VÕ PHIẾN II
MỤC LỤC
10. Bánh tráng Bình Định
11. Sa kê
12. Thẫn thờ
13. Văn Phong-Nhân Cách
14. MỘT NGƯỜI
15. CHÀ LÁNG
16. KẺ VIẾT, NGƯỜI ĐỌC
17. CÁI SUY TƯỞNG
18. TIẾNG CỰA MÌNH CỦA TRANG GIẤY
19. CACH MÂY HƠI THỞ
20. NGƯỜI ƠI NGƯỜI Ở DÀI DÀI
21. CÁI SỐNG
23. HÌNH BÓNG CŨ
24. VIẾT LÁCH
10. Bánh tráng Bình Định - Võ Phiến
Bánh tráng (hay bánh đa) không riêng của Bình định, nhưng ở Bình định có lối ăn bánh tráng riêng, dường như ít nhiều liên quan đén một khía cạnh sinh hoạt trong quân đội dưới thời vuaQuang Trung.
Trưóc hết, hãy lướt qua những cách ăn bánh tráng thường thấy: bánh tráng nướng, bẻ từng mảnh, nhai cúc cắc cho vui miệng truớc khi bắt đầu vào tiệc. Miền Trung miền Bắc, trong trường hợp này bánh tráng có vai trò đại khái như bánh phồng tôm trong Nam.
Trong dăm ba trường hợp khác, cũng thứ bánh tráng nướng, cũng bẻ từng mảnh cúc cắc, nhưng không dùng để mở đầu bữa tiệc, mà lại suốt bữa ăn, từ đầu đến cuối. Chẳng hạn trong bữa chả cá, chẳng hạn khi dùng bánh tráng xúc xác đậu xào, xúc mớ gan cá nghéo xào ăn cho khỏi bệnh quáng gà v.v... Cũng lại bánh tráng nướng nữa, đem giã vụn ra, hoặc dùng làm "thính", hoặc trộn với thịt đầu heo , hoặc rắc lên dĩa tiết canh v.v...
Nhưng dùng được nhiều việc hơn, có lẽ là thứ bánh tráng khô nhúng nước. Có thể cắt từng mảnh nhỏ, cuốn một miếng thịt, một con tôm, chiên dầu, làm món chả ram. Có thể cuốn với cua, tôm, thịt, nấm mèo, bún tàu chiên dầu, làm món chả giò. Có thể cuốn nem nướng, cuốn thịt bò nhúng dấm, cuốn... gần như không thể nói hết về cái nội dung nằm trong những cuốn bánh tráng đó. Tùy mùa tùy tiết, tùy sản phẩm địa phương, tùy tầng lớp giàu nghèo, cuốn bánh tráng thay đổi nội dung: có thể là nem là chả, cũng có thể chỉ là mớ giá sống với miếng cá nục trụng, chỉ là mớ xác đậu xào, là ít cọng rau với miếng dừa già v.v... Bánh tráng để cuốn có thể dùng khi nó còn ướt. Bánh ướt bên dưới, bánh khô đặt lên trên; cặp đôi với nhau, làm món bánh đập... Bánh ướt xắt ra, làm bánh phở, xắt rồi phơi khô, dùng trong một vài món xào v.v...
Chúng ta chỉ lướt qua để có một ý niệm đại khái về cách dùng bánh tráng làm món ăn, chứ không muốn tìm hiểu cho hết ngọn ngành. Chắc chắn trong một cuốn tự vị gia chánh dân tộc, cái phần sẽ được dành cho bánh tráng cũng dài lắm, quan trọng lắm. Tôi ao ước được hỏi ở một công trình tổng hợp kiến thức về bánh tráng như thế. Trên mớ kiến thức ấy, những ông Thạch Lam, Vũ Bằng sẽ tha hồ suy nghĩ về bánh tráng đứng trên quan điểm nghệ thuật...
Vậy tìm hiểu cho đủ, tìm hiểu cái hay của những miếng ngon miền Bắc món lạ miền Nam v.v... thì hãy chờ ở những công trình nghiên cứu nghệ thuật ấy. Còn như đi tìm một lối ăn bánh tráng cho thật dở thì chỉ cần đến Bình Định. Thật vậy, cái đặc biệt ở đây chính là tại chỗ dở nhất ấy. Tất nhiên, nói chung, ở các nơi khác ăn ra sao, thì ở Bình Định cũng như vậy: cũng bánh tráng nướng, bánh khô nhúng nước, cũng bánh ướt, cũng xào, cũng cuốn .v.v... Cái món cuốn được ưa thích nhất tại địa phương là bánh tráng cuốn "thịt lụi" (tức thịt bò "lụi" vào que nướng, cuốn với chả ram, với rau thơm, chấm với một thứ nước tương đặc chế). Ở ngoài chợ, ở các quán ăn, ở những đám tiệc, hội hè, xung quanh các đám hát, các chiếu bạc v.v... đều có hàng bánh tráng thịt lụi.
Nhưng cái đặc biệt ở Bình Định là lối ăn bánh tráng cuốn mà không cuốn thứ gì cả, không có nội dung! Tức bánh tráng thuần túy. Ăn như thế người ta ăn rất nhiều bánh tráng, lấy bánh tráng thay cơm. Nông dân mỗi sáng trước khi ra đồng, nếu không kịp thổi cơm sớm, có thể dùng mấy cuốn bánh tráng thay bữa cơm sáng. Học trò ở trọ xa nhà, thường mang theo một chồng bánh tráng hàng trăm cái, mỗi sáng nhúng nước vài chiếc, cuốn ăn điểm tâm. Những gia đình có một nghề thủ công riêng, đêm đêm thức khuya dệt vải, đập xơ dừa, chắp trân dệt chiếu v.v... thường xúm xít tổ chức một bữa ăn khuya; lại vẫn bánh tráng nhúng nước rồi cuốn. Cuốn như thế, nếu nhà có sẵn rau, sẵn thịt cá v.v... mà cho vào càng tốt; nếu không sẵn (như trường hợp những cậu học trò ở trọ) thì cũng chẳng sao.
Bánh tráng mà dùng "thuần túy" như vậy có vẻ phi nghệ thuật, khó mê. Vậy mà dân Bình Định đã đâm nghiện món ăn ấy. Ði làm ăn xa, lâu ngày không có dịp ăn bánh tráng, họ nhớ quay nhớ quắt. Tìm mua cho được thứ bánh tráng thích hợp để ăn như thế, lắm khi không phải dễ: đó không phải thứ bánh tráng quá mỏng quá mặn, không nên có mè, có tôm, có nước dừa v.v... Ở Sài gòn, những năm trước đây hiếm có nơi nào bán thứ bánh tráng để ăn "thuần túy", chỉ một số người tìm ra chỗ mua khá hiểm hóc ở đâu vùng Ngã Ba Ông Tạ, Ngã Tư Bảy Hiền v.v... Họ mua trữ sẵn trong nhà để dùng. Thế rồi thỉnh thoảng một người bạn đồng hương đến chơi, bắt gặp mớ bánh tráng ấy, lấy làm ngạc nhiên mừng rỡ. Rồi chủ khách tíu ta tíu tít bày tiệc; bánh tráng "thuần túy" chấm với nước cá hay nước mắm chanh ớt. Chỉ có vậy thôi mà người bạn đồng hương - nhất là bạn gái - dù đã giàu sang, đã quen ăn Tây ăn Tàu v.v... vẫn lấy làm ngon. Y như người Huế đối với cơm hến, người Quảng đối với gion, người Sóc Trăng, Trà Vinh đối với bún nước lèo v.v...
Quen với nếp cũ, có những gia đình người Bình Định, ngày nay lánh nạn về đô thị, không còn tiểu công nghệ nữa, vậy mà đêm đêm đàn bà con gái trong nhà rủ nhau làm một chầu bánh tráng cuốn thường lệ trước khi đi ngủ!
Những chỗ tương đồng không nói làm gì, riêng điểm dị biệt giữa lối ăn bánh tráng ở Bình Định và ở các nơi khác có thể phát sinh một thắc mắc: Tại sao nơi dùng nhiều bánh tráng nhất, nơi sở trường về bánh tráng, lại bằng lòng với một món ăn xoàng như vậy, dở như vậy? Thật ra, cái khác biệt căn bản là: ở các nơi, bánh tráng dùng để chế biến ra thức ăn: ở Bình Định, nó được dùng thay cơm gạo. Bữa bánh tráng tại đây có những trường hợp thay thế cho bữa cơm bữa cháo.
Và chính vì thế mà có thể ngờ rằng lối ăn ấy có dính líu đến vua Quang Trung. Nó bắt nguồn từ một sáng kiến trong quân đội Tây Sơn chăng? Nó là thứ lương khô, là món đồ hộp của thế kỷ trước, trong một quân đội nổi tiếng di hành cấp tốc chăng? Binh sĩ hàng vạn mà nấu cơm nấu đồ ăn cho xong một bữa thì dình dàng khá lâu. Ðàng này, gặp lúc cần kíp, chỉ cần nhúng bánh tráng vào nước, cuốn lại, là rồi. Trong những trường hợp ấy, quân địch nấu nướng, quân Tây Sơn không phải nấu; quân địch ngồi ăn, quân Tây sơn ăn đi ăn chạy. Bánh tráng đã có phần đóng góp của nó vào chiến thuật hành quân của vua Quang Trung chăng? Ðã cống hiến cho người một lợi thế qúy báu để tranh thủ thời gian với địch chăng? Như vậy, trong những cuộc hành quân thần tốc từ Nghệ An ra, đánh rốc Ngọc Hồi, Hà Hồi, đánh thẳng tới Thăng Long, mà quân Thanh không kịp trở tay, có phải bánh tráng đã góp một vai trò cứu nước chăng? Trong lịch sử dân tộc, trong lịch sử chống Bắc xâm nên dành một chương cho bánh tráng chăng?
Vua Quang Trung sở trường về lối đánh chớp nhoáng. Sử sách dường như có nhắc đâu đó cái sáng kiến dùng một chiếc võng cho ba người lính: một kẻ nằm hai người khiêng chạy lúp xúp, luân phiên thay đổi nhau, ngày đêm có thể di chuyển không cần ngừng nghỉ. Sử không nhắc đến bánh tráng. Bởi vậy, những sự suy đoán của kẻ hậu sinh này thật phiêu lưu.
Dù sao, một món lương khô thịnh hành ở chỗ quê hương của vua Quang Trung: Đó cũng là đề tài đáng suy nghĩ, khả dĩ đưa đến một vài giải quyết. "Dù sao", không nên suy nghĩ về cái giả thuyết vua Quang Trung phát minh ra bánh tráng. Vua Quang Trung là một thiên tài lớn, nhưng chúng ta đừng tham lam dồn quá nhiều thứ lỉnh kỉnh vào “cái thiên tài” ấy. Hãy tưởng tượng: Nếu ngày nay, trong một quân đội nào đó, chúng ta bắt gặp một món đồ hộp vừa gọn nhẹ vừa bổ dưỡng, nghĩa là tiện dụng hơn những món thông thường ở quân đội khác, bất quá ta chú ý đến nhà thầu cung cấp, đến kỹ thuật của một xưởng chế tạo thực phẩm, hay đến ông giám đốc quân nhu, thế thôi. Lẽ nào bốc thơm đến cả vị tổng tư lệnh chỉ vì chút chuyện ấy? Ngày xưa, vua Quang Trung cũng không hơi đâu mà lo...
Nói thế có lý, nhưng e không đúng ý các nhà quân sự của chúng ta xưa kia... Ơ! Xưa kia, các tay tổ như Tôn Vũ, như Khương Thượng v.v... đâu có ý kiến gì về những chuyện nhỏ nhặt ấy? Phải. Trong những cuốn binh pháp của Tôn Vũ, của Ngô Khởi, trong Lục Thao Tam Lược của Khương Thượng, của Hoàng Thạch Công v.v... toàn luận về thiên thời địa lợi, về phép điều binh khiển tướng, về những chuyện trên trời dưới đất, cao xa thâm thúy, chứ không thấy có chuyện cái ăn cái uống của lính tráng. Nhưng các vị ấy không phải là "chúng ta" là người Việt nam.
Trái lại, trong cuốn “Binh thư yếu lược” của đức Trần Hưng Ðạo có hẳn một chương về quân nhu. Vị tướng này xác định: "Lương thực là nhu cầu tối thượng của nhân dân, là sinh mạng của binh sĩ...", và người đã nghiên cứu chỉ dẫn tỉ mỉ những cách thức nấu ăn cho được nhanh chóng, những món lương khô gọn nhẹ v.v... Người dạy cho kỵ binh phép nấu cơm trên lưng ngựa, tay cầm ống tre đựng gạo nước, vừa cưỡi ngựa vừa đun cơm bằng đuốc; như thế lính có "cơm ăn ngon lành, tinh thần thêm hăng hái, gặp địch đánh ngay, không ai địch nổi." Người lại có những toa thuốc bổ tán nhỏ, viên thành hoàn, mỗi lần uống cả viên, cả ngày không đói. Người có mách những món lương khô như bánh nai (?), như cơm sô (?) v.v... Người bày ra cách lấy đậu nấu chín tán nhuyễn, trộn với muối, vắt thành hột táo, phơi khô, mỗi khi ăn lấy ra hòa với nước thay tương, có thể dùng trong năm mươi ngày v.v...
Sự chu tất ấy không thấy ở các nhà quân sự Trung Hoa. Tất nhiên không thể đi đến một nhận định khái quát rằng đó là một đặc điểm dân tộc, nhưng tại sao chúng ta không thể nghĩ vua Quang Trung cũng có những mối quan tâm lo lắng như đức Trần Hưng Ðạo? Dù vậy cũng không chắc vua Quang Trung phát minh ra bánh tráng.
Ðúng thế. Và chúng ta không mong tìm ra được kẻ "phát minh" ấy. Về phần vua Quang Trung, có thể người công chú ý, phát huy món bánh tráng ăn thay cơm mà thôi. Như thế đủ rồi: chúng ta chỉ muốn nói đến "một khí cạnh sinh hoạt trong quân đội dưới thời vua Quang Trung", đến một "chút liên hệ với vị anh hùng"... Quả thực không có một bằng chứng rõ rệt đưa đến một xác quyết.
Võ Phiến
Ðặc san TÂY SƠN - QUANG TRUNG Xuân Giáp Tuất 1994
11. Sa kê – Võ Phiến
Đất Nam Việt phì nhiêu, hoa quả ở Nam Việt phong phú tràn trề. Nhưng ở đâu kia, chứ không phải ở Vĩnh Bình.
Thật vậy, trái cây trong Nam, những măng cụt, sầu riêng, mận, ổi, khóm, chuối, mãng cầu, bưởi, cam, dưa v.v…, bao nhiêu thứ trái đổ về Sài Gòn là từ những nơi như Biên Hòa, Bình Dương, Định Tường, Cần Thơ, Long Khánh v.v…; chứ Vĩnh Bình gần như không có một đóng góp nào đáng kể.
Vĩnh Bình không góp mặt ở các vựa trái cây ngoài chợ, không sản xuất nhiều về lượng. Nhưng tại đây có một số trái cây hiếm lạ: trái dừa sáp (toàn ruột, không có nước), trái giếc, trái quách, trái sa kê…
Những thứ trái ấy, người Việt Nam ở Trung ở Bắc có kẻ chưa từng nghe đến tên, có kẻ nghe tên mà chưa từng trông thấy bày bán bao giờ ở các chợ Sài Gòn. Thậm chí xuống tận Vĩnh Bình, tại chợ Phú Vinh, nơi tỉnh lỵ, không phải lúc nào cũng tìm thấy chúng.
Nhưng nếu chỉ có vậy cũng không có gì đáng nói. Chỗ đáng lấy làm lạ là sa kê không gặp ở chợ búa ngày nay lại gặp thấy trong tờ công văn truyền ra từ hội đồng các đình thần đời Gia Long.
* * *
Ngày mồng 9 tháng Ba năm Gia Long tứ niên, thừa chỉ nhà vua, Cộng đồng truyền cho trấn quan Gia Định đặng rõ: Nay nên sức bứng cây con “sa kê”, phòng hộ cẩn thận, để đưa về kinh.
Không biết trấn quan Gia Định hồi đó đã bứng cây con ở đâu; không chắc là phải cất công xuống đến Trà Vinh, vì có thể bấy giờ sa kê lan sống rộng rãi hơn bây giờ. Bây giờ thì sa kê hình như chỉ còn được trồng ở những quận Cầu Kè, Trà Cú… Y như một bậc danh vọng đã từng được triều đình vời thỉnh, lừng lẫy một thời, về già rút lui tận thâm sơn cùng cốc để mai danh ẩn tích.
Cũng không biết những cây sa kê hồi đó rồi vua quan triều Gia Long đã cho trồng ở những nơi nào tại kinh thành Huế mà ngày nay không còn thấy bóng dáng đâu cả([1]).
Sự mất tích của nó ở ngoài Huế, sự rút lui của nó ở trong Nam có thể do nhiều nguyên do. Hoặc nó không hợp với chất đất ở nơi nào khác hơn là Cầu Kè, Trà Cú; hoặc nó không hợp với khẩu vị của đa phần người Việt Nam.
Nếu quả nó khó tính, các nhà chuyên môn về nông học sẽ tìm hiểu nó. Về phần chúng ta, hãy tự xét mình và nêu ra một thắc mắc: Phải chăng chính chúng ta đã trở nên khó tính? Một thứ trái cây được vua chúa quý chuộng hồi đầu thế kỷ trước, đến cuối thế kỷ này chúng ta bá tánh thảy đều chê bai, bỏ rơi: Nếu được chúng ta hâm mộ niềm nở, chắc chắn cây ấy đã được chăm sóc, đã phát triển rộng rãi chứ?
* * *
Sa kê trộn với dừa, ăn từa tựa như khoai lang; sa kê cũng đem nấu canh mà ăn. Nó gần như mít chưa chín vậy.
Khẩu vị con người ta thì nói không cùng: có món người này khoái thích đến đâm nghiện nặng mà người kia không thể nuốt trôi, có món người này khen thơm mà người kia chê nặng mùi v.v… Mùi vị sa kê, đại khái như đã mô tả, có thể cho là ngon, cũng có thể cho là dở. Bởi vậy không nên có sự tranh biện phải trái với vua Gia Long. Bất quá, chỉ nên nhận xét rằng nhà vua không có cái may mắn được chọn lựa trước một đối tượng phong phú như chúng ta ngày nay. Đầu thế kỷ trước, miền Nam chưa có măng cụt, sầu riêng v.v…
Trong vòng hơn trăm rưởi năm, ở đây có bao nhiêu thứ cây mới xuất hiện, lan tràn, và có những thứ cây suy tàn, gần mất dạng. Bộ mặt các khu vườn xung quanh ngôi nhà sinh sống của người dân miền Nam đã trải qua những thay đổi biến hóa thật sâu xa. Ngoài Bắc, ngoài Trung, trong những mảnh vườn do tổ phụ di lưu từ đời này sang đời khác của mỗi dòng họ, hiếm khi có những dáng cây hoàn toàn mới lạ.
* * *
Vả lại trong sự chọn lựa của vua Gia Long không phải chỉ có vấn đề khẩu vị. Chắc chắn trong đó còn có những chuyện kỷ niệm tình cảm, chuyện thói quen sinh hoạt, lưu luyến địa phương v.v…
Nhà vua đã đặt cho trái bòn bon cái tên nam trân, đã cho khắc hình nó vào một trong cửu đỉnh là vì một trường hợp như thế.
Về việc đưa các giống cây trong nước về trồng tại kinh thành, cứ theo những châu bản triều Gia Long còn lưu lại thì hình như chỉ có ba thứ cây được chọn: Một tháng sau khi đòi cây sa kê, ngày mồng 10 tháng Tư năm Gia Long tứ niên, Cộng đồng lại truyền cho công đường quan dinh Bình Định mua một nghìn trái dừa mộng đưa về kinh để trồng, rồi một tháng rưỡi sau đó, ngày 28 tháng Năm trấn quan Hải Dương mua hai trăm cây cam để đưa về kinh.
Còn trái mà để dâng cúng, để ăn, thì người ta thấy trong dịp lễ Hạ hưởng và Đoan dương cũng vào năm Gia Long tứ niên, triều đình mua 4.200 trái vải ở Bắc thành, 6.600 trái bòn bon ở Quảng Nam, 920 trái xoài tượng ở Bình Định, một lần 920 trái rồi một lần khác 5.600 trái xoài tượng nữa ở Phú Yên, 100 trái dưa hấu ở Quảng Bình. Tháng Năm năm ấy, triều đình mua rất nhiều cau tươi ở Quảng Nam.
Trong bấy nhiêu thứ cây trái được chọn, chỉ có cây cam Hải Dương và trái vải là thuộc về phía ngoài Bắc con sông Gianh.
Thiết tưởng một sự tuyển trạch khách quan không căn cứ vào kỷ niệm riêng tư, không thể đưa đến kết quả ấy. Ai cũng biết đất Bắc được chăm sóc từ lâu đời tất phải có nhiều trái ngon cây quý hơn thế.
Tuy nhiên, nếu vua Gia Long có sự thiên lệch nào về phía miền đất do các chúa Nguyễn khai phá mở mang, về những nơi ông đã trải qua những năm gian khổ nhất trong đời chinh chiến để dựng nghiệp, thì cũng là chuyện hợp tình; và nếu ông cố ý đề cao những khám phá mới trên đất nước mà không quan tâm nhiều đến những món đã có danh tiếng sẵn, thì cũng lại có phần hợp lý. (Trái vải thì khỏi cần giới thiệu; chứ bòn bon, xoài tượng, và nhất là sa kê, dù vua đã ra sức nêu cao mà vẫn còn ít ai biết đến nữa là).
Duy cái thiên vị tình cảm mà đến thế này thì có quá lố: Sau khi mua cây mua trái xong, ngày 24 tháng Năm cùng một năm ấy, vua Gia Long lại bày tỏ lòng mến chuộng đối với miền Nam bằng cách truyền cho công đường quan dinh Bình Thuận “mua” (!) luôn sáu đứa tớ gái trạc độ mười tuổi. Món ăn vào miệng, kẻ hầu hạ bên mình, dường như nhà vua đều thích gọi từ miền Nam ra.
Nhưng chúng ta đã lạc ra ngoài chuyện cây trái. Và lần này chúng ta chưa muốn lao vào chuyện con người vốn nhiều rắc rối.
Võ Phiến
12-1972
[1]. Trên tạp chí Bách Khoa
số ra ngày 11-5-1973, ông Phạm Ngọc Ẩn cho biết vào năm 1946 có trông
thấy một cây sa kê ở nhà ông Ngô Trọng Lữ, 17 đường Tôn Nhơn trong thành
nội Huế (sau đổi ra số 19 đường Đinh Công Tráng). Ông Phạm nói thêm là
cây sa kê có người gọi là mít nài. Tuy nhiên cũng có người cho rằng đó
là hai thứ cây khác nhau(V.P. tháng 12-1985)
12. Thẫn thờ
Mình viết lách từ hồi nào? Được bao lâu rồi nhỉ? Mằn mò nghĩ ngợi cho
ra, e khó. Tí toáy tập tành, viết lèm nhèm, thì làm sao nhớ được từ năm
tháng nào. Viết được ra trò, được cái đáng kể, thì biết cái nào là cái
đáng kể mà ấn định lúc bắt đầu?
Vậy hãy phỏng chừng từ độ tuổi đôi mươi đến giờ: Sáu mươi năm. Trong chừng ấy thời gian, được gì nào?
Hai tiếng “được gì” hàm ý chọn lựa. Thế nào là “được”. Thế nào là chưa
“được”. Khó thay. Tự nó, cái viết có giá trị gì, có tầm quan trọng nào
chăng? Cũng khó nói quyết.
Viết, đạị khái có cái sáng tác, cái suy tưởng. Sáng tác, như thơ,
truyện, tuỳ bút thuộc về một phía. Còn suy tưởng, tra cứu, biên khảo,
thuộc phía khác. Một bên là nghệ thuật, một bên là học thuật; nên tách
riêng mà nói.
Đồ dùng và đồ chơi
Chuyện sáng tác có gì đáng nói? Hồi nhỏ, tự dưng náo nức viết; rồi theo
đà cứ viết hoài. Đó không phải là lý do chính đáng làm cho cái viết
thành quan trọng.
Phàm đồ làm ra, xét về mục đích sản xuất, có một thứ là đồ dùng, một thứ
là đồ chơi. Cái có công dụng gọi là đồ dùng; dù nhỏ bé như cái kim, sợi
chỉ, như cái tăm xỉa răng, cái que ráy tai, v. v... đều là đồ dùng. Còn
những cái làm ra không có sở dụng thực tế, chẳng hạn con diều giấy, thì
dẫu có to lớn bằng cái nong cũng gọi là đồ chơi. Đồ dùng thô sơ như cái
búa, cái gối, cái đòn ngồi, vẫn là đồ dùng. Đồ chơi thì tinh xảo như
chiếc phi cơ, gắn cục pin vào có thể bay tít lên cao cũng gọi đồ chơi
thôi. Đồ dùng thì một viên thuốc nhỏ bằng hạt tiêu, đen sì, nằm lăn lóc,
vẫn là để dùng một cách thận trọng. Còn đồ chơi thì dù cái pháo đốt kêu
ầm ĩ, cây pháo bông toả sáng huy hoàng cả một góc trời, cũng đồ chơi
thôi.
Tôi e những món thơ thẩn với tuỳ bút nọ kia đều phải xếp về phía đồ
chơi. Những cái mình miệt mài bấy lâu, khi đầu bạc nhìn lại là đồ chơi
cả. Không riêng mình, bao nhiêu người miệt mài vẽ tranh, soạn nhạc, hát
xướng, bao nhiêu hình vẽ ở các hang động tiền sử, các tranh dân gian
(nào gà lợn, nào đô vật, nào đánh đu), các câu ca dao, hát ví, quan
họ... một thời, các món nghệ thuật là cùng chơi thôi.
Nói thế mà dám nói, không phải là liều. Thực ra xưa nay đời vẫn giữ một
sự phân biệt như thế. Thế thường vẫn nói: chơi nhạc, chơi đàn, chơi
tranh, v.v... May cái áo cái quần, đóng đôi giày đôi guốc, là làm; còn tấu lên bản đàn là chơi nhạc, treo cái tranh để ngắm thì bảo là chơi tranh, v.v... Cách nói ấy thông dụng trong ngôn ngữ dân tộc. Ta nói theo là tiếp tục một truyền thống nhận định.
Vả lại nhận định ấy cũng không riêng phản ảnh trong tiếng nói của ta.
Chúng ta không cô đơn, không kỳ quặc. Nói về việc chơi đàn, người Pháp
dùng chữ jouer, Anh, Mỹ gọi là play. Tôi tiếc không biết được bao nhiêu ngoại ngữ; giả sử có thể kiểm tra tiếng nói mọi giống người, không chừng còn nhiều gặp gỡ.
Ở nước láng giềng của ta, người Tàu liệt bốn món đàn hát, đánh cờ, làm
thơ (!), với vẽ tranh (cầm, kỳ, thi, hoạ) vào loại món chơi cả. Thi hào
Nguyễn Du của ta nhân đó tỏ thái độ minh bạch: đưa thẳng cái đàn địch
vào cuộc truy hoan:
Khi hương sớm khi trà trưa
Bàn vây điểm nước, đường tơ hoạ đàn
Miệt mài trong cuộc truy hoan.
(Truyện Kiều, câu 1295-1298)
Cụ liệt trò chơi đàn ngang hàng với trò chơi rượu:
Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi
Rằng hoa nô đủ mọi tài
Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe.
(Câu 1848-1950)
Trò chơi ấy, cụ Nguyễn để Kiều xếp vào hạng nghề mọn. Nghề mọn ấy được đánh giá phũ phàng. “Sá chi”
Thưa rằng tiện kỹ sá chi,
Đã lòng dạy đến, dạy thì phải vâng.
(Câu 465-466)
Mặt khác cũng nên để ý rằng cách nói ấy không bao trùm khắp các bộ môn
nghệ thuật. Ta không nói: Thạch Lam giỏi chơi truyện ngắn, Hồ Biểu Chánh
thường chơi món truyện dài, Nguyễn Tuân lại sành chơi tuỳ bút, v.v...
Nói chơi đàn mà không nói chơi truyện. Truyện được nể nang, có lẽ vì xưa
kia nó từng mang sứ mệnh dạy dỗ. Những truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn,
truyện truyền kỳ, truyện huyền thoại, chuyện hăm bốn gương hiếu thảo,
chuyện trăm trứng... ở ta, ở bên Tàu, bên Tây... thảy đều phục vụ, xây
dựng tinh thần, đạo đức, đều vì hảo ý cả, đâu phải... chơi!
Mãi đến thời Đồ Chiểu gần đây, kể truyện Lục Vân Tiên
cụ còn lớn tiếng hăm he: “Ai ơi lẳng lặng mà nghe.” Cụ trịnh trọng vì
cụ đang dùng truyện để dạy đạo làm người: trai phải trung phải hiếu, gái
phải giữ tiết nghĩa. Xưa trong truyện thường có bên lành bên dữ, bên
thiện bên ác, bên trung bên nịnh, bên tốt bên xấu; truyện đặt ra có dụng
ý tốt, không ai dám “chơi truyện”. Sau này đám hậu sinh nảy ra nhiều
quan niệm mới về truyện, về tiểu thuyết, mạnh tay vất bỏ chủ đích phục
vụ, nhưng không can thiệp được vào cái ngôn ngữ đã thành hình muôn đời
của dân tộc, cho nên chúng ta tiếp tục nói chơi đàn mà không nói chơi
truyện. Sự thể có vậy chăng?
Có chơi và chơi
Thực ra, không phải cái chơi nào cũng giống cái chơi nào.
Khi Gustave Flaubert cho xuất bản cuốn Madame Bovary,
Sainte-Beuve kêu là sách thiếu hẳn cái tốt, không một nhân vật nào đưa
ra được khía cạnh đẹp đẽ có thể đem lại cho người đọc sự thoải mái. Sau
đó George Sand còn viết thư phiền trách Flaubert tại sao toàn chỉ trích,
chê bai, toàn làm cho độc giả nản lòng mà không nghĩ tới việc an ủi
những kẻ đọc mình? Gustave Flaubert trả lời: ông chưa bao giờ có ý muốn
chỉ trích muốn chê bai gì cả, ông không viết để nêu lên một sự phán đoán
nào cả. Ông chỉ có một ý định thiết tha: “Tôi lúc nào cũng cố gắng đi
vào cái hồn của tạo vật...” (Je me suis toujours efforcé d’aller dans l’âme des choses...)
Flaubert khách quan, đứng đắn, nghiêm chỉnh, thành tâm. Ông nói vậy, ta
nên tin vậy... Nhưng quả tình khó tưởng tượng ra cái cảnh một ông
Flaubert lò mò rình rập, nén hơi, chờ cơ hội nhảy xổ ra vồ được, tóm
được quả tang cái linh hồn tạo vật hớ hênh nào đó. E rằng cái linh hồn
tạo vật mà ông bắt được cũng chỉ là cái ông cảm thông được qua tâm hồn
của chính ông thôi.
Đời sau có truyền tụng một câu của Flaubert: “Bà Bovary, chính là tôi.” (Madame Bovary, c’est moi).
Câu ấy hoặc do Flaubert viết ra đâu đấy, hoặc chỉ do bà Amélie Bosquet
nghe nói rồi thuật lại, thì cái nhân vật Bovary trong cuốn truyện cũng
vẫn mang ở tính tình, ở cảm xúc, ở tâm sự bà phần đóng góp lớn lao của
Flaubert. Ông đã bảo mình đi vào hồn tạo vật thì tâm hồn của nhân vật
nào lại không có ông xâm nhập?
Bà huyện Thanh Quan qua đèo Ngang dừng chân ngắm nghía, thấy:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Giả sử có vị quan lớn nào đó do vua Quang Trung phái ra trấn nhậm ngoài
Bắc chẳng hạn. Vị quan người miền Nam vẫn tưởng tượng một cảnh đìu hiu
hiểm trở; lần đầu đến đèo Ngang trông thấy chợ búa họp bên sông, thấy
tiều phu ngư phủ làm ăn sinh sống an lành dưới thời thịnh trị, sau cuộc
bình định của nhà Tây Sơn. Quan ông vung bút đề thơ:
“Lăng xăng dưới núi tiều hồ hởi
Xúm xít bên sông chợ nhộn nhàng.”
Cảnh vẫn cảnh ấy, bà kia ông nọ bắt gặp hai cái hồn khác hoắc. Hồn tạo
vật được cảm thông như thế chăng? E rằng cả ông lẫn bà đều lấy cái hồn
riêng của mình đem trùm lên, phủ lên sự vật.
Trò chơi gởi hồn vào sự vật không riêng của giới cầm bút; thực ra trong
các giới ca nhạc, giới hội hoạ, giới điêu khắc, các giới cầm búa, cầm
kèn, cầm cọ, cầm đục v.v..., ở đâu cũng có chuyện ấy. Kẻ gửi trao hồn
mình cho con sông Danube xanh, người chụp hồn mình lên nụ cười mơ hồ của
một người đẹp bí ẩn, kẻ nhúi hồn mình vào triết nhân trần trụi ngồi
trầm tư, người thổi hồn mình vào lũ tôm tung tăng trong nước, vào tiếng
sáo đêm khuya, vào giọt mưa rả rích suốt canh trường..., gửi vào lời
thơ, tiếng nhạc, nét vẽ, màu sơn, tượng đồng, tượng đá v.v...
Gởi hồn như thế chẳng nhằm sản xuất món đồ vật dùng vào việc gì. Không
là đồ dùng, chỉ là đồ chơi. Chơi cho khoái thôi. Cho thoả thích mê tơi
thôi.
Là chơi cả. Nhưng cái chơi này khác cái chơi kia. Đốt cái pháo nổ đùng
một tiếng rầm trời, đám trẻ reo cười rồi cho qua. Nghe nhạc sông Danube
xanh, ngắm nụ cười bí ẩn La Joconde..., cảm xúc âm ỉ ám ảnh ta, tác động
đến tâm tình ta sâu xa. Bài nhạc ấy tồn tại lâu dài, bức hoạ nọ tồn tại
lâu dài, ảnh hưởng bền bĩ, từ thời này qua thời nọ.
Hữu dụng và hữu ích
Vì chỗ khác ấy — mỗi nghệ phẩm mang một chút hồn người, mà đồ dùng thì
không có hồn — người làm thứ máy tinh xảo nhất vẫn không ký tên mình vào
từng chiếc máy, mà tác giả một câu đối, vài câu lục bát, bốn câu thơ tứ
tuyệt... đều có lưu tên dính vào tác phẩm.
Đây không còn là chuyện phân biệt đồ dùng với đồ chơi, mà là đối chiếu
khoa học với văn học, kỹ thuật với nghệ thuật. Phát minh khoa học liên
hệ đến kiến thức, đến lý trí; sáng tạo nghệ thuật liên hệ đến tâm hồn,
đến xúc cảm, đến cá tính, bẩm chất từng người.
Khi nhu cầu xã hội cần đến, khi trình độ kiến thức đạt tới, thì nẩy ra
sự phát minh. Lúc bấy giờ, ở nhiều nơi khác nhau, nhiều giống người khác
nhau cùng có kẻ phát minh ra cái búa, cái cày, lưỡi dao, cây cuốc...
Những món này không có cá tính.
Câu thơ, bản nhạc... liên hệ với từng cá nhân. Vào thời điểm này ở xứ nọ
— thời kỳ lãng mạn ở Việt Nam chẳng hạn — Xuân Diệu lãng mạn cách này,
Huy Cận lãng mạn lối kia; không có Chế Lan Viên thì không ai nhất thiết
lên tiếng khóc thương dân Chàm kiểu ấy, không có Hàn Mạc Tử không ai
chơi giữa mùa trăng như Hàn cùng chơi với người chị, không ai rủ rê “em”
về chơi thôn Vỹ thiết tha như lời lẽ kiểu cách của Hàn...
Nghệ thuật liên hệ đến tâm hồn, đến xúc cảm. Trong lãnh vực nghệ thuật,
mỗi thời mỗi khác, mỗi xứ mỗi khác, mỗi người mỗi khác, mỗi tác phẩm một
nét khác nhau. Milan Kundera nói:
“Nếu Edison không phát minh ra chiếc bóng điện thì một người khác cũng
phát minh ra thôi. Nhưng nếu Laurence Sterne không có cái ý kiến ngông
cuồng là viết ra một thứ tiểu thuyết không có chuyện gì xảy ra cả, thì
sẽ không có ai thay thế ông mà làm công việc ấy và lịch sử của ngành
tiểu thuyết sẽ không giống như ta thấy hiện nay.”[*]
Sterne là thế, Kundera cũng vậy, không kém: không có Kundera thì chẳng làm gì có những cuốn hệt như Risibles amours, La vie est ailleurs, v.v...
Nghệ thuật mật thiết với tâm hồn, với cá nhân, với xã hội, với thời đại,
cho nên muốn tìm hiểu về loài người, muốn theo dõi diễn tiến của tâm tư
người, các tác phẩm nghệ thuật có phần đóng góp của nó.
Muốn biết hình dạng, kích thước của người đã thay đổi như thế nào từ cổ
sơ đến ngày nay, thì những bộ xương, những mảnh xương bắt gặp ở các ngôi
cổ mộ cung cấp tài liệu. Muốn biết tâm hồn người mỗi thời mỗi xứ khác
nhau thế nào thì hỏi tác phẩm nghệ thuật.
Gửi lại xương cốt hay gửi lại cho hậu thế cái hồn mình trong thơ, nhạc,
cùng là đóng góp. Xương cốt với tâm hồn không phải là những cái khả
dụng. Không ai dùng tâm hồn làm ra cái gì cả. Hồn bất khả dụng, hồn vô
sở dụng; nhưng là cái sở cứ. Có thể căn cứ vào nó để hiểu người xưa.
Nghệ phẩm là những tài liệu, những chứng tích, chứng liệu. Nghệ phẩm
không hữu dụng, nó hữu ích.
A, nghệ thuật!
Nhớ bà Trùng Dương từng có cuốn sách tên Vừa đi vừa ngước nhìn.
Tôi không còn nhớ rõ sách ấy viết gì. Đại khái, chỉ nghĩ rằng đi như
thế là một cách đi lý thú; vừa đi vừa ngước nhìn, chắc chắn là một cái
đi hớn hở. Tôi đoán trong suốt mấy chục năm trước đây, lúc bắt đầu cầm
bút, tôi cũng hứng chí lắm, như kẻ vừa đi vừa ngước nhìn. Nghĩa là đi
cách xun xoe, hớn hở.
Bây giờ, gần cuối đời, nếu còn lích nhích bước, thì phải là vừa đi vừa cúi nhìn. Tức thị một cái đi... thẫn thờ.
Đi thế thì còn đi làm gì cho nó chán mắt thiên hạ? Cho nó khiến thiên hạ ngao ngán?
Kỷ niệm
Nói vậy e là cách nói bạc bẽo. Cổ nhân đóng góp từng bộ xương không để
tiếng phàn nàn, mình chưa chắc đã được dự góp khúc xương tâm hồn nào đã
chê ỏng chê eo, ra giọng khinh bạc. Làm công việc gì lại chẳng có phía
hay phía dở. Bộ viết hoài không gặp lúc khoái sao? không gặp được một kỷ
niệm nào đáng ghi nhớ sao?
— Phải. Có. Cuối năm 1998, trên một số báo Văn Học, ở đoạn cuối bài viết của Nguyễn Hưng Quốc, tôi đọc thấy một câu:
“Tôi[**] giật mình: hay là... hay là... tại trong lúc viết cuốn Thơ v.v. và v.v.,
ngoài việc đọc thơ, các sách lý luận về thơ, tôi còn phải đọc đi đọc
lại nhiều lần các tác phẩm của Võ Phiến? Chả lẽ cái cười cợt của ông
nhiễm vào trong tôi lúc nào tôi không biết? Chả lẽ?”
Xin thú thật, tôi khoái quá chừng. Nhưng trong bảy năm, tôi chưa dám nói
gì, với ai. Nói, hoá ra khoe: kỳ quá. Chuyện không phải chuyện đáng
khoe: Cười cợt thì hay ho gì? Nhiễm cái cười cợt đâu phải vì thấy nó đẹp
đẽ mà noi theo? Giả sử ông Nguyễn đọc thấy tôi có tư tưởng cao siêu, có
lời văn lộng lẫy mà theo, thì tôi mới nên dè dặt, nín miệng. Đàng này
cái ông vô tình nhiễm phải chỉ là cười cợt. Cười cợt: chẳng qua một thái
độ, một nét tâm tính, không tốt và có thể cũng không xấu. Có ai cố tình
học hỏi bắt chước làm chi một “cái” như thế! Chẳng qua vô tình “nhiễm”
phải. “Nhiễm” không có nghĩa noi gương. Cái nhiễm phải, nếu không là cái
xấu đã may mắn, đâu phải cái tốt? Còn tôi biết vậy mà lấy làm khoái
thích, tất nhiên cũng không do hãnh diện. Thực ra là một cảm thông. Ngấm
ngầm, sâu xa.
Nghịch ngợm, ranh mãnh, hay trầm ngâm chững chạc, chẳng qua nết riêng
từng người, “trời sinh” ra vậy. Nết trời sinh ẩn trong nét mặt, cử chỉ,
lời ăn tiếng nói, trong phong cách con người. Tất nhiên trong cả phong
cách văn chương. Nó có sẵn, chẳng qua có khi tiềm tàng, khi hiển lộ. Kẻ
đồng điệu gặp phải, chạm phải, tự dưng đánh thức cái “điệu” ẩn tàng nơi
kẻ ấy, nó vùng dậy, phát lộ. Thế thôi. Ông Nguyễn Hưng Quốc, ông ấy đọc
rộng bao la, đọc khắp sách vở các nơi mà chưa gặp, tự dưng tình cờ gặp
tôi, vô tình chạm phải cái ẩn tật nơi tôi, làm cho ẩn tình nơi ông bật
thức giấc... Tôi thích thú biết mấy.
Chuyện đọc sách lang thang mà chạm, mà cọ phải nhau như thế, tôi cũng
từng gặp. Tôi cũng nhiễm đây đó cái này cái nọ, sao cho khỏi. Nhưng tôi
không có cơ hội thông báo cho người truyền nhiễm. Chuyện ông Nguyễn Hưng
Quốc, tôi lấy làm một kỷ niệm lý thú, cái thú đã nín giữ bấy lâu. Đây
tưởng là dịp nên tỏ bày sự biết ơn ông về cái thú ấy, nếu không e muộn.
Nay mai, sang thế giới khác, mình có muốn nhắn gửi về trần gian bằng
e-meo, bằng cách lên lưới lên mạng điều gì, biết có đến không?
Quận Cam, tháng 2–2006
(In trong cuốn Cuối Cùng của Võ Phiến, Thế Kỷ 21 xuất bản tại California, USA, 2010)
Bấm vào đây để đọc tất cả tác phẩm của Võ Phiến đã đăng trên Tiền Vệ
13. Văn Phong-Nhân Cách
Võ Phiến
Võ Phiến
(Võ Phiến)
Nguyễn Tuân là một nhà văn lỗi lạc; khen ông không lo bị hố. Có
nhiều người khen, có nhiều cách khen. Lắm kẻ khúc khích trầm trồ, chịu
nhất cái chỗ Bá Nhỡ đàn cho cô Tơ hát: Tiếng đàn nghẹn ngào u uất của
Bá Nhỡ, “nó là cái tấm tức sinh lý của một sự giao hoan lưng chừng”
(Chùa Đàn). Cũng lắm người khoái kiểu ví von một chiếc roi chầu bị bẻ
cong với hình ảnh người đàn bà ưỡn ngửa ra để tránh một chiếc hôn bạo.
Còn như nhà phê bình Vũ Ngọc Phan thì ông ta tấm ta tấm tắc khen mãi cái tài tả cảnh của Nguyễn Tuân. Tả thú uống trà thì “thật tuyệt”. Tả cảnh đêm báo động đầu tiên tại Hà Nội thì “tuyệt khéo”. Tả cảnh bà Tú chở đồ ăn thức đựng từ Thanh Hóa ra Hà Nội cùng là cảnh Nguyễn đi xe đạp kèm lũ thợ đẩy xe bò gỗ thì “hay tuyệt”, “có thể làm đầu đề cho những họa sĩ nào ưa vẽ những cảnh đặc biệt Việt Nam”. Tả cuộc hòa nhạc của đám ca kỹ Tàu ở Hương Cảng thì “tuyệt hay, làm cho người đọc không lúc nào chán”. Tả một kẻ vô tài mà có tính huênh hoang thì “cực hay” v.v…
Tóm lại “Nguyễn Tuân có ngòi bút tả cảnh lúc hùng tráng, khi ghê rợn, lời văn lại hàm súc, kín đáo, làm cho người đọc ham mê” (Nhà văn hiện đại, quyển ba).
Nhà phê bình nói đúng phóc: Nguyễn Tuân còn tả nhiều cái nữa, phần lớn đều cực hay, tuyệt khéo, đọc không chán. Nhà phê bình không sai không hố chỗ nào, nhưng tôi cứ ngờ ông chưa khen đúng, chưa nhấn mạnh đúng vào cái hay của Nguyễn Tuân. Một nhà văn lớn lại có thể lớn vì khéo tả cái này cái nọ sao? Cũng như một nhà văn lớn lại có thể lớn vì mấy ý nghĩ ngộ nghĩnh, vì những lối nói nghịch ngợm vậy sao? Tả như thế, ví von như thế thì tài thật, thì quả nhiên đọc không thấy chán, đọc ham mê lắm. Nhưng một tác giả mà mê hoặc được người đời có lẽ không mê hoặc vì cái tài nọ tài kia. Chữ “tài” ở đây nghe cứ phảng phất cái nghĩa một kỹ thuật, một ngón nghề, một trò sở trường.
Người nghệ sĩ xuất hiện với đời là xuất hiện như một tâm hồn, chứ không phải như một tập hợp kỹ thuật, dù là kỹ thuật cao siêu. Người đời đến với một nghệ sĩ là tìm đến một tâm hồn; mấy ai buồn tìm hiểu các trò kỹ thuật làm gì đâu.
Thực ra, trong trường hợp Nguyễn Tuân, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan cũng có chú ý đến chỗ này nữa. Ông Vũ “chú ý đến lối hành văn đặc biệt của ông (Nguyễn) và những ý kiến cùng tư tưởng phô diễn bằng những giọng tài hoa, sâu cay và khinh bạc, lúc thì đầy nghệ thuật, lúc thì bừa bãi, lôi thôi, như một bức phác họa, nhưng bao giờ nó cũng cho người ta thấy một trạng thái của tâm hồn.” Ông Vũ cho rằng “ông (Nguyễn) là một nhà văn đặc biệt Việt Nam có tính hào hoa và có cái giọng khinh bạc đệ nhất trong văn giới Việt Nam hiện đại” (Nhà văn hiện đại, quyển ba).
Vũ Ngọc Phan có nói về cái “trạng thái của tâm hồn”, nhưng nói không kỹ bằng nói về tài tả cảnh của Nguyễn Tuân; trong khi “trạng thái” mới là cái chính. Tôi buồn ông Vũ chỗ ấy.
“Trạng thái tâm hồn” theo cách nói của ông Vũ, hình như nó là cái phong thái riêng biệt của Nguyễn Tuân. Và nét phong thái ấy, cái cốt cách ấy của Nguyễn Tuân ông Vũ nói cũng đúng nữa: nó là một vẻ hào hoa mà khinh bạc đặc biệt Việt Nam. Thiết tưởng cái đó mới là chỗ độc đáo cốt tủy làm nên sức thu hút của nhà văn.
Phong thái con người nó xuất lộ ở một bản văn đầy nghệ thuật mà cũng có thể xuất lộ ngay ở những câu văn bừa bãi lôi thôi như ông Vũ nhận thấy. Đã có một cốt cách đẹp đẽ thì tả cảnh hay ho càng tốt, mà tả không hay cũng… tốt thôi. Thậm chí không tả, không luận gì hết trơn cũng vẫn tốt được, vẫn đẹp được. Này nhé, Nguyễn Tuân có lần viết: “Chao ôi! Đêm tối như đêm giao thừa. Vẫn lại mưa rả rích. Mưa trên sông. Mưa xuống mái bồng. Mưa trong lòng, — chuyện cũ… ới… ư hừ… ơ… ơi…” Lại có lần nữa viết: “Tôi tưởng còn lâu nữa mới về ở ngay dưới mái nhà của tôi bên sông Tô. Vừa tưởng thế và vừa hiểu luôn rằng như vậy là tôi đã phụ nhiều đến sự săn sóc, đến lòng gây dựng của hai đấng tác giả đời tôi. Chao ôi.” (Tùy bút)
Ý chẳng có ý gì cao xa, cảnh chẳng có cảnh gì ra trò; nhưng “trạng thái tâm hồn” Nguyễn Tuân thì vẫn hiển hiện. Và đó là cái đáng yêu.
Còn như nhà phê bình Vũ Ngọc Phan thì ông ta tấm ta tấm tắc khen mãi cái tài tả cảnh của Nguyễn Tuân. Tả thú uống trà thì “thật tuyệt”. Tả cảnh đêm báo động đầu tiên tại Hà Nội thì “tuyệt khéo”. Tả cảnh bà Tú chở đồ ăn thức đựng từ Thanh Hóa ra Hà Nội cùng là cảnh Nguyễn đi xe đạp kèm lũ thợ đẩy xe bò gỗ thì “hay tuyệt”, “có thể làm đầu đề cho những họa sĩ nào ưa vẽ những cảnh đặc biệt Việt Nam”. Tả cuộc hòa nhạc của đám ca kỹ Tàu ở Hương Cảng thì “tuyệt hay, làm cho người đọc không lúc nào chán”. Tả một kẻ vô tài mà có tính huênh hoang thì “cực hay” v.v…
Tóm lại “Nguyễn Tuân có ngòi bút tả cảnh lúc hùng tráng, khi ghê rợn, lời văn lại hàm súc, kín đáo, làm cho người đọc ham mê” (Nhà văn hiện đại, quyển ba).
Nhà phê bình nói đúng phóc: Nguyễn Tuân còn tả nhiều cái nữa, phần lớn đều cực hay, tuyệt khéo, đọc không chán. Nhà phê bình không sai không hố chỗ nào, nhưng tôi cứ ngờ ông chưa khen đúng, chưa nhấn mạnh đúng vào cái hay của Nguyễn Tuân. Một nhà văn lớn lại có thể lớn vì khéo tả cái này cái nọ sao? Cũng như một nhà văn lớn lại có thể lớn vì mấy ý nghĩ ngộ nghĩnh, vì những lối nói nghịch ngợm vậy sao? Tả như thế, ví von như thế thì tài thật, thì quả nhiên đọc không thấy chán, đọc ham mê lắm. Nhưng một tác giả mà mê hoặc được người đời có lẽ không mê hoặc vì cái tài nọ tài kia. Chữ “tài” ở đây nghe cứ phảng phất cái nghĩa một kỹ thuật, một ngón nghề, một trò sở trường.
Người nghệ sĩ xuất hiện với đời là xuất hiện như một tâm hồn, chứ không phải như một tập hợp kỹ thuật, dù là kỹ thuật cao siêu. Người đời đến với một nghệ sĩ là tìm đến một tâm hồn; mấy ai buồn tìm hiểu các trò kỹ thuật làm gì đâu.
Thực ra, trong trường hợp Nguyễn Tuân, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan cũng có chú ý đến chỗ này nữa. Ông Vũ “chú ý đến lối hành văn đặc biệt của ông (Nguyễn) và những ý kiến cùng tư tưởng phô diễn bằng những giọng tài hoa, sâu cay và khinh bạc, lúc thì đầy nghệ thuật, lúc thì bừa bãi, lôi thôi, như một bức phác họa, nhưng bao giờ nó cũng cho người ta thấy một trạng thái của tâm hồn.” Ông Vũ cho rằng “ông (Nguyễn) là một nhà văn đặc biệt Việt Nam có tính hào hoa và có cái giọng khinh bạc đệ nhất trong văn giới Việt Nam hiện đại” (Nhà văn hiện đại, quyển ba).
Vũ Ngọc Phan có nói về cái “trạng thái của tâm hồn”, nhưng nói không kỹ bằng nói về tài tả cảnh của Nguyễn Tuân; trong khi “trạng thái” mới là cái chính. Tôi buồn ông Vũ chỗ ấy.
“Trạng thái tâm hồn” theo cách nói của ông Vũ, hình như nó là cái phong thái riêng biệt của Nguyễn Tuân. Và nét phong thái ấy, cái cốt cách ấy của Nguyễn Tuân ông Vũ nói cũng đúng nữa: nó là một vẻ hào hoa mà khinh bạc đặc biệt Việt Nam. Thiết tưởng cái đó mới là chỗ độc đáo cốt tủy làm nên sức thu hút của nhà văn.
Phong thái con người nó xuất lộ ở một bản văn đầy nghệ thuật mà cũng có thể xuất lộ ngay ở những câu văn bừa bãi lôi thôi như ông Vũ nhận thấy. Đã có một cốt cách đẹp đẽ thì tả cảnh hay ho càng tốt, mà tả không hay cũng… tốt thôi. Thậm chí không tả, không luận gì hết trơn cũng vẫn tốt được, vẫn đẹp được. Này nhé, Nguyễn Tuân có lần viết: “Chao ôi! Đêm tối như đêm giao thừa. Vẫn lại mưa rả rích. Mưa trên sông. Mưa xuống mái bồng. Mưa trong lòng, — chuyện cũ… ới… ư hừ… ơ… ơi…” Lại có lần nữa viết: “Tôi tưởng còn lâu nữa mới về ở ngay dưới mái nhà của tôi bên sông Tô. Vừa tưởng thế và vừa hiểu luôn rằng như vậy là tôi đã phụ nhiều đến sự săn sóc, đến lòng gây dựng của hai đấng tác giả đời tôi. Chao ôi.” (Tùy bút)
Ý chẳng có ý gì cao xa, cảnh chẳng có cảnh gì ra trò; nhưng “trạng thái tâm hồn” Nguyễn Tuân thì vẫn hiển hiện. Và đó là cái đáng yêu.
(Nhà văn Nguyễn Tuân)
Hễ đọc thơ đọc văn mà đã bắt được nét đẹp của một phong cách, đã yêu nó, thì cứ thoáng thấy nó xuất hiện ở đâu là thích đấy, bất luận người nghệ sĩ đang nói gì, đang đề cập đến vấn đề gì, đang tả cái gì, đang kể lể con cà con kê về cái gì. Tả tiếng còi hụ nghe mà ghê, tả bà Tú thấy mà thương v.v…, có tai mắt tuyệt hảo, có khiếu quan sát tinh tường, có nhận xét sắc bén v.v… là chuyện nhỏ nhặt quá, so với một phong cách. Phong cách, nó phản ảnh một quan niệm sống, một thái độ ở đời, nó phản ảnh một khung cảnh xã hội, một thời đại, nó thừa kế các đặc điểm của một dòng dõi, một đường hướng giáo dục, một bầu không khí văn hóa v.v… Nó là cái dung mạo của một tâm hồn.
Hãy khoan nói đến hạng độc giả đọc cho vui, đọc những loại “truyện hay vì truyện”, có lắm gút thắt rối ren được tháo gỡ tài tình. Ngoài trường hợp ấy ra, nếu ta tìm đến cuốn sách cốt để gần gũi một tâm hồn, để bắt gặp một quan niệm nhân sinh, một thái độ ở đời, thái độ của người đồng loại đối với cái sống, cái chết, đối với tình yêu v.v…, nếu thế thì một khi đối diện một phong cách đẹp đẽ, tự nhiên mê tơi. Lúc bấy giờ ta trở nên rộng lượng, không chấp nê những món lẻ tẻ: câu văn cẩu thả, lời lẽ mù mờ v.v… Tha thứ được cả.
Nói ta rộng lượng, e chướng tai chăng? “Ta” là ai mà hách vậy? mà có quyền rộng lượng hẹp lượng đối với các văn gia thi gia? — Không, cái “ta” ấy không dính líu gì đến kẻ đọc người viết những lời bàn tán hôm nay. “Ta” đây là nói chung về độc giả, về khối quần chúng độc giả mênh mông, trải qua nhiều thế hệ, đã âm thầm thưởng thức, phán đoán, chọn lựa, đã tạo dựng nên tên tuổi của tác giả này, làm sáng tỏ giá trị của tác phẩm nọ.
Vừa rồi Nguyễn Tuân được nêu ra, rồi đây nếu có những tác giả khác lại được viện dẫn nữa, họ được nêu dẫn vì lẽ ấy: họ đã được quần chúng chọn lựa, họ đã trước tác hơn nửa thế kỷ; họ đã cách lớp chúng ta một khoảng thời gian khá rộng đủ để cho những phản ứng sôi nổi nhất thời kịp lắng xuống. Cũng vì vậy cái phần trước tác của họ được nói đến đây là cái phần trước 1945, cái phần đã cách xa, đã trải qua thử thách của thời gian, chứ không phải những gì họ mới viết sau này, khi “trạng thái của tâm hồn” họ đã đổi khác: phần sau còn chờ sự thẩm định trong tương lai.
Xin trở lại chỗ rộng lượng. Xuân Diệu có những câu thơ thế này:
“Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm,
Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu.
Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều.”
(‘Xuân không mùa’)
“Vài ba sương mỏng thắm” là thế nào? Rồi lại còn “năm bảy sắc yêu yêu”, sắc yêu yêu là cái sắc ra làm sao? là cái sắc quái quỉ gì vậy? Đó là một từ ngữ địa phương, một lối nói riêng của vùng quê cha ngoài Hà Tĩnh hay của vùng quê mẹ trong Bình Định chăng? Chắc không phải thế đâu. Nếu “sắc yêu yêu” mà có đến từ một quê hương nào, thì cái quê hương ấy nên mang tên là Lúng Túng, là Quýnh Quáng. Đang ngon trớn, đang nói dồn nói dập, thi sĩ cứ phóng bừa tới, không muốn để cho những cân nhắc thận trọng, những trau chuốt tỉ mỉ chận mất đà của mình vậy thôi.
Trong cùng một bài thơ ấy, chúng ta còn có thể nhặt được những câu khác, đại khái cùng một lối như thế.
“Xuân ở giữa mùa đông khi nắng hé;
Giữa mùa hè khi trời biếc sau mưa
Giữa mùa thu khi gió sáng bay vừa”
hay:
“Bình minh quá, mỗi khi tình lại hứa”
Hồi trước, có kẻ bảo rằng Xuân Diệu chịu ảnh hưởng Pháp, rằng những câu nọ là “Tây” quá. Ối, Tây nó đâu có ngọng nghịu vậy? Dù sao, Tây hay không Tây, những bài thơ như thế đã làm nên danh tiếng của Xuân Diệu. Nó ra đời năm 1939. Một năm sau khi xuất bản Thơ thơ, vào thời lẫy lừng nhất của thi sĩ.
Trong trường hợp khác, Xuân Diệu lại viết:
… “Nhưng ta sẽ yêu nhau mãi mãi,
mãi mãi là trong những phút giây.
Lâu dài là bóng là mây,
là môi kỳ ngộ là tay hảo cầu.”
(‘Mãi mãi’)
Tại sao vậy? Tại sao phút giây lại là mãi mãi? bóng với mây lại là cái tồn tại lâu dài? Tác giả không giải thích những chuyện tréo tro ngược đời ấy, ông cứ nói, cứ tuôn ra liên tiếp những cái kỳ cục, để… thuyết phục! Và ông đã thuyết phục được, không phải nhờ lý luận, mà nhờ sức lôi cuốn của một niềm tin, của một giọng say sưa dồn dập, của một “trạng thái tâm hồn”: thiết tha, sôi nổi, nồng nàn.
Thành thử nhiều lúc hứng chí lên thi sĩ nói vội nói vàng. Chữ xô đẩy chữ, lời chen lấn lời. Cứ thế ông thu hút người, bất kể từ ngữ ông dùng có chính xác hay không chính xác, lập luận ông đưa ra có chặt chẽ hay không chặt chẽ. Một phong cách, nó quan trọng là thế.
Nhưng làm sao “bắt” được phong cách của một tác giả? Muốn thưởng thức, muốn phân tích, khen chê một cái tài tả cảnh, một lời văn điêu luyện: dễ hơn nhiều. Câu văn nằm chình ình trên trang sách; tha hồ đè nó ra, xem đi xét lại, vạch kẽ từng chữ mà bình mà phê mà giảng mà luận; tha hồ tách bạch từng ý mà hạch hỏi. Còn phong cách, nó phảng phất ở đâu? nó nương mình vào chỗ nào? vào câu nào chữ nào? trong hàng trăm hàng nghìn trang sách?
Biện biệt cho được cái phong cách của một tác giả cũng như của một con người, là cả một rắc rối. Không phải cách nói cẩu thả, vội vàng, bộp chộp nào cũng là một biểu lộ của nhiệt tình sôi nổi, không phải cứ tung bừa ra những lầm lỗi vấp váp thì bỗng dưng có một tâm hồn thiết tha say mê.
Nguyễn Tuân chỉ viết có hai chữ “chao ôi” rồi chấm dứt, rồi sang hàng: thế là tài hoa, là khinh bạc ư? — Ối! gì chứ hai chữ sang hàng thì có gì khó? Đời nay khối kẻ cứ một chữ sang một hàng, liên tiếp năm lần bảy lượt còn dám nữa là một lần! Một chữ, chấm sang hàng. Một chữ nữa, chấm sang hàng. Cứ ngúc nga ngúc ngắc, cà khục cà khặc. Đời nay thiếu gì kẻ dám làm thế? người ta đâu có ngán những trò đó. Khó khăn gì đâu? Phong cách học giảng thuyết dông dài liệu có chắc giúp người ta phân biệt được cái nhăn mặt của Tây Thi với những lối nhăn nhó của các nàng Đông Thi chăng? phân biệt một phong cách đích thực với những bản sao lem nhem chăng?
Biện luận thuyết giảng thì rối rắm, nhưng phong cách là một sự thực. Lấy lương tri ra trực nhận có vẻ giản dị. Bà mẹ của Tôn Quyền không phải là nhà tướng số, thế mà chỉ cần nhìn qua anh chàng Lưu Bị một cái là đủ biết ngay con người đàng hoàng, xứng đáng cho cô gái cưng gửi thân trọn đời. Lại như cái gã Hồ Ban nọ, đã chấp lệnh quan thái thú Huỳnh Dương đem củi khô chất quanh quán dịch, đã đem cả nghìn quân vây chặt, chỉ còn chờ một ngọn lửa châm là đốt cháy tiêu luôn chị em Quan Công, thế nhưng lỡ tò mò ghé mắt nhìn thử bộ dạng Quan Công ngồi đọc sách dưới đèn có một tí ti mà buột miệng kêu: “Quả thật đúng là người nhà Trời!” rồi cúi lạy, rồi mở cửa ải mời Quan Công vọt thẳng.
Ấy, người có cái cốt cách của người nhà Trời, nhác trông qua là biết, không cần phải thử tài cao thấp, phải theo dõi hành trạng một đời, phải nghe biện giải dông dài. Văn cũng có cái cốt cách của văn: cốt cách văn chương nhà Trời, cốt cách phong nhã, cốt cách sát phạt bạo liệt, cốt cách kiều mỵ lâm ly… Hợp thì thoáng qua một cái là thấy hợp, là “bắt” được ngay, là “chịu” liền.
“Chịu” như thế, e có thể bị bắt bẻ. Anh chàng Hồ Ban chịu Quan Công người nhà Trời, đó là tất nhiên. Bà mẹ Tôn Quyền chịu Lưu Bị, cũng là phải cách. Còn như đọc văn sao lại “chịu” một cái văn phong khinh bạc kiêu kỳ? có phải là nhảm không? có phải là chính trong cái nết na của mình đang có chỗ khiếm khuyết trầm trọng, khiến mình xa lánh kẻ khiêm nhu mà mỗi khi bắt gặp một dáng vẻ cao ngạo lại bất giác hớn hở tưng bừng như thể trâu gặp trâu ngựa gặp ngựa?
Mắng như thế là mắng đến nơi đến chốn. Kẻ độc giả phải lấy làm sợ hãi, vội vàng kiểm điểm lại lòng mình; và — thành thực mà nói — thấy quả có điều oan ức. Có sự ngưỡng mộ căn cứ trên các tiêu chuẩn đạo lý; có sự thưởng thức căn cứ trên các tiêu chuẩn thẩm mỹ. Bao nhiêu vẻ đẹp bày ra trong văn chương Đông Tây xưa nay không phải đều là vẻ đẹp cao khiết đoan chính cả. Bàng bạc một niềm nhân ái bao la như thơ Đỗ Phủ là đẹp, thấm thía nỗi u sầu hắc ám như thơ Edgar Poe, Baudelaire cũng là đẹp, hùng hồn dũng mãnh như Victor Hugo là đẹp, mà chán chường não nề như Verlaine, thê thiết như Hồ Dzếnh cũng lại có nét đẹp riêng v.v… Bắt được cái đẹp của phong cách Đỗ Phủ, Victor Hugo, chớ vội vênh váo cho là rồng gặp rồng; rung động trước cái đẹp của phong cách Verlaine, Baudelaire, vị tất đã là rắn khoái rắn.
Văn chương nghệ thuật không phải là chỗ phô trương những phong cách người Trời, những phong cách anh hùng chí sĩ. Thường khi, trái lại. Trong hội họa có thứ tranh quyến rũ vì sắc màu xanh lướt bệnh hoạn, vì những chiếc cổ dài ngoẳng, những bộ mông tục tĩu, trong thi ca có thứ thơ thu hút người vì vần điệu âm u, ảm đạm.
Nhân cách được phân biệt theo thiện ác; văn phong không có văn phong thiện với ác, chỉ có văn phong đẹp với xấu. Và cái hỏng nặng nhất cho người làm văn thơ là không có được một phong cách, dù chuyên làm văn thơ yêu nước thương nòi. Ì ạch viết suốt một đời mà xem ra chẳng thấy một phong cách gì: Chuyện khổ não ấy lại xảy ra đều đều.
Ta liên tưởng đến một chuyện khổ não trần gian khác, cũng lại thường xảy ra: tô phở không mùi.
Trong tác phẩm của Thế Giang có lần hai người trẻ tuổi nói chuyện về phở Thìn ở Hà Nội. Một người bảo: “Cậu thử tưởng tượng xem, về khuya đi ngược gió đông, cách cả trăm thước mà cái thằng phù thủy ấy nó giở nắp thùng lên thì có sởn gai ốc không hả…? Trong túi không có tiền thì bỏ mẹ!” Rồi người ấy lại bồi thêm câu nữa: “Thế mới là phở chứ những chỗ cậu kể đi sắp ngã vào nồi cũng không hay, bát phở bưng đến trước mặt, mở mắt ra mới biết thì còn gì là phở?” (Thằng người có đuôi) Ôi! thật xứng đáng là những lời vàng ngọc về cái chân lý phở.
Hình như cổ nhân đã bận tâm nhiều lắm về mùi thơm của các món ăn. Trong vài món phổ biến như phở Bắc như bún bò Huế, mối bận tâm ấy từng thể hiện nơi chiếc muỗng và cái tô chẳng hạn. Tôi có cảm tưởng bát bún bò ngày xưa bưng ăn ở Huế nó nhỏ hơn ngày nay nhiều. Xưa kia, nó là cái bát tai bèo, vừa bé vừa cạn lại vừa dày cộm: dung lượng được mấy? Vì thế, thực khách có thể “thanh toán” bát bún bò tiền chiến thật nhanh chóng, thanh toán trong khi nó còn nóng hôi hổi, bốc hơi ngào ngạt. Bát bún bò mỗi ngày mỗi nở lớn thêm. Bát lớn quá, ăn mãi một hồi lâu chưa chịu hết, tất nguội lạnh, còn có mùi thơm nào bốc lên từ đống đồ ăn lạnh lẽo ấy nữa? Vả lại, bạn nghĩ coi: người hàng bún chỉ rắc hành tiêu lên mặt một lần, lúc làm xong bát bún bưng mời bạn xơi, chứ có ai đứng mãi bên cạnh mà hầu bạn, mà thỉnh thoảng lại chồm vào rắc hành rắc tiêu cho bạn đâu? Chút hương liệu rắc lên mặt làm sao thơm đến tận đáy bát? Thành thử bảy tám phần mười bát bún lớn, bạn ăn không mùi.
Tô phở nó lại càng lớn mạnh hơn nữa theo thời gian: phở tàu bay, phở tàu ngầm, phở xe lửa v.v… Toàn thể các loại phở “jumbo” ấy là những đấng khổng lồ làm khiếp vía các bậc phở tiền bối. Tại sao không tiếp tục giữ kích thước khiêm tốn cũ: mỗi lần ngon trớn, có đầy đủ yên-sĩ-phi-lý-thuần, ta gọi tiếp tô phở mini thứ nhì, có sao đâu?
Đó là chuyện cái tô. Lại còn vấn đề chiếc muỗng. Ngày còn học ở Huế, mỗi khi ăn bún bò, cả bọn chúng tôi ở cùng một nhà trọ thường ăn cái bún bò gánh đi bán dạo. Bà hàng bún làm xong bát bún hình như chỉ đặt ngang một đôi đũa trên miệng bát trước khi trao cái bát tai bèo đang bốc hơi vào tay thực khách. Tôi không nhớ có kèm theo muỗng. Chúng tôi vừa ăn vừa húp nước xùm xụp.
Trước kia, trên đường Nam tiến món phở chưa vượt qua sông Gianh, tôi không biết lối ăn phở theo phép tắc ngày xưa nó ra thế nào. Bây giờ thỉnh thoảng có bậc tuổi tác gốc miền Bắc nhắc rằng ăn phở trước kia cũng không hay dùng đến muỗng. Lý do là muỗng nó hại mùi.
Hãy tưởng tượng, nấu một món ăn vương giả thơm lừng dưới bếp, mà bao nhiêu vị khách quí thì say sưa bàn những vấn đề quốc quân trọng sự trên phòng khách. Để tỏ lòng ngưỡng mộ một vị thượng khách kính yêu nào đó, ta muốn cho vị ấy nếm thử món ăn đang ở thời điểm thơm ngon nhất. Ta lấy chiếc thìa con múc đầy một thìa, run rẩy mang lên phòng khách trút vào mồm thượng khách kính yêu. Kết quả ra sao? Kết quả là thượng khách đớp phải một món ăn vô vị: món ăn còn đó mà mùi thơm đã chết mất dọc đường. Món ăn dù quí đến chừng nào mà chỉ “trích tuyển” ra một muỗng con, mang đi vòng vo, thì cũng không còn giữ được hương vị nữa.
Vì thế cái muỗng phở trích tuyển đưa lên mồm nó cũng chịu ít nhiều thiệt thòi. Chịu khó bưng tô phở lên mà húp thì mồm chỉ húp một ngụm mà mũi hưởng được cái thơm của cả tô. Nếu quả thật trước kia ăn phở không dùng muỗng thì, một lần nữa, các bậc tiền hiền lại đáng ca ngợi.
E có kẻ cho rằng tôn kính tiền nhân thì nên để trong lòng, còn ngoài mặt hãy nên dung hòa với phép ăn uống của địa phương: ngồi ở một tiệm ăn trên đất Hoa Kỳ, bưng nguyên cái bát to tướng lên mà húp, có khó coi chăng?
— Lấy con mắt người Mỹ mà coi, có khó thật. Nhưng một khi người Mỹ cũng bưng bát lên húp, thì cái coi không còn khó nữa. Tại các tiệm ăn Nhật, thỉnh thoảng người ta vẫn có dọn những món xúp không ăn bằng muỗng. Thật tình mà nói, riêng phần tôi, tôi chỉ gặp một thứ xúp lỏng, ngửi qua mùi chẳng thấy thơm tho gì, thế nhưng theo phép vẫn bưng cả tô để thưởng thức cái mùi mà mình chưa quen. Các thực khách người Mỹ chung quanh cũng vui vẻ làm như thế cả. Không khó coi là mấy.
Mùi thơm của một món ăn, người ta bảo vệ nó cẩn thận như thế, vai trò nó quan trọng như thế, cái thế giá của nó cao như thế, mà sự lợi ích “cụ thể” của nó ra làm sao? Nói về phở chẳng hạn: Phở là món để ăn, không phải để ngửi. Xưa nay thiên hạ hăm hở vào tiệm phở không phải cốt mua lấy tô phở, ngồi ôm hít một lát rồi ra đi thỏa mãn. Đó không phải cách thưởng thức phở chính thống. Ấy thế mà cái phở không thơm, cái phở “đi sắp ngã vào nồi cũng không hay” thì lại không “còn gì là phở”! Có kỳ cục không chứ?
Phở cốt để ăn, vậy cái thực chất của phở là bánh phở, là nước dùng, là miếng thịt, là những sách những nạm v.v…, đó mới là những cái cụ thể để hưởng, còn thơm với không thơm thì hưởng ra làm sao? Thơm không phải là cái ngon của phở; chẳng qua nó chỉ báo hiệu cái ngon. Thưởng thức cái ngon thì được, thưởng thức cái… báo hiệu thì thưởng thức làm chi? Vậy mà không báo hiệu thì… “còn gì là phở”! Kỳ cục thật.
Kỳ cục như văn thơ. Đọc Nguyễn Tuân chẳng hạn là để xem chuyện cô Tơ chuyện cậu Lãnh Út, chuyện cái da cái tóc của chị Hoài, cái cười cái nói của phu nhân họ Bồ v.v… nó ra làm sao. Đó mới là thực chất cụ thể. Ăn phở thì ăn thịt ăn bánh, còn cái mùi chỉ để… ngửi chơi. Đọc sách thì đọc chuyện đọc ý, còn phong thái là cái vô hình phảng phất, chỉ để… ngửi chơi. Vậy mà chính cái đó mới làm cho Nguyễn Tuân thành Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính thành Nguyễn Bính, Phan Khôi thành Phan Khôi, cũng như xưa kia cái văn phong đó đã làm cho Lý Bạch thành Lý Bạch, Tô Đông Pha thành Tô Đông Pha v.v… Cái đó chứ không phải là những tài tả cảnh hay ho, là những tư tưởng cao siêu nào.
Hôm nay chúng ta nói lếu nói láo về cái mùi của văn thơ, về chuyện ngửi văn thơ, đừng tưởng là có gì mới mẻ. Người xưa đã từng có lần mắng cái mũi vô duyên của mình khi nó sục sạo, ngửi phải câu thơ thi xã đấy.
Võ Phiến
Hễ đọc thơ đọc văn mà đã bắt được nét đẹp của một phong cách, đã yêu nó, thì cứ thoáng thấy nó xuất hiện ở đâu là thích đấy, bất luận người nghệ sĩ đang nói gì, đang đề cập đến vấn đề gì, đang tả cái gì, đang kể lể con cà con kê về cái gì. Tả tiếng còi hụ nghe mà ghê, tả bà Tú thấy mà thương v.v…, có tai mắt tuyệt hảo, có khiếu quan sát tinh tường, có nhận xét sắc bén v.v… là chuyện nhỏ nhặt quá, so với một phong cách. Phong cách, nó phản ảnh một quan niệm sống, một thái độ ở đời, nó phản ảnh một khung cảnh xã hội, một thời đại, nó thừa kế các đặc điểm của một dòng dõi, một đường hướng giáo dục, một bầu không khí văn hóa v.v… Nó là cái dung mạo của một tâm hồn.
Hãy khoan nói đến hạng độc giả đọc cho vui, đọc những loại “truyện hay vì truyện”, có lắm gút thắt rối ren được tháo gỡ tài tình. Ngoài trường hợp ấy ra, nếu ta tìm đến cuốn sách cốt để gần gũi một tâm hồn, để bắt gặp một quan niệm nhân sinh, một thái độ ở đời, thái độ của người đồng loại đối với cái sống, cái chết, đối với tình yêu v.v…, nếu thế thì một khi đối diện một phong cách đẹp đẽ, tự nhiên mê tơi. Lúc bấy giờ ta trở nên rộng lượng, không chấp nê những món lẻ tẻ: câu văn cẩu thả, lời lẽ mù mờ v.v… Tha thứ được cả.
Nói ta rộng lượng, e chướng tai chăng? “Ta” là ai mà hách vậy? mà có quyền rộng lượng hẹp lượng đối với các văn gia thi gia? — Không, cái “ta” ấy không dính líu gì đến kẻ đọc người viết những lời bàn tán hôm nay. “Ta” đây là nói chung về độc giả, về khối quần chúng độc giả mênh mông, trải qua nhiều thế hệ, đã âm thầm thưởng thức, phán đoán, chọn lựa, đã tạo dựng nên tên tuổi của tác giả này, làm sáng tỏ giá trị của tác phẩm nọ.
Vừa rồi Nguyễn Tuân được nêu ra, rồi đây nếu có những tác giả khác lại được viện dẫn nữa, họ được nêu dẫn vì lẽ ấy: họ đã được quần chúng chọn lựa, họ đã trước tác hơn nửa thế kỷ; họ đã cách lớp chúng ta một khoảng thời gian khá rộng đủ để cho những phản ứng sôi nổi nhất thời kịp lắng xuống. Cũng vì vậy cái phần trước tác của họ được nói đến đây là cái phần trước 1945, cái phần đã cách xa, đã trải qua thử thách của thời gian, chứ không phải những gì họ mới viết sau này, khi “trạng thái của tâm hồn” họ đã đổi khác: phần sau còn chờ sự thẩm định trong tương lai.
Xin trở lại chỗ rộng lượng. Xuân Diệu có những câu thơ thế này:
“Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm,
Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu.
Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều.”
(‘Xuân không mùa’)
“Vài ba sương mỏng thắm” là thế nào? Rồi lại còn “năm bảy sắc yêu yêu”, sắc yêu yêu là cái sắc ra làm sao? là cái sắc quái quỉ gì vậy? Đó là một từ ngữ địa phương, một lối nói riêng của vùng quê cha ngoài Hà Tĩnh hay của vùng quê mẹ trong Bình Định chăng? Chắc không phải thế đâu. Nếu “sắc yêu yêu” mà có đến từ một quê hương nào, thì cái quê hương ấy nên mang tên là Lúng Túng, là Quýnh Quáng. Đang ngon trớn, đang nói dồn nói dập, thi sĩ cứ phóng bừa tới, không muốn để cho những cân nhắc thận trọng, những trau chuốt tỉ mỉ chận mất đà của mình vậy thôi.
Trong cùng một bài thơ ấy, chúng ta còn có thể nhặt được những câu khác, đại khái cùng một lối như thế.
“Xuân ở giữa mùa đông khi nắng hé;
Giữa mùa hè khi trời biếc sau mưa
Giữa mùa thu khi gió sáng bay vừa”
hay:
“Bình minh quá, mỗi khi tình lại hứa”
Hồi trước, có kẻ bảo rằng Xuân Diệu chịu ảnh hưởng Pháp, rằng những câu nọ là “Tây” quá. Ối, Tây nó đâu có ngọng nghịu vậy? Dù sao, Tây hay không Tây, những bài thơ như thế đã làm nên danh tiếng của Xuân Diệu. Nó ra đời năm 1939. Một năm sau khi xuất bản Thơ thơ, vào thời lẫy lừng nhất của thi sĩ.
Trong trường hợp khác, Xuân Diệu lại viết:
… “Nhưng ta sẽ yêu nhau mãi mãi,
mãi mãi là trong những phút giây.
Lâu dài là bóng là mây,
là môi kỳ ngộ là tay hảo cầu.”
(‘Mãi mãi’)
Tại sao vậy? Tại sao phút giây lại là mãi mãi? bóng với mây lại là cái tồn tại lâu dài? Tác giả không giải thích những chuyện tréo tro ngược đời ấy, ông cứ nói, cứ tuôn ra liên tiếp những cái kỳ cục, để… thuyết phục! Và ông đã thuyết phục được, không phải nhờ lý luận, mà nhờ sức lôi cuốn của một niềm tin, của một giọng say sưa dồn dập, của một “trạng thái tâm hồn”: thiết tha, sôi nổi, nồng nàn.
Thành thử nhiều lúc hứng chí lên thi sĩ nói vội nói vàng. Chữ xô đẩy chữ, lời chen lấn lời. Cứ thế ông thu hút người, bất kể từ ngữ ông dùng có chính xác hay không chính xác, lập luận ông đưa ra có chặt chẽ hay không chặt chẽ. Một phong cách, nó quan trọng là thế.
Nhưng làm sao “bắt” được phong cách của một tác giả? Muốn thưởng thức, muốn phân tích, khen chê một cái tài tả cảnh, một lời văn điêu luyện: dễ hơn nhiều. Câu văn nằm chình ình trên trang sách; tha hồ đè nó ra, xem đi xét lại, vạch kẽ từng chữ mà bình mà phê mà giảng mà luận; tha hồ tách bạch từng ý mà hạch hỏi. Còn phong cách, nó phảng phất ở đâu? nó nương mình vào chỗ nào? vào câu nào chữ nào? trong hàng trăm hàng nghìn trang sách?
Biện biệt cho được cái phong cách của một tác giả cũng như của một con người, là cả một rắc rối. Không phải cách nói cẩu thả, vội vàng, bộp chộp nào cũng là một biểu lộ của nhiệt tình sôi nổi, không phải cứ tung bừa ra những lầm lỗi vấp váp thì bỗng dưng có một tâm hồn thiết tha say mê.
Nguyễn Tuân chỉ viết có hai chữ “chao ôi” rồi chấm dứt, rồi sang hàng: thế là tài hoa, là khinh bạc ư? — Ối! gì chứ hai chữ sang hàng thì có gì khó? Đời nay khối kẻ cứ một chữ sang một hàng, liên tiếp năm lần bảy lượt còn dám nữa là một lần! Một chữ, chấm sang hàng. Một chữ nữa, chấm sang hàng. Cứ ngúc nga ngúc ngắc, cà khục cà khặc. Đời nay thiếu gì kẻ dám làm thế? người ta đâu có ngán những trò đó. Khó khăn gì đâu? Phong cách học giảng thuyết dông dài liệu có chắc giúp người ta phân biệt được cái nhăn mặt của Tây Thi với những lối nhăn nhó của các nàng Đông Thi chăng? phân biệt một phong cách đích thực với những bản sao lem nhem chăng?
Biện luận thuyết giảng thì rối rắm, nhưng phong cách là một sự thực. Lấy lương tri ra trực nhận có vẻ giản dị. Bà mẹ của Tôn Quyền không phải là nhà tướng số, thế mà chỉ cần nhìn qua anh chàng Lưu Bị một cái là đủ biết ngay con người đàng hoàng, xứng đáng cho cô gái cưng gửi thân trọn đời. Lại như cái gã Hồ Ban nọ, đã chấp lệnh quan thái thú Huỳnh Dương đem củi khô chất quanh quán dịch, đã đem cả nghìn quân vây chặt, chỉ còn chờ một ngọn lửa châm là đốt cháy tiêu luôn chị em Quan Công, thế nhưng lỡ tò mò ghé mắt nhìn thử bộ dạng Quan Công ngồi đọc sách dưới đèn có một tí ti mà buột miệng kêu: “Quả thật đúng là người nhà Trời!” rồi cúi lạy, rồi mở cửa ải mời Quan Công vọt thẳng.
Ấy, người có cái cốt cách của người nhà Trời, nhác trông qua là biết, không cần phải thử tài cao thấp, phải theo dõi hành trạng một đời, phải nghe biện giải dông dài. Văn cũng có cái cốt cách của văn: cốt cách văn chương nhà Trời, cốt cách phong nhã, cốt cách sát phạt bạo liệt, cốt cách kiều mỵ lâm ly… Hợp thì thoáng qua một cái là thấy hợp, là “bắt” được ngay, là “chịu” liền.
“Chịu” như thế, e có thể bị bắt bẻ. Anh chàng Hồ Ban chịu Quan Công người nhà Trời, đó là tất nhiên. Bà mẹ Tôn Quyền chịu Lưu Bị, cũng là phải cách. Còn như đọc văn sao lại “chịu” một cái văn phong khinh bạc kiêu kỳ? có phải là nhảm không? có phải là chính trong cái nết na của mình đang có chỗ khiếm khuyết trầm trọng, khiến mình xa lánh kẻ khiêm nhu mà mỗi khi bắt gặp một dáng vẻ cao ngạo lại bất giác hớn hở tưng bừng như thể trâu gặp trâu ngựa gặp ngựa?
Mắng như thế là mắng đến nơi đến chốn. Kẻ độc giả phải lấy làm sợ hãi, vội vàng kiểm điểm lại lòng mình; và — thành thực mà nói — thấy quả có điều oan ức. Có sự ngưỡng mộ căn cứ trên các tiêu chuẩn đạo lý; có sự thưởng thức căn cứ trên các tiêu chuẩn thẩm mỹ. Bao nhiêu vẻ đẹp bày ra trong văn chương Đông Tây xưa nay không phải đều là vẻ đẹp cao khiết đoan chính cả. Bàng bạc một niềm nhân ái bao la như thơ Đỗ Phủ là đẹp, thấm thía nỗi u sầu hắc ám như thơ Edgar Poe, Baudelaire cũng là đẹp, hùng hồn dũng mãnh như Victor Hugo là đẹp, mà chán chường não nề như Verlaine, thê thiết như Hồ Dzếnh cũng lại có nét đẹp riêng v.v… Bắt được cái đẹp của phong cách Đỗ Phủ, Victor Hugo, chớ vội vênh váo cho là rồng gặp rồng; rung động trước cái đẹp của phong cách Verlaine, Baudelaire, vị tất đã là rắn khoái rắn.
Văn chương nghệ thuật không phải là chỗ phô trương những phong cách người Trời, những phong cách anh hùng chí sĩ. Thường khi, trái lại. Trong hội họa có thứ tranh quyến rũ vì sắc màu xanh lướt bệnh hoạn, vì những chiếc cổ dài ngoẳng, những bộ mông tục tĩu, trong thi ca có thứ thơ thu hút người vì vần điệu âm u, ảm đạm.
Nhân cách được phân biệt theo thiện ác; văn phong không có văn phong thiện với ác, chỉ có văn phong đẹp với xấu. Và cái hỏng nặng nhất cho người làm văn thơ là không có được một phong cách, dù chuyên làm văn thơ yêu nước thương nòi. Ì ạch viết suốt một đời mà xem ra chẳng thấy một phong cách gì: Chuyện khổ não ấy lại xảy ra đều đều.
Ta liên tưởng đến một chuyện khổ não trần gian khác, cũng lại thường xảy ra: tô phở không mùi.
Trong tác phẩm của Thế Giang có lần hai người trẻ tuổi nói chuyện về phở Thìn ở Hà Nội. Một người bảo: “Cậu thử tưởng tượng xem, về khuya đi ngược gió đông, cách cả trăm thước mà cái thằng phù thủy ấy nó giở nắp thùng lên thì có sởn gai ốc không hả…? Trong túi không có tiền thì bỏ mẹ!” Rồi người ấy lại bồi thêm câu nữa: “Thế mới là phở chứ những chỗ cậu kể đi sắp ngã vào nồi cũng không hay, bát phở bưng đến trước mặt, mở mắt ra mới biết thì còn gì là phở?” (Thằng người có đuôi) Ôi! thật xứng đáng là những lời vàng ngọc về cái chân lý phở.
Hình như cổ nhân đã bận tâm nhiều lắm về mùi thơm của các món ăn. Trong vài món phổ biến như phở Bắc như bún bò Huế, mối bận tâm ấy từng thể hiện nơi chiếc muỗng và cái tô chẳng hạn. Tôi có cảm tưởng bát bún bò ngày xưa bưng ăn ở Huế nó nhỏ hơn ngày nay nhiều. Xưa kia, nó là cái bát tai bèo, vừa bé vừa cạn lại vừa dày cộm: dung lượng được mấy? Vì thế, thực khách có thể “thanh toán” bát bún bò tiền chiến thật nhanh chóng, thanh toán trong khi nó còn nóng hôi hổi, bốc hơi ngào ngạt. Bát bún bò mỗi ngày mỗi nở lớn thêm. Bát lớn quá, ăn mãi một hồi lâu chưa chịu hết, tất nguội lạnh, còn có mùi thơm nào bốc lên từ đống đồ ăn lạnh lẽo ấy nữa? Vả lại, bạn nghĩ coi: người hàng bún chỉ rắc hành tiêu lên mặt một lần, lúc làm xong bát bún bưng mời bạn xơi, chứ có ai đứng mãi bên cạnh mà hầu bạn, mà thỉnh thoảng lại chồm vào rắc hành rắc tiêu cho bạn đâu? Chút hương liệu rắc lên mặt làm sao thơm đến tận đáy bát? Thành thử bảy tám phần mười bát bún lớn, bạn ăn không mùi.
Tô phở nó lại càng lớn mạnh hơn nữa theo thời gian: phở tàu bay, phở tàu ngầm, phở xe lửa v.v… Toàn thể các loại phở “jumbo” ấy là những đấng khổng lồ làm khiếp vía các bậc phở tiền bối. Tại sao không tiếp tục giữ kích thước khiêm tốn cũ: mỗi lần ngon trớn, có đầy đủ yên-sĩ-phi-lý-thuần, ta gọi tiếp tô phở mini thứ nhì, có sao đâu?
Đó là chuyện cái tô. Lại còn vấn đề chiếc muỗng. Ngày còn học ở Huế, mỗi khi ăn bún bò, cả bọn chúng tôi ở cùng một nhà trọ thường ăn cái bún bò gánh đi bán dạo. Bà hàng bún làm xong bát bún hình như chỉ đặt ngang một đôi đũa trên miệng bát trước khi trao cái bát tai bèo đang bốc hơi vào tay thực khách. Tôi không nhớ có kèm theo muỗng. Chúng tôi vừa ăn vừa húp nước xùm xụp.
Trước kia, trên đường Nam tiến món phở chưa vượt qua sông Gianh, tôi không biết lối ăn phở theo phép tắc ngày xưa nó ra thế nào. Bây giờ thỉnh thoảng có bậc tuổi tác gốc miền Bắc nhắc rằng ăn phở trước kia cũng không hay dùng đến muỗng. Lý do là muỗng nó hại mùi.
Hãy tưởng tượng, nấu một món ăn vương giả thơm lừng dưới bếp, mà bao nhiêu vị khách quí thì say sưa bàn những vấn đề quốc quân trọng sự trên phòng khách. Để tỏ lòng ngưỡng mộ một vị thượng khách kính yêu nào đó, ta muốn cho vị ấy nếm thử món ăn đang ở thời điểm thơm ngon nhất. Ta lấy chiếc thìa con múc đầy một thìa, run rẩy mang lên phòng khách trút vào mồm thượng khách kính yêu. Kết quả ra sao? Kết quả là thượng khách đớp phải một món ăn vô vị: món ăn còn đó mà mùi thơm đã chết mất dọc đường. Món ăn dù quí đến chừng nào mà chỉ “trích tuyển” ra một muỗng con, mang đi vòng vo, thì cũng không còn giữ được hương vị nữa.
Vì thế cái muỗng phở trích tuyển đưa lên mồm nó cũng chịu ít nhiều thiệt thòi. Chịu khó bưng tô phở lên mà húp thì mồm chỉ húp một ngụm mà mũi hưởng được cái thơm của cả tô. Nếu quả thật trước kia ăn phở không dùng muỗng thì, một lần nữa, các bậc tiền hiền lại đáng ca ngợi.
E có kẻ cho rằng tôn kính tiền nhân thì nên để trong lòng, còn ngoài mặt hãy nên dung hòa với phép ăn uống của địa phương: ngồi ở một tiệm ăn trên đất Hoa Kỳ, bưng nguyên cái bát to tướng lên mà húp, có khó coi chăng?
— Lấy con mắt người Mỹ mà coi, có khó thật. Nhưng một khi người Mỹ cũng bưng bát lên húp, thì cái coi không còn khó nữa. Tại các tiệm ăn Nhật, thỉnh thoảng người ta vẫn có dọn những món xúp không ăn bằng muỗng. Thật tình mà nói, riêng phần tôi, tôi chỉ gặp một thứ xúp lỏng, ngửi qua mùi chẳng thấy thơm tho gì, thế nhưng theo phép vẫn bưng cả tô để thưởng thức cái mùi mà mình chưa quen. Các thực khách người Mỹ chung quanh cũng vui vẻ làm như thế cả. Không khó coi là mấy.
Mùi thơm của một món ăn, người ta bảo vệ nó cẩn thận như thế, vai trò nó quan trọng như thế, cái thế giá của nó cao như thế, mà sự lợi ích “cụ thể” của nó ra làm sao? Nói về phở chẳng hạn: Phở là món để ăn, không phải để ngửi. Xưa nay thiên hạ hăm hở vào tiệm phở không phải cốt mua lấy tô phở, ngồi ôm hít một lát rồi ra đi thỏa mãn. Đó không phải cách thưởng thức phở chính thống. Ấy thế mà cái phở không thơm, cái phở “đi sắp ngã vào nồi cũng không hay” thì lại không “còn gì là phở”! Có kỳ cục không chứ?
Phở cốt để ăn, vậy cái thực chất của phở là bánh phở, là nước dùng, là miếng thịt, là những sách những nạm v.v…, đó mới là những cái cụ thể để hưởng, còn thơm với không thơm thì hưởng ra làm sao? Thơm không phải là cái ngon của phở; chẳng qua nó chỉ báo hiệu cái ngon. Thưởng thức cái ngon thì được, thưởng thức cái… báo hiệu thì thưởng thức làm chi? Vậy mà không báo hiệu thì… “còn gì là phở”! Kỳ cục thật.
Kỳ cục như văn thơ. Đọc Nguyễn Tuân chẳng hạn là để xem chuyện cô Tơ chuyện cậu Lãnh Út, chuyện cái da cái tóc của chị Hoài, cái cười cái nói của phu nhân họ Bồ v.v… nó ra làm sao. Đó mới là thực chất cụ thể. Ăn phở thì ăn thịt ăn bánh, còn cái mùi chỉ để… ngửi chơi. Đọc sách thì đọc chuyện đọc ý, còn phong thái là cái vô hình phảng phất, chỉ để… ngửi chơi. Vậy mà chính cái đó mới làm cho Nguyễn Tuân thành Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính thành Nguyễn Bính, Phan Khôi thành Phan Khôi, cũng như xưa kia cái văn phong đó đã làm cho Lý Bạch thành Lý Bạch, Tô Đông Pha thành Tô Đông Pha v.v… Cái đó chứ không phải là những tài tả cảnh hay ho, là những tư tưởng cao siêu nào.
Hôm nay chúng ta nói lếu nói láo về cái mùi của văn thơ, về chuyện ngửi văn thơ, đừng tưởng là có gì mới mẻ. Người xưa đã từng có lần mắng cái mũi vô duyên của mình khi nó sục sạo, ngửi phải câu thơ thi xã đấy.
Võ Phiến
14. MỘT NGƯỜI
Lần đầu tôi được biết Nguyễn Bá Trạc cách đây chừng hăm lăm năm, thuở
cùng chân ướt chân ráo đến Hoa Kỳ, ai nấy nhốn nháo chưa rõ đâu vào đâu.
Chuyến ấy tôi cặp hoạ sĩ Lâm Triết (là bạn của nhà văn Nguyễn), lên
chơi Bắc Cali cho biết sự tình.
Buổi sáng, ông Nguyễn đi ra đi vào, băn khoăn. Lâm Triết giải thích vào
tai tôi khe khẽ: “Sắp cúng. Chưa mua được trầu cau”. (Giỗ quải hay cúng
bái gì, tôi quên).
Lát sau, ông Nguyễn sốt ruột hẳn. Lâm Triết mỉm cười ranh mãnh, bấm nhẹ
vào cổ tay tôi. Triết không nói gì, nhưng nụ cười và ánh mắt ngầm nói:
“Chờ xem. Có thể chàng còn lắm trò...”
Quả nhiên, rồi tôi được biết thêm về Nguyễn Bá Trạc, qua thơ văn ông. Biết ông đang lạnh lòng:
Tấm lòng lạnh ngắt, mối sầu mênh mông.
Biết ông quạnh quẽ:
Ta quạnh quẽ như đồng cỏ úa
Trong mịt mùng vây bủa khói sương.
Lại biết ông từng xúi một nhân vật tiểu thuyết nọ nhăn nhó cự nự: Nước mưa ở Mỹ, uống vào đắng cả mồm.
Tôi đâm ái ngại cho nước Mỹ. Nó đang còn ê ẩm về những vết thương mang
từ chiến trường Việt Nam về, nó sắp nhọc nhằn về nhiệm vụ phụng dưỡng
đám khách khứa tính tình khó hiểu, tâm hồn chất chứa bao nhiêu bí ẩn rối
rắm. Nước Mỹ va đầu vào định mệnh khắc nghiệt, nước Mỹ gục đến nơi
chăng?
Sau đó, Nguyễn Bá Trạc sống cuộc sống của ông, tôi xuôi ngược sống đời tôi.
Hăm lăm năm sau, tháng 9-2002, bất ngờ tôi gặp lại Nguyễn Bá Trạc. Lần này trên tờ báo Văn. Ông có bài thơ trên báo ấy: “Tôi sống thế này là ô-kê.”
Bài thơ thật lạ lùng. Đọc qua mấy câu đã thấy lòng phơi phới: Ơ hay!
người cũ biến mất đâu rồi? Trước mắt mình là một con người khác hẳn.
Cũng là Nguyễn Bá Trạc đây sao? Tôi sửng sốt: “Tại sao đời sống hoá
ô-kê? Chuyện gì đã xảy ra? Trầu bỗng nhiên mọc tràn ngập nước Mỹ chăng?
Nước mưa gần đây từ trời xanh rót xuống có được giữ lại pha nước đường
vào chăng?”
Rốt cuộc đành phải xông thẳng vào bài thơ mà tìm hiểu. Bài thơ trong leo lẻo, không có chỗ nào cầu kỳ khó khăn:
Tôi sống thế này là ô-kê
Không thêm bớt
Sáng chim kêu gà gáy
Chủ nhật dắt chó đi chơi
dù dạo này hơi mệt, bớt đi.
Tôi sống thế này là ô-kê
Vài bạn già
một căn nhà
hai con gà
dăm con chim con chó
Cô vợ, thằng con nhỏ giống mẹ
cái mũi cái mồm
giống cha cặp mắt ngựa non
[...]
Tôi sống thế này là ô-kê
trong căn nhà nhỏ hai phòng đủ ở
Có bán đi, trả hết vẫn lời hai trăm.
Đấy, thơ đấy. (Phần chính ở cả đấy; ngoài ra, mấy câu lơ thơ nữa thôi.)
Có ai sành sỏi phát giác ra cái ý nghĩa thâm thuý của bài thơ, cái lý
do ẩn tàng của niềm vui nằm ở chỗ nào, xin mách bảo. Riêng đối với tôi,
chừng ấy đủ rồi.
Thơ ấy ra đời xong, tôi nhìn đĩa rau sống trong mâm cơm, thấy cái màu
xanh của rau hớn hở hẳn ra. Hớn hở một cách hồn nhiên. Nhìn vạt ánh sáng
vẫn nằm giữa sân từ trước, vạt sáng mừng rỡ một cách ồn ào.
Tôi biết đích xác chuyện ấy không do tôi sáng dạ. Chẳng qua mình vừa ngộ
được một sự thực hiển nhiên: là cái phép mầu của thơ văn. Thơ ô-kê xuất
thế, cuộc sống nó nhảy cỡn lên sung sướng, đơn giản thế thôi.
Cùng trong một tháng 9-2002 ấy, tôi lại gặp bài thơ Tô Thùy Yên mới viết, in trên tạp chí Văn Học.
Ông Tô, trước ngày ông sang Mỹ tôi cũng chưa từng quen biết. Vả lại, tôi
nghĩ ông chẳng phải sinh ra để kết bè bạn với ai. Thế nhân chẳng mấy ai
thực sự quen biết ông. Ông là người của Trời Đất nói chung. Ông không
bận tâm chuyện nhà ở mấy buồng, vườn có mấy gà mấy chó, bán đi lời lỗ
bao nhiêu, v.v... Ông Tô là người của vũ trụ. Thuở trai trẻ, tâm hồn
nồng nàn lạ thường. Ông sở hữu cả cuộc sống:
Ta ngồi trước ngõ nghe xao động
Trời đất bào thai cựa cựa nhanh,
Mầm cỏ ngoi ngoi lên rạo rực,
Con chim chèo bẻo hót lanh chanh.
(“Hề, ta trở lại gian nhà cỏ”)
Một chút mầm cỏ là của ông. Cả trời đất cựa động cũng của ông Tô cả đấy:
Gặp buổi trời mưa bay phới phới
Lá cành sáng rỡ sắc hồi xuân.
Ta nhìn ngọn cỏ, lòng mê mẩn,
Nghĩ tới đời ràn rụa thâm ân.
(“Hề, ta trở lại gian nhà cỏ”)
Ông sống vậy đó. Mà ông lại sát kề cái chết, hàng ngày. Vì Tô Thùy Yên bấy giờ đang đánh giặc. Bên cạnh ông:
Người chết mấy ngày chưa lấy xác,
Thây sình, nát mặt, lạch mương tanh...
(“Qua sông”)
Chiến tranh chấm dứt, ông vào tù. Mười năm:
Mười năm, mặt sạm soi khe nước,
Ta hoá thân thành vượn cổ sơ.
[...]
Mười năm, thế giới già trông thấy.
Đất bạc màu đi, đất bạc màu...
(“Ta về”)
Từ ngoài nhà tù bay vào toàn những tin khủng khiếp:
Chuyện trần thế nghe như thất thiệt
Kẻ sống còn, tóc dựng kinh hoàng...
Vương tử, sao đời đến nỗi vậy?
Đất ta, ta giẫm mà ghê chân.
(“Nỗi đợi”)
Sau mười năm, Tô Thùy Yên trở lại với đời. Tháng 7 năm 1985, ông viết
bài “Ta về” dài 124 câu. Say sưa, ngây ngất. Thơ Việt Nam cho đến đây
chưa từng có dịp biết cái khả năng kích động tận cùng của nó. Người Việt
Nam chợt nhận thức ra tầm cỡ lớn lao của tâm hồn mình. (Còn riêng tôi,
tôi nẩy ra cái nết nói năng ba hoa không ai chịu thấu.)
Ông Tô sang Mỹ với bà con Việt kiều. Ông ngược xuôi ngang dọc nước Mỹ,
khắp nơi. Khắp nơi mừng ông. Ông mang niềm hân hoan lớn đến đâu, bà con
mừng đến đấy. Ông ngâm thơ, bà con đắm đuối. Tôi thì bàng hoàng:
Ta về như lá rơi về cội,
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay,
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống,
Giải oan cho cuộc biển dâu này.
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
[...]
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh.
Ai gọi ai đi ngoài quãng vắng?
Phải, ôi vàng đá nhắn quan san?
[...]
Ta về khai giải bùa thiêng yểm.
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi!
Hãy kể lại mười năm mộng dữ.
Một lần kể lại để rồi thôi.
[...]
Cây bưởi xưa còn nhớ trắng hoa.
Đêm chưa khuya lắm, hỡi trăng tà!
Tình xưa như tuổi già không ngủ,
Bước chạm khua từng nỗi xót xa.
[...]
(“Ta về”)
Thơ ông Tô vang lên, tôi vật mình vật mẩy: “Thơ đâu có thơ quái dị thế này. Sao mà chịu thấu, hả Trời?”
May thay, Tô Thùy Yên cất tiếng một hồi rồi ngưng. Rồi ông sống phần ông, tôi sống phần tôi. Ai có phận nấy.
Mười bảy năm sau, tức năm 2002, cũng đúng vào tháng 7, Tô Thùy Yên cầm bút viết bài “Thấm thoát đời ta”.
Bắt đầu bằng giọng gần gũi thân mật, như bạn bè cố cựu có dịp gặp nhau ngồi nhấm nhót miếng quà vặt đưa cay, bồi hồi tỉ tê:
Tôi bây giờ cha mẹ không còn,
Các em hao hớt, bạn thưa vắng
Đời rẽ quặt vô chừng
Người cùng đi một đỗi
Giữ của nhau thương nhớ làm tin.
Thôi mong gì đổi trả.
Giọng thơ đều đều, điềm đạm, không lời to chữ lớn, không nhằm làm ai
động tâm hoảng hốt. Ông nói qua về hiện tình, về cảnh ngộ mình, cũng
theo thông lệ giữa bạn bè lâu ngày gặp lại thôi. Hiện tình:
Nắng mưa thấm thoát đời ta.
Mối mọt căn nhà rệu rã.
Lại thông báo qua mấy nét về những cái thường nhật hiện nay. Cũng là thông lệ nữa thôi:
Đòi phen năm tháng cũ dò về,
Chó già lạ hơi sủa.
[...]
Ngóng quanh quất nghe vang quạnh quẽ,
Thấy trăng sáng quá, ngủ không đành,
Những mong có người thức chuyện vãn.
Mai chia tay, mang theo phần trăng.
Sau đó đôi dòng về quê hương:
Quê nhà nghe nói có,
Chỉ dấu không tìm ra.
Và kết thúc:
Sức già đến lúc phải bỏ bớt,
Bỏ lại bên đường cái bóng ta.
Lời lời thanh thản, ông Tô chỉ có chỗ trách cứ nhẹ nhàng: trách cái
“thấm thoát” của một cuộc đời. Ông trách nhẹ, bỗng dưng tôi ngẩn ngơ,
thẫn thờ. Cái quạnh quẽ từ từ liễm vào người, liễm sâu dần sâu dần. Tôi
lặng người.
Ối! thì ra không có chó già chó trẻ nào vào đấy cả. Chủ nó đấy thôi.
Chết, chết! Coi chừng cái điềm đạm, cái thanh thản của ông Tô. Là dửng
dưng đấy. Là nguội tắt đấy. Là tai hoạ đấy. Ông chối từ quá khứ, quên
tuốt năm tháng cũ, quên mọi chuyện lớn nhỏ trong đời mình, lạc mất cả
quê hương. Quên ngay chính mình rồi. Thôi, còn đâu là ông Tô nữa. Ông
Tô, thôi đã thôi rồi; nước mây man mác... Ông đã lặn mất vào cái bí
nhiệm của Đất Trời huyền vi rồi. Còn ông đâu nữa.
Ông bảo ông bỏ lại cái bóng. Nhớ năm xưa tôi có được xem một cuốn phim
Nhật, phim đen trắng. Thuê ở tiệm về xem. Trong phim, một kiếm khách võ
sĩ đạo một hôm múc tô nước đưa lên miệng, sắp uống, chợt nhận thấy khuôn
mặt in trong tô nước không phải khuôn mặt mình. Kiếm khách ngừng mắt
vào khuôn mặt lạ một lát, ngạc nhiên, nghiêm khắc, rồi khinh bỉ hắt cả
tô nước. Ông múc lên tô nước khác, nhìn; và lần này giận dữ, tạt mạnh cả
tô nước ra xa. Việc tái hiện mặt lạ lần nữa quá mức chịu đựng của người
hiệp sĩ. Ông quày quả bỏ đi, không thèm uống nữa.
Đêm đến ông trằn trọc không ngủ được, trăn qua trở lại mãi. Ông mệt
nhoài, thần trí hoang mang. Bỗng gia nhân bẩm báo: Có ba kẻ giữa đêm
khuya đến nhà xin diện kiến. Hiệp sĩ vùng dậy, xốc kiếm bước ra. Ba kẻ
kia xưng mình được phái đến do người đã hiện mặt trong tô nước. — Ôi
thôi, tức thì gươm kiếm vút qua vút lại, binh sĩ tứ hướng xông ra, cả
toà lâu đài ầm ầm náo động. Máu đổ thịt rơi.
Mấy hôm sau, nửa khuya lại bùng nổ giao tranh khốc liệt. Rồi mấy hôm sau
nữa, v.v... Rồi, đột nhiên, phim ngưng, không có kết thúc. Phim đưa ra
mấy dòng vắn tắt: Phim căn cứ vào một cuốn truyện. Tác giả thiên truyện
đã bỏ lửng không lời giải thích.
Tôi xem đi xem lại cuốn phim mấy lần, từ đó không thoát nổi sự ám ảnh.
Bao nhiêu năm sau, tên phim tôi quên, tên người làm phim tôi quên. Duy
sự ám ảnh không xua đuổi được. Nay, ông Tô của chúng ta: ngay cái bóng
của chính mình cũng không thiết mang theo! Bài thơ đọc xong, cái lạnh
mênh mông thấm liễm tận chỗ sâu xa nhất của tâm hồn. “Bếp lửa nhân quần”
tắt ngấm tự bao giờ, vô phương cứu vãn.
Một trăm hai mươi bốn câu trong bài “Ta về” chúng nó dồn dồn tới, cuồn
cuộn. Ở bài “Thấm thoát...” các câu thơ rã rời hẳn ra. Cuối cùng cái
bóng cũng không bám được vào cái hình nữa!
Cách hăm lăm năm, gặp lại một người. Cách mười bảy năm, gặp lại một người nữa. Đều là những gặp gỡ đích đáng cả.
10-2002
(In trong cuốn Cuối Cùng của Võ Phiến, Thế Kỷ 21 xuất bản tại California, USA, 2010)
15. CHÀ LÁNG
— A, ông bạn. Mấy hôm nay bận việc hả? Không thấy ghé chơi. Có ý chờ đấy.
— Bảy Đùng qua D C, ở luôn bên đó với con. Mình với “chả” chơi với nhau
lâu năm... chuyện biệt ly... Mà ông chờ tôi có việc gì vậy?
— Đâu có việc gì. Tán gẫu thôi. Tôi nảy ý muốn đóng góp với bạn về cái dự án nên trình lên Tạo Hoá.
— Tôi hiểu: Ông bạn vừa bật ra một ý kiến, đang muốn phát biểu, náo nức
cả người, không kìm hãm được. Thế thì ông cứ tuôn ngay ra đi cho nó nhẹ
người.
— Chậc! Ông muốn nghĩ ra sao, tuỳ! Tôi thấy thế này:
Cái đời sống mà Tạo Hoá ban cho ta, nó không thuần là sự sống. Một đời
người có ngần ấy thời gian, quí lắm. Lẽ ra phải thuần túy, mỗi một phút
giây đều là cái sống nồng nàn. Phải không? Đàng này trong ba vạn sáu
ngàn ngày có xen vào ba vạn sáu ngàn đêm. Đêm, để ngủ chứ đâu phải để
sống? Ngủ là nghỉ, là ngưng sống. Nếu trong giấc ngủ có chiêm bao, có
mơ, thì còn có hoạt động, dù là hoạt động giả. Bảo “Có ai nằm ngủ không
mơ”, là nói bậy. Ngủ mùi, ngủ ngon lành thì làm gì có mơ? Cái ngủ như
thế gần với cái chết hơn cái sống chứ. Tôi không đồng hoá nó với cái này
hay cái kia, tôi bảo nó gần cái này hơn cái kia. Ba vạn sáu ngàn đêm,
Trời bớt đi phân nửa đời sống. Êm ru, vô tội vạ. Oan ức chứ. Này nhé:
Khi một người nằm chết thẳng cẳng, lạnh ngắt, cứng đờ; lúc bấy giờ có sự
sống yếu ớt nào lảng vảng tới, mon men tới làm một giấc mơ của thây ma
không? Tại sao trong khi ta đang sống Trời lại ngang nhiên cho một dạng
chết chóc mon men tới đều đều...
— Ngủ là bồi dưỡng thể xác để nó tiếp tục sống, tiếp tục quậy. Không có
thế, nó gục, còn đâu sự sống? Chẳng qua một vấn đề kỹ thuật, cần
thiết...
— Trục trặc kỹ thuật thì trau dồi kỹ thuật. Sai lầm chủ trương: phải chỉnh đốn chủ trương. Trời mà! Cái gì làm chẳng được?
— OK. Tôi sẽ chú ý đặc biệt đến ý kiến của ông bạn. Tiếp tục phát biểu mạnh, e động chạm tới Trời. “Động Trời”, không tốt đâu.
— Ông kỹ thế là phải. Tôi đã đến lúc chẳng cần giữ gìn mấy...
— Không cần úp mở: Ông bạn đang định nói về cái gì đấy?
— Đã nói về cái chết của con người. Tại sao không nói luôn qua cái chết của loài người?
— Chết rụi cả loài?
— Rụi hay không rụi, chưa biết. Chưa tính được kỹ.
Nhưng có sống phải có chết, chạy đâu cho khỏi. Trên mặt đất từng có
những loài sinh vật to lớn, khoẻ mạnh hơn con người rất nhiều, lắm loài
đã rụi luôn...
— Lại có những loài khác, bé bỏng, yếu ớt, như kiến, như bọ..., lại không chịu tuyệt chủng...
— Loài người không được may mắn như thế. Có cơ hội tuyệt chủng đấy...
— Á à! Tôi nhớ cách đây vài năm có xem cuốn sách của ông Buchanan nói về cái chết của giống người Âu Mỹ, giống da trắng...
— Buchanan nào? Có phải ông Patrick Buchanan? từng làm cố vấn cho tổng thống...
— Đấy. Cho ba ông tổng thống Mỹ, không phải chỉ một ông. Lại có mấy lần toan ứng cử, một lần đã ứng cử tổng thống...
— Xem ông ấy phát biểu thế nào?
— Tôi không nhớ được mấy. Qua loa thôi. Rằng các dân tộc Tây phương, dân
giàu, nước mạnh, thì không chịu sinh đẻ. Trái lại, giống da đen nghèo
đói ở Phi châu, các giống dân Ả-rập, dân Trung Đông lại sinh nở ào ào.
Dân Tàu chửa đẻ cũng tưng bừng lắm. Hiện ở Hoa Kỳ có 30 triệu cư dân
sinh đẻ từ ngoại quốc, và có khoảng chục triệu dân nhập cư bất hợp pháp.
Bên Âu châu, tình trạng sa sút dân số thấy rõ: Vào năm 2050 trên hoàn
cầu sẽ chỉ còn độ một phần mười là gốc Âu châu. Và cái phần mười còn lại
ấy đa số thuộc lớp già cả, tuổi trung bình cỡ ngũ tuần! Còn nước Nga
thì sẽ mất tiêu một phần lớn Siberia và phần đất Viễn Đông vào tay giống
dân Tàu, vốn đông gấp 15 lần dân Nga; trong khi ấy Nga còn bị dân Hồi
tràn ngập vào đất Trung Á. Họ khốn đốn tới nơi... Năm chục năm nữa
thôi...[*]
— Nhưng cái mà ông Buchanan quan tâm, nó... nhỏ lắm. Ông ta chỉ lo cho
số phận dân Tây phương da trắng. Da trắng lâm nguy, tuyệt giống, còn mọi
thứ da khác cùng sanh đẻ ào ào, tràn ngập quả đất, thì... Cái tôi nói
đây là số phận của loài người. Của toàn thể nhân loại.
— Á à. Lớn chuyện đa.
— À. Lớn. Bạn ông đã tiêu trọn một đời vào cái nhỏ, những cái nhỏ như:
nhà cửa, con cái, những mua vào bán ra hàng ngày ở một cửa tiệm tạp hoá,
những kèn cựa vớí bạn bè, cãi cọ với vợ con, v.v... Nhất sinh chìm ngập
trong những cái nhỏ, tới lúc này vẫn chúi đầu vào những món linh tinh
đó sao? Ông phải cho tôi...
— Tôi cho. Tôi nhiệt liệt thỉnh cụ cứ xông thẳng vào
những cái lớn nhất. Ý ông muốn bàn về cái ra đi của toàn thể loài
người? Ra đi một loạt cái rụp?
— Rất có thể có chuyện như thế, không sao? Vô vàn tinh tú vận chuyển ào
ào trong vũ trụ, thỉnh thoảng cái này va vào cái kia, tan nát...
— Phải, phải. Ông lo cuống lên, phải lắm.
— Không. Tôi không hề lo chuyện đụng chạm trăng sao. Tôi không tính nói
đến những chuyện như thế bao giờ. Đừng lo, đừng cuống. Chuyện như thế
bất thường, không ngừa được, không tính được. Và xa xôi quá. Hàng triệu
năm hoạ mới xảy ra một lần, nghĩ tới làm chi?
— Cái vụ black hole? Nghe nói...
— Lỗ đen! Lỗ đen ngoài không gian? Cũng xa vời lắm lắm. Nếu ông Bành Tổ còn sống, ổng lo. Tôi với bạn khỏi lo.
— Cái này thì không còn viển vông: Nội cuối thế kỷ này nhiệt độ trung
bình trên quả đất tăng lên ít ra là hai độ bách phân. Nóng nhất từ suốt
một triệu năm qua. Nóng thế không đến nỗi chết, nhưng khốn đốn chứ ông.
Khốn cho người, cho cây cỏ thực phẩm... Hại vô số... Hại lớn.
— Có lớn, nhưng không đến chết thì nên cố gắng chịu đựng.
Cái đáng nghĩ ngợi, theo tôi, là ý định của ông
Trời: Ý định giết ta. Cho sống là ông ấy, bắt phải chết cũng ông ấy
thôi. Trong con người có chromosome; cuối mỗi chromosome có cái telomere. Con người lớn lên, phát triển, các tế bào tự chia cắt ra, từ ít phát triển ra nhiều. Ở mỗi tế bào chia cắt, cái telomere bị ngắn thêm. Tới lúc con người già nua, telomere
ngắn quá, người già có thể lâm bệnh ngặt nghèo: bệnh Alzheimer, bệnh
tim, ung thư, tai biến mạch máu não, v.v. Cá nhân như thế, cả loài người
cũng thế. Telomere ngắn đến mức nào đó, loài người hết khả năng truyền giống. Đi luôn.
— Nhiều cách chết quá. Người sinh ra chỉ có một nguyên nhân: nam gặp nữ.
Mà chết thì do nhiều nguyên nhân quá... Dầu sao rốt cuộc, cái sinh vẫn
thắng cái tử: người mỗi ngày mỗi đông thêm.
— Ấy là nói chuyện hiện thời. Đến đây thì thế, nhưng ngày mai...
— Ngày mai nào? Những cái chết vừa kể ông đều bảo là xa xôi, viển vông. Ngay đến ý định của Trời cũng còn lâu mới thực hiện: telomere có đòi cụt gấp đâu?... Nhưng ông nghiên cứu làm chi nhiều cách hại người vậy?
— Ông bạn có ý định vu cáo gì đấy? Tôi mà nghiên với
cứu cái gì. Nghiên cứu là việc của các nhà khoa học. Họ làm việc, họ
tính toán, thử nghiệm, mằn mò mãi nên kết quả, đem ra công bố. Có những
kẻ tóm tắt nói qua loa cho dễ hiểu; mình hiểu cái được cái mất, đem ra
tán gẫu chơi.
— À. Trong những cái ông kể vừa rồi thì chuyện đụng phải trăng sao,
chuyện lỗ đen giết người..., những cái như thế không hợp với trình độ
tôi. Tôi chú ý nhất tới vụ Trời ghi khắc hẳn vận mạng của loài người vào
mỗi chromosome trong người chúng ta đây. Cái ấy khiếp quá. Chromosome, tức cái gọi là nhiễm sắc thể chứ gì? Ai mà khám phá cái án tử hình ấy? Tôi chịu...
— Xem nào... Đó là ông Stindl bên Âu châu. Hình như Reinhard Stindl, thuộc viện Đại học Vienna...
— Để rồi ông ta tính kỹ coi cái món ấy nó đã mòn tới đâu...
— Ông ấy xa xôi. Chúng ta gần nhau; thú thực với
ông: tôi cũng đang có sẵn một nhận định về vấn đề này. Nếu ông bạn chịu
nghe chơi, tiện lắm.
— Nghe về cái thuyết tận thế của ông ấy à? Tại sao không?
— Ông bạn đã có thiện ý nghe, tôi xin bảo đảm một điều: “Thuyết” tôi cực đơn giản, cực vắn tắt. Này nhé:
Thứ nhất: Từ khai thiên lập địa đến nay, có bao giờ
khí giới giết người được mạnh, có hiệu lực, tiện dụng, có số lượng đầy
đủ (đúng ra là thừa thãi) như lúc này? Những kho bom nguyên tử, bom
khinh khí, vũ khí hoá học, vi trùng... tích chứa ở Nga, Mỹ, Trung Quốc,
Ấn Độ..., một khi tung ra thừa sức giết đi giết lại nhiều lần tất cả
loài người, chà láng mặt địa cầu.
Thứ hai: Từ khai thiên lập địa đến nay, có bao giờ
giữa người với người cái ý muốn giết nhau mãnh liệt như lúc này? Muốn da
diết, không cầm lòng được, tới nỗi đem bom buộc ngay vào chính mình,
bấm nút nổ tan xương mình để giết người? Xưa, hoạ hoằn được một đấng anh
hùng vĩ đại dám thí thân giết thù là tha hồ tượng đồng, bia đá, là sử
sách truyền tụng nghìn năm vạn năm, truyền rộng khắp thế gian. Bây giờ
đàn bà trẻ con, ngày ngày đều làm việc ấy tỉnh bơ như ăn cơm bữa. Kết
hợp hai khoản ấy, ông nghĩ sao?
— (Trầm ngâm. Nghĩ ngợi.)
— Ông bạn nghĩ sao? Lửa giận thì bốc lên phừng phừng, mà lò thuốc nổ vĩ đại thì sát kề bên cạnh... Ông bạn nghĩ sao, hả?
— E đó là hoàn cảnh không thể có chiến tranh được. Hoạ có điên rồ mới đánh nhau trong hoàn cảnh như thế.
— Hai cuộc thế chiến xảy ra trước đây đều bắt đầu
bằng những xung đột địa phương, xung đột nhỏ. Rồi tự nó bùng ra lớn. Lần
này bỗng dưng có yếu tố mới: Bên nào cũng lo rằng nếu không kịp ra tay
trước, chắc chắn mình sẽ chết không kịp ngáp. “Nó” bất ngờ ra tay, “nó”
tiên hạ thủ là mình tiêu luôn; vì thế không thể không...
— (Trầm ngâm.)
— “Úm ba la, chúng ta cùng chết”: Đó là trường hợp
của các cuộc đâm phi cơ vào chúng cư nhiều tầng, đeo bom vào người đi
giết kẻ thù. Đó là chuyện đang xảy ra hàng ngày, lúc này.
— Nguy.
— Thế là ông bạn đồng ý với tôi.
— Nhưng “chúng ta cùng chết”, đã hết đâu? Còn lại những kẻ ngoại cuộc. Còn lại một số nước khác...
— Chẳng qua thưa thớt, ít oi, yếu kém... Vả lại loài
người đã muốn giết nhau tha thiết quá, nỡ nào Tạo Hoá dửng dưng? Mười
phần chết bảy còn ba: Tạo Hoá chắc chắn sẽ không nề hà dọn dẹp cái phần
ba còn sót, lo gì? Tục ngữ một nước nọ có câu “Aide toi, le Ciel t’aidera”
(Mày vung tay, Trời sẽ tiếp tay). Con người đã tha thiết, đã vung tay:
Tạo Hoá nỡ nào không tiếp trợ, không xoá nốt các chỗ sót lai rai? Ông
nghĩ sao?
— (Trầm ngâm.) Tôi nghĩ cái thuyết của ông, nó giống một lời nguyền hơn là một cách tính toán.
— Thì tôi đã bảo trước: Tôi có nghiên cứu, có tính
toán ra cái gì đâu! Đã bảo cái “thuyết” của tôi chẳng qua là một nhận
xét đơn sơ thôi. Không có tính toán rườm rà. Ông bạn vừa nói ra tiếng
“lời nguyền!”. Nếu là lời nguyền rủa thì đó là lời nguyền rủa của Trời.
Không phải của tôi nhá.
Người ham giết người, tôi đâu muốn. Tôi chỉ thấy
vậy, nhận ra như vậy. Tính hiếu sát, tính ấy do Trời. Nếu rủi tôi nhận
định đúng, e chúng ta tiêu tùng đến nơi.
— Tôi nghĩ: Ông sai!
— Nên nói là ông ước, ông cầu mong tôi sai. Chính tôi cũng mong thế.
— (Trầm ngâm.)
Tháng 12-2005
_________________________
[*] The death of the West của Patrick Buchanan, 2002.
(In trong cuốn Cuối Cùng của Võ Phiến, Thế Kỷ 21 xuất bản tại California, USA, 2010)
16. KẺ VIẾT, NGƯỜI ĐỌC
Các ca sĩ, các diễn viên kịch tuồng, các đào kép già trẻ xưa nay, nhiều
người kể khổ về những đòi hỏi gắt gao của nghề nghiệp (cuộc sống thất
thường, cảnh đời lênh đênh, những vất vả khuya sớm...), thường kêu rằng
lắm khi họ muốn bỏ nghề; nhưng bỏ rồi vẫn quay lại, năm lần bảy lượt
không dứt tình được. Sao vậy? Nghệ sĩ bảo: Vì nhớ ánh đèn, nhớ sân khấu
quá, không chịu thấu.
Ánh đèn sân khấu, cái ấy nghe như ma quái. Nhưng nghệ sĩ bảo thế, e là
nói chơi; không phải nói thật. Cái nhớ đích thực là có lẽ là nhớ tiếng
vỗ tay. Nằm nhà, giữa cha mẹ vợ chồng con cái, tha hồ sum vầy, giữa nhà
cửa tươm tất đèn đuốc tha hồ sáng choang, người nghệ sĩ bỏ nghề thỉnh
thoảng vẫn có lúc chợt thấy xuất hiện cái thiếu thốn lớn lao: tức tiếng
vỗ tay. Những trận vỗ tay vỡ rạp ngày nào, thiếu nó, đời bỗng mênh mông,
vô vị thấy mồ.
Không riêng giới nghệ sĩ sân khấu mới thế. Sân khấu thu hút, các sân cỏ
cũng có sức thu hút người không kém. Rồi sân xi-măng, sân băng đá đông
cứng, rồi mặt đường nhựa, hồ nước bể bơi, v.v... cái gì, chỗ nào cũng
hấp dẫn được nhân tài. Miễn có tiếng vỗ tay. Không riêng nghệ sĩ, mà võ
sĩ, mà cầu thủ, người trượt tuyết, kẻ đua xe đua ngựa, người bơi tay bơi
thuyền... đều khó bỏ nghề. Con người khao khát một thái độ niềm nở.
Niềm nở phát lộ cách hồn nhiên như tiếng vỗ tay đã là khoái rồi. Niềm nở
mà đến cao độ, phát biểu cách nồng nhiệt như những nàng thính giả đã
quẳng lên sân khấu cho Elvis Presley cả chiếc chìa khoá phòng đính kèm
địa chỉ của mình, thì nghệ sĩ làm sao bỏ nghề cho được?
Ở mỗi ngành có mỗi cách tỏ bày hâm mộ riêng. Hình như người hoạ sĩ không
có dịp được ái mộ nồng nhiệt như ca sĩ. Nhưng nếu lảng vảng trong phòng
triển lãm người vẽ vẫn được bắt gặp đây đó những vị khách nhìn tranh mê
mẩn. Dù sao, kẻ hoạ còn hơn người viết nhiều. Văn sĩ thua xa mọi thứ sĩ
khác.
— Thế sách hay bán chạy, hốt bạc đầy túi, không khoái à?
— Không thể nói vậy. Tiền mua sách cũng như tiền mua vé vào rạp hát, vào
sân đấu bóng, vào trường đấu võ... Là chuyện tiền trao cháo múc trên
thương trường. Là mua bán. Không phải là phần thưởng. Càng không phải
phần thưởng tinh thần.
Phần thưởng tinh thần của tác giả lẽ ra là cái khoái thích của kẻ đang
thưởng thức mình, là được trông thấy tận mắt sức tác động kỳ diệu (!),
kinh hồn (!) của tác phẩm mình. Xưa nay có văn hào nào được cái diễm
phúc ngắm nét rạng rỡ trên khuôn mặt kẻ đang cầm sách đọc văn mình? Ai?
Tolstoi chăng? Bồ Tùng Linh chăng?!
Người đọc chẳng những không có thói quen mang sách tới đọc ngay trước
mặt tác giả, mà cũng không hề thích đọc trước mặt ai cả. Đọc sách, thích
nhất là đọc một mình. Người cha thường bảo con cái “đi chỗ khác chơi,
để bố xem sách”; người chồng vừa thuê cuốn truyện chưởng ngoài tiệm mang
về cũng tạm lánh vợ để lướt mắt vội vàng qua mấy đoạn gay cấn. Thậm chí
trẻ con, khi đọc sách cũng không muốn bị người lớn “quấy rầy”. Đọc một
mình hoặc ngoài trời, với tia nắng sáng lặng lẽ trên trang chữ, với con
ong thỉnh thoảng bay lạc đến lẩn quẩn rồi vụt bay đi; hoặc trong gian
phòng vắng, chỉ có tiếng đồng hồ tích tắc... Rất nhiều tác giả nhắc về
cái đọc của mình ngày nhỏ. Marcel Proust, trong bài tựa viết cho một
cuốn sách dịch,[1] đã có những trang tuyệt vời về kỷ niệm thần tiên bên trang sách thời thơ ấu.
Đọc sách mà cặp kè kẻ nọ người kia, chẳng những không hay, có khi lại rắc rối. Cô Loan trong cuốn Đoạn tuyệt của Nhất Linh trót có một lần đọc sách lúc đang nằm bên cạnh chồng mà làm xảy ra án mạng.
Cái gặp gỡ giữa kẻ viết với người đọc nó rắc rối là thế, cho nên bảo kẻ
sĩ cầm bút hẩm hiu, bảo thế không hề có hàm ý trách móc ai. Chẳng qua
hoàn cảnh nào đưa tới thân phận nấy. Thích hợp thôi.
Như vậy, trong thế giới văn chương, quan hệ giữa phía sáng tác với phía thưởng ngoạn là một quan hệ nhạt nhẽo, lỏng lẻo chăng?
Kỳ thực, trái lại. Độc giả là rất quan trọng đối với người cầm bút. Độc
giả là điều kiện tất yếu để có tác giả. Không có độc giả thì không thể
có được tác giả. Làm thơ văn phú phiếc là do tài năng thiên phú; nhưng ở
nơi nào chưa có sẵn độc giả thì ông Trời toàn năng cũng không sinh ra
được các tác giả.
Nói thế, tôi không muốn bảo rằng hễ không ai mua sách cả thì sẽ chẳng có
ai buồn viết sách làm gì: hoạt động văn nghệ rụi luôn. Không phải thế.
Một lần nữa, lại xin gạt chuyện mua bán ra một bên. Hãy chỉ tạm xem
chuyện nghệ thuật như một hoạt động tinh thần. Và nên lấy bằng chứng sẵn
tại chỗ, xảy ra ngay trước mắt mình. Tức là nền văn học hải ngoại của
Việt kiều chúng ta.
Trước 1975, ở các nước Âu châu và ngay cả Mỹ châu đã từng có mặt một số
trí thức Việt Nam. Họ ra nước ngoài vì nhiều lý do: du học, công vụ,
kinh doanh, v.v... Họ sống ở Âu Mỹ lâu năm, nhiều người đã có học vị
cao, có thành tích lớn trong các ngành khoa học, âm nhạc, hội hoạ, điêu
khắc... Nhưng văn thi sĩ với tác phẩm Việt ngữ thì chưa thấy xuất hiện ở
Âu Mỹ lúc bấy giờ. Như thể những kẻ có văn tài đều nhất định ôm giữ cái
tài, nằm phục sẵn, kiên trì chờ đợi... Chờ đợi thời điểm 1975! Ai nấy
trong chúng ta hẳn đều thấy những chứng cớ sống động, lồ lộ trong giới
văn học hải ngoại hiện nay: tức những Việt kiều cũ mà lại là văn sĩ mới.
Sau 1975, họ vùng lên múa bút, chẳng bao lâu nổi đình nổi đám ngay.
Tháng 5-1975 được chờ đợi không phải vì là ngày lành tháng tốt. Chẳng
qua đó là thời điểm bắt đầu có một quần chúng độc giả Việt ngữ ở hải
ngoại. Cũng ông Ngô ấy, bà Phan kia, ông Vũ nọ..., trước 1975 họ là
những ông Ngô, bà Phan, ông Vũ; sau 1975, anh hoa phát tiết tưng bừng,
họ hoá ra nhà văn Ngô, nhà thơ Vũ, v.v...
Phép lạ ấy cũng là phép lạ đã tạo ra Thúy Kiều.
Hãy tưởng tượng: Nếu ngày xuân năm nọ cô Kiều không gặp chàng trai đa
tình tên là Kim Trọng thì làm sao mà cô ta được lẫy lừng suốt hai thế kỷ
qua? Ông bà viên ngoại có hai cô gái và một cậu con trai. Đối với bà
con xóm giềng, đó là cô Hai, cô Ba, với cậu Tư. Những kẻ năng lui tới
nhà cụ viên có thể biết và khen cô Hai giỏi may vá, khéo thêu thùa, cô
Ba nấu canh chua cá lóc ngon hết sẩy, v.v... Lại có thể biết thêm cô Hai
lúc rảnh việc thỉnh thoảng ôm đàn ra trước hiên đánh mấy bài; cô Hai
đánh đàn “tẵng tẵng” thì phải biết: dễ nghe lắm. Thế thôi.
Bỗng Kiều gặp chàng Kim, rồi chuyện long lở ra. Mới gặp nhau một lần, chàng đã mê tít, “mặt tơ tưởng mặt lòng ngao ngán lòng.” Kiều
đàn; chàng Kim nghe như hạc bay, như suối chảy, như gió thoảng, như mưa
tuông sầm sập, chàng tựa gối, cúi đầu, chàng chau mày héo ruột, rồi
ngậm đắng nuốt cay... Từ đó Kiều hoá thân, lên ngôi. Bao nhiêu nhân vật —
Thúc Sinh, Sở Khanh, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, rồi cả Nguyễn Du — đều là
những kẻ “đọc” Kiều. Kẻ đọc ra cái nhan sắc Thúy Kiều, người đọc ra cái
tài năng của nàng, người khác lại đọc được cái ý nghĩa éo le của thân
phận nàng, cái u uẩn phức tạp của tâm lý nàng Kiều... Nhờ họ, nhân vật
Thúy Kiều rạng rỡ.
Sau 1975, trong số đôi ba triệu di dân từ Việt Nam thoát ra, có một quần
chúng đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện các tác giả Việt ngữ ở hải
ngoại. Có thế chăng? “Tạo điều kiện”, cái điều kiện nói đây không phải
là những khoản thu (không đáng kể, so với nhu cầu của cuộc sống tại Âu
Mỹ). Cho nên việc gác chuyện tiền bạc chuyện mua bán ra một bên là phải
cách. Độc giả tạo dựng ra tác giả, ấy là chuyện “tinh thần”. Ấy mới hay,
ấy mới... tình!
Nghề văn là nghề thanh cao, văn giới mỗi lúc lại mỗi đông đảo, phức tạp.
Thỉnh thoảng có nghe nói đến những vị viết vì một nhu cầu nội tại, vì
những bức xúc trong tâm hồn, nếu không viết ra thì không thể chịu nổi;
ngoài ra họ không cần biết có ai đọc mình hay không. Đã có kẻ bảo thế
thì hẳn phải có thế. Nhưng đó chắc chắn là chuyện của một số hiếm hoi ở
tầng lớp cao chăng. Còn từ hạng Nguyễn Du xuống đến đa số chúng ta, đã
viết là viết cho người đọc.
Sách hoàn tất, tác giả Tố Như có bản dâng vua: vua đây được dâng trong
tư cách độc giả đấy, trong tư cách kẻ mua vui vài trống canh đấy thôi.
Vua mà còn bé, chưa biết chữ, thì tất chẳng ai dâng thơ dâng truyện.
Đến cụ Nguyễn Du còn vậy, chúng ta thất lễ với độc giả được sao?
Độc giả quan trọng là thế. Độc giả còn quan trọng hơn thế.
Bản nhạc lúc nào cũng là bản nhạc, người có tai là nghe ra nhạc. Bức
tranh lúc nào cũng là bức tranh, pho tượng ai cũng thấy nó là pho tượng,
v.v... Còn một tập thơ, một cuốn truyện nằm chình ình trên bàn, đối với
kẻ mù chữ nó không phải là thơ là truyện gì ráo. Là đống giấy có vẽ
loằng ngoằng, chằng chịt, rối ren, bẩn mắt thôi. Người biết chữ có thể
giải mã những ký hiệu bí mật nọ mới biến nó ra thơ ra truyện.
Vụ (con quay, con thò lò) có quay tít mới ra con vụ; vụ ngã nằm ì ra thì
chỉ là miếng gỗ vô duyên chán phèo. Một tác giả Pháp đã đưa ra ý ấy.
Vậy cuốn sách không ai đọc thì không phải, chưa phải, là tác phẩm. Bảo
trong đó có câu chuyện của Lan và Điệp, hay của Vọi và Hiền, hay của
Loan và Dũng, v.v...? Chuyện ấy chứa giấu ở đâu? Rõ ràng lục soát không
thể tìm thấy. Có đọc được chữ mới làm nẩy ra truyện, cũng như có biết
ném vụ mới làm cho nó quay, mới khiến nó thành ra con vụ.
Cuốn sách là cái xác, tác phẩm là phần hồn. Tác giả âm thầm xây dựng nên
tác phẩm bằng tâm não mình. Nó thoạt thành hình dưới dạng ý niệm. Tác
giả cố gắng chuyển nó ra chữ viết. Cuốn sách là nơi gửi gắm tác phẩm
dưới dạng chữ viết. Chữ viết chẳng qua là những ký hiệu. Dạng chữ viết
có thể hiện đúng cái tác phẩm trong suy tưởng của tác giả không, đó là
một chuyện.
Rồi người đọc tiếp nhận tác phẩm qua dạng chữ viết, kết quả sẽ ra thế
nào? Lại là một chuyện nữa. Cô gái mười tám đôi mươi đọc ra cái truyện
Lan và Điệp của cô; em bé mười tuổi ê a đọc ra truyện Lan và Điệp của
em, tức một truyện khác hẳn; các cụ già ở Nam Mỹ, ở Phi châu, họ lại đọc
ra những truyện Lan và Điệp khác nữa. Mỗi người đem cái tuổi tác, cái
trình độ hiểu biết, cái hoàn cảnh sinh sống, cái tâm lý riêng tư của
mình vào cuốn sách mình đọc. Người đọc có phần đóng góp của người đọc
vào tác phẩm. Phần không nhỏ.
Không có người đọc, không có tác giả. Không có người đọc, cũng không thể
có tác phẩm. Sáng tác với thưởng ngoạn quấn quít nhau khắng khít đến
thế; nói đến tiếng vỗ tay, nói về sự chờ đợi một phần thưởng tinh thần: E
là hỗn.
Bản thân tôi, sinh vào thời buổi khó, bị xô đẩy lông lốc, từ quê ra
tỉnh, từ tỉnh lẻ nhập vào đô thị, sinh kế chuyển từ nghề này sang nghiệp
khác lung tung, sinh sống trải hết chế độ này sang chế độ kia, hết nước
này sang nước khác, từ lục địa này sang lục địa nọ... Những đổi thay
xáo trộn ấy thực sâu xa; nhưng trong lăn lóc quay cuồng, thỉnh thoảng
trông lại mình thấy trong tay vẫn còn khư khư một quản bút cũ kỹ. Và
trông ra quanh mình vẫn còn nhận ra một tập thể quen thuộc, có thể nói
thân thuộc: Tập thể kẻ viết người đọc.
Giờ đây tuổi tác và sức lực đuổi mình ra khỏi khung cảnh thân thuộc. Tôi
sẽ không từ giã một nơi để đi tới một nơi nào khác, không bỏ một chế độ
một xứ sở để lánh sang một chế độ một đất nước nào khác. Bây giờ là một
giã từ tại chỗ, một biệt ly vĩnh viễn tại chỗ thôi.
Bánh xe đời cắn lên một lằn mức thời gian: Cây bút trên tay mình tức thì
tuột rơi; thoắt cái, mình cũng tự dưng mất dạng. Tập thể kẻ viết người
đọc ngơ ngác một lúc. Rồi cuộc sống tiếp tục.
Nghĩ đến cảnh tượng ấy, tôi mân mê mãi mấy câu thơ của Tô Thùy Yên. Có
lẽ chính Tô Tử, ông cũng tẩn mần bên các dòng chữ của ông trước sau đôi
lần không nỡ rời.
Một lần:
“Thức cho xong bài thơ.
Mai sớm ra đi,
Cài hờ lên cửa tặng.”[2]
Một lần nữa:
“Trời rạng. Chuyến đi không hoãn được.
Bài thơ tâm phát dẫu chưa xong,
Xin vẫn cài hờ lên cửa tạ.”[3]
Tôi mân mê quyến luyến. Rồi một ý kiến bất chính len vào đầu: Ông Tô
tuổi chưa cao, sức chưa xuống, tình còn nồng; ông đi đâu mà vội mà vàng;
chuyến đi hoãn được lắm, ông cài thơ lên cửa lúc này e sớm chăng? Hay
là mình... Thơ chỉ cài hờ, dễ bóc mà, bóc nó ra, lấy chất keo tốt dán
thật chắc lên cửa nhà mình! Tài cao như Tô Tử ông ấy viết bài khác mấy
hồi? Thế là tôi phăng phăng tiến hành. Và xin trình ra thơ tạ từ đã gỡ
của ông Tô Tử, trình ra với tất cả tấm lòng biết ơn sâu xa toàn thể các
độc giả, tức những kẻ đã cùng với mình hoà hợp mật thiết trong việc tạo
nên tác phẩm nọ kia, làm ra lẽ vui một đời mình.
Tháng 10-2004
_________________________
[1]Cuốn Sésame et les Lys của John Ruskin.
[2]Bài “Tặng phẩm”, bài đầu trong tập Thắp tạ.
[3]Bài “Thơ tạ”, bài cuối trong tập Thắp tạ.
(In trong cuốn Cuối Cùng của Võ Phiến, Thế Kỷ 21 xuất bản tại California, USA, 2010)
17. CÁI SUY TƯỞNG
Rời phần nghệ thuật, xin qua phần học thuật.[1]
Cái đóng góp ở địa hạt này nhằm tiếp tay giúp con người hay thêm, tốt
thêm. Bách gia chư tử đều là những đấng suy nghĩ về triết, về đạo; không
có “tử” nào gieo vần chuyên nghiệp, kể tiếu lâm chuyên nghiệp, vẽ tranh
tôm chuyên nghiệp. Có Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Mặc Tử v.v... Có luôn
Lão Tử là kẻ xúi ai nấy đừng làm gì cả, cứ lửng lơ con cá vàng. Xúi
đừng làm cũng như xúi cố làm, đều là những phát biểu đóng góp, hữu dụng.
Khác với phía nghệ thuật. Không hề có Lý (Bạch) Tử, Đỗ (Phủ) Tử. Hát
cực hay như Trương Chi không thành Trương Tử, soạn nhạc giỏi như Kê
Khang cũng không được gọi là Kê Tử.
Học thuật nhằm cải tiến cuộc sống, nhằm cải thiện con người. Cái giá trị
của kiến thức là ở chỗ cao sâu và mới mẻ. Để được tiếp nhận niềm nở,
cái sau phải cao hơn, phải mới hơn cái trước. Người cổ sơ lưu lại hình
vẽ ở hang động, lưu lại những bộ xương cốt trong huyệt mộ; hậu thế gặp
được hình vẽ càng xưa càng quí, gặp được xương cốt càng xưa càng hay.
Nhưng về mặt học thuật thì kiến thức đưa ra càng mới càng tốt. Sách dạy ở
nhà trường mỗi năm mỗi bổ sung, chỉnh đốn, cho cập nhật.
Do đó một người viết đã “có tuổi” không mấy hào hứng khi ngoái nhìn “sự
nghiệp” mình. Lắm lúc không còn hứng thú tiếp tục sự nghiệp suy tưởng.
Riêng bản thân tôi trong khoảng mười năm trước Hiệp định Genève đã sống
trong khu vực cộng sản. Ở đó muốn viết phải viết đúng chiều hướng. Tôi
không thuận chiều hướng; sau mười năm, rời Liên khu V ra đi, không có
thành tích viết lách gì.
Sau 1955, tôi đọc huyên thiên, loá mắt, thấy gì cũng ham. Cái viết bấy
giờ đâm ra huyên thiên. Cứ thế vài chục năm; rồi bị văng ra khỏi Việt
Nam. Mọi cái đổi mới: mình xa lạ, sống lạc lõng, sống lai rai, suy nghĩ
lai rai... Cái viết càng lai rai.
Huyên thiên với lai rai không phải là những chữ nặng ký. Vả lại kẻ đánh
giá một người không thể chính là người ấy. Chuyện “tự phán” may ra cụ
Phan làm lấy mới tránh khỏi lố lăng. Bởi vậy ở đây chỉ có dăm ba điều
thuật lại, kể lại; không có lời phán xét.
Nói chung trong hai mươi năm trước 1975 mọi ba hoa của mình đại khái là
về hai cái: văn nghệ và chính trị. Văn nghệ là cái mình chúi đầu làm,
chính trị là cái đè nặng lên số phận miền đất mình đang sống.
Viết với đọc, mình đã trằn trọc háo hức trong bao nhiêu năm, bấy giờ gặp
cơ hội, tha hồ vung vít. Vả lại bấy giờ ở Miền Nam văn học bột phát,
thịnh mãn chưa từng có. Di dân ở Bắc kéo vào tở mở, cùng với khối người
chợt thoát chế độ cộng sản ở miền Trung, họ mở ra một cảnh tưng bừng.
Văn giới hoạt động tíu tít. Tôi bám theo cơ hội, vừa viết phần mình vừa
trầm trồ ca ngợi cái viết của người xung quanh, vừa đọc thiên hạ tìm
hiểu tứ phương vừa nghí ngố về trào lưu này xu hướng nọ. Tóm lại, về mặt
văn nghệ, bấy giờ mình là đứa hớn hở.
Về mặt chính trị, cái vui không được bao lâu. Vào khoảng năm năm sau
Hiệp ước Genève, ở Miền Nam xuất lộ những dấu hiệu phân liệt. Người Bắc
mới người Bắc cũ khác ý nhau, kẻ Bắc người Nam khác tính nhau, lớp trẻ
hôm nay với lớp già hôm qua khác quan điểm, lớp từng lăn lộn chín mười
năm trong các chiến khu bỏ trốn về với lớp đi du học nhìn tình hình Việt
Nam từ các xứ Âu Mỹ nhận định khác nhau, kẻ tôn giáo này người thuộc
giáo phái nọ phản ứng cách khác nhau v.v... Cảnh nhốn nháo, tranh chấp,
hỗn loạn mỗi lúc một gay gắt.
Về sự chuyển biến tinh thần trước tình hình, xin lấy trường hợp Vũ Hoàng
Chương làm tiêu biểu. Tiên sinh là một tên tuổi lớn, được kính trọng;
hầu hết thơ văn của ông được nhớ thuộc rộng rãi, khỏi cần trích dẫn dông
dài.
Thoạt mới di cư vào Nam, tiên sinh sôi nổi; Miền Nam tổ chức cuộc trưng
cầu dân ý để truất phế nhân vật cũ lập chế độ mới, thi nhân reo mừng:
“Lá phiếu trưng cầu một hiển linh.” Ông có cả một ‘Bài ca Bình Bắc’
trong tập Hoa đăng xuất bản vào buổi ấy.
Tám năm sau, đón tết Quí Mão (1963) ông Vũ có hai câu:
Tám giao thừa, chín năm dư
Cành mai trắng mộng, đêm trừ tịch suông.
Nghe buồn hiu.
Đầu năm Canh Tuất (1970) trong văn giới có những thì thào lo ngại về lão thi nhân. Ông Nguyễn Mạnh Côn thay mặt báo Văn đến
gặp Vũ Hoàng Chương. Ông Vũ nói thẳng: “Tôi bây giờ chỉ chờ ngày chết
thôi. Lắm lúc muốn tự tử.” Ông Nguyễn “nghe mà lạnh gáy”, không dám tin ở
tai mình. Một tuần lễ sau, ông Nguyễn trở lại nhà ông Vũ hỏi thêm cho
cẩn thận. Ông Vũ (cũng cẩn thận) xác nhận: Muốn chết.
Năm 1975, Bắc quân vào Sài Gòn, có người bảo ông bà Vũ đã sẵn thuốc độc
cho ba người: vợ chồng và cậu con trai. Thuốc độc chưa kịp dùng thì ông
bị bắt vào tù. Ra khỏi nhà tù, ông Vũ chết một mình.
Đó là diễn tiến trong giai đoạn cuối đời ở một nhân vật can trường. Cùng
thời gian ấy, kẻ cầm bút xoàng xĩnh loay hoay theo cách xoàng xĩnh. Năm
1966, tôi lo lắng về sự phân hoá trong thái độ chính trị ở Miền Nam.[2] Năm 1968, kêu hoảng: Không khéo cả nước vào tay cộng sản.[3] Cuối năm ấy, hoảng hốt báo động.[4] Một tháng sau, cùng năm ấy, tôi buông ra “tiếng cú” bất tường.[5] Đầu năm 1975: đại hoạ. Con cú may mắn thoát hiểm.
Những năm chót là những năm bấn loạn: đánh nhau ác liệt, dân chết lính
chết, dân mất đất mất... Trong tình hình ấy lại phát lên tiếng cú, tai
nào chịu dung nạp một báo hiệu như thế? Vậy mà không biết toà soạn Bách Khoa
đã phân trần ra sao, rốt cuộc bài báo cũng được xuất hiện. Nghĩ lại về
những cố gắng của nhà báo, về sự nhân nhượng của cơ quan kiểm duyệt:
thật quí hoá.
Nhưng về bản thân của bài viết, thực chẳng có tác dụng nào. Trong tai
hoạ, cái viết tất nhiên không phải để chơi. Mà bảo rằng để... dùng, thì
lại không thành một công cụ hữu dụng gì cả. Nghe chới với, chẳng ra làm
sao.
18. TIẾNG CỰA MÌNH CỦA TRANG GIẤY
Bây giờ hoàn cảnh đổi khác. Cục diện thế giới biến chuyển sâu xa. Các
đại cường thay đổi chiến lược, các chế độ lỗi thời loay hoay tìm cách tự
giải thể, tự... sụp đổ cách êm ái... Hoàn cảnh mới lăm lăm những món vũ
khí khốc liệt, những sách lược cực đoan. Kẻ cầm bút trông lại cây bút,
thấy nó ngo ngoe mà ngán ngẩm: Hoàn cảnh nó loại bỏ mình?
Viết chơi thì đây không phải lúc viết chơi; viết để dùng thì cái viết
của mình lại e không xứng để dùng. Khoản thời gian còn lại trong đời ít
dần, rồi rất ít. Thời khoản rất ít còn lại không dùng được vào việc gì,
cái ít lẽ ra là thiếu thốn lại hoá thừa thãi.
Một câu thơ của ông Trần Vấn Lệ ám ảnh tôi. Ông Trần than thở: “Mỗi ngày là một ngày xưa”.
Ngày xưa không còn nữa: đáng quí. Tất cả thời xưa, cũng có thể đáng quí
luôn. Nhưng khi cái xưa không chịu ở yên tại vị trí, nó cứ lướt thướt
kéo về ám ảnh mình, thì khốn đốn thôi. Mỗi một ngày qua, thời gian chôn
nó trân trọng, có thổn thức, có tiếc thương, đủ lễ nghi. Lẽ ra nó nằm
yên dưới mồ yên mả đẹp. Xem đấy: ngày qua của trâu, bò, ruồi, muỗi... là
ngày qua hẳn. Tốt thôi. Còn lũ ngày xưa của con người — đặc biệt là của
đám người cầm bút — chúng nó quá quắt.
Trong cuốn Đôi bạn của Nhất Linh, anh chàng
Dũng có lần đưa mẹ con cô Loan đi Hà Nội. Đêm trăng, bà cụ yên giấc,
Dũng cùng Loan đi dạo phố một lát. Trên đường phố, gió phất tà áo của
Loan, chạm vào tay Dũng. Chạm nhẹ, chút xíu thôi. Cả hai xúc động. Trong
Bướm trắng, Trương lẻn vô phòng hít trộm chiếc áo lót của Thu vừa mới cổi vất ra giường. Trong Xóm Cầu Mới, cô Mùi lén nằm lên giường của Siêu, đắp chăn của Siêu, hít mùi gối của Siêu. Trong cuốn Loạn của
Chu Tử, bé Liễu từng được cậu Xương cởi quần áo, công kênh trên vai,
đem ra ao, cùng tắm với lũ em nhỏ; hơn mười năm sau, chính Liễu ấy lớn
lên, nõn nà, sang trọng, làm chủ nhà thổ và tình cờ một hôm đấm bóp cho
Xương, nhận ra người “cậu” tàn tạ, Liễu khóc nấc lên, đè đầu “cậu” xuống
hôn lấy hôn để. Edgar Poe một đêm để con quạ giữa khuya đến kêu lên mấy
tiếng tai quái rợn người. Gustave Flaubert gặp bà Schlésinger một lần,
lằng nhằng với bà trong truyện cả 33 năm v.v...
Sống ở đời ai chẳng gặp chuyện: chuyện hay chuyện dở, chuyện buồn chuyện
vui. Thời gian trôi qua, rồi chuyện xảy ra ngoài đời tan biến dần, mất
dần. Có thế con người ta mới sống được, cuộc đời mới trôi xuôi suôn sẻ.
Bé Mùi nhi đồng thành cô Mùi thiếu nữ, có lúc nóng người vì hoả bốc bất
ngờ; rồi cô lấy chồng; rồi con cái đùm đề, cháu chắt đông đảo lít nhít
đầy nhà... Mùi hoá kiếp thành bà, già nua, bận bịu, lẩm cẩm... Bấy giờ
đố bà còn nhớ được mùi chiếc gối của Siêu nó ra làm sao.
Thế nhưng ông Nhất Linh thì không được thế. Sách ông còn đấy. Trong đó
có tà áo đêm trăng, có chiếc gối ở đầu giường ai... Lỡ lọt vào sách ông,
chúng nó không tự biến mất được. Chúng ám ông suốt đời. Cũng như con
quạ bí hiểm ám Edgar Poe. Như bà Schlésinger ám Gustave Flaubert...
Chúng nó cũng có quấy ông nọ bà kia, cô này cậu khác trong giới độc giả,
nhưng thỉnh thoảng thôi, nhẹ thôi. Còn ám ảnh, quấy động tác giả thì
quấy kỹ, tới chết. Chao ôi! Đêm nay một con quạ đen, đêm mai cả bầy cáo
trắng, rồi vài sợi tóc mai lơ phơ, một màu áo nhàn nhạt v.v... chúng từ
một cuốn sách, một câu thơ trót viết ra đã lâu, lén lút mò về tìm tác
giả, ngó đăm đăm. Ông tác giả nào, bà tác giả nào chịu thấu hả trời!
Cặp mắt, tiếng kêu, làn da, hơi thở v.v... của những người nọ vật kia có
liên hệ xa gần thế nào với ông bà tác giả? Ông bà tác giả có liên hệ
gì, nợ nần gì với chúng? Không rõ đâu. Mơ hồ lắm. Rắc rối lắm. Xa xôi
lắm. Cử chỉ nọ, nhân vật kia, có thể là cái tác giả yêu thích nhất, có
thể là cái ghét sợ nhất; có thể là cái tác giả chưa từng biết, chỉ nghe
qua rồi mơ ước, có thể là thực tại xấu xa trây lì ám ảnh mãi không cách
nào xua đuổi nổi, ngấy muốn chết!
Tôi lại nghĩ tới ông Trần Vấn Lệ:
Đà Lạt ơi! Đà Lạt ơi!
Những cây thông nói với trời điều chi?
Hồ Xuân Hương, liễu thầm thì
Phải chăng thông đã nói gì mà quên?
(‘Tôi về thăm chỗ tôi đi’)
Liễu thầm thì bảo vậy có tin được không? Thông nói rồi thông quên tuốt!
Cả thông, cả liễu, cả hồ, cả Đà Lạt, cả Trời đều sống thảnh thơi, an
lành, nhẹ nhõm. Ngay người đời nói chung, thỉnh thoảng có gặp điều gì —
hoặc vui hoặc buồn — đem ra tỉ tê với bạn bè; rồi trải qua năm tháng
biền biệt cũng có thể quên dần, có khi quên luôn. Chỉ có các tác giả là
không thoát được quá khứ. Nó nằm đó, đủ bầy đủ lũ, im lặng mà chòng
chọc. Nó ám ảnh đấng sinh thành không buông tha.
Buổi trưa rạo rực xa xưa, một đêm trằn trọc mấy chục năm trước, một làn
da, một bàn tay, gót chân, tiếng guốc, tiếng khua lén lút, một sáng nọ
chiều kia trong vô số sáng chiều trong đời mình... Những cái như thế tốt
cả, quí cả. Hít áo lót: tốt. Vùi đầu vào ngực “người ta”: tốt. Những
cái như thế làm ra cuộc sống, ra cái hấp dẫn của cuộc sống. Nhưng xong
việc, chúng nó nên mờ đi, biến đi. Những cái quí còn nên tự xoá dần,
huống hồ những cái kỳ cục! Đã thế, các tác giả lại còn bị thúc đẩy: Viết
cho sâu vào, sâu tuốt vào tiềm thức. Ối!
Vừa rồi nêu ra là những tên tuổi lớn. Thực ra, người viết lớn người viết
nhỏ, đại văn hào tiểu văn nô, đã viết đều điêu đứng, càng viết càng
điêu đứng. Thời gian, ngày tháng của kẻ khác đến rồi đi, lặng lẽ. Ở
người viết, chúng nó thành oan hồn uổng tử, kêu khóc tỉ tê...
Mọi cuộc đời đều kết thúc. Trước tan biến là nghỉ ngơi. Hưu là nghỉ
(cũng có nghĩa là vui). Bởi vậy hưu thì hưu dưỡng, hưu nhàn, hưu hạ. Ở
người viết là cái hưu hoảng, hưu hốt. Đó là những tiếng đã có từ khuya, đặt ra để tiện dùng, nằm sẵn trong các tự điển.
Người viết nghỉ ngơi trong hổn hển. Nằm thở phì phà phì phào bên cạnh
một ngổn ngang, khúc mắc, u ám... Đêm khuya thao thức, chợt nghe sột
soạt: tiếng cựa mình của mấy trang giấy cũ. Bèn thảng thốt. Giật nẩy
người.
— Vậy bỏ quách. Ai bảo ham. Viết lách làm gì?
— Thì đấy. Nào mình có viết gì nữa đâu. Đây là nói về nghiệp “cũ” thôi.
Tháng 3–2006
(In trong cuốn Cuối Cùng của Võ Phiến, Thế Kỷ 21 xuất bản tại California, USA, 2010)
_________________________
[1]Phần trước, xin xem bài “Thẫn thờ” cùng tác giả, trên tạp chí Thế kỷ 21 số ... tháng... năm 2006.
[2]Tức bài “Từng lớp cách nhau”, viết tháng 4-1966, đăng ở tạp chí Bách Khoa ở Sài Gòn, in lại trong cuốn Tạp luận, năm 1987.
[3]Bài “Dù có bao giờ”, viết tháng 7-1968, đăng ở Bách Khoa, in lại trong cuốn Tạp luận, năm 1987.
[4]Bài “Bắt trẻ đồng xanh”, viết tháng 10-1968, đăng ở Bách Khoa, in lại trong cuốn Tạp luận, năm 1987.
19. CACH MÂY HƠI THỞ
Vẫn biết tự dưng một kẻ vớ vẩn cất tiếng ong óng ca ngợi Lý Bạch thì rất
lố bịch, nhưng tôi không cầm lòng được: Tôi mến ông cụ quá. Không phải
mến vì thơ ông hay. Hay thì xưa nay thiên hạ đã khen hết lời; những
người giỏi giang nhất, thông hiểu nhất, đã nói tới nơi tới chốn rồi. Giờ
cứ lải nhải nói hoài về cái hay của thơ Lý Bạch — nhất định ra rả không
chịu ngừng — thì đó là một tai hoạ cho đời. Vậy xin phân bua ngay: Sẽ
xin không có chuyện thơ văn, chỉ có chuyện con người thôi.
— Ấy mới là chỗ đáng thắc mắc. Lý Bạch đã sống và đã
chết cách nay hơn nghìn năm. Ngót nghìn rưởi năm. Thơ văn ông còn đó để
làm căn cứ khen chê; chứ con người họ Lý đã tan rã từ khuya, lấy gì
làm đối tượng để yêu với mến?
— Ở nơi con người, chết rồi thì thân xác tan rã, chứ cái cốt cách không tan rã theo...
— Cốt cách là món gì? Thôi, không nên cù cưa. Bạn có ý gì kha khá, nói phứt ra nghe chơi.
— Này nhé. Lý Bạch với Đỗ Phủ vẫn thân thiết, gặp nhau là ríu rít câu
qua câu lại, trao đổi hào hứng. Nhưng mỗi bên một phong cách. Lý phơi
phới, vung bút lên là viết phăng phăng; Đỗ tính tình thận trọng, cân
nhắc từng lời. Một hôm Lý tình cờ gặp Đỗ trên núi, đang ngồi ăn bữa
trưa. Trông bạn gầy ốm, Lý có bốn câu chế giễu, đại ý: Người mà gầy guộc
thế kia là vì cặm cụi làm thơ kỹ quá thôi chứ gì.[1]
— Đất Tàu mênh mông, ngày xưa không có máy bay không
có xe hơi, phương tiện giao thông hiếm hoi, bạn bè ít có dịp gặp gỡ,
một hôm trèo núi bất ngờ gặp được ông bạn, trông bạn gầy yếu, đầu đội
chiếc nón lá, ngồi ăn dưới trời nắng chang chang; thế mà không ân cần
hỏi han, lại cười cợt nhạo báng: Tôi không ngờ Lý Bạch là người như thế.
Bạn khéo chọn người để mến...
— Đời nhà Đường thi sĩ đông đảo. Trong số ấy người đời thấy có bốn cặp
bạn thân thiết nhất: Lý Bạch với Đỗ Phủ là một trong bốn cặp ấy.[2] Vậy bạn có thể yên tâm: Lý ghẹo qua, Đỗ có bài ghẹo lại ngay, mắng Lý suốt ngày say mèm hát nhảm.[3] Họ vui với nhau, không ai giận ai. Bạn khỏi lo.
— Cổ nhân, mình vẫn hình dung các cụ ai nấy râu ria đạo mạo. Cảnh các cụ nghịch ngợm, đùa cợt hồn nhiên, cảnh ấy ngộ đa.
— Đùa với bạn trên núi chưa phải cái hay nhất. Ai khác thì không dám
biết, riêng cụ Lý Bạch có những trường hợp “hồn nhiên” đáng hãi. Ra vào
chỗ cung cấm mà có lúc cụ say bí tỉ, phải có người khiêng vào; khiêng
vào vẫn cứ li bì thiêm thiếp, vua cho lấy khăn ướt đắp vào mặt mới tỉnh
dậy mà làm thơ; lại có lúc nghe trong cung có nàng Sủng Thư người cực
đẹp hát cực hay, vẫn được cưng giấu như của quí, cụ Lý yêu cầu cho nghe
chính Sủng Thư ra hát, Ninh Vương cũng đành chiều ý. Rồi thấy Cao Lực Sĩ
xun xoe đáng ghét, một hôm giữa yến tiệc cụ Lý giả vờ say, đưa chân ra
đòi Cao Lực Sĩ cởi giày v.v...
— Ông bạn mến những cái ấy?
— Bạn đừng bắt chẹt tôi. Cụ Lý đã trả giá cho những cử chỉ ngang tàng
nọ. Nghe lời gièm pha bất lợi, nhà vua bớt yêu cụ Lý. Cụ hiểu ý, xin cáo
quan, vua chấp thuận lẹ làng. Cụ Lý tung cánh giang hồ: Đông Tây Nam
Bắc, danh lam thắng cảnh, bạn bè yến tiệc, thơ phú rượu trà... Hơn mười
năm trời, cụ tha hồ... Cụ đi luôn một mạch, tới chết.
— Ông bạn mến cái ngang bướng, và mến luôn cái phóng túng lêu lổng?
— Bạn dùng chữ bạo quá. Chẳng qua tôi lớn lên ở chỗ thôn dã, không quen
với những kiểu cách tao nhã kiêu kỳ trong giới trí thức cao sang nơi
phồn hoa đô thị. Lý Bạch dòng dõi Hưng Khánh hoàng đế (Lý Cảo), lại chữ
nghĩa tuyệt vời, danh vọng lẫy lừng, vậy mà cụ xử thế giản dị, tự nhiên.
Thậm chí gần như hồn nhiên. Tôi liên tưởng đến các cụ già bình dân xưa
kia từng sống với mình ở xóm làng quê hương cũ...
— Ối! Ở làng bạn có ông cụ hồn nhiên nào trông thấy mặt trăng phản chiếu dưới sông mà nhảy xuống ôm trăng chơi không?
— Chuyện bịa, nói đến làm chi. Sự thực trong cái chết của Lý Bạch có
chỗ... Chính vì chỗ ấy mà hôm nay tôi muốn nói chuyện với bạn đây...
— Ủa! Tôi thì có gì dính líu vào cái chết của Lý Bạch? Bạn định đặt điều vu cáo gì đấy? Hả?
— Không có gì sôi nổi. Bạn đừng nóng tính. Lý Bạch danh vang rộng rãi,
quen biết khắp nơi, lên núi cao có, xuống sông sâu cũng có, nhưng dại
dột nhảy sông bắt trăng thì không làm gì có. Năm 62 tuổi, cụ đến chơi
tỉnh An Huy; ở đó có người bà con họ hàng là Lý Dương Băng làm huyện
lệnh huyện Đương Đồ. Cụ Lý thọ bệnh nằm tại nhà người này. Bệnh trở nên
trầm trọng. Lúc lâm nguy, biết không qua khỏi, cụ trao một tập thơ nhờ
lo việc in ấn, lại dặn dò muốn Lý Dương Băng đề cho bài tựa. Trối trăn
xong, cụ ra đi vĩnh viễn.
— Không có vụ nhảy xuống sông, không có vụ bắt trăng ôm trăng nào cả?
— Tại huyện Đương Đồ cũng có con sông, tức sông Thái Thạch. Lý Bạch qua
đời được chôn ở một ngôi mộ bên sông Thái Thạch. Người đời sau có dựng
đài kỷ niệm, đặt tên là Tróc Nguyệt đài. Ấy là dựa theo chuyện bịa được
truyền tụng trong dân gian thôi. Còn việc cụ Lý lâm bệnh và từ trần thực
sự ra sao thì chính ông Lý Dương Băng đã kể trong bài tựa tập di cảo
của cụ.
— A!
— Hình như bạn đang có điều suy nghĩ?
— Có. Tôi lấy làm nghĩ ngợi về bạn. Bạn chịu Lý Bạch...
— Tôi chưa từ trần, bạn đã biến dạng tôi. “Chịu” Lý Bạch là thế nào?
Chịu, gần có nghĩa là phục. Tôi đã nói rõ: Thơ Lý hay tới đâu tôi không
dám có ý kiến; ý kiến về thơ cụ tất phải là phục sát đất. Đàng này tôi
chỉ nói về con người cụ Lý: người ấy, tôi mến (không phải phục).
— Thì mến. Mến chỗ nào?
— Đã kiệt quệ, cụ còn thều thào về việc in thơ, về cái tựa cho tập thơ...
— ?
— Bạn nghĩ coi: Thuở sinh thời Lý Bạch phóng khoáng, xem trời bằng vung.
Danh vọng là cái gì vậy? Ngay cả cuộc đời cũng chẳng ra cái thá gì,
chẳng qua một giấc mộng; tội gì phải nhọc thân vì đời. Suốt ngày cứ say
rồi lăn kềnh ra ngủ ngay trước thềm nhà, quên luôn ngày tháng. Tỉnh dậy
nghe tiếng chim, hỏi là ngày nào? Có kẻ bảo là ngày xuân đấy. Bèn lại
uống rượu nữa, hát nghêu ngao. Hát xong quên tuốt mọi sự.[4]
Lý Bạch là như thế. Người như thế mà đến lúc sát kề cái chết, mấp mé Hư
Vô... Xin lỗi. Tôi không dám nghĩ ta chết xong sẽ để lại cái gì: linh
hồn linh hiếc, kiếp nọ kiếp kia chẳng hạn... Tôi không dám nghĩ tới cõi
này cõi nọ nào cả. Nói gọn: chết là hết. Vậy cụ Lý, tới lúc chỉ cách Hư
Vô có mấy hơi thở mà cụ còn lều phều nói về chuyện in sách với tựa sách!
Chao ôi.
— Tôi hiểu: Bạn mến cụ Lý vì cụ là đấng tốt lành,
thiết tha thương hại hậu thế, lo rằng đám sanh sau đẻ muộn không tìm
được thơ hay mà đọc thì tội nghiệp lắm, nên cụ...
— Ý ấy cao thượng đa. Tôi rất ngần ngại, nhưng cũng xin có chút nghĩ
ngợi thô thiển. Tôi mạo muội nhận thấy thơ văn có nhiều đọc nhiều, có ít
đọc ít, không mấy ai — bất cứ tiền nhân hay hậu thế — vì thiếu thơ văn
mà thèm khát khổ sở. Cụ Lý từng sống tất từng biết: Cái niềm vui chung,
vui lớn, của chúng nhân, không phải là thơ, mà là... rượu.
— A ha!
— Cụ Lý từng uống bao nhiêu rượu, từng thấm thía cái “hay” của rượu.
Thực lòng yêu hậu sinh thì mỗi lần yến tiệc linh đình, cụ nén dành lại
một vò rượu ngon, lén chôn giấu đâu đó, hoặc cuối góc vườn hoặc ngoài
đồng vắng. Cụ đã lê bước giang hồ khắp nơi; nếu khắp nơi đều có rải rác
những vò rượu quí, càng lâu càng quí thêm...
— Bạn vừa thốt ra mấy tiếng “thực lòng yêu hậu sinh thì...”, thế để lại thơ là chưa thực lòng? Vậy bạn mến cụ... A ha! Tôi hiểu...
— ?
— Ha ha! Tôi hiểu, tôi hiểu...
— Bạn hiểu cái gì?
— Tôi hiểu cụ Lý Bạch. Tôi hiểu bạn...
— ?
— Lý Bạch ngông nghênh chê đời như giấc mộng, bất cần mọi sự, ấy là khi còn hưởng đời dài dài...
— Nhưng cụ Lý là cụ Lý, tôi là tôi. Bạn nhập nhằng...
— Thư thả, thư thả. Tôi còn định mở rộng thêm một
tí. Cụ Lý, bạn, và tất cả mọi người cầm bút... Hễ ai có viết là có cái
túi; túi thơ, túi văn. Đi đến đâu xách túi theo đến đó. Càng lớn tuổi
càng khư khư: Lúc trẻ mất túi này còn hi vọng gây dựng túi khác. Đến
cuối đời thì người đâu túi đó: ôm chặt cứng. Văn (thi) nhân giữ túi văn
(hay túi thơ), như lão Harpagon [5] giữ túi tiền. Tôi hiểu vì sao bạn mến cụ Lý. Tôi cũng đâm ra mến bạn. Những ai có chỗ yếu đuối đều đáng mến. Nhưng... nhưng...
— Gì nữa đấy?
— Cụ Lý, nên mến gấp đôi. Trước, mến vì cái hồn
nhiên; sau, thêm mến vì cái lo mất túi. Còn bạn: trước, hình như chưa
mấy ai kịp để ý đến tính hồn nhiên (của bạn); sau, bạn chưa đến lúc gấp
lo mất túi...
— Chưa đến lúc? Cụ Lý bấy giờ mới lục tuần, chúng ta hiện giờ là đã muộn
quá chứ lại. Cụ Lý nằm bệnh ở nhà bà con, chúng ta trôi giạt lêu bêu...
— Cụ Lý phóng khoáng vậy, lúc sắp mất ví đâm khủng
hoảng, lo cuống quít: cụ cũng một người như mọi người. Chúng ta lêu bêu
trôi giạt, mọi người như một, cùng lo mất ví, vội vàng in ấn tới tấp.
Thôi được: Đáng mến cả.
Tháng 6 – 2007
(In trong cuốn Cuối Cùng của Võ Phiến, Thế Kỷ 21 xuất bản tại California, USA, 2010)
_________________________
[1]Nguyên tác:
Phạn khoả sơn đầu phùng Đỗ Phủ
Đầu đái lạp tử nhật trác ngọ
Tá vấn nhân hà thái sấu sinh
Chỉ vị tòng lai tác thi khổ.
Bản dịch của Bùi Khánh Đản (trong cuốn Đường thi trích dịch, nhà xuất bản Văn Học in năm 2006 ở Việt Nam):
Gặp Đỗ ăn cơm bên ngọn núi
Trên đầu đội nón đã trưa rồi
Cớ chi thân thể trông gầy guộc
Chỉ vị làm thơ khổ khắc thôi.
[2]Ba cặp bạn thơ thân thiết khác là: Mạnh Hạo Nhiên với Vương Duy, Liễu Tôn Nguyên với Hàn Dũ, và Bạch Cư Dị với Nguyên Chẩn.
[3]Nguyên tác:
Thu lai tương cố thượng phiêu bồng
Vị tựu đan sa quí Cát Hồng
Thống ẩm cuồng ca không độ nhật
Phi dương bạt hộ vị thùy hùng.
Bản dịch của Bùi Khánh Đản:
Trông ông phiêu bạt tựa thu bồng
Chưa luyện đan sa thẹn Cát Hồng
Suốt buổi say nhè rồi hát nhảm
Với ai hăng hái dở trò ngông.
[4]Nguyên tác: “Xuân nhật túy khởi ngôn chí”
Xử thế nhược đại mộng
Hồ vi lao kỳ sinh
Sở dĩ chung nhật túy
Đồi nhiên ngọa tiền doanh
Nhất điểu hoa gian minh
Tá vấn thử hà nhật
Xuân phong ngữ lưu oanh
Cảm chi dục thán tức
Đối tửu hoàn tự khuynh
Hạo ca đãi minh nguyệt
Khúc tận dĩ vong tình.
Bản dịch của Bùi Khánh Đản: “Ngày xuân uống rượu say dậy nói chí mình”
Đã biết kiếp người là mộng lớn
Sao còn lận đận mãi chưa thôi
Suốt ngày nghiêng ngả ta say khướt
Mê mệt nằm lăn ngủ cửa ngoài
Tỉnh giấc trông ra sân phía trước
Thấy con chim hót giữa hoa tươi
Hỏi nay tháng mấy ngày nào nhỉ
Canh đón xuân sang ríu rít hoài
Ngẫm chuyện xưa nay khơi mối cảm
Rượu ngon lại rót tự mình mời
Nghêu ngao hát mãi chờ trăng sáng
Dứt khúc đà quên hết cả rồi.
[5]Harpagon là nhân vật keo kiệt trong một vở hài kịch của Molière (Pháp, thế kỷ XVII).
-----------------------
Bấm vào đây để đọc tất cả tác phẩm của Võ Phiến đã đăng trên Tiền Vệ
20. NGƯỜI ƠI NGƯỜI Ở DÀI DÀI
Gần đây nhiều lần nghe những trao đổi tưng bừng về các hướng thơ văn cũ mới, bị không khí sôi nổi lôi cuốn mạnh, tôi xun xoe nhấp nhỏm. Bỗng chợt buồn, tặc lưỡi: Mình còn được bao nhiêu ngày tháng? Những chuyện... như thế... trên đời... ối dào!
Tặc lưỡi, bề ngoài là nỗi lo ngắn ngày. Nhưng bên trong không chừng có
ngầm cái ý coi thường chuyện nhỏ. Ngầm cho rằng lúc này hãy nên quan tâm
đến những cái lớn lao (!) Lớn như vận nước chẳng hạn: Nước mình đang đi
về đâu? Dân mình bao giờ thì tự do, sung sướng? Phần mình nên có vai
trò gì, có bổn phận gì? v.v...
Như vậy nên suy nghĩ về vận nước? Nhưng dừng ở đấy ít lâu, lại tặc lưỡi: Còn được bao nhiêu ngày tháng?
Có phải đó là lý do thực sự? Hay cũng lại ngầm một thái độ hỗn láo? Nếu
có thế, là quá trớn. Vận mệnh dân tộc mà cũng xem là chuyện tuế toái,
thì cái gì là đủ “lớn”, đáng nghĩ ngợi?
— Đề tài vận mệnh loài người có thể là một thí dụ chăng? Chuyện ấy khẩn
cấp, những kẻ còn ít ngày tháng nếu không bắt vào e không còn có dịp suy
nghĩ nữa. Vận mệnh loài người, lúc này, đáng lo quá.
Loài người là loài sinh vật giết nhau hăng say nhất. Từ thuở xuất thế
đến giờ không lúc nào người ngưng giết người. Phương tiện mỗi thời mỗi
thay đổi, nhưng mục đích không thay đổi: Đích cuối cùng là địch thủ đồng
loại phải chết kỹ. Phương tiện bắt đầu từ những nắm tay, hàm răng, tiến
tới gậy gộc, rồi dao búa, súng đạn, rồi quả bom. Năm 1945 xuất hiện thứ
bom nguyên tử. Một cặp bom lịch sử này đáp xuống đất Nhật, làm nhân
loại sững sờ, và chấm dứt tức khắc cuộc thế giới đại chiến.
Bom nguyên tử bấy giờ chỉ vừa đúng một cặp. Tức hai quả. Ông Truman có
nói đến quả thứ ba; đó là ông phịa ra để doạ (và sự doạ dẫm có kết quả
như ý).
Từ ấy đến nay, tình hình vũ khí biến chuyển nhanh chóng. Từ bom nguyên
tử nhảy vọt một cái tới bom khinh khí. Và về sự sản xuất bom thì thời
bình lại ráo riết gấp mấy thời chiến. Nga không đếm kịp số bom chất chứa
trên đất Mỹ, Mỹ cũng không đếm nổi số bom lũ lượt ra đời trên đất Nga
(và, sau đó, trên một số các nước khác).
Số lượng với hiệu năng là một phương diện của vấn đề. Chuyện bom còn
dính líu đến những cái khác. Chẳng hạn việc đưa bom tới đích. Ngót sáu
mươi năm trước, một toà phi cơ khổng lồ bay ầm ĩ qua nửa vòng trái đất,
cố gắng cẩn thận, thật cẩn thận, vượt qua mọi trắc trở dọc đường, để
gieo bom cho đúng địa chỉ. Như thế vất vả. Từ ấy đến nay, lắm cách “giao
hàng” tân kỳ, nhanh chóng, chính xác, tiếp nhau ra đời.
Bom mà đến thế phải chịu là khó xài. Trong khoảng thời gian sáu chục năm
qua xương thịt con người không thay đổi mấy. Bất chấp mọi cố gắng của
luyện tập, của thuốc men, phải nhận rằng thịt xương không có cải tiến
đáng kể. Bom lại tăng sức trăm lần. Vậy thì nỗ lực lớn cần hướng vào
việc ngăn bom, không phải vào sức chịu đựng của con người.
Vấn đề đâm rắc rối: Ngăn bom, phải dùng luật pháp cấm chỉ chăng? Phải dùng kỹ thuật chế ngự chăng?
Luật Liên Hiệp Quốc cấm việc chuyên chở lang thang thứ vật liệu làm ra
bom dữ. Nhưng các nước có khả năng kỹ thuật cao vẫn tiếp tục chở uranium đã tinh chế đi đây đó đều đều, trao tận tay các khách hàng còn kém mà ham. Phàm có luật, tất có ngay sự trốn luật...
Còn như việc dùng kỹ thuật cao để dựng hàng rào chắn bom dữ thì tất
nhiên Mỹ và Nga đã ráo riết nghiên cứu từ lâu, nhưng cho đến tận bây giờ
ngay Mỹ là nước đang dẫn đầu cũng vẫn chưa dám chắc là rào của mình sẽ
chắn được bom.
Luật pháp ngăn không nổi, kỹ thuật chận chưa xong. Mà vũ khí thì nó
không ngừng phát triển, mà tình hình thì nảy sinh thêm nhiều bất trắc.
Xưa nay, người đánh nhau cứ đánh, đất vẫn tỉnh bơ. Chiến tranh dứt, Xích
Bích vẫn còn Xích Bích, Điện Biên vẫn Điện Biên. Giành qua giật lại,
đất dù đổi chủ vẫn nằm đấy, nguyên vẹn. Bây giờ khác: Bom dữ mà gầm lên
tức thì chỗ này mất biệt một hòn cù lao, chỗ kia đi đời một bán đảo.
Thế đã nguy. Vũ khí lại mang tật bất trị: tật lén lút lang thang. Bom
nguyên tử, thoạt tiên chỉ hai nước lớn chế tạo được. Rồi năm nước lớn.
Dần dần có nước chưa lớn cũng sở hữu nó. Sau đấy các nước bé bắt đầu tí
toáy... E đến lúc nào đó, mỗi lần họp đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, trong
số 151 quốc gia, nước nào chưa kịp sắm bom nguyên tử nước ấy sẽ lo ngay
ngáy bị mất thẻ hội viên chăng?
Chuyện vệ tinh lên không gian lăm le nối tiếp chuyện bom dữ. Thoạt đầu
vài nước phóng vệ tinh. Rồi Trung Hoa là nước thứ ba. Ấn Độ, Nhật Bản
đòi làm những nước thứ tư, thứ năm. Cứ thế rụp rụp.
Con người sống chung với nhau trên mặt đất vốn đã lục đục không ngớt. Thời đại mới lại phát sinh những bất trắc mới.
Người sinh sản nhanh thêm, sống lâu thêm. Chen chúc nhau, tất nhiên va
chạm nhau. Va chạm vì tôn giáo, vì chủng tộc, vì chính trị, vì kinh tế
v.v... Các phương tiện truyền thông rút ngắn sự giao tiếp, thu hẹp không
gian, quả đất đâm ra chật chội. Va chạm đâm ra thường xuyên. Trước chạm
nhẹ, sau va mạnh, rồi đụng nhau đổ lửa.
Tất nhiên, để tránh đụng có cố gắng kềm giữ. Nhưng kềm giữ cách nào? Cứ
xem năm sáu nước lớn mạnh xúm nhau kềm Bắc Triều Tiên đủ thấy khó khăn
tới đâu. Lại xem cảnh nước Mỹ với Liên Hiệp Quốc cùng tra vấn Iraq, rồi
Iran, rắc rối đến chừng nào. Kiểm soát không kỹ không xong; kiểm soát mà
kỹ quá lại là lý do bùng nổ.
Người mỗi lúc một nhiều một đông, chen chúc trong cảnh chật chội đã bất trắc. Người lại mỗi lúc một táo tợn, càng thêm bất trắc.
Liều mình, thí mạng mình để giết kẻ thù, từ trước vẫn có nhưng hiếm. Cho
nên người can đảm được ghi danh vào sử sách. Bây giờ chuyện giấu bom
vào người, thản nhiên đi vào đám đông để nổ bom, chuyện ấy xảy ra hàng
ngày, ở mọi nơi bên Trung Đông: chợ búa, trường học, bến xe... đàn bà,
trẻ con làm việc ấy đều đều. Áo với giây để buộc vào người được sản xuất
sẵn sàng hàng mớ cho kịp cung ứng đầy đủ trên thị trường. Rất tiện xài.
Giết nhau hăng đến thế, thường xuyên đến thế, ngừa sao nổi. Cơ hội bùng nổ quá nhiều. Mà bùng nổ thì chí mạng.
Ngày trước nước nào bất ngờ bị một vố Trân Châu cảng có thể cố gắng phục
hồi, rồi phục thù. Ngày nay, nếu lỡ hớ hênh sai sẩy, để cho bom H nó
quầy cho một phen, thì không chìm mất dưới lòng biển cũng bò lê bò càng
ra thôi, còn đánh đấm ai được nữa. Cho nên kẻ yêu đời (trong cái nghĩa
đơn giản là còn thấy đời đáng sống, người đáng được tiếp tục thở), kẻ ấy
lúc nào cũng lom lom rình rập dấu hiệu khả nghi, và lăm lăm một kế
hoạch: tiên hạ thủ. Đánh phủ đầu. Ra tay trước: Tức cốt thật nhanh. Tức
có thể lầm, có thể sai quấy.
Nguy hại biết chừng nào. Trong thời đại bom H, đó là cái nguy cho cả-và-thiên-hạ!
Edward Teller bảo rằng tổng thống Truman của Mỹ quyết định cho nghiên
cứu về bom H và giao việc ấy cho ông (Teller) vào năm 1949, thì lúc bấy
giờ ở Nga xô nhóm Andrei Sakharov đã tiến hành công việc được mười tám
tháng. Nga đi trước Mỹ một năm rưỡi.
Vẫn Edward Teller, ông nghĩ về chuyện cũ: nhóm Los Alamos (có ông) loay
hoay tìm cách làm bom A vào cuối đệ nhị thế chiến, còn Đức đã bắt tay
nghiên cứu từ 1938, trước khi chiến cuộc bắt đầu. Giả sử lần ấy không
phải Mỹ, mà là Nga xô-viết hay Đức quốc xã chế được bom nguyên tử trước
tiên thì có phải là chế độ dân chủ đã đi đời, đã vắng bóng luôn trên mặt
đất này rồi chăng?
Lần này, bom dữ không quyết định số mệnh một chế độ nào. Nó đòi quyết định số mệnh của loài người.
— Vậy thì loài người tận số tới nơi?
— Có sinh có diệt. Tận số, thì loài người cũng không thua kém bất cứ loài nào. Duy hai tiếng “tới nơi” nghe có rùng mình.
— Đừng qui cái lỗi cho lời lẽ. Không phải vì hai tiếng “tới nơi” mà rùng
mình. Hãy trông vào sự kiện cụ thể: Một bên bom hung dữ; một bên người
táo tợn. Từ bom A thoắt cái đã tới bom H; ai mà ngăn được: bom X, rồi
bom Y, rồi bom Z xuất hiện mấy hồi. Còn nguời thì bây giờ đi đâu cũng
gặp Triệu Tử Long quấn chất nổ đầy người: gan cùng mình, “nhất thân đô
thị đảm”. Quả đất mang đủ hai món nguy hiểm ấy mà quay vù vù như điên!
Ai dám tưởng tượng cảnh ấy tiếp tục kéo dài được? Bác sống chừng ấy, tạm
xem là phải chăng. Còn tôi, đang tuổi xuân xanh ... Ôi, tức tưởi.
— Yên trí. Ai dám chắc bạn ra đi lúc nào. Anh bạn có thể sống đủ số
tuổi của ông Bành Tổ. Không chừng các con, rồi cháu của bạn cũng theo
kịp Bành Tổ. Nói chuyện tận thế hãy đặt trong khung cảnh vũ trụ, hãy
dùng lời lẽ với kích thước thích hợp. “Tới nơi” không có nghĩa đích xác
là thập kỷ này hay thế kỷ tới. Biết đâu vào giữa thiên niên kỷ sau khắp
bầu trời các làn sóng truyền thanh còn vang vang tiếng hát quan họ con
cò bay lả bay la...
— Chao ôi! “Biết đâu”, “có thể”..., tiên tri mà chính xác đến thế...
— Là rất chính xác. Là hiếm có. Đối với những biến cố lớn, dù chuyện đã xảy ra trong tầm vóc quốc gia, cũng từng có những sai biệt hàng thế kỷ; huống hồ chuyện chưa xảy ra
trong khung cảnh vũ trụ mà dám đòi chính xác hơn sao? Loài khủng long
đã diệt chủng rồi, đố ai biết đúng thời điểm qua đời của con khủng long
cuối cùng. Từng có thuyết cho rằng loài ấy mất tích cách đây 65 triệu
năm. Lỡ có kẻ cao hứng bảo theo một cách tính mới mẻ của mình thì khủng
long chỉ diệt chủng trước đây 64 triệu năm thôi, dễ gì bác bỏ? “Tiên
tri” về loài người, có sai ngàn năm hay vạn năm, không ngại đâu.
— Một loài sinh vật nết hay gây gổ đến thế, tính tình táo tợn đến thế,
nắm trong tay những kỹ thuật sát hại khủng khiếp đến thế... Mà đòi tiếp
tục sống thêm cả trăm năm, cả ngàn năm?
— Không tưởng tượng nổi!
— Tưởng tượng là khả năng riêng của loài sinh vật người. Con ong, cái
kiến, con cọp, con voi..., muôn loài sống theo cái mật mã gửi nơi mỗi di
tử. Trong di tử mật mã (code génétique) Tạo
Hoá đã có lệnh đặt ra để điều khiển cuộc sống các loài hết đời này đến
đời khác. Riêng loài sinh vật người thì chọn tự do: Nó được trang bị cho
khối óc để tự hướng dẫn lấy cuộc sống của mình. Nếu có sự hướng lầm về
cửa tử: trách nhiệm thuộc về nó thôi.
Mình nó tự do, mình nó có trí thông minh, có suy tưởng, loài người hả
hê: trong vũ trụ chỉ mình nó cất tiếng cười, cho tới nay. Trong vũ trụ
im lìm, trái đất đến đâu tiếng cười (nhiều kiểu) nổi lên inh ỏi tới đó:
Nó đấy. Người đấy.
— Tính ra sinh vật người nào đã tồn tại được bao lâu?
— Chừng vài triệu năm chứ mấy? Hồi giống Homo erectus mới lom khom đứng dậy, chưa kịp thành hẳn ra con người, thời ấy cách đây mới hai triệu năm.
Nghe nói mấy chục năm trước một cậu bé ở Alabama thường lúi húi với lũ
kiến, tò mò theo dõi kiến một cách thích thú. Lớn lên Edward O. Wilson
thành một nhà sinh vật học nổi tiếng. Về già ông vẫn còn khoái kiến.
Trong một chiếc hộp giấy ông cất giữ một viên mã nảo thật xinh, trong đó
có con kiến nhỏ xíu đã hoá thạch. Ông khoe bắt gặp nó ở đảo Saint
Domingue: con kiến ấy sống cách đây bốn triệu năm. Thuở Homo erectus
loạng choạng cố tập đứng để làm người thì cụ kiến đã thành hẳn ra kiến.
Ngày nay loài người đứng mé bờ vực cheo leo, kiến vẫn an nhiên tự tại.
Con sâu cái kiến vững chải quá, thấy mà ham. Mai kia, trái đất sứt mẻ
tiếp tục cuộc hành trình — âm thầm, thui thủi — trong vũ trụ vắng tanh,
không một tiếng cười, khi ấy kiến vẫn thong thả bò.
Khối óc thông minh của sinh vật người làm việc nhanh quá lắm. Có nhà
khoa học (ông Motoo Kimura bên Nhật) đã thu dọn lịch sử vào một thí dụ
cho dễ hiểu. Giả sử từ khi quả đất ra đời tới nay dài đúng một năm, thì
quả đất xuất hiện ngày 1 tháng 1, sự sống bắt đầu vào giữa tháng 2, loài
khủng long có mặt hôm 11, mất tích vào ngày 26 tháng 12. Mãi tới 8 giờ
tối hôm 31 tháng 12 mới thấy con người ló mặt ra. Thành tích mới mẻ của
loài người là nền khoa học hiện tại vừa mới nẩy sinh ra vào 2 giây đồng
hồ sau cùng.
Trong hai giây đồng hồ đã nên cơ sự thế này; khoa học mà phát triển độ
một giờ thì sự thể biết đâu mà lường. Không chừng giống sinh vật người
dám hoán dịch cả vị trí các tinh cầu, thu nhỏ cái này khuếch đại cái
kia, đổi màu trời sắc nước, đổi cái nắng cái mưa... Vũ trụ lộn xộn hết
trơn, vạn vật biến dạng biến tính ráo trọi; đấng Tạo Hoá sẽ rối trí biết
chừng nào!
“Thông minh vốn sẵn tính trời”. Nói thế e sai. Óc thông minh quả là của
Trời ban cho, nhưng đó không phải là tính nết gì cả. Cái nết gây gổ táo
tợn là của loài người, nó gây tác hại lớn, gây khó cho Trời. Vì vậy có
sự giới hạn số kiếp sinh vật người, hòng chận đứng cảnh đảo điên.
Thôi thì con người nên tự bảo: “Mình vắn số không thọ bằng con kiến,
nhưng trong kiếp sống ngắn ngủi mình được uống rượu, được ăn kem, được
nhảy nhót trên mặt trăng v.v..., được hưởng những cái toàn do trí óc
người làm ra, không từng có sẵn trong thiên nhiên”. Nó nên biết lấy thế
làm an ủi.
— Chúng ta táo bạo một cách lố lăng. Biết hẹp, nghĩ cạn, mà tham lam.
Tôi chưa từng nghe nói có sự nghiên cứu nghiêm chỉnh nào về ngày cuối
cùng của loài người. Phải không? Nếu có, xin mách nhau để tham khảo.
— Không biết. Cũng không cần biết. Chuyện chúng ta “tiến hành” đây không
phải là nghiên cứu, là khảo, là học gì ráo. Đây là chuyện hoang tưởng
của ngành sáng tác. Cốt tân kỳ, cốt tự do...
— Không chừng đó cũng là những nét cốt yếu của ngành tiếu lâm.
— Ơ hơ! Tiếng cười là riêng cho con người mà.
10-2003
21. CÁI SỐNG
Ở khu phố tôi trưa trưa thường có chim bay. Chim đây là bồ câu. Bay từng đoàn đông đảo. Bay cả buổi trưa. Xem ra không phải vì xao xác kiếm ăn, cũng không phải chuyện thao luyện vì lý do sức khoẻ, chuyện ôn tập các động tác cho đẹp dáng đẹp hình... Tôi xem mãi, không đoán ra ý đồ gì. Ngờ rằng chẳng qua no đủ, rảnh rỗi, cao hứng bay chơi. Vô tích sự thôi.
Có thể chim cũng như mình: Trưa trưa tôi ngồi xem chim bay cũng là xem chơi. Là cái xem của kẻ vô tích sự.
Cái khác nhau là ở chỗ: Tôi... ít, bồ câu thì nhiều. Tôi một mình, không
được ai chú ý; bồ câu đông đảo, bị tôi... Có người nhận xét: Hễ xóm nào
có ngôi chùa, thường thu hút bồ câu. Không phải vì chim thấm đạo từ bi.
Mà vì chùa thường sẵn cơm: Khách thập phương đến chùa, lễ lạc, đàm đạo,
vãn cảnh, thọ trai, giao kết bạn bè... Nhà chùa chuẩn bị sẵn cơm nước
cho khách vãng lai. Phần thừa thãi, bồ câu được hưởng. Hưởng xong, bay
chơi.
Bồ câu bay không có kỷ luật. Tự dưng, không có hiệu lệnh hô hoán gì cả,
chúng tung mình lên trời, bay nhiều vòng; rồi (cũng tự dưng) đáp xuống.
Vẫn không có hiệu lệnh nào. Khi cất cánh, có thể một số nhóm nhỏ không
hưởng ứng, cứ tiếp tục lai rai trên các mái nhà. Đang bay, lắm lúc có
mấy con (cũng tự dưng nữa) tách đàn, đáp xuống... Mặc, đàn không có biện
pháp kỷ luật nào đối với kẻ bỏ đàn. Coi như tập thể không biết tới,
không đếm xỉa.
Những con bỏ đàn điềm nhiên sinh hoạt trên các mái nhà. Có con rỉa lông
rỉa cánh; có con tìm mổ đây đó, kiếm ăn lai rai. Đến bên cạnh một con
mái lẻ loi, có con nẩy ý gù dè dặt, rời rạc, dò dẫm. Rồi tiến đến gần
thêm. Con mái quay đầu, lảng tránh. Trống đeo đẳng; con mái cất cánh bay
đi, có khi bay xa, tự tách hẳn qua mái nhà khác. Con trống ngẩn ngơ,
tưởng bỏ cuộc. Có khi nó bỏ cuộc thật. Có khi nó ngẩn ngơ một lúc, rồi
miễn cưỡng bay theo...
Sau nhiều lần thất bại, thỉnh thoảng cũng có trường hợp không thất bại.
Con mái bất ngờ ngưng tìm cái ăn. Nó ngẩng đầu. Vẻ hững hờ. Nghe ngóng
xa xôi, lơ đãng. Toan tính gì dây? Nó sắp bay đi nơi khác, xa hơn, yên
ổn hơn chăng? Bất ngờ... con mái nằm xuống, thản nhiên. A! đâu phải thản
nhiên: Cái đuôi con mái vẹt qua một phía, đợi chờ... Vẫn xa xôi, lơ
đãng.
Cuộc yêu đương kết thúc; nền trời xanh bao la tiếp tục xanh cách thản
nhiên, như không hề có gì vừa xảy ra. Xanh như muôn đời vẫn xanh. Mây
trắng từng vạt đây đó khắp nơi vẫn một mực trắng thản nhiên. Phải chú ý
kỹ mới thấy mây có nhẹ nhàng di chuyển: trôi lặng lẽ, rất chậm. Vờ vĩnh,
như không trôi...
— Ơ kìa!
— ?
— Bạn xen vào quá nhiều.
— Xen vào... cái gì?
— Thản nhiên, vờ vĩnh, hững hờ, lơ đãng,
v.v... Đó là chuyện của bạn hay của chim câu? của mây trắng? của trời
xanh? Bạn lộn xộn quá. Gây rối lung tung. Chẳng cái gì ra cái gì! Bạn...
— Có thế. Tôi xin lỗi.
— Bạn định đi tới đâu, nói thẳng ra coi.
— Thẳng ra? toạc ra? Một con bồ câu nhỏ bé cũng không phát biểu đơn sơ,
thẳng toạt ngay từ đầu (như bạn đã thấy). Bạn ép tôi quá. Nhưng tôi sẽ
chiều bạn. Thú thực là tôi ngạc nhiên, tôi thất vọng. Chim bồ câu hồi
nào tới giờ vẫn được xem là đa tình, chung tình. Bồ câu thì cặp từng
đôi, thì ra rít, thì nồng nàn. Trong yêu đương bồ câu nó là thứ chim đắm
đuối. Là một thứ chim Xuân Diệu. Nó “giục giã”:
“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,
Em, em ơi, tình non đã già rồi;
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
Mau với chứ, thời gian không đứng đợi:
Tình thổi gió, màn yêu lên phấp phới;
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa”
... v.v. và v.v...
Từ hồi nào tới giờ để nói về những cặp bạn tình khắng khít người ta vẫn
thường bảo hai đứa cứ như cặp bồ câu, không rời nhau được. Tự dưng trong
một lúc rảnh rỗi, ngồi xem chơi tôi lại xem thấy cảnh tượng khác hẳn.
Như vậy là thế nào? Xóm tôi khác mọi nơi? Hay thời điểm tôi xem bồ câu
lại lọt đúng vào lúc đổi đời: vạn vật đang bỏ cũ đổi mới? Tôi may mắn
chăng? Tôi xui xẻo chăng?
— Tôi bắt chuyện vào lúc bạn gặp vấn đề. Chúng ta cùng thuộc giới vô
tích sự, không có việc gì khẩn cấp. Không nên kéo dài cảnh loay hoay,
lúng túng, khổ sở. Lúc khác thảnh thơi sẽ trở lại vấn đề.
Lúc khác, cách lúc trước không xa.
Ngồi thảnh thơi một lát, lấy nước sôi lấy bình trà... Chúng tôi cười cười, đổi thái độ. Tôi bẻn lẻn:
— Con chim trông thấy hôm ấy không thể xem như con chim tiêu biểu. Nó
lạnh nhạt là cá nhân nó thế; bao nhiêu con mái khác không vì nó mà nguội
lạnh theo. Mặt khác, dù nó có đại diện cho cả loài cũng không nên vì
thế mà phát hoảng. Thay đổi, có gì mà không thay đổi? Con giun con dế,
con sư tử, con khủng long dưới đất, con đại bàng trên trời, con cá sấu,
cá ông voi dưới nước..., bao nhiêu giống dữ dằn không những thay đổi mà
còn bị tiêu diệt, mất cả tung tích luôn. Đến như con người là giống lạ
lùng quí báu nhất, thế mà... Mới ngày nào khờ khạo, loay hoay mãi hàng
triệu năm mới biết cách mài đá để làm các món dụng cụ và khí giới thô
sơ; vậy mà rồi cũng tới lúc chế tạo ào ào ra bom nguyên tử đủ sức tiêu
diệt cả...
— Hầy hầy!...
— Sao vậy? Nói về cái tình chim hờ hững, bạn chê không đáng nói. Đưa ra
chuyện bom quét sạch người, bạn kêu ghê sợ, không nên nói. Biết luận đàm
kiểu nào cho vừa ý.
— Chúng ta là những kẻ vô tích sự. Nói chuyện, nên nói chuyện chơi. Không nên gây xúc động mạnh: Mất vui.
— Muốn vui cũng có tin vui. Có đấy. Từ từ, buồn mãi rồi cũng đến lúc vui
thôi. Chuyện gì cũng phải có lớp lang. Sống với nhau trên quả đất, con
người đã tò mò tẩn mẩn phân loại được vài triệu loài cỏ cây, thú
vật..., kể cả những thứ lăn tăn li ti, mắt không thấy nổi. Chưa thấm vào
đâu; trên mặt đất dám còn nhiều chục triệu sinh loại khác chưa được
biết tới. Thế mà có kẻ đã bất ngờ khám phá ra những dấu hiệu tiềm tàng
chuẩn bị mầm sống âm thầm chờ đợi dưới lòng đất. Dưới sâu...
— Thiệt hả? Ai tìm bắt nó, ăn nhậu gì mà nó trốn kỹ vậy? Dưới sâu là tới đâu?
— Dưới chỗ chúng ta bỏ guốc dép đây chừng vài dặm sâu. Nghĩa là hơn ba cây số dưới mặt đất.
— Nó nằm chờ sự tiêu diệt của loài người?
— Và bao nhiêu loài khác.
— Bạn quá quắt...
— Tôi vô can. Tôi biết gì!
— Vậy bạn bịa chuyện để giễu tôi đấy à?
— Bạn có vẻ sốt ruột, tôi xin lẹ làng: Có một số khoa học gia khám phá
ra dưới mặt đất đang có một thứ mầm mống sinh loại tối vi tế. Giới
nghiên cứu gọi tắt là SLIMES (subsurface lithoautotrophic microbial ecosystems). SLIMES nằm dưới sâu, cho nên trong trường hợp cuộc sống trên mặt đất bị huỷ diệt thì SLIMES vẫn an toàn. Thời gian tiếp tục trôi qua, SLIMES
từ từ chuyển hoá, có thể gây nên những sinh thể mới, rồi xuất hiện lên
mặt đất, tiếp xúc với không khí, với ánh sáng. Một cuộc sống mới lại bắt
đầu...
— Lại có âm dương, có nọ có kia...
— Nọ kia là sao, là gì?.. Ối, tôi làm sao biết?
— Ý tôi muốn nói về cái tồn tại, cái phát triển của cuộc sống mới, cái tương lai của...
— Nhân dịp đầu năm hai nghìn, tạp chí TIME có
số đặc biệt mừng tuổi quả đất. Bảy tám năm đã trôi qua, nào còn nhớ
được bao nhiêu. Về chuyện sinh hoá trong trời đất không nhớ có vấn đề âm
dương, tôi biết đàm đạo sao được với bạn! Thiếu hào hứng quá. Đáng tiếc
quá.
Cả hai chúng tôi thẫn thờ. Mãi mới có kẻ lên tiếng, chậm rãi, miễn cưỡng:
— Âm dương, sống chết, còn mất, có không... cuối cùng cũng vậy vậy thôi.
Tự dưng có vũ trụ. Vẽ chuyện. Giá ngay từ đầu đừng có gì cả: là nhất.
Tháng 8-2007
(In trong cuốn Cuối Cùng của Võ Phiến, Thế Kỷ 21 xuất bản tại California, USA, 2010)
-----------------------
Bấm vào đây để đọc tất cả tác phẩm của Võ Phiến đã đăng trên Tiền Vệ
22. CUỘC SỐNG HỮNG HỜ
Trên một trang báo Newsweek vào khoảng giữa năm ngoái ông Kirk Douglas — một vị lão thành (ngoại cửu tuần) — kể rằng ngày ông còn nhỏ, khi thân mẫu lâm bệnh nặng hấp hối lìa trần ông hoảng hốt chụp ôm tay mẹ. Cụ bà mở mắt nhìn con, nói câu cuối cùng: “Đừng sợ hãi, bất cứ ai rồi cũng đến chỗ này thôi, con ạ” (... it happens to everyone). Người con lớn lên, sống vững tâm, nhớ lời mẹ dạy; nhưng ông lại nhớ ra là: “bất cứ ai khác cũng đến chỗ này thôi” (it happens to everyone else).
Cái chết của chính mình, cái ấy khó nghĩ đến một cách nghiêm chỉnh. Khó
lắm. Cứu cánh cuộc đời, ý nghĩa hiện hữu của vũ trụ, của muôn loài,
v.v..., về những cái này cứ tha hồ suy tưởng. Nhưng về chỗ sự chết ngỏm
của con người (và đặc biệt là của chính mình) thì đố biết. Càng nghĩ
càng rối thôi.
Ngại rối ren, bèn trốn tránh hết mình. Nhưng trốn mà thoát được à? Vào
những lúc bất ngờ nhất, tưởng mình đang an toàn thảnh thơi, có thể ta
vừa ngẩng đầu lên bỗng thấy nó chình ình ngay trước mặt. Cực kỳ sỗ sàng.
Bản thân tôi trước đây có lần phải vào bệnh viện chịu mổ xẻ, tôi ngậm
ngùi viết những lá thư gửi lại bạn bè, nhờ một văn hữu thân tình trao
giúp cho, sau khi mình... ra đi. Hoá ra rồi sau cuộc giải phẩu tôi tiếp
tục sống nhăn. Sống và ngượng ngùng vu vơ.
Năm tháng trôi qua. Quá bát tuần, tôi lén lút hướng một chút tưởng tượng
về cái kết thúc của đời mình. Chắc là gần thôi. Liếc mắt phớt qua tí
ti, sợ gì? Liếc qua xong rồi liếc lại, tôi ngạc nhiên không nhận thấy
một xúc động bất thường nào xảy ra cả. Cuộc sống đang tiếp diễn vẫn tiếp
diễn đều đều.
Nửa năm sau, rồi một năm sau nữa, cả tôi lẫn cái quanh tôi cùng hoà đồng êm ả theo dòng thời gian.
Bèn cố gắng dò đoán ý định của Tạo Hoá. Và dần dần có cảm tưởng mơ hồ về
một chăm sóc độ lượng, khoan hoà. Cảm tưởng rằng lúc con người trẻ
trung thì được Trời cho tha hồ vung vẩy, bấy giờ nếu nghe loáng thoáng
về sự vấp váp, suy tàn — đặc biệt là về cái chết — thì ôi thôi... Bất
khả! Tối bất khả!
Tạo Hoá có lòng lành, nhón tay khe khẽ điều chỉnh lòng người. Tuổi người
càng cao, lòng người càng bớt sôi nổi, bớt tha thiết. Rốt cuộc còn lại
một sự hững hờ: “Chết? ai mà khỏi? Việc gì phải sợ?” Bà cụ hấp hối nói
câu cuối cùng với người con hoảng hốt trong tờ báo Mỹ nọ, chính đã nói
câu ấy. Toạ Hoá mớm ý mớm lời cho bà cụ. Cũng như cho mọi cụ, cả ông lẫn
bà.
Nhân một lời trên báo Newsweek, nhớ lại một lời trên báo khác (Thế kỷ 21,
số đôi: 225 & 226). Mừng xuân mới, chủ bút Ngô Nhân Dụng nhắc lời
Khổng Tử: “Thiên địa chi đại đức, viết sinh” (Tính chất nổi bật ở trong
trời đất là sự sống). Tiếp lời cụ Khổng, bạn Ngô tưng bừng: “Không cần
một nghị quyết nào của Thiên Nhiên ra lệnh cho các cánh đồng cỏ cùng mọc
lên đúng ngày đúng tháng. Sự sống tự nó biết cách sống, không cần phân
tích, lý luận để quyết định vạn vật có nên sống hay không.”
Người nay người xưa cùng một tưng bừng rạng rỡ. Rụp rụp, sự sống biết
cách sống. Nhưng sau sự sống, con người — mọi người — đều sẽ có dịp gặp
một sự nữa: là sự chết. Sự chết thì sao? Liệu tự nó có biết chết một
cách tử tế cho thiên hạ nhờ tí không?
Tôi âm thầm nghĩ ngợi và ngờ rằng đây là lúc xuất lộ cái từ tâm của Hoá
Công. Chúng ta không nên mè nheo đòi hỏi cho được vừa huýt sáo mồm vừa
chết. Chỉ mong những bước chân đến ngôi mộ của chính mình sẽ là những
bước thong thả, hững hờ. Đại khái thế thôi. Và Tạo Hoá đã xếp đặt như
thế. Trước cái chết, bà cụ nọ trấn an con, chứ không phải là người con
an ủi mẹ.
Santa Ana, 2009
(In trong cuốn Cuối Cùng của Võ Phiến, Thế Kỷ 21 xuất bản tại California, USA, 2010)
-----------------------
23. HÌNH BÓNG CŨ
Cô Sáu là em thầy tôi. Dượng Sáu mất sớm. Cô dượng có ba người con, hai trai một gái. Trong khoảng thời gian ba bốn chục năm qua, ở Việt Nam cũng như ở Mỹ, thỉnh thoảng cô Sáu đến với anh chị em mấy hôm: lũ cháu — tức chúng tôi — gặp cô đấy rồi mất cô đấy, có khi ba bốn năm liền không thấy mặt cô. Cô Sáu thường xuất hiện bất ngờ: không phải vào ngày cúng giỗ nào, vào dịp hiếu hỉ nào... Cô nói vắn tắt: “Nhân tiện, ghé thăm anh (hay chị, hay dì v.v...)”. Thế thôi.
“Tiện” như thế nào? Có thể đó là một chuyến đi công việc: mua hàng, mua
vật liệu sửa chữa nhà cửa, điều đình về chuyện làm ăn, buôn bán... Năm
nọ, xa lắm, cô dính vào một vụ tranh tụng nào đó ở tòa, lần ấy cô Sáu
“nhân tiện” ra tỉnh, ở chơi với thầy mẹ tôi ngót nửa tháng. Nhưng thường
thường các cuộc ghé thăm đều liên quan đến các cô chú em tôi. Tức các
người con cô Sáu.
Con cô Sáu không phải là những trẻ ngỗ nghịch, có nhiều “vấn đề”, làm
khổ cô tôi. Em tôi thường thôi. Như mọi người thôi. Nhưng đối với cô
Sáu, là mối quan tâm thường trực. Cô “nhân tiện” ghé thăm thầy tôi, ở
chơi ba hôm rồi ra đi. Sau, biết ra thì đó là chú Hoàn — con cả của cô —
được thuyên chuyển từ Sóc Trăng ra Nha Trang; đến nhiệm sở mới, chú
thuê nhà dọn nhà: cô thấy mình cần để con mắt vào đấy.
Lần khác “tiện dịp” cô Sáu đến chơi với dì và dượng Bảy mấy hôm. Dịp ấy
là dịp cô được con gái gọi gấp đến góp ý về một quyết định chồng con
(chuyện rồi không thành).
Lần khác nữa, cũng là cô ấy xin được cái học bỗng đi tu nghiệp bên Pháp (rồi suy đi nghĩ lại, cô từ chối). Cứ thế.
Các chú bác và các cô tôi dần dần nghiêng về một giả thuyết: từ ngày
dượng mất đi, cô Sáu dồn hết tình thương vào mấy con. Con cô hiểu tâm lý
ấy, tranh nhau hưởng những sự lo lắng chăm sóc của cô. Cô Sáu có nhận
thấy giả thuyết của các anh chị và em mình. Giả thuyết nọ là đúng hay
sai? cô đánh giá thế nào? Không biết! Chỉ biết phản ứng của cô Sáu thật
hay ho.
Biết bà con cho mình cưng con quá đáng, cho là con mình đã trưởng thành
mà nhõng nhẽo quá đáng với mẹ; biết bà con nuôi trong đầu những ý nghĩ
chế giễu về mình, cô Sáu lấy ngay sự chế giễu của bà con làm sự chế giễu
của mình. Cô giễu các con và tự giễu lấy mình.
Chẳng hạn cô vào bếp lui cui rang mớ tôm thật công phu; mắm, muối, tiêu,
ớt, đường, lửa, cái gì cũng kỹ, mẹ tôi mỉm cười hỏi qua: “Cháu Hoàn
thích tôm? Giống bác Tư thôi.” Cô Sáu cười xòa: “Đấy! món ruột của cậu đấy. Không sơn hào hải vị nào thích bằng!” Lại chẳng hạn, một hôm đang lật cuốn album, cùng xem, mẹ tôi dừng lại ở một tấm hình, chưa kịp tìm ra câu nói, thì cô Sáu đã bảo ngay: “Cô
đấy. Chính nó đấy. Suýt nữa thì hút luôn, hút thật đấy chị ơi. May
quá.” Trong tấm hình, em Lan hai ngón tay còn kẹp điếu thuốc ngậm ở mồm,
hãnh diện thấy rõ. Mẹ tôi nhìn cô, ngờ vực; cô Sáu gật đầu, cười, xác
nhận: “Nó bỏ được. Bỏ rồi.”
Nhiều lần khác, cô lắc đầu: “Úi dào, cô với cậu!” Rồi cô Sáu bật cười.
Khi thì cô với cậu,
khi khác cô gọi con gái là “Con Chó”. Bằng cách ấy, cô Sáu công khai
bày tỏ sự cưng con. Lan tuổi tuất. Lan, một con chó. Muốn mở rộng tình
thương, bao bọc cả Lan cùng với những chị em khác trong họ trong một bầu
không khí thân ái, cô Sáu bảo: “Tất cả mấy chị em, có ba con chó. Năm
ấy, chị Ba, dì Bảy, cùng sinh, trước sau vài ba tháng chứ mấy, cùng con
gái cả!” Con chó Lan vẫn còn là “Con Chó” cho đến năm ba mươi tuổi. Hoặc
Con Chó, hoặc Con Chó Vàng, Con Chó Quắn, cũng một cô ấy cả. Về sau,
tôi không nhớ ra có dịp nghe cô Sáu gọi cưng con gái nữa, không biết lúc
nựng nịu cô có còn dùng tiếng ấy nữa chăng.
Tháng 4-75 mẹ con cô Sáu bị kẹt lại trong nước. Một người em trai bị tù
hai năm rưỡi. Giữa năm 1981 vợ chồng người con thứ hai vượt biển. Rồi vợ
chồng con cái người con đầu, rồi cô tôi và Con Chó cùng đi theo diện
đoàn tụ. Dâu rể, và các cháu phát triển dần. Cánh cô Sáu mỗi lúc một
đông đảo. Hình như từ ngày ra khỏi nước cô Sáu không hay nói riêng từng cô từng cậu nữa. Về các con, cô nói chung chung: “mấy đứa”. Rải rác từ khoảng tứ tuần đến quá ngũ tuần, mấy đứa phân tán rộng trong hoàn cảnh mới.
Ở Mỹ, bà con cô bác sống tản mác, không mấy khi gặp nhau. Cô Sáu thỉnh
thoảng vẫn xuất hiện bất ngờ. Qua Mỹ ít lâu, thầy tôi qua đời. Mỗi lần
cô Sáu ghé nhà thăm, cô và mẹ tôi chuyện trò rỉ rả. Gần như chỉ có hai
người già với nhau; lớp trẻ bận đi làm, đi học bên ngoài. Tôi yên trí
hai bà tha hồ nhắc chuyện những thời đã qua.
Những sáng thứ bảy chủ nhật, tôi thường dậy trưa. Thức giấc rồi, còn nằm
đọc báo, đọc sách. Một hôm, giữa hai trang sách, nghe ngoài vườn, phía
chân tường gần cửa sổ phòng tôi có tiếng nói đều đều, nho nhỏ. Yên trí:
“Hai cụ. Lại hai cụ thôi. Tha hồ trao đổi.” Lát sau, rõ ra là chỉ có một
giọng nói. Tôi thắc mắc: Sao lại một? Một người thì nói với ai? — Tôi
lắng tai, bắt gặp một đôi câu: “Mày không được lấn nó. Nghe chưa? Mày
phải đi về phía bên này, ô kê?” Không hề có tiếng đáp. Tiếng nói một
giọng vẫn liên tục, ngưng rồi tiếp... Tôi nhẹ nhàng nhỏm người dậy, nhìn
qua cửa sổ, thấy cô Sáu đang dọn sửa cây bông giấy: “Mày” là cây bông
giấy, “nó” là cây quít con.
Do chuyện xảy ra hôm ấy, tôi chú ý nhiều hơn đến cô Sáu. Lần khác, hai
bà cụ trò chuyện với nhau ở phòng ăn, tôi ngồi trên chiếc ghế xích đu,
đọc sách ở một góc phòng khách vắng vẻ. Cô Sáu kể với mẹ tôi về thằng bé
ở nhà sát cạnh. Mẹ tôi nghe thích thú như chuyện xa lạ. Hai cụ cười với
nhau.
— Chị biết không? Thằng nhỏ, nhỏ chừng ấy mà xô nổi cái thùng rác đấy. Xô chạy rồn rột.
— Cô nói thằng Joe?
— Nó. Xe rác trút rác xong bỏ thùng rổng bên lề đường. Mẹ nó đẩy thùng
vào nhà, nó giành lấy, đòi đẩy. Mẹ nó không cho, nó la khóc. Rốt cuộc mẹ
nó nhượng bộ. Thằng bé nhỏ xíu; thùng rác thì to, cao. Coi cứ như con
kiến cắn tha chiếc lá lớn hơn nó mấy chục lần, chạy trên ti vi.
Ý cô Sáu muốn nói đến một hình ảnh mà cô đã có lần trông thấy trong một phim về Thiên Nhiên chiếu trên đài 28. Mẹ tôi kêu:
— Cái thằng! Mới hai tuổi rưỡi chứ mấy. Để coi... Phải rồi, mẹ nó đẻ mới hồi mùa hè năm vừa dọn nhà tới đây.
— Nó nhỏ xíu. Cái thùng lớn che khuất, không trông thấy nó đâu.
Mẹ tôi tấm tắc: “Trẻ con Mễ chúng nó khỏe khiếp.”
Cô thuật lại câu chuyện mẹ con thằng Joe bán đồ cũ trước sân. Sáng thứ
bảy, ai nấy ngủ trưa, đa số còn nằm dưới chăn ấm áp, mẹ con nó đã ríu
rít bày biện đồ đạc, léo nhéo với nhau thật sớm. Cô Sáu kể:
— Này là chỗ đặt chiếc ghế nhựa xanh của nó. Chỗ kia dành cho cái ghế
vàng của con em. Chiếc ghế rộng của mẹ nó cũng do nó bê ra luôn. Dĩa
bánh ngọt cho nó... Nó, thằng Joe chứ sao... Dĩa bánh bự, cắt sẵn từng
lát, cho mẹ nó. Cốc cà-phê cho mẹ, cũng nó lo. Giá tiền từng món đồ, mẹ
nó viết trên giấy keo, nó phụ dán... Nó đòi đi gọi con em... Ủa, nó
không có em à?
Mẹ tôi nêu thắc mắc, rồi cũng chính mẹ tôi tìm ra giải đáp:
—A! Con bé gái là con cô nó, nhà ở đầu đường. Người Mễ đông bà con, sống quây quần gần nhau...
Nghe cô Sáu nói chuyện với mẹ tôi về cảnh “da xeo” (yard sale),
tôi có cảm tưởng mình đã hụt mất nhiều buổi mai đáng sống, nhiều cái
đáng nhìn, đáng nghe. Trong khi mình nằm trong phòng thì quanh mình cuộc
sống hồn nhiên bày ra nhiều dáng vẻ ngộ nghĩnh dễ yêu quá...
Ơ! Cô Sáu! Đâu phải cô chỉ cưng cô với cậu!
Theo dõi cái cung cách cô đối xử, cái lối cô nhìn cây lá, trông cảnh
“da xeo” tôi thấy... quen quen: Hình như phảng phất có gì gần với cái âu
yến pha lẫn một chút chế giễu. Lẽ nào vì dượng Sáu mất sớm mà cô dồn
thêm tình thương cho thắng bé Joe đẩy thùng, cho cây bông giấy bên
tường? v.v...
“Giả thuyết” về cô Sáu sai rồi chăng?
Chừng trăm năm trước, Marcel Proust có lần dành cho chuyện đọc sách những trang viết thật lý thú.
Ngày nhỏ, vào những hôm được nghỉ học, buổi sáng mang cuốn sách đang
thích ra công viên cạnh nhà, với bữa ăn sáng gói sẵn, chọn một chỗ mát
mẻ, nằm đọc mê tơi. Con ong bay quanh quẩn bên mình, tia nắng chiếu gắt
vào mang tai, thì giờ gián đoạn phải dành cho bữa ăn..., những cái đó
bấy giờ là những quấy quả không hợp lúc. Không ngờ, về sau nghĩ lại thấy
rằng chúng đã ghi sâu những kỷ niệm thật êm đềm. Về sau, khi đã trưởng
thành, có lúc chợt nhớ lại thời niên thiếu, mở trang sách cũ, và...
không còn thấy đâu tia nắng cũ con ong xưa... (dĩ nhiên!).
Tác giả nghĩ đến những tờ lịch cũ. Vào một giai đoạn nào đó trong đời,
ta từng ở nơi này chốn nọ, từng có những kỷ niệm thâm thúy dưới một ngôi
nhà hay bên một mép ao, một bờ hồ v.v... Năm tháng trôi qua. Chợt một
hôm bồi hồi tha thiết nhớ nhung... Mở cuốn lịch cũ, lật tìm lại ngày
tháng xưa, thì chẳng thấy đâu bóng hình ngôi nhà cũ bờ ao xưa nữa. Chẳng
nhà nào ao nào chiếu bóng xuống tờ lịch cũ (Dĩ nhiên!).
Tiếng cô Sáu ngày nào, có lúc tôi thoáng bắt được trong lúc đang đọc
đoạn sách này trang sách kia. Bây giờ thỉnh thoảng mở sách cũ, tình cờ
gặp lại những trang cũ. Nhưng tiếng cô Sáu nói, lời cô Sáu trao đổi với
mẹ tôi, cái giễu cợt đầy tình cảm khoan hòa của cô... Tôi giật mình:
“Mất rồi. Mất hẳn đi rồi!”
Bóng hình cô Sáu không còn thấy đâu trên tờ sách xưa nữa (dĩ nhiên).
Nhưng trang sách cũ hãy còn có hiệu lực gợi nhớ. Cái nhớ lan man rộng
ra, và mỗi lúc một mờ nhạt thêm, mơ hồ thêm. Cái nhớ không chính xác rốt
cuộc hóa dần thành ra những... giả thuyết.
Có hôm, trang sách mở trước mắt, tôi mường tượng tiếng cô Sáu mắng cây
ngoài vườn: “Tụi mày tệ lắm. Quá lắm. Đã sinh ra trái thì phải đủ sức
đeo trái. Trái chưa kịp lớn, cành đã quịt cả xuống, sao vậy? Dở ơi là
dở. Tụi này dở ẹc, nghe chưa?” Cái đọc bị câu nói cắt ngang. Tôi bị lạc
ra ngoài tờ chữ, nghĩ về cành cây vừa bị mắng. Thoắt cái, tôi hiểu:
Những cây cam cây hồng trong vườn tôi đều là loại cây chiết cành (không
phải cây ương hột). Cành chiết ra, trồng xuống đất, bắt rễ, nở hoa, sinh
trái nhanh, nhưng thân cây không nở to không lực lưỡng mấy. Nhánh của
cây chiết thường không đủ sức mang nặng trái lớn. Cô Sáu liên tưởng, so
sánh với những cành xoài cành mít to tướng ở vườn quê... Cô mắng tụi cây
chiết dở ẹc. Mắng mà không phải mắng. Cô Sáu mắng cây như mắng cô mắng
cậu: là mắng yêu thôi.
Từ đó, tôi trượt sang “OK”. Tại sao lần nọ cô Sáu OK với cành bông giấy?
Thoạt tiên tôi ngạc nhiên. Rồi tôi ngờ vực tai mình: Lẽ nào? Ở tuổi cô
Sáu, ai lại ô kê bao giờ? Cô học thói quen ấy trong trường hợp nào? —
Không giải thích được bấy nhiêu thắc mắc, rốt cuộc tôi xua đuổi cái
tiếng bất thường, tôi phủ nhận nó.
Sau vụ mắng cây, tôi ngờ ngợ: E “ô kê” có thể chấp nhận được. Chẳng qua
một cách vỗ về, nựng nịu. Ô kê, cũng như “dở ẹc, nghe chưa?”, chỉ nên để
ý đến cái âm, không nên chú ý đến cái nghĩa. Giọng cô dỗ dành, âu yếm.
Buổi sáng bên cây bông giấy, mình cô mình nó. Đâu có ai nghe thấy? Trong
chỗ thân mật cô đùa cợt tí ti. Cô Sáu nghe cô với cậu phát âm, cô không
rõ nghĩa, cô chỉ tiếp nhận cái âm chứa đựng đầy hảo ý, tử tế. Cây bông
giấy Mỹ, nên dỗ dành nó bằng cái thanh âm thích hợp với nó.
Từ “OK” lại trượt luôn sang một từ bất ngờ khác.
Buổi sáng hôm ấy, sau bữa điểm tâm ngoài hiên sau, tôi lui ra một góc
đọc vớ vẩn, cô Sáu trò chuyện với mẹ tôi. Một lát, có tiếng điện thoại,
mẹ tôi vào nhà, ở trong phòng khá lâu. Cô tôi nằm trên một chiếc ghế
dài, trông ra vườn, yên lặng. Chợt tôi nghe có tiếng lẩm bẩm: “Thương
quá.”
Nhìn quanh: Không thấy có ai. Không có cả một con chó con mèo nào. Tôi
bỏ qua tiếng nói bâng quơ. Rồi bỗng đâm nghĩ ngợi, bỏ trang sách, quay
nhìn về phía cô Sáu. Cô cười xã lã. Nhìn theo mắt cô, theo hướng cô
trông: Quả là không có gì. Bụi ớt, cây cam, cây hồng, trời xanh, vài cụm
mây trôi... Trong tàn cây cam một con ong bay, chờn vờn cành này cành
nọ, một cặp bướm trắng nhỏ lăn tăn. Không có gì.
Trong trường hợp này, “thương quá” phát biểu một cảm tưởng không được
xác định rõ ràng. Hoặc có thể hiểu: “Thích ghê!” hay “Thích thú ghê”.
Hoặc cũng có thể là: “Buổi sáng thật đẹp”. Hoặc “Cái sống ở giây phút
này, dễ chịu đa?”
Tôi lạc ra ngoài trang sách, trông lên nền trời, ánh nắng, con ong, con bướm... Và thông cảm với cô Sáu. Cô Sáu khác hẳn mẹ tôi.
Cả cô Sáu lẫn mẹ tôi đều đã ra đi. Cuốn sách cũ, những cuốn sách cũ thời
ấy vẫn còn đây. Thỉnh thoảng tôi dừng lại trước một trang sách, nhìn
kỹ: không tìm ra dấu vết hình bóng gì. Những gợi nhắc mỗi ngày mỗi mơ hồ
thêm.
Một cốt cách ở đời, nó loáng thoáng khó bắt. Cái còn lại của một cốt cách: ít oi quá, mong manh quá.
Tháng 8-2000
(In trong cuốn Cuối Cùng của Võ Phiến, Thế Kỷ 21 xuất bản tại California, USA, 2010)
24. VIẾT LÁCH
Loài người lúc nhúc lao nhao đông đảo, nhưng thoạt trông giống ấy sống
với nhau “được” lắm. Có nhiều gặp gỡ: Trời xanh ai cũng thấy xanh, mồng
gà đỏ chị A thấy đỏ anh B cũng thấy đỏ, đá cứng ai gõ vào đều thấy
cứng, cỏ mềm ai sờ đến cũng nhận ra mềm v.v... Làm người, tiếp xúc với
thế giới quanh mình xem ra đề huề. Như thế dễ chịu quá. Riết rồi có cảm
tưởng: nếu không thế e không thể sống chung với nhau được.
Thế nhưng theo dõi thêm, thấy ở địa hạt khác, thình lình Trời bắt người
chịu cảnh ngộ oái oăm. Tôi đang nghĩ về chuyện tiếng nói. Mỗi giống
người nói một thứ tiếng. Người Nhật phát lên một tiếng nói, người Việt
chẳng nghe ra nghĩa lý gì; người Việt nói lên một câu, trẻ già khắp xứ
Congo ngẩn ngơ. Xem tranh nghe đàn không cần đến sắc điển, thanh điển;
mà xem sách thì các giống người khác nhau nhất thiết phải dùng tự điển,
từ điển. Đối với vạn vật mọi giống, người tha hồ tiếp xúc; nhưng giữa
người với người, mỗi giống bị cầm giữ trong một cái ngục cô liêu của
ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là phương tiện của viết lách.
Trẻ sinh ra đầy năm vẫn có lệ cúng thôi nôi. Hôm cúng thôi nôi trẻ nào
quơ tay tóm phải cây bút, lớn lên sẽ loay hoay trong những hoạt động chữ
nghĩa, viết lách. Trẻ ấy tha hồ thấm thía cái vạ cô liêu.
Cầm bút là cái cầm bất hạnh?
Bất hạnh hay không bất hạnh, chuyện số kiếp của đứa trẻ nọ hãy để ra một
bên. Chúng ta đang nghĩ về những loay loay trong nghề cầm bút.
Sử dụng văn tự là kẻ viết, nhưng không phải cái viết nào cũng là viết
văn. Vào những lúc vui miệng nhất vẫn không nên gọi nhà văn Trang Chu,
văn sĩ Khổng Khâu. Viết lách đại khái có cái viết của giới suy nghĩ, lấy
chỗ đúng, sai, sâu, cạn làm căn cứ; và cái viết của giới sáng tác, lấy
sự đẹp đẽ, hay ho làm đích. Cái viết thứ nhất có thể đem ra dịch từ ngôn
ngữ này sang các ngôn ngữ khác. Dịch đúng thì ở bất cứ ngôn ngữ nào nội
dung của nó cũng có giá trị như nhau. Aristote, Descartes, Trang Tử...,
là những bậc thầy quốc tế. Cái viết thứ hai của giới sáng tác khó lòng
chuyển dịch mà vẫn giữ được một sức tác động tương đương. Những bản Kim Vân Kiều Pháp văn không mấy ai nghe được ngâm nga ở Pháp. Mỗi ngôn ngữ có một bản sắc riêng, có tiêu chuẩn thẩm mỹ riêng.
Thế rồi trong một giới sáng tác cái sử dụng ngôn ngữ cũng có những hướng
khác nhau. Đám làm thơ và viết tùy bút có chỗ hơi gần đấy; các tiểu
thuyết gia và kịch tác gia thì họ dùng kỹ thuật khác nhau vào những chủ
đích khác nhau.
Tác giả với tác giả đã không giống, độc giả cũng thế. Có độc giả và độc
giả. Kẻ đang chúi đầu ngốn ngấu truyện Kim Dung mà bị người đem thơ
Nguyễn Bính tới đọc bên tai tất nổi dóa.
Người đọc Kim Dung có thể phục tài năng và kiến thức của tác giả, nhưng
không thấy mỗi lúc mỗi gần Kim Dung thêm, đọc nhiều đến đâu vẫn không
thấy muốn quàng vai bá cổ người đồng điệu Kim Dung. Trong khi ấy đọc thơ
dễ thấy gần với tác giả. Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh..., các mối tình của họ,
những say mê và những đau buồn của họ thấm nhập vào lòng kẻ đọc. Đọc
họ, ta sống các xúc cảm của họ. Ta tự đồng hóa với họ. Ta là “bạn đọc”?
Là “bạn”? Nói thế e chưa đủ, lo gì sàm sỡ.
Các bậc thầy khảo luận, ai nấy tha hồ bái phục sát đất; nhưng như thế
càng khó gần gũi. Kẻ đọc họ bất quá là “độc giả”. Không có ai là “bạn
đọc” của Mạnh Tử, Lão Tử cả.
Thơ văn đẹp đẽ, đọc nó như thể gần gũi một tâm tình, một cốt cách. Khiến
nhớ nhung hoài. Càng lâu càng thấm thía. Rồi thấm nhiễm. Tâm hồn bạn
đọc dần dần hòa đồng với tâm hồn bạn viết. Tâm hồn, rồi thân xác, rồi cả
mạng sống của nhau...
Chuyện xưa thường vẫn li kỳ hơn chuyện nay. Nhưng hãy lấy một chuyện
thật của thời nay cho gần gũi. Thi sĩ Hồ Dzếnh viết, bạn đọc Nguyễn thị
Huyền Nhân nghe tin bạn viết lâm bệnh, tìm đến chăm nom. Hai bên yêu
nhau, lấy nhau, có với nhau được hai mụn con dại, càng khắng khít. Đến
một lúc nọ, vì lý do chính trị, Hồ Dzếnh bị chế độ đối xử tàn nhẫn,
ngược xuôi cùng cực vất vả vẫn không nuôi nổi vợ con. Con chết rồi vợ
chết. Chính tay ông liệm xác vợ: “Đây không phải là một buổi liệm. Bởi
nếu là liệm thì phải tắm rửa, thay quần áo mới. Mẹ tôi không có một mảnh
vải nào cả. Để cho người chết đỡ tủi — người chết có tủi không? — cha
tôi cởi chiếc áo cánh ướt trên người, đắp lên vợ.”[1]
Chuyện tình của các thi nhân xưa nay không kể xiết, nhưng dẫu đẹp đẽ hấp
dẫn đến đâu cũng là chuyện riêng của người, phanh phui không hay gì.
Trường hợp này chính do người trong cuộc phân trần nên mới dám đề cập.
Để thêm rõ cái nghĩa của tiếng “bạn đọc”
Quan hệ giữa viết với đọc là một mối quan hệ đặc biệt. Trong ngành họa, ngành nhạc, không nghe bảo có “bạn xem”, “bạn nghe”.
Nghề văn hay nghề viết quả kỳ cục. Cổ lai nghề đâu có nghề chỉ nhằm vào
một loại khách hàng duy nhất là “bạn”. Phải chăng vì vậy mà nghề ấy lắm
khi được gọi tránh ra là cái “nghiệp”?
Nghề viết văn loay hoay một cách... cảm động về khách hàng của mình.
Riêng người viết tiếng Việt lại còn mối cảm kích đối với cái ngôn ngữ
mình sử dụng.
Trứơc hết phải vội vã phân trần: Ở đây không có ý bảo Việt ngữ của ta là
nhất thế giới, hoặc hay nhất, tinh vi nhất, hoặc phong phú nhất, kỳ
diệu nhất v.v... Việt ngữ nhất hay bét, cái đó không biết, có lẽ cũng
không có ai đang tìm biết.
Có điều kẻ dùng nó thấy dùng thật thích. Kẻ học được nhiều tiếng Việt
thì sử dụng thoải mái, đã đành. Người chưa kịp học nhiều cũng có thể
dùng tiếng Việt một cách thích thú, và... hay ho. Trong trường hợp nó
gặp được một kẻ có tài thì thôi: Khỏi nói!
Hơn sáu mươi năm trước thường hay đọc lang thang, một hôm tôi gặp bài
‘Đợi thơ’ của Hồ Dzếnh. Lời lời hoa mỹ, câu nào câu nấy chật ních những
địa danh xa xôi, mơ hồ, mộng ảo; tôi mê tơi, “ngâm” đi “ngâm” lại:
“(...) Tô Châu lớp lớp phù kiều
Trăng đêm Dương Tử mây chiều Giang Nam
Rạc rời vó ngựa quá quan
Cờ treo ý cũ mây dàn mộng xưa
Biển chiều vang tiếng nhân ngư
Non xanh thao thiết trời thu rượi sầu
Nhớ thương bạc nửa mái đầu
Lòng vương quán khách nghe màu tà huân (...)”
Lời không hiểu mấy, ý không rõ mấy, nhưng mặc kệ: tôi thích, mê tơi. Tôi
có chú ý đến mấy tiếng “non xanh thao thiết”. “Thao thiết” ám ảnh tôi.
Xanh thao thiết là xanh cách nào? Không biết đích xác, nhưng tôi cho đó
là một chữ tài tình, đúng với màu núi “nọ”(?) Rồi cách dăm ba năm, bảy
tám năm, tình cờ gặp một tác giả nào đó cũng “xanh thao thiết”. Nhưng
tôi chưa bắt gặp “thao thiết” trong một cuốn tự điển Việt ngữ nào.
Dần dần thấy ra đó không phải chuyện mới lạ, hiếm hoi. Ông Sơn Nam chẳng hạn, mở cuốn Tuổi già [2] của ông ra đọc, thấy: râu ria “bùm tum” (tr. 22), “lật bật” tới chợ (tr. 29), mất chỗ “đùm đậu” (tr. 32) v.v., những chữ ấy đều không tìm thấy trong bộ Việt Nam tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức.
Nhưng viết nhiều tiếng lạ thì nhà văn Sơn Nam không theo kịp nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Trong một cuốn Tạp văn [3] chẳng hạn, bao nhiêu tiếng mới: cằn nhằn cử nhử (tr. 50), lượng sượng không biết nói chuyện gì (tr. 59), những bộ quần áo mới má thắt thẻo chắt mót từng lọn rau bó cải để sắm cho con (tr. 75), mưa bắt đầu xập xoài (tr. 76), đầu chờ vờ như con cá lóc gặp nước mặn (tr. 84), mặt trời lựng bựng lên từ phía chân trời (tr. 84), mình cùm nụm cùm nựu lũ nó (tức lũ vịt con) (tr. 107) v.v... Ối, phong phú không biết bao nhiêu mà kể.
Tôi ngạc nhiên, lấy làm nghĩ ngợi: Sơn Nam và Nguyễn Ngọc Tư ở cuối miền
đất mới trong Nam. Đất mới thì đất đai, cây cỏ, chim muông lắm thứ mới,
tập tục phải có chỗ mới mẻ, lời ăn tiếng nói địa phương nảy thêm cái
mới, phải thôi...
Tôi đang xun xoe về sự khám phá ra lý do địa phương tính trong cái mới ở
miền Nam thì chợt nghe bên tai một tiếng cười nghịch ngợm, ngang tàng,
của Trần Dần. (Ông Trần sinh ở Nam Định, mất ở Hà Nội, tức sống và chết
trên đất Bắc). Bài “Thằng thịt” của ông viết năm 1962:
Như đã nói,
tôi là một cột thịt lực đực
Tư duy nhất
ở phía
đít
(...)
Vũm vĩm toàn bộ phố, đưa đảy đùi chẳng hạn (...)
Một cột thịt vọt đứng ngấn trứng — thồn thỗn ao thịt
(...)
Những trạm nghỉ thịt, nun nút (...) nún xút.
Thút vút vót mực-thịt-đực(...)
Thằng thịt lông lá tẽ mím một vệt thịt (...)[4]
Lực đực, vũm vĩm, thồn thỗn, nún xút, tẽ mím..., cũng như lựng bựng, xập
xoài..., e khó bề gặp được trong tự điển. Như vậy thấy tiếng mới lạ mà
đoán là do nguồn gốc địa phương Nam Bắc khác nhau, do cách nói dân gian
với trí thức khác nhau v.v..., đoán hồ đồ đến thế không tha thứ được.
Các vị kể trên đều là những tên tuổi được biết rộng rãi khắp Nam Bắc.
Mặt khác, thấy tiếng lạ không có trong tự điển mà cho rằng dùng nó là
thất sách, khiến câu văn thành bí hiểm, lạc loài, không có hiệu lực tác
động đến độc giả; nghĩ vậy e cũng không đúng hẳn đâu.
Non xanh thao thiết là xanh thế nào? Lời giải
đáp tường tận chưa thấy, nhưng hiểu đại khái, cảm xúc mơ hồ, chắc chắn
không ít người. Chẳng ăn cái giải gì mà người ta vờ vĩnh, mà không cảm
xúc cứ kêu là có. Trước mơ hồ sau rõ rệt, dần dần tiếng này chữ nọ được
chấp nhận vào tự điển. Tiếng nói đã đông đảo dần và sẽ đông đảo thêm nữa
bằng cách ấy?
Cùm nụm cùm nựu, lực đực, vũm vĩm v.v..., rồi cũng vậy chăng? Không ai
dám chắc điều gì. Xưa nay, trong quá trình tiến hóa vẫn có cái được giữ
lại, phát triển, lại có những cái bị đào thải, dần dần mất dạng.
Ta không nên tiên tri điều gì. Nên, có lẽ nên mừng cho đức rộng lượng
của cái ngôn ngữ mình đang dùng để viết lách. Nếu tuyên bố toáng lên là
Việt ngữ hay ho, tinh xảo, tuyệt vời v.v..., e thiên hạ có kẻ che miệng
cười rinh rích. Nhưng phải chịu rằng nó có cái độ lượng chấp nhận,
khuyến khích, ủng hộ những sáng tạo, làm nẩy ra tiếng mới chữ mới, nó
niềm nỡ đối với những cách viết cách nói mới mẻ, táo bạo. Từ khi loài
người biết nói đến nay đã có bao nhiêu thứ tiếng nói xấu số tàn rụi,
chết đi, rồi mất tích? Tử ngữ la liệt. Trong khi ấy, ngôn ngữ của chúng
ta dùng đã mấy nghìn năm vẫn còn mới mẻ, táo bạo, vẫn còn sức sống. Mang
trên đầu mấy nghìn tuổi thọ mà vẫn sinh động, vẫn mắn con, sinh nở tới
tấp những đứa trẻ kháu khỉnh, vũm vĩm! Thích nhá!
Đến đây chợt nhớ đến người cầm bút Trần Vấn Lệ. Nhớ lõm bõm mấy câu trong bài ‘Chữ nghĩa và tôi’ của ông:
Tôi xem chữ nghĩa như con cái
Có đứa buồn hiu, có đứa vui
Quanh quẩn bên tôi chiều với sớm
Líu lo như thể lũ chim trời
Tôi xem chữ nghĩa như cơm cháo
Khi đói thì ăn, no để dành
Dư ném cho chim nhìn chúng hót,
Thấy trời hẹp bớt chút mông mênh
Tôi xem chữ nghĩa như bè bạn
Kết thả trôi sông chở cả trời (...)
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Tôi xem chữ nghĩa như chăn gối
Khi lạnh thì ôm, nóng bỏ ra
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Chữ nghĩa và tôi đến xứ người
Ngậm ngùi, tan nát giống như tôi...
Sót vài ba chữ ngồi hiên quán
Gặp bạn nâng ly một tiếng cười.
Chữ nghĩa và tôi sẽ xuống mồ
Mai này cỏ mọc sắc xanh mơ
Ai đi ngang để cành hoa xuống
Là cũng cho đời một chút Thơ!
Đọc đi đọc lại, tôi mến thái độ ông Trần quá. Ông thành thực, giản dị,
thân mật hơn hẳn mình. Tôi lẩm nhẩm, tưởng đã thuộc làu. Không ngờ lúc
định chép ra khoe mới hay bị trí nhớ phản bội nặng nề: Lời thơ chỗ nhớ
chỗ quên, cách trình bày tân kỳ quên tuốt hết, bài thơ cất giữ ở đâu
cũng quên luôn. Không dám khua khuống ồn ào, tìm hỏi quấy quả bạn bè,
cũng không dám diên trì làm cho chính mình cụt hứng nửa vời. Bèn trước
hãy nhớ sao ghi vậy, rồi hạ hồi thư thả sẽ chỉnh đốn, sửa sai vậy. Kính
mong bạn Trần niệm tình tha thứ. (Trong bài viết này có trích dẫn thơ
của hai tác giả — Hồ Dzếnh và Trần Vấn Lệ — thì e sai sót ở đủ cả hai!)
Coi cái tiếng mình nói cái chữ mình viết, coi chúng nó như con cái, như
cơm cháo, như bè bạn, như chăn gối... Chao ôi! tự thuở hồng hoang đến
giờ, có ai như ông Trần, như người cầm bút đang sống, đang nói cười bên
cạnh chúng ta lúc này?
Viết văn là một nghề? Cái nghề mà khách hàng là bạn, bạn có khi chí
thiết, trao hết cuộc đời cho mình, cùng sống chết với mình. Cái nghề mà
phương tiện hành nghề là con cái, là cơm cháo, là chăn gối v.v... của
mình, là những cái những ai sẽ theo mình xuống mồ cùng một lượt!
Gớm, nghề với nghiệp.
Năm 2007
(In trong cuốn Cuối Cùng của Võ Phiến, Thế Kỷ 21 xuất bản tại California, USA, 2010)
_________________________
[1]Hồ Dzếnh, Quyển truyện không tên,
hồi ký, do Thanh Văn xuất ở California, Hoa Kỳ, năm 1993, trang 86.
Những chữ “cha tôi”, “mẹ tôi” chính là chỉ vào Hồ Dzếnh và phu nhân, bởi
vì Hồ Dzếnh viết hồi ký này thác lời con mình.
[2] Tuổi già, nhà xuất bản Văn Nghệ, ở Sài Gòn, in năm 2000.
No comments:
Post a Comment