách quận đường độ 2 cây số, có một trung đội
Nghĩa Quân tháp tùng bảo vệ an ninh. Đang phân phát quà cho dân chúng thì từ khu rừng dừa có một
đám cưới đi ra, khá đông, với khay lễ vật đỏ chót và cô dâu chú rể theo sau. Nhưng tới gần anh Nghĩa
Quân phát giác ra đó là một nhóm người có súng, đang tìm cách vây toán Dân Sự Vụ chúng tôi. Anh
Nghĩa Quân nổ súng báo động, và bị tụi nó bắn thủng bụng. Chúng tôi và trung đội Nghĩa Quân phản
ứng tức thì, chúng bỏ chạy, hình như có mấy tên bị thương. Việc phát quà đành bỏ dở. Trở lại quận
đường, chúng tôi trình bày với đại úy Quận Trưởng để chỉ phát quà cho những người nghèo trong
phạm vi quanh quận đường, phần lớn là gia đình Nghĩa Quân, với chủ trương Lính cũng là Dân. Đồng
thời tôi xin quận cung cấp tên tuổi và hoàn cảnh số Việt Cộng tại địa phương mà quận có được. Với
những tên tuổi được cung cấp, tôi thảo một truyền đơn ngắn kêu gọi đích danh từng người nhắc “Các
anh bị thương, hay đau ốm, cứ tới Bệnh Viện Hạm xin chữa trị. Nơi đây có bác sĩ tận tình săn sóc
và cho thuốc men như mọi người khác…” Trung tá B., cố vấn Khối CTCT/BTL/HQ cầm tờ truyền
đơn này lên máy bay trực thăng bay đi. Buổi tối, trong phần văn nghệ tổ chức ở nhà lồng chợ trước
quận đường Trà Ôn, sau màn cải lương rất mùi, lúc cuộc vui ở cao độ, đông người coi nhất, tôi lên
trước máy micro, trình bày về nội dung tờ truyền đơn này “… các anh và gia đình các anh ở phía
bên kia, ai bị thương, hay đau ốm, cứ tự nhiên tới Bệnh Viện Hạm để được săn sóc, chữa trị, sau
đó các anh ra về thong thả”. Ông quận trưởng quận Trà Ôn đứng cạnh tôi trên sân khấu cũng tươi
cười nói “Mấy anh ở trỏng cần chữa trị cứ tới, miễn đừng đem theo vũ khí, rồi ra về thong thả.”
Sau phần trình diễn văn nghệ, tôi dùng 2 chiến đĩnh của giang đoàn địa phương biệt phái, bắt đầu phần
phát thanh chiêu hồi. Do một sĩ quan địa phương hướng dẫn, 2 chiến đĩnh đi sát mé sông trong vùng
được coi là nguy hiểm để phát thanh.
Tôi kêu gọi đích danh những VC tại địa phương và nói “… Anh X, anh đang bị bịnh, lâu nay không
có thuốc chữa. Vợ con anh ở giữa vùng giao tranh trong cảnh đói khát, cùng quẫn. Bà cụ mẹ anh
cũng thế, phần vì đau ốm, phần vì nhớ thương anh, nên cũng héo hắt không biết sống chết lúc nào.
Anh hãy để vũ khí lại đâu đó, cứ ra Bệnh Viện Hạm xin thuốc và chữa trị. Cả gia đình anh, bè bạn
anh cũng thế, cứ ra, sau khi được chữa trị, các anh sẽ được ra về thong thả…”
Sau mỗi đoạn phát thanh, hạ sĩ Đây dùng cây ghi-ta điện gảy một đoạn vọng cổ thật mùi. Tiếng kêu gọi
thiết tha của chính tôi và tiếng đàn não nùng cứ thế vang vọng trên mặt sông đầy đặc sương mù. Chiếc
chiến đĩnh đi sau hộ tống chỉ cách chiếc đi đầu vài chục thước mà nhìn lại chỉ thấy mờ nhoà, khi ẩn khi
hiện. Do đó giữa những khoảnh khắc thả hồn theo tiếng đàn, tâm hồn tôi bỗng như bị huyền hoặc, trôi
mung lung trong cảnh trời nước mơ hồ. Lời kêu gọi đối phương bỗng như dội lại trong lòng mình nỗi
cay đắng khi chính mình phải chìm đắm lâu dài trong chiến trận và không thiếu nỗi buồn chán, chia lìa,
bất công. Mấy thế hệ bị lôi cuốn, chìm đắm vào cuộc chiến không minh bạch, khó phân thắng, bại. Sự
tương tàn khốc liệt mỗi lúc mỗi khủng khiếp, tràn ngập những hận thù bao phủ cả hai miền đất nước…
Khi tiếng đàn dứt, tôi lại tiếp tục phát lời kêu gọi đối phương mà như nói với chính mình với lòng
ngập tràn xúc động. Chúng tôi cứ quần đi quần lại khu vực mà vị sĩ quan địa phương bảo “Tụi nó
thường lui tới ở khu này.” Khoảng 3 giờ sang, chúng tôi mới trở lại Bệnh Viện Hạm, nghỉ ngơi.
Sáng hôm sau, mới khỏang 9 giờ, trực thăng của trung tá B. đã đến. Trong lòng máy bay là những thùng
truyền đơn do tôi thảo đã in xong. Ông giao cho tôi một thùng để tuỳ nghi, còn bao nhiêu chính ông và
một sĩ quan của quận Trà Ôn bay đi, thả xuống những vùng nghi là VC đang trú ngụ. Có những tờ
truyền đơn theo gió bay lả tả rơi xuống mặt sông, những người trèo ghe xuồng đi qua, dơ tay đón bắt,
hay cúi xuống mặt sông lượm lên, trông thật vui. Trong khi đó, quanh nơi Bệnh Viện Hạm ủi bãi,
những ghe xuồng chở người ốm, kẻ bị thương đùn lại, buộc vào nhau mấy lớp. Mấy sĩ quan Nghĩa
Quân chỉ chỏ, nói cho tôi hay “Những ghe này từ trỏng ra xin thuốc.” Tôi mừng và làm như không
biết, sai mấy anh em trong toán Dân Sự Vụ Hải Quân đỡ những người già yếu, bị thương lên tàu khám
bệnh trước. Sau đó ai già yếu, nghèo khó đều được phát một túi nylon gồm 10 mét vải đen, 1 cái kéo,
1 cuộn chỉ và một tờ truyền đơn, rồi được dìu trả lại xuống ghe.
Buổi tối, trong đêm văn nghệ thứ hai, tôi có trình bày “Hôm nay Bệnh Viện Hạm đã khám bệnh cho
hàng trăm đồng bào, trong đó phần đông là đồng bào đến từ vùng bất an do Việt Cộng kiểm soát.
Nhưng như đồng bào đã thấy, mọi người sau đó đều ra về thong thả. Ngày mai, nếu các anh em
trong lực luợng võ trang của phía bên kia cần khám bệnh, miễn đừng đem theo vủ khí, chúng tôi
cũng sẵn sàng chữa trị, cho thuốc, rồi các anh cũng ra về thong thả như thân nhân của các anh
ngày hôm nay…”
Cuộc chiêu hồi buổi tối trên những khúc sông được coi là “dữ”, tôi lại đích thân nhắc lại, và đơn cử
cụ thể hơn, nói rõ ai là thân nhân của cán binh phía bên kia đã ra xin thuốc, và được phát quà. Do đó
mới sáng ngày thứ ba, cũng là ngày chót của Bệnh Viện Hạm sinh hoạt tại quận Trà Ôn, bao nhiêu ghe
xuồng ra rất sớm. Trước tình cảnh này, đại úy hạm trưởng phải xin thêm những chiến đĩnh của giang
đoàn tại địa phương chạy vòng ngoài, đề phòng bất trắc, hầu phát giác kịp thời những tên cuồng tín phá
hoại, hoặc cản trở đồng bào. Một sĩ quan địa phương đi lòng vòng cùng tôi, làm như thăm dân cho biết
sự tình, đã khéo léo chỉ cho tôi hay một ghe nhỏ, có mui kín, trong đó có mấy người ngồi cúi mặt. Anh
ta bảo “Ghe này từ trong đó ra, và mấy thằng ngổi trong ghe nhiều phần chắc là tụi nó đó.” Chúng
tôi ghi nhận, theo dõi khéo léo, cho nhân viên giúp kéo ghe sát tàu, đỡ lên, đưa vào phòng khám bệnh.
Xong, đích thân tôi tặng gói quà như mọi người, còn phát thêm một thùng dầu ăn salad-oil. Anh ta líu
ríu cám ơn, cúi mặt trở lại ghe, rồi nhẹ nhàng chèo ra sông, đi mất.
Đêm ấy tôi ngủ thẳng giấc, không phải thức đi phát loa chiêu hồi. Tàu đã rời Trà Ôn sau bữa cơm
chiều và giang hành ban đêm đến địa điểm mới. Khi gần sáng, nghe tiếng động lao xao, tàu đang nhiệm
sở ủi bãi trước quận đường Hồng Ngự, Chợ Mới. Tôi mặc quân phục chỉnh tề, lên đài chỉ huy chào
hạm trưởng và nhìn cảnh trí xung quanh. Đại úy hạm trưởng cười, nói “Đọc công điện đi”. Tôi cầm
tập công điện cặp trong mảnh gỗ, viết:
Nơi gủi : Quân Trà Ôn
Nơi Nhận: HQ 400, Đoàn TLC/LD/HQ
Thông báo : BTL/QĐ4 - BTL/HQ
TTTB, đêm qua có 2 cán binh VC trong lực lượng địa phương đã ra hồi chánh. Các đương sự khai
đã đến Bệnh Viện Hạm xin thuốc và được đối đãi rất tử tế…
Tôi ký tắt bên lề công điện, ngẩng lên bắt gặp ánh mất rất vui của hạm trưởng.
Tàu vừa ủi bãi xong, đã thấy trực thăng của trung tá B. lè xè đậu trước bãi. Ông mặc quần áo như lính
TQLC, nhưng đội mũ nồi đen, dáng cao lênh khênh. Bước xuống tàu, ông lên Phòng Ăn Sĩ Quan cùng
lúc hạm trưởng và tôi từ trên đài Chỉ Huy bước xuống. Hạm trưởng đưa công điện cho ông và dịch
ngay cho ông ta hay. Trung tá B. gật gù, quay qua bắt tay hạm trưởng rồi bắt tay tôi rất chặt. Ông xin
bản công điện này để đem về Sài Gòn ngay hôm nay. Từ kết quả này Quân Đoàn tặng Chiến Dịch Cửu
Long 4 huy chương. Bốn huy chương đó được chia cho những giới chức từ trên xuống, trong đó không
có tên tôi.
Qua hết những địa điểm chỉ định, Bệnh Viện Hạm trở lại Sài Gòn sau 2 tháng công tác. Tàu vừa cặp
bến, xe của Tư Lệnh Hải Quân đậu ngay ở cầu tàu. Sĩ quan tùy viên nói “Ông Tiếp lên xe trình diện
Tư Lệnh.”
Tại văn phòng Tư Lệnh, tôi thuyết trình tổng quát về chuyến công tác vừa qua. Đặc biềt tôi nói về
trường hợp những người dân sống giữa hai vùng tranh chấp, thường là nạn nhân của cả hai phiá. Ban
ngày là Quốc Gia, ban đêm là Việt Cộng. Họ bị thương do vũ khí của cả hai phía mà thường không
được chữa trị. Có bà già vừa ốm đau, vừa bị thương, vết thương bị nhiễm trùng, dòi bọ lúc nhúc,
nghèo đói, sống lê lết bám lấy mảnh vườn, bụi khoai qua ngày. Khi được các bác sĩ của chúng ta chữa
trị, săn sóc, lau rửa, băng bó vết thương, lại được Toán Tâm Lý Chiến giúp đỡ, tặng quà, bà cụ oà lên
khóc “Các ông, các ông tử tế quá. Các ông cho tôi thật ư?...” Bà cụ ôm chặt gói quà và gói thuốc
mới được cấp phát lụm cụm rời Bệnh Viện Hạm…
Nghe tôi trình bày, tư lệnh Hải Quân, đại tá Trần Văn Phấn nước mắt nhạt nhoà rơi. Ông nói “Dân
mình khổ quá. May mà chính phủ cho chúng ta có cơ hội chia xẻ phần nào nỗi khổ với đồng bào.
Và tôi cũng nghĩ anh có may mắn được đích thân làm công việc nhân ái này. Thôi hãy cố lên.
Không có huy chương nào quý hơn việc phúc đức này đâu…”


Hành Quân Vào Tam Giác Sắt
Một hôm đại úy Phan Phi Phụng, trưởng phòng TLC đi họp Bộ Tổng Tham Mưu về, ông gọi tôi tới bàn
giấy, để tay lên tập hồ sơ, cười khì “Có quà mới cho ông đây.” Sau lời nói đùa, ông mở các trang sơ
đồ, thuyết trình cho tôi hay về kế hoạch Hành Quân Mở Hội Làng – Hamlet Festval Operation, trong
đó vai trò của quân đội Mỹ là lùng diệt và quân đội VNCH là bình định. Trong những ngày tới, chưa
rõ khi nào, chính Đoàn Tâm Lý Chiến Lưu Động Hải Quân sẽ phải tham dự một cuộc hành quân này,
trong vai trò đón dân, giúp đỡ dân, nhất là giải thích cho dân hiểu mục đích của cuộc hành quân là“lọc
địch ra khỏi dân, nên phải mang dân đi tạm cư ở nơi khác. Khi loại địch ra khỏi vùng đất cũ, chính
phủ sẽ đem dân trở lại, và giúp dân xây dưng lại xóm làng như cũ…” Ít ngày sau cuộc hành quân tên
là Cedar Fall, khai diễn ngày 8 tháng 1 năm 1967 mà chiến trường là khu Tam Giác Sắt thuộc tỉnh
Bình Dương, trung tá Lý Tòng Bá là tỉnh trưởng. Trên 40 ngàn quân Mỹ, Việt tham dự, trong đó Hải
Quân có nhiều Giang Đoàn Xung Phong, và Đoàn Tâm Lý Chiến Dân Sự Vụ với nhiệm vụ đón dân từ
vùng Tam Giác Sắt về trại tạm cư trong khu lều vải tại Bình Dương. Tại đây, dân được nuôi ăn khi
chờ thanh lọc địch.
Thủy trình là thượng nguồn con sông Sài Gòn. Đi và về cùng trên con sông ấy. Lòng sông chật hẹp,
ngoằn ngoèo, một bên là suờn núi dựng đứng, địch ở trên cao, chỉ cần lăn đá xuống mình cũng khó
thoát. Đoàn tàu trên 50 chiếc, đủ loại, khởi hành từ Bình Dương khoảng 4 giờ sáng. Khi đoàn tàu vào
xong đội hình, trời cũng vừa sáng. Phía trước vài trăm thước là một đoàn trực thăng bay theo không
yểm, liên tục bắn phá những bụi rậm, hốc đá khả nghi, để lại phía sau, bay trên đoàn tàu từng đám khói
mịt mù, thơm khét như khói pháo. Ở trên cao, lưng chừng trời, hai chiếc máy bay bà già L.19 luợn
vòng như những con diều hâu rình mồi, lâu lâu thả xuống rừng núi hàng triệu tấm truyền đơn. Những
mảnh truyền đơn nhỏ dài như những tấm thẻ căn cước, bay lao xao trong gió, rơi cả xuống lòng tàu.
Truyền đơn nói rõ mục đích cuộc hành quân như tôi đã được học.
Tàu càng đi sâu vào vùng hành quân, cảnh trí tương phản càng hiện ra rõ rệt. Bên mé nước là xác
người nổi dập dềnh trào lên, rút xuống theo lượn sóng do những chiếc tàu lướt qua. Trên bờ thì những
toán lính Mỹ nằm, đứng trong tư thế tác chiến, hướng mũi súng ra khu rừng thưa không còn lá vì thuốc
khai quang, nhưng một số nhỏ binh sĩ vài ba người, lần lượt xếp hàng tới những nhà ăn lưu động khổng
lồ để lấy dồ ăn sáng, hay đồ ăn trưa. Những nhà ăn này, do trực thăng Chinook câu tới từ Hàng Không
Mẫu Hạm ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam. Trong nhà ăn những anh đầu bếp mặc áo trắng, đội mũ trắng
cao nghệu như thấy trong những nhà hàng sang trọng trên màn ảnh. Mùi đồ ăn, mùi cà phê thơm lừng.
Bác sĩ Lai đứng bên tôi cười bảo “Đánh nhau kỳ quá.” Bác sĩ Lai sau nhiều năm đi tù cải tạo, hiện
định cư ở tiểu bang MD.
Đoàn tàu tới ngã ba Bến Súc khoảng 10 giờ sáng. Tại đây là Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của anh em
Nhảy Dù VNCH do trung tá Hậu chỉ huy, đóng trong một căn nhà gỗ còn nguyên, khá đẹp. Vườn trước, vuờn sau tươm tất. Nhưng xung quanh, tất cả xóm làng đã bị xe ủi đất cày vỡ nát, san bằng. 



Nhữngvuờn chuối bị cắt cụt, đang có những đọt lá mới trồi lên xanh non, cuộn tròn như những khúc nhungxanh. Tại đây dân chúng, gồm phần đông là người già, đàn bà và con trẻ, được anh em Bộ Binh thu nhặt trong vùng hành quân, bây giờ giao lại cho Hải Quân chở về Bình Dương. Những cán binh và thành phần trai tráng đã được lọc ra, và trực thăng bốc đi trước rồi. Đoàn Tâm Lý Chiến Lưu Động
của tôi có trách nhiệm đón những người dân này từ Bến Súc, trông coi họ, phát thực phẩm C.Ration,
mền giấy, và nói rõ mục đích cuộc hành quân này “Mai kia khi lọc xong Việt Cộng, chính phủ sẽ
giúp dân xây dựng lại nhà cửa và chở đồng bào trở lại xóm làng cũ.” Những ông già, râu tóc trắng
xoá, tay ôm bài vị tổ tiên. Những em nhỏ ôm con gà. Những bà lão dắt cháu ngơ ngác thất thần bước
xuống tàu. Những bà mẹ trẻ ãm con, cuốn con trong tấm chăn giấy do chúng tôi cấp phát. Hầu như ai
cũng nín thinh, ngơ ngác, kinh hoàng. Chúng tôi có tận tình giúp đỡ, nhẹ nhàng an ủi, nhưng với họ, tất cả hình như đã hoàn toàn vô cảm.



Trong chuyến công tác cuối cùng, trước khi chiến dịch chấm dứt, khi tất cả dân chúng xuống hết dưới
tàu, kể cả anh em Nhảy Dù, một máy cày cỡ lớn do một quân nhân Mỹ được phái tới. Chiếc xe ủi đất
này hạ lưỡi xúc xuống, từ từ ủi bãi. Căn nhà xinh đẹp trước mắt mọi người đổ xuống, gãy vụn. Những cái cột, xà lăn, lăn rồi vướng mắc vào những bụi gai ở ven sông. Con sông Sài Gòn thân yêu của chúng ta đấy thôi. Vài người dân ngước mắt nhìn qua hông tàu và ôm mặt khóc. Tôi phải ngảnh mặt đi, vì chính tôi, tôi cũng muốn khóc. Từ mé nước nhìn lên, cả dinh cơ xinh đẹp mà anh em Nhảy Dù trưng dụng làm Trung Tâm Hành Quân chỉ còn là đống đất, gỗ lổn nhổn, bụi mù. Riêng bên trái căn nhà, cây na nhỏ xoè tán che trên miệng cái giếng khơi, vẫn còn. Một làn gió thoảng qua, cành na run run rung động, khiến tôi nhớ quá những ngày còn bé, hè về tại quê nhà miền Bắc, tôi đã treo cái chuồng chim vào cành na ở khu vườn sau nhà. Trong lồng có con chim mồi cất tiếng hót lảnh lót, bi ai bay vút lên từng không như tiếng kêu thương gửi tới đồng loại đang xoải cánh trên vùng trời cao rộng… Tàu rời
bến, mắt tôi vẫn dõi theo cây na bé mọn, sống sót này.
Từ khung cảnh ấy, tôi đã hình thành hai câu thơ:
Gửi rừng một gốc cây na
Cố tươi xanh nhé, can qua sẽ tàn.


                                                                            *

Một điều kỳ lạ là trong cuộc hành quân diễn ra từ ngày 8 đến 28 tháng 1 năm 1967, ngoài những quân nhân tham chiến, không một phóng viên, nhà báo Mỹ cũng như Việt được phép tham dự. Tôi là trưởng đoàn Tâm Lý Chiến, Dân Sư Vụ Hải Quân, không phải là nhà báo, tôi đã chứng kiến biến cố này. Một biến cố quan trọng, khi trao trách nhiệm lùng và diệt cho quân Mỹ, để QLVNCH giữ vai trò bình định,và người Mỹ lấy cuộc hành quân này như mẫu mực để tiếp tục thi hành cuộc chiến. Sau cuộc hành quân, tôi đã viết lại báo cáo công tác dưới hình thức một bài phóng sự chiến trường. Bài báo đượclong trọng đăng trên nhật báo Tiền Tuyến, nơi trang 2. Bài báo được cắt trình tư lệnh Hải Quân, lúcnày là đại tá Trần Văn Chơn. Ông đọc xong, trả lại Phòng Tâm Lý Chiến, với nhiều dấu hỏi màu đỏ (màu riêng của tư lệnh) và một lời phê nơi cuối bài “Bài báo thật hay.” Bài báo này cũng được Ban Giảng Huấn trường Cao Đẳng Quốc Phòng đem ra thảo luận, trong đó có ông anh tôi, trung tá Phan Lạc Phúc, chủ bút nhật báo Tiền Tuyến. Sau đó anh em tôi gặp nhau, bàn luận vể những sự việc trong chiến dịch Cedar Fall, và thấy hình ảnh người lính Mỹ bây giờ, trước mắt người dân Việt Nam không khác những lính Pháp trước đây. Cuộc chiến của chúng ta càng ngày càng trở nên khó khăn, phức tạp. 

Do đótôi đã xin biệt phái qua nha Hỏa Xa lái tàu buôn trong mấy năm.
Lái Tàu Biển do Nha Hỏa Xa Điều Hành

Những con tàu biển này nghe nói trước đây của bà Nhu khai thác. Sau cuộc binh biến 1-11-1963, các
con tàu được giao cho Hoả Xa xử dụng để chuyên trở hàng hoá từ Sài Gòn ra miền Trung, vì đường
hỏa xa nhiều đoạn đã bị Việt Cộng phá hoại, không xử dụng được nữa. Nha Hoả Xa xin Hải Quân biệt phái sĩ quan sang lái tàu. Lương lậu trả khá hơn bên quân đội, nhưng so với người xuất thân Hàng Hải Thương Thuyền đảm nhiệm cùng chức vụ thì ít hơn nhiều, nhất là thời gian phục vụ ở đây không được tính vào thâm niên quân vụ, không lên lon. Với tôi, đó là thời làm việc dễ chịu, tránh được không khí nặng nề, gó bó của nhà binh, nhất là không phải thấy những đôi mắt ngơ ngác, thất thần của người dân như tôi đã thấy trong vùng Tam Giác Sắt.\


Rời Hoả Xa, tôi trở lại Hải Quân đầu năm 1969, gặp trung tá Hoàng Cơ Minh. Ông muốn tôi làm việc
với ông trong Khối CTCT, nhưng cùng lúc đại tá Nguyễn Văn Ánh, chỉ huy trưởng Hải Quân Vùng 4
Sông Ngòi (lúc ấy chưa gọi là tư lệnh), xin tư lệnh Hải Quân cho tôi xuống đảm nhiệm chức vụ trưởng khối Chiến Tranh Chính Trị Vùng 4 Sông Ngòi. Tại đây tôi gặp lại đại tá Nguyễn Văn Ánh, vốn là
tham mưu trưởng Hải Quân, và đại tá Nguyễn Bá Trang, nguyên là hạm trưởng HQ 9 của tôi trước đây.
Là hai vị xếp cũ của tôi nên chúng tôi làm việc với nhau thật ăn khớp. Chỉ vài tháng trong công việc
mới, tôi đã thảo văn thư do đại tá Ánh ký, gửi tới các nhà xuất bản tại Sài Gòn xin ủng hộ sách, truyện
vào Tủ Sách của Hải Quân Vùng 4 Sông Ngòi “để những người lính Hải Quân trong những ngày
công tác xa nhà có thêm phương tiện giải trí, bớt phần cô quạnh”, cộng với sách báo của các sĩ
quan, bè bạn và cá nhân tôi sau khi đọc rồi, tặng cho Tủ Sách, khiến không bao lâu Vùng 4 SN đã có
một tủ sách luân phiên cho đoàn viên mượn lên cả ngàn cuốn, và mỗi lúc số sách mỗi tăng lên. Vì ai
muốn mượn sách phải nộp cho Tủ Sách 2 cuốn sách không có tên trong số trên 1000 cuốn sách đã có
trong Tủ Sách này.


Trong khi đó, tôi liên lạc, hợp tác với Khối CTCT Vùng 4 Chiến Thuật do trung tá Nghinh, bạn của
ông anh tôi, đóng góp bài vở cho tờ báo của Vùng. Từ đó tôi được Khối CTCT Vùng 4 yểm trợ một
cách rất thân thiết và hữu hiệu. Đặc biệt, Khối CTCT Vùng 4 cung cấp giấy để chúng tôi hàng tháng ra Bản Tin Hải Quân Vùng 4 Sông Ngòi, với điều kiện sau đó những bài viết được Ban Báo Chí Vùng 4
tùy nghi in lại trong tờ báo của Vùng. Hai bên cùng có lợi và vui. Trong Bản Tin này, tôi đã theo chân
đại tá Ánh đi thăm viếng các đơn vị trực thuộc, từ đó tôi tìm hiểu thêm về lịch sử, địa dư của các địa
phương liên hệ, viết thành những bài dưới nhiều thể loại, như phóng sự, bút ký, truyện ngắn. Tôi còn
nhớ một bài tôi viết về Hải Đoàn 23 Vĩnh Long, (khi trước chưa gọi là Giang Đoàn) nhan đề Mưa và
Thành Phố Cũ. Trong đó có những đoạn nói về cây cầu Thiềng Đức cao nghệu, buổi chiều gió thổi
lồng lộng từ mặt sông thổi lên, khiến những cô gái qua cầu cuống quýt. Vì dưới mặt sông, sát chân cầu là căn cứ Hải Đoàn 23 Xung Phong, có những anh lính Hải Quân ngồi trên mui tàu ôm đàn, hát ngêu ngao “Rồi đây khi mùa dứt chiến chinh…” Đây là bài viết tôi rất ưng ý, phản ảnh một thị trấn trù phú vùng Đồng Bằng Cửu Long, trong đó sự hiện diện của Hải Quân rất là thân thiết và hữu hiệu.

Từ đó có Những anh em Hải Quân các đơn vị trực thuộc đóng góp bài vở, nhưng nhiều nhất là thơ. Những Bản Tin ấy liên tục xuất hiện được khoảng 10 số. Đại tá Trang cũng viết một số bài về những ngày ông lăn lộn ở các giang đoàn xung phong. Riêng đại tá Ánh mỗi kỳ đều đích thân viết một Lá Thư Hàng Tháng. Ngoài những vấn đề liên hệ trực tiếp của Hải Quân, ông đã nhân đó nêu lên những điều cần suy nghĩ về hiện tình đất nước. Cuối bài, bao giờ ông cũng dùng mấy chữ “Thân ái cùng anh em.” Sau
này ông có phàn nàn với tôi rằng, có người nhắc “Bộ anh có ý đồ gì mà dùng câu nói giống ông tổng
thống Thiệu nói với toàn dân “Thân ái cùng đồng bào.” Không biết có phải phát xuất từ lời nhận xét
này không, nhân buổi họp hàng tháng của các đại đơn vị Hải Quân tại Câu Lạc Bộ Nổi, Sài Gòn, ông
đã có một bài thuyết trình khiến chúng ta phải suy nghĩ: Sự Nghi Ngờ Của Tào Tháo.


Cũng thời gian ở Cần Thơ, là hai người“độc thân tại chỗ”, những buổi tối ông cho gọi tôi sang căn
nhà ông ở góc cư xá sĩ quan, nói chuyện. Ông bày tỏ nhiều điều bi quan về đất nước. Ông nói “Mình
phải làm hết lòng, hết sức để giữ cho được miền Nam. Nếu không sau này mình sẽ có lỗi với lịch
sử, với những thế hệ con em của chúng ta.” Những dự đoán và lo ngại của ông chỉ mấy năm sau đã
thành sự thật kinh hoàng của ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau khi rời Vùng 4 Sông Ngòi, ông theo học
trường Cao Đẳng Quốc Phòng, với luận đề mãn khoá là Vai Trò Của Nhật Bản Trong Việc Phát
Triển Kinh Tế Tại Á Châu. (Lâu quá tôi không nhớ được chính xác). Ông có sai tài xế đem tặng tôi
một cuốn luận văn này khi tôi đang làm việc tại Sài Gòn. Sau đó ông đảm nhiệm chức vụ thứ trưởng
Bộ Kế Hoạch cho đến ngày miền Nam rơi vào tay Cộng Sản. Trước đó, khi sửa soạn theo học trường
Cao Đẳng Quốc Phòng, đại tá Ánh gọi tôi lên văn phòng ông và nói “Tôi sắp đi học. Anh có muốn đi
đâu, tôi sẵn sàng đề nghị.” Trong lúc tôi còn đang lưỡng lự thì ông bảo “Hay đi Mỹ, đi nhận tàu với
ông xếp cũ của anh, thiếu tá Phan Phi Phụng.” Do đó trước Tết ta, tôi được gọi về Sài Gòn, nhập
thủy thủ đoàn của HQ 504, Sĩ Quan Đệ Tam, sửa soạn đi Mỹ lãnh tàu.


Với tôi, đại tá Nguyễn Văn Ánh là người có kiến thức uyên bác, có cái nhìn xa, rộng, một người miền
Nam không có thiên kiến, kỳ thị Bắc-Nam, một sĩ quan có nhiệt tâm và đã đóng góp rất cụ thể cho HảiQuân, cho đất nước. Sang Mỹ không thấy ông xuất hiện ở đâu, riêng cũng như tư. Phải chăng đó cũng là thái độ tự trọng của người trí thức trước lịch sử, trước hiện tình đất nước?


Những Thông Cảm Tình Cờ
Trong thời gian này, năm 1969, một người bạn văn nghệ của tôi là thi sĩ Tô Thùy Yên, sau này là thiếu
tá Đinh Thành Tiên, lúc ấy là trưởng phòng Văn Nghệ thuộc Cục Tâm Lý Chiến, một hôm gặp tôi nói
“Các bài viết của ông lạ lắm. Đây là những bài viết về chiến trận của chính người lính đang lúc
phải đối đầu với địch viết ra. Trong đó ta thấy có những nguy nan, lo lắng và cả những sợ hãi lẫn
mừng vui. Những cảnh huống ngặt nghèo, bi đát pha lẫn những niềm kiêu hãnh. Rất thực. Rất nhân
bản. Đọc xong những bài này tôi có lưu lại để còn xử dụng. Ông có những bài khác đưa tôi, mình
in thành một cuốn bút ký chiến tranh. Lạ lắm.” Anh còn nói đùa “Qua các bài viết này chúng tôi
mới thấy Hải Quân các ông cũng gian nguy, vất vả, chứ không phải chỉ mặc đồ trắng đi chơi với
đào.” Từ những gợi ý đó tôi đã có cuốn sách mỏng, Bờ Sông Lá Mục, bút ký chiến tranh do nhà Hồng
Đức của chính Tô Thùy Yên - Thụy Vũ xuất bản năm 1969. Một góp mặt tình cờ, không mong mà có.
Sau cuốn sách nhỏ này, tôi viết thêm một số bài nữa lấy tên là Trong Khói Lửa Nồng, trong đó có cả
những bài viết rất kỹ, nặng kỹ thuật Hải Quân về những chiếc tàu địch xâm nhập bằng đường biển từ
ngoài Bắc lén lút chở vũ khí tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Bên cạnh đó còn có những bài viết về cảnh người ở hậu phương, nhớ người nơi sóng gió. Những bài này sau khi xuất hiện trên báo Tiền
Tuyến, đều được phát lại trên đài Tiếng Nói Tự Do, đài Gươm Thiêng Ái Quốc, phát thanh ra Bắc.
Tất nhiên Hà Nội đã chú ý về những bài viết này để biết những tàu bè của họ được miền Nam “đón
tiếp” ra sao. Tất cả bản thảo cũ, mới và rất nhiều hình ảnh của gia đình, chật ứ trong một valise nhỏ,
nặng như cục đá, tôi đã buông ra cho nó rơi xuống khe cầu tàu HQ 502, để ôm chặt thằng con nhỏ trên
tay khi leo lên cầu thang dốc ngược ở cầu tàu trước Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, trong Hải Quân Công
Xưởng đêm 29 tháng 4 năm 1975. Lúc đó thì không tiếc, vì không có chọn lựa nào khác, nhưng bây
giờ thì tiếc. Tiếc quá.
Đó là những dữ kiện lịch sử.


Di Tản Trên HQ 502
Rồi ngày “tan hàng” 30 tháng Tư đến, như một định mệnh, tôi có mặt trên con tàu Thi Nại, HQ 502 do
người bạn thân cùng khóa, anh Nguyễn Văn Tánh, làm hạm trưởng, chở theo trên 5000 người trong giờ
hấp hối của miền Nam. Con tàu đang trong thời kỳ sửa chữa đại kỳ, lại bị phá hoại, nhân viên cơ hữu
là 110 người chỉ có 9 người có mặt, nhưng bằng mọi giá phải ra đi bằng được. Trong hoàn cảnh ấy,
mọi người có khả năng, hiểu biết về hải quân đành xúm lại, tìm mọi cách đưa tàu ra khơi, trong đó có
tôi. Tôi là người phụ tá gần gũi nhất của anh Tánh hạm trưởng. Tôi giúp anh dùng hệ thống âm thanh
của tàu để truyền đạt các điều cấm kỵ, hô hào sinh hoạt chung, đôn đốc những công tác cần thiết, cũng như thay anh lái tàu khi anh mệt mỏi. Thật là ngàn vạn gian nan, ngoài tưởng tượng của mọi người. Chỉ xin đơn cử một việc : Hệ thống bơm của tàu hư, cả hệ thống nhà cầu 29 cái không dùng được, với 5000 người vô trật tự trên tàu… Những gì sẽ xẩy ra? Nhưng cuối cùng con tàu đã đi thoát, đưa được
trên 5000 đồng bào ra biển, hợp với đoàn tàu của HQVN đến được bến bờ Tự Do. Do đó tôi đã ghi
lại chuyến đi này cùng với các sự kiện của cả hạm đội Hải Quân VNCH đi thoát ra sao. Tôi cũng đã
đích thân tiếp nhận và ghi lại công điện từ Soái Hạm HQ3, văn kiện cuối cùng của Hạm Đội, bằng
bạch văn từ phó đề đốc Hoàng Cơ Minh, khi ra lệnh cho tất cảchiến hạm hạ quốc kỳ Việt Nam, kéo
cờ Mỹ, trao tàu lại cho Hải Quân Hoa Kỳ. Tôi cũng ghi lại cảnh hạ kỳ lịch sử này với tất cả nỗi xót xa
và xúc động.
Cả đoàn tàu đủ loại hơn 30 chiến hạm, đem theo trên dưới 30 ngàn người. Riêng chiếc Dương Vận
Hạm Thị Nại, HQ 502 do anh Nguyễn Văn Tánh làm hạm trưởng, một con tàu hư hỏng đã đem theo
trên 5000 người, với biết bao khó khăn, gian khổ. Theo tôi, công lao của anh Tánh thật to tát. Anh
không trốn khỏi tàu, thoát đi khi có những tàu nhỏ ghé vào, là một quyết định vô cùng can đảm với tinh
thần trách nhiệm phi thường. Bây giờ không còn giới chức nào, không còn ai đủ tư cách để ban thưởng,
để gắn huy chương cho anh. Nhưng tôi biết, tôi đã gặp một số người từng thoát khỏi Việt Nam trên con
tàu Thị Nại, HQ 502, họ rất muốn có cơ hội gặp lại những người cùng đi trên con tàu này, nhất là để
đuợc chính thức bày tỏ lòng biết ơn đối với vị hạm trưởng, vị ân nhân của họ. Tôi chuyển ý kiến này
tới anh, nhưng anh cười, nói “Thôi, chuyện qua rồi. Tàu của chính phủ, đâu phải của riêng mình. Ai
may mắn thì lên được tàu mà đi thôi…”
Tôi cũng viết về HQ thiếu tá Lê Anh Tuấn, như biểu tượng anh dũng của người lính miền Nam, với
những cuộc đụng độ quyết liệt tại căn cứ chiến lược Tuyên Nhơn, đã gây cho địch nhiều thiệt hại nặng
nề trong các tuần lễ cuối cùng của cuộc chiến. Cũng vì thế, khi Tuấn đem đoàn chiến đĩnh di tản,
hướng ra biển với tất cả nhân viên, gia đình, địch phục sẵn ở điểm hiểm nghèo có xe tăng áp đảo.
Trong hoàn cảnh đó, nếu chống lại, lính chết đã đành, nhưng còn đàn bà con trẻ? Anh đã chọn cái sống
cho tất cả, trừ anh. Anh cho lệnh đoàn tàu ủi bãi, tan hàng. Còn anh, 1 viên súng lục tự bắn vào đầu,
gục xuống mặt bàn, máu đổ trên tấm hải đồ hành quân. Xác anh được đồng đội đặt trên cái giường vải,
chôn ngay đêm đó, đêm 29 tháng 4 năm 1975, trên bờ sông.
Sau này một số bạn bè cùng khoá với Tuấn từ Mỹ trở lại nơi chiến trường xưa tìm mộ Tuấn, hỏa táng
xương cốt rồi đem tro sang Mỹ. Các bạn anh cho biết mộ anh được dân làng trùng tu và liên tục
hương khói từ mấy chục năm qua. Họ nói “Đây là mộ Ông Trưởng. Nếu ông không buông súng mà
chống lại, thì ngoài lính tráng hai bên, đàn bà, con trẻ trên đoàn tàu, xóm làng chúng tôi làm sao
tránh khỏi tan hoang, chết chóc do đại pháo từ đoàn tàu bắn lên, xe tăng từ trên bờ nã xuống.
Chúng tôi đội ơn Ông Trưởng lắm, nên từ mấy chục năm qua, dân làng thay phiên ngày đêm hương
khói.” Mà lạ thay, người làm việc này, người giữ miếng thẻ bài của Ông Trưởng lại chính là viên xã
trưởng, một viên chức Cộng Sản cao cấp nhất của địa phương. Nay HQ thiếu tá Lê Anh Tuấn đã được
cả cộng đồng biết tới. Danh tánh của anh đã được đặt tên đường trong khu thương xá Eden, vùng Hoa
Thịnh Đốn cùng với tên các vị anh hùng kiệt hiệt khác của QLVNCH. Bài tôi viết về Lê Anh Tuấn in
trong cuốn Nỗi Nhớ.
Chết Lần Thứ Hai
Sau đó trong những ngày bỡ ngỡ trên đất tạm dung, tôi đã ghi lại cảnh huống của mình, của bạn bè
mình ngơ ngác trong cuộc mưu sinh và những xao động kẻ đi, người ở, kẻ náo nức mưu cuộc trở về…
Tất cả được gói ghém trong cuốn Cánh Vạc Lưng Trời là tên một tuyện ngắn có trong sách, lấy làm
tên sách. Truyện ngắn này trước hết đăng trên báo Việt Nam Hải Ngoại số xuân, của luật sư Đinh
Thạch Bích phát hành từ San Diego, sau được đài BBC Luân Đôn chọn đọc trong đêm giao thừa, Tết
âm lịch 1981. Anh cả tôi, các em tôi năm 1954 không vào Nam được, ở lại ngoài Bắc, nghe đài BBC
thông báo trước cả tháng nên đêm giao thừa từ Hà Nội về quê cúng tổ tiên, ăn Tết, đã xúm nhau lại
trong căn buồng cũ để nghe đài BBC đọc truyện của“thằng em út, sau bao nhiêu năm bỏ nhà ra đi,
tuyệt vô âm tín.” Sau này, năm 1994, trong chuyến về thăm Việt Nam, gặp nhau ông anh tôi nói “Nghe
truyện của chú anh sướng quá. Thế là chú còn sống, vừa mừng, vừa xúc động. Vì có lúc có người
nói nhỏ cho anh hay chú đã hy sinh trong một trận chiến trong sông từ 1965 rồi, và cả nhà lúc
nghe tin ấy không biết thực hư thế nào, thương quá nên đã âm thầm, giấu giếm làm lễ phát tang...”
Thời cuộc đưa đẩy, những kẻ ra đi đã có thể trở về thăm lại quê hương. Tôi đã trở về và viết lại trong
cuốn Quê Nhà 40 Năm Trở Lại. Cuốn sách mới phát hành đã phải in lần thứ hai và được nhiều người
đón nhận. Nhưng với những nhà biên khảo như nhà văn Võ Phiến, giáo sư tiến sĩ Nguyễn Đình Hoà,
giáo sư Nguyễn Sỹ Tế, giáo sư Lưu Trung Khảo, giáo sư Trần Anh Tuấn … thì lại cho rằng cuốn sách
mỏng đầu tay, cuốn Bờ Sông Lá Mục viết về sinh hoạt Hải Quân ở trong sông là cuốn sách có phẩm
chất tốt nhất của tôi. Đặc biệt giáo sư John C. Schafer, người từng có thời daỵ Anh ngữ tại các đại học
Việt Nam, hiện là giáo sư tại Đại Học Arcata, CA, rất am tường tiếng Việt, tác giả cuốn Võ Phiến and
the Sadness of Exile, nơi trang 350, cho rằng “Phan Lạc Tiếp… He served as a naval officer for
Saigon regime… He is best known for Rotten Leaves On The River Bank (1969, Bờ Sông Lá Mục),
an account of river patrols conducted by the Vietnamese navy in the Mekong Delta.”
Đó cũng là điều làm cho tôi suy nghĩ.
Những Ân Nghĩa Bạn Bè
Những cuốn sách của tôi xuất hiện được đều do bè bạn yêu mến mà in cho. Ở Việt Nam là nhà xuất
bản Hồng Đức của anh chị Tô Thùy Yên - Thụy Vũ. Ở Mỹ là nhà xuất bản Mõ Làng của anh Huỳnh
Lương Thiện, cũng như sự tiếp tay phát hành của anh Võ Thắng Tiết, nhà xuất bản Văn Nghệ. Tất cả vì
lòng quý mến mà các vị ấy đã dành cho, tôi không mong mà có. Vì nhớ lời ông thân sinh nhắc nhở, tôi
không muốn làm văn chương, lại càng không hề sống bằng ngòi bút nên hầu như tôi không có những
sáng tác hư cấu, dựa trên tưởng tượng. Các bài viết của tôi hầu như tất cả là ký sự. Khi có sự tế nhị
liên hệ đến người này, người khác, tôi mới trình bày dưới dạng truyện ngắn, hay không nêu đích danh
người trong cuộc mà thôi. Còn tất cả là ghi chép dưới thể ký. Đó là những việc thực, người thực,
những địa danh thực, ai cũng có thể kiểm chứng. Có lẽ vì thế, các cuốn sách của tôi đã được xếp vào
loại tài liệu liên hệ đến cuộc chiến vừa qua.
Nhà văn Võ Phiến đã trích dẫn nhiều đoạn từ cuốn Bờ Sông Lá Mục, in trong Tổng Quan 20 Năm Văn
Học Miền Nam. Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ đã thu nhặt và cũng lưu trữ cuốn sách mỏng này như một
tài liệu về cuộc chiến trong sông của Hải Quân VNCH. Mới đây, trong một công trình biên khảo công
phu trên 10 năm sưu tầm, biên soạn, ông Nguyễn Thiện Thụ, nguyên là giáo sư văn chương tại Đại Học
Văn Khoa Sài Gòn và những đại học khác tại Miền Nam trước 1975, hiện cư ngụ tại Canada đã hoàn
tất bộ Văn Học Sử Việt Nam rất công phu, tổng cộng trên 2500 trang, gồm 4 tập. Tập IV, Văn Học
Hiện Đại, trong số tác giả được nói đến, có tên tôi, và các cuốn sách của tôi được xếp vào mục Tiểu
Thuyết Chiến Tranh. Từ trang 315 đến trang 329, soạn giả đã bỏ công điểm tất cả sách của tôi với
nhiều hảo ý. Ông cho rằng “Bờ Sông Lá Mục là bút ký chiến tranh mà Phan Lạc Tiếp đã viết bằng
một tấm lòng chân thành. Ông đã chân thành khi viết, chân thành chiến đấu và chân thành giỏ
những giọt lệ khóc các đồng đội nằm xuống.”
Hải Sử Tuyển Tập
Với vốn liếng viết lách nói trên, qua báo chí tên tôi bỗng nhiên liên hệ đến các hoạt động của Hải
Quân, từ đó khiến tôi được biết đến, bị đẩy ra, nên phải gồng mình làm trưởng ban Hải Sử. Đây là
một công tác được khởi xướng cách nay trên 20 năm, từ nhiệm kỳ tổng hội trưởng Hải Quân và Hàng
Hải đầu tiên ở hải ngoại là đề đốc Lâm Nguơn Tánh, người từng có thời giữ chức tư lệnh phó và tư
lệnh Hải Quân. Công tác ấy được ồn ào khi khởi xướng, rồi lặng lẽ bỏ dở, buông xuôi, nhiều năm, qua
nhiều nhiệm kỳ tổng hội trưởng, không ai nhắc đến nữa. Mãi tới nhiệm kỳ tổng hội trưởng của anh Trần
Chấn Hải, một cựu sĩ quan Hải Quân cấp úy, cùng cư ngụ tại San Diego với tôi, công tác ấy mới được
quyết liệt bắt đầu lại và cố gắng liên tục trong 2 nhiệm kỳ, ròng rã 6 năm trời cho đến khi cuốn Hải
Quân Tuyển Tập được thành tựu, ấn hành tháng 7 năm 2004.
Tôi giữ vai trò trưởng ban Hải Sử, là một công trình to tát, nhưng quyền rơm vạ đá, khiến tôi nhức đầu
không ít và phải ngưng mọi công việc viết lách của mình trong 6 năm trời. Thực hiện cho được cuốn
Hải Sử Tuyển Tập là công lao của biết bao người. Từ các vị đàn anh hàng tướng lãnh đến quân nhân
các cấp, dưới hình thức này hay hình thức khác, đã cổ võ, cung cấp tài liệu, hình ảnh, viết bài, tạo nên
máu thịt cho cuốn sách. Người đứng mũi chịu sào là phó đề đốc Đặng Cao Thăng và niên trưởng
Nguyễn Ngọc Quỳnh. Ông Thăng đã hăng hái thúc giục mọi người trong ban biên tập và mạnh mẽ tin
rằng“Chúng ta phải viết lại các hoạt động của chúng ta. Chúng ta có đủ kiến thức và tư cách để
viết về các việc chúng ta đã làm. Chúng ta phải làm ngay…” Khi tôi mới viết phần đầu về Trận Ba
Rài đưa ông, ông đã không tiếc lời khen ngợi và khuyến khích. Ông nói “Nếu cuốn sách gồm những
bài viết như bài này thì cuốn Hải Sử của chúng ta sẽ là một thiên anh hùng ca...” Và chính ông đã
dịch bài viết này ra Anh ngữ. Tuy nhiên vẫn có không biết bao nhiêu lời ong, tiếng ve, nặng nhẹ chỉ
trích ban biên tập rằng “Có ai trong các anh tốt nghiệp sử học không mà dám viết sử?” Ông Thăng
đã nói với nhóm người chỉ trích, chê bai ban biên tập rằng “Tôi cho các anh 6 tháng, thành lập cho
tôi một Ban Biên Tập khác, tôi sẽ chuyển công tác biên soạn hải sử cho các anh.” Trong khi đó,
ban biên tập (cũ) vẫn lặng lẽ làm việc và cũng sẵn sàng bàn giao. Nhưng 6 tháng, rồi 1 năm, tất cả
người hằng nặng lởi chỉ trích đều chìm trong yên lặng. Yên lặng hoàn toàn.
Giữa sự yên lặng đó và những ngày tháng tiếp theo, riêng về những người trực tiếp đóng góp bài vở,
tài liệu, tổng cộng đã trên 100 người. Hàng ngàn trang bài vở được gửi về, được tìm kiếm, chọn lọc,
nhuận sắc, cân nhắc, sửa lỗi chính tả và trình bày. Những buổi họp liên miên. Tất cả chi phí, đi lại,
mua thêm tài liệu, liên lạc đều trong tinh thần tự nguyện, kể cả những món quà văn nghệ làm duyên gửi
tới người này, người khác để tạo thuận lợi cho các cuộc gặp gỡ, phỏng vấn sau này. Việc liên lạc, tiếp
xúc này nếu không có sự bền bỉ hy sinh của anh và chị Trần Chấn Hải, chắc chắn công tác biên soạn
khó thể thành công được. Nhờ đó công tác mỗi lúc mỗi thêm phấn khởi. Đặc biệt khi tiếp xúc, phỏng
vấn, ghi chép được phát biểu của 2 vị đàn anh, phó đô đốc Chung Tấn Cang và đề đốc Trần Văn
Chơn, hai vị cựu tư lệnh Hải Quân, những nét chính trong việc xây dựng, bành trướng Hải Quân, các
kế hoạch bảo vệ lãnh hải và đặc biệt bí quyết đem hạm đội rút ra khơi trong ngày tàn cuộc chiến, coi
như ban biên tập đã nắm 70% những điều muốn biết. Chính trong một buổi tiếp xúc, đô đốc Chung tấn
Cang với bản tính bộc trực của người miền Nam đã tỏ ra rất bực mình trước những lời “nói dóc vô
lối” của vài người tự nhận là tác giả kế hoạch đem hạm đội VNCH ra khơi.
Sau đó, như một run rủi lạ kỳ, một người bạn thường qua lại Việt Nam, đã xin người viết một số sách,
với điều kiện “phải có chữ ký của tác giả để làm quà cho những người bạn ở Việt Nam.” Tất nhiên
chúng tôi bằng lòng ngay,“không có gì trở ngại.” Rồi mấy tháng sau, người bạn kia trở lại với một
thùng sách khá to. Ông ta nói “Trả lại ông đây.” Tôi mở ra, một thùng sách đầy, bao gồm hầu như tất
cả những gì liên hệ xa gần đến cuộc chiến từ 1945 đến 1975. Riêng giai đọan chiến tranh từ 1960 về
sau, việc xâm nhập đường biển từ Bắc vào Nam được viết rất đầy đủ trong cuốn Lịch Sử Hải Quân
Nhân Dân Việt Nam, dự thảo và tóm tắt. [1980, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Hà Nội, mới in xong tài liệu

 dự thảo thôi, chưa chính thức phát hành mà chúng tôi đã có.] Những trận chiến trong sông thì được các
“sử gia Hà Nội” viết trong cuốn Những Trận Đánh Của Lực Lượng Võ Trang Đồng Bằng Sông Cửu
Long. Không thiếu một chi tiết nào. Ta chỉ việc theo đó đối chiếu, gạt bỏ các lời khoa trương láo
khoét là tìm ngay ra sự thực. Do đó lúc đầu có người tỏ ý lo âu “làm sao có được các dữ kiện của
đối phương để tìm ra sự thực”, thì nay, mọi sự trở nên dễ dàng. Thuyền trưởng nào, con tàu nào đã
chìm ở vùng biển Sa Kỳ? Đó là tàu số 198, do chính trị viên thượng úy Phạm Ngọc Thạch và thiếu úy
Phạm Chuyên Nghiệp chỉ huy… Cuối tháng Tư, 75, cánh quân thứ năm của địch gồm nhiều sư đoàn từ
vùng Mỏ Vẹt kéo về uy hiếp đường số 4, dự trù tiến sát vào Sài Gòn uy hiếp sông Lòng Tào và Soài
Rạp, khoá đường ra biển của hạm đội VNCH. Cánh quân này của địch đã đụng phải sự phản công ác
liệt của Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 do HQ đại tá Lê Hữu Dõng của Hải Quân miền Nam án ngữ. Hàng
ngàn lính sinh Bắc tử Nam đã bị các chiến đĩnh phun lửa của Hải Quân VNCH thiêu cháy trong các
trận hỏa công, xác trôi đen đặc trên sông Vàm Cỏ, giạt tới cả bờ biển Vũng Tàu. Cánh quân này đành
ôm hận, nằm bẹp ở ngã ba sông Vàm Cỏ, không bén mảng tới được bờ sông Soài Rạp, Lòng Tào. Đó
là nguyên nhân hạm đội của chúng ta ra khơi đã không gặp trở ngại nào. Cánh quân Cộng Sản này do
tướng Lê Đức Anh của Hà Nội làm tư lệnh… Như thế việc biên tập mở ra dễ dàng như có một quyền
lực thiêng liêng, kỳ diệu nào hỗ trợ.
Cũng như khi viết lại trận rạch Ba Rài, nói đến trung sĩ I Trọng Pháo Lê Phước Đức, bài dự thảo được
đăng báo. Không lâu, một phong thư từ vùng Hoa thịnh Đốn gủi về kèm theo bức ảnh của người anh
hùng ngày cũ. Đúng bức ảnh năm xưa đã phóng lớn, dựng ở công trường Bạch Đằng. Lê Phước Đức,
râu hùm, hàm én, mắt sáng như mắt hổ năm nào vẫn y như thế. Một mảnh giấy nhỏ viết “Tôi đã đọc bài
ông viết vế anh Đức. Rất đúng. Tôi đã từ Mỹ về Việt Nam, ra Nha Trang, về Thành, quê của anh
Đức, chụp lại tấm hình trên bàn thờ anh, gửi qua cho quý vị…”
Trước những nhọc nhằn, tốn kém về đi lại, liên lạc, mua sách báo, in ấn tài liệu, đề đốc Đặng Cao
Thăng, chủ tịch Hội Đồng Hải Sử, chỉ thị anh thủ quỹ gửi cho tôi một chi phiếu 500 Mỹ kim. Tôi nhận
chi phiếu này để mọi người yên lòng, nhưng ngay sau đó tôi đã gửi chi phiếu về vị Thủ Quỹ, như một
đóng góp cá nhân vào việc in ấn cuốn Hải Quân Tuyển Tập. Đồng thời tôi cũng vận động bác sĩ nha
khoa Nguyễn kim Chân, em vợ tôi đặt mua trước cuốn sách này với giá 500 Mỹ kim nữa. Trong tinh
thần ấy, một số bạn bè khác liên hệ xa gần đến Hải Quân cũng hưởng ứng cụ thể, nhờ đó ngân khoản để
in cuốn sách đã mau chóng tăng lên. Tất cả những đóng góp xa gần, cụ thể và linh thiêng đó đã làm nên
cuốn Hải Sử Tuyển Tập.
Những Nét Tượng Trưng
Từ xưa tới nay, có ai dám nói cuốn sách nào là hoàn hảo. Cuốn Hải Sử Tuyển Tập chắc chắn không
thiếu sai sót, nhưng so với phác thảo khởi đầu, chúng tôi vui mừng là cuốn sách đã vượt qua những
mong mỏi về cả hình thức lẫn nội dung, bởi có các đóng góp lạ lùng mà chúng tôi không ngờ được.
Trong 592 trang khổ lớn, tương đương với 1100 trang khổ thường, nói lên những nét tổng quát về cuộc
sống gian khổ cũng như hào hùng và rất hữu hiệu của Hải Quân VNCH trong vai trò bảo vệ lãnh hải,
sông ngòi, chống lại sự xâm nhập của địch từ phương Bắc, ròng rã trên 20 năm từ ngày thành lập cho
đến khi làm lễ hạ kỳ, trao tàu cho Hải Quân Hoa Kỳ trên Biển Đông. Đây là món quà tâm huyết không
nhỏ của các chiến sĩ Hải Quân để lại cho hậu thế, cho sử học.
Trước sự yếu hèn, yêu đảng hơn yêu nước của người Cộng Sản Việt Nam, nhà đương cuộc Việt Nam
đã để cho Trung Cộng xâm chiếm đất đai và vùng biển Tổ Quốc qua các hiệp ước bất bình đẳng. Mới
đây Trung Cộng lại ngang nhiên bắn giết ngư phủ Việt Nam và đem quân chiếm đóng hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của chúng ta. Dư luận trong và ngoài nước cuồng nộ, xôn sao nói tới sự việc
này và muốn giở lại trang sử cũ, tìm hiểu xem quân dân VNCH, qua Hải Quân đã kiên trì gìn giữ lãnh
hải Tổ Quốc ra sao. Các sử gia, những cơ quan ngôn luận đã tìm đến cuốn Hải Sử Tuyển Tập. Trong
đó các nét chính yếu về cuộc thư hùng giữa Hải Quân của chúng ta với Hải Quân Trung Cộng được ghi
lại đầy đủ. Dù chúng ta không giữ được hải đảo, nhưng những thủy thủ của Hải Quân VNCH đã kiên
cường chống trả quyết liệt và đã hy sinh rất anh dũng. Cuốn Hải Sử Tuyển Tập đang là một vũ khí sắc
bén, cần thiết bênh vực cho lẽ phải, đồng thời cũng lặng lẽ nhưng đầy thuyết phục vinh danh các chiến
sĩ VNCH. Cố hải quân trung tá Ngụy Văn Thà, hạm trưởng hộ tống hạm Nhật Tảo, HQ 10, chết theo
tàu, một sĩ quan sau tôi một khoá, đang là hình ảnh lẫm liệt, được dư luận, đồng bào trong và ngoài
nước nghiêng mình kính trọng như một anh hùng chống ngoại xâm của lịch sử hiện đại.
Tuy nhiên dù đã cố gắng hết sức, chúng tôi cũng không thể viết hết những nét sinh hoạt của mọi lực
lương, mọi địa phương, mọi đơn vị. Các bài được chọn vì thế chỉ có tính cách tượng trưng, đại diện
mà thôi. Chẳng hạn gần 20 cuộc săn đuổi, đánh chìm tàu địch dọc theo bờ biển Việt Nam của Hải Lực
VNCH, chúng tôi chỉ viết chi tiết có một trận — HQ 4 Đánh Chìm Tàu Địch. Một trân quyết định
khiến địch phải chấm dứt ý định dùng đường biển xâm nhập vũ khí vào Nam. Sau này, nếu muốn, với
cái sườn đã có, ai đó có thể viết về tất cả những cuộc săn đuổi ấy thành một cuốn sách dày.
Giang Lực, Duyên Lực cũng thế
Giang Lực là một nét rất đặc thù và vô cùng hữu hiệu của Hải Quân Việt Nam trong vai trò yểm trợ
chiến trường là giữ vững nền kinh tế cho vựa lúa miền Nam. Nên những nguy nan và chiến công của
những chiến sĩ Hải Quân trong sông, tôi nghĩ, là một môi trường rất phong phú cho những ai muốn viết
về Hải Quân Nước Nâu sau này. Riêng về cuộc sống bơ vơ, buồn chán của những quân nhân trấn đóng
nơi các hải đảo xa xôi, một cuộc sống rất lạ, tuy ít nguy hiểm nhưng không thiếu hy sinh, gian khổ.
Chúng tôi biết và có nghĩ đến những ngày cô đơn, thiếu thốn của người lính trên các hải đảo, nhưng
chúng tôi, Ban Biên Tập, không có khả năng bao biện hết, nhất là công tác biên soạn này đã kéo dài
quá lâu, nên đành bỏ qua. Riêng về Tiếp Vận, chúng tôi cố gắng liên lạc nhiều lần với những vị đàn
anh, những người từng phụ trách về lãnh vực này, nhưng không ai tỏ ra muốn hợp tác.
Như thế cuốn sách như một viên đá mở đường, phần còn lại thuộc về những ai còn có chút quan hoài
đến trách vụ và danh dự của Hải Quân VNCH trước lịch sử. Cuốn sách đã được long trọng trình làng
ngày 4 tháng 7 năm 2004, giữa lúc sức khỏe của phó đề đốc Đặng Cao Thăng, chủ tịch Hội Đồng Hải
Sử, đã đến thời kỳ suy kiệt. Nhưng ông cũng kịp nhìn thấy ý muốn được hoàn thành. Ông mất sau đó
không lâu. Tôi nghĩ ở cuối đời, phó đề đốc Đặng Cao Thăng trong khiêm tốn và kiên trì, đã có một
nghĩa cử rất đẹp khi đóng lại trang đời của mình. Ông xứng đáng được ta biết ơn và ngưỡng mộ.
Bởi, hơn ai hết, chúng tôi biết nếu không có sự kiên trì, khuyến khích của ông, cá nhân chúng tôi, cũng
như tất cả anh em trong ban biên tập sẽ ngã lòng mà buông xuôi, như những người tiền nhiệm đã hăng
hái khi khởi đầu, rồi âm thầm bỏ dở. Phó đề đốc Đặng Cao Thăng, chủ tịch Hội Đồng Hải Sử, xuất
thân từ quân trường danh tiếng của Hải Quân Pháp, Brest, với quá khứ trong sạch, ngay thẳng, ông đã
hoàn tất được công tác đề ra. Ở ông, có cái dũng của người đứng mũi chịu sào để đương đầu với sóng
gió đến bất cứ từ đâu. Ông cũng từng là người cầm bút nên có sự tinh tế của người thưởng ngoạn, tạo
thành sự thu hút, kết nạp và sự ấm áp giữ chân những kẻ có lòng. Ông có sự bình dị, nồng nàn để mọi
người làm việc quanh ông mỗi lúc mỗi thấy vừa kính phục vừa mến yêu ông. Hơn ai hết, ông biết rằng
mọi nguời đến với ông là vì tình chứ không vì lý. Ông biết lắng nghe và chấp nhận ý kiến của bất cứ
ai. Vì khi đội ngũ, quân đội đã tan hàng, các cựu quân nhân tự nguyện đến với ông bất cứ lúc nào cũng
có thể bỏ đi, ông không có cách gì, quyền hạn gì giữ chân họ được. Cấp bậc khi xưa có thể tạo phần
nào sự nể trọng lúc khởi đầu, nhưng ở người có một quá khứ lập dị, kênh kiệu khó coi, tài không có
văn hoá chẳng cao mà chỉ nghênh ngang mũ áo, thì chính cấp bậc cũ càng cao càng là sức đẩy mạnh mẽ
của sự xa cách, bất hợp tác, đáng cười. Do đó tư cách, đức độ và tài năng mới là yếu tố giữ chân
những người ở lại. Ròng rã trong 6 năm trời, quanh ông, phó đề đốc Đặng Cao Thăng, không chỉ là
sinh hoạt vô vị lợi mà còn rất nhiều đóng góp, thiệt thòi, phiền lụy, và không ai bỏ đi cho đến khi công
tác hoàn tất. Với tôi, phó đề đốc Đặng Cao Thăng là một người đáng quý, một vị đàn anh, một người
chỉ huy, một nhà dìu dắt.
Hải Sử Tuyển Tập có 71 tiết mục và tôi đã đóng góp dưới nhiều thể loại gồm 27 bài. Tôi cũng là
người sắp xếp những bài viết được Hội Đồng Hải Sử tuyển chọn sao cho cân xứng và hợp lý giữa các
lực lượng, các địa phương… để tránh phiền hà, trách móc sau này. Đó cũng là lý do khiến chúng tôi
đã phải viết thêm bài này, bài khác để mọi sinh hoạt của đại gia đình HQ, các địa phương, các lực
lượng đều được nói đến, cân xứng. Trong số bài tôi đã viết, có bài tương đối ngắn nhưng tôi phải viết
đi, viết lại tới 6 lần. Đó là bài Cuộc Binh Biến Và Cái Chết Của HQ Đại Tá Hồ Tấn Quyền. Mỗi lần
thảo xong lại phải gửi đi bằng Bưu Điện đến những người liên hệ, đến chủ tịch Hội Đồng Hải Sử để
xin ý kiến, xác nhận và yêu cầu các vị ấy ký tắt ở cuối mỗi trang. [Những bản thảo này chúng tôi còn
giữ.] Cũng chính bài viết ấy đã có các hồi âm rất tốt. Đại tá Nguyễn Kim Hương Giang, bao nhiêu năm
ân hận là người trực tiếp hạ sát đại tá Hồ Tấn Quyền đã có nở nụ cười nhẹ nhàng,“giải thoát” vì ở thế
chẳng đặng đừng, ông đã bị cuốn vào vòng oan trái. Ông cựu thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, sau khi đọc
bài này, đã viết thư xin lỗi bà Hồ Tấn Quyền về những điều ông viết và nhận định về đại tá Quyền
trong cuốn sách của ông. Ông Cẩn cũng viết qua email cho tôi, xin phép dùng bài viết của tôi để đính
chính một số điều trong cuốn sách của ông. Tiến sĩ sử học Phạm Cao Dương, hôm phát hành sách đã
có bài viết với các nhận xét rất công phu. Ông đã nói “Cuốn sách này xứng đáng có mặt trong những
học viện quân sự ở bên này cũng như bên kia cuộc chiến”.
Như thế, với tôi, coi như tôi đã trả xong món nợ với bạn bè, chiến hữu là những người tôi đã biết, đã
gặp, đã sống cùng trong đoạn đường gian nguy ngày cũ. Ngoài 5 ấn bản Hải Sử Tuyển Tập được tặng,
cái “ngà voi Hải Sử”, coi như đã được hoàn toàn buông xuống. Ngay sau đó, tháng 7 năm 2004, tôi đã
viết thư gửi tới Hội Đồng Hải Sử xin rút tên ra khỏi tổ chức này.Vớt Người Biển Đông.
Một việc nữa tôi đã định không viết ra trong bài này, vì là việc hầu như mọi người đã ít nhiều biết rồi,
nhất là những sự kiện ấy sẽ được nói kỹ hơn trong các cuốn sách khác liên hệ đến cuộc vuợt thoát của
đồng bào ta sau ngày 30-4-1975. Vì thế, ở đây tôi chỉ xin vắn tắt đề cập đến các hoạt động của Uỷ Ban
Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển, và nói rõ hơn về cơ duyên tạo nên sự quen biết, thân tình của những
người trong cuộc đưa đến đóng góp của cá nhân tôi trong tổ chức này. Xét cho cùng, bây giờ mọi việc
đã xong, tôi thấy như có một sắp xếp, an bài từ trước, đó là tình bằng hữu. Xin xem ở những phần sau.
Vết Tích Của Cuộc Chiến
Nhìn chung, tôi không là người có nhiều tác phẩm đóng góp vào nền văn học niền Nam, nếu không nói
là rất khiêm tốn. Tổng cộng qua mọi thể loại các cuốn sách của tôi đã xuất bản, chỉ có khoảng trên một
ngàn trang. Nếu kể những bài góp vào cuốn Hải Sử Tuyển Tập và về thảm nạn Thuyền Nhân, trong 11
năm hoạt động, nhiều lắm cũng chỉ thêm trên dưới 1000 trang nữa. Nhưng những bài viết của tôi đã
được nhắc đến không bởi chỉ một người mà khá đông người trong văn giới cũng như giáo giới. Phải
chăng vì những trang sách của tôi không chỉ là những bài văn mà chính là những trang đời, những gian khổ, nguy nan có thật, phản ảnh các góc nhìn cụ thể của người lính, của một thời oan trái bão bùng, khốn khổ đổ xuống đất nước ta.
Có người hỏi tôi:
- Chắc anh yêu đời lính lắm?
- Không. Không đâu!


Tôi là người không hợp với cuộc sống nhà binh mà là người tình cờ sống với, cảm thông, ngưỡng mộ
và thương xót vô cùng trước những hy sinh to lớn của người lính. Đặc biệt, tôi và gia đình tôi đã thoát khỏi Việt Nam trong đường tơ kẽ tóc, được sống an toàn ở Mỹ, các con tôi được nuôi dưỡng đầy đủ, tiếp nhận một nền giáo dục tiến bộ và có một tương lai tươi sáng, sung túc tại đây, là nhờ chúng tôi đã bám vào con tàu mà thoát được — dù ra đi rất gian nan. Cho nên, dù có những bất bình trong thờim gian tại ngũ do một vài cá nhân hẹp hòi, kỳ thị, thiên kiến tạo ra, nhưng xét cho cùng, tôi đã nhận từ Hải Quân một ân huệ thật to lớn. Là người “ăn quả, nhớ kẻ trồng cây”, tôi đã cố làm những gì có thể làm để vinh danh những người làm nên tập thể này, nhất là anh em đoàn viên, các sĩ quan cấp nhỏ, những người không tên tuổi, đã âm thầm đóng góp chính sức lực, kiến thức, tâm huyết và cả mạng sống của mình cho màu cờ sắc áo.
Nói rõ hơn, trước hết tôi không phải và cũng không bao giờ muốn là nhà văn. Tôi chỉ tình cờ gặp và
ghi chép được những điều đáng ghi chép. Tôi là người thuật chuyện. Bởi như trên đã viết, tôi không ưa cuộc sống nhà binh. Cuộc sống ấy đã mang lại cho tôi những thiệt thòi, cay đắng như 10 ngày trọng cấm rồi tống ra đơn vị tác chiến ngay khi tôi đang sửa soạn lập gia đình và đang hoàn thành các bài viết phản ảnh sinh hoạt của Hải Quân, của những vùng biển mà tôi đã miệt mài đi qua. Đó là một liều thuốc đắng, một phản ứng ngược để rồi qua những truân chuyên, chìm nổi, tôi đã ghi lại những điều tai nghe, mắt thấy và từ đó được biết đến, như một người có tên trong sinh hoạt văn học. Vì thế, trước hết, tôi phải cám ơn những người, quân cũng như dân đã hành xử trong những cảnh huống bi hùng mà tôi đã gặp.


Nay cuộc chiến đã tàn, đã tàn trên 30 năm. Thời gian đủ dài để cá tính, tài năng của những người có
lòng cũng như của những kẻ tinh ma, khôn lỏi hay may mắn lợi dụng thời cơ, đều được phơi bày ra hết. Mọi việc diễn ra như một tấn tuồng mà đa số chúng ta là những diễn viên kém cỏi. Nếu chúng ta tài giỏi, chúng ta đã thắng hay không để cuộc chiến kết thúc bi hài như thế. Bi hài hơn nữa khi kẻ thắng không siêu việt như dư luận dành cho mà ngược lại còn tệ lậu, thua kém, bất xứng so với chúng ta rấtcnhiều. Phải chăng tất cả đã được số mệnh an bài. Từ ý nghĩ đó, các hờn giận, buồn phiền cá nhân, đâu
còn gì là quan trọng nữa. Sự ân hận nếu có, tôi nghĩ đã thuộc về người khác, không phải là tôi. Tất cả
đã qua, nhoà nhạt dưới bàn tay cười đùa của số mệnh. Đã là số mệnh thì tránh cũng không thoát.
Tôi đã tránh văn chương, nhưng chữ nghĩa cứ vây quanh tìm đến. Tôi không thích cuộc sống nhà binh,nhưng hình ảnh binh đao, chiến trận cứ luôn theo đuổi.


Đi Mỹ lãnh Tàu


Tôi từ Vùng 4 Sông Ngòi ở Cần Thơ, trở lại Sài Gòn, nhập thủy thủ đoàn HQ 504 để đi Mỹ lãnh tàu
nằm trong chương trình Chuyển Giao Cấp Tốc giữa Hải Quân Mỹ và Hải Quân Việt Nam. Hải Quân
phải tuyển mộ và huấn luyện thật nhanh trên 30 ngàn người trong vòng hai năm để tiếp nhận tàu bè,
chiến cụ. Lẽ ra chiếc khu trục hạm HQ.1 Trần Hưng Đạo được chuyển giao đầu tiên trong chương trình Việt hoá. Nhưng vì lý do “kỹ thuật” nào đó, thủy thủ đoàn HQ.1 đi Mỹ đã , trở về lại Việt Nam. Do đó 2 dương vận hạm HQ.504 và HQ.505 là những chiến hạm được chuyển giao đầu tiên trong chương trình Việt Nam hoá chiến tranh giữa Hải Quân Mỹ và Hải Quân VNCH. Là sĩ quan đệ tam, nhưng tôi được gửi đi Mỹ trước hạm trưởng và thủy thủ đoàn để tiếp tay với các sĩ quan Mỹ tại San Diego, lo nghi lễ đón tiếp và chuyển giao. Dịp này, dù là người trong ban tổ chức, tôi cũng không giấu được xúc động khi chứng kiến cuộc đón tiếp vị tư lệnh Hải Quân của mình. Cả một đoàn quân dài ngút mắt, nghiêm chỉnh trong đại lễ, cờ xí lộng lẫy, bồng súng chào cùng lúc với dàn nhạc trỗi, và 19 phát đại bác liên tiếp nổ vang, khi phó đề đốc Trần Văn Chơn, có một sao trên vai áo xuất hiện ở cửa máy bay.


Đô đốc Elmo Russell Zumwalt. Jr, đương kim tư lệnh Hải Quân Mỹ, nguyên là tư lệnh Hải Quân Mỹ
tại Việt Nam, trong đại lễ trắng, đeo kiếm óng ánh ngù vàng, 4 sao sáng rực trên vai áo, đứng đón ở
cầu thang máy bay, nghiêm chỉnh dơ tay chào đón vị tư lệnh Hải Quân VNCH… Nhất là khi làm lễ
thượng kỳ VNCH trên chiến hạm mới tiếp nhận. Quốc ca VNCH bùng vỡ khi lá quốc kỳ nền vàng 3
sọc đỏ được kéo lên tung bay trong gió. Lòng tôi rộn rã. Tôi đã ghi lại kỹ lưỡng vào một bài viết.
Trong cuộc tiếp tân buổi tối, phó đề đốc Trần Văn Chơn,vỗ vai tôi nói “Là nhà văn, anh có nhận xét,
ghi nhận gì về ngày lễ hôm nay không?” Tôi đáp “Thưa Đô Đốc, bài tôi viết gần xong…” Bài viết
ấy hôm sau tại phi trường, tôi trao tay đô đốc Chơn đem về Việt Nam và chỉ ít ngày sau bài đã được
chạy rất trang trọng trên trang nhất nhật báo Tiền Tuyến như một hình ảnh đẹp và cụ thể khởi đầu công cuộc Việt hoá chiến tranh. Đồng thời bài viết cũng được chuyển tới Việt Nam Thông Tấn Xã để các báo khác tuỳ nghi xử dụng. Không thiếu người sau này hỏi tôi “Ai yêu cầu anh viết bài này?” Tôi đã trả lời “Không ai yêu cầu cả. Là một người Việt Nam, một quốc gia bé nhỏ, thấy một vị sĩ quan của mình được đón tiếp trong thể như thế, cá nhân tôi rất hãnh diện. Tôi viết trong tinh thần ấy, chứ
không vì người được đón tiếp là ai.” Tôi nghĩ, đó cũng là một dấu mốc lịch sử.


Giang Hành Đi Căm Bốt


Từ Mỹ về, sĩ quan cũng như nhân viên HQ.504, phần lớn bị thuyên chuyển. Trung tá Phan Phi Phụng
vẫn làm hạm trưởng và tôi làm hạm phó thay Hùng “Mèo” đổi đi làm hạm trưởng LST. HQ.504 liên
tục chuyên chở đạn dược, súng ống từ Việt Nam qua Căm Bốt. Những chuyến đầu, khi về chở Việt
Kiều hồi hương sau biến cố cáp duồn của Căm Bốt. Khi ở Mỹ, tình cờ khi đọc báo thấy nạn cáp duồn, tôi và Hùng “Mèo” nhân dịp gặp gỡ nhóm giáo dân trong một nhà thờ do anh bạn tôi là anh Trương văn Tính, người dạy tiếng Việt cho quân nhân Mỹ tại đây dàn xếp, chúng tôi đã nói chuyện về công tác dân sự vụ nên được giáo dân chở đến tàu cho nhiều kiện quần áo cũ để đầy một kho. Khi đón kiều bào, chúng tôi mang các bao quần áo này ra phát, thật là hợp tình, hợp cảnh.


Phần lớn tàu nào giang hành trên sông Mê-kông, khúc sông ngoằn ngoèo khi mới vào lãnh thổ Căm Bốt đều bị bắn. Riêng HQ.504, đi, về 19 chuyến không bị bắn lần nào. Tất nhiên do may mắn, nhưng phần khác tôi đã soạn một bài nói chuyện khá dài, trình bày rất kỹ với nhân viên chiến hạm rằng “Nếu tàu mình bị bắn thì chúng sẽ phục ở đâu? Nhiều phần chắc là ở đoạn sông khúc khuỷu, khi nước thấp,
chúng có lợi thế từ trên bắn xuống và ta thì bận rộn lái tàu, khó quan sát được trận địa vì sông uốn
khúc và từ dưới nhìn lên. Để thoát khỏi khúc sông nguy hiểm, ta phải phản ứng như thế nào? Với tốc
độ bình thường, phải bao lâu để con tàu có đủ thời giờ thoát ra khỏi đoạn sông? Như thế, bắn liên tục
không ngưng để áp đảo địch và để mình giữ vững tinh thần, cần bao nhiêu đạn. Và quan trọng nhất, VC
cũng chỉ là người, cũng sợ chết. Suốt thời gian giang hành, chúng ta luôn ở trong nhiệm sở tác chiến,
mũi súng không dời những mục tiêu khả nghi. Thấy ta sẵn sàng chĩa súng vào, nhiều phần chắc họ ẩn
mình nằm im, nếu có bắn cũng run tay khó trúng. Trong hoàn cảnh đó, ta phản pháo tức thì, vì chỉ khai
hoả trễ 1 giây là con tàu có nguy cơ nổ tung. Vì con tàu to quá, dài 110 mét, chuyên chở trên dưới
1000 tấn đạn. Một quả B40 vào thân tàu, là 1000 tấn đạn nổ tung, không chỉ anh em đang đi phiên bị
chết mà cả tàu đều chết hết, nằm ở dưới lòng tàu cũng chết, không ai sống sót được. Biết thế, các ổ
súng đều được anh em đoàn viên tự động đem sẵn 2 cấp số đạn, và ai cũng hết sức chăm chú trong
nhiệm sở tác chiến.


Làm Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến


Dương vận hạm Quy Nhơn, HQ 504 khi về nước do bà thượng nghị sĩ Phan Nguyệt Minh đỡ đầu.
Nhân dịp gần Tết, bà muốn sinh hoạt với anh em thủy thủ đoàn nên đã vận động với Tư Lệnh Hải
Quân để con tàu có mặt ở Sài Gòn trong ngày cận Tết. Chiều 30 Tết tàu đậu ở cầu Nguyễn Huệ, vị trí
2, và tổ chức tất niên. Tất nhiên bà thượng nghị sĩ có xuống tham dự. Giữa lúc tiệc đang vui, khoảng 4
giờ chiều, một nhân viên từ Văn Phòng Tư Lệnh đem xuống tàu một phong bì nhỏ trong đó có mảnh
giấy ghi thủ bút màu đỏ của tư lệnh Hải Quân như sau “HQ đại úy Phan Lạc Tiếp trình diện văn
phòng tư lệnh. Lý do cho biết sau.” Vì tiệc đang vui và sau đó tàu phải di chuyển đi Thành Tuy Hạ
lấy đạn để chuyển ra Trung ngay sau Tết nên tôi thỉnh ý trung tá Phan Phi Phụng, hạm trưởng xem nên hành xử ra sao. Ông bảo “Cũng khó. Để tôi gọi đại tá Tài, chánh văn phòng xem sao.” Gọi mấy lần không được, trong khi tàu phải có mặt ở Thành Tuy Hạ trước khi trời tối, nên “đành cứ đi xuống đó đã.” Nửa đêm, giờ chuyển công điện tổng quát lúc 00 giờ, tàu nhận được công điện nguyên văn như sau “Ngay khi nhận công điện này, hãy gửi ngay HQ đại úy Phan Lạc Tiếp trình diện, tân đáo văn phòng Tư Lệnh.” Thế là sáng mùng 1 Tết, ngày nguyên niên, tôi thu xếp ít quần áo vào cái túi nhỏ, nhờ thằng em ở Cát Lái đèo xe Honda về Sài Gòn.


Thấy tôi vể giữa mùng 1 Tết, cả nhà mừng vui khôn tả. Sáng mùng 2 Tết, mặc quần áo dân sự, tôi tới
tư thất tư lệnh chúc Tết và xin chỉ thị. Lúc ấy tư lệnh đang tiếp các vị đại tá, chỉ huy trưởng các đại
đơn vị. Mọi người ngồi kín ở phòng khách. Riêng tư lệnh ngồi ở cái ghế gỗ dài. Anh U văn Đức, tuỳ
viên vào trình, tư lệnh gọi tôi vào, ông cười nói rất vui, bảo tôi ngôi xuống bên cạnh ông, vỗ vai tôi và
nói “Tôi muốn anh Tiếp về làm việc cạnh tôi, ở văn phòng hay trông nom Phòng Tâm Lý Chiến.”
Tôi xin cho tôi suy nghĩ vài ngày. Ông cười vui, đồng ý. Sau đó như hàng năm, vợ chồng tôi đi thăm
gia đình anh chị tôi và hỏi ý anh tôi xem sao. Anh tôi bảo “Hơi phiền. Đành rằng mày sẽ lên thiếu tá
thường niên trong năm nay, nhưng đảm trách chức vụ này, cấp số đại tá, khó làm việc.” Tôi cũng
nghĩ thế và rất phân vân. Trên đường về nhà, chúng tôi rẽ vào Lăng Ông lễ và xin xâm. Đức Tả Quân
cho quẻ thẻ đại cát, trong đó có câu “Có sự thay đổi trong gia đình và có quý nhân phù trợ.” Do đó
sáng ngày mùng 4 Tết, khoảng 9 giờ sáng, sau lễ chào cờ đầu năm, tôi vào gặp trung tá Thì, trưởng
phòng Tổng Quản Trị. Thấy tôi, ông Thì hỏi ngay“Sao, ý kiến của ông thế nào?” Tôi viết vào lề tờ
công điện, bản sao của Phòng Tổng Quản Trị mấy chữ “Xin tuân lệnh tư lệnh.” Ông Thì sai nhân
viên làm văn thư, đem trình tư lệnh tức thì. Tôi ngồi đợi không đầy 15 phút, văn thư bổ nhiệm tôi
chính thức làm trưởng phòng Tâm Lý Chiến, thay thiếu tá Đinh Công Chân. Căn cứ trên lệnh bổ nhiệm
này, P/TQT đánh công điện thông báo tổng quát cho các đơn vị HQ khắp nơi.
Như thế, việc tôi về làm Trưởng Phòng TLC đã gây sửng sốt cho nhiều người, nhất là các giới chức
chỉ huy trên tôi, nhưng dưới quyền tư lệnh. Biết thế nhưng tôi không làm sao khác được. Khi đáo nhậm
chức vụ, tôi mới thấy nhiều khó khăn vượt ngoài khả năng. Toàn thể nhân viên quá đông, gần 300
người, và có những trách vụ rất lạ, như một thùng rác, không ai nhận thì dồn cho P/TLC, như trông
nom các trung tâm chăn nuôi gà heo, theo dõi việc Sea Bee của Hải Quân Mỹ xây cất khu gia binh…
Đó là những việc ngoài sự hiểu biết, khả năng và bản chất của tôi nên tôi làm phiếu trình lên văn
phòng tư lệnh xin chuyển những công tác này sang Khối Tiếp Vận. Đẩy đi đẩy lại cả năm, P/TLC mới
buông được những việc này ra. Cũng vì thế, mang tiếng là người cầm bút mà suốt thời gian 2 năm ở
P/TLC tôi không có thì giờ viết một bài văn nào. Tờ Lướt Sóng hầu như tôi trao cho Ban Báo Chí, do
trung úy Trần Trọng Thức, một người có kiến thức và khả năng, chồng kỳ nữ Kim Cương, trông nom. It lâu sau Thức được biệt phái vào phủ tổng thống. Và sau 1975, mọi người mới hay Thức là một cán bộ VC nằm vùng.
Lúc ấy đại úy cố vấn R.A — sau này có thời ông là một giới chức cao cấp trong chính phủ Mỹ — làm việc với tôi, rất vui. Chúng tôi có những buổi Happy Hour mỗi chiều thứ sáu. Qua hơi rượu, tôi xin được một kho giấy từ căn cứ Long Bình dùng in báo Lướt Sóng trong nhiều năm chưa hết [Trong thời gian đó Phòng Tổng Quản Trị thường phải xin giấy của P/TLC để in những văn thư tồn đọng như thăng thưởng, tưởng lục.] Cũng thời gian này, chúng tôi xin được từ văn phòng MACV tất cả đồ trang bị phòng Lab in ảnh. Lúc ấy, phòng lab của HQ là nơi duy nhất ở VN có thể in những bức hình khổ lớnn như tấm poster. Do đó văn phòng tổng thống biết và nhờ in những tấm chân dung lớn của tổng thống.


Có hôm anh trung sĩ Mỹ, nhân viên của đại úy R.A, chở tôi lên Long Bình, tới một nhà kho rộng mông mênh. Anh ta nói “Có khỏang 10,000 bao xi măng, ông có phương tiện thì đến lấy, free, với điềukiện phải làm xong trong vòng 1 tuần lễ.” Tôi đem tin này trình lên thượng cấp, đề nghị Khối TiếpVận nhận lãnh, nhưng không thấy động tĩnh gì. Không biết 10 ngàn bao xi măng này người Mỹ đã cho ai.


Về quỹ Hậu Phương Yểm Trợ Tiền Tuyến. Tôi được đại diện HQ lên văn phòng Tổng Cục CTCT lãnh
ngân khoản từ quỹ Hậu Phương Yểm Trợ Tiền Tuyến. Khi ấy là năm 1972. Hải Quân được tặng 1 triệu
đồng. Sư Đoàn 5 Không Quân đươc lãnh 2 triệu đồng vì đơn vị này có công rất lớn, cũng như đã thiệt
hại đáng kể khi yểm trợ cho chiến trường Bình Long. Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, tham mưu trưởng Tổng
Cục trao tiền. Sau khi ký nhận, ông yêu câu tôi nán lại để cùng chuẩn tướng Phan Phụng Tiên, tư lệnh
Sư Đoàn 5 KQ xuất hiện trên TV. Tôi từ chối, viện lẽ Quân Chủng HQ chỉ được tặng 1 triệu trong khi
Sư Đoàn 5 KQ, chỉ là một đơn vị, dù có công và hy sinh lớn vẫn khiến người xem có cái nhìn so sánh
không mấy đẹp cho HQ. Tôi nói “Đành rằng KQ có công thật. Vì KQ phù hợp với chiến trường,
hoàn cảnh của Bình Long. Nhưng nếu trận chiến xẩy ra ở ven biển, hay trong vùng đồng bằng sông
Cửu Long, lúc ấy vai trò của HQ sẽ khác. Xin cho tôi kiếu.” Đại tá Duệ nghĩ ngợi và vào trình trung
tướng tổng cục trưởng Trần Văn Trung. Mấy phút sau, tướng Trung ra gặp tôi. Tôi trình bày lại ý kiến
này. Tướng Trung gật gù và quyết định cho HQ thêm 1 triệu nữa nhưng việc thu hình cuộc trao tiền bị
hủy bỏ. Tôi đem 2 triệu về trình tư lệnh HQ. Ông giao cho Phòng TLC quản trị quỹ này và đề cử tư
lệnh phó làm chủ tịch Quỹ, thay mặt tư lệnh để khen thưởng các đơn vị hữu công. Do đó các đơn vị khi
hành quân chạm địch, nhất là tạo được thành tích, đều thông báo cho P/TLC để chúng tôi thẩm định,
trình tư lệnh phó, chủ tịch Quỹ này, để ông quyết đinh tưởng thưởng và thăm viếng, ủy lạo. Đây là một
công việc tưởng như đơn giản nhưng thực tế, P/TLC cũng như cá nhân tôi phải đối diện với rất nhiều
phiền hà, mất nhiều thì giờ, nhiều khi muốn cười ra nước mắt vì những chuyện lặt vặt, kỳ khôi. Như thư ký đã đánh máy thừa một dấu phảy trên chữ u thành chữ ư trong tên đệm của ông tư lệnh phó, khiến tất cả tập hồ sơ bị gạch chéo, phải làm lại từ đầu và trưởng phòng bị gọi lên mắng “Xem lại đi, làm ăn cẩu thả.”


Một việc khác cũng rất phiền hà. Anh Lưu Bạch Đàn, đạo diễn điện ảnh, nhờ anh Lưu Lương Cơ gửi
một cốt truyện phim lên Văn Phòng Tư Lệnh, xin Hải Quân yểm trợ thực hiện cuốn phim mà nhân vật chính là một sĩ quan Hải Quân. Đó là cuốn Bão Tình, do trung tá Không Quân Ôn Văn Tài, chồng củaca sĩ Thanh Thúy và Hùng Cường đóng cùng nữ tài tử Kiều Chinh. Về cốt truyện phim, các giới chức HQ đã tranh cãi mất nhiều thì giờ, hãng phim rất sốt ruột. Cá nhân tôi phải cân nhắc, sửa lại truyện phim theo ý kiến của các giới chức đưa ra, dung hoà với cốt truyện phim của nhà sản xuất. Sau đó tư lệnh HQ chỉ thị P/TLC đứng ra điều động các đơn vị HQ cho hãng phim thu hình, như lễ mãn khoá sĩ quan tại Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang, đám cưới theo phong cách HQ. Tổ chức hành quân trong sông để nhân vật chính, một sĩ quan HQ tham dự, bị thương v.v… Giai đoạn này lại vướng nhiều phiền phức, chống đối, nói ra không hết, và tất nhiên buồn hơn vui. Do đó trong phần giới thiệu về những người đã giúp đỡ cho cuốn phim, về phần tôi, tôi chỉ đề trưởng phòng TLC mà không đề tên.


Một việc khác không thể không nói đến là việc làm lệnh công tác và theo dõi hoạt động 2 Bệnh Viện
Hạm, HQ 400 và HQ 401. Trên căn bản, 2 chiến hạm này thống thuộc Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, nhưng
công tác Dân Sự Vụ tùy thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân do Phòng Tâm Lý Chiến phụ trách. Do đó P/TLC
là nơi soạn thảo Lệnh Công Tác, phối hợp giữa BTL/ Hạm Đội, Khối Quân Y, theo yêu cầu của địa
phương liên hệ đến vùng hoạt động. Do đó, các vị hạm trưởng lúc ấy đều là những vị đàn anh trước tôi
nhiều khóa, vì lý do này hay lý do khác muốn có thêm thì giờ ở bến, đều đến gặp tôi trình bày các lý
do trì hoãn ngày khởi hành. Có khi tôi thu xếp đuợc, có khi không, nên phiền hà, yêu ghét tất nhiên phải
có. Đó là điều tôi biết sẽ gây phiền hà cho tôi sau này, nhưng không làm sao khác được.
Một việc khác tôi đã có quyết định hợp tình hợp lý, là xử dụng ngân khoản 3 triệu đồng mỗi tam cá
nguyệt để mua quà Dân Sự Vụ cho 2 Bệnh Viện Hạm. Thiếu tá Đinh Công Chân, khóa 5, trước tôi 6
khóa, vị trưởng phòng tiền nhiệm, khi bàn giao có nói qua “Anh tuỳ nghi bàn với cố vấn Mỹ, vì Mỹ
quản trị quỹ này.” Khi vị sĩ quan cố vấn – tôi không còn nhớ tên — gặp tôi ông hỏi ý kiến thế nào.
Tôi nói “Đây là ngân khoản của Hoa Kỳ, do các anh quản trị, xin các anh tuỳ nghi thực hiện, tôi
không muốn có thêm trách nhiệm. Các anh mua những thứ gì, đưa cho chúng tôi, chúng tôi đem
phát cho dân chúng.” Vị sĩ quan cố vấn đồng ý ngay. Nhưng tôi nói tiếp “Anh có thể trích một ngân
khoản trong quỹ này để làm một việc khác được không?” Anh ta hỏi “Việc gì, có nằm trong công
tác Dân Sự Vụ không?” Tôi bảo “Không trực tiếp, nhưng cần lắm. Đó là việc cần thay hệ thống
âm thành dùng cho những cuộc sinh hoạt lớn như anh đã thấy mỗi sáng thứ hai trước tiền sảnh Bộ
Tư Lệnh Hải Quân. Như anh biết, mỗi sáng thứ hai, Phòng TLC phải cắt khoảng 5 đến 6 nhân viên
để lo về âm thanh.”

 Anh ta tỏ vẻ ngạc nhiện, tôi nói tiếp “Những nhân viên này phải đứng canh theo
đường dây bắt từ Bộ Tư Lệnh ra, không để ai dẵm vào. Nếu đường dây bị ai đó dẵm vào, hệ thống
âm thanh sẽ rú lên ầm ỹ, gây ồn ào kỳ cục, làm hỏng hết buổi lễ.” Vị cố vấn ghi nhận, sau đó chính
cố vấn Mỹ cung cấp cho Phòng Tâm Lý Chiến một hệ thống âm thanh toàn hảo, rất mạnh, với 10 cái
loa, thừa sức bao phủ tiếng nói rất trung thực suốt chiều dài từ giữa đường Cuờng Để đến công trường Bạch Đằng. Và hạ sĩ ĐK Nguyễn Văn Lợi, một nhân viên cũ của tôi trên HQ 504, (hiện ở Texas), tôi xin đích danh đương sự về Bộ Tư Lệnh để trông coi dàn âm thanh này. Từ đó mọi cuộc lễ ở BTL/HQ diễn ra êm ả, không ai phàn nàn gì nữa, nhưng không ai hay kết quả do đâu mà có. Nhưng việc “để cho Mỹ xài tiền của Mỹ”, tuy nhẹ nhàng cho cá nhân tôi, nhưng có người nói với tôi rằng “mày dại lắm, ngu nữa là đàng khác.” Biết thế, nhưng tôi không hề hối tiếc. Bây giờ lại càng không hề hối tiếc.\


Bốn Bề Thọ Địch\

Một việc nữa cũng đáng buồn cười. Khi Hải Quân tổ chức lớp Tham Mưu Trung Cấp tại Trung Tâm
Huấn Luyện Bổ Túc, tôi được chỉ định soạn thảo và giảng huấn về Tâm Lý Chiến cho khoá học này từ những ngày đầu. Những người theo học bao gồm sĩ quan thuộc nhiều khoá, trong đó nhiều vị thuộc khoá đàn anh của tôi. Việc này với tôi không khó. Tôi đã trình bày những công tác tôi đang phụ trách, phối hợp với một số tài liệu liên hệ thu hẹp mà anh tôi, trung tá Phan Lạc Phúc đang xử dụng ở
Trường CTCT số 2 Lê thánh Tôn, làm bài giảng. Trong khoá học, tôi thấy thiếu tá Lê Anh Tuấn rất
xuất sắc nên đã xin Lê Anh Tuấn về làm phó trưởng phòng cho tôi. Trong hoàn cảnh này kẻ yêu, người ghét càng thêm mạnh mẽ.


Sau đó, nhân buổi tháp tùng tư lệnh Hải Quân, phó đề đốc Trần Văn Chơn, đi thăm căn cứ Hải Quân
tại Bình Thủy do Mỹ vừa rút đi trao lại, tôi đã biết được một việc khiến tôi phải suy nghĩ. Trong bữa
ăn trưa, do tư lệnh chủ toạ, bữa ăn gần tàn, trước mặt đông đủ đại diện các Khối, Phòng thuộc Bộ Tư
Lệnh Hải Quân, tư lệnh HQ hỏi tôi “Anh Tiếp. Anh và anh Phan Lạc Tuyên liên hệ huyết thống thế
nào?” Hơi choáng váng, nhưng tôi trả lời “Thưa đô đốc. Anh Tuyên xuất thân khoá 1 Nam Định,
cùng khoá với thiếu tướng Kỳ. Sau này anh Tuyên liên hệ với tướng Nguyễn Chánh Thi trong vụ
binh biến năm 1960. Đứng về vai vế trong họ thì anh Phan Lạc Tuyên phải gọi tôi là chú. Nhưng
không phải ông thân sinh ra anh Tuyên là anh ruột tôi, mà chúng tôi chỉ là họ hàng cách nhau bốn,
năm đời.” Tư lệnh đã gõ gõ cái muỗng vào ly cà phê, nói “Thế mà họ trình tôi rằng anh là em ruột
anh Tuyên. Mà dù có là anh em ruột chăng nữa, cũng phải nhìn công việc của người ta làm chứ…
Làm việc tắc trách quá.”
Bữa tiệc đang vui, bị sững lại và giải tán sau ít phút.


Về lại Sài Gòn, một người bạn làm việc trên Bộ Tổng Tham Mưu gọi cho tôi, cười nói rất vui “Việc
của mày xong rồi.” Tôi ngỡ ngàng, hỏi lại. Anh ta nói “Mày không biết thật sao? Bên An Ninh trình
tư lệnh của mày là mày là em ruột Phan Lạc Tuyên. Ông tư lệnh của mày đọc hồ sơ và ghi “xếp”
lại rồi.” Anh bạn còn cho tôi hay “Phan Lạc Tuyên nói trên đài của VC một bài rất dài kêu gọi đích
danh mày và ông anh mày hãy sớm tỉnh ngộ mà về với chúng nó….” Từ đó tôi suy ra, và hiểu thêm
dù tôi đeo thiếu tá thực thụ đã trên 2 năm, đang đảm nhiệm chức vụ đại tá, và thi hành khá tốt công
việc trong trách vụ của mình, nhưng đã không có tên lên trung tá, dù nhiệm chức trong các kỳ thăng
thưởng vừa qua. Trong khi đó những khoá đàn em, giữ chức vụ nhỏ hơn tôi, một số đã đeo trung tá.
Qua đó tôi cũng được biết thêm những trò chơi không mấy đẹp của vài người mà tôi có liên hệ, làm
việc trong thời gian qua. Trong hoàn cảnh “bốn phương thọ địch” thật khó ngồi lại, do đó tôi xin đi
học lớp Tham Mưu Trung Cấp, giao Phòng TLC cho thiếu tá Lê Anh Tuấn, phó trưởng phòng. Tuấn xử lý chức vụ này và dùng những bài giảng của tôi cũ để giảng cho các khoá sinh Tham Mưu Trung Cấp, trong đó có tôi theo học.


Đời Hạm Trưởng


Khi còn là hạm phó trên HQ.504 cho trung tá Phan Phi Phụng, tôi được ông Phụng cho hay “Đại tá
Nguyễn Xuân Sơn, (tư lệnh hạm đội, là hạm trưởng HQ 09 cũ của tôi), đang đề nghị thuyên chuyển
tôi qua lãnh tàu dầu, một loại tàu nhỏ nhưng lớn hơn loại PGM.” Đi tàu dầu tương đối nhàn, ít
sóng gió, vì không phải loại tuần dương, chỉ đem dầu từ căn cứ này đến căn cứ khác rồi về lại Sài
Gòn. Nhưng chưa lấy tàu dầu, tôi đã được gọi lên làm trưởng phòng TLC. Sau hơn 2 năm ở bờ, rồi
học lớp Tham Mưu Trung Cấp xong, tôi thấy tên tôi bị đổi xuống tàu HQ 601, một tàu cũ nhất trong
loại tàu tuần dương, nhỏ nhất và thiếu tiện nghi nhất của HQVN. Hạm trưởng tiền nhiệm đã đổi đi,
không để lại phúc trình mãn nhiệm, bàn giao. Tôi xuống tàu thu dọn mọi thứ rồi làm phúc trình nhận
quyền chỉ huy. Khi ấy, tàu đang nghỉ bến để sửa chữa. Trục của tàu tôi cong, hư, phải mượn trục máy
từ tàu khác lắp vào. Radar không chạy vì không có cơ phận thay thế. Vỏ tàu rất mỏng và rỉ xét, trơ
những hàng sườn. Các bè cấp cứu vỡ nát và mất hết các đồ trang bị như lương khô, các phương tiện
mưu sinh…Tàu như thế, nhưng lệnh công tác đã ban ra. Trước tình trạng này, tôi viết phúc trình gửi
lên đại tá Nguyễn Xuân Sơn, tư lệnh Hạm Đội và thông báo rộng rãi, trong đó có một bản gửi thẳng
Văn Phòng Tổng Thanh Tra/TTM. Đại ý là con tàu chỉ có thể hoạt động hữu hiệu khi có đầy đủ những yếu tố sau:


- Có khả năng phát hiện và theo dõi tàu bè địch từ xa. Muốn thế, chiến hạm cần có hệ thống radar tốt.
Nhưng hiện nay radar của tàu không hoạt động được, vì thiếu cơ phận thay thế. Một con tàu mù.
- Khi phát hiện echo tàu địch, cần có khả năng ngăn chặn. Muốn thế, chiến hạm cần có tốc độ nhanh
hơn tốc độ của tàu địch. Nhưng hiện trục của tàu cong, phải mượn trục tàu khác lắp vào, không có khả
năng chạy nhanh, sợ cong trục như đã xẩy ra. Tàu hết khả năng săn đuổi.
- Khi chiến hạm tiến gần tàu địch, ta phải có khả năng áp đảo. Muốn thế cần có hoả lực mạnh hơn địch,
nhất là thuỷ thủ đoàn phải hăng say, tin tưởng vào chính sức mạnh và lòng tin của mình để khống chế
địch và sẵn sàng chiến đấu. Nếu chẳng may tàu chìm, những bè cấp cứu cần có đủ phương tiện để sống
sót, trước khi các chiến hạm khác tới cứu vớt. Trên thực tế, các phao cấp cứu cũ, rách và đã mất hết
các trang bị mưu sinh. Như mọi người đều biết, mức lương của lính càng ngày càng ít ỏi trước nạn lạm
phát, ăn uống kham khổ, nhất là những ai có gia đình. Tất cả những điều ấy thật khó để có một thuỷ thủ
đoàn mạnh mẽ với niềm tin tất thắng khi chiến đấu. . .
Sau khi phúc trình được gửi đi, chưa đầy 3 hôm, đại tá Nguyễn Xuân Sơn, tư lệnh hạm đội, gọi tôi lên
trình diện ông. Vừa vào phòng, ông bảo khép cửa lại, chỉ ghế cho tôi ngồi. Trước mặt ông là tờ phúc
trình của tôi. Ông cười mà như mếu, nói bằng giọng rất thân tình:
- Tiếp ơi. Tôi chưa thấy ai viết bản phúc trình như ông. Hay lắm, can đảm lắm và cũng đúng lắm.
Ông lấy tờ giấy trắng, vẽ những vòng tròn nhỏ bao quanh một vòng tròn ở giữa. Ông chỉ bút vào vòng
tròn ở giữa, nói “Đây là tôi.” Rồi ông chỉ các vòng trong bao quanh “Đây là các ông. Các ông bao
che xung quanh, nên gió không lọt vào tôi. Bây giờ ông viết thế này, vị trí của ông trống vắng, gió
thổi vào, lạnh chân tôi chứ.”
Thấy ông nói thế, lòng tôi chùng xuống. Nhưng chỉ ít phút sau, tôi thưa:
- Thưa Tư Lệnh, tôi chỉ viết sự thực. Với hiện trạng, Cdt ra lệnh cho tàu tôi đi, thì tôi đi. Nhưng ra
biển tàu chìm, ít nhất Cdt cũng biết tại sao nó chìm chứ.
Nghe thế, ông gập tờ phúc trình lại, nghiệng đầu, khép mắt lại một khắc rồi mở ra, và nói:
- Thôi ông về tàu đi. Moa sẽ tính lại.
Sau đó mọi việc trôi đi trong yên lặng. Tàu tôi khi thì được gửi đi công tác tuần dương, khi thì xử dụng
như một tàu dầu, đi tiếp tế dầu cho những đơn vị duyên đoàn.
Với những vị hạm trưởng tiền nhiệm, thường thời gian làm hạm trưởng PGM chi khoảng 6 tháng, hay 1 năm là tối đa. Riêng tôi, đằng đẵng kéo dài 18 tháng. Những hôm sóng gió, thức suốt đêm lo tát nước ngập ở phòng máy hay đứng ngoài phòng lái, nước tạt ào ạt vào mặt, để nhìn núi, định vị trí, vì mọi người mệt mỏi, buông lơi, tôi không dám tin ai, chỉ sợ tàu đâm vào đá. Sáng ra, tạm yên sóng gió, nhưng nhà bếp lạnh tanh, các nơi chua nồng, nhớp nhúa các bãi mửa, thấy đời đi biển sao chua chátthế. Vào ngả lưng xuống giường, mặt giường lạnh ngắt. Giang hai tay ra, chạm phải vách sắt, càng thấy lạnh hơn.


Trong thời gian chua chát này có hai điều đáng nhớ.
Thứ nhất là đề đốc Trần Văn Chơn, tư lệnh Hải Quân đã chọn tôi là hạm trưởng để huấn luyện cho
trưởng nam của ông, HQ đại úy Trần Minh Chánh, rồi giao tàu cho đương sự. Vì thế từ khi có anh
Chánh, trong những ngày đi biển, tôi có người nói chuyện, đỡ buồn và có liên hệ đến việc thuyên
chuyển của tôi sau đó. Đặc biệt, cũng từ khi có anh Chánh, những phiếu xin bổ túc tiếp liệu cuả tàu đa số tôi đều giao cho Chánh đích thân đi xin, nên hầu như đều được thỏa mãn rất nhanh. Ngoài lợi thế này, tôi phải công nhận là anh Chánh, dù xuất thân trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, nhưng tiếp nhận hải nghiệp rất nhanh, và thật là lễ phép, chịu khó.


Khi sắp giao tàu, khoảng tháng 10 năm 1974, Phòng Tổng Quản Trị đã phổ biến danh sách thăng cấp
thường niên năm tới, 1975, từ máy điện toán ở TTM. Tên tôi có trong danh sách này, lên Trung Tá
thực thụ năm 1975. Từ đó tôi suy ra dù thế nào tôi cũng sẽ rời tàu không xa. Chẳng lẽ để một trung tá
làm hạm trưởng con tàu bé tí teo này. Tôi dò hỏi Phòng TQT, nhưng im như thóc. “Chưa có quyết
định gì.” Bỗng một hôm, Phòng TQT gởi công điện gọi tôi. Trung tá trưởng phòng chìa cho xem bản
danh sách đề nghị thuyên chuyển, trong đó có tên tôi, đổi đi làm chỉ huy trưởng căn cứ Hải Quân Năm Căn, cấp số đại tá, với ghi chú “cho hợp với cấp bậc trung tá thực thụ mà đương sự sẽ lên trong
năm tới”. Tên tôi được khoanh bằng bút đỏ, màu dành riêng của tư lệnh, (màu xanh lá cây là của tư
lệnh phó) và lời ghi “Hỏi ý kiến của đương sự.” Tôi thưa lại“Cho tôi ít ngày suy nghĩ.” Về tàu, gặp
đại úy Chánh, tôi hỏi “Em có thấy Ba nói gì về việc thuyên chuyển của tôi không?”

 Chánh bảo “Không.” Tôi kể lại sự việc và nhờ Chánh hỏi “ông già” (tư lệnh Hải Quân), xem ý “ông già” ra sao. Hôm sau Chánh nói “Hình như Ba em muốn hạm trưởng làm việc ở Sài Gòn, để khi cần viết lách gì thì có người lo.” Do đó tôi được chuyển về Phòng Thanh Tra. Và chuyến đi thanh tra các đơn vị ở Năm Căn trùng vào ngày 10 tháng 3 năm 1975, khi mặt trận Ban Mê Thuột nổ ra, mở đầu những ngày đen tối của đất nước. Đó là chuyến công tác cuối cùng.


Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, tất cả ai ở Vùng 5 Duyên Hải đều bị kẹt lại, kể cả đại tá Nguyễn
Văn May, Tư Lệnh Vùng 5 Duyên Hải. Thật hú vía cho tôi. Dù chỉ là ngẫu nhiên, nhưng nếu tên tôi
không được tư lệnh khoanh mầu đỏ “hỏi ý kiến đương sự” thì trong những ngày tàn cuộc chiến, tôi
đang là chỉ huy trưởng căn cứ Hải Quân Năm Căn, chắc cũng như tất cả mọi người thuộc Vùng 5
Duyên Hải đều bị kẹt lại hết. Cá nhân tôi chắc chắn sẽ phải đi “học tập cải tạo” ít ra 10 năm, chắc gì
sống được. Gia đình tôi hẳn vô cùng khốn khó. Và lẽ tất nhiên tôi không thể quên ơn người đã có lòng biết đến tôi và viết mấy lời khoanh trong vòng tròn mầu đỏ trong bản đề nghị thuyên chuyển nói trên.


Tại sao tôi lại được đề đốc Trần Văn Chơn, tư lệnh Hải Quân ưu tiên như thế? Tôi nghĩ một phần do
các bài viết của tôi, các bài viết có liên hệ đến ông. Và xa hơn nữa, những năm trước đây, khi ông vừa
du học từ Mỹ về, còn đeo trung tá, chưa đảm nhậm chức vụ gì, ông có ghi tên học Luật. Thời gian này, tôi vừa học Văn Khoa vừa học Luật. Tại đây, tôi có gặp ông, vì đi sớm tôi thường lấy bài in giùm ông cũng như giữ chỗ ngồi hộ ông. Nhiều hôm ông mời tôi lên xe hơi đen của ông đi mua sách, thân tình như một đôi bạn học vong niên. Khi sắp tàn cuộc chiến thì khác. Ông đang là một vị tướng đầy quyền uy, tư lệnh một quân chủng, còn tôi chỉ là sĩ quan cấp bậc nhỏ bé và vì tự trọng, cũng như về hệ thống quân giai nghiêm ngặt, tôi không dám gần ông và thân mật như xưa. Nhưng với lòng ưu ái, ông vẫn không quên tôi, một sinh viên nhanh nhảu ngày nào. Chỉ qua sự kiện này, đề đốc Trần Văn Chơn, vớiM tôi, là một vị ân nhân. Và với Hải Quân, trong nhiệm kỳ thứ hai làm Tư Lệnh Hải Quân trong gần 10 năm, ông đã có công hiện đại hoá và bành trướng Hải Quân gấp 10 lần hơn lúc mới nhậm chức.

 Đặc biệt, như lời phó đề đốc Đặng Cao Thăng nhận định “Hải Quân trải qua một thời gian lục đục khá lâu. Hải Quân yên tịnh dần trở lại khi đại tá Trần Văn Chơn trở lại làm Tư Lệnh Hải Quân.(…)
Đại tá Chơn có công rất lớn.” [trích Tuyển Tập Hải Sử, trang 93.]
Con người như thế, không kính trọng và cảm ơn sao được.

*
Làm thanh tra trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, chúng tôi không có công tác gì. Tôi rất rộng
cẳng, phút chót trong ngày tàn cuộc chiến, nhảy xuống bất cứ tàu nào cũng rất tiện. Vì lúc này hầu như
đại đa số các vị hạm trưởng, từ loại tàu nhỏ đến lớn, đều do bạn bè sĩ quan cùng khoá 11 đảm nhiệm.
Và giữa giờ phút nguy nan đó không có giới chức nào nghĩ đến thăng thưởng, dù chỉ căn cứ trên danh
sách điện toán đã có từ trước. Cho đến giờ này, nghĩ cho cùng, đó cũng là một điều hay. Vì lon càng
cao, trách nhiệm càng lớn. Mình lon nhỏ, không có chức vụ gì, chỉ là sĩ quan thanh tra, dưới quyền chỉ
có một anh tài xế, chiếc xe jeep rất cũ, mỗi tháng được cấp 180 lit xăng, khéo lắm mới đủ đi lòng vòng
từ nhà qua bộ Tư Lệnh. Nhờ thế trước mối nhục nhằn thua trận, tan hàng, cá nhân tôi cũng cảm thấy đỡ
bẽ bàng, xấu hổ một chút.
Điều thứ hai tôi cũng không thể nào quên. Một hôm đang ở giữa biển, vị sĩ quan cố vấn, quần áo chỉnh
tề, chào tôi và đưa cho tờ công điện “yêu cầu cho thực tập tác xạ. Chỉ để lại 1 (một) cấp số đạn mà
thôi.” Thấy lạ, tôi gọi về bộ Tư Lệnh Hạm Đội, được đại tá Phan Phi Phụng, chỉ huy trưởng Phân Đội
Tuần Duyên, vị chỉ huy trực tiếp của tôi hiện tại, xác nhận “Đúng. Thi hành đi.” Lúc ấy tôi chỉ thấy
kỳ cục, đạn để lâu đâu có thiu thối gì….Nhưng khi sắp tàn cuộc chiến ta mới biết rõ: Người bạn đồng
minh có nhiệm vụ vắt cạn kiệt mọi khả năng cầm cự của chúng ta. Và bây giờ, mọi người đã thấy rõ, ta
có muốn đánh nữa cũng không còn đạn. Tôi nghĩ, đó cũng là một dữ kiện lịch sử cần ghi nhớ.
Chúng ta tan hàng là lẽ đương nhiên. Và bây giờ hơn lúc nào hết tôi rất thông cảm với các vị chỉ huy
của tôi, như vị tư lệnh hạm đội, như Vùng 5 Duyên Hải, cũng như tất cả mọi đơn vị mà tôi đã có dịp
thăm viếng trong những ngày cận kề ngày tàn cuộc chiến.
*
Tâm sự đến đây đã quá dài, dù cũng chưa đủ. Nhưng mọi sự đã qua, nên cho qua. Oán thù nên cởi,
không nên buộc để tâm hồn được thảnh thơi. Mọi điều dù hay, dù dở cũng sẽ mờ nhoà, chìm trong
quên lãng.
Chúng ta lớn lên và chìm ngợp trong chiến tranh, nhưng cuộc chiến nào cũng phải hết. Xét cho cùng,
đây là một cuộc chiến tàn hại giữa anh em một nhà, không nên có. Nhưng cuộc chiến tang thương mà
chúng ta tham dự ấy đã tàn trong tủi hận cho quân dân miền Nam với bao nhiêu nghịch lý. Kẻ thắng
hăm hở, vênh váo tự hào trong những ngày đầu, chẳng bao lâu đã bẽ bàng, cười ra nước mắt. Kẻ thù
muôn kiếp luôn đe doạ,với dã tâm kiên trì muốn thôn tính đất nước ta, không ai khác hơn là người
Trung Hoa, con khủng long khổng lồ phương Bắc. Kẻ đã cung cấp tận tình cho Bắc Việt từ cây kim sợi chỉ trong cuộc tương tàn này, chỉ mấy năm sau, 1979, chính là người đem quân“dạy cho đứa đàn em một bài học”, khiến mấy tỉnh cực bắc của nước ta “một ngọn cỏ cũng không còn mọc được.” Và bây giờ, Trung Cộng đã ngang nhiên chiếm cứ, đặt quận huyện tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Từ đó chúng vẽ vòng hải biên“lưỡi rồng” bao gồm hầu hết vùng Biển Đông. Chúng ta đang ở trong
cái rọ do Trung Cộng tuỳ nghi đóng mở, tuỳ nghi cho phép giao tiếp với thế giới bên ngoài. Và những cái đập khổng lồ ngăn nước trên thượng nguồn sông Mekông, khiến vựa lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long thiếu nước, đang từ từ ngập mặn, mất dần sức sản xuất. Biết ra đã quá muộn! Thảm họa đó bắt nguồn từ lòng cuồng tín, mù lòa của người Cộng Sản Việt Nam, những kẻ đã nhẹ dạ tin yêu Đảng, tin
yêu chủ nghĩa Cộng Sản hơn tin yêu đồng bào, Tổ Quốc. Là một người con dân của đất nước, nhìn sự
kiện ấy lòng bỗng sục sôi, trào nước mắt.
*
Với tôi, dù thế nào, cởi được bộ quân phục ra, đã thấy nhẹ nhàng, thơ thới. Cởi ra rồi, xếp đấy, tôi
không bao giờ dám mặc vào nữa, chính vì tôi nâng niu, quý trọng những ngày gian nan cũ, trong đó có
bao nhiêu anh linh của Những Khuôn Mặt Anh Hùng, những người mà tôi có một thời mặc chung màu
áo, đứng chung chiến tuyến và cùng mạnh mẽ tin rằng đã chiến đấu cho Tự Do, cho sự an lành, no ấm
của Việt Nam, trong đó có thân nhân, bằng hữu và gia đình của tất cả chúng ta.
Cho đến lúc này, hơn 30 năm sau cuộc chiến, tóc đã bạc, tay đã run, bạn bè kẻ còn, người mất. Những
người một thời gắn liền với thời cuộc, tốt cũng như xấu, đáng kính trọng hay chỉ đáng thương hại, buồn
cười … tất cả đã lần lượt lặng lẽ chìm vào quên lãng, hoặc đã tan vào hư vô. Trong gia đình Hải
Quân, một trong những người bỏ hàng ngũ, giã từ cuộc đời rất sớm trên đất tạm dung này là thi sĩ Hữu
Phương tức phó đề đốc Nguyễn Hữu Chí. Trong quân đội, về cấp bậc tôi với ông tương đối xa cách,
nhưng giữa người đi biển với nhau, tôi có chung với ông một niềm rung cảm trước mời gọi của biển
khơi, và cùng chia xẻ những phút vui buồn của người thủy thủ. Nhưng cũng chính sự đồng cảm và gần
gũi này đã gây cho tôi bao nhiêu phiền lụy.Những phiền lụy như một nghiệp chướng, tôi muốn từ
khước, cố duỗi mà không ra. Giờ ông đã đi xa lắm, ngoài cuộc sống này. Vết tích một đời ông trong trí
nhớ mòn mỏi của tôi chỉ còn mấy câu thơ chất ngất nỗi buồn thương:
Thua bại như cơn lụt
Dâng lên chiếm cả vùng
Chẳng còn gì dưới lũng
Đắm chìm ơi ! nước non.
[Thơ Hữu Phương, 7 tháng 6, 1982, trích từ bài “Ai Từng Giương Cung Nỏ” trong tập “Nước Non Ta
Thăm Thẳm Nỗi Buồn”.]
Nỗi buồn ấy không phải của riêng ông mà như lan tỏa khắp cả mọi người. Bây giờ những ý nghĩa,
những mệnh đề to lớn hình như mỗi lúc mỗi thêm nhạt nhoà, mòn rỗng, nhẹ tênh.


Cũng lúc này đây, tôi hiểu hơn bao giờ hết rằng dù tôi không muốn, không sống bằng ngòi bút, nhưng
chính các bài viết của tôi đã ảnh hưởng cụ thể đến cuộc đời tôi. Kẻ yêu rất nhiều mà người ganh ghét
không thiếu. Trong thời đại loạn triền miên mà mang tấm lòng “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” ra hành
xử, thì sống được đến hôm nay, quả là một phép lạ. Đúng như lời ông thân sinh tôi đã nhắc “Lập thân
tối hạ thị văn chương.” Dù đã muốn tránh, nhưng qua ngòi bút, các bài viết đã xa gần ảnh hưởng cụ
thể đến đời tôi, gian nan, cay đắng nhiều hơn là nhàn dỗi, thảnh thơi. Nhưng dù thế nào, lời nhắc nhở,
căn dặn của thân phụ tôi, tôi đã nghiêm chỉnh tuân theo, không bao giờ thay đổi.
(Tháng 9 năm 2007 - Hiệu đính tháng 3 năm 2008)


PHÓ ĐỀ ĐỐC HOÀNG CƠ MINH


Khi tôi ra trường đầu thập niên 60, tổng số sĩ quan Hải Quân chưa đến 300 người. Quân số tất cả Sĩ
Quan, Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên của Hải Quân vào khoảng 4000 người. Do đó hầu như chúng tôi biết
tên, biết tuổi và tính tình của tất cả những sĩ quan đàn anh. Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân số Hải
Quân trên 40 ngàn, trong đó sĩ quan có đến mấy ngàn. Riêng cấp tướng có 10 vị tại chức và 1 vị đã về
hưu vì đáo hạn tuổi. Số sĩ quan cấp tướng này có thể chia ra làm 2 loại.
Thứ nhất là các vị xuất thân khoá 1 Nha Trang do Pháp huấn luyện trên Hạm Đội Viễn Đông (Division
Navale d’Extreme Orient), với thâm niên quân vụ và chức vụ nên ưu tiên lên tướng trước với cấp bậc
2 sao, 3 sao.
Thứ hai là những vị mới lên sau này, 1 sao, khi cuộc chiến ở giaiPHÓ ĐỀ ĐỐC HOÀNG CƠ MINH
Khi tôi ra trường đầu thập niên 60, tổng số sĩ quan Hải Quân chưa đến 300 người. Quân số tất cả Sĩ
Quan, Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên của Hải Quân vào khoảng 4000 người. Do đó hầu như chúng tôi biết
tên, biết tuổi và tính tình của tất cả những sĩ quan đàn anh. Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân số Hải
Quân trên 40 ngàn, trong đó sĩ quan có đến mấy ngàn. Riêng cấp tướng có 10 vị tại chức và 1 vị đã về
hưu vì đáo hạn tuổi. Số sĩ quan cấp tướng này có thể chia ra làm 2 loại.
Thứ nhất là các vị xuất thân khoá 1 Nha Trang do Pháp huấn luyện trên Hạm Đội Viễn Đông (Division
Navale d’Extreme Orient), với thâm niên quân vụ và chức vụ nên ưu tiên lên tướng trước với cấp bậc
2 sao, 3 sao.
Thứ hai là những vị mới lên sau này, 1 sao, khi cuộc chiến ở giai đoạn cam go và Hải Quân bành
trướng mau lẹ, gồm sĩ quan xuất thân khoá 1 trường Sĩ Quan Hải Quân Brest, do Pháp huấn luyện;
khóa 2, khoá 3, khoá 4 và khoá 5 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Ông Hoàng Cơ Minh xuất thân khoá 5,
lên tướng, là người độc nhất trong khoá ông được vinh dự này. Đa số sĩ quan khoá 5 mang cấp bậc đại
tá, có người còn đeo trung tá. Đại tá Nguyễn văn May cùng khoá với ông, nhận định“Trừ lon trung úy
là chúng tôi cùng lên chung, sau đó hầu như cấp bậc nào ông Minh cũng lên trước anh em bởi
những công trạng đặc biệt. Ông Minh quả là người xuất sắc, hơn người.”
Trong thời gian thụ huấn, là sinh viên chuẩn úy, chúng tôi nhìn các Sĩ Quan đàn anh đã ra trường bằng
tấm lòng khao khát và ngưỡng mộ, nói chi đến vị đại úy hạm trưởng, ba vạch vàng trên vai và huy hiệu
hạm trưởng gắn trên nắp áo. Các vị ấy cao xa quá, tài giỏi quá, xung quanh là cả một vùng sương mù
huyền thoại. Ông này khó tính, chì sóng. Ông kia cặp cầu xuôi sóng mà êm như để. Ông khác tuy rất
thâm niên nhưng không thích làm việc trên bờ, chỉ thích đi tàu… Lúc ấy đại úy Hoàng Cơ Minh đang
là hạm trưởng trục lôi hạm Bạch Đằng II, HQ116. Chiến hạm tuy nhỏ nhưng mới tinh, trên ống khói có
gắn huy hiệu vẽ một mỹnhân ngư cầm cái chổi (để quét mìn). Trên huy hiệu này là một chữ ƯU bằng
đồng thau sáng loáng, chứng tỏ trong kỳ thanh tra thường niên vừa qua, chiến hạm đã đạt điểm tối đa
trên mọi lãnh vực : thi hành tốt các công tác được chỉ định; bảo trì toàn hảo các loại máy móc trên tàu
và tinh thần phục vụ của nhân viên rất cao.
Khi bước chân xuống thực tập trên trục lôi hạm này, chúng tôi thấy khác hẳn những chiến hạm khác.
Hầu như nơi đâu trên tàu nếu không sơn phết sáng trưng, đều được đánh đồng bóng lộn. Không có chỗ
hoen rỉ, vàng úa bọng sét. Vì chiến hạm này vỏ bằng gỗ, không rỉ sét, nhưng dễ vỡ. Vận chuyển phải
thật khéo léo, tránh va chạm như loại tàu vỏ sắt. Kim loại dùng trên tàu này một phần là sắt, thép đã
khử từ mà đa số cơ phận làm bằng đồng thau. Lý do đồng thau không bị hút bởi từ lực, tránh nguy hiểm
cho chiến hạm đi gần loại mìn từ tính. Ngay trên sân chính là một mặt trống khổng lồ để phá mìn âm
thanh. Bên cạnh đó là cuộn giây cable có đến gần 10 phân đường kính nằm chình ình trong trục quay.
Đối với chúng tôi, những sinh viên chưa ra trường, quang cảnh ấy là những gì choáng ngợp, khó khăn.
Tôi và mấy bạn cùng khóa đứng nghiêm túc trên đài chỉ huy, quan sát và ghi chép mọi diễn tiến tại
đây, chiêm ngưỡng vị hạm trưởng, đại úy Hoàng Cơ Minh đứng điều khiển con tàu.
Còi nhiệm sở vận chuyển kéo lên. Thuỷ thủ đoàn quần xanh đậm, áo xanh xám nhạt, áo phao màu đỏ,
mau chóng chạy vào nhiệm sở. Lệnh hạm trưởng ban ra sắc, gọn, được nhắc lại và thi hành rất chính
xác. Khi con tàu đã ở trên hải lộ, ngoan ngoãn hướng mũi ra cửa biển, hạm trưởng đứng một lúc,
hướng mắt ra khơi. Ông trở lại ghế dành riêng cho hạm trưởng, thong thả châm điếu Bastos, hít một hơi
dài, thở khói mù mịt, rồi ra lệnh “Giải tán nhiệm sở vận chuyển.” Gió thổi bay dây hiệu kỳ chiến
hạm lật phật. Một hồi còi dài ré lên. Tiếp theo ngay là hồi còi nhiệm sở của phiên hải hành. Vị sĩ quan
trưởng phiên giơ tay chào hạm trưởng biểu lộ sự sẵn sàng, là sĩ quan đương phiên đứng ngay cạnh la
bàn điện ra lệnh cho phòng lái. Đó là hình ảnh đầu tiên tôi có với niên trưởng Hoàng Cơ Minh.
Sau này, khi đã ra trường, công tác và trách nhiệm đòi hỏi, đa số anh em cùng khoá chúng tôi là những
ngươi đi tàu tốt. Nhiều người đã là hạm trưởng những chiến hạm lớn nhất của Hải Quân: khu trục hạm,
tuần dương hạm. Trong trận hải chiến lịch sử chống quân Trung Cộng tại Hoàng Sa, ngày 19 tháng 1
năm 1974, hai trong bốn vị hạm trưởng tham dự trận đánh là sĩ quan khoá 11. Tôi cũng từng là hạm
trưởng, chỉ huy một con tàu nhỏ, nhưng hình ảnh hạm trưởng Hoàng Cơ Minh vẫn là mẫu mực đẹp đẽ trong ký ức của tôi.

*
Từ năm 1965, cuộc chiến trở nên mãnh liệt, quân lực Mỹ ồ ạt đổ vào Việt Nam. Bên cạnh đó, một số
quốc gia đồng minh của VNCH cũng tham gia cuộc chiến, với nhiều sắc thái. Phi Luật Tân gửi Đoàn Y Tế Dân Sự Vụ. Các quốc gia trong vùng gửi bộ binh tham chiến là Úc Đại Lợi, Thái Lan, Đại Hàn.
Dân chúng thủ đô hẳn không quên tên 2 Sư Đoàn Mãnh Hổ và Thanh Long và vòng đai bảo vệ Sài Gòn là Xa Lộ Đại Hàn, với những sinh hoạt Dân Sự Vụ thường được báo chí nhắc đến của 2 Sư Đoàn kiểu mẫu và thiện chiến này. Bên cạnh đó còn có dương vận hạm mang quốc kỳ Đại Hàn hoạt động trên lãnh hải Việt Nam, thường đậu ở bến Bạch Đằng. Các chiến hạm này hiện diện tới phút cuối của cuộc chiến. Nhiều người dân thủ đô vào cuối tháng 4 năm 1975, đã rời khỏi nước trên các chiến hạm này.


Trong thời gian quân đội Đại Hàn tham chiến ở Việt Nam, HQ thiếu tá Hoàng Cơ Minh đảm nhiệm vai trò tùy viên Quân Lực của toà đại sứ VNCH tại Đại Hàn. Đó là trách vụ của một sĩ quan cao cấp,
nhưng thiếu tá Hoàng Cơ Minh đã hoàn tất công tác rất vẹn toàn. Những ý kiến, những sắp xếp và
những tài liệu hướng dẫn do ông soạn thảo để tránh hiểu lầm giữa hai dân tộc Việt Nam và Đại Hàn,
chắc chắn đã ảnh hưởng đến sinh hoạt của các Sư Đoàn và chiến hạm nói trên. Thời gian này tôi được
biệt phái qua Nha Hoả Xa để lái tàu dân sự. Ở đây trên 2 năm, nhìn bạn bè trong khoá lên lon vùn vụt, bỗng động lòng trắc ẩn, tôi xin trở về Hải Quân.


Lâu lắm mới mặc lại bộ quân phục hồ thẳng nếp cứng quèo, đeo lon cứ thấy ngượng như đeo lon giả.
Vừa bước vào sân trại Bạch Đằng, đụng ngay trung tá Hoàng Cơ Minh ở hàng hiên cao ốc. Ông gọi
lớn hỏi “Cậu biến đi đâu mấy năm nay.” Ông kéo tôi vào văn phòng ông — văn phòng tham mưu
phó Chiến Tranh Chính Trị — ở góc tầng trệt toà nhà chính. Tôi trình bày hoàn cảnh của tôi. Ông bảo
“Thôi ở đây làm việc với tôi.” Chưa biết sẽ phụ trách công tác gì nên tôi ngần ngại. Ông bảo “Để tôi
dàn xếp, miễn là cậu thích làm việc với tôi. Coi như xong, về nhà nghỉ thêm vài ngày nữa đi.” Mấy
ngày sau trở lại, ông Minh nói “Tôi thua. Đại tá Ánh xin tư lệnh để cậu xuống Cần Thơ làm việc với
ông ấy rồi.” Qua vài nhiệm sở, mấy năm sau khi tôi trở về Sài Gòn làm trưởng phòng Tâm Lý Chiến
bộ tư lệnh Hải Quân, ông Minh đã là một tên tuổi gắn liền với những chiến công ở các vùng lửa đạn.

*
Từ năm 1970, Mỹ chuyển giao cấp tốc chiến hạm, chiến đĩnh và những căn cứ tiếp vận cho Hải Quân
Việt Nam. Chưa đầy 3 năm, bắt đầu từ 1970, Hải Quân Việt Nam phải tuyển mộ và huấn luyện gần 30
ngàn sĩ quan và đoàn viên. Những sĩ quan đàn anh của tôi lên lon vùn vụt hầu như không kịp với chức
vụ và nhu cầu. Trước đó hai tiếng tư lệnh là một danh xưng độc nhất đầy tôn kính, chỉ để gọi vị tư lệnh
Hải Quân mà thôi. Bây giờ, từ năm 1970, ngoài vị tư lệnh Hải Quân tại Sài Gòn, còn nhiều vị tư lệnh
khác: tư lệnh Vùng Duyên Hải, tư lệnh Vùng Sông Ngòi, tư lệnh Lực Lượng…
Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của Miền Nam, ngoài các Giang Đoàn Xung Phong, bây giờ có
thêm trên 1000 chiến đĩnh đủ loại ngang dọc khắp các vùng sông nước. Đó là những chiến đĩnh thuộc
3 Lực Lượng Đặc Nhiệm : Lực Lượng Trung Ương, Lực Lượng Tuần Thám và Lực Lượng Thủy Bộ.
Đây cũng là nét đặc thù của Hải Quân Việt Nam. Vì trên thế giới không có quốc gia nào có một lực
lượng hải quân trong sông to lớn và đa hiệu như thế. Niên trưởng Hoàng Cơ Minh bây giờ là đại tá, tư
lệnh Lực Lượng Thủy Bộ. Đó là lực lượng gồm khoảng 300 chiến đĩnh được coi là dũng mãnh nhất,
một mũi nhọn sắc bén nhất trong sông ngòi của Hải Quân Việt Nam. Các chiến đĩnh của Lực Lượng
này vỏ dày, hoả lực hùng hậu. Đặc biệt loại chiến đĩnh Tango, nóc bằng, trực thăng có thể đáp xuống
dễ dàng, có mặt khắp nơi, kể cả các vùng từ lâu nay được coi là an toàn khu của địch. Từ Chương
Thiện, Cà Mau, Sóc Trăng đến Rạch Sỏi, Sẻo Rô, kinh Đồng Tiến, kinh Cổ Cò hóc hiểm sình lầy,
những “hàng không mẫu hạm tý hon” này đều có mặt, tạo ra phản ứng thần tốc, khốc liệt, kinh hoàng
khiến đối phương không kịp trở tay. Ngoài hoả lực cơ hữu của các chiến đĩnh và bộ quân tùng đĩnh,
khi cần, quân tiếp viện sẽ được trực thăng ào ạt chở tới, đáp trên sàn tàu, mở đường, phản công và tản
thương rất hữu hiệu, nên mỗi khi thấy chiến đĩnh của Thủy Bộ xuất hiện, địch chỉ còn có hai cách: nằm
im, ẩn mình; hoặc chẳng đặng đừng thì liều lĩnh khai pháo rồi “chém vè” (chạy) để gục chết nát thây
mà thôi. Vì thế những vị chỉ huy trưởng bên Bộ Binh đều muốn có chiến đĩnh của Lực Lượng Thủy Bộ
hoạt động trong vùng trách nhiệm của mình.
Trong các cuộc hành quân sôi động, với một trực thăng biệt phái, ông Minh hầu như hiện diện khắp
nơi thuộc Vùng 4 Chiến Thuật. Những “đứa con” của ông, cứ có đụng đã thấy tiếng ông trên máy. Và
khi khẩn cấp, ngặt nghèo, không gọi, vẫn thấy ông bay trên đầu theo dõi, chỉ thị, hỗ trợ và tiếp cứu.
Hãy theo dõi một đoạn bút ký của Nguyễn Đình Sài, cựu sĩ quan trong Lực Lượng Thủy Bộ, diễn tả lại
một cảnh bi hùng từng xẩy ra trên bao nhiêu khúc sông oan nghiệt trong cuộc chiến ở đồng bằng Cửu
Long: “...Tôi đang chỉ thị cho hai chiếc Alpha đến kéo chiếc Monitor bị đạn ra thì bỗng nhiên thảm
hoạ xẩy ra trước mắt. Thủy thủ LVN trên chiếc Tango Bạch Hổ vừa từ ụ súng khẩu đại liên 20mm
bước ra ngoài, có lẽ không khí trong thành sắt quá hầm. Một tiếng “phụt” vang lên, thây anh ngã
vật xuống sàn, cái đầu văng đâu mất tiêu. Trái B41 không biết từ đâu bay tới hớt gọn cái đầu của
anh, rồi lướt qua sàn platform, nổ tung giữa song… Tôi dùng máy báo cáo với “thẩm quyền” đang
bay trực thăng ở hướng tây, miệt Kiên Hưng. Qua tiếng nói, tôi nhận ra giọng nói của “thẩm
quyền”, chính là đại tá Hoàng Cơ Minh…Ông bảo đợi ở đó, đã có tiếp vận và tải thương đang
trên đường đến. Thế là ông bay đi…Khoảng hơn một giờ sau có tiếng máy tàu vọng đến từ hạ
dòng. Một đoàn giang đĩnh 5 chiếc gồm 3 Alpha và 2 Monitor im lặng vô tuyến chạy vào, đến gần
mới sang tần số hành quân để liên lạc. Qua ánh đèn pin chiếu xuống sàn tàu hắt lên, tôi giật mình
kinh ngạc, nhận ra người đầu tiên nhảy sang tàu tôi chính là đại tá Hoàng Cơ Minh, tư lệnh Lực
Lượng Thủy Bộ. Ông Minh bước đến xác thủy thủ N., lật tấm mền ra, cố ôm cái xác cụt đầu lên,
cằm ông bạnh ra như muốn kìm chế nỗi thương tâm người thuộc cấp và lòng oán hận kẻ thù.Mọi
người lặng đi trong nỗi xúc động tột cùng. Suốt cả đời tôi không bao giờ quên cảnh tượng bi hùng
trong giờ phút ấy..”
Đọc đoạn bút ký này, tôi rùng mình kinh sợ, hai tay nổi gai. Nhưng trong Hải Quân, ai đã dấn thân vào
những “vùng tử địa” như U Minh Thượng, U Minh Hạ dưới quyền chỉ huy của tướng Minh, đều có
những kỷ niệm lạnh mình lo sợ lẫn sững sờ mừng vui khi thấy vị tư lệnh của mình bất ngờ xuất hiện
như thế. Những cảnh huống ấy mỗi lúc mỗi nhiều, chồng lớp và biến thể, thêm bớt thành những huyền
thoại bao phủ hình ảnh của niên trưởng Hoàng Cơ Minh.

*
Nói đến những con kinh quan trọng trong đồng bằng Cửu Long, phải nói đến kinh Phụng Hiệp, dài 140
cây số, nối liền ba tỉnh An Xuyên, Ba Xuyên và Cần Thơ. Đặc biệt Ngã Bảy Phụng Hiệp là cửa ngõ,
nơi hội tụ và phân chia của ghe thuyền tới những vùng đất mầu mỡ quan trọng của châu thổ Cửu Long,
như trái tim chuyển máu đi nuôi toàn thân thể: từ Phụng Hiệp đi Cái Côn đổ ra sông Hậu Giang; từ
Phụng Hiệp xuôi kinh Búng Tàu đi Năm Căn, Vĩnh Thuận, Cà Mau; từ Phụng Hiệp theo kinh Lái Hiếu
qua Trà Bang, Long Mỹ đi Chương Thiện, Rạch Giá... Bốn ngả còn lại nối liền kinh rạch trong phạm
vi tỉnh, huyện như Xẻo Môn, Sóc Trang. Vì sự quan trọng này mà máu xương người lính hai bên trận
tuyến đã liên tiếp gặp gỡ, đổ ra để giành giựt sự kiểm soát thủy lộ huyết mạch này, như nhận định của
phó đề đốc Đinh Mạnh Hùng, phụ tá tư lệnh Hành Quân Sông “Kinh Phụng Hiệp thuộc hệ thống thuỷ
lộ đi từ Hậu Giang, tỉnh Phong Dinh đến Cà Mâu, tỉnh An Xuyên. Quận Phụng Hiệp, Phong Dinh,
nơi gặp gỡ của nhiều con kinh, ranh giới của hai tỉnh Ba Xuyên và Chương Thiện. Đây là thủy lộ
huyết mạch chuyển vận lúa gạo và hàng hoá giữa các tỉnh miền Hậu Giang với miền Đông, nên rất
quan trọng cho nền kinh tế quốc gia.”
Khi làm tư lệnh Lực Lượng Thủy Bộ, ông Minh đã có mặt trên những khúc thủy trình sắt máu này, như
những người lính tiền phong tiến vào vùng lửa đạn. Theo lời kể của anh Lý Anh Kiệt, tham mưu phó
Hành Quân, kiêm trưởng phòng 3 của Lực Lượng này trong các năm 1973-75, như sau “Dọc theo kinh
Phụng Hiệp, từ Cần Thơ đi Sóc Trăng dài hun hút, năm 1974, gần 50 đồn bót bị Cộng quân san
bằng. Tư lệnh Quân Đoàn 4 ra lệnh bằng mọi giá phải xây dựng lại. Trong cuộc hành quân này vai
trò của Hải Quân rất nặng nề : Dùng đường thuỷ mở lại đầu cầu. Chở Bộ Binh tái chiếm.Yểm trợ
Bộ Binh xây dựng lại đồn bót. Đặc biệt chú trọng đến công tác Tâm Lý Chiến, Dân Sự Vụ, giúp dân
xây dựng lại cửa nhà. Như thế trong vùng “xôi đậu” này, dưới nước, thủy lôi nhiều như dừa khô.
Trên bờ, địch lẩn trong dân như trấu. Vậy mà trên chiếc xe Jeep chạy dọc theo bờ kinh dài hun
hút, tướng Minh vẫn ra lệnh cắm hiệu kỳ 1 sao phấp phới. Khi di chuyển dưới nước, khai diễn
cuộc hành quân, ông ngồi trên mui chiếc Fom, đi đầu đoàn chiến đĩnh, ngôi sao bạc vẫn lấp lánh
trên vai áo. Mình đi theo ông, thấy ông như thế, chẳng lẽ ngồi trong lòng tàu, đành cũng phải
đứng quanh quẩn sau ông. Một tràng đại liên, một quả B40 phụt ra là tất cả bộ tham mưu Lực
Lượng bay hết. Không giải thích được. Có lẽ ông Minh tin mạnh mẽ vào cung mệnh của mình trong
lá số tử vi. Và có lẽ địch cũng không thể ngờ trên một chiến đĩnh nhỏ bé ấy lại có một ông tướng
ngồi trên mui tàu, dẫn đầu cuộc hành quân.”
Nói về ăn uống, có người cho rằng Hải Quân sang trọng, ăn uống kiểu cách, thừa mứa. Điều ấy có lẽ
khá đúng trong thời gian đầu dưới quy chế Hải Quân Pháp. Sau này, nhất là trong giai đoạn cam go của
cuộc chiến, mọi quân nhân, bất cứ cấp bậc, và quân binh chủng nào, cuộc sống đều rất kiệm ước, khó
khăn. Phó đề đốc Đặng Cao Thăng xuất thân từ trường sĩ quan danh tiếng Pháp, trường Brest, cho hay
“Lương lậu chúng tôi chỉ đủ ăn. Hàng ngày chúng tôi dùng cơm trong Câu Lạc Bộ, kể cả tướng
Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn. Tôi đôi khi ăn cơm gánh (tà lọt) mua về từ chợ Cần Thơ.”
Tướng Hoàng Cơ Minh không ra ngoài thông lệ ấy mà ông còn giản dị hơn nhiều. Anh Lý Anh Kiệt
cho hay “Hàng ngày ông Minh ăn trong Câu Lạc Bộ như những sĩ quan khác. Nếu bất ngờ có
khách, ông sai mổ ngay một con heo (hộp). Thuốc thì như lính, rặt Bastos xanh, khét lẹt. Khi bay
thị sát chiến trường hay thăm viếng các đơn vị trực thuộc, ông và đoàn tuỳ tùng, mỗi người đem
theo một ổ bánh mì dài, hay mấy bị cơm sấy và một bi đông nước. “Tránh làm phiền các đơn vị”,
ông luôn nhắc nhở các sĩ quan như thế. Lúc rảnh rỗi ông nghiền ngẫm bộ Tam Quốc Chí. Trong
khi tụi tao thì nghiện Cô Gái Đồ Long. Ông bảo nhà binh phải thuộc Tam Quốc Chí. Hay lắm, áp
dụng vào thực tế vẫn hữu ích vô cùng...”
Câu chuyện này khiến tôi nhớ đến bữa tiệc được tổ chức tại bộ tư lệnh Thủy Bộ năm 1973, khoản đãi
tư lệnh Hải Quân và phái đoàn thanh tra.
Bữa tiệc diễn ra đúng nghi lễ. Các sĩ quan chủ cũng như khách mặc tiểu lễ trắng, lon vàng mới óng
ánh, dây biểu chương và huy chương cuống rực rỡ. 6 người một bàn. Các bàn kê sát nhau thành một
hàng dài, trải khăn bàn trắng tinh. Tư lệnh Hải Quân ngồi ở đầu bàn, chỗ ngồi danh dự nhất. Đối diện
với tư lệnh, cuối dãy bàn là vị trí của vị sĩ quan ít thâm niên nhất, và đương nhiên là sĩ quan Ẩm Thực.
Trước khi vào tiệc, sĩ quan Ẩm Thực đứng lên, trịnh trọng đọc thực đơn, đúng theo truyền thống

 Hải Quân trong những bữa tiệc quan trọng. Thực đơn hôm ấy chỉ là mấy món ăn đơn giản như một bữa cơmM thường trong Câu Lạc Bộ gồm thịt kho, dưa giá. Món canh là một con vịt hầm rất kỹ trong một nồi lớn, đầy nước đang sôi, bốc khói nghi ngút. Bên cạnh là một đĩa rau sống khổng lồ, để nhúng vào nồi nước hầm vịt. Vị sĩ quan Ẩm Thực hình như đã được học tập, chỉ thị chu đáo nên trình bày khá tỉ mỉ và duyên dáng về món ăn “quan trọng” này. Đó cũng là món chính, món cuối cùng. Vì sau món đó là đồ tráng miệng bằng chuối. Có nghĩa là bữa ăn chỉ có thế thôi, không còn gì thêm nữa đâu. Tôi có tham dự bữa ăn , vì lúc ấy tôi là trưởng phòng Tâm Lý Chiến, bộ tư lệnh Hải Quân, tháp tùng đô đốc tư lệnh trong phái đoàn thanh tra. Nghe đọc thực đơn, chúng tôi không dám cười. Mọi người không ai dám cười, vì bữa ăn này còn là một nghi lễ, được đánh giá, cho điểm như một sinh hoạt của đơn vị. Sau tôi có hỏi một sĩ quan “Sao lại đơn sơ quá vậy?” Vị sĩ quan này cho biết “Tư lệnh chúng tôi không đồng ý để các sĩ quan phải đóng nhiều tiền đãi khách. Thủy Bộ hành quân liên miên, không có ngân quỹ nào để khoản đãi phái đoàn.” Việc này, mới đây (tháng 12-2002), tôi nhắc lại với anh Lý Anh Kiệt.


Kiệt nói “Ông Minh lúc đầu còn chỉ thị tụi tao sẽ thu tiền ăn các người tham dự, trừ đô đốc tư lệnh
Hải Quân mà thôi. Thấy kỳ quá, chính tụi tao bỏ tiền ra đãi khách, ông Minh không biết. Không ai
dám cho ông biết sự thật đó cả. Cũng vì thế bữa tiệc cũng không dám bày vẽ gì thêm.”
Vẫn lời anh Lý Anh Kiệt “Cũng không biết thế nào mà nói. Ông can trường, giản dị và liêm khiết
như tao biết đã đành. Nhưng có những điều tao nghĩ không ra. Như hồi 1974, đoàn convoi do
giang đoàn của Quyên (thiếu tá Nguyễn Ngọc Quyên) khoá mình hộ tống, gặp tụi Việt Cộng tấn
công tàn bạo quá ở khúc sông khúc khuỷu Cổ Cò. Quyên kêu cứu tao, là tham mưu phó Hành Quân
kiêm trưởng phòng 3, tao trình lên ông, ông thuận, rồi tao xỉ một đơn vị thuộc Lực Lượng Thủy Bộ
đang hành quân gần đó cấp tốc đến tiếp cứu, giải vây. Đoàn giang vận mấy chục chiếc, chở hàng
ngàn tấn gạo, cá mắm, khi bị tấn công, chạy tản mát tứ tán, được tụi tao gom lại đầy đủ. Đoàn
convoi tiếp tục lên đường về Sài Gòn, không rơi một hạt thóc. Ít tháng sau, nhân Sinh Nhật Một
Năm của Lực Lượng, chủ đoàn convoi tìm đến bộ tư lệnh Thuỷ Bộ, với tinh thần hậu phương yểm
trợ tiền tuyến, xin ủng hộ Lực Lượng một triệu đồng để Lực Lượng làm lễ liên hoan. Tao mừng, và
trình lên ông Minh. Ông không cho nhận, còn xạc tao một trận. Thật không biết sao mà nói.”
Từ những can trường, dũng mãnh và hành xử đặc biệt ấy, ông Minh đã thăng hoa, đeo sao ở Lực
Lượng Thủy Bộ, qua mặt rất đông các vị đàn anh. Lớp hào quang và huyền thoại quanh ông hầu như
mỗi lúc mỗi thêm dày đặc. Có những phỏng đoán, đồn đại “ông Minh sẽ nắm chức vụ này, chức nọ
nay mai.”
Sau đó là lúc đất nước đến hồi nghiêng ngửa, tháng 3 năm 1975, tướng Minh được chỉ định ra miền
Trung làm tư lệnh Vùng 2 Duyên Hải. Một vùng duyên hải dài nhất trong 5 vùng, chạy dài từ Quy
Nhơn đến Phan Thiết, gồm duyên đoàn 21 tại Tam Quan, hải đội 2 Duyên Phòng tại Quy Nhơn (căn cứ
cũ của duyên đoàn 22 đã giải tán), duyên đoàn 23 tại Sông Cầu, duyên đoàn 25 tại Hòn Khói, duyên
đoàn 26 tại Bình Ba, duyên đoàn 27 tại Ninh Chữ và duyên đoàn 28 tại Phan Thiết. Bộ tư lệnh Vùng 2
Duyên Hải đóng tại Cam Ranh, chỉ huy tất cả 6 duyên đoàn, và mấy chục Duyên Tốc Đĩnh của Hải Đội
Duyên Phòng, những cơ sở tiếp vận sửa chữa, các đài kiểm báo trong vùng và những chiến hạm của
hạm đội biệt phái.
Ngày 31 tháng 3, Quy Nhơn địa đầu cực Bắc vùng 2 Duyên Hải ở tình trạng nguy ngập. Ngoài các đơn
vị cơ hữu trực thuộc, ngoài khơi Quy Nhơn có các chiến hạm từ Sài Gòn biệt phái hiện diện, đặt dưới
quyền điều động của tướng Hoàng Cơ Minh, gồm HQ.2, HQ.3, HQ.7, HQ.400, HQ.403, HQ.406,
HQ.505 và một số chiến hạm nhỏ. Tướng Minh hiện diện trên tuần dương hạm Trần Nhật Duật, HQ.3,
do HQ trung tá Nguyễn Kim Triệu làm hạm trưởng, tướng kỳ 1 sao trắng trên nền xanh, phấp phới trên
kỳ đài.
Sáng 31 tháng 3, lệnh từ Sài Gòn, chỉ thị cho Hải Quân vào bãi biển Quy Nhơn bốc Sư Đoàn 22 Bộ
Binh. Hai hải vận hạm HQ 403 và HQ 400, dưới sự đôn đốc của HQ trung tá Lê Thuần Phong, Chỉ
huy trưởng Hải Đội Chuyển Vận, ủi bãi Quy Nhơn, trước trường Sư Phạm để đón quân của Sư Đoàn
22 đang có mặt trên bãi. Nhưng tàu vừa hướng mũi vào bãi ủi, bị hoả lực địch bắn ra quá mạnh. B40
nổ tung phía trước. Chiến hạm phải lùi ra, trong nhiệm sở tác chiến, đồng thời thả thang dây và lưới
hai bên hông chiến hạm để anh em Bộ Binh leo lên tàu. Do đó, quân từ trên bờ của Sư Đoàn 22 Bộ
Binh phải liều chết bơi ra tàu. Cuộc vớt người trên vùng biển Quy Nhơn suốt ngày đêm rất khó nhọc,
bi thương, nhưng không đến nỗi ngập máu như ở Đà Nẵng. Biển êm. Tàu chỉ lùi ra ở độ xa vừa phải,
ngoài tầm đạn địch, dùng hoả lực cơ hữu của chiến hạm phản pháo và bắn cản địch đang tiến tới ở trên
bờ, phía sau anh em Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Trong số quân nhân bơi ra biển và được chiến hạm Hải
Quân vớt có cả thiếu tướng Phan Đình Niệm, tư lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Lên được chiến hạm
HQ.400, tướng Niệm có vẻ suy nhược nặng nề cả thể chất lẫn tinh thần. Ông được săn sóc đặc biệt, vì
HQ.400 vốn là một bệnh viện hạm. Tất nhiên mọi quân nhân của Sư Đoàn này lên được chiến hạm, ai
cũng sũng nước, đói khát nằm lăn ra sàn tàu, không còn hàng ngũ gì nữa. Thiếu tướng Phạm Văn Phú,
tư lệnh Quân Đoàn 2, chỉ định tướng Minh thay thế tướng Niệm, kiêm nhiệm tư lệnh Sư Đoàn 22 Bộ
Binh và tư lệnh chiến trường Bình Định.
2 giờ sáng ngày 2 tháng 4, tướng Minh nhận được lệnh từ Sài Gòn qua bộ tư lệnh Hải Quân và trên đài
Quân Đội thông báo “Tổng Thống Thiệu bổ nhiệm tướng Minh làm Tổng Trấn Quy Nhơn.” Tướng
Minh có toàn quyền điều động các lực lượng tại địa phương để tái chiếm Quy Nhơn, gồm Sư Đoàn 22
BB, Biệt Động Quân, Địa Phương Quân. Hải Quân trung tá Nguyễn Kim Triệu, hạm trưởng HQ.3, nhớ
lại, cho biết “Để thi hành lệnh này, sáng sớm ngày 2 tháng 4, ông Minh chỉ thị các chiến hạm hiện
diện, túc trực sát bờ biển Quy Nhơn, sẵn sàng nhận lệnh của ông từ trong bờ. Đích thân tướng
Minh và bộ tham mưu nhẹ, rời HQ.3, xuống chiến đĩnh nhỏ vào bộ chỉ huy Hải Đội 2 Duyên
Phòng, để trực tiếp nắm vững tình hình trên bộ. Từ đây những liên lạc hàng dọc, cũng như hàng
ngang với các đơn vị bạn đã vắng ngắt. Nhất là trên các tần số liên lạc với Sư Đoàn 22 Bộ Binh,
không còn ai nghe nữa. Riêng tướng Phan Đình Niệm, tư lệnh Sư Đoàn 22 BB, vì sức khoẻ suy kiệt,
được điều trị trên Bệnh Viện Hạm HQ 400, đang ở ngoài khơi Vũng Tàu trên đường về Sài Gòn.
Trước hoàn cảnh này, tướng Minh trở lại HQ.3, tường trình về Sài Gòn. Tất cả các chiến hạm biệt
phái cho Vùng 2 Duyên Hải và các chiến đĩnh trực thuộc, theo lệnh tướng Minh, xuôi Nam.”
Trên đường xuôi Nam, các chiến hạm nối đuôi nhau, uy nghiêm, thứ tự như diễn hành thao dượt. Vẫn
lá cờ xanh, một ngôi sao trắng trên cánh phải của cột cờ, phấp phới tung bay. Biển êm như mặt kính,
chưa bao giờ êm như thế. Chiến thuyền của các Duyên Đoàn, nhất là các Duyên Tốc Đĩnh của Hải Đội
Duyên Phòng chở theo đầy người, quân nhân và gia đình, chạy dọc theo hai bên đoàn tàu. Những ghe
dân túa ra như lá tre. Tướng Minh ra lệnh cho các chiến đĩnh, chiến thuyền của đơn vị thận trọng để
tránh địch và những phần tử vô kỷ luật gây xáo trộn; và tùy khả năng, các chiến đĩnh cố gắng cứu vớt
hoặc trợ giúp mọi người. Nếu vớt quá đông người thì ghé vào các chiến hạm lớn, san người lên đó.
Bất cứ quân nhân nào bước lên chiến hạm, chiến đĩnh, nếu có khí giới, đều phải giao nộp, cất vào kho.
Trở lại bộ tư lệnh Vùng 2 Duyên Hải tại Cam Ranh, ông dùng trực thăng thị sát mặt trận, theo dõi tình
hình trong vùng trách nhiệm, ra lệnh cho các chiến hạm tận dụng hải pháo bắn chặn bước tiến của Bắc
quân, phá xập những cây cầu quan trọng. Cam Ranh xáo trộn. Ông trở lại HQ.3, tiếp tục xuôi Nam.
Ông ra lệnh phá hủy Trung Tâm Phát Tuyến trên đảo Cam Ranh. Chiều 3 tháng 4, hải đoàn đi ngang
Duyên Đoàn 27 ở Ninh Chữ, tướng Minh rời HQ.3, sang tuần dương hạm HQ.2, do HQ trung tá Đinh
Mạnh Hùng, khoá 11 (trùng tên với phó đề đốc Đinh Mạnh Hùng), làm hạm trưởng. Hạm trướng Hùng
và toán dàn chào đón đợi ở hạm kiều, hướng dẫn tướng Minh lên Trung Tâm Chiến Báo (CIC) của
chiến hạm. Tại đây tướng Minh tiếp tục theo dõi trận liệt và chỉ huy mặt trận tại địa phương.
Ngày 15 tháng 4, tướng Minh đáp trực thăng vào phi trường Phan Rang, quê hương tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu, họp cùng trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, tư lệnh Mặt Trận Phan Rang; chuẩn tướng
Nguyễn Văn Nhựt (Sư Đoàn 2 Bộ Binh); chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh SĐ 6 KQ và một số sĩ
quan khác, để phối hợp hoạt động tại mặt trận này. Trung tá Đinh Mạnh Hùng cho hay “Mới xong
phần giới thiệu thành phần tham dự, thì có tin phi trường đã bị địch bao vây, buổi họp giải tán
ngay.”
Tướng Minh cấp tốc được trực thăng bốc ra Soái Hạm HQ.3. Tối 16-4, tình hình Phan Rang sôi động.
Tăng T54 của địch nằm ngay bãi biển Phan Rang, chĩa súng ra khơi. Dương vận hạm HQ.503 do trung
tá Nguyễn Văn Lộc, khoá 11, vào gần bờ phản pháo. Khi HQ.503 quay ngang để tận dụng hết khả năng
hoả lực bắn vào bờ, Việt Cộng dùng đại bác 105 ly lấy được của mình bắn trực xạ ra chiến hạm. Một
trái đại bác trúng đài chỉ huy, nổ tung, hạm trưởng Lộc bị thương vào đầu, máu ra xối xả, nhưng bình
tĩnh ra lệnh cho tàu rút ra khơi. [Đến nay, gần 30 năm, vẫn không thể giải phẫu lấy mảnh đạn trong đầu
trung tá Lộc. Giải phẫu là chết. Ông ở tình trạng khi đau, khi tỉnh.] HQ.3, HQ.505 và HQ.406 cũng đổi
vị thế, lùi ra ngoài tầm bắn của địch.
Ngày 17 tháng 4, HQ.406 chở Cảnh Sát Dã Chiến, dự trù đổ bộ tăng cường cho Phan Rang, không
thành, được lệnh về Cát Lở. HQ.505 nằm ngoài khơi vịnh Phan Rang chờ lệnh. HQ.3 được lệnh đưa
phó đề đốc Hoàng Cơ Minh trở lại Sài Gòn. HQ.3 đặt dưới quyền điều động của phó đề đốc Nguyễn
Hữu Chí, phụ tá Hành Quân Biển. Trong khi đó, trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, tư lệnh mặt trận Phan
Rang và chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh SĐ6.KQ bị địch bắt. Tin này được loan báo trên đài
phát thanh Sài Gòn. Đài phát thanh Hà Nội cũng loan tin này với lời phát biểu ngắn của chính trung
tướng Nguyễn vĩnh Nghi. Mặt trận Phan Rang vỡ. Cứ điểm chống cự sống chết của Sài Gòn bây giờ là Xuân Lộc.
*


Từ mặt trận Vùng 2 Duyên Hải trở về, đóng tại Cát Lái, phó đề đốc Hoàng cơ Minh làm việc với phó
đề đốc Đinh Mạnh Hùng, phụ tá tư lệnh Hải Quân, đặc trách Hành Quân Sông. Trong hàng tướng lãnh
Hải Quân, dưới phó đô đốc Chung Tấn Cang (3 sao, tư lệnh Hải Quân), phó đề đốc Đinh Mạnh Hùng,
1 sao, là người thâm niên nhất. Hai vị tướng 2 sao khác là đề đốc Trần văn Chơn, cựu tư lệnh Hải
Quân đã về hưu và đề đốc Lâm Ngươn Tánh, cựu tư lệnh Hải Quân thì được biệt phái sang phủ Quốc
Vụ Khanh, lo cho người tỵ nạn. Tướng Hùng xuất thân khoá 2 sĩ quan Hải Quân Nha Trang, từng đảm
nhiệm nhiều chức vụ quan trọng. Ông cũng được tiếng là vị sĩ quan cẩn trọng, lịch duyệt, kín đáo,
được thượng cấp tin cẩn và thuộc cấp kính trọng. Trong cuộc nói chuyện với đô đốc Chung Tấn Cang,
chúng tôi có hỏi “Ai là người góp công nhiều nhất trong việc đem đoàn tàu ra khơi?” Đô đốc Cang
cho biết “Hải Quân như một chiếc tàu, không ai làm việc được một mình. Mọi thành công lớn, nhỏ,
đều là công sức của tập thể, của nhiều người. Nhưng riêng việc đem đoàn tàu ra khơi, người có
công nhất, ngày đêm lo cho đoàn tàu, là ông Hùng, phó đề đốc Đinh Mạnh Hùng…” Trong khi đó,
là một sĩ quan Hải Quân di tản trên tàu Thị Nại, HQ 502, một con tàu hỏng máy, chở theo hơn 5000
người lênh đênh, khốn khổ lết ra được ngoài khơi Côn Sơn, khi kêu cứu, liên lạc, chúng tôi chỉ thấy
tiếng nói của tướng Hoàng Cơ Minh trên máy. Do đó chúng tôi có nêu thắc mắc này với tướng Đinh
Mạnh Hùng. Tướng Hùng trả lời đại ý, nói “Ở trên HQ.3, Soái Hạm, trên hết là đô đốc Chung Tấn
Cang, còn có phó đề đốc Diệp Quang Thủy, sau đó còn có phó đề đốc Nghiêm Văn Phú và một số
đại tá. Trước khi đoàn tàu lên đường, chúng tôi có mời các vị tướng lãnh, các vị sĩ quan cao cấp ở
những tàu khác sang họp. Sau, ai về tàu nấy với gia đình. Còn lại trên tàu, tôi thỉnh ý, nhận lệnh
từ đô đốc Cang, rồi cùng bàn bạc mà thi hành. Đúng, các anh chỉ nghe thấy tiếng ông Minh trên
máy. Vì trong chuyến hải hành đặc biệt này, để tránh ngộ nhận và rối loạn tần số, ông Minh được
đô đốc Cang chỉ định trách nhiệm về liên lạc chỉ huy từ Soái Hạm, một tiếng nói chính thức và
duy nhất. Ông Minh làm việc rất chuyên cần, 24/24, hầu như không biết mệt. Tiếng ông Minh rõ
ràng, có hùng lực, được anh em Hải Quân biết tới nhiều và kính trọng.” Chúng tôi cũng đem ý kiến
này hỏi trung tá Nguyễn Kim Triệu, hạm trưởng HQ.3, ông Triệu cho hay “Trong phòng Chiến Báo
(CIC), chỉ có ông Hùng và ông Minh luôn túc trực, theo dõi mọi diễn tiến của Hạm Đội, nhận lệnh
từ đô đốc Cang mà thi hành. Cả hai ông ấy đều làm việc rất nhiều, mỗi người mỗi việc, rất là
nghiêm túc. Ông Hùng trông nom tổng quát. Ông Minh trực tiếp điều động. Tôi (hạm trưởng
HQ.3), nhận lệnh từ 2 vị này, lo cho con tàu của mình mà thôi.”

*
Bây giờ gần 30 năm giã từ quân ngũ, tuỳ khả năng và hoàn cảnh, mỗi người phải bắt đầu làm lại cuộc
sống từ con số không. Chẳng còn ai to, ai nhỏ. Những tình cảm, kính trọng đối với nhau, tất nhiên
không phải do cấp bậc cao thấp khi xưa, mà do tư cách mỗi cá nhân còn đọng lại trong trí nhớ của
nhau. Tập thể nào cũng có kẻ bất xứng, lợi dụng đục nước thả câu. Nhưng gia đình Hải Quân không
thiếu người đầy tư cách, trong đó có niên trưởng Hoàng Cơ Minh. Trong số kỷ niệm đáng nhớ với
tướng Minh, tôi đặc biệt nhớ hai sự việc này:
Thứ nhất, khi Hạm Đội VNCH tới bờ biển Phi Luật Tân, tiếng ông Minh trên máy, chuyển công điện
cuối cùng của Hải Quân, như sau:
Nhóm ngày giờ : 071010H/05/75.
From: của HQ.3.
To : Tất cả các chiến hạm.
Để chuyển giao các chiến hạm cho Hải Quân Hoa Kỳ/ Yêu cầu các nơi nhận chuẩn bị thi hành khi
có chỉ thị / Các chiến hạm tự tổ chức làm lễ hạ quốc kỳ Việt Nam và trương quốc kỳ Hoa Kỳ / Tiểu
đĩnh của Hoa Kỳ sẽ sơn và xoá tên chiến hạm Việt Nam ở sau lại / Giờ giấc thi hành sẽ thông báo
sau / Hết.
Từ công điện này, hồi 12 giờ ngày 7-5-1975, trên Biển Đông, các chiến hạm VNCH đã cùng nhau làm
lễ chào cờ lần cuối và hạ quốc kỳ VNCH xuống. Những xúc động khôn cùng đã lưu lại trong bao nhiêu
trái tim đau khổ. Phút chốc cả đoàn tàu dũng mãnh, nghiêm túc, đủ loại của Hải Quân Việt Nam, giờ
đã phấp phới quốc kỳ Mỹ, lần lượt cập cầu căn cứ Subic của Mỹ ở Phi Luật Tân.
Đoàn người từ các chiến hạm lũ lượt mang hành lý sang tàu buôn Green Forrest, một con tàu chở hàng
khổng lồ. Những khoang trống, sâu hun hút rộng thênh, bây giờ được bắc tạm những cầu thang gỗ để
lên xuống. Đoàn người như một thứ hàng hoá không còn giá trị, xô bồ, đầy bất trắc, xúc động, rất dễ
bùng lên thành những xáo trộn khó lường, khó xử, như mới chỉ vài tuần trước đã từng xẩy ra trên chính
con tàu này khi di chuyển người từ Đà Nẵng vào Phú Quốc.Theo phó đề đốc Đặng Cao Thăng thì
“Các vị tư lệnh, phần lớn là cấp tướng, được Mỹ chở thẳng vào Guam bằng máy bay. Riêng ông
Minh, ông tình nguyện đi tàu biển cùng với anh em thuỷ thủ đoàn và dân chúng. Cuộc đi khá dài,
cực khổ, tế nhị. Sự hiện diện của ông Minh, theo tôi, đã giữ tinh thần cho anh em rất nhiều.”
Kỷ niệm đáng nhớ thứ hai vào trung tuần tháng 5-1975, trong khu lều vải Orote Point, Guam. Với tư
cách cá nhân, tướng Minh tìm đến đây sinh hoạt với anh em Hải Quân. Trong bơ vơ và tràn đầy xúc
động, nhiều anh em đã nghẹn ngào nêu những thắc mắc, phẫn nộ liên hệ đến vài tin đồn, những hành
động bất xứng của người này, người khác. Ông Minh bình tĩnh giải đáp và khuyên can. Đặc biệt, để kết
luận, ông đã nói “Việc anh nêu lên là thượng cấp không ai có ý kiến gì hướng dẫn anh em. Điều
này quả thực tôi cũng có nghĩ đến, nên hôm nay mới tìm đến đây với anh em. Song, đó chỉ là ý kiến
cá nhân tôi, còn các vị khác, theo như tôi biết, tất cả còn rất bàng hoàng. Mọi việc đã xẩy ra ngoài
dự trù của chúng ta. Dù ai có ý kiến gì lúc này chắc cũng không thể thi hành được. Một ván cờ đã
xoá. Mọi việc đã xong. Điều mà chúng ta phải làm là, ngoài việc định cư trên đất mới, chúng ta
phải sáng suốt tìm hiểu mọi diễn tiến của thời cuộc, và đặc biệt giữ lấy mối căm thù mất nước
ngày hôm nay. Từ đó chúng ta sẽ đoàn kết lại mưu cầu một vận hội mới sau này.”


*
Để có một cái nhìn cụ thể, một nhận định trực tiếp ảnh hưởng đến binh nghiệp của ông Minh, bài viết
này đã được gửi lên vị cựu tư lệnh Hải Quân, người đã phê điểm và đề nghị ông Minh lên tướng là đề
đốc Trần Văn Chơn. Đề đốc đã đọc rất kỹ và ghi chú “Anh viết đúng lắm. Ông Minh là một người
tài giỏi. Khi làm tham mưu phó Chiến Tranh Chính Trị tại bộ tư lệnh Hải Quân, ông Minh đã
chứng tỏ được lòng hăng say, nhiều sáng kiến trong lãnh vực tham mưu. Khi được giao trách vụ tư
lệnh Lực Lượng Thủy Bộ, hơn ai hết, ông Minh tỏ ra can trường và rất tháo vát. Lực Lượng của
ông không chỉ góp công trong việc khai thông kinh Phụng Hiệp, giữ huyết mạch kinh tế giữa Sài
Gòn và vùng châu thổ Cửu Long. Lực Lượng Thủy Bộ dưới quyền chỉ huy trực tiếp của ông Minh
đã quần nát vùng U Minh Thượng, U Minh Hạ, mật khu an toàn và hậu cần căn bản của địch, gây
cho chúng thiệt hại về nhiều mặt, ảnh hưởng rất lâu dài. Ông Minh khoá 5, khi lên tướng mới 38
tuổi, trẻ nhất trong hàng tướng lãnh Hải Quân, vượt qua nhiều vị đàn anh, chính vì ông Minh có
đủ Tài, Đức và lòng Dũng Cảm. Trong danh sách, tôi đề nghị ông Minh cùng vài vị đại tá khác
thâm niên hơn ông Minh. Tôi nghĩ tổng thống Thiệu đã chọn ông Minh chính nhờ lòng dũng cảm
hơn người của ông Minh. Nếu vận hội bình thường, miền Nam còn, tương lai của ông Minh, tôi
nghĩ, sẽ vô cùng sáng lạn. Sau này khi ông Minh lãnh đạo Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải
Phóng Việt Nam, thì tôi còn ở tù. Việt Cộng rất căm tức và có hỏi tôi rất nhiều về ông Minh. Tôi
đã hết lời ca ngợi và nói rằng ông Minh là một vị tướng tài của Hải Quân miền Nam.”


*
Từ 1975 về sau, trong một vận hội mới, phó đề đốc Hoàng Cơ Minh là khuôn mặt xuất hiện trước ánh
sáng thời cuộc với bao nhiêu vinh quang và hệ luỵ vui buồn. Ông sinh ngày 20 tháng 6 năm 1935, đã
hy sinh dũng liệt cùng các chiến hữu tại Nam Lào ngày 28 tháng 8 năm 1987, trên đường trở về mưu
cầu giải phóng quê hương. Người viết không là thành viên của tổ chức này, không nắm vững vấn đề
nên không dám đề cập, nhận định về hoạt động sau này của ông. Là một quân nhân cấp nhỏ, có một
thời mặc cùng mầu áo với ông, được tin ông nằm xuống, tôi rất bàng hoàng, xúc động và hết lòng kính
ngưỡng. Tôi thu góp một số dữ kiện liên hệ thời quân ngũ của ông, ghi lại thành bài viết thay cho một
nén hương tưởng niệm, nghiêng mình kính cẩn trước anh linh một vị chỉ huy mẫu mực, một vị tướng
can trường, một tấm gương thanh liêm và trong sáng của Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà. Hy vọng bài
viết này thay cho lời phân ưu muộn màng gửi tới đại gia đình Hoàng Cơ và phu nhân phó đề đốc
Hoàng Cơ Minh.
Chúng tôi cũng xin trân thành đa tạ quý vị đô đốc, quý niên trưởng và các chiến hữu Hải Quân đã tận
tình hỗ trợ, cung cấp các dữ kiện liên hệ, cũng như chỉ cho những sai sót để bài viết này được hoàn tất.
(Khởi viết ngày 8 tháng 12 năm 2002 - Viết xong ngày 18 tháng 6 năm 2003)



MỘT NGÀY VỚI ĐÔ ĐỐC CHUNG TẤN CANG

Một đời quân ngũ và cuộc lui binh vẹn toàn
Cuối tháng 4-1975, Sài Gòn trong cơn hốt hoảng. Tổng thống Thiệu từ chức, giao quyền cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Cụ Hương dưới nhiều áp lực phải nhường quyền cho đại tướng Dương Văn Minh, với hy vọng có một giải pháp ôn hoà trước sự tiến quân ồ ạt của Cộng quân. Nhưng hy vọng mỗi lúc mỗi mỏng manh. Sài Gòn khi nào bị tràn ngập? Ngưng chiến được chăng? Chính phủ lui xuống vùng IV để cầm cự? Các câu hỏi đan quấn vào nhau, mỗi lúc mỗi thêm rắc rối. Giữa lúc khó khăn ấy,phó đô đốc Chung Tấn Cang, sau nhiều năm biệt phái đảm nhiệm các trách vụ ngoài Hải Quân, trở lại Hải Quân, quân chủng mà ông đã xuất thân với nhiều ưu tư gắn bó. Nhưng chẳng được bao lâu, thời cuộc tính hàng ngày, và quanh Sài Gòn, Cộng Quân đã có mặt. Thủy trình huyết mạch, hơi thở của SàiGòn trong bao lâu là con sông Lòng Tảo và Soài Rạp. Đó còn là con đường cuối cùng của đoàn tàu Hải Quân Việt Nam rời Sài Gòn, đem theo hầu như tất cả chiến hạm khiển dụng với hơn 27 ngàn quân nhân và đồng bào.Ra đi đúng lúc, không sớm, không muộn. Ra đi nghiêm túc và an toàn.

Đó là cuộc lui binh đẹp đẽ, đầy kỷ luật. Sau 25 năm, dù có ác ý đến đâu, chưa ai có thể chỉ trích được, nếu khôngnói là đầy những lời khen ngợi người điều động toàn thể hạm đội, từ lúc manh nha kế hoạch, cho đến khi trao các chiến hạm lại cho Hải Quân Hoa Kỳ, đó là phó đô đốc Chung Tấn Cang.
Sau gần 25 năm im tiếng, lần đầu tiên ông dành cho người viết gần trọn một ngày. Ông đã về hưu, mắt
yếu, không đọc được nhiều, nhưng trí nhớ còn tốt. Bên ly rượu chát như thời phong lưu đầy quyền uy
của một vị đô đốc Hải Quân, ông chậm rãi kể về cuộc lui binh ấy và cả về cuộc đời ông. Được hỏi, ai
là người có công nhất trong kế hoạch này, ông cười và đáp :
- Tất cả mọi người, như anh biết, sức mạnh của Hải Quân là sức mạnh tập thể. Trên con tàu không phải
một mình ông hạm trưởng làm được mọi việc mà là sự hợp tác hài hoà, khéo léo của tất cả mọi người.
Tàu tách bến mà anh thủy thủ làm dây không buông dây đúng lúc thì con tàu làm sao ra được. Chuyến
đi nói trên là công lao của tất cả anh em Hải Quân thuộc mọi cấp bậc và cũng là truyền thống tốt đẹp
của Hải Quân mình.
- Một cách cụ thể, ai là người thảo kế hoạch và thi hành kế hoạch?
- Khi đất nước đã phải tính đến chuyện đi hay ở, người giúp tôi thảo kế hoạch là ông Chí (phó đề đốc
Nguyễn Hữu Chí, tư lệnh Hành Quân Biển), ông Sơn (đại tá Nguyễn Xuân Sơn, tư lệnh Hạm Đội), ông
Kiểm (đại tá Đỗ Kiểm, tham mưu phó Hành Quân), ông Luân (đại tá, chỉ huy trưởng Tiếp Vận), và ông
Khuê (đại tá Phạm Mạnh Khuê, tham mưu trưởng Hành Quân Biển). Đó là lúc sửa soạn.
Ngưng một chút, ông tiếp :
- Đâu như hôm 26 tháng 4 năm 1975, tôi có họp bộ tham mưu lại, nói ý định phải ra đi khỏi Sài Gòn.
Mà đi là đi tất cả. Ra khỏi Sài Gòn, giữ lấy toàn thể lực lượng rồi sẽ tính sau. Bấy giờ các tàu bè phải
lấy đầy dầu nước, tiếp liệu càng nhiều càng tốt. Ông Luân có hỏi, thế phiếu phát thế nào? Tôi cười,
đến giờ này mà còn phiếu phiếc gì nữa. Ai mang được bao nhiêu cứ ra sức mà mang.
- Sự ra đi có tính cách chiến lược, vậy trước khi có quyết định này, đô đốc có được chỉ thị của tổng
thống hay chính phủ không?
Đô đốc Cang đáp:
- Giữa lúc mà tình hình quân sự và chính trị rối loạn như thế, ông Dương Văn Minh không có quyết
đinh gì. Tôi có gặp ông, hỏi, ông chỉ đáp “Tùy các anh…” Vì thế tôi chỉ thị cho đại tá Sơn, tư lệnh
hạm đội, để sẵn sàng đem hạm đội ra biển. Một cách cụ thể tôi nhắc ông Sơn dành 2 chiếc dương vận
hạm với tất cả phương tiện truyền tin và tiếp liệu, một chiếc cho chính phủ khi phải rời Sài Gòn bằng
đường thủy, chiếc kia dành cho bộ tư lệnh Hải Quân. Loại chiến hạm này có bãi đáp cho trực thăng.
- Nhưng rồi tổng thống Minh không xử dụng ?
Đô đốc Cang đáp:
- Trước khi đoàn tàu ra đi, tôi có cho đô đốc Diệp Quang Thủy, tham mưu trưởng lên gặp ông Minh,
ông vẫn chưa có quyết định gì khác, chỉ nói “Thôi các anh đi đi.”
- Như thế tổng thống Minh muốn rời Sài Gòn bằng đường thuỷ, rất dễ dàng?
- Đúng thế. Đó là một quyết định can đảm và đầy trách nhiệm. Đúng hay sai lại là vấn đề khác.
- Còn ở ngoài biển ai là người có công nhất ?
Đô đốc Cang cười và nói :
- Nhiều người kể công mình lắm. Sai cả. Người giúp tôi nhiều nhất, đắc lực nhất, ngày đêm lo cho
đoàn tàu là ông Hùng (phó đề đốc Đinh Mạnh Hùng). Nếu phải nói lờì cảm ơn hay thăng thưởng thì chỉ
có ông Hùng.
Ông lại cười và tiếp:
- Mới đây có người nói ông Richard Armitage lo cho đoàn tàu. Sai. Ông ấy chỉ là một sĩ quan liên lạc
giữa Hải Quân Mỹ và Hải Quân Việt Nam không hơn, không kém. Khi đoàn tàu vào hải phận Phi Luật
Tân, chánh phủ Phi không cho vào, vì đoàn tàu còn treo cờ Việt Nam Cộng Hoà. Chính tôi đề nghị trả
lại chiến hạm của Mỹ cho Mỹ, theo tinh thần tài liệu MAP (Military Aid Program), vì tàu của Mỹ giao
cho Việt Nam xử dụng, khi không xử dụng nữa phải trao lại cho Mỹ, và đoàn tàu vào Subic, là căn cứ
của Mỹ, chứ có vào đất Phi đâu.
Vẫn cười, ông tiếp :
-Ông Armitage yêu cầu đoàn tàu đi thẳng đến Guam. Tôi bảo, không được. Gần ba mươi ngàn người
trên tàu, bao nhiêu vấn đề. Mà dù có đi Guam cũng phải vào Subic để tiếp tế đã chứ. Thế là đoàn tàu
vào Subic, căn cứ của Mỹ, mình giao tàu cho Mỹ. Trước đó mình đã làm lễ hạ quốc kỳ Việt Nam
Cộng Hoà rất long trọng và cảm động.
- Khi đoàn tàu rời khỏi Sài Gòn, đã ở ngoài biển, mà Tổng Thống Dương văn Minh không đầu hàng thì
sao?
Ông đáp :
- Thì ít nhất, ta vẫn giữ được toàn vẹn lực lượng Hải Quân. Khi ấy, nếu thời cuộc thuận tiện ta lại quay
trở lại, vào Cần Thơ chẳng hạn, ở đó vấn đề tiếp liệu còn đầy đủ. Dầu nhớt, đạn dược còn nhiều.
Nhưng Sài Gòn, hôm đó là ngày 29 tháng 4 năm 1975, đoàn tàu phải ra cái đã. Ra trước khi tụi nó tiến
sát vào bờ sông Soài Rạp, Lòng Tào. Như ta thấy, hôm sau 30 tháng 4, khi chúng ta đã ở ngoài khơi an
toàn rồi, ông Minh tuyên bố đầu hàng. Lúc ấy có một số tàu rời Sài Gòn, một số bị bắn. Chiếc tàu nào
có ông nhà báo Chu Tử, bị đại bác của xe tăng Việt Cộng bắn đó. Chậm mấy tiếng đồng hồ là hỏng hết.
- Còn phó đề đốc Hoàng Cơ Minh ?
- Ông Minh lo việc liên lạc, nên các chiến hạm chỉ nghe thấy tiếng ông ấy. Trên thực tế, từ lúc tàu ra
đi, cho đến khi giao tàu cho Mỹ, trên đường đi chúng ta đều tiếp cứu các ghe xuồng của đồng bào vượt
biển, hệ thống chỉ huy do tôi điều khiển vẫn nghiêm chỉnh. Tuy đất nước đã lọt vào tay Cộng Sản,
nhưng đoàn tàu vẫn trương cờ Việt Nam Cộng Hoà, và phải nói là trên tất cả các chiến hạm, kỷ luật
vẫn được duy trì, không hề có sự rối loạn nào. Đó là công lao của mọi người, thuộc mọi cấp bậc. Tôi
hãnh diện về tinh thần ấy, và cảm ơn tất cả anh em.
Được hỏi về lý do lập Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, ông cười rồi thong thả đáp :
- Từ xưa đến nay trong nghệ thuật chiến tranh, tiến đã là khó, lùi lại càng bội phần khó hơn. Trong lúc
lui, lực lượng hậu bị là quan trọng nhất. Lát nữa đây, anh tiếp xúc với đại tá Dõng, tư lệnh Lực Lượng
này để nắm vững mục đích về việc thành lập LLĐN 99, nhất là sự hữu hiệu của nó trong việc bảo vệ
Sài Gòn, đặc biệt thủy lộ huyết mạch Lòng Tào và Soài Rạp.
*
Trở lại vấn đề bảo vệ bờ biển Việt Nam, chuyện xâm nhập, được nhắc lại về con tàu của Việt Cộng
vào Vũng Rô ngày 19 tháng 2 năm 1965, trong tài liệu Việt Cộng, đây là lần thứ 23 con tàu này xâm
nhập bờ biển miền Nam. Điều quan trọng là, ngoài việc tàu họ xâm nhập, họ còn có đơn vị bến, bốc
dỡ hàng và di chuyển đi ngay, có nghĩa là họ nắm được dân, đô đốc Cang cười và hỏi lại :
- Anh đi tàu, các anh khám xét các ghe thuyền trên biển, các anh khám xét giấy tờ của họ, các anh có
biết giấy đó thật hay giả, người cấp là ai.
Ông nhấp một hớp rượu vang nhỏ, rồi tiếp:
- Đó là vấn đề. Lẽ ra các đơn vị quanh bờ biển, bờ sông, phải do Hải Quân cai quản. Đó là vấn đề và
ai họ giao cho mình. Tế nhị lắm. Cái khó là ở đó.
Rộng hơn nữa, được hỏi tại sao miền Nam mất về tay Cộng Sản? Ông đáp :
- Trước hết ta không nắm được tiếp vận, Mỷ họ nắm, khi họ buông ra là ta nguy. Hơn nữa ta không có
chiến lược lâu dài, các chính phủ thi nhau đổ như cơm bữa, nhất là sau vụ Đệ Nhất Cộng Hoà bị lật
đổ. Cuộc chiến của chúng ta lại chỉ là tự vệ. Cộng Sản nó tấn công, mình giữ được kể là đã thắng, thì
cái thua đã có từ căn bản.
Rồi ông hỏi ngược lại người viết:
- Chúng ta như tôi với anh, đều yêu nước cả. Ta đâu có ưa gì thằng Tây. Tại sao ta lại chiến đấu bên
cạnh Tây đánh Việt Minh ?
Người viết người im, ông tiếp :
- Tàu hay Tây đều là người ngoài, lâu hay mau, như thứ bệnh ngoài da, từ từ ta sẽ tìm cách trừ đi
được. Còn cái anh Cộng Sản lại là Cộng Sản Việt Nam, đó là thứ bệnh trong máu, phải lo chữa trị
trước. Bệnh Cộng Sản nó thấm vào máu, nguy hiểm lắm. Đó là cái lý mà ta ở bên cạnh Tây đánh Cộng
Sản.
Vẫn ly rượu nhỏ trên tay, ông tiếp :
- Tôi sinh năm 1926 tại Gia Định. Lúc mới lớn, tôi rất ghét Tây. Tôi đã định ra bưng theo kháng chiến
rồi chứ. Nhìn thằng Tây nghênh ngang trên đất nước mình tôi bực lắm. Giữa lúc đó, tôi có 2 ông cậu là
2 vị linh mục, đi theo kháng chiến, bị Tây bắt nhốt ở bót Catinat, sau được thả ra, gặp tôi. Tôi tỏ ý
muốn ra bưng, 2 ông cậu tôi giận lắm, mắng rằng “Mày có ngu không. Ra đó ai tin mày, mày bị lợi
dụng rồi mất xác thôi.” Rồi thời cuộc đưa đẩy, tôi là sĩ quan hàng hải, lúc thành lập Hải Quân, tôi
vào Hải Quân. Bản thân tôi không thích nếp sống quân đội. Nhưng bà cụ thân sinh ra tôi lại khác, cụ
nói “Đã là quân nhân con không được hèn. Chết thì chết không bao giờ con được hàng giặc cả.
Con chết ở đâu má đến lấy xác con về. Không bao giờ hèn nhát hàng giặc.”.
Vẫn cười, ông tiếp :
- Nếu tôi còn làm tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô, có lẽ tôi sẽ ở lại chống tụi nó cho tới chết.
Người viết bàng hoàng như vừa nghe câu chuyện trong Cổ Học Tinh Hoa. Đợi cho sự bàng hoàng lắng
lại, một câu hỏi khác được nêu lên:
- Với tư cách một sĩ quan cấp đô đốc, trong những ngày đầu tại Mỹ, đô đốc có gặp khó khăn, phiền lụy
gì không ?
Ông giơ tay như cản câu hỏi của tôi và trả lời ngay :
- Bảo rằng cực ư? Lúc ở bên nhà đi hành quân nguy hiểm, đói khát, thiếu thốn bao nhiêu. Giờ đi làm,
chỉ vừa sức và đầy đủ phương tiện an toàn, vừa có sẵn thuốc men khi đau yếu, có gì là khổ. Bảo là
nhục ư? Nếu ở lại bên nhà, dưới sự hành hạ của Việt Cộng, cái nào nhục hơn?
Nói về vui buồn trong đời quân ngũ, ông chậm rãi:
- Cái vui và cái buồn đi đôi với nhau. Lúc mới ra trường, ông Chơn (đề đốc Trần Căn Chơn) đổi
xuống chiếc LCM, tôi xuống 2 chiếc LCVP, nằm chung với anh em đoàn viên. Năm cái gường vải tháo
ra, lau sàn gỗ cho sạch, thầy trò nằm chung bên nhau. Anh em vui buồn có nhau. Khi đeo lon thiếu tá
rồi, xa lính. Công việc lúc đó chỉ còn có cái bàn và cái ghế, mất vui.
Ông lại hớp một ly rượu nhỏ và tiếp :
- Năm 58, ở Trà Vinh, lúc thành lập Giang Đoàn 23 Xung Phong, sinh hoạt với anh em đoàn viên, tôi
còn nhớ anh Lạc, hạ sĩ cơ khí, có một cô bồ bán dừa tươi ở bên kia sông. Mỗi buổi trưa anh ta lội qua
bên kia sông tán cô bồ, khi về lại mang cho tôi một trái dừa tươi. Dễ thương lắm. Rồi đi hành quân tại
Sa Đéc, anh ta chết. Bị mìn.
Nói tới đó, nét mặt ông đổi khác, chìm lắng, bâng khuâng. Suốt bữa, ông hầu như chẳng ăn bao nhiêu,
chỉ nhấm nháp ly rượu chát. Giọng nói của ông như mỗi lúc mỗi thêm hưng phấn và thấp thoáng sự bồi
hồi. Ông nói:
- Lính tráng lương lậu đâu có bao nhiêu mà mỗi lần vi phạm kỷ luật bị trừ lương, ghi điểm, làm sao
lên lon. Do đó, tôi chỉ nhốt và không ghi vào quân bạ. Đứa nào nặng lắm tôi đưa ra hỏi “Thay vì 8
ngày tù, giờ mày chịu 8 hèo được không?” Lính tráng như hiểu được lòng tôi nên bị đánh mà vẫn vui.
Hớp một ly rượu nữa, định nói thì phu nhân của ông, tóc đã bạc, vẻ mặt thật phúc hậu, nhắc :
- Ông ăn đi chớ.
Rồi bà quay ra nói với chúng tôi :
- Hôm nay ông ấy vui lắm đấy. Ít khi ông ấy nói nhiều như thế.
Đô Đốc Cang tiếp :
- Lúc ấy nhằm năm đầu thành lập Hải Quân ấy mà, quanh tôi nhiều anh em là người Bắc. Vui lắm. Có
lần đi hành quân tại Đồng Tháp Mười, tàu vừa nhô ra khỏi đầu con kinh, anh đoàn viên gốc Bắc Kỳ
kêu lên“Úi chào …” Tôi hỏi “Gì thế chú?” Anh ta chỉ ra cánh đồng trước mặt nói “Mênh mông như
bể.”
Cuộc mạn đàm coi như tạm đủ. Đã 4 giờ 30 chiều. Chúng tôi gồm anh chị Trần Chấn Hải, tổng hội
trưởng Hải Quân và anh Thân, một cựu đoàn viên Hải Quân, định cáo từ ra về. Ông đô đốc nghiêm
mặt nói :
- Từ sáng đế giờ, tôi trả lời cuộc phỏng vấn của các ông nhà báo. Bây giờ là lệnh. Các anh hãy ở lại
đây ăn một bữa cơm nữa, rồi muốn hỏi thêm gì cứ hỏi.
Các vị phu nhân đô đốc Cang và đại tá Dõng cùng nói theo “Đây là đất núi, có ai thèm ở lại chơi
đâu”, nên chúng tôi đành phải ngồi lại, ăn một bữa cơm chiều nữa. Trong khi chờ cơm, cuộc mạn đàm
mỗi lúc mỗi thêm vui, đầy thân mật. Đại tá Dõng, nhướng mắt nhắc tôi:
- Hỏi đại đi. Hỏi gì thì hỏi.
Đô Đốc Cang, vẫn xoay xoay ly rượu vang trước mặt, liên tục kể về những phiền lụy, những hiểu lầm
giữa anh em Hải Quân với nhau. Ông cười luôn miệng và nói:
- Tôi ngoài 70 rồi. Tụi trẻ cũng học hành xong, công việc êm ả. Tôi đã làm xong việc đời. Tôi chỉ còn
chờ hai việc: vào nhà thương và theo về với Chúa.
Chúng tôi ngồi nghe bỗng thấy quanh quất đâu đây như một lời giã từ. Đô đốc Cang tiếp:
- Nghĩ lại chuyện đời thật như mặt trời chiều. Tôi không giận ai. Tôi còn mừng là đã có những quyết
định đúng lúc, tránh được những điều đáng tiếc.
Ông tiếp tục nói:
- Khi đảo chánh năm 1963, lúc tôi từ chiếc tàu nhỏ lên bộ tư lệnh Hải Quân, ông Lực (HQ thiếu tá
Nguyễn Văn Lực) rất giận dữ. Ông ta yêu cẩu ông Thăng (HQ trung tá, tham mưu trưởng Hải Quân lúc
đó) ra lệnh cho các chiến hạm ngưng nổ súng, nhưng không được. Các chiến hạm vẫn khai hỏa lên trời,
săn đuổi mấy chiếc máy bay đang bay rất thấp trên bầu trời đe doạ Hải Quân. Ông Thăng không làm
được nên ông Lực định đem ông Thăng ra trước mặt bộ tư lệnh, trước sân cờ, bắn. May mà tôi lên kịp.
Tôi bảo “Anh Lực, không thể làm thế.” Và tôi đã để tay lên bao súng nên ông Thăng thoát hiểm. (Đoạn
văn này, ông nhắc “khi tôi về với Chúa, lúc ấy anh có muốn viết thì viết.”)
Đô Đốc Chung tấn Cang đã qua đời ngày 24 tháng 1 năm 2007, hưởng thọ 81 tuổi, giữa sự chứng kiến
đầy đủ của toàn thể thân nhân, con cháu. Ông dặn lại “Đám tang xin cử hành đơn giản, Không nên làm
lễ phủ cờ. Không nhận phúng điếu. Nếu ai có lòng thương tưởng, hãy đem xung vào quỹ xã hội, để uý
lạo anh em thương phế binh Hải Quân hiện đang sống cơ cực tại quê nhà.
Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 và trận hỏa công trên sông Vàm Cỏ
Đại tá Dõng:
Ông già (đô đốc Cang) chỉ thị tôi thành lập và chỉ huy Lực Lượng Đặc Nhiệm 99. Lúc ấy 4 sư đoàn
Cộng Quân đã ào xuống áp đảo phía tây nam sông Sài Gòn, gồm sư đoàn 9 từ Tây Ninh xuống, sư
đoàn 7 từ Mỏ Vẹt tràn qua kinh Ngang, áp đảo mặt bắc kinh Thủ Thừa, sư đoàn 5 có mặt tại bờ
tây sông Vàm Cỏ Tây, và sư đoàn 8 đã ở phía nam Định Tường. Các sư đoàn ấy có nhiệm vụ cắt
đứt yết hầu của ta là sông Lòng Tào và sông Soài Rạp. Ông già nhắc“Phải giữ chặt. Tuần tiễu
ngày đêm, không cho tụi nó qua sông, bằng bất cứ giá nào.” Mình cứ thế mà làm, chứ có biết là
làm hậu bị cho đoàn tàu ra đi đâu.
Lúc ấy tôi đang là tư lệnh phó Lực Lượng Tuần Thám cho đô đốc Nghiêm Văn Phú, thì được đô
đốc Cang gọi về thành lập Lực Lượng 99. Đó là ngày 8 tháng 4 năm 1975. Trong khẩn cấp, các
đơn vị đã được gọi về, gồm Giang Đoàn 42 Ngăn Chặn, Giang Đoàn 59 Tuần Thám, Đại Đội Hải
Kích, Địa Phương Quân, một số giang đĩnh lấy từ những Giang Đoàn Thủy Bộ, Ngăn Chặn và
Xung Phong. Kể cả 6 chiếc LCM 8 của các căn cứ yểm trợ tiếp vận. Mấy chiến đĩnh zippo phun
lửa nữa... Nói chung, đây là một đại đơn vị gồm rất nhiều loại tàu bè, tất cả 62 chiếc lúc khởi đầu,
một mũi xung kích mạnh mẽ nhất của Hải Quân lúc bấy giờ. Sau đó tuỳ nhu cầu chiến trường, sẽ
có những đơn vị khác gia nhập Lực Lượng.
Rồi theo khẩu lệnh từ đô đốc Cang, tư lệnh Hải Quân, thì Lực Lượng 99 có các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, Lực Lượng là đơn vị nặng bảo vệ Chính Phủ rút về Miền Tây khi tình thế xấu. Thứ hai,
bảo vệ thuỷ trình sông Soài Rap và sông Lòng Tào nếu hạm đội phải rời Sài Gòn ra biển. Thứ ba,
bảo vệ bộ tư lệnh Hải Quân khi có đảo chánh xẩy ra. Do đó vùng hoạt động của Hải Quân không
nhất định.”
Một cách tổng quát, hầu như ai có chút quan tâm đến thời cuộc đều biết, ngày 20 tháng 4, mặt trận
Xuân Lộc vỡ, Sài Gòn thực sự bị đe doạ. Với nhiệm vụ được nói ở trên, Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 đã hoạt động như thế nào, đã có những đụng độ nào đáng kể. Trước các thắc mắc ấy, Đại tá Dõng thong thả đáp: “Sài gòn kể từ ngày đó quả là những ngày hấp hối. Trong nhiệm vụ của tôi, của LLĐN 99, chúng tôi phải phối hợp với các đơn vị bạn để ngăn chặn bước tiến của địch ở mặt tây nam Sài
Gòn. Trở ngại của địch là 2 con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Mục đích của địch gốm 2
bước.


Thứ nhất, cắt đứt quốc lộ 4, để Sài Gòn và Vùng IV không liên lạc, tiếp ứng được cho nhau, khi ấy nếuchúng ta muốn rời xuống vùng IV sẽ vô cùng khó khăn.
Thứ hai, chúng muốn khống chế hai con sông Soài Rạp và Lòng Tào, khoá chặt cửa ngõ yết hầu của
Sài Gòn ra Biển Đông. Đoàn tàu cùa ta sẽ như đoàn cá voi mắc cạn. Và Sài Gòn coi như đã bị khép
kín cả 4 mặt. Với sự xuất hiện của Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, ý đồ của chúng đã không thể thi hành
được. [Sau này, trong cuốn “Tổng Hành Dinh Trong Mùa Xuân Đại Thắng” , chính Võ Nguyên Giáp
đã xác nhận sự thất bại này, nguyên văn nơi trang 317 như sau: “Đặc biệt phía tây nam Sài Gòn, nơi
có địa danh sình lầy, trống trải, bộ đội và nhân dân đã phải vượt muôn vàn khó khăn, đánh thông
hành lang Tây Ninh - Kiến Tường, làm chủ một phần sông Vàm Cỏ Tây, mở ra một vùng giải
phóng, lót sẵn lương thực, đạn dược, tạo thế thuận lợi cho đoàn 232 tiến công vào Sài Gòn. Ở
hướng tây nam, Bộ Tư Lệnh quyết định tiến công vào Thủ Thưà và thị xã Tân An, không đánh
chiếm Mộc Hoá như trong kế hoặch cũ. Trận đánh không thành công vì địch đã phòng bị sẵn.” Võ
Nguyên Giáp không nói rõ “những khó khăn” đó là những khó khăn gì, sức đề kháng đó từ đâu tới và
lực lượng của Giáp đã có những thiệt hại gì.]
]

Để chứng minh sự hiệu quả trên, một số những trận chiến ác liệt trong vùng trách nhiệm, đã được đại
tá Dõng kể lại như sau:“Sáng ngày 16, khi đoàn chiến đĩnh giải toả áp lực địch trên kinh Thủ Thừa,
chúng tôi thấy bên kia rạch Cần Đốt có rất đông người đang tắm. Lấy ống nhòm quan sát, mới hay
là một đơn vị địch. Tôi cho lệnh đoàn tàu ủi thẳng sang, tấn công. Địch không chạy. Hai bên cách
nhau rất gần, trên dưới mấy chục thước thôi. Sức phản công của địch cũng thật dữ dội, gồm nhiều
loại súng lớn rất ác liệt như 82 ly không giựt, 12 ly 8. Phía chúng ta cũng được một phen đáp ứng
ngon lành. Trận chiến kéo dài suốt ngày. Phía ta có thêm Địa Phương Quân và Bộ Binh tiếp ứng.
Tới 5 giờ chiều, địch rút. Phía ta thiết hại nhẹ. Địch vì ỷ y, khinh địch nên thiệt hại nặng, không
dưới một tiểu đoàn. Vũ khí ta thu được 4 khẩu 82 ly 8, 12 khẩu B40 và rất nhiều AK và súng
trường Nga.”


Vẫn theo đại tá Dõng cho hay: “Kể cũng thật ghê gớm. Vẫn tại Cần Đốt, hôm trước chúng ta đã giải
toả, hôm sau (ngày 17 tháng 4-75), chúng kéo đến đông hơn. Trên bờ sông đặc nghịt người. Đủ các
loại súng ào ạt bắn ra đoàn tàu. Tất nhiên ta phải “đáp ứng” cho phải phép. Một mặt chúng ào ạt
bắn ra tàu, mặt khác chúng pháo 122 ly vào thị xã Long An, gây rất nhiều thương vong và đổ nát.
Đạn rơi cả vào nhà thương, khiến thân nhân của các bịnh nhân tại đây phải vội vã đem bịnh nhân
rời khỏi nhà thương. Trước hoàn cảnh này, Sư Đoàn 22 Bộ Binh, dưới sự chỉ huy của tướng Phan
Đình Niệm, từ miền Trung di tản về, đang được tái trang bị ở đây, cũng phải cấp tốc đem một
trung đoàn ra ứng chiến tại mặt trận Cầu Voi. Cuộc thư hùng tại đây thật ác liệt. Địch cố sức phá
cho được cây cầu này. Ta thì cố giữ. Dưới mặt nước đặc công thủy (người nhái của VC) dày đặc.


Chúng lặn dưới mặt nước, bơi ra sông hòng đặt mìn, cũng như muốn bám vào tàu mình để ném lựu
đạn. Do đó các chiến đĩnh của ta, vừa tấn công địch trên bờ, vừa phải liên tục thả lựu đạn xuống
sông để tiêu diệt đặc công thủy. Nhất là ban đêm, dù tiếng súng ngưng, nhưng các chiến đĩnh
không được neo ngủ, mà luôn phải di chuyển và đều đều thả lựu đạn quanh tàu. Một thủy thủ đang
đứng gác trên nóc chiến đĩnh, bỗng thấy mặt nước khua động, quăng ngay một trái MK3 xuống
nước. Một tiếng nổ ục, tung một quầng nước lớn đỏ thẫm máu tươi.”


Bằng một giọng nửa đùa cợt, nửa thắc mắc, đại tá Dõng nói: “Tụi nó tưởng tàu mình bằng giấy bồi,
lính của mình là lính gỗ hay sao. Hết nhái của nó, lại có cả những ghe gỗ chở lính từ trong bờ
cũng nhào ra. Đạn súng nhỏ của chúng bắn vào thành chiến đĩnh rào rào như mưa. Ta phản pháo
bằng đại liên không đủ. Cuối cùng phải xử dụng 2 chiếc Zipper. Dưới sự che chắn của những
chiến đĩnh khác, 2 chiếc Zipper, nạp đầy nhiên liệu, cùng từ từ tiến vào bờ. Như những lần trước,
địch không ngán, đứng đông nghẹt trên bờ sông, dùng đủ thứ súng bắn ra đoàn chiến đĩnh.\


 Khi vào gần bờ, các chiến đĩnh hộ tống vượt lên trên. Và ngay lúc đó 2 chiếc Zipper cùng một lúc phun lưỡi lửa lên bờ. Lưỡi lửa túa ra, dài cả trăm thước, quét dọc theo bờ sông, quét đến đâu nhà cửa,
cây cối bùng cháy đến đó. Trên bờ sông đoàn người như kiến quay đầu chạy, la hét kinh hoàng và
ngã ra quằn quại trong đám lửa. Tiếng súng địch im hẳn. Cả một khúc bờ sông chỉ còn là một đám
cháy bừng bừng từ mặt đất đến đỉnh những hàng cây cao. Mặt trận bỗng ngưng bặt, dù tôi không
ra lệnh ngưng bắn. Nhìn quanh, mọi xạ thủ trên chiến đĩnh đểu sững sờ nhìn lên bờ, buông hẳn tay
súng. Ông tỉnh trưởng Trần Vĩnh Huyến và bộ tham mưu của ông đứng trên bờ quan sát cảnh này,
với những đôi mắt trợn trừng kinh khiếp. Dù trên bờ, súng của địch đề lại nhiều như củi, lòng tôi
rời rã, vừa giận, vừa thương vừa hú vía. Tôi cho lệnh đoàn tàu rời ra sông. Trên bờ, lửa vẫn bừng
bừng cháy. Khói xanh khét lẹt bốc lên từ những thân người quằn quại trên bờ, trên mé nuớc. Trên
đỉnh những ngọn cây thì lửa vẫn bừng bừng chuyền cành lan rộng.\


Cầu Voi không bị phá. Lưu thông trên quốc lộ 4, dù có bị tắc nghẽn ít giờ, nhưng sau đó lại lưu
thông như cũ. Cánh quân của địch từ biên giới Miên, đông hơn một quân đoàn, không vuợt qua
được hai con sông Vàm Cỏ. Cả một vùng này trở nên yên tĩnh. Tuy nhiên đoàn tàu vẫn không rời
vùng trách nhiệm. Và mấy ngày sau trên mặt sông xác người từng rề trôi đen đặc trên mặt nước
như những mảng lục bình khổng lồ, kéo theo những đám mây chỉm trên trời bay theo để rỉa xác.
Nghĩ lại cuộc chiến thật đau lòng.


Vẫn lời của Đại Tá Dõng : “Đó là một cuộc tao ngộ chiến mà sau này đọc tài liệu của họ tôi mới
hay là Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 của ta đã cản đường tiến của Đoàn 232 Cộng Sản, tương đương
với một Quân Đoàn, do tướng Lê Đức Anh của CS chỉ huy. Quân Đoàn này đành nằm ém quân bất
động ở ngã ba sông Vàm Cỏ, đợi sẵn khi có thể là vuợt sông tiến vào Sài Gòn. Tại đó, LLĐN 99
ngày đêm tuần tiễu. Những dàn đại liên 20 ly bắn xa 5 cây số sẵn sàng đan kín mặt sông. Nếu cánh
quân này không bị cản đường, vượt qua được sông Vàm Cỏ, nằm sẵn hai bên sông Lòng Tảo và
Soài Rạp, thì khi đoàn tàu của mình lớn nhỏ gần 30 chiếc, dân và lính đen đặc trên tàu, túa ra
biển, sự kiện gì sẽ xẩy ra? Với hoả lực của mấy sư đoàn địch trên bờ, với đại bác 122 ly và B40
bắn xuống tàu và hàng trăm cỗ đại bác 40 ly, 72 ly trên các chiến hạm phản pháo, bắn lên, lòng
sông Lòng Tảo và Soài Rạp chắc chắn sẽ là hai khúc sông ngập tràn máu, lửa. Sự tàn khốc sẽ gấp
bao nhiêu lần Đại Lộ Kinh Hoàng của Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 ở miền Trung.” [Đêm 29 rạng 30
tháng 4, 1975, người viết di tản trên con tàu Thị Nại, HQ 502, chở theo trên 5000 người, đủ loại lính
và dân, nếu chỉ 1 trái B40 bắn vào tàu thôi, tàu lập tức bốc cháy, con tàu không có hệ thống cứu hoả và phòng tai, vì còn đang trong thời kỳ sửa chửa… Sự việc gì sẽ xẩy ra. Mới chỉ nghĩ thế đã thấy bao
nhiêu nỗi kinh hoàng, khủng khiếp.]


Từng kinh qua những đoạn đường kinh hoàng này, nhớ lại, chúng tôi bỗng thấy lạnh mình, kinh hãi. Cả hai chúng tôi ngồi im.
Cuối cuộc gặp gỡ này, trong “một chút riêng tư”, đại tá Dõng, một con kinh ngư của sông nước miền
Nam, đã có những phút ngậm ngùi. Ông nói “Xin cho tôi thắp một nén hương gửi tới anh linh những
ai đã ngã xuống trên vùng sông nước quê nhà. Và nếu những tiết lộ trên đây về cuộc chiến, có lọt
tới gia đình nạn nhân ở phía bên kia, tôicũng cầu xin cho anh linh những người đã chết được êm
đềm siêu thoát. Các anh duới áp lực này hay lý do kia mà phải lao đầu vào lửa đạn. Các anh
chẳng thể nào lùi. Còn chúng tôi ở Miền Nam, chúng tôi đâu có thể làm khác. Định mệnh hay vận
nước chẳng may khiến chúng ta gặp nhau nơi trận địa. Chúng ta cùng khốn khổ như nhau…”.
Trong phút giã từ, ông bà đô đốc Cang, ông bà đại tá Dõng và hầu như tất cả gia đình đều ra cửa tiễn
chúng tôi. Trời đã tối, những ngọn núi bao quanh thành phố đã mờ nhạt trong màn sương. Khí lạnh bao trùm tất cả.
Xe chuyển bánh.
Qua làn kính xe những khuôn mặt từng lừng lẫy một thời bỗng nhoè đi như trong một cơn mê.
(Bakersfield, 4 tháng 10 năm 1999)





NGƯỜI ĐÀNBÀ TRÊN TÀU 502


Chuyến di tản của dương vận hạm Thị Nại, HQ 502, một con tàu hỏng máy, đang trong thời kỳ sửa
chữa, chở theo trên 5000 người, rời cầu tàu trong Hải Quân Công Xưởng đêm 29 tháng 4 năm 1975
với bao nỗi khó khăn, hãi hùng, nguy hiểm. Hầu như trên mười năm sau đó, đã định cư ở Mỹ an toàn,
nhiều đêm ngủ, thần trí tôi vẫn bị trôi theo cơn hốt hoảng kinh hoàng bởi chuyến đi này. Trong những
giấc mơ kinh dị, tôi vẫn thấy rất rõ rừng người đặc nghịt trên sàn tàu. Bầu trời thì đen thẫm, ánh đèn
xanh đỏ của những chiếc trực thăng vần vũ, nặng nề bay qua bay lại. Những đám cháy sáng rực bùng
lên ở mấy góc trời. Kho xăng Nhà Bè trắng xoá, lấp loáng dưới ánh lửa đang cuồn cuộn bốc cao từ
Căn Cứ Hải Quân. Những tiếng nổ oà vỡ bên tai, kéo theo tiếng rít của những trái đạn rời nòng từ hai
khẩu đại bác của Đặc Khu Rừng Sát. Con tàu ôm sát bờ lửa đạn ấy để vào nhánh sông Soai Rạp, bò ra
cửa biển.
Sáng 30 tháng tư, con tàu liệt máy, buông trôi ở cửa sông. Biển ở trước mặt, sóng trắng xô xô từng đợt.
Lại những đợt máy bay từ phía Sài Gòn túa ra. Những chiếc trực thăng bay thấp, dọc theo hông tàu,
thấp hơn chiều cao của đài chỉ huy chiến hạm. Cửa máy bay mở rộng. Chúng tôi thấy trong lòng máy
bay chật ứ đàn bà, trẻ con. Mấy bà già hướng về chiến hạm, quỳ cúi gập người, chấp hai tay mà lễ.
Trong khi đó viên phi công rà được tần số của chiến hạm. Bằng một giọng nói đầy khấp thiết “Anh em
Hải Quân ơi, cứu chúng tôi với. Chúng tôi được lệnh bay ra biển để đáp xuống tàu Mỹ. Nhưng tới
điểm hẹn chỉ thấy biển mông mênh, tàu Mỹ đâu không thấy, nên phải quay về. Tàu tôi chỉ còn 5
phút xăng. Xin cứu chúng tôi, gia đình tôi, mẹ tôi...” Không cầm lòng được, hạm trướng Nguyễn Văn
Tánh và “Ban Tham Mưu” chấp nhận những khó khăn, bất trắc, đồng ý cho trực thăng đáp xuống sân
chiến hạm. Sân chiến hạm đông đặc người, lùng nhùng những chiếc mền đủ màu căng ra che sương gió
qua đêm. Nắng bắt đầu oi ả. Tất cả phải giải toả cấp kỳ. Mọi người xuống hết sân chiến xa. Sân tàu
trống vắng. Chiếc trực thăng từ từ đáp xuống. Một chiếc. Lại một chiếc nữa…
Tới gần trưa 30 tháng 4, ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Cả tàu mấy ngàn người xốn xang,
cuống quýt. Có những tiếng khóc vỡ oà đâu đó. Một buổi họp khẩn cấp để đi đến quyết định : Bằng
mọi giá phải thoát khỏi lãnh hải Việt Nam. Phải ra đi cho bằng được. Toán thợ máy kết hợp lạ lùng cố
sửa chữa. Máy tàu nổ, một máy. Tàu ra được ngoài khơi, lết đến gần Côn Sơn, gặp được hạm đội mình
ở đó. Lệnh từ Soái Hạm HQ.3 chỉ thị cho HQ.16 tới kéo HQ.502 đi. Những đêm lừ đừ ở ngoài khơi,
đoàn tàu vừa đi vừa đợi nhau. Những chiếc ghe đầy ứ người sáp vào chiến hạm. Không thể làm ngơ,
tàu thả thang dây, lại vớt thêm người. Đêm xuống, hải đăng Vũng Tàu loé lên từng đợt như thách thức,
như mời gọi, như vẫy tay giã từ. Bờ biển quê hương đấy mà giờ đã trở nên kinh khiếp, chia lìa, đớn
đau. Ngày đêm, qua làn sóng điện của đài Sài Gòn, không còn là những giọng nói thân quen, mà là lời
kêu gọi chát chúa, đe doạ của kẻ thù: “… quân, cán chính của ngụy quyền Sài Gòn mau mau ra
trình diện.” Những ngày thiếu thốn, chật chội, chia nhau từng ngụm nước, từng nắm cơm chỗ sống, chỗ
khê, chỗ thiu chua.
Mấy ngày sau, bờ biển Phi Luật Tân hiện ra, núi non chập chùng đen thẫm. Lễ chào và hạ quốc kỳ
VNCH lần cuối được diễn ra, đơn giản nhưng vô cùng nghiêm trang và rất đớn đau. Lá quốc kỳ nền
vàng ba sọc đỏ bạc màu từ từ được kéo xuống, cùng với hàng ngàn giọng hát, già trẻ, nam nữ cất lên,
vừa hùng tráng, vừa chất chứa nghẹn ngào. Những lời hát như trùm kín cả vùng trời biển nước mênh
mông. Lời ca dứt. Những tiếng kêu khóc bỗng bùng vỡ. Nhìn đâu, tôi cũng chỉ thấy những cặp mắt đẫm
nước mắt. Trong những tiếng kêu khóc thảng thốt ấy, tôi thấy có tiếng kêu của một người đàn bà: “Ối,
con ơi, con ơi...” Trong tập bút ký viết về cuộc di tản này, tôi đã ghi lại tiếng kêu thảng thốt, lạ lùng
này. Tại sao tôi lại không ghi những tiếng kêu khóc khác tràn ứ quanh tôi trên con tàu Thị Nại HQ.502
lúc đó. Tôi không trả lời được. Vì khi viết lại giây phút xúc động lịch sử này, tay tôi như chỉ tuân theo
những gì mà thần trí tôi ghi dấu mà tự động viết ra. Viết như vẽ lại rất tự nhiên, không có lựa chọn nào.
Nhưng bây giờ thì tôi hiểu. Tình cờ tôi đã hiểu. Có những hình ảnh tuy mờ nhoà, khi ẩn khi hiện, nhưng
không bao giờ biến mất trong trí nhớ tôi. Tôi không bao giờ quên. Tôi nhớ lại rồi. Tôi nhớ thật rõ. Tôi
hiểu tại sao tôi lại ghi lại tiếng kêu này. Xin hãy cho tôi từ từ nhớ lại.
Tôi bỏ chiếc xe hơi nhỏ ở ngoài cửa Hải Quân công xưởng, sát bên Bệnh Xá Bạch Đằng. Tôi đi đầu,
hướng dẫn cả gia đình trên mười người, theo đoàn người lũ lượt chạy bộ dọc theo chiều dài Hải Quân
công xưởng. Vừa chạy vừa ngoái cổ nhìn trở lại để kiểm soát đoàn “rồng rắn” của gia đình. Chỉ sợ có
người bị lạc. Lạc là vô cùng khốn khổ, khó khăn. Tìm đến cầu tàu trước bộ tư lệnh hạm đội. Con tàu
Thị Nại, HQ.502 nằm đó, vị trí một. Bên ngoài còn ba con tàu khác cặp song song. Tất cả bốn con tàu
xám ngắt, hướng mũi phía hạ dòng. Người từ phía sau tràn tới. Như đã hẹn, tôi phải lên được con tàu
này. Con tàu do bạn thân cùng khoá với tôi làm hạm trưởng, Hải Quân trung tá Nguyễn Văn Tánh.
Chúng tôi cũng đã hùn tiền mua thêm nhiều gạo, mì và thức ăn khô chất sẵn ở tàu này. Nước lấy tối đa.
Lúc này thủy triều dâng cao, bắt đầu xuống. Người ken sát nhau như gạch trên cầu tàu, nhích tới, nhích
tới. Cái thang dài độc nhất dựng dốc ngược bên hông tàu. Tôi biết khi khẩn cấp, chỉ cần thả hai mối
dây là cái thang tự động tuồi xuống cầu tàu, lăn theo hai bánh xe ghì trên mặt đất, không một chút khó
khăn.Tàu sẽ tách bến dễ dàng. Nhưng bây giờ rừng người đang ùn ùn tiến tới. Những quân nhân, trai
tráng tìm mọi cách bám vào thành tàu mà lên. Gia đình tôi tất cả mười ba người, con số tình cờ không
vui, trong đó có ông bà nhạc tôi ốm yếu, bốn đứa con nhỏ dưới mười tuổi. Chúng tôi không có cách
nào khác ngoài cách leo cầu thang nhỏ, dốc ngược này để lên tàu. Tôi lên đầu tiên, bế trên tay thằng
con út hai tuổi bụ sữa, nặng chĩu. Trên lưng đeo một ba lô quần áo và các thứ cần dùng. Một tay sách
cái va ly nhỏ đựng đầy giấy tờ, bản thảo và hình ảnh. Rất nhiều hình ảnh. Cầu thang dốc và trơn, tôi
khiến trượt chân. Cái va ly trở nên nặng quá bung ra phía ngoài. Tôi buông tay, nắm vội vào sợi dây
cable, cái va ly rơi tòm xuống nước, mất tăm. Hai tay ôm chặt thằng nhỏ trong lòng. Tôi cúi người
xuống để ghì lấy mặt thang. Trong phút chông chênh đó có bàn tay ai rất mạnh giữ chặt lấy cánh tay tôi.
Chỉ trong một sát na kinh khiếp đó, tôi gượng lại được và bò lên sàn tàu. Không biết cánh tay ấy của
ai. Ai đã cứu bố con tôi. Đặt con xuống sàn tàu, tim tôi còn đập bập bùng hồi hộp. Tôi quay lại cùng
các em tôi kéo vợ tôi, hai ông bà nhạc lên tàu. Kiểm điểm lại “quân số” gia đình. Đủ cả. Tôi quay lại
cầu thang, đứng chân trước chân sau thật vững trên sàn tàu. Một tay vịn hàng rào chắn, một tay chìa ra
kéo những người đang trèo ngược thang lên. Bao nhiêu bàn tay tôi đã nắm. Có bao nhiêu bàn tay bè
bạn thân quen, nắm chặt tay nhau kéo lên, buông ra với những nụ cười. Anh Trần Văn Tâm tức nhà văn
Trần Quán Niệm, anh Nguyễn Hưng Quảng, anh Nguyễn Đa Phúc và bao nhiêu người nữa. Chúng tôi
xúm nhau ở đó để tiếp tay, đỡ đần những người yếu đuối. Có bao nhiêu là những bàn tay già nua, hay
non dại của những ai tôi chưa bao giờ gặp gỡ. Tất nhiên chúng tôi cũng đã chuyền, bế bao nhiêu con
trẻ ở tuổi các con tôi. Lúc kéo người lên như thế, cũng là lúc tôi nhìn xuống khoảng trống giữa thành
tàu và cầu tàu, tôi không còn thấy cái va ly của tôi đâu cả. Nước đã cuốn nó đi trôi nổi ở góc kẹt nào.
Khoảng trống dọc theo thân tàu chỉ độ bốn mươi phân thôi, là bề dày của trái độn cao su. Cái khe này
hun hút đen thẳm dọc theo thân tàu dài hàng trăm thước. Dưới sâu là mặt nước, những làn sóng nhỏ,
lấp lánh ánh đèn trôi đi, trôi đi. Tôi biết sức nước trông thế nhưng thật mạnh mẽ. Chân cầu tàu lù xù
những vết xò hến, tác rưởi bám đầy. Nếu ban nãy tôi không có cánh tay nào bám lấy, ngã xuống đây…
Mới thoáng nghĩ thế, toàn thân tôi như lạnh buốt. Tôi nghĩ đến con tôi. Đứa con út của tôi.
Rời cầu thang trở lại với gia đình, tôi vừa quay gót, có tiếng người đàn bà thảng thốt kêu lên “Con tôi,
con tôi rơi… rồi. Ối con ơi là con ơi...” Tôi quay phắt lại, người ta đen đặc, đang kéo người đàn bà
vào sàn tàu. Ở phía cầu thang người vẫn cứ ùn tấn lên không dứt. Người đàn bà khốn khổ, mất con như
mê đi, đang được mọi người xúm lại chữa chạy, giựt tóc, bôi dầu. Hình như không ai quan tâm đến số
phận đứa nhỏ vừa rời tay mẹ rơi xuống cầu tàu, mất tăm. Vô phương cứu tìm. Mà ai còn thì giờ đâu để
ngó xuống cái khe đen thẳm đó. Người càng lúc càng lên thêm, đứng đen đặc cả sàn tàu. Không ai biết,
chẳng ai quan tâm đến cảnh huống bi thảm vừa xẩy ra. Đêm mỗi lúc mỗi sâu. Nỗi khốn khổ của người
mẹ mất con như bay theo, mất hút giữa đêm đen mỗi lúc mỗi thêm kinh sợ.
Lên được trên tàu, tìm gặp bạn tôi, HQ trung tá Nguyễn Văn Tánh, hạm trưởng, anh nhường phòng của
anh cho gia đình tôi. Tôi ngần ngại, nhưng anh bảo “Tôi còn cái phòng nhỏ trên Trung Tâm Hành
Quân.” Tạm yên tâm, tôi sát cánh cùng anh, tập họp tất cả quân nhân có mặt, tìm mọi cách đem tàu ra
khơi. Người thì chật cứng ở sân boong chính, ở hầm chiến xa, và la liệt cả hành lang, mọi chỗ. Nhưng
như anh Tánh sau này cho biết thì “nhân viên cơ hữu trên 100 nay chỉ còn có 9 người...” Tình trạng
chiến hạm còn đang sửa chữa: “Hai máy chánh ráp xong, nhưng chưa thử tại chỗ. Hai máy điện
chưa được ráp song song. Bơm nước ngọt và bơm cứu hoả chưa ráp. Bình cứu hoả CO2 còn nằm
trên Hải Quân Công Xưởng. Hai máy neo trước và sau bất khiển dụng. Sàn tàu cắt mở lối đem máy
chánh lên chưa hàn lại. ”Biết bao nhiêu trở ngại, khó khăn, nguy hiểm. Khi khởi động được máy thì
tay lái bất khiển dụng. Dây cable lái bị cắt đứt. Nói ra không hết nguy khốn của cuộc đi này. Bao nhiêu
điều, bao nhiêu hình ảnh vẫn đầy ắp trong trí nhớ của tôi. Nhưng hình như tiếng kêu vô vọng, thảng thốt
của người đàn bà khốn khổ đó đã thấm nhập sâu đậm trí não tôi. Lúc mờ lúc tỏ, tiếng kêu đó không
bao giờ mất được trong tiềm thức của tôi. Khi có những sự tương quan, hình ảnh ấy sẽ tự động hiện ra
mà lý trí tôi hình như không thể can dự vào. Và sự việc đã xẩy ra rất tình cờ mới đây, gần 30 năm xa
cách.
Trong một buổi gặp gỡ thu hẹp của mấy bà bạn cựu nữ sinh Trưng Vương của bà xã tôi tại San Jose,
chuyện trò đang nổ như cái chợ, bỗng khựng lại, khi tình cờ chị D. N. nói “Thế ra gia đình tao cùng
di tản trên con tàu Thị Nại HQ.502 với tụi mày à. A, sao cả tuần lễ trên tàu mà mình không gặp
được nhau. Ừ, người đông như kiến. Trên 5000 người. Khiếp thật!” Anh Ng., chồng chị N.
nói: “Khi ở trên tàu tôi xung phong trong toán nhà bếp, nóng như cái hầm. Lúc có điện lúc không.
Cơm nấu suốt ngày mà không đủ. Lúc sống, lúc khê. Khi ra đi đại gia đình chúng tôi có 20 người.
Nếu kể cả thằng cháu P. bị rơi ở cầu tàu là 21. Bây giờ tổng số đã là 40.” Lòng tôi như có điện
giựt. Cả một khung trời kinh khiếp đêm 29 rạng 30 tháng 4 năm cũ hiện ra rõ ràng. Cái khe sâu dọc
theo cầu tàu đen thẫm, lấp lánh những lượn sóng trôi đi, trôi đi. Tiếng kêu thảng thốt của người đàn
bà: “Con tôi, con tôi rơi rồi… Ối con ơi là con ơi.” Lạ nhỉ. Quả đất tròn thật. Tôi phải tìm gặp cho
đươc người đàn bà ấy.
Bà D.t.L, qua điện thoại kể lể: “... một tay tôi cầm cái túi. Một tay tôi dắt thằng cháu P. bước lên
cầu thang dốc ngược của con tàu. Người từ phía dưới cứ nống lên. Mà là người nhà mình cả chứ
đâu. Gót giày tôi như kẹt vào khe cầu thang, chân tôi bỗng nghiêng đi, lao chao muốn ngã. Thế là
tôi buông tay thằng nhỏ ra. Nó rơi ngay xuống khe tàu, mất tiêu. Tai tôi như chỉ còn thấy tiếng
cháu kêu: “Mẹ L...ơi!” Tôi kêu lên, nhưng có ai giúp được gì đâu. Mà có ai thấy gì đâu mà giúp.
Tay tôi bỗng trống không. Tôi được người ta kéo lên sàn tàu. Tôi mê đi chẳng biết gì nữa. Bên tai
tôi cứ loáng thoáng tiếng kêu của nó. Từ đó, nói ông bỏ quá đi cho, tôi cứ ngơ ngẩn, chả còn thiết
gì nữa cả. Tôi nằm như chết ở sàn tàu, chả thiết ăn uống gì. Khi đoàn tàu sửa soạn vào cảng ở Phi
Luật Tân, mọi người lên sân chính để chào quốc kỳ lần cuối, trong tai tôi vẫn vang vang lời kêu
của cháu : “Mẹ L…ơi!” Vì thế, trong giờ phút ấy, tôi bỗng oà khóc và kêu lên …”
Vẫn lời kể của bà L.: “Lúc ấy cháu T.T.P. được 6 tuổi rưỡi. Cháu nhờ trời cũng chịu ăn, chịu chơi
nên có da có thịt, chắc nịch. Mỗi khi trái nắng, trở trời cháu cứ hay kêu “Mẹ L. ơi cứu P.” Tôi
không quên được tiếng kêu ấy của cháu, ông à. Tiếng kêu ấy cứ vang vang trong đầu tôi, hình như
không lúc nào dứt. Lúc thức, lúc ngủ, lúc tụng kinh, không lúc nào tôi không nghe thấy tiếng kêu
ấy của con tôi, nên tôi nghĩ con tôi còn sống. Vì thế suốt mấy chục năm, ngày nào tôi cũng thắp
hương cầu Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn phù hộ độ trì cho cháu. Sau này chúng tôi trở lại
đạo, hàng ngày lại cầu xin Đức Mẹ Maria che chở cho cháu. Tôi tin tưởng hoàn toàn vào đấng
thiêng liêng và tôi vẫn tin cháu còn sống, ông à.”


Vẫn lời kể của bà L.: “Rồi cách đây ít năm, người Việt Nam từ hải ngoại về nước mỗi lúc mỗi đông.
Tôi cũng về thăm lại làng xóm, thăm thân nhân. Trong câu chuyện qua lại giữa bà con, có người
nhắc rằng: “nếu chị tin là cháu còn sống, thì phải có người vớt được cháu. Chị thử đăng báo tìm
xem thế nào. Không thiếu những trường hợp thất lạc con cái, rồi người ta cũng tìm lại được đấy.”
Thế là tôi nhờ đăng tin tìm cháu ở báo Tuổi Trẻ, và có 6 người cùng tuổi với cháu liên lạc với tôi.
Người thì ở ngay Sài Gòn, người thì ở dưới quê. Cũng là người tử tế cả. Có anh nói: “Thôi con
không qua Mỹ đâu. Đã có vợ con và sống ở đây quen rồi, mẹ có thương con thì cho con ít cây
(vàng), con mua mấy mẫu ruộng.” Nghe thế biết thế, tôi cũng chưa có gì đích xác để quyết định cả.
Trong 6 người nhận là con tôi, có một anh cao, giống thằng con tôi hiện ở Mỹ. Anh này hiện học
nghề Đông Y, chưa vợ con gì cả. Với tôi anh ấy đối xử lịch sự, bình thường, không vồn vã mà
chẳng đề nghị xin xỏ gì. Vì theo bà mẹ nuôi của anh kể lại thì “câu chuyện khá dài, nhiều uẩn khúc
lắm.”


Vẫn theo lời kể của bà L.: “Bà này giầu có lắm. Trước 75 bà là dược sĩ, có tiệm thuốc tây rất lớn.
Bà đã có gần 10 người con do bà đẻ ra. Nhưng trong hoàn cảnh tang thương của thời loạn lạc, có
mấy người không nuôi được con, đem cho bà, bà đều nhận hết. Bà săn sóc trên mười đứa con, con
đẻ cũng như con nuôi, như nhau. Đứa nào học được bà cho đi học. Nhiều đứa thành tài là kỹ sư,
bác sĩ. Có đứa lớn lên xin về nhà bố mẹ đẻ, bà cũng vui lòng, còn cấp vốn liếng cho để làm ăn. Có
đứa làm ăn thất bại bò lên xin ở lại với bà, bà lại nhận nuôi nấng cả gia đình vợ con nó như xưa.
Bây giờ trong thời đổi mới, bà đang kinh doanh về ngành du lịch. Bà mua cả một khu rừng xây
khách sạn, đắp núi non, vườn cảnh. Trong đó có những nhánh sông, bà cho xây cây cầu qua lại
thật là đẹp. Nói ra có lẽ khó ai tin được. Thật cái nhà của tôi bên Mỹ không bằng cái nhà xe của
bà ấy. Bà ấy nói với tôi rằng thằng Mỹ do một bà bán chè ở bến sông Sài Gòn cho bà ấy. Thằng
nhỏ này trôi trên sông Sài Gòn, có một người lái đò vớt được, đưa lên bờ. Thằng bé bơ vơ, rét
mướt khóc quá xá, nên cho đứng tạm cạnh bà bán xôi chè, đợi bố mẹ nó tìm đến. Nhưng  chả thấy
bố mẹ nó đâu, bà hàng xôi tìm đến bà dược sĩ bảo rằng : bà làm phước nuôi dùm thêm đứa nhỏ
này. Hỏi bố mẹ con đâu, nó nói trong nước mắt : đi Mỹ rồi. Do đó bà dược sĩ mới đặt tên nó là
Mỹ.”


Vẫn lời của bà L.:“Cái anh tên Mỹ này lớn lên trong gia đình bà dược sĩ. Dù không ai nhắc nhở,
nhưng anh ta vẫn tin sẽ có lúc anh ta phải qua Mỹ đoàn tụ với cha mẹ ruột. Thời gian vùn vụt trôi,
gần ba mươi năm cơ hội chưa đến. Trong khi chờ đợi, anh ta quyết không lập gia đình, sợ lôi thôi
khi đi đoàn tụ. Và để có một nghề qua Mỹ không cần học lại, anh ta học nghề đông-y-sỹ. Bà dược
sĩ nói với tôi rằng, tuy là con nuôi, nhưng tôi thương thằng Mỹ như con ruột. Nó muốn gì, tôi
không tiếc. Đấy cái cửa hiệu đông y đấy, rất khang trang, đủ mọi thứ thuốc, từ sâm nhung hảo
hạng, đến các thứ quế đắt tiền, thứ gì tôi cũng đặt mua đầy đủ. Nó vừa sửa soạn là thầy lang vừa
làm người bào chế, rất mát tay tuy chưa ra trường nhưng cũng đông khách lắm. Sang Mỹ chưa
chắc gì đã có một cơ sở vững vàng như thế. Nhưng nó biết, nó tin là nó không ở đây lâu đâu. Thế
nào nó cũng qua Mỹ đoàn tụ với bố mẹ ruột của nó. Nó muốn thế, tôi cũng sẵn sàng giúp nó được
toại ý khi cơ hội đến. Nếu nó thực sự là con bà, bà chứng minh được nó là con bà, tôi sẽ cố gắng
tìm mọi cách để nó về với bà.”


Vẫn lời của bà L.: “Tôi trở lại Hoa Kỳ, tôi cứ nhớ cái thằng Mỹ này quá. Chắc chắn nó là con tôi.
Nhưng bảo rằng chứng minh cụ thể thì tôi chưa có cách. Tôi có đem chuyện này hỏi ông bác sĩ gia
đình. Ông bác sĩ nói rằng : “Dễ lắm. Nếu nó là con bà, chỉ đem đi thử máu, thử DNA là ra ngay.”
Cái vụ thử nghiệm này thì chắc rồi. Nhưng tôi lại không muốn làm thế. Tôi tin tưởng mạnh mẽ
rằng, nhờ tôi thành tâm lễ bái, khẩn cầu, nên đấng thiêng liêng đã đưa đẩy cho tôi tìm thấy cháu.
Bây giờ lại đem thử nghiệm thì có khác gì không tin vào đấng linh thiêng nữa, nên tôi không làm.
Nghe thế, ông bác sĩ ngồi thừ ra hồi lâu rồi hỏi tôi.


Nếu nó là con bà, thì nó không giống ông bà
cái tai, cũng phải giống cái tóc chứ. Bà nhìn nó bà có thấy nó giống ai trong nhà không, chắc là
phải giống ông nó nhà tôi. Khốn nỗi ông nhà tôi sang bên Mỹ được ít năm thì mất. Ông mất cũng
tại tôi một phần. Ông cứ cằn nhằn tôi bao nhiêu năm: “Sao đang nắm tay nó bà lại buông tay ra.
Làm gì cũng phải có ý có tứ chứ. Nắm thật chặt tay thì nó đâu có rơi được.” Đành rằng thế, nhưng
tôi có muốn buông tay ra đâu. Trời xui đất khiến nó hoá như thế, chứ có người mẹ nào nỡ buông
con ra cho nó rơi xuống sông, hở ông. Thế là bao nhiêu năm đằng đẵng xót xa, rồi ông ấy mất. Lúc
mất hình như ông ấy còn gọi tên nó trong phút lâm chung. Thế là bao nỗi cay đắng đổ cả trên đầu
tôi. Thôi thì trăm sự tôi trông vào đấng linh thiêng, Đức Quan Thế Âm khi trước và bây giờ là Đức
Mẹ Maria. Đêm nào tôi cũng thắp hương, cầu khẩn.”


Vẫn lời bà L.: “Tôi thẫn thờ đau khổ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến nó. Còn thằng em nó hầu như tôi
quên bẵng để mặc cho ông nhà tôi trông nom. Nhà tôi mất đi, trên bàn thờ bây giờ có hình ông ấy
nữa. Hàng ngày khi đọc kinh, nhìn hình ông nhà tôi trên bàn thờ tôi bảo : Ông có khôn thiêng thì
mách bảo cho tôi tìm ra thằng P. Một hôm, em thằng P. đi đánh banh về, từ trong nhà tắm đi ra, nó
ngồi trước mặt tôi, lấy khăn lông lau đôi bàn chân. Nó lau kỹ lắm, khiến tôi chú ý. Sao mà hai
ngón chân cái của nó xoè ra như người Giao Chỉ ngày xưa. Tôi hỏi nó sao thế. Nó bảo thì ngón
chân con nó thế. Đi giầy thì hai ngón chân cái ép lại. Để chân không, nó lại xoè ra. Tôi trở lại Việt
Nam, trở lại nhà bà dược sĩ. Bà vẫn ân cần, niềm nở đón tôi, và vẫn một mực nói: “Tôi sẽ trả con
cho bà, với điều kiện bà phải chứng minh được nó đích thực là con bà.” Thì cũng là tình cờ thôi,
hôm ấy thầy-lang-Mỹ lội xuống khúc sông trước nhà, bơi, tắm.


Tắm xong, lúc ngồi ở nhà ngang, anh ta ngồi lau chân, trời ơi, hai ngón chân cái của thằng Mỹ
cũng xoè ra như thằng con tôi, em nó ở bên Mỹ. Không sai được nữa rồi. Tôi bỗng bật khóc và kêu
lên P. ơi, con ơi. Thầy-lang-Mỹ trố mắt nhìn tôi. Bà dược sĩ cũng thảng thốt, đứng lên. Ba chúng
tôi ôm choàng lấy nhau, nước mắt chan hoà. Thằng P. ôm tôi và nói “Con là P. của mẹ đây, mẹ L.
ơi.” Bà dược sĩ thì bảo: “Sao trước đây bà không cho tôi biết tên nó trước đây là P…”


Vẫn lời bà L.:“Bà dược sĩ nói rằng hàng ngày chúng tôi kêu nó là Mỹ. Nhưng những khi đau ốm,
mê sảng, nó đều kêu: “Mẹ L. ơi cứu P.” Nhưng quả đúng 100% nó là con bà, bà dược sĩ lại hỏi
tôi, vừa cười vừa nói, trong người nó có vết tích gì đặc biệt không. Tôi đáp ngay: “Mông đít nó có
một vết chàm.” Thế là chúng hai chúng tôi lại ôm lấy nhau lần nữa. Và lần này thì bà dược sĩ dành
dọt nói : “Đúng thằng Mỹ đây, khi bé có tên là P. Nó đích thực là con bà.” Tôi ràn rụa nước mắt
xà lại ôm lấy P. Hai mẹ con chúng tôi ôm nhau thật chặt. Tôi bấu vào vai nó. Tôi nắm chặt cánh
tay nó. Không rời ra được nữa đâu. Và trong lúc xúc động này, tôi lại hốt hoảng kêu lên: “Ối, con
ơi, con ơi...” Tôi buông P. ra, buông con tôi ra, tôi chấp tay, đọc thầm một đoạn kinh tạ ơn Chúa,
tạ ơn Trời, Phật. Nước mắt tôi tuôn như mưa.

Tôi quỳ xuống, tôi vái tứ phương. Tôi gọi tên nhà tôi. “Ông ơi, tôi tìm thấy con… rồi.” Hai mẹ con tôi quay lại, thấy bà dược sĩ đứng nhìn chúng tôi, mếu máo với hai hàng lệ chảy. Chúng tôi, mẹ con tôi tiến tới, choàng tay ôm chặt bà vào lòng. Tôi nói: “Bà ơi! Bà là ân nhân của chúng tôi, bà mới thật là mẹ nó. Trời, Phật đã dẫn dắt nó là con bà.” Con tôi cũng nói: “Con xin đa tạ mẹ…” Thật, chưa bao giờ tôi vui sướng như thế mà cũng khóc nhiều như thế. Và cũng chưa bao giờ tôi tin tưởng mạnh mẽ như thế vào sự huyền diệu của các đấng thiêng liêng.”


Cho đến khi chúng tôi viết những dòng này thì bà L. đã hoàn tất mọi thủ tục đưa người con trai tên P.
sang Mỹ đoàn tụ với gia đình. Khi mọi việc đã xong, tên tuổi những người liên hệ sẽ được in đầy đủ
trong bài viết.


Một kết cục đau lòng


Bài viết này đã được đón nhận khá sâu rộng tại hải ngoại lẫn trong nước. Một tờ báo lớn hiện nay ở
Sài Gòn liên lạc với tôi qua email, xin phép in lại và đặc biệt muốn tôi cung cấp tên tuổi, điạ chỉ của
những người liên hệ đến câu chuyện để họ trực tiếp tìm hiểu, phỏng vấn như một vấn đề tượng trưng
cho niềm vui giữa trong-ngoài, giữa kẻ ở, người đi. Tôi đã từ chối vì nhiều lý do. Nhưng lý do gần
nhất là ngay lúc ấy tôi linh cảm thấy trong câu chuyện này có khá nhiều uẩn khúc. Tôi trực tiếp liên lạc với người bạn của bà xã tôi, người đã trực tiếp cung cấp cho tôi những tin tức về câu chuyện. Bà ấy bảo “Hãy từ từ ông ơi…”


Do đó tôi lắng lòng chờ đợi. Trong khi đó khá nhiều bạn bè, độc giả xa gần hỏi:“Khi nào thì anh con
trai lạc mẹ ở Việt Nam sẽ đoàn tụ với mẹ, với em ở Hoa Kỳ?” Tôi không trả lời được, nói gì đến
việc viết ra điều ấy như đã loan nơi những dòng cuối bài viết. Nhưng hôm nay, những ngày cuối tháng 11 năm 2009, chúng tôi có mặt tại San Jose, gặp lại người bạn cũ, người đã di tản trên con tàu
HQ.502 ngày nào, là người đã cung cấp cho tôi tin tức liên hệ đến Ngườì Đàn Bà Trên Tàu HQ 502.
Bằng một giọng nói mạnh, đi thẳng vào vấn đề, bà ấy nói, như sau:


“…Hỏng rồi. Láo hết. Chúng ta đã bị lừa. Một kịch bản rất tinh vi, kỳ lạ vượt ra ngoài suy nghĩ
của chúng ta…Ngay khi Việt Nam họ cho người di tản về thăm quê hương, nói theo danh từ thời
thượng là mở-cửa, rất đông người Việt từ hải ngoại ù về để thăm thân nhân, trong đó không thiếu
người thất lạc vợ con là những người hăm hở nhất. Biết bao nhiêu chuyện đoàn tụ, gặp gỡ buồn
vui đã diễn ra. Trong đó không thiếu người thất lạc con như cô L. nhà tôi đã đăng báo tìm con. Tin
này loan đi như một phong trào rất sôi nổi. Trong không khí ấy, cô L. nhà tôi, từ khi thằng nhỏ rơi
xuống khe tàu, cô sống mà như người ngơ ngẩn, mất hồn. Lúc nào trong đầu cô cũng vang vang lời
đứa con kêu thảng thốt “Mẹ ơ..i…”. Tiếng kêu ấy như không bao giờ dứt. Trong chuyến về thăm
Việt Nam, gặp lại anh em, bà con ruột thịt thì mừng sao cho xiết. Vì ông cụ nhà tôi có nhiều dòng
con. Cô L. tuy là em tôi nhưng lại lớn hơn tôi mấy tuổi. Cô về Sài Gòn, gặp lại những ông anh bà
chị tôi từ Bắc vào. Những người đi kháng chiến từ những năm bốn lăm, bốn sáu. Sau 9 năm ngoài
đồng ruộng, họ trở về Hà Nội, thì hai cụ tôi và chúng tôi đã di cư vào Nam cả rồi. Sau bảy lăm,
như ông biết đấy, đại gia đình chúng tôi rời Việt Nam trên con tàu HQ.502 cùng với gia đình ông
bà. Thôi thì ngàn vạn đắng cay, với hai bàn tay trắng, chúng ta làm lại cuộc đời nơi xứ lạ mà lòng
lúc nào cũng hoài vọng quê nhà. Cô L. nhà tôi thì đau khổ quá sức. Tiếng thằng con cứ văng vẳng
trong đầu. Trong nỗi sầu đau cắt ruột ấy, thấy người ta đăng báo tìm thân nhân, người nhà chúng
tôi ở Việt Nam bảo, cô hãy đăng báo xem sao, biết đâu thằng nhỏ có ai vớt được, mình tìm lại
chuộc về… Chính người nhà nhà mình đề nghị như thế. Họ còn nói, cô cứ về lại Mỹ đi, ở đây
chúng tôi theo dõi cho. Khi có tin gì chúng tôi thông báo cho cô biết. Sự khởi đầu như thế và
chúng tôi đã cung cấp các sự kiện ấy cho ông. Ông đã viết thành bài văn như báo chí đã đăng.


Trong diễn trình này còn nhiều điều lạ lùng lắm. Giữa hy vọng, luôn có những khúc mắc, khó khăn.
Muốn giải toả khó khăn ấy là phải có tiền. Ấy là chưa kể hàng tháng cô L. nhà tôi đều hoà gửi về
cho “thằng con lưu lạc” một số tiền là năm trăm Mỹ Kim. Còn ngày tư ngày Tết, khi mua xe mua
cộ, nào tiền thủ tục “bôi trơn”, cứ kìn kìn cô ấy gửi về liên tục bao năm trời. Cho đến lúc phải làm
thủ tục để đưa thằng nhỏ qua Mỹ, cô L. nhà tôi và thằng em nó bên Mỹ cùng về. Thằng em nó đòi
cả hai anh em nó cùng đi thử DNA, thì thằng “anh ở Việt Nam” tìm cách từ chối, rồi trốn luôn.
Mọi việc đến lúc này mới vỡ lở ra, tất cả là một kịch bản đã được sắp xếp rất tinh vi. Người đứng
ra đóng vai trò chủ chốt trong vụ này không phải ai xa lạ đâu mà là người em ruột của cô L. nhà
tôi. Thằng nhỏ đóng vai đứa con lạc là chính con của người em cô L. Trước hoàn cảnh này, cô L.
như người từ trên trời rớt xuống. Cô lạnh ngắt, ngơ ngác nhìn mọi người. Mọi nguời, từ người em
cô L. cho đến những anh em ruột thịt của chúng tôi, hiện là người có chức, có quyền và có của
nữa, tất cả không ai nói gì. Không phiền trách người đã tạo ra cảnh huống này. Mà họ lặng yên
cũng phải. Vì đâu phải bây giờ họ mới biết đâu. Họ biết hết, biết rất kỹ từ những ngày đầu khi kịch
bản này mới được thi hành, từ khi cô L. cho đăng báo tìm con cơ. Cô L. nhà tôi ngơ ngáo nhìn mọi
người. Mọi người dửng dưng, lạnh ngắt.


Hai mẹ con cô L. lặng lẽ dắt nhau về Mỹ, lặng lẽ sống trong nỗi đắng cay. Chúng tôi hơn lúc nào
hết biết rằng, cô L. đã thực sự mất đứa con từ tối hôm 29 tháng 4 năm 1975 rồi. Và bây giờ khi
kịch bản kia vỡ ra, không chỉ cô L. mà tất cả chúng tôi, giòng họ chúng tôi ở Mỹ này, chúng tôi coi
như mất hết tất cả bà con ruột thịt hiện sinh sống tại Việt Nam. Giữa họ và chúng tôi như không
còn chút liên hệ huyết thống nào nữa. Họ là những người Cộng Sản thuần thành. Họ là những
người khác. Họ không có những rung động, suy nghĩ như chúng ta. Họ như một thứ sinh vật khác.
Họ coi chúng ta như những sinh vật hạ đẳng, dễ tin, dễ bị lừa dối, nhẹ dạ. Và khi họ giăng được
mẻ lưới, thu được lợi nhuận từ phía chúng ta thì họ vui cười hưởng thụ và không có chút xót
thương nào cho chúng ta cả.


Có thể tôi đã nhận định sai. Và tôi cũng mong là tôi sai. Mong lắm. Nhưng với nỗi đau của cô L.
nhà tôi, của chúng tôi, thì tôi không suy nghĩ khác được. Người Cộng Sản Việt Nam không phải là
người như chúng ta. Họ là những sinh vật khác, ta không thể gần họ được. . .”
Người viết thấy lòng mình tê dại, và không dám có ý kiến nào thêm. Rồi từ trong sâu thẳm của suy tư,những sự việc mới cũ, những người này, người khác, kẻ ở quê nhà, người ở hải ngoại, chằng chịt qua bao nhiêu liên hệ buồn vui… Mỗi việc đều khiến tôi phải nghĩ lại, dò xét lại. Sao lại có thể thế được?\


Thế nào là anh em, là máu mủ? Bao nhiêu hệ lụy, cái tốt, cái xấu hoà hợp, chồng chất lên nhau… Sao
lại như thế được nhỉ? Những giọt nước mắt lã chã tuôn rơi khi em gái tôi vượt bao gian khổ khi đi
thăm ông anh chúng tôi giữa vùng đồi núi Sơn La. Tiếng gọi anh thảng thốt oà vỡ với nụ cười và tiếng khóc. Khi ông anh tôi ngồi ăn những miếng xôi, gắp những miếng thịt gà cho vào miệng, thì cô em tôi cũng oà khóc, vì nhớ những ngày xưa bé dại, khi thầy mẹ tôi còn sống, trong ngày giỗ ông bà, chúng tôi cũng có những lần ăn cỗ như thế. Nhưng bây giờ thì khác. Anh tôi đang là một người tù ngồi ăn những miếng cơm ơn nghĩa…Rồi anh tôi được tha. Tha ra là ra đi đoàn tụ với con cái ở nước ngoài. Dù mới chân ướt chân ráo tới xứ ngừời, anh đã có những thùng quà “anh gửi về biếu cô chú.”


Sau đó là những đồng tiền “anh dành dụm chút tiền hưu gửi về để cô chú mua hương hoa lên cúng Thầy Mẹ, và gọi là có thẻ hương đem ra nhà thờ họ, ra đình, ra chùa…” Nói là như thế, nhưng cô em tối bảo “mấy trăm bạc anh gửi về ngày ấy to lắm. Chúng em tằn tiện xài được ba, bốn tháng…” Những liên lạc thương yêu đùm bọc ấy là gì, phát xuất từ đâu, nếu không phải từ máu huyết
từ cha, từ mẹ. Đó là tình anh em, máu thịt của mình, dù có cách xa ngàn trùng cũng không thể nào phai
nhạt. Tình thương máu mủ đó đã tuôn chảy, qua lại, cưu mang lẫn nhau, vượt ra ngoài những suy nghĩ
giáo điều của thời cuộc. Có lẽ hàng triệu người Viêt Nam đã cùng trải qua cảnh huống này. Trong giao
tiếp, là con người, chúng ta chắc không thiếu sơ sót, vụng về. Nhưng với tình thương ruột thịt, những
sai sót ấy hình như đều“chín bó làm mười” hết cả. Nhưng ở trường hợp bà L.. sao lại thế, thảm
thương và tàn nhẫn như thế? Động lực nào đã khiến chị em ruột thịt trong nhà đối với nhau như thế?!
Phải chăng đây là một trong những nỗi đau to lớn nhất của tất cả chúng ta sau cuộc chiến tuơng tàn.
Ngoài nỗi tang thưong, chia lìa, sống chết ròng rã mấy mươi năm, dân tộc chúng ta đang đối diện với
sự phá sản tận cùng của lương tri?
Lỗi ấy từ đâu?!
( 3 tháng 12 năm 2009)



CHỊ EM
Đôi Lời Giới Thiệu

Trong cuộc sống không ai làm nên việc một mình. Đọc tới những hàng chữ này đã gần cuối sách,
chúng tôi muốn kể với quý vị một câu chuyện liên hệ đến gia đình bà xã của chúng tôi. Do đó “Chị
Em” sẽ do bà xã tôi hầu chuyện cùng quý vị.
Hy vọng câu chuyện này sẽ góp phần làm sáng tỏ sự suy nghĩ của chúng ta trong “Một Thời Oan
Trái.”
Năm tản cư, đâu như năm bốn bảy, bốn tám, tôi mới có năm, sáu tuổi. Đánh nhau ở đâu tôi không biết,
nhưng mấy năm tản cư về nhà quê, vớí tôi, là thời gian tuyệt vời, khó quên. Sau đó gia đình chúng tôi
hồi cư về Hà Nội. Cậu tôi đi làm. Lương công chức đủ sống, nhưng không dư giả, vì anh em chúng tôi
đông quá. Trên tôi có hai anh. Tôi thứ ba và là đứa con gái lớn nhất, nên tôi rất gần gũi mẹ tôi mà
chúng tôi kêu là mợ. Ngoài giờ đi học, tôi phải giúp mợ tôi thu dọn bếp núc, rồi dạy kèm các em học.
Tối đi ngủ, tôi còn phải nằm ngủ với hai đứa em bé và quạt cho em, gãi lưng cho em nữa. Có lúc vì
cực nhọc quá, anh tôi và tôi phàn nàn “Sao mợ đẻ nhiều thế...” Mợ tôi liền mắng “Trời cho chứ tao
muốn à...” Các em tôi lớn dần và dễ thương lắm, khiến tôi rất mừng là chúng tôi có đông anh em. Cậu tôi thì khó tính, rất hay gắt gỏng khó chịu. Vì thế những buổi tối, một mình cậu tôi ở dưới nhà, còn tất cả năm sáu anh em chúng tôi rút lên trên gác. Dưới ánh đèn điện tỏa trên mặt bàn rộng, mấy anh em chúng tôi ngồi xung quanh và học bài inh ỏi. Chỉ hôm nào cậu tôi đi vắng chúng tôi mới dám xuống nhà nô đùa. Những lúc như thế,mợ tôi thường “kể tội” cậu tôi. Nhiều chuyện mợ tôi kể đi, kể lại khiến chúng tôi thuộc lòng. Nhưng có một chuyện suốt bao nhiêu năm, dù mợ tôi có kể lại, vẫn khiến chúng tôi băn khoăn, nghĩ ngợi. Đó là sự xung khắc lạ lùng giữa cậu tôi và chú tôi.


Mợ tôi kể: “Lúc trước tao chả biết thế nào, nhưng từ lúc tao về làm bạn với cậu chúng mày thì cậu
chúng mày vớí chú chúng mày cứ như mặt trăng, mặt trời. Ngay cả ngày tư ngày tết, chú chúng
mày cũng chỉ rình khi nào cậu chúng mày đi vắng mới dám đến chúc tết. Rồi thấp thoáng chú ấy
lại đi, sợ cậu chúng mày về bất chợt. Rồi chú ấy đi đâu mất tăm. Dễ đến mấy năm sau, tối ba mươi
tết, đang sửa soạn cúng thì ở đâu không biết, chú ấy về. Câu đầu tiên chú ấy hỏi là anh có nhà
không, chị. Tao bảo ông ấy đi biếu quà tết mấy người bạn cũng sắp về. Tưởng chú ấy ngại gặp cậu
chúng mày như các lần khác, chú ấy sẽ đi. Nhưng không, chú ấy bảo để em đợi anh ấy về. Tao lấy
làm lạ nên hỏi chú ấy có việc gì thế. Chú ấy chỉ cười, nói để lát nữa em thưa chuyện với cả hai anh
chị luôn. Lúc bấy giờ tao mới để ý, thấy chú ấy tủm tỉm cười. Chú ấy ăn mặc tươm tất, quần áo tây,
mũ phớt, chả thua cậu chúng mày bao nhiêu. Chú ấy đi quanh nhà, hỏi han chuyện này, chuyện
khác, vui vẻ lắm. Lúc hai chị em đang ở trong bếp xem nồi bánh chưng thì có tiếng cậu chúng mày
về, hỏi lớn “Xe đạp của ai mà đẹp thế.” Chú ấy chạy ra chào cậu chúng mày và nói:“Xe đạp của
em.”

 Cậu chúng mày đang vui bỗng sầm nét mặt lại và lên thẳng nhà trên. Chú chúng mày và tao
đứng trong bếp nhìn nhau. Hồi lâu nhớ tới lời chú ấy nói ban nãy, tao mới nhắc “chú muốn nói gì
với anh chị thì lên nhà mà nói đi.” Ngần ngừ một lúc chú ấy mới bảo “chị lên nhà cùng với em.”
Hai chị em lên nhà, cậu mày biết chứ, mà ông ấy làm như không, cứ loáy hoáy sửa đi sửa lại cành
đào. Tao mới nhắc “Này cậu nó, chú Tấn chú ấy muốn nói gì với cậu đây này.” Một lúc cậu chúng
mày mới ngửng lên và trách“Bấy lâu nay chú đi đâu không thấy mặt?” Chú ấy bảo em lên mạn
ngược làm ăn... Cậu chúng mày ngưng tay, nhìn thẳng vào mặt chú chúng mày đầy sửng sốt “Mạn
ngược...” Ấy là lần đầu và cũng là lần chót tao thấy hai anh em cậu chúng mày nói chuyện với
nhau.


Chú ấy nói là chú ấy đang làm thư ký cho một tiệm bán thuốc Tây trên Tuyên Quang và ông bà chủ
nhà thương mến muốn gả con gái cho, với điều kiện phải có ông anh bà chị từ Hà Nội lên xin cưới
cho nó trịnh trọng, có đầu có đuôi. Mọi việc nhà gái cáng đáng hết. Cô con gái cũng là người có
đi học, biết chữ Tây, khó kiếm đưọc người xứng đáng ở đấy. Nay bề gì chú ấy cũng là người Hà
Nội, có anh làm thông phán, nên nhà gái mừng lắm...”


Ngày cưới của chú Tấn cậu mợ tôi có lên Tuyên Quang, thuê bao một chiếc xe nhà. Vẫn theo lời kể
của mợ tôi thì“cậu mày cứ đủng đỉnh mãi, lúc thì mặc quần áo Tây, rồi lại thay ra, mặc áo gấm,
đến sốt cả ruột, nên mãi trên 10 giờ mới ra xe. Tao và cậu mày ngồi ở ghế sau. Ghế trước để hai
cái quả bánh cốm, bánh su sê. Thùng xe sau là các mâm trầu, mâm cau. Vừa đi cậu mày vừa giục
chaỵ mau mau lên mới được. Ra khỏi Hà Nội một chút chỉ thấy đồng lúa rồi núi rừng, chóng cả
mặt. Gần vào thành phố mới biết là bánh pháo Điện Quang cậu mày đã bỏ quên tại nhà. Lỗi cậu
mày rành rành mà ông ấy lại gắt nhặng lên là sao tao không nhắc ông ấy. Tới nơi xe đỗ ở đầu phố,
trẻ con đứng đông nghẹt.


Nhà gái đứng đón trước nhà mà ông ấy cứ loay hoay, lúc thì sửa lại áo,
lúc thì mở thùng xe ra xem. Nhà gái thấy thế mới cho người nhà ra chào hỏi. Mấy người gia nhân
nhà gái bưng đồ lễ đi trước, tao và cậu chúng mày đi sau. Chú Tấn chúng mày mặc áo đoạn trơn,
quần chúc bâu, từ trong nhà bước ra, nhập vào làm thành họ nhà trai. Có nguời đưa tận tay cậu
mày bánh pháo. Lúc ấy ông ấy mới vui. Bánh pháo buộc vào một cái sào dài. Cậu mày mặc áo
gấm, trông cứ như ông huyện, tao thì mặc áo dài nhung. Cậu mày châm ngọn lửa vào ngòi pháo.
Bánh pháo nổ tung, tưng bừng, khói bay mù mịt, điếc cả tai. Gia đình nhà gái đón nhà trai vào
nhà, cười nói hể hả lắm...”


Câu chuyện cưới xin này mợ tôi kể đi kể lại khiến tôi thuộc lòng nhưng những lúc nhàn dỗi, không có
cậu tôi ở nhà, anh em tôi lại bảo mợ tôi kể cho nghe. Và bao giờ mợ tôi cũng kết cục bằng câu “Cậu
chúng mày thật là cơ cầu, đối với chú ấy thật tệ...”
Rồi chiến tranh bùng nổ.
Gia đình chúng tôi đi tản cư ít tháng rồi lại hồi cư về Hà Nội, cậu tôi lại đi làm. Kỷ niệm với người
chú cũng mờ nhạt dần. Mỗi khi Tết đến, cậu tôi có tật là mua rất nhiều quà, đi biếu người này, người
nọ. Những lúc như thế chúng tôi rất muốn có chú, bác, cô, dì để tới thăm mà không có. Chúng tôi nhớ
đến chú Tấn rất nhiều. Nếu gia đình chú ấy ở đây, thế nào chúng tôi cũng đi thăm.


Rồi không biết làm cách nào mà mợ tôi lại có một vài tấm hình của chú ấy. Trong hình, chú mặc áo
veston, cuốn phu la, tay cầm điếu thuốc lá dài có ngọn khói bay ngoằn ngoèo. Nét mặt đăm chiêu.
Đằng sau tấm hình có hàng chữ“thương nhớ về cố đô...” Đôi khi gia đình tôi còn nhận đưọc thư của
chú ấy từ “hậu phương” gửỉ vào. Thư viết:“Nay em có mấy nhời gửi về thăm anh chị và các cháu,
được mạnh khoẻ thì em mừng lắm. Chúng em ở ngoài này cũng bình thường...”
Bỗng một hôm chúng tôi đi học về thấy có một đứa nhỏ đen đủi ngồi trong bếp bên cạnh mợ tôi.

Thấy chúng tôi về, đứa nhỏ cười toe và nói “Em chào các anh, các chị...” Sau phút bỡ ngỡ ấy, chúng tôi hiểu ngay, đây là con trai của chú Tân chúng tôi. Chúng tôi thương nó tức thì. Mợ tôi và tôi đưa nó đi sắm quần áo, giày dép, sách vở. Và chỉ mấy hôm, cậu tôi mang về tờ thế vì khai sinh cho nó. Nguyễn Minh Cung. Chưa đầy một tuần sau, Cung đã được nhận vào lớp ba, học cùng lớp với thằng em thứ tư của tôi. Cung ở “hậu phương” về, học kém lắm, nên cậu tôi bảo tôi phải hàng ngày kèm cho nó. Cung học kém, nhưng lại hoạt bát và biết nhiều thứ mà chúng tôi mù tịt. Cung biết làm nhiều thứ và sẵn sàng giúp tôi, giúp mợ tôi trong công việc hàng ngày. Các em tôi đông, ngoại trừ quần áo của cậu tôi phải đưa hiệu giặt, còn quần áo của chúng tôi, tôi phải phụ với mợ tôi để giặt giũ, nhất là khi u già về quê, vắng nhà. Những khi ấy, Cung càng tỏ ra tháo vát và giúp tôi và mợ tôi thật đắc lực.

 Tôi còn nhớ Cung rất khéo tay. Cái giá vo gạo đã sứt cạp, mợ tôi muốn vứt đi để mua cái khác, Cung bảo đừng, rồi loay hoay Cung cạp lại được, bền chắc như mới. Mợ tôi khen lắm và nói đùa “dễ thằng này làm thợ đóng cối được đấy.”


Đến khi phải làm bài thì Cung khác hẳn. Cung dốt và rất hay buồn ngủ. Bản cửu chương Cung không
thuộc hết nên làm toán rất chậm. Tôi mất rất nhiều thì giờ để kèm cho Cung. Nhiều lúc giảng cho Cung, tưởng Cung hiểu, nhưng khi hỏi trẹo đi một chút Cung trả lời sai hết. Tôi vừa bực mình vừa thương Cung hơn. Làm sao Cung lên lớp đây. Tôi khóc thì Cung lại thương tôi và nói “Chị đừng lo cho em quá. Em không học được thì lớn lên em làm việc khác. Thiếu gì người không học mà vẫn giầu có.
Em không lười biếng mà chị...”


Có buổi cậu tôi đi vắng, mợ tôi đi chợ, nhà chỉ còn tôi và mấy đứa em, Cung bảo ở đây với hai bác và
các anh các chị, em thật là đầy đủ, nhưng sao nhiều lúc em buồn quá... Tôi biết là Cung nhớ nhà, tôi
phải nhắc, trên mạn ngược đánh nhau to lắm. Báo mới đăng Pháp nhảy dù xuống Tuyên Quang. Ở đó
suốt ngày lo chạy giặc, học hành không được nên Thày U em mới gửi em về đây. Em cố học đi rồi có
lúc em lại về với gia đình em chứ. Nghe nói thế, Cung buồn lắm, nước mắt lưng tròng. Tôi biết tôi lỡ
lời, đã khơi động đến hoàn cảnh của gia đình em. Tôi ngồi im. Chiều xuống dần, tự dưng Cung huýt
sáo nhữngbài ca rất lạ. Những điệu nhạc rộn rã, hùng mạnh. Cung bảo em thuộc nhiều bài hát lắm,
nhưng Thầy em bảo con vào thành đi học, Tây nó ở xung quanh, mật thám như rươi, không được hát
những bài hát ở hậu phương. Tây mà nó biết, nó bắt nhốt vào hỏa lò, nó đánh cho nhừ tử, mất xác như
không.. Những lúc như thế, dù chúng tôi còn nhỏ, tôi thấy trong mắt em như phảng phất nỗi u uất, mơ
hồ. Tâm hồn em như đang chìm vào vùng núi non nào mênh mông, xa vắng. Cung khác anh em tôi quá.
Mặc dù tôi thương yêu Cung như em ruột, còn săn sóc hơn thế nữa, nhưng tôi biết Cung sẽ không ở với
chúng tôi lâu.
Sau mấy năm ở thành phố, Cung đã khác, cao lên rất nhanh, trắng ra và học hành cũng không lẹt đẹt
như lúc mới từ rừng núi trở về. Nhưng bây giờ lại là lúc Hà Nội nghe thấy tiếng đại bác từ đâu đó
vọng về. Điện Biên Phủ, một địa danh xa lắc ở miền thượng du được nhắc đến hàng ngày. Chiến tranh
tạm thời chấm dứt. Việt Nam chia đôi. Ai đi, ai ở. Cậu tôi nhất định đem gia đình đi Nam. Anh lớn tôi
học trường Albert Sarraut, phải bỏ ngang đi trước vào Nam, sửa soạn đón gia đình vào. Giữa lúc ấy
thì có thư của chú tôi từ hậu phương gửi về. Mợ tôi đưa thư cho tôi đọc như sau :


“Kính thưa anh chị,
Trước hết vợ chồng em kính thăm sức khoẻ của anh chị. Sau chúng em xin đa tạ sự cưu mang của
anh chị đối với cháu Cung. Mấy năm trời ròng rã, anh chị đã không quản khó khăn, tốn kém nuôi
cháu ăn học. Anh chị đã săn sóc cháu không khác gì các con của anh chị. Từ manh quần, tấm áo,
cho đến miếng ăn thức uống, các cháu con của anh chị thế nào, thì cháu Cung cũng được y như
thế. Công ơn ấy vợ chồng em xin khắc dạ ghi tâm.


Nay đất nước đã hoà bình, nhưng anh em ta lại không được cơ hội đoàn tụ, chúng em rất lấy làm
tiếc. Chúng em biết gia đình anh chị sắp đi Nam, đó là quyết định của anh chị, em không dám cản.
Duy có một điều, xin anh chị cho cháu Cung ở lại. Máu chảy ruột mềm, chúng em muốn cho cháu
về đoàn tụ với gia đình, có rau ăn rau, có cháo ăn cháo. Xin Thầy U phù hộ cho gia đình anh chị
gặp được mọi điều may trên xứ lạ quê người...”


Sau lá thư này, Cung vừa quấn quýt, bùi ngùi giữa anh em chúng tôi, vừa có nỗi vui, thầm mong chóng đến ngày đoàn tụ với cha mẹ và mấy em nhỏ của Cung. Cung thu nhặt tất cả những tấm hình của Cung,
của gia đình tôi. Cả tấm hình em bé của tôi chưa biết ngồi, lúc chụp phải độn gối hai bên, miệng thì
chảy rãi, Cung cũng xin cho “đủ hình các anh, các chị.” Riêng tôi, tôi xếp cho Cung những thứ cần
dùng như áo len, sách vở và dặn Cung phải tiếp tục học cho đến nơi đến chốn. Mợ tôi còn mua thêm
những món quà “để tặng cho chú thím ấy...”


Như đã sắp đặt sẵn, Mợ tôi và tôi đưa Cung sang bên kia Gia Lâm, hẹn gặp nhau tại một quán tranh ở
giữa cánh đồng. Trước khi đi cậu tôi nhắc đừng có ở lâu. Liệu mà về cho sớm. Chúng tôi xuống xe ở
ngoại ô Gia Lâm, trên đường đi Phòng (Hải Phòng). Người dẫn đường đi trước, chúng tôi đi sau.
Bước những bước chân trên con đường mòn, hai bên có các thửa ruộng mới gặt. Những gốc dạ buộc
chụm từng bó xếp đều như bất tận. Mùi lúa mới thơm nồng. Những đàn chim sẻ bay từng đàn, chao
lượn thật khéo, từ trời cao sà xuống kiếm mồi. Ở đây nhìn về Hà Nội mờ xa, im ắng lạ lùng khiến tôi
muốn ngợp trong cái mênh mông cao rộng của đất trời. Hồn tôi như bị cuốn đi theo từng cơn gió thổi.
Tôi bỗng nhớ những ngày tản cư năm nào... Đi đã khá xa, tôi và Cung khiêng cái va li quần áo của
Cung, rất nặng, chân tôi đã bắt đầu mỏi. Người dẫn đường bảo “nếu cô mỏi chân thì bỏ guốc ra mà
đi chân không. Chả bao đỗi nữa đâu. Ăn dập bã trầu thì tới...”


Qua khúc quanh, cái quán tranh nằm ẩn dưới bóng mát của một cây đa hiện ra. Rẽ vào con đường nhỏ. Dưới gốc đa có cái miếu nhỏ, xây gạch. Một bát hương đầy ứ chân hương đỏ quạnh. Chúng tôi bước
tớí. Từ trong lều tranh, một người đàn ông mặc quần áo nâu bước ra, không phải giới thiệu tôi cũng
biết đây là chú Tấn. Chú giống cậu tôi như hai giọt nước, chỉ khác là chú cao hơn cậu tôi, đen và nét
mặt buồn bã. Tôi còn đang bỡ ngỡ thì mợ tôi đã lên tiếng“Kìa chú...” Chú Tấn mỉm cười. Cung lí nhí
kêu “bố.” Mợ tôi trao các món quà cho chú Tấn. Chú nhìn tôi rất âu yếm. Tôi thấy chú vừa rất thân lại
vừa thật xa lạ. Chú nhìn tôi và bảo “Chị Kim lớn rồi này. Chị hơn thằng Cung hai tuổi, năm nay đã
mười bốn, tuổỉ ta. Chú cũng xin cám ơn cháu đã mất công kèm thằng Cung hộ chú...” Mợ tôi rất
chu tất, ngoài những món quà như áo quần, trong một bao thư còn có ít tiền và cái đồng hồ đeo tay của
cậu tôi gửỉ cho chú ấy. Một bữa ăn đơn giản được bày ra trên mấy tờ giấy báo, gồm bánh mì, giò lụa,
bánh dầy và chuối. Cung tỏ ra sành sỏi trong việc bày bữa tiệc này. Mọi người lấy những mớ rạ khô
làm ghế ngồi. Chú Tấn vui cười, nhưng ăn rất ít. Trong câu chuyện, tôi thấy mấy lần chú nhắc đến cô
Kim Chung, đào cải lương. Chú bảo “Ở trên rừng nhớ về Thủ Đô, chỉ mong có lúc thành công để lại
được về Hà Nội nghe cô Kim Chung hát.” Mợ tôi bảo “Rạp Quảng Lạc đã đóng cửa, thu dọn vào
Nam rồi. Cả kép Huỳnh Thái cũng đã vào Nam...” Nghe thế, nét mặt chú bỗng đăm chiêu, buồn bã
thêm. Tôi thấy như Hà Nội với chú chỉ là Kim Chung. Kim Chung ra đi Hà Nội trở nên trống vắng,
không còn là Hà Nội nữa.
Lúc sắp chia tay ra về, tôi đưa tặng Cung cái hộp đựng bút. Đó là cái hộp đựng thuốc lá Craven A,
cậu tôi cho hồi Tết. Tôi rất quý hộp bút này và Cung thèm lắm. Tôi gói hộp bút này trong một hộp giấy
và đưa cho Cung. Cung trân trọng cầm lấy cái hộp, nét mặt hân hoan. Cung mở ra. Trong đó có ba cái
bút chì vàng có đầu tẩy, một cái bút chì xanh đỏ, một cái tẩy chì, một cái tẩy mực, cái bút máy mới
tinh, quà của anh lớn tôi thưởng cho tôi khi tôi trúng tuyển vào đệ thất trường Trưng Vương. Và dán
dính trong nắp hộp là bản cửu chương với những nét bút chì đỏ gạch dưới những hàng mà Cung thường
không thuộc. Cung khẽ đóng cái hộp lại, nhìn tôi và nói nhỏ “Em xin cố gắng để chị được vui
lòng.” Tôi nắm tay em, bóp nhẹ và bỗng dưng tôi muốn khóc. Nước mắt không dưng cứ ứa ra. Tôi
nhìn Cung, em cũng tự nhiên nức nở.
Trời đã chiều, mợ tôi đon đả đứng lên “Thôi chú ở lại vui vẻ. Vào tớí trong ấy chúng tôi sẽ bảo các
cháu viết thư ra cho chú thím biết...”Người dẫn đường tiễn chúng tôi đi. Tôi không dám ngoảnh lại,
cứ cắm cúi mà đi. Nắng đã nhạt. Trong gió đồng như thoảng lạnh chút hơi may. Những con nhái bắt
đầu kêu lên đâu đó râm ran. Tới đường cái chính, trước khi lên xe trở về Hà Nội, tôi dừng lại nhìn về
cái quán giữa đồng xa tít, lẫn vào với bóng cây đa đen thẫm. Chú Tấn và thằng Cung đã biến đi đâu
mất từ hồi nào. Tôi bỗng bàng hoàng, tê tái. Thế là tôi xa cách em tôi ư? Sài Gòn và Hà Nội mấy ngàn
cây số, biết có khi nào chúng tôi gặp lại được nhau. Cầu Long Biên chập chùng đen sẫm hiện ra trước
mặt. Xe chui vào lòng cầu. Những thanh gỗ kêu rập rình dưới bánh xe. Sông Hồng Hà cuồn cuộn tối
om ở dưới xa làm tôi kinh sợ. Thành phố nhộn nhịp, ồn ào xe cộ, nhưng trong lòng tôi vẫn là hình ảnh
cái quán rơm xiêu xiêu đơn độc giữa đồng...
*
Cuộc sống mới ở trong Nam với biết bao bận rộn. Anh em tôi tám người, đã quá đông, mợ tôi lại đẻ
thêm thằng Cu nữa. Chín anh em. Thằng Cu kém ông anh lớn của tôi vừa đúng 20 tuổi. Lương công
chức một mình cậu tôi không thể nào đủ. Ông anh lớn của tôi phải vừa đi học, vừa đi làm. Tôi mới đậu
xong Trung Học cũng thi vào Sư Phạm để có thêm phương tiện chi tiêu cho cả gia đình. Cuộc sống như
thế cứ tất bật cuốn hút đi một cách rất vội vàng nên chúng tôi ít có thì giờ mà nghĩ ngợi, nhớ nhung gì
nữa. Thỉnh thoảng, tình cờ câu hát của Hoàng Dương “Hà nội ơi, nhớ về thành phố xa xôi...” làm
lòng tôi chùng xuống, và chỉ khi ấy tôi lại thoáng nhớ đến Cung. Nhưng tôi cũng nghĩ không có gì phải
lo lắng cho nó nữa. Nó sống với cha mẹ chứ có bơ vơ đâu.
Đến ngày 30 tháng Tư năm 75 thì cậu tôi đã về hưu. Anh em chúng tôi đa số đã có gia đình, con cái.
Trong nỗi cực nhọc vật lộn với cuộc sống, may mắn là anh em chúng tôi học hành không tệ lắm. Thằng
Cu vừa 18 tuổi, thi vội vàng nhưng cũng đã xong Tú Tài Hai. Còn những người trên nó, người thì kỹ
sư, người thì nha sĩ, nhưng mới ra nghề, còn bận bịu với quân vụ, còn nghèo. Và cuộc đổi đời ập tới.
Miền Nam sụp đổ. Phút cuối cùng, anh em tôi, hầu như tất cả đều thoát được bằng đường biển trên con
tàu chiến do người bạn của chồng tôi làm hạm trưỏng. Lại một lần nữa đối diện với khó khăn, bỡ ngỡ
để mưu cầu sinh tồn trên đất lạ. Đến khi chúng tôi ổn định được cuộc sống, các con tương đối đã
trưởng thành, thì nhìn lên mái tóc mình đã thấy bao nhiêu là sợi bạc. Cậu Mợ tôi đều đã không còn. Cả
hai nằm cạnh nhau trong một nghĩa trang ở phía nam thành phố. Như thế dù chúng tôi có vì công việc
mà phân tán đi đâu, hàng năm chúng tôi cũng phải tụ về thành phố này, ít nhất một lần để đến thăm nơi
song thân chúng tôi đã gửi nắm xuơng tàn. Mau quá, đã mấy chục năm trôi đi như một giấc mơ, giấc
mơ kinh dị. Nhưng dù muốn dù không, nơi đây, đất nước này đã nghiễm nhiên là quê hương mới của
chúng tôi, của các con, các cháu tôi nữa. Thật chẳng ai có thể nghĩ được rằng những khó khăn trùng
điệp như thế mà chúng tôi đã may mắn vượt qua. Có bao giờ chúng tôi dám nghĩ có lúc mình, cả gia
đình mình sinh sống trên đất Mỹ, lại là công dân Mỹ nữa. Thời cuộc quả là một cơn lốc cuồng bạo,
nhưng cũng là một cơn lốc vạn năng. kỳ diệu, lạ lùng.
*
Dần dần cơn cuồng nộ đảo điên cũng từ từ nguội lại. Những người một thời không có đất sống tại quê
nhà, phải liều chết ra đi nay đã ào ạt trở về thăm lại quê xưa. Nhưng với tôi, Sài Gòn hơn hai mươi
năm sinh sống cưu mang, giờ chỉ lưu lại trong lòng những khuôn mặt bạn bè. Vui thì vui đấy nhưng
không có những xót xa nhung nhớ. Phải chăng Sài Gòn cũng như tất cả miền Nam, người dân miền Nam
sung túc quá, dễ dàng quá, ngày tháng trôi đi êm ả, nên không có những khúc mắc băn khoăn sâu đậm
in lại trong lòng. Hay tại miền Nam hai mùa mưa nắng cách biệt như trắng với đen, không có những
buổi giao mùa mênh mang nhung nhớ. Hay chính tại tôi, anh em tôi, chúng tôi chỉ quanh quẩn ở Sài
Gòn, không có bà con thân thuộc ở những vùng quê để về chơi, để nhớ lại. Và, như tôi đã đọc đâu đó
rằng bản chất một người được hình thành trong khung cảnh sống từ khi sinh ra cho đến trên mười tuổi.
Qua tuổi đó, người ấy có bị đem đi đâu, xa bao nhiêu đi nữa, người ấy vẫn là con người với những suy
tư, cảm xúc có từ những năm bé dại. Điều ấy có lẽ đã khá đúng với tôi.
Tôi sinh ra tại Hà Nội. Tôi đã lớn dần với tháng năm, những mùa xuân thơm, tưng bừng hoa cỏ. Những
trưa dài nắng hạ chói chang, nhạt dần trong tiếng ve kêu oi ả. Những sáng sương pha thật mỏng, se sắt
heo may lúc tàn hạ, vào thu. Và những ngày đông, nhìn qua cửa sổ để thấy cái rét mướt đã về phủ khắp
thành đô. Mưa nghiêng nghiêng bụi trắng. Những bước chân son rón rén bên kia đường, những bàn tay
xinh cuốn ủ trong tà áo dài len Mông Tự. Và dù chẳng ngoái cổ nhìn ra, tôi cũng biết qua những hàng
liễu rủ, Hồ Gươm mênh mang nước trắng ngập đầy. Tháp Rùa và đền Ngọc Sơn lung linh như muốn
tan đi trong khói sóng, lẫn với tiếng mõ, tiếng chuông mờ tỏ gần xa. Với tôi, giữa khung trời ấy, tôi còn
thấy đầy ắp những ngày thơ dại bên mợ tôi. Những buổi cậu tôi đi đánh bài cả ngày, mấy mẹ con ngồi
trên gác ăn ngô nướng, nghe mợ tôi kể chuyện ngày xưa. Tôi không thể không nhớ đến Cung, đứa em
con chú rất chịu khó, rất dễ thương, nhưng cũng làm tôi buồn phiền không ít vì sự lơ là lười học của
nó. Bao nhiêu kỷ niệm lại hiện về. Tôi còn như thấy rất rõ hình ảnh cái lều tranh xa tít, ở giữa cánh
đồng mênh mang, gió chiều thổi lạnh. Tiếng ếch nhái kêu râm ran như vang động cả bầu trời hôm tôi
tiễn em lần cuối. Tôi nhớ nó quá, chắc tôi phải trở về thăm lại nơi tôi đã sinh ra. Hà Nội, hai âm thanh
ấy, từ bao lâu chìm khuất, nay đang hiện lên như những nốt nhạc vui, và cũng chất chứa những bùi
ngùi, mời gọi. Tôi phải về. Tôi sẽ cố gắng thu xếp, tằn tiện để về thăm lại Hà Nội, ít nhất là một lần,
như một giải tỏa niềm ẩn ức bấy lâu chất chứa ở trong lòng. Thế nào tôi cũng về.


HÀ NỘI NGÀY TRỞ LẠI

Bữa tiệc đoàn tụ đã tan. Mọi người lần lượt ra về. Trong phòng khách sạn chỉ còn vợ chồng tôi và
Cung. Cung ngồi gần cửa sổ, ánh sáng ở ngoài chiếu vào làm khuôn mặt Cung tối lại. Bên ngoài là bầu
trời đục, thỉnh thoảng có những làn gió thổi vào, mang cái hơi hướng của Hồ Gươm thoáng đãng, gợi
nhớ những nỗi bâng khuâng. Cầm ly nước xoay xoay, nghiêng mái tóc đã gần như trắng hết một bên
đầu, Cung nói “Chị Kim biết em mà. Em vụng lắm. Vụng làm, vụng tính. Giá em cứ ở lại với hai
bác, cùng các anh, các chị vào Nam thì mọi sự đã khác. Đời em nếu không được như các anh, các
chị, cũng không khốn khổ như thế.” Giọng Cung nhỏ nhẹ, êm đềm. Tôi ngồi tựa lưng vào thành
giường. Chồng tôi nằm nhắm mắt, nhưng tôi biết là anh rất chú ý theo dõi lời nói của Cung. Cung
tiếp“...thì hôm gặp lại Thầy U em, các em của em, em mừng lắm chứ, nhất là khi chia những món
quà mà hai bác đã mua cho. Nhưng không bao lâu, em lớn bùng lên hồi nào không biết nữa. Nghe
lời chị dặn, em cố học và em cũng trở thành ông thầy giáo. Nhưng chẳng đưọc bao lâu, cuộc chiến
vét hết mọi người, em cũng phải vào lính. Nhờ có chút văn hoá em được theo ngành kỹ thuật đặc
biệt, do chuyên viên Liên Xô huấn luyện. Trong lúc mọi người đi B. tức vào Nam chiến đấu, thì đơn
vị em vẫn quanh quẩn ở ngoại ô Hà Nội. Không dám hở môi, chứ Thầy U em, cũng như em, (lúc ấy
em chưa lấy vợ), mừng là không phải đi chết ở trong Nam. Nhưng cuộc chiến mỗi lúc mỗi thêm ác
liệt. Chỗ nào cũng ngập tràn khói lửa, chết chóc, tang thương. Hà Nội cắn răng và run lên trong
khốn khổ.

Còn những người đi Nam, chỉ có đi mà không có ai về. Kinh khiếp quá. Ở ngoài này như
thế, trong Nam chắc cũng bao tang thương. Em nghĩ đến các anh, sao tránh được con đường lính
tráng. Nhưng cuộc chiến đã xoay chiều. Mùa xuân năm bảy lăm, quân miền Bắc ào ạt tấn công
miền Nam. Và miền Nam sụp đổ nhanh quá. Đầu tháng Tư, đơn vị em được lệnh cấp tốc vào B. Xe
đi suốt ngày đêm trên lãnh thổ miền Nam như chỗ không người. Tụi em dừng quân cách Sài Gòn
chưa quá 20 cây số. Đêm đêm nhìn ánh đèn từ Sài Gòn bừng lên sáng rực, em nhớ đến hai bác và
các anh các chị vô ngần.


Rồi những cánh quân khác kéo về, sửa soạn tiến vào Sài Gòn. Hôm ấy đâu như 27 hay 28 tháng Tư, đơn vị của em được lệnh khai hoả. Bắn một loạt rồi rút chạy ngay, sợ máy bay của miền Nam lên oanh tạc...” Cung không nói rõ đơn vị của Cung là đơn vị gì. Nhưng nghe đến đây chúng tôi bỗng nhớ đến loạt hoả tiễn của Cộng quân phóng vào Sài Gòn. Một quả rơi trong khu trại Cửu Long, chỉ cách nhà chúng tôi có một mặt đường. Thật là kinh khiếp. Chúng tôi muốn tiếp lời của Cung. Vợ chồng tôi nhìn nhau, rồi tôi bảo chồng tôi “Thì anh nói đi...”Ông xã tôi ngồi dậy, bật thêm một ngọn đèn, căn phòng trở nên sáng hơn, như vừa qua một cơn mê kinh dị. Anh nói“Anh không thể nào quên đuợc, đó là đêm 28 tháng Tư, không phải phiên trực, nên anh ngủ ở nhà. Nhà anh trong cư xá Hải Quân, ở ven sông Sài Gòn.

Lúc ấy, theo dõi tình hình chiến sự, anh biết là Sài Gòn đang bị bao vây. Giờ Sài Gòn tan nát sắp đến. Cộng quân đã ở bên kia cầu Sài Gòn. Vào lúc giữa đêm, những loạt hỏa tiễn từ ngoại ô phóng tới. Giữa tiếng còi báo động rú lên, anh nghe tiếng rít như xé nát bầu trời, và tiếng nổ kinh hoàng bùng vỡ. Tiếng đất đá rơi ào ào trên
mái tôn. Mấy đứa con anh chui cả xuống gậm giường... Không hiểu sao anh lại rất bình tĩnh như
sẵn sàng đón nhận số phận sẽ đến với mình, với gia đình mình...”
Nghe đến đó mặt Cung bỗng xanh nhợt.
Cung kéo hai mảnh áo ấm, ngồi thu mình lại.
Thấy vậy ông xã tôi ngưng nói và nhìn chăm chú vào mặt Cung. Mặt Cung càng xanh hơn và toàn
người Cung run lên như vừa lên cơn sốt.
Một lúc sau, như định thần trở lại, Cung hỏi như một phản xạ tự nhiên “Thế lúc ấy hai bác ở đâu..”
Vợ chồng tôi cùng cười và tôi nói ngay “Cậu mợ chị và cả nhà ở ngoài phố. Sài Gòn thiệt hại nhiều,
nhưng nhà mình thì không sao...”
Câu chuyện giữa chúng tôi lắng lại.
Chúng tôi cũng không gặng hỏi xem đơn vị của Cung là đơn vị gì, pháo binh hay tên lửa.
Ngoài trời đã tối. Cung nhớ lại những ngày xưa cũ và tiếp tục nói “Như anh chị thấy mấy đứa em của
em nó không giống em. Tụi nó khổ hơn em nhiều. Tụi nó không có những kỷ niệm êm đềm, đầy đủ
như chị em mình đã có. Em còn nhớ những buổi sáng u già bưng một khay xôi lúa từ ngoài cửa
vào. Bát nào cũng đều nhau như đong. Mỗi người một bát, trong đó có một bát của em. Ăn bát xôi
như thế, người ấm hẳn lên, em nhảy chân sáo đến trường, xếp hàng nghiêm chỉnh rồi hát quốc ca.
Thầy hiệu trưởng đứng trên bục, thẳng như tượng, mắt hướng lên lá quốc kỳ. Quốc ca dứt, cả
truờng im ắng không một tiếng động. Học trò xếp hàng hai, nghiêm trang vào lớp, tất cả đứng
nghiêm đón thầy giáo vào. Thầy giáo nhìn khắp cả lớp rồi vẫy tay, cả lớp mới ngồi xuống. Cũng
như khi có khách đến thăm lớp, trưởng lớp hô “đứng… dậy.” Vị khách mỉm cười nhìn khắp lớp và
nói “Cảm ơn các em.” Khi ấy thầy giáo vẫy tay, tất cả ngồi xuống, im lặng làm bài, không một
tiếng động khi thầy tiếp khách. Không như bây giờ đâu, như chị thấy, học trò trèo lên bàn, đánh
nhau... Bây giờ em là thầy giáo, em càng thấy nhớ không khí ngày xưa ấy. Không có nữa đâu, chị
ơi. Em nghĩ chị chẳng nên đến thăm trường cũ làm gì. Buồn chết... Còn thầy em ư? Từ hậu phương
về Hà Nội, ông càng trở nên buồn bã. Có những hôm một mình trên cái sân gác sau nhà, ông đem
cây đàn mandoline cũ ra gảy. Tiếng đàn lúng búng, quấn quýt, hòa trong tiếng hát khàn đục của
ông, một bài hát thật xưa cũ:
Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm.
Chạy dài trên khóm cây đàn chim ríu rít ca...
Bao người ra ngồi hay đứng êm đềm
Chuyện trò chung với nhau đời sống thần tiên…
Và càng về sau, dù đã sống trong lòng Hà Nội, thầy em càng ngày càng thêm ít nói. Ông thường có
những lúc ngồi một mình buồn bã. Cái đồng hồ đeo tay của bác trai cho thầy em, đã hư rồi, không
sửa được, ông không đeo nữa, ông bỏ trong túi áo trong, lâu lâu ông lại đem ra nhìn, lắc và áp vào
tai như hy vọng nó sẽ chạy lại được. Ông mất nhẹ nhàng sau đó không lâu. Trong những thứ đem
theo, chúng em có bỏ vào áo quan cho thầy em cái đồng hồ ấy.”
*
Chiều cuối cùng, trước ngày rời Hà Nội về lại Hoa Kỳ, chúng tôi cùng Cung ngồi uống nước bên bờ
Hồ Gươm, dưới bóng mát của một tàn cây. Xung quanh tôi người đi lại, nói cười đông đúc, tôi thấy
sao mà khác biệt quá, nhất là giọng nói. Tôi khép mắt mà thấy như mình đang lạc giữa một nơi nào
không phải quê hương mình. Nơi đây không còn là Hà Nội, nơi tôi đã được sinh ra, lớn lên với bao
nhiêu năm dài thương nhớ. Tất cả đã xa, đã nhạt nhoà, đã mất.
Giữa lúc ấy, một làn gió mát từ mặt hồ phả lên.
Tôi mở mắt, nhìn ra, đền Ngọc Sơn, trấn Ba Đình trước mặt mờ nhoà trong bóng chiều sắp tắt. Cánh
tay tôi nổi gai. Chính lúc ấy, trong làn gió ấy, tôi vừa như tìm lại được Hà Nội của những ngày xa cũ.
Và chỉ lúc ấy, trong khoảnh khắc ấy thôi, tôi mới thấy tôi còn có liên hệ đến nơi này.



***
PHỤ LỤC
Tủ Sách Kẻ Nủa (cùng một tác giả)
Bờ Sông Lá Mục - Bút ký chiến tranh, Sài Gòn 1969, Hoa Kỳ 1997
Nỗi Nhớ - Bút Ký Di Tản. Hoa Kỳ 1995
Quê Nhà, 40 Năm Trở Lại - Bút Ký, Hoa kỳ 1995,1998
Cánh Vạc Lưng Trời - Tập Truyện, Hoa Kỳ, 1997
Vớt Người Biển Đông - Sẽ in
Liên lạc: planlactiep@gmail.com
Tiểu sử Phan Lạc Tiếp
Phan Lạc Tiếp xuất thân trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, trở thành một Hạm Trưởng trong Hạm
Đội và cuối cùng cũng phục vụ trong ngành Tâm Lý Chiến tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
Đêm 29 tháng 4 năm 1975, Phan Lạc Tiếp cộng tác với Hạm Trưởng Dương Vận Hạm HQ502 điều
động con tàu này rời Sài Gòn, đem theo hơn 5000 người gồm quân nhân và đồng bào ra biển giữa cơn
hấp hối của Sài Gòn.
Năm 1980, Phan Lạc Tiếp cùng giáo sư Nguyễn Hữu Xương thành lập Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người
Vượt Biển làm công việc kêu cứu và tổ chức các chiến dịch Vớt Người Biển Đông đã cứu được trên
3000 thuyền nhân, đưa đi định cư tại nhiều nơi.
Cùng với các công việc đó, thời gian ở hải ngoại, Phan Lạc Tiếp cũng không rời sinh hoạt báo chí,
văn nghệ và đã hoàn thành nhiều tác phẩm. Tính từ 1969, Phan Lạc Tiếp đã xuất bản các tác phẩm sau:
- Bờ Sông Lá Mục, bút ký chiến tranh, Sài Gòn 1969.
- Nỗi Nhớ, bút ký di tản. Hoa Kỳ 1995.
- Quê Nhà, 40 Năm Trở Lại, bút ký, Hoa Kỳ 1995.
- Cánh Vạc Lưng Trời, tập truyện, Hoa Kỳ 1997.
Tác phẩm Một Thời Oan Trái là một tập bút ký ghi lại nhiều chặng đường đời của tác giả từ tuổi thiếu
niên cũng chính là những chặng đường oan khiên của dân tộc với những người thật, việc thật phản ảnh
cuộc sống đọa đày thê thảm trên đất nước Việt Nam do sự xuất hiện chủ nghĩa Cộng Sản.
Hiện Phan Lạc Tiếp đang hoàn tất tác phẩm Vớt Người Biển Đông ghi lại một thời khoảng bi thương
của đất nước khi cuộc sống của mọi người dân chỉ còn hy vọng tìm thấy sau sự chấp nhận đối đầu với
hàng trăm ngàn hiểm hoạ tai ương chết chóc.
Tủ Sách Tiếng Quê Hương
Tủ Sách Tiếng Quê Hương do Uyên Thao (Tổng Thư Ký báo Sóng Thần - Sài Gòn trước 1975) cùng
các thân hữu sáng lập với mục đích xuất bản các tác phẩm văn chương như những nhân chứng của thực
tế đời sống đất nước.
Mọi liên lạc, xin thư về “Tủ sách Tiếng Quê Hương, P.O Box 4653, Falls Church, VA 22044, USA”.
Email hoặc điện thoại cho: uyenthaodc@gmail.com (703) 573–1207 hay tphongvu@yahoo.com (949)
485–6078 . Chi phiếu (check) hoặc lệnh phiếu (money order) xin ghi trả cho “VLAC/Tiếng Quê
Hương”.
Mục Lục Tủ Sách Tiếng Quê Hương
01. THÂN PHẬN MA TRƠI ( Truyện ngắn NGUYỄN THỤY LONG)
02. GIỮA ĐÊM TRƯỜNG ( Hồi ký NGUYỄN THỤY LONG)
03. VŨ TRỤ KHÔNG CÙNG (Tuyển tập truyện ngắn BÙI NGỌC TẤN)
04. VIẾT VỀ BÈ BẠN (Hồi ký BÙI NGỌC TẤN)
05. SAU BỨC MÀN ĐỎ (Biên khảo HOÀNG DUNG)
06. CÕI TRỜI CÕI TA (Biên khảo HOÀNG DUNG)
07. ĐỖ LỆNH DŨNG (Hồi ký LÊ THIỆP)
08. CHÂN ƯỚT CHÂN RÁO (Ký sự LÊ THIỆP)
09. LỮNG THỮNG GIỮA ĐỜI (Ký sự LÊ THIỆP)
10. CHÂN TRỜI TÍM (Tiểu thuyết VĂN QUANG)
11. NGÃ TƯ HOÀNG HÔN (Phóng sự VĂN QUANG)
12. LÊN ĐỜI (Phóng sự VĂN QUANG – 2 tập)
13. MỘT NGƯỜI MỘT ĐỜI (Ký sự LÊ MỸ HÂN)
14. QUÊ HƯƠNG NGÀY TRỞ LẠI (Ký sự LÊ MỸ HÂN)
15. HỒ CHÍ MINH – NHẬN ĐỊNH TỔNG HỢP (Biên khảo MINH VÕ)
16. TÂM SỰ NƯỚC NON (Tiểu luận MINH VÕ)
17. ĐÊM GIỮA BAN NGÀY ( Hồi ký VŨ THƯ HIÊN)
18. TRẮNG TRÊN ĐEN (Nguyên tác Ruben David Gonzalez-Gallego, Bản dịch VŨ THƯ HIÊN)
19. SỐNG và CHẾT Ở SÀI GÒN (Ký sự HOÀNG HẢI THỦY)
20. VIẾT Ở RỪNG PHONG (Ký sự HOÀNG HẢI THỦY)
21. VN TRONG VIỄN TƯỢNG DÂN CHỦ TOÀN CẦU (Biên khảo NGUYỄN CAO QUYỀN)
22. VN TRONG CHIẾN TRANH TƯ HỮU (Biên khảo NGUYỄN CAO QUYỀN)
23. ĐI TÌM NHÂN VẬT (Tập truyện ngắn TẠ DUY ANH)
24. SINH RA ĐỂ CHẾT (Tập truyện ngắn TẠ DUY ANH)
25. THƠ VƯƠNG ĐỨC LỆ (Tuyển tập thơ VƯƠNG ĐỨC LỆ )
26. THƠ GIỮA ĐỜI THƯỜNG (Tuyển tập thơ VƯƠNG ĐỨC LỆ )
27. THƠ TÌNH VƯƠNG ĐỨC LỆ (Tuyển tập thơ VƯƠNG ĐỨC LỆ )
28. TRONG ÁNH LỬA THÙ (Tiểu thuyết dã sử UYÊN THAO)
29. GƯƠM THIÊNG TRẤN QUỐC (Tiểu thuyết dã sử UYÊN THAO)
30. GỬI LẠI TRƯỚC KHI VỀ CÕI (Tâm bút VŨ CAO QUẬN)
31. VIỆT NAM, THẾ KỶ 20 (Biên niên sử DƯƠNG KIỀN)
32. GIÁO HOÀNG GIOAN PHAO LÔ II-VĨ NHÂN THỜI ĐẠI (Biên khảo TRẦN PHONG VŨ)
33. MỘT THỜI OAN TRÁI (Hồi ký PHAN LẠC TIẾP)
34. BUỒN VUI ĐỜI THUYỀN NHÂN (Hồi ký LÂM HOÀNG MẠNH)
35. VŨNG LẦY CỦA BẠCH ỐC (Biên khảo NGUYỄN KỲ PHONG)
36. TIẾNG CHIM BÁO BÃO (Hồi ký TIÊU DAO BẢO CỰ)
37. NHÂN VĂN GIAI PHẨM và VẤN ĐỀ NGUYỄN ÁI QUỐC (Biên khảo THỤY KHUÊ)
38. MAO TRẠCH ĐÔNG NGÀN NĂM CÔNG TỘI (Nguyên tác TÂN TỬ LĂNG )
39. TỬ TỘI (Tuyển tập Văn - Thơ - Hoạ - Nhạc CHÓE – NGUYỄN HẢI CHÍ)
40. HỒI KÝ CỦA MỘT THẰNG HÈN (Hồi ký TÔ HẢI)
41. VN-QUÊ MẸ OAN KHIÊN (Nguyên tác PIERRE DARCOURT, Bản dịch DƯƠNG HIẾU
NGHĨA)
42. NHÂN QUYỀN VÀ DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM (Chính luận NGUYỄN THANH GIANG)
43. TẦN TRUNG TÁC (Tuyển tập thơ MA XUÂN ĐẠO)
44. HOA PHƯỢNG (Tuyển tập thơ NGUYỄN THỊ HOÀI THANH)
45. THƠ MAI TRUNG TĨNH (Tuyển tập thơ MAI TRUNG TĨNH)
46. MỘT HÀNH TRÌNH THƠ (Tuyển tập thơ văn CUNG TRẦM TƯỞNG)
47. THƯ GỬI VÀO KHÔNG (Tâm bút MAI NGUYÊN)
48. ĐỜI TÔI (Hồi ký NGUYỄN LIỆU)
49. NÚI CAO VỰC THẲM (Phê bình Văn Học HỒ TRƯỜNG AN)
50. NHỮNG MẢNH TRỜI KHÁC BIỆT (Tuyển tập văn 17 tác giả Không Lực VNCH)
51. HAI MƯƠI NĂM MIỀN NAM 1955-1975 (Tiểu luận NGUYỄN VĂN LỤC)
52. KẺ BỊ KHAI TRỪ (Tự truyện NGUYỄN MẠNH TƯỜNG)
53. TUYỂN TẬP TRẦN PHONG VŨ (Tuyển tập thơ văn TRẦN PHONG VŨ)
54. DẠ TIỆC QUỶ (Truyện ngắn VÕ THỊ HẢO)
55. HÃY NGẨNG MẶT (Tuyển tập thơ văn NGUYỄN ĐẮC KIÊN)
56. PHIÊN BẢN TÌNH YÊU (Truyện dài VŨ ĐIỆN BIỀN)
57. THÚ NGƯỜI (Truyện ngắn, Nguyên tác HERTA MULLER, Bản dịch DƯƠNG HOÀNG DUNG)
58. QUÁCH THOẠI GIỮA LÒNG CUỘC ĐỜI (Tuyển tập thơ Quách Thoại)
59. NGUYỄN CHÍ THIỆN-TRÁI TIM HỒNG (Hồi ức Trần Phong Vũ







No comments: