MỤC LỤC
- Lời tri ân
- Khi Tình Người Cạn Kiệt
Phần I : ĐẤT CŨ NGƯỜI XƯA
- Cây Khế Ngày Xưa
- Ngày Tháng Cũ
- Quê Ngoại
- Người Nghệ Sĩ Miền Quê
- Soái Nham
- Sơn Chung Tiên Sinh
- Người Đàn Bà Nhan Sắc
- Tào Mạt
- Một Mảnh Trời Hà Nội
Phần II : NHỮNG NGÀY LƯU LẠC
- Cây Thông
- Một Thoáng Đi Qua Khu Rừng Nhất Linh
- Một Làn Gió Tinh Khôi
- Sài Gòn Thoáng Nhớ
- Đi Mua Đồ Cũ
- Một Chút Nhớ Quên
- Vài kỷ niệm về Nguyễn Thanh Hùng
- Cụ Hoàng Văn Chí
- Những Chặng Đời Nghiệt Ngã
- Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh
- Một Ngày với Đô Đốc Chung Tấn Cang
- Người Đàn Bà Trên Tàu 502
- Chị Em
- Hà Nội Ngày Trở Lại
Phụ Lục
- Về Tủ Sách Kẻ Nủa
- Về Phan Lạc Tiếp
- Về Tủ Sách Tiếng Quê Hương
LỜI TRI ÂN
Cuốn MỘT THỜI OAN TRÁI được ra mắt bạn đọc là nhờ sự nhắc nhở của bè bạn xa gần, nhất là
được sự tích cực giúp đỡ của nhà xuất bản Tiếng Quê Hương.
Tác giả đặc biệt ghi ơn các bạn :
Nhà văn Uyên Thao : Biên tập và trình bày.
Nhà văn Trần Phong Vũ : Viết lời giới thiệu.
Hoạ sĩ Từ Phong : Vẽ bìa.
PHAN LẠCTIẾP
KHI TÌNH NGƯỜI CẠN KIỆT
(Cảm nghĩ về MỘT THỜI OAN TRÁI)
TRẦN PHONG VŨ
Đọc tác phẩm Một Thời Oan Trái của nhà văn Phan Lạc Tiếp, tôi thoáng liên
tưởng tới nội dung cuốn Ngày Long Trời, Đêm Lở Đất của Trần Thế Nhân.
Hai tiếng Oan Trái như xoáy vào trái tim ứa máu làm lay động những suy tư trầm
lắng trong tôi khi đọc những chứng từ của người viết họ Trần.
Trần Thế Nhân! Một cái tên xa lạ trong giới cầm bút quốc nội ghi trên tập sách do
tổ hợp Cành Nam ở Miền Đông nước Mỹ ấn hành.
Tôi nghĩ thầm hẳn là tên giả của một cây viết nào đó, bởi trên đất nước ta hôm
nay, những chứng từ trần trụi, khốc liệt và chân thật như thế không có quyền hiện
hữu và không thể là sản phẩm của một con người có diện mạo, có căn cước.
Điều mang vẻ nghịch lý là bối cảnh âm u, hư ảo, ma quái tuồng như hư cấu bao
quanh tác phẩm lại hiện ra rất thật, với những việc thật, người thật.
Đây là điều đã được xác nhận bởi nhiều nhân chứng, trong đó có Nguyễn Minh
Cần hiện sống ở Nga. Chuyện tình bi thảm, oan trái giữa ông Hồ và cô gái họ
Nông qua lời kể của oan hồn người cung nữ về một đấng quân vương thời phong
kiến đã khởi đầu cho những cái chết oan khiên, những mảnh đời bất hạnh Việt
Nam trong thời Cải Cách Ruộng Đất.
Câu chuyện của Trần Thế Nhân, một người viết trong nước là như thế. Nhưng lúc
này trên tay tôi là bản thảo Một Thời Oan Trái của nhà văn cũng là cựu hạm
trưởng trong binh chủng Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa trước 1975.
Không cần đọc lời xác minh của tác giả, ai cũng nhận ra cảnh ngộ, tình huống, chi
tiết những chuyện kể trong tác phẩm được phóng chiếu từ những sự thật. Đấy là
các chứng từ được cẩn trọng ghi lại sau những đụng chạm, những gặp gỡ, trao
đổi giữa người với người, giữa người với sự vật trong một lần trở về thăm quê cũ.
Với hơn hai mươi đoản văn, tác giả đã chắt chiu, tỉ mỉ ghi lại nhiều hình ảnh, kỷ
niệm còn mất của một thời đã đi qua đời ông. Nó gắn bó với ông từ thuở ấu thơ
như bóng với hình.
Nó theo ông vào miền Nam sau ngày đất nước bị chia đôi tháng 7 năm 1954.
Nó cùng ông vượt đại dương đi tới một chân trời khác — hoàn toàn khác.
Tựa như một thân cây trốc gốc bị bứng ra khỏi vùng đất quê hương quen thuộc có
tên Nủa Chợ — gọi tắt là làng Nủa, tên tục của làng Hữu Bằng, quận Thạch Thất,
tỉnh Sơn Tây, tức Hà Tây, miền bắc nước Việt ngày nay.
Đầu thập niên cuối của thiên niên kỷ thứ hai, chính xác là năm 1994, sau 40 năm
biền biệt, từ phương trời khác đã trở thành quê hương thứ hai của ông, lần đầu
tiên nhà văn họ Phan trở về nhìn lại nơi chôn nhau cắt rốn.
Chính từ nơi ấy định vị một làng quê mà mỗi lần nhớ tới lại rộn lên trong trái tim
nhạy cảm của ông, những kỷ niệm êm đềm, đầy ắp thương yêu, nhung nhớ về
những ngày tháng cũ. Như những rong rêu bên bờ sông lá mục ghi đậm một thời
trai vẫy vùng trên sông nước thuở nào, ngày trở về làng Nủa đã khắc họa trong
ông những vết hằn đắng cay, chua xót, để cho những dòng lệ tuôn trào.
Gắn kết những kỷ niệm êm đềm quá khứ với những tang thương hiện tại, ông
chợt nghe hồn rướm máu.
Và Một Thời Oan Trái đã hình thành trong tâm huống ấy.
Tôi không khỏi mang cảm giác rưng rưng, vừa ngạc nhiên vừa thích thú, khi đọc
nhan đề tác phẩm.
Điều này có căn do.
Bản thân tôi từng viết một tập truyện có tên tương tự: Một Thời Mê Hoặc. Đây là
tập truyện dài được viết dưới dạng feuilleton đăng liên tục nhiều kỳ trên nguyệt
san Đường Sống cuối thập niên 1980 và được cơ sở xuất bản Tin Vui ở nam
California, Hoa Kỳ ấn hành mùa thu năm 1998. Rất tình cờ, nhà văn Phan Lạc
Tiếp đã nhận lời giới thiệu trong ngày ra mắt tác phẩm cuối năm ấy.
Khi chọn nhan sách mỗi người viết đều gửi vào đó một hàm ý riêng. Nếu cái thời
mê hoặc trong tập truyện dài có hồi kết cuộc tuồng như bỏ lửng (1) của tôi diễn
tả những cơn sóng lãng mạn cuối mùa xô đẩy giới trẻ Việt Nam vào những chọn
lựa u mê, hoảng loạn trong vòng một thập niên tính tới biến cố Mậu Thân 1968,
dẫn vào những cảnh ngộ chia xé nát lòng — không phải đâu xa mà ngay sau
ngưỡng cửa gia đình, giữa cha và con, vợ và chồng, giữa những anh em ruột thịt
— thì cái thời oan trái trong những trang ký sự rướm máu và đầy nước mắt của
tác giả họ Phan là tấm gương phản chiếu những hình tượng tang thương, đau xót
chất đầy oan khiên, sầu muộn, không chỉ của riêng làng Nủa mà trên toàn lãnh
thổ Việt Nam.
Hơn hai mươi đoản văn trong Một Thời Oan Trái là hơn hai mươi chứng từ sâu
lắng, sống động qua 9 mảnh đời trong Phần Thứ Nhất — Đất Cũ Người Xưa — và
hơn 10 ký sự trong Phần Thứ Hai — Những Mảnh Đời Lưu Lạc.
Oan trái!
Quả là không còn có từ nào đắc địa — đúng và chính xác — hơn, để diễn tả cái
thời chất chồng những oan khiên, cay nghiệt ấy.
Tôi rất muốn đi sâu vào từng truyện ký, vì tất cả đều đáng được đào xới để chia
xẻ những suy tư cuồn cuộn như sóng gào, gió hú của riêng mình cùng người đọc.
Nhưng giới hạn của trang sách không cho phép dài lời nên đặt tôi trước một chọn
lựa, một giới hạn chẳng đặng đừng.
Gấp sách lại, mỗi nhan đề, mỗi tâm sự, mỗi danh tính nhân vật như còn đọng lại
đâu đây. Ở đó là những vùng sáng chan hòa của một thời trẻ dại với Cây Khế
Ngày Xưa thoang thoảng mùi bồ kết từ hương tóc chị Đan, với Người Nghệ Sĩ
Miền Quê gợi nhớ những buổi rong chơi thả diều câu cá, với Soái Nham, với Tào
Mạt, với Sơn Chung Tiên Sinh, với Người Đàn Bà Nhan Sắc ... nháng lên những
ánh lửa yêu thương, tin cậy của một thời. Cũng ở đó là những mảng tối đong đầy,
rình rập những tai ương, cạm bẫy.
Giữa đêm đen huyền hoặc, vẳng lên các thanh âm ằng ặc, u uẩn, tắc nghẽn thoát
ra từ cuống họng người thanh niên họ Phan bị xiết cổ lôi đi trên cánh đồng làng
Thày bên rặng Sài Sơn. Cạnh đó là khuôn mặt nhợt nhạt với đôi mắt vô hồn,
thảng thốt của người chứng bất đắc dĩ Đỗ Nhật Tân tức Sơn Chung Tiên Sinh.
Tương tự trường hợp Phan Lạc Trạch, Đỗ Nhật Tân, mỗi đoản văn trong Một Thời
Oan Trái là một mảng đời sống nhào trộn với ký ức về một thuở thanh bình, có
lũy tre xanh, có vòm trời đầy sao, có mảnh trăng non, có giọng hát trữ tình, có
tiếng sáo lững lờ, thánh thót... Rồi, thoắt trong khoảnh khắc, mọi sự trở thành hư
vô.
Tất cả như chỉ còn là cơn ác mộng.
Cuộc đời Sơn Chung Tiên Sinh Đỗ Nhật Tân, người anh em họ của tác giả là điểm
hội tụ điển hình cho cái thời oan trái trong toàn bộ tác phẩm.
Thân phụ tiên sinh là một người chân quê hiền hòa có một quan niệm sống đơn
sơ, thực tế. Lớn lên ở buổi giao thời, biết mình không có điều kiện và khả năng
thành đạt trên đường khoa cử, không muốn thành những ông Tú lỡ nên ông cụ
chuyên chăm lo việc nông tang. Suốt năm, bốn mùa 12 tháng cùng vợ và đàn con
đông đúc hết bận rộn với vài mẫu ruộng ngoài đồng lại cặm cụi bên khung cửi,
bên nồi thuốc nhuộm trong nhà. Nhờ thế gia đình họ Đỗ gầy dựng được một cơ
ngơi tươm tất, khiến trong họ ngoài làng ai cũng nể phục. Sau một cơn bạo bệnh,
ông cụ qua đời để lại gia tài sự sản cho con trai là Đỗ Nhật Tân.
Theo lời trăn trối của nghiêm phụ trước lúc lâm chung, ông Tân chăm chỉ, chí thú
làm ăn. Tuy vậy từ sâu thẳm của cõi lòng, ông vẫn mang nỗi khắc khoải thấy
mình thua kém khi tình cờ phát hiện trong quá khứ dòng họ Đỗ từng có người đỗ
đạt làm nên danh phận trong làng ngoài tổng. Do đó, ngoài việc nông tang, ông
cố dành thì giờ đọc sách, ôn tập chữ nghĩa Thánh Hiền mong sao mở mặt với đời.
Mọi chuyện sẽ tuần tự trôi xuôi nếu đất bằng không nổi sóng.
Trong biến cố Mùa Thu 1945, với lòng yêu nước đơn sơ, ông góp công góp của,
hăng hái tham gia Mặt Trận Việt Minh, cùng bà con chung tay xây dựng xóm làng.
Rồi một buổi sáng, quân Pháp tìm đường trở lại. Từng toán lính tràn vào đập phá
đình làng, tháo gỡ cột kèo, cánh cửa, kể cả những câu đối, hoành phi sơn son
thiếp vàng đem bắc qua mương lạch cho các đoàn cơ giới di chuyển. Cảm nhận
niềm đau xót và tâm tình hoài cổ của những bậc trưởng thượng trong làng, Phan
Lạc Trạch, một thanh niên biết tiếng Pháp tự nguyện đứng ra giải thích cho người
chỉ huy đoàn quân viễn chinh hiểu giá trị tinh thần của những tấm gỗ ghi khắc
những chữ Nho vốn được dân làng trân trọng. Nhờ thế các bảo vật ngàn đời ấy
đã được họ ân cần trả lại.
Như một tình cờ của định mệnh, đứng bên người thanh niên họ Phan trong cuộc
trao đổi tay đôi với viên chỉ huy Pháp giữa thanh thiên bạch nhật hôm ấy là Đỗ
Nhật Tân.
Và oan khiên, bất hạnh đã xảy ra.
Nửa khuya cùng ngày, họ được cán bộ tới nhà nhỏ nhẹ mời đi họp. Rồi không
hẹn, cả hai gặp nhau giữa đồng không mông quạnh làng Thày. Một bị xiết cổ đến
chết vì tội thân Tây, một bất ngờ được tha, dĩ nhiên với lời cảnh cáo nghiêm khắc
bất thành văn.
Thi hài nạn nhân vắn số được vùi lấp đâu đó dưới chân núi Sài Sơn. Người được
tha mạng thất thần bước đi như kẻ mộng du. Rồi trong phút hoảng loạn, ông cắm
cổ chạy trối chết, bỏ lại sau lưng xóm làng, vợ con, gia cơ điền sản.
Sau đó là chuỗi tháng năm sống lang thang như kẻ vô gia cư giữa phố phường Hà
Nội. Một ngày cuối hạ 1954, trong cơn sốt bùng lên giữa kẻ ở người đi, từ làng
Nửa, bà Tân lén lút ra Hà Nội tìm tới nhà trọ của chồng :
- Thầy nó có về không? Người ta bảo về được đấy, về đi.
Ông lặng yên. Một hồi lâu ông mới nói :
- Tin họ không được đâu. Tôi không về được.
- Thế Thầy nó đi Nam à?
- Nào biết trong Nam ra sao? Mà lòng tôi lúc nào cũng chỉ biết tới căn nhà mình.
Tôi nhớ mảnh ao cá, bè rau rút, tôi nhớ mẹ nó và lũ con ở nhà ... Nhưng nhất
định là tôi không về được đâu. Thôi thì cứ coi tôi như không còn nữa ... Thôi mẹ
nó về, trăm sự tôi trông cả vào mẹ nó. Nhớ săn sóc Mẹ và các con hộ tôi. Và cố
gây dựng cho chú Út...”
Trong gần một triệu người từ Bắc vào Nam, có lẽ ông là một người không muốn đi
chút nào, nhưng cũng lại là người nhất quyết phải ra đi.
“Không muốn đi chút nào” mà lại là người “nhất quyết phải đi!” Thật khó có
trường hợp mâu thuẫn và nghịch lý nào hơn trường hợp ông Tân theo cách nhìn
của nhà văn họ Phan. Nhưng trên thực tế lại không phải điều họa hiếm nếu nhìn
sâu vào tâm thức từng người trong số bỏ miền Bắc vào miền Nam hơn nửa thế kỷ
trước. Và rộng hơn là trường hợp những đồng bào phải đành đoạn giã từ đất
nước để tán lạc khắp bốn phương trời hải ngoại sau tháng tư năm 1975. Khác
chăng là ở mức độ nhiều ít, nặng nhẹ mà thôi.
Cũng như những ngày tháng lang thang, vất vưởng ở Hà Nội, ông Tân tiếp tục
kéo lê kiếp sống thừa suốt 21 năm dài dặc ở Sài Gòn.
Dù vậy, do những thôi thúc lặng câm của lòng tự ái dòng họ và của lương tâm
ngay chính nơi con người, nhờ tinh thần cầu tiến, ông vẫn cố vươn lên hầu đóng
góp chút gì đó cho vùng trời tự do mà ông đã chọn. Dĩ nhiên theo cách thế của
riêng ông. Chính từ đấy người dân miền Nam có cơ hội biết tới tên ông qua bút
hiệu Sơn Chung, khi tình cờ con người kỳ lạ này được trao tặng hạng ba Giải
Thưởng Văn Chương Tổng Thống bộ môn dịch thuật.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975, chế độ cộng sản độc tài miền Bắc thôn tính nốt
miền Nam đưa toàn lãnh thổ về một mối mà nói theo nhà thơ Nguyễn Chí Thiện là
“Một mối hận thù, một mối đau thương!”
Trong khi cả triệu người tức tưởi tìm đường bỏ nước, bỏ gia tư điền sản ra đi thì
Sơn Chung Tiên Sinh lội ngược dòng trở về quê cũ. Trên chuyến tàu Nam Bắc,
ông thấy mình cô đơn, tay không lạc lõng giữa những người đồng hương sau
chuyến đi Nam mang về theo bên mình cả tấn áo quần, radio, TV và đồ gia dụng
đắt giá. Kể từ những ngày ấy, kho tàng ngôn ngữ Việt Nam được làm giầu thêm
bằng câu nói cửa miệng: “Người Nam nhận họ, người Bắc nhận hàng”.
Sau cuộc hội ngộ nhiều ngỡ ngàng nhưng không thiếu cảm động giữa Sơn Chung
Tiên Sinh cùng vợ con và họ hàng, lối xóm, tác giả cho biết: “Nhưng mới hôm
trước hôm sau, Uỷ Ban Xã mời ông ra trụ sở làm việc. Họ ăn nói rất ôn hòa “...
bác ở xa mới về, chưa quen nếp sống mới, bác cần được nghỉ ngơi, học tập một
thời gian...” Thế là ông phải đi tù! ”
Điều trớ trêu, oan trái mang đầy kịch tính là ngay ngày đầu nhập trại ông gặp lại
con trai trong dáng dấp một ông già trước tuổi với thân hình còm cõi trong cùng
cảnh ngộ nát lòng: Cả hai cha con đều là tù nhân của chế độ!
“- Con! Con đây ư? ...
Người con oà khóc và nói :
- Con đã tưởng ở trong Nam thì Thầy đã thoát. Sao Thầy lại còn về để bố con
mình gặp nhau ở đây?!..”.
Vì không muốn người đọc hiểu lầm tình tiết câu chuyện bi thảm kể trên là bịa đặt,
hư cấu, tác giả cẩn thận xác minh:
“Trên đây là những việc thật, người thật. Vì Sơn Chung là anh tôi, con trai trưởng
của già tôi. Mẹ tôi là em ruột của mẹ ông. Sơn Chung Đỗ Nhật Tân gọi mẹ tôi là
dì. Người thanh niên xấu số bị thắt cổ chết tên là Phan Lạc Trạch, là con của bác
Tú tôi, là anh họ của tôi, là chú ruột của Phan Lạc Tuyên... Những nỗi tang
thương, những oan khiên, chia lià của thời cuộc trải dài trên nửa thế kỷ, phủ lên
bao nhiêu gia đình, qua mấy thế hệ, xét cho cùng, thật vô cùng ghê gớm và cũng
thật vô ích. Hoàn toàn vô ích...”
Bối cảnh, không khí truyện của nhà văn Phan Lạc Tiếp là bối cảnh, không khí xóm
làng của ông — làng Nủa — với những tình tiết liên hệ tới bà con tộc họ hoặc bạn
bè quen biết của anh em nhà họ Phan Lạc. Vì thế rất nhiều sự kiện được ghi lại
trong những đoản văn khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với nhau về việc cũng
như người.
Nỗi quan hoài của tác giả khi viết về cái chết tức tưởi của Phan Lạc Trạch trong
đoản văn Sơn Chung Tiên Sinh hơn một lần được lập lại khi ông bắt gặp những
nhân vật ít nhiều liên quan tới câu chuyện được đề cập. Nội dung lá thư tác giả
gửi bà Tố Quyên trong Người Đàn Bà Nhan Sắc là một.
Giản dị vì Tố Quyên, người phụ nữ sắc nước hương trời chính là vợ của Phan Lạc
Trạch, người thanh niên biết tiếng Pháp, vì muốn “cứu” những bức đại tự treo ở
đình làng hoặc các từ đường của tư nhân nên đã bị bức tử vì tội thân Tây! Nặng
hơn, đáng chết hơn là tội phản quốc, tội rước voi dày mồ!
Từ 1945 đến nay đã gần hai phần ba thế kỷ.
Thời gian tạm đủ để công luận bình tâm nhìn lại quá khứ. Những khía cạnh khuất
lấp, pha trộn những mảng tối của cao trào thanh thiếu niên thoát ly gia đình đi
theo Việt Minh cộng sản đã lần hồi trở nên sáng tỏ hơn.
Xuyên qua những nhân vật trong Một Thời Oan Trái, nhà văn Phan Lạc Tiếp đã
mở ra cho người đọc một cái nhìn cụ thể với những con người cụ thể.
Cô gái quê tên Đan, người chị họ thân thương của tác giả họ Phan, từng ẵm bồng,
săn sóc ông từ thời măng sữa bỗng dưng một ngày có mặt trong đoàn người lạ
kéo về làng, lớn tiếng hô những khẩu hiệu bài phong, đả thực là một điển hình.
Trường hợp Tào Mạt Nguyễn Duy Thục và bóng dáng mờ nhạt của những người
trẻ trong Ngày Tháng Cũ, Người Nghệ Sĩ Miền Quê, Soái Nham, Một Mảnh Trời Hà
Nội, Chị Em... nói chung những chàng trai Hà Nội có mặt trong đoàn thanh niên
sinh viên quyết tử bảo vệ Thủ Đô sau ngày toàn quốc kháng chiến là những điển
hình khác.
Họ là những người sinh ra trong các thập niên đầu thế kỷ cuối cùng của thiên niên
kỷ thứ hai. Đó là thế hệ thanh thiếu niên chịu ảnh hưởng sâu đậm tinh thần ái
quốc của những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và sự ra đời của những đảng phái
chính trị, với chủ trương bài phong, phản đế, đả thực để dành độc lập, tự do và
chủ quyền cho đất nước. Cái chết bi hùng của liệt sĩ Nguyễn Thái Học, người đứng
đầu Quốc Dân Đảng cùng 12 đồng chí năm 1930 ở Yên Bái đã trở thành chất xúc
tác mạnh mẽ khơi dậy lòng yêu nước nơi các tâm hồn trẻ.
Nhà văn Phan Lạc Tiếp dựa vào những nhân tố này để lý giải trường hợp thoát ly
gia đình đi theo kháng chiến do Mặt Trận Việt Minh chỉ đạo của các người thân
quen với ông như chị Đan, như Nguyễn Duy Thục. Nguyễn Duy Thục, dân làng
Nửa, người thanh niên trí thức được biết đến nhiều sau này dưới bút danh Tào
Mạt, từng là nhà văn, nhà thơ, kịch tác gia nổi tiếng. Ông mang quân hàm Đại Tá
trong quân đội miền Bắc cho đến ngày bị thất sủng, bị săn đuổi vì có tư tưởng xét
lại. Bàn về trường hợp Tào Mạt dấn sâu vào chủ thuyết Mácxít-Lêninnít mà bước
đầu là gia nhập Mặt Trận Việt Minh, sau khi trình bày bối cảnh đất nước đau
thương dưới sự thống trị của thực dân Pháp và cơ hội dành lại độc lập cho quốc
gia trong giai đoạn cuối cùng thế chiến thứ hai, nhà văn họ Phan viết: “Trong tình
trạng ấy, ai cũng được, tổ chức nào cũng được, cứ có người kêu gọi là những
người trẻ yêu nước hăng hái lên đường. Nên nhớ cũng từ thời điểm này, năm
1930, Đảng Cộng Sản Đông Dương được thành lập, đã ẩn mình, nín tiếng trong
thời gian qua, tới năm 1945, đúng thời cơ, người Cộng Sản Việt Nam mới ồn ào
lên tiếng, xua dân đi cướp chính quyền. Hầu như ai là kẻ có lòng với dân, với
nước cũng đã sẵn sàng nghe theo tiếng gọi của Mặt Trận Việt Minh, trong đó có
người thanh niên Nguyễn Duy Thục. Cách Mạng Tháng Tám bùng nổ như một vận
hội đầy quyến rũ, cuốn hút người yêu nước ra đi. Tất cả đã lên đường dành độc
lập và chống xâm lăng từ trong Nam ra Bắc.”
Với tinh thần yêu nước thiết tha, với tài năng thiên phú, Tào Mạt đã bước những
bước rất xa, rất nhanh.
Nhưng, biến cố 30-4-1975 đã mở mắt cho ông. Sau nhiều phen bị cấm cản làm
khó dễ, Tào Mạt có dịp vào Nam tiếp xúc với những người dân hiền hòa nơi đây.
Ngày đặt chân xuống Sài Gòn cũng là ngày ông nhận ra mình đã bị lừa, một “quả
lừa vĩ đại”, theo ngôn ngữ của một số nhà văn trong nước lâu nay. Và tư tưởng
“xét lại” manh nha trong ông.
Từ đấy, các sáng tác của Tào Mạt dành cho sân khấu Chèo bắt đầu xuất hiện
những câu hát làm nhức tim bọn tham những gộc của chế độ.
Điển hình như những câu:
“Chim khoét, chuột đào (ớ ơ )… khoét cùng đào.”
“Cướp đêm là giặc (ới a)… cướp ngày là… quan”.
Chưa hết, ông còn dám công khai đụng tới thần tượng của chế độ là ông Hồ.
Trong bài báo Tôi Viết Về Hồ Chí Minh, Nguyễn Thái Hoàng, một trí thức trẻ trong
nước đã tiết lộ lời tâm sự sau đây của Tào Mạt:“Tôi được trung ương giao cho viết
một vở chèo về Bác. Thú thật lúc đầu tôi thấy vinh dự lắm liền vào ngay thư viện
ôm một chồng sách về nghiền ngẫm, vào tận quê ông cụ để lấy thêm tư liệu, đọc
cả sách ngoại quốc ca ngợi cụ, rồi để cả năm trời kiểm chứng. Cuối cùng phải bỏ,
vì cụ Hồ là người hoàn toàn không tin được, đầy gian giảo, xảo quyệt, khác với
những điều bịa đặt trong sách. Bây giờ để có tác phẩm thay thế, tôi phải viết về
Hưng Đạo Đại Vương Trần quốc Tuấn.”
Từ trường hợp Tào Mạt Nguyễn Duy Thục, có thể suy ra trường hợp của rất nhiều
người trẻ Việt Nam khác thuộc thế hệ trước ông hoặc đồng trang lứa với ông.
Trong tác phẩm Đêm Giữa Ban Ngày, nhà văn Vũ Thư Hiên đã đề cập hoàn cảnh
tương tự xảy ra cho thân phụ ông vào những năm 1930, 1940 thế kỷ trước.
Rồi những Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Nguyễn Thanh Giang, Hà Sĩ Phu Nguyễn
Xuân Tụ, Bùi Minh Quốc, Vũ Cao Quận, Tô Hải… và đông đảo thành phần trí thức
kể cả người đã thoát ra khỏi nước như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Minh Cần…
đều công khai lên tiếng chống lại những hành vi phản quốc của Hà Nội. Họ là ai,
nếu không là những người một thời vì sự thôi thúc của lòng yêu nước đã hăng hái
lên đường đi theo Mặt Trận Việt Minh?
Những tháng năm dài sau đó, đâm lao theo lao, từng người một, bằng cách này
hay cách khác, đã phải tự trói mình chịu sự sai khiến trong bàn tay phù thủy của
đảng Cộng Sản. Nhưng cũng nhờ lòng yêu nước, cuối cùng họ đã tìm được lối ra.
Ít nữa là cho sự thanh thản lương tâm của bản thân mình, dù phần đông vẫn còn
đang chịu sự thằng thúc của guồng máy công an trị ở trong nước lâu nay.
Với Tào Mạt cũng như với Người Nghệ Sĩ Miền Quê và thấp thoáng nhiều khuôn
mặt khác trong các đoản văn, theo tác giả Một Thời Oan Trái, những người bạn
xuất thân làng Nủa của ông không chỉ mang nặng tình yêu nước mà thôi.
Ở họ còn là những CON NGƯỜI (CON NGƯỜI viết hoa) có trái tim nhạy bén, giàu
tình cảm, nặng lòng yêu thương — yêu thương xóm làng, yêu thương bằng hữu.
Chẳng thế mà vào lúc chế độ đang dồn mọi nỗ lực thúc đẩy và hỗ trợ cao trào
quần chúng phóng tay phát động chiến dịch tiêu thổ kháng chiến — tất cả nhà
cửa, từ đường, dinh thự của tư nhân, bao gồm đình chùa miếu mạo, những nơi
thờ tự đều phải phá hủy thành bình địa (2) — với tư cách cán bộ địa phương
trong Mặt Trận Việt Minh, Tào Mạt đã vì tình cảm xóm làng ngấm ngầm tìm cách
bảo vệ ngôi đình làng Nủa, dù biết sẽ có ngày phải trả giá.
Chưa hết, giống như Người Nghệ Sĩ Miền Quê đã đồng lõa giúp bạn là Phan Lạc
Tiếp rời làng Nủa lên Hà Nội, Tào Mạt đã khuyến khích và hỗ trợ cuộc “dinh tê”
của người anh tác giả như lời thuật lại sau :“Năm 1950, khi cuộc chiến trở nên
khốc liệt, đặc biệt Việt Minh ra mặt tận diệt những ai không phải là người của Mặt
Trận, chính anh Thục một đêm bên bờ sông Thao, đã nói với ông anh tôi rằng:
“Các anh đi đi. Đây không phải là đất của các anh đâu. Phải đi ngay trước khi quá
trễ.” Và chính anh đã tiếp tay tổ chức cho ông anh tôi và hai người con trai lớn
nhà dì tôi, bỏ vùng kháng chiến trở về vùng tạm chiếm. Giữa đêm đen, chính anh
lội xuống mé nước, đẩy con thuyền ra giữa sông Thao. Trong phút từ biệt, anh có
nói với ông anh tôi: “Cái thế nó như thế. Các anh cứ về đi. Chưa biết sau này giữa
chúng ta ai sẽ cứu ai đâu.” Nói rồi anh lội xuống mé nước đẩy mũi thuyền ra khơi.
Anh trơ vơ đứng lại một mình. Bóng anh đen thẫm nhoè dần vào bóng nước.”
Trong bài viết về thi sĩ Hà Thượng Nhân mới đây, nhà thơ Viên Linh đã nhắc tới
một cử chỉ đầy tình người của Hữu Loan đối với song thân ông Hà. Theo Viên Linh
thì “Ông (HTN) không bao giờ quên trong Cải Cách Ruộng Ðất, cha mẹ ông bị
cộng sản đấu tố, đêm khuya Hữu Loan, bạn ông đã ôm một mo cơm khoai tới
thăm hai cụ. ”
Giữa nhà thơ Hữu Loan với Hà Thượng Nhân và giữa Tào Mạt với anh em nhà họ
Phan Lạc quả đã có những gắn bó thiêng liêng giữa “những người đã thành tình
thành nghiã từ thuở còn thơ trẻ” (3) cho dẫu vì cảnh ngộ éo le, ngang trái, có
một thời định mệnh cay nghiệt đã xô đẩy họ vào thế đối kháng nhau giữa hai lằn
ranh ý thức hệ.
Với những con người mang trong lồng ngực trái tim mẫn cảm, chan hòa yêu
thương như thế, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào họ vẫn là họ, không hề thay đổi.
Đó là những người con của Mẹ Việt Nam muôn thuở, là những cánh sen “gần bùn
mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”
Suy nghĩ ấy cho phép mọi người chia xẻ với tác giả tâm trạng lạc quan, vững tin ở
ngày mai, ở tương lai dân tộc. Ngoại trừ thiểu số cộng sản phi nhân tính ở ngôi
cao đang nắm quyền sinh sát, tuyệt đại đa số người dân Việt Nam, gồm đông
đảo mọi thành phần mà vì lý do này lý do khác còn phải ép mình dưới cái dù xã
hội chủ nghĩa, nhưng tự thâm tâm họ vẫn là những con người Việt Nam có nhân
tính.
Truyện Người Đàn Bà Trên Tàu 502 được Phan Lạc Tiếp chọn đưa vào cuối tác
phẩm đã cho người đọc thấy một thứ di sản quái dị, khó tin khác mà chỉ dưới các
chế độ độc tài, gian ác, vô cảm kiểu cộng sản mới có.
Đây cũng là một chuyện có thật 100 phần trăm được tác giả ghi lại từ đầu cho
đến hồi kết cuộc. HQ 502 tức Dương Vận Hạm Thị Nại, một con tàu hỏng máy
đang trong thời kỳ sửa chữa, nhờ may mắn và nhờ cố gắng vượt bực vào giờ thứ
25 của thủy thủ đoàn, sau biến cố 30-4-75, đã đem trên 5000 ngàn sinh mạng tới
được bến bờ tự do. Dĩ nhiên trong chuyến hải hành gian nan khổ ải ấy đã có
những mất mát không thể tránh. Một trong những mất mát đó là bà L. trong lúc
hối hả lên tàu đã đánh rớt đứa con trai ba tuổi xuống sông! Tiếng kêu thất thanh
của bà lọt vào tai tác giả Một Thời Oan Trái. Và câu chuyện được hình thành qua
nhiều giai đoạn, nhiều chặng đường khác nhau.
Do thứ tình yêu thương chất ngất của bà mẹ Việt Nam, suốt những năm dài sống
nơi hải ngoại, người đàn bà bất hạnh mất con vẫn canh cánh bên lòng là con bà
còn sống. Và người ta đã lợi dụng lòng thương con cùng sự tin tưởng mơ hồ của
bà để kiếm chác. Điều đau xót là kẻ nhẫn tâm lợi dụng không phải ai khác mà
chính là người em ruột của bà L. với sự toa rập của những thân nhân ruột thịt
từng lọt lại miền Bắc sau tháng 7 năm 1954 để trở thành những ông to bà lớn của
chế độ, tiêm nhiễm cung cách hành xử bất nhân và lối sống gian ngoan, xảo trá
của những người cộng sản.
Cả một kịch bản tinh vi, một cái bẫy sập đã được dựng lên để lường gạt bà L. Vào
lúc bà L. sắp chui vào bẫy thì câu chuyện đổ bể.
Sau đây là lời kể lại của người chị bà L. hiện sống tại bắc California, Hoa Kỳ, được
tác giả Một Thời Oan Trái ghi lại: “Cô lạnh ngắt, ngơ ngác nhìn mọi người. Mọingười, từ người em cô L. cho đến những anh em ruột thịt của chúng tôi, hiện là
những người có chức, có quyền và có của nữa, tất cả không ai nói gì. Không phiền
trách người đã tạo ra cảnh huống này. Mà họ lặng yên cũng phải. Vì đâu phải bây
giờ họ mới biết. Họ biết hết, biết rất kỹ từ những ngày đầu khi kịch bản này mới
được thi hành, từ khi cô L. cho đăng báo tìm con. Cô L. nhà tôi ngơ ngáo nhìn mọi
người. Mọi người dửng dưng, lạnh ngắt.
Mẹ con cô L. lặng lẽ dắt nhau về Mỹ, lặng lẽ sống trong nỗi đắng cay. Và chúng
tôi hơn lúc nào hết biết rằng, cô L. đã thực sự mất đứa con từ tối hôm 29 tháng 4
năm 1975 rồi. Và bây giờ khi kịch bản kia vỡ ra, không chỉ cô L. mà tất cả chúng
tôi, dòng họ chúng tôi ở Mỹ này, chúng tôi coi như mất hết tất cả bà con ruột thịt
hiện sinh sống tại Việt Nam. Giữa họ và chúng tôi như không còn một chút liên hệ
huyết thống nào nữa. Họ là những người Cộng Sản thuần thành. Họ là những
người khác. Họ không có những rung động, suy nghĩ như chúng ta. Họ như một
thứ sinh vật khác....
... Có thể tôi đã nhận định sai. Và tôi cũng mong là tôi sai. Mong lắm. Nhưng với
nỗi đau của cô L. nhà tôi, của chúng tôi, thì tôi không có suy nghĩ nào khác được.
Người Cộng Sản Việt Nam, họ không phải là người như chúng tanữa đâu. Họ là
những sinh vật khác, ta không thể gần họ được...”
Tác giả ghi thêm suy nghĩ của riêng ông: “Trường hợp bà L.. sao lại thế, thảm
thương và tàn nhẫn như thế?! Động lực nào đã khiến chị em ruột thịt trong nhà
đối với nhau như thế?! Phải chăng đây là một trong những nỗi đau lớn nhất của
tất cả chúng ta sau cuộc chiến tuơng tàn? Ngoài nỗi tang thương, chia lià, sống
chết dòng dã mấy mươi năm, dân tộc chúng ta đang đối diện với sự phá sản tận
cùng của lương tri?”
Và ông tự hỏi:
“Lỗi ấy từ đâu?!”
Thật tình cờ, vào những ngày cuối năm 2010, trong khi viết những dòng này, tôi
nhận được một bài viết có tiêu đề “Cậu bé VN bị bỏ rơi thành vận động viên tiềm
năng”. Kèm theo bài viết là một link Video thuật lại những bất ngờ trong cuộc đời
nổi trôi của cậu bé, từ khi ông bố là Nguyễn Hòa Bình một người Việt tha phương
cầu thực sống vất vưởng ở Moskva giạt về Kharkov, ngày ngày dắt con trai là
Nguyễn Hòa Kiên mới 2, 3 tuổi lang thang kiếm sống tại chợ Barabasova.
Cuối cùng, vào cuối thập niên 1990, vì nghiện rượu lâm bước đường cùng, ông
Hòa nhờ hội Người Việt trong thành phố giúp phương tiện hồi hương sau khi giao
con trai cho bà Nadezda Dmitrievna Studentsova một phụ nữ người Ukraina tuy
nghèo tiền bạc nhưng giầu lòng nhân ái nuôi dưỡng. Từ đấy bé Kiên có tên là
Kolia Nguyễn.
Một ngày, khi cùng bà Nadezda theo dõi chương trình tìm kiếm người thân mang
tên “Zdi menhia — Hãy chờ tôi” trên kênh truyền hình trung ương Nga, bất chợt
cậu bé lên tiếng hỏi: “Liệu họ có thể giúp tìm ra mẹ của con không, cô?”
Bà Nadezda không khỏi bối rối trước câu hỏi của cậu bé. Lòng vị kỷ xui bà muốn
làm lơ. Nhưng là người nhân hậu, bà hứa sẽ liên lạc với người phụ trách chương
trình để nhờ họ giúp. Và bà đã thực hiện trọn vẹn lời hứa.
Chỉ ít lâu sau, nhờ sự truyền tai mách bảo của bà con người Việt ở Ukraina và
Nga, cuối cùng người ta tìm được chị Trần Thị Hằng, mẹ ruột của Nguyễn Hòa
Kiên. Khi đó, chị vẫn sinh sống tại Matxcơva, nhưng đã tái hôn với người chồng
khác và có một con gái nhưng vì sinh kế khó khăn phải gửi về Việt Nam nhờ thân
nhân nuôi hộ.
Với thái độ ngay chính và lòng bác ái không biên cương, người phụ nữ của đất
nước Ukraina xa xôi đã biểu lộ một hành vi cao cả đầy tình người. Dù thâm tâm
muốn chiếm hữu Kolia Nguyễn, nhưng trước nguyện vọng muốn tìm mẹ ruột của
cậu bé, bà đã vượt qua chính mình để làm những gì lương tâm buộc bà phải làm.
Buổi phát sóng chương trình “Zdi menhia” ngày 27/8/2001 với cuộc gặp gỡ đầy
nước mắt của hai bà mẹ Việt Nam - Ukraina tại kênh truyền hình Ostankino ở Mạc
Tư Khoa, cùng sự ngây thơ đến tội nghiệp của cậu bé Kolia – Nguyễn Hòa Kiên
khi đó – đã gây xúc động cho hàng triệu trái tim khán giả truyền hình tại Nga, tại
Ukraina và các quốc gia lân cận. Sau cuộc hội ngộ đầy nước mắt, khi người điều
hợp chương trình hỏi ý kiến, hai bà mẹ đều muốn được nuôi dưỡng Kolia. Tuy
nhiên, cả hai đồng ý dành cho cậu bé quyền quyết định tối hậu. Và trước ống kính
truyền hình với sự chứng kiến của nhiều ngàn khán thính giả, Kolia Nguyễn đã
chọn được sống với mẹ nuôi.
Hai câu chuyện. Hai cảnh ngộ. Hai thời gian và hai khung trời xa cách. Nhưng cả
hai đều tạo ấn tượng mạnh trong tâm tình người đọc. Tấm lòng nhân ái bao la
như trời biển của người phụ nữ Ukraina là vùng sáng chan hòa, là những nốt nhạc
vui cho cuộc sống xô bồ hỗn tạp hôm nay. Nó làm bật lên nỗi khốn cùng của con
dân Việt Nam qua vũng tối lầy lội, ngập ngụa những tâm địa hẹp hòi, đê tiện của
những kẻ được sinh ra cùng một cha mẹ nhưng đã cư xử với nhau còn thua loài
trâu chó!
Và câu hỏi của tác giả: “Lỗi ấy từ đâu?” mãi mãi là một gợi nhắc hoài hoài cho
mỗi người Việt Nam chúng ta cùng suy gẫm.
Có điều chắc chắn là đêm tối rồi sẽ qua để cho bình minh trở lại. Những đau
thương, nghiệt ngã mà người dân Việt phải gánh chịu — trong đó có người dân
làng Nủa Chợ của tác giả họ Phan — rồi cũng có ngày phải lùi xa để 90 triệu dân
Việt còn cơ may góp mặt vào thế giới yêu thương của loài người.
Từ sâu thẳm của niềm tin, nhà văn Phan Lạc Tiếp đã cảm nhận điều ấy khi đặt
tên cho tác phẩm của ông. Oan trái sẽ không thể kéo dài miên viễn. Chắc chắn nó
chỉ là hiện tượng của một thời — Một Thời Oan Trái.
Điều này dễ dàng lý giải.
Dường như ai đó đã để lại một câu bất hủ:
“Yêu thương luôn luôn mạnh hơn chết chóc.”
(Trần Phong Vũ - Nam California một ngày cuối năm 2010)
(1) Với tâm tình độ lượng, nhà văn Phan Lạc Tiếp tỏ ra tâm đắc với tác phẩm, nhưng vào dịp giới
thiệu Một Thời Mê Hoặc bữa ấy, ông đã không ngần ngại nói lên tâm trạng thất vọng vì kết truyện quá
đột ngột khiến người đọc khó tránh cảm giác hụt hẫng. Nhận định của ông không sai. Theo dự tính, tác
phẩm gồm ba tập. Tính theo thời gian vận hành, tập đầu từ 1954–1968 đóng lại bằng biến cố Tết Mậu
Thân, tập hai 1969-1975 và tập ba những năm tháng sau Tháng Tư Đen. Đáng tiếc là cho đến nay hai
tập sau vẫn còn ở dạng bản thảo chưa hoàn tất!
(2) Trên danh nghĩa, khi phát động chính sách tiêu thổ, người CS nói là
để quân Pháp không có nơi đồn trú, nhưng thật ra đây là một thủ đoạn
nhằm triệt hạ tư sản, phá bỏ dấu tích tôn giáo nhằm chuẩn bị cho chủ
trương “cào bằng” giai cấp sau này, như tiết lộ của cố Giám Mục Lê Đắc
Trọng trong hồi ký Chứng Từ Của Một Giám Mục do nguyệt san
DĐGD ấn hành năm 2009.
(3) Trích thư của Tào Mạt Nguyễn Duy Thục gửi tác giả Một Thời Oan Trái không lâu trước ngày ông qua đời vào năm 1993.
những sinh vật khác, ta không thể gần họ được...”
Tác giả ghi thêm suy nghĩ của riêng ông: “Trường hợp bà L.. sao lại thế, thảm
thương và tàn nhẫn như thế?! Động lực nào đã khiến chị em ruột thịt trong nhà
đối với nhau như thế?! Phải chăng đây là một trong những nỗi đau lớn nhất của
tất cả chúng ta sau cuộc chiến tuơng tàn? Ngoài nỗi tang thương, chia lià, sống
chết dòng dã mấy mươi năm, dân tộc chúng ta đang đối diện với sự phá sản tận
cùng của lương tri?”
Và ông tự hỏi:
“Lỗi ấy từ đâu?!”
Thật tình cờ, vào những ngày cuối năm 2010, trong khi viết những dòng này, tôi
nhận được một bài viết có tiêu đề “Cậu bé VN bị bỏ rơi thành vận động viên tiềm
năng”. Kèm theo bài viết là một link Video thuật lại những bất ngờ trong cuộc đời
nổi trôi của cậu bé, từ khi ông bố là Nguyễn Hòa Bình một người Việt tha phương
cầu thực sống vất vưởng ở Moskva giạt về Kharkov, ngày ngày dắt con trai là
Nguyễn Hòa Kiên mới 2, 3 tuổi lang thang kiếm sống tại chợ Barabasova.
Cuối cùng, vào cuối thập niên 1990, vì nghiện rượu lâm bước đường cùng, ông
Hòa nhờ hội Người Việt trong thành phố giúp phương tiện hồi hương sau khi giao
con trai cho bà Nadezda Dmitrievna Studentsova một phụ nữ người Ukraina tuy
nghèo tiền bạc nhưng giầu lòng nhân ái nuôi dưỡng. Từ đấy bé Kiên có tên là
Kolia Nguyễn.
Một ngày, khi cùng bà Nadezda theo dõi chương trình tìm kiếm người thân mang
tên “Zdi menhia — Hãy chờ tôi” trên kênh truyền hình trung ương Nga, bất chợt
cậu bé lên tiếng hỏi: “Liệu họ có thể giúp tìm ra mẹ của con không, cô?”
Bà Nadezda không khỏi bối rối trước câu hỏi của cậu bé. Lòng vị kỷ xui bà muốn
làm lơ. Nhưng là người nhân hậu, bà hứa sẽ liên lạc với người phụ trách chương
trình để nhờ họ giúp. Và bà đã thực hiện trọn vẹn lời hứa.
Chỉ ít lâu sau, nhờ sự truyền tai mách bảo của bà con người Việt ở Ukraina và
Nga, cuối cùng người ta tìm được chị Trần Thị Hằng, mẹ ruột của Nguyễn Hòa
Kiên. Khi đó, chị vẫn sinh sống tại Matxcơva, nhưng đã tái hôn với người chồng
khác và có một con gái nhưng vì sinh kế khó khăn phải gửi về Việt Nam nhờ thân
nhân nuôi hộ.
Với thái độ ngay chính và lòng bác ái không biên cương, người phụ nữ của đất
nước Ukraina xa xôi đã biểu lộ một hành vi cao cả đầy tình người. Dù thâm tâm
muốn chiếm hữu Kolia Nguyễn, nhưng trước nguyện vọng muốn tìm mẹ ruột của
cậu bé, bà đã vượt qua chính mình để làm những gì lương tâm buộc bà phải làm.
Buổi phát sóng chương trình “Zdi menhia” ngày 27/8/2001 với cuộc gặp gỡ đầy
nước mắt của hai bà mẹ Việt Nam - Ukraina tại kênh truyền hình Ostankino ở Mạc
Tư Khoa, cùng sự ngây thơ đến tội nghiệp của cậu bé Kolia – Nguyễn Hòa Kiên
khi đó – đã gây xúc động cho hàng triệu trái tim khán giả truyền hình tại Nga, tại
Ukraina và các quốc gia lân cận. Sau cuộc hội ngộ đầy nước mắt, khi người điều
hợp chương trình hỏi ý kiến, hai bà mẹ đều muốn được nuôi dưỡng Kolia. Tuy
nhiên, cả hai đồng ý dành cho cậu bé quyền quyết định tối hậu. Và trước ống kính
truyền hình với sự chứng kiến của nhiều ngàn khán thính giả, Kolia Nguyễn đã
chọn được sống với mẹ nuôi.
Hai câu chuyện. Hai cảnh ngộ. Hai thời gian và hai khung trời xa cách. Nhưng cả
hai đều tạo ấn tượng mạnh trong tâm tình người đọc. Tấm lòng nhân ái bao la
như trời biển của người phụ nữ Ukraina là vùng sáng chan hòa, là những nốt nhạc
vui cho cuộc sống xô bồ hỗn tạp hôm nay. Nó làm bật lên nỗi khốn cùng của con
dân Việt Nam qua vũng tối lầy lội, ngập ngụa những tâm địa hẹp hòi, đê tiện của
những kẻ được sinh ra cùng một cha mẹ nhưng đã cư xử với nhau còn thua loài
trâu chó!
Và câu hỏi của tác giả: “Lỗi ấy từ đâu?” mãi mãi là một gợi nhắc hoài hoài cho
mỗi người Việt Nam chúng ta cùng suy gẫm.
Có điều chắc chắn là đêm tối rồi sẽ qua để cho bình minh trở lại. Những đau
thương, nghiệt ngã mà người dân Việt phải gánh chịu — trong đó có người dân
làng Nủa Chợ của tác giả họ Phan — rồi cũng có ngày phải lùi xa để 90 triệu dân
Việt còn cơ may góp mặt vào thế giới yêu thương của loài người.
Từ sâu thẳm của niềm tin, nhà văn Phan Lạc Tiếp đã cảm nhận điều ấy khi đặt
tên cho tác phẩm của ông. Oan trái sẽ không thể kéo dài miên viễn. Chắc chắn nó
chỉ là hiện tượng của một thời — Một Thời Oan Trái.
Điều này dễ dàng lý giải.
Dường như ai đó đã để lại một câu bất hủ:
“Yêu thương luôn luôn mạnh hơn chết chóc.”
(Trần Phong Vũ - Nam California một ngày cuối năm 2010)
(1) Với tâm tình độ lượng, nhà văn Phan Lạc Tiếp tỏ ra tâm đắc với tác phẩm, nhưng vào dịp giới
thiệu Một Thời Mê Hoặc bữa ấy, ông đã không ngần ngại nói lên tâm trạng thất vọng vì kết truyện quá
đột ngột khiến người đọc khó tránh cảm giác hụt hẫng. Nhận định của ông không sai. Theo dự tính, tác
phẩm gồm ba tập. Tính theo thời gian vận hành, tập đầu từ 1954–1968 đóng lại bằng biến cố Tết Mậu
Thân, tập hai 1969-1975 và tập ba những năm tháng sau Tháng Tư Đen. Đáng tiếc là cho đến nay hai
tập sau vẫn còn ở dạng bản thảo chưa hoàn tất!
(2) Trên danh nghĩa, khi phát động chính sách tiêu thổ, người CS nói là
để quân Pháp không có nơi đồn trú, nhưng thật ra đây là một thủ đoạn
nhằm triệt hạ tư sản, phá bỏ dấu tích tôn giáo nhằm chuẩn bị cho chủ
trương “cào bằng” giai cấp sau này, như tiết lộ của cố Giám Mục Lê Đắc
Trọng trong hồi ký Chứng Từ Của Một Giám Mục do nguyệt san
DĐGD ấn hành năm 2009.
(3) Trích thư của Tào Mạt Nguyễn Duy Thục gửi tác giả Một Thời Oan Trái không lâu trước ngày ông qua đời vào năm 1993.
Phần Một : ĐẤT CŨ NGƯỜI XƯA
CÂY KHẾ NGÀY XƯA
Mẹ tôi sinh ra tôi năm trước, năm sau lại sinh em bé. Sữa mẹ chỉ đủ cho em bé, nên tôi phải ăn nước
cơm thay sữa. Khi tôi lên ba, mẹ tôi lại sinh em bé nữa, nên nhà neo quá. Mẹ tôi nhờ Bác Đồ Gái cho
chị Đan ra “đỡ tay đỡ chân cho thím.”
Chị Đan hơn tôi vừa một giáp. Lúc tôi lên ba, chị Đan đã mười lăm. Từ lúc có chị, hầu như lúc nào
tôi cũng ở bên cạnh chị. Chị cho tôi ăn, thay quần áo và tối đến hai chị em đắp chăn kín chùm đầu.
Những đêm trời không có trăng, bầu trời đầy sao lấp lánh. Chị đưa tôi ra sân chỉ cho tôi hình ông ThầnNông lưng cong một dãy ngôi sao, và có hai cái giải mũ cũng là hai giải sao nhưng mờ nhạt cao vút
lên trời. Ông Thần Nông lúc đầu hôm còn ngồi đó, đến khuya đã cúi xuống, chị bảo “ông Thần Nông
đi cấy đấy”...
Tôi nhìn quanh bầu trời, sao bát ngát, chị bảo “mỗi ngôi sao cầm tinh cho một con người.” Lâu lâu
có một ngôi sao đổi ngôi, bay loè ra thành một vệt dài, chị bảo “thế là có một người mới mất đấy.”
Ôi chao, sao nhiều quá đếm chả nổi, thì chị bảo cách đếm: “Một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba
ông sao sang…” Tôi đếm như thế, thả hồn mình vào bầu trời bát ngát, cao rộng rồi chìm vào giấc ngủ.
Nhiều hôm trời chuyển mưa, có khi có bão, sấm chớp ầm ầm, tôi sợ lắm, nhất là mẹ tôi lại đi chợ vắng
nhà. Nằm trong chăn, nhìn qua cửa sổ, bầu trời vần vũ, tối đen, tôi thắc mắc không biết những ông sao
bây giờ ở đâu. Những lúc như thế chị vào nằm cạnh tôi cho tôi đỡ sợ và chị hát, giọng hát ngọt ngào
bát ngát :
Đêm qua chớp bể mưa nguồn
Hỡi người tri kỷ (a) có buồn hay (a) không…?
Nghe chị hát, tâm hồn tôi trở nên yên ổn và tôi chìm vào giấc ngủ hồi nào không hay. Những hôm trời
nắng, chị lấy cơm nguội với tôm khô kho khế, đem ra gốc cây khế cho tôi ăn. Cơm nguội bùi, tôm ngọt
đậm, các lát khế chua chua. Tôi chạy nhảy tung tăng, chị bưng bát cơm chạy theo tôi. Có khi chị ngồi
trên hòn đá dưới gốc cây khế, hoa khế tím rơi đầy trên nền đất mịn. Chị nhìn lên cây khế, cành khế gió
thổi xôn xao, chị lại hát :
Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót (a) lòng mày khế ơi…”
Có khi chị lấy cái sào dài khoèo quả khế chín vàng trên cành cao cho tôi ăn. Tôi ăn một tị là chán. Chị
xé từng cánh khế, chấm muối ớt ăn thật là ngon. Chị xít xoa, đôi mắt long lanh, có khi chảy cả nước
mắt mà chị vẫn cười.
Tháng Tám đến, mẹ tôi mua cho tôi một ông tiến sĩ giấy, loại vừa vừa, mặt vẽ bằng giấy nhưng có vạt
áo dài xoè ra, hai tay là hai vòng giấy xun xun vòng trước ngực. Tôi bày ông tiến sĩ vào cái mâm
chõng bằng tre. Các em gái tôi đứa thì được cái đèn con thiềm thừ, đứa thì được cái đèn con cá, đôi
khi còn có cả một đàn con giống bằng bột nhuộm màu xanh, đỏ. Mắt các con giống là những hột cườm.
Đẹp thì có đẹp, nhưng tôi không thích các thứ đó. Tôi thích cái tàn, cái tán như lũ trẻ con hàng xóm,
cắm quanh cái kiệu bát cống có trạm những đầu rồng. Nhưng nhà tôi nghèo, nhưng thứ đó đắt lắm. Để
bù lại, chị Đan mua thêm cho tôi một quả bưởi đào, lột vỏ xoè ra như một bông sen, bày bên những
quả hồng ngâm xanh ửng vàng. Đến hôm rằm, lúc trăng sáng nhất, trẻ con nhà giầu đem kiệu ra rước ở
Ngã Ba. Tiếng trống rước to nhỏ rập rình như ngày mở hội làng. Những đèn nến, đèn lồng thắp sáng
lung linh. Các kiệu ấy trở nên đẹp lạ lùng. Vì ngoài ông tiến sĩ to, mặt là cái vỏ trứng gà điểm nhãn sắc
sảo, môi son, áo mão bằng trang kim lóng lánh, để giữa những tàn, lọng, bát bửu hệt như ở sân đình
những ngày tế thần hoàng. Chị Đan dẫn tôi đi xem. Chị bảo: “Ai học giỏi, thi đỗ tiến sĩ thì được hàng
tổng, hàng huyện đón rước như thế đấy. Em cố học giỏi, đỗ cho cao cho chị mừng….” Rồi chị kể
chuyện hai vợ chồng anh học trò nghèo qua câu hát:
Sáng giăng giải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách (chứ) bên nàng quay tơ.
*
Năm tôi lên sáu thì chị về nhà chị. Tôi tấm tức, khóc hoài vì nhớ chị. Bây giờ tôi ngủ chung với hai
đứa em, đắp chung một cái chăn bông rộng mêng mông như che kín được cả trời. Buổi đầu hôm ba anh
em bò từ cuối giường lên đầu gường, đùa vui, cười rúc rích. Khi mệt và bắt đầu buồn ngủ, tôi lại nhớ
chị quá. Quanh tôi như trống trải, thiếu vắng thế nào. Tôi bồi hồi nhớ chị, nhớ những lời chị hát, nhớ
mùi bồ kết, mùi chanh toả ra thơm ngây ngất từ làn tóc chị. Tôi như chột đi khi không có chị.
Ngày Tết đến, đêm ba mươi trời tối đen đặc lại. Tôi đi từ nhà trên xuống bếp như ôm cả cả cái náo
nức chờ đón mùa xuân vào lòng. Mẹ tôi ngồi bên bếp lửa. Ánh lửa bập bùng. Có thể đó là một nồi cá
chép kho cùng với thịt để ăn với bánh chưng. Có thể đó là nồi măng khô ninh với chân giò. Trên gác
bếp có treo mấy cái giò mỡ, kẹp chặt trong những thanh tre dài. Mỡ thấm cả ra ngoài lá chuối xanh,
đọng lại trắng ngần.Trên nhà trên, đèn nến lung linh, ánh lên các nét chữ sơn son thiếp vàng ở những
bức đại tự. Cảnh con hạc xoải cánh bay đi, còn ngoảnh cổ lại để nhìn cành tùng khẳng khiu trơ vơ chờ
đợi, trên nền câu đối vải. Thầy tôi trong áo the, khăn xếp, đi đi, lại lại, thắp những tuần hương lên
khắp các bàn thờ. Những lúc như thế, giờ của năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến thì chị Đan đến. Chị
mặc áo dài tứ thân, thắt bao hoa lý, bưng cái mâm gỗ đậy lồng bàn. Chị đặt mâm lễ vật trước bàn thờ,
mở lồng bàn ra. Đó là một mâm chè lam. Những thỏi chè vuông dài màu xám có rắc làn bột bỏng màu
trắng xung quanh. Chị lễ phép thưa:“Mẹ cháu bảo cháu đem chút lễ vật đến cúng ông bà bên
ngoại…” Thầy tôi cười:“Bác Đồ cẩn thận quá. Năm nào cũng nhớ đến các cụ…” Chị nhìn tôi, cười
bảo: “Mai, à sang năm mới chứ, em nhớ đến xông đất nhà chị nhá…” Tôi chỉ đợi có thế, tôi mừng là
chị chẳng bao giờ quên tôi. Chị về. Những bước chân chị bước trên lối ngõ có lờ mờ hình cái cung
bằng vôi trắng mà anh cả tôi mới vẽ hồi chiều. Đêm đen thẫm bưng lấy mắt, lạnh ngọt. Tiếng các
khánh đất va vào nhau kêu cung kinh từ ngọn cây nêu dựng sát tường hoa gần cổng, âm thanh rời rạc,
khô cứng như phát ra từ cõi nào mơ hồ xa, huyền hoặc.
Sáng mùng một đầu năm, sau khi lễ ông bà ở nhà và đã được thầy mẹ tôi mừng tuổi, tôi muốn đến nhà
chị Đan ngay. Anh cả dắt tôi đi. Tôi mặc áo dài mới. Cái áo gọi là mới thực ra là cái áo anh tôi đã
mặc rồi, đã cũ, mẹ tôi “soạn” lại, cắt ngắn bớt cho tôi mặc và mới được nhuộm thâm lại ngày trong
năm. Quần chúc bâu trắng sột soạt, đi guốc, bước lóc cóc trên đường gạch, tôi đến nhà chị. Dọc đường
gặp bao nhiêu là người, ai cũng mặc quần áo mới, có người đã bắt đầu đi lễ-ông-vải. Có những anh
lớn hơn tôi độ vài ba tuổi cắp cái cháp đen đựng trầu cau, theo người lớn đi lễ các nhà thân thuộc.
Ngoài chùa vẫn còn lặng lẽ. Tiếng chuông êm ả chuyền đi. Qua góc ao đình, nơi có cây bàng nằm lả
gọn ra mé nước, rẽ trái là lối vào nhà chị. Dinh cơ của các ông bá, ông lý ở phía trong, tường gạch
cao ngất.
Nhà chị, nhà tranh nằm ngay phía ngoài, đầu con ngõ. Hai cánh cổng dán hai bức tranh thiên bồng vẽ
hai ông tướng mặt đỏ, râu dài, cầm gươm canh cửa. Tôi chưa gọi chị đã mở cổng đón tôi. Anh tôi
dứng đằng sau, chị bảo: “Thôi chú về đi, lát nữa tôi đem trả em…”Anh tôi cười rồi về. Tôi xà vào
lòng chị. Chị mặc áo mới, yếm mới. Tóc chị thơm thật là thơm. Chị hôn lên má tôi. Rồi chị vạch túi áo
cánh trắng ra, đưa cho tôi một đồng xu đồng mới tinh, đỏ au. Tôi sướng lắm, cầm vào lòng bàn tay thật
chắc. Chị lại hôn tôi nữa rồi mới dắt tôi vào nhà, lên nhà trên mừng tuổi bác Đồ Gái. Bác Đồ Gái ngồi
sẵn trên phản ở gian giữa, bác cười: “Lớn rồi đấy, sắp đi học rồi đấy cháu nhỉ…Cháu tôi lên mấy
rồi nào…” Bác mừng tuổi cho tôi một đồng chinh màu vàng mỏng mảnh. Cám ơn Bác Đồ xong, tôi lại
chạy ra với chị. Chị nhìn tôi, ôi đôi mắt chị sao mà âu yếm thế. Tôi xà vào lòng chị và quên mất đồng
xu, đồng chinh tôi đã buông ra, rơi ở đâu rồi. Chị vuốt tóc tôi. Chị nói: “Em được nhiều tiền mừng
tuổi quá nhỉ.” Lúc đó tôi mới hoảng hốt nhớ đến các đồng tiền mừng tuổi, không biết đã để đâu. Tôi
khóc thì chị cười. Chị xoè bàn tay ra, đồng xu và đồng chinh mừng tuổi nằm giữa lòng bàn tay chị. Chị
lấy giải yếm lau nước mắt cho tôi, rồi lấy dải rút quần của tôi xâu các đồng tiền, buộc lại. Buông tà áo
dài của tôi xuống, chị kéo tôi vào lòng. Hơi ấm hoà trong mùi tóc của chị thơm nồng bay tỏa bao phủ
quanh tôi, chị nhẹ nhàng ghì cằm chị vào đầu tôi và chị đọc những câu thơ mà sau này tôi mới biết là
của Nguyễn Bính :
…Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giầy
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ
Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày…
Lời thơ dịu dàng, lãng đãng ru tôi vào giấc ngủ. Khi tôi tỉnh dậy, bác Đồ Gái nói đùa: “Con trai lớn
rồi đấy. Sắp lên bảy rồi. Tuổi cắp sách đến trường rồi.” Vâng, “Năm nay tôi lên bảy. Tôi đã lớn.
Tôi không chơi đùa lêu lổng như những năm còn bé…” Đó cũng là đoạn văn đầu tiên, sau khi tôi học
hết vần bằng, vần trắc trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Đồng Ấu.
Buổi học đầu tiên của tôi chị Đan cũng đưa tôi đi.
Tôi học ở nhà chú Phương, con cụ lang. Chú Phương mặc quần áo trắng hồ lơ, tóc chải ngược về phía
sau, cài lại bằng một vòng dây thép uốn. Chú đi guốc, gót cân đỏ chót. Ngồi cạnh tôi là Cái Gái. Cái
Gái đã lớn lắm, cao bằng chị Đan, là con Cô Thầy. Cái Gái bị tật từ nhỏ, chân đi khòng khoèo, tay
cầm bút thật vụng, viết mãi chẳng được một chữ, nước rãi còn chảy ra nhoè cả mặt chữ. Cái Gái phải
gọi tôi bằng anh, vì họ hàng sao đó, “bé bằng củ khoai, cứ vai mà gọi.” Cái Gái gọi tôi bằng anh ngọt
sớt. Học được mấy hôm tôi đã viết đủ các mặt chữ cái kể cả “chữ in” cũng như“chữ viết”…Và chỉ
độ một tháng tôi đã học hết vần bằng, vần trắc, tôi đã đọc được các bài ngắn mà bài đầu tiên là bài
“Hôm nay tôi đi học…” Dưới bài bao giờ cũng có câu cách ngôn như: Ăn vóc học hay.
Cái Gái lúc ấy vẫn lết bết với mấy chữ n, m mà mực tím nhoè nhoẹt vì nước rãi. Hàng ngày tôi phải
viết hộ Cái Gái cho hết trang. Bù lại Cái Gái bao giờ cũng trả công cho tôi rất hậu. Khi thì một quả
chuối tây, khi thì một cái kẹo bột. Và chẳng bao lâu tôi đã viết ám tả được. Tôi thích lắm, tôi viết các
câu thơ của Nguyễn Bính vào một cuốn sổ nhỏ. Các câu thơ này trước đó tôi đã thuộc lòng qua các câu
hát của chị Đan và của anh tôi nữa.
Cô Thầy là mẹ của Cái Gái. Cô Thầy làm nghề Thầy Bói, hai mắt mù cả. Nhà cô ở tận Ngõ Đồng Mát,
cuối con đường gạch, lối đi ra đồng. Cô rất đông khách, nhất là các ngày hai, ngày bảy là ngày phiên
chợ Nủa, khách phải ngồi đợi ở sân. Nhà cô tuy là nhà tranh nhưng cũng đẹp, có nhà trên, nhà ngang và
nhà bếp như hình chữ U mà các cụ bảo là hình chữ Môn. Gian giữa để bàn thờ Ông Vải. Gian bên có
hình con cá hoá long mầu tím vẽ thẳng vào tường. Những vảy cá xanh tím ẩn hiện trong lớp thủy ba.
Gần nóc nhà là bàn thờ Thổ Công, cái mũ giấy óng ánh trang kim. Bên cạnh là bàn thờ Ngũ Hổ, có hình
vẽ năm con hổ năm mầu thật dữ ngồi quanh cái hộp vuông như hòm ấn vua ban. Sát bàn thờ chính là cỗ
ghế ngựa, nơi cô làm lễ và tiếp khách. Tuy ở nhà nhưng Cô Thầy ăn mặc rất chỉnh tề, áo cánh bên
trong, áo dài bên ngoài, cô còn thắt lưng dài to bản mầu tím.
Bắt đầu buổi xem bói bao giờ cô cũng ôm theo cái tráp đen. Mở tráp ra, cô bày những đồng tiền xám
xịt mà người ta bảo đó là những đồng tiền lấy từ trong mả người chết, gọi là tiền cải mả, nên rất linh
thiêng. Cô sờ lên mặt những đồng tiền, xếp úp các đồng tiền lại. Rồi cô cười, nói với thân chủ :
- Nào cho tôi biết ngày sinh tháng đẻ nào…
Người khách trịnh trọng xưng tên tuổi. Cô lấy ngón tay cái bấm lên những đốt tay, giương đôi mắt chỉ
có lòng trắng như nhìn vào một cõi xa săm huyền bí nào. Nếu là người trẻ, thường cô cười và nói: “Cô
đây xem về tình duyên phải không…” Người khách thưa “vâng.” Cô đốt một nén hương, đặt ngang
miệng đĩa đựng các đồng tiền cải mả và tiền đặt quẻ, lâm râm khấn “...thất thập nhị hiền thu nhập
tiền nhang…” Cô hạ đĩa tiền xuống, lấy những ngón tay sần sùi bốc những đồng tiền trên đĩa, giơ cao
rồi buông xuống đĩa. Cô nói: “Sơ vi đơn.” Mỗi lần như thế gọi là một lần gieo quẻ. Tuỳ theo các đồng
tiền xấp, ngửa, ba lần gieo là một quẻ. Căn cứ vào đó cô đoán quẻ cho thân chủ. Với các cô còn trẻ,
mới lấy chồng, tôi thường nghe cô nói: “Số cô trắc trở. Tưởng là chuột sa chĩnh gạo hoá ra chuột sa
chĩnh nước đây, phải khôngcô..” Thân chủ chỉ biết “vâng.” Cô Thầy lại nói: “Thật là vui từ trong
cửa vui ra, buồn từ ngã bảy ngã ba buồn về đấy, cô ạ.”
Nếu là người già cả xem gia đạo, Cô cũng gieo quẻ như trên, nhưng thường là “động mả ông tam đại
đây bà ạ. Mà như là có cái rễ cây nó đâm vào ngôi mộ của cụ nhà đây…” Thân chủ chỉ còn biết
“Lạy thánh mớ bái, xin Thầy chỉ bảo cho.” Lúc ấy thường thì Cô bảo thí chủ ra ngoài bờ dậu, ngoảnh
mặt về phía đông, ngắt một cành lá đem vào cho Cô xem lại. Cô đếm những chiếc lá để định quẻ và thí
chủ phải đặt quẻ lần nữa. Vì động mả rất quan trọng nên Cô thường nói: “Phải lễ Phật trước, lễ quỷ
thần sau.” Người xem bói chỉ còn biết nghe theo lời Cô dạy, sửa một cái lễ khá cầu kỳ, “Phải lấy đủ
đất đình, đất chùa, đất chợ, đất ngã ba và đất giếng; nước vang hoà với nước vôi; chín cái kim
làm xương. Tất cả trộn vào nhau, nặn thành hình con rùa, đem táng ở đầu ngôi mộ ông tam đại.
Nước vang hoà với nước vôi rảy quanh mả một nửa, còn một nửa hắt qua mái nhà gian giữa...”
Ngoài ra còn phải sửa một cái lễ “mâm trên sôi chuối, vàng tốt một trăm, mũ vàng một chiếc; mâm
thứ hai cơm canh…” Sợ gia chủ không nhớ được, Cô thường bảo “phải viết ra, và có thằng cháu
tôi đây, nó học giỏi lắm, viết cho bà…” Thường Cô bảo lấy cái bao hương xé ra, lộn mặt trong, viết
các lời chỉ dẫn, và bao giờ tôi cũng được 5 xu. Đó là những đồng tiền đầu tiên tôi kiếm được trong
đời. 5 xu của những năm đầu 40 mua được mấy cái bánh tẻ. Khi khách đã về, Cô thường nói: “Biết khi
nào Cái Gái mới viết được thông thạo như cháu.”
Từ khi tôi đi học, chị Đan không còn ở nhà tôi nữa. Bác Đồ gái ra bảo với mẹ tôi: “Thím cho cháu nó
về. Em bé đã lớn, mà cháu nó cũng gần 20 rồi đấy, cũng phải có thời giờ cho người ta trông
vào...” Chị Đan về nhà chị. Chị giúp Bác Đồ Gái dệt cửi. Những hôm tan học sớm, tôi ra nhà chị.
Thấy tôi bao giờ chị cũng mỉm cười, ngừng tay thoi và thế nào cũng có cái gì cho tôi ăn. Khi thì một
quả hồng ngâm, khi thì bát cơm nguội ăn tép kho. Ăn xong, tôi đọc cho chị nghe các bài học thuộc lòng
mới nhất, như:
Xuân đi học coi người hớn hở
Gặp cậu Thu đi ở giữa đàng
Hỏi rằng sao đã vội vàng
Trống chưa nghe đánh đến tràng làm chi
Thôi hãy gượm đùng đi anh ạ
Này con khăng tôi đã sẵn rồi...
Tôi lớn dần lên với các bài học ấy và cũng dần xa chị. Chị chỉ ra nhà tôi “làm giúp” khi nhà tôi có
giỗ ông, giỗ bà mà thôi. Năm ấy, năm Ất Dậu 1945, đêm mùng 9 tháng 3, có tiếng súng lốp bốp từ trên
tỉnh vọng về. Sáng ra người ta kháo nhau Nhật nó đảo chính Tây rồi. Ở Ngã Ba, gia đình ông Tây Ký
Rượu đã đóng cửa trốn đi đâu mất tăm. Rồi máy bay hai mình của Đồng Minh bay trên bầu trời cao
vút, thật nhanh. Nhanh gấp mấy lần những chiếc máy bay của Tây bốn cánh vuông vức kêu ò oè, bay
chậm rì mãi chưa qua khỏi vùng trời làng tôi. Lúc ấy tôi vẫn hay ra nhà chị Đan, nhưng có khi không
gặp chị. Hỏi Bác Đồ Gái, bác bảo: “Ấy, độ này cô ấy cứ ăn rồi lại đi. Bạn bè thậm thà thâm thụt,
bác cũng chả biết...”
Một hôm trước phiên chợ Nủa, chị ra nhà tôi chơi, lúc về chị nói nhỏ cho tôi nghe: “Mai em ra Ngã
Ba, có cái này hay lắm...” Tôi hỏi gặng chị thì chị bảo: “Cứ ra Ngã Ba thì sẽ biết.” Mai. Hôm chợ
Nủa, lúc phiên chợ bắt đầu đông, từ phía Cổng Chợ Bò, một đoàn người đi đến. Dẫn đầu là người vác
một lá cờ đỏ sao vàng thật lớn. Theo sau là đoàn người, toàn là trai trẻ, và có cả đàn bà nữa, họ ăn
mặc thật gọn ghẽ. Người thì vác con dao phạt bờ, người thì vác cái dáo, cái mác. Mặt ai cũng hằm
hằm rất ldữ. Vừa đi họ vừa giơ nắm đấm lên cao, hô vang những câu:
- Đả đảo phát xít Nhật
- Đả đảo bè lũ tay sai phong kiến…
Đi cuối cùng có một anh tay cầm khẩu súng lục, mắt sáng quắc. Hình như anh ta nhìn thẳng vào mắt tôi
và tôi sợ. Đoàn người qua mặt tôi thật nhanh, đông không biết bao nhiêu. Họ đi qua chợ. Chợ đang
đông, muốn vỡ nhưng họ không rẽ vào chợ. Họ đi tuốt ra Cổng Giếng, tụ lại ở Gò Gai, hô vang các
khẩu hiệu tại đó, rồi tản đi rất nhanh, biến đi đâu tài quá. Chợ lại họp như thường. Các vị chức sắc
trong làng lo lắng. Có người bảo:“Phải đi cáo quan huyện. Chứ để thế này có ngày oan gia.” Từ đó
trong làng người ta bàn tán, người này “ở trong bóng tối”, người kia được ”“móc nối”, toàn những
tiếng mới mẻ.
Rồi những người đi buôn từ ngoài tỉnh về bảo:“Ở ngoài tỉnh Mặt Trận đã cướp chính quyền rồi.”
Cả làng rộn rã. Một buổi tối, thay vì mõ rao, là một người cầm loa, đến những đầu ngõ lúc nửa đêm,
bắc loa gọi: “A lô, a lô. Ngày mai, từ sáng sớm, tất cả nam, phụ, lão, ấu tập họp tại sân đình để đi
biểu tình…” Đó là một đêm thật lạ. Cả làng như cùng thức dậy với tiếng loa. Mới sáng sớm, mọi
người ra đình đã thấy một lá cờ đỏ sao vàng, buộc vào cáo sào dài, dựng ở giữa sân cỏ. Cả làng tụ lại.
Mấy anh thanh niên, nghe đâu từ trên huyện về, có súng lục giắt cạp quần. Các thanh niên này mời mọi
người xếp hàng tề chỉnh, sẵn sàng gậy gộc, dáo mác để lên huyện cướp chính quyền. Trong đám thanh
niên đứng ra hô hào ấy, tôi thấy cả chị Đan. Chị Đan của tôi. Người đã bế ẵm tôi, đã hát ru tôi những
ngày tấm bé. Chị buộc tóc sau gáy. Quần túm lại. Nhưng oai nhất và khiếp nhất là chị cuốn quanh
bụng một cái bao lớn, và giắt ở đó một khẩu súng lục, lòi chuôi súng ra ngoài. Chị leo lên cái bàn, giơ
nắm đấm lên cao và hô “bài phong, phản đế.” Tôi nhìn theo chị, vừa thấy xa lạ, vừa có phần hãnh
diện với những đứa nhỏ xung quanh: Chị Đan của tao đấy. Khi đoàn người xuất hành, chị thấy tôi, mắt
chị như dịu lại một khắc và như mỉm cười, rồi chị khuất đi rất nhanh theo đoàn người đi cướp chính
quyền.
Từ đó nhà Bác Đồ Gái chỉ có mình bác. Có người bảo: “Cái Đan nó làm to thế mai kia tha hồ mà
nhờ.” Bác Đồ Gái chỉ cười và đáp: “Ôi chao, nhờ đâu chả thấy, chỉ thấy mất tăm mất hút. Lâu lâu
vác xác về, cả bè cả lũ, ăn hại chứ báu gì...” Từ đó cuộc sống mới cuốn chị Đan của tôi và những
thanh niên cùng lứa tuổi đi khỏi luỹ tre làng. Chị từ giã cây khế, quên các bài ca dao tình tứ thuở nào.
Chị đi theo “đời sống mới để giành cơm áo.”Cũng từ đó tôi lớn dần.Cuộc chiến bùng lên với bao
oan nghiệt, khủng khiếp. Cuộc chiến đã hút tôi ra khỏi xóm làng, đưa tôi vào Nam, đem tôi tới những
vùng biển rộng. Những đêm trăng sáng, biển lặng, trên con tàu chiến lênh đênh, nhìn về núi non, đất
nước, lòng tôi chất chứa những bồi hồi. Tôi nhớ những người thân, nhớ con đường cũ, gốc đa xưa, tôi
nhớ chị Đan, nhớ Cái Gái, nhớ những người bạn một thời thơ ấu cũ, nhớ cây khế của thuở nào xa…
Rồi cuộc chiến đột ngột tàn và tôi ra khỏi đất nước với bao cay đắng, ngậm ngùi. Những năm sau 75,
tôi sót xa tự hỏi: Càng lúc ta càng xa đất nước, làng xưa. Có bao giờ trở lại. Chắc là vô vọng…
Vậy mà tháng Tư năm 1994, tôi trở về quê cũ, làng xưa. Sau bao nhiêu ngậm ngùi tái ngộ, tôi hỏi đến
Cái Gái, mới hay “Ồ Cái Gái, con Cô Thầy đó hả, chết lâu rồi.” Tôi hỏi về chị Đan thì “bà ấy đã
mất. Chúng em có chuyển quà của bác cho con gái bà ấy.” Mỗi người nói một câu về chị Đan. Cuộc
đời chị được chắp nối lại như một huyền thoại đã xa, đầy bùi ngùi, chua xót: “Ấy, lúc đầu là thế, mọi
người cuồn cuộn ra đi. Cô Đan tham gia cách mạng từ trong bóng tối, rồi thoát ly, bỏ làng đi và đi
mãi. Chỉ những lúc đau ốm mới tìm về. Bà Đồ đã già, bao năm còm cõi một mình một bóng, lại
phải cặm cụi săn sóc cô ấy. Ăn trả bữa được ít ngày rồi cô ấy lại ra đi. Nói ra dài lắm. Tình duyên
thì trắc trở. Cũng buồn. Xưa cô ấy vui là thế, ở tuổi già thì lặng lẽ, ốm đau. Đôi lúc nhớ đến những
ngày còn trẻ, bà ấy vẫn thường nhớ đến và hỏi thăm bác. Vâng, những lúc như thế bà ấy thường
lặng im, rớm lệ. . . Đất nước hoà bình được mấy năm thì bà ấy được nghỉ hưu. Cũng chả ai biết rõ
trước đó bà ấy làm gì, ở đâu. Nghèo khó còn hơn ngày xưa. Sống lặng lẽ được mấy năm thì bà ấy
mất, tính ra cũng trên mười năm rồi. Tiếc rằng khi bác gửi quà biếu bà ấy thì bà đã không còn nữa
để mừng vui, để nhận…”
Trong nỗi bùi ngùi của ngày đoàn tụ, của xúc động nhớ thương, tôi luôn phải tự nhủ: “Hãy bình tĩnh,
bình tĩnh…” Bình tĩnh, nhờ đó tôi đã vượt được nhiều xúc đông như muốn vỡ oà. Nhưng đêm chót ở
quê, trước khi cả nhà đi ngủ, các ngọn đèn đã được tắt, bầu trời bỗng hiện ra tối đen. Những con đom
đóm từ đâu hiện về, lập loè bên những ngọn tre. Tôi như vừa được vứt từ bầu trời xuống, như vừa
sống lại, thấy lại những đêm như thế này từ trên năm mươi măm cũ, những năm tôi còn bé. Bầu trời chi
chít những vì sao. Những vì sao lấp lánh, như chào hỏi, như mời, như gọi, như chớp mắt ngậm ngùi.
Tôi bàng hoàng vô hạn. Một làn gió lạnh tạt qua, lòng tôi se sắt. Tôi nhìn lên bầu trời. Hình ông Thần
Nông hiện ra đang “cúi đầu cấy lúa.” Dải mũ dài là hai hàng ngôi sao bao đời vẫn y như thế. Tôi nhớ
chị Đan quá. Tôi cứ nhìn mãi bầu trời. Thấp thoáng một ngôi sao ánh lên, sa xuống rồi tắt. Một ngôi
sao đổi ngôi. Có phải một người nào vừa mới mất. Lúc chị Đan mất, có ngôi sao nào rơi lạc như thế
không..?
Sáng hôm sau theo chương trình đã định, chúng tôi phải sẵn sàng chờ xe từ Hà Nội về đón. Niềm vui
đoàn tụ chưa qua, nỗi buồn chia xa đã đến. Trên xe chật ních người. Khi xe bắt đầu chạy, tôi bỗng thấy
trong xe có thoảng mùi thơm của tóc ai mới gội. Mùi bồ kết tan trong mùi chanh phảng phất đâu đây.
Tôi nhớ chị Đan quá. Xe chạy qua cánh đồng làng, ven đường có dải đất chi chít những nấm mộ.
Những cọng cỏ xanh trên chóp mộ ngả nghiêng đùa theo làn gió thổi, tiệp với mầu lúa xanh bát ngát
đang thì con gái. Trong các nấm mộ ấy, nấm mộ nào là mộ chị Đan, nơi chị đã lặng lẽ gửi nắm xương
tàn. Tôi lặng đi, buồn. Nỗi buồn chỉ một mình tôi biết. Ngoài trời nắng vẫn nhạt nhòa mênh mang. Tôi
nói nhỏ, nói thầm, lời nói bay tan theo làn gió thổi: “Chị Đan, em xin lỗi chị. Bao nhiêu năm chị em
mình xa nhau, nhớ nhau. Vậy mà từ ngàn trùng xa cách về thăm quê, em đã không đến thăm mộ chị
được...”
Nước mắt tôi ứ lên đầy mắt.
Trong không gian bỗng như vang động tiếng hát của chị Đan. Chị đang hát trong làn gió mát dưới gốc
cây khế của bao năm nào đã xa, quá xa.
Chị cười mà hai hàng lệ chảy:
Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót lòng mày, khế ơi !
Chị Đan ơi !
(1999)
NGÀY THÁNG CŨ
Hoá Vàng
Có lẽ đó là năm 1943.
Trước sân một dãy các đồ mã đã được bày ra.
Rất nhiều vàng hồ có gắn những mảnh kính óng ánh. Sau đó là những xấp giấy đủ mầu, được coi là các
thứ vải để người quá cố may quần áo. Hai cô hình nhân, ăn mặc theo lối quê, áo tứ thân, yếm trắng,
thắt bao hoa lý, tóc bỏ đuôi gà, là những người “đỡ chân, đỡ tay cho cô ấy.” Kế đến là hai cái hòm,
có khoá đồng bằng giấy trang kim, óng ánh như thật. Sau chót là cái xe cao su, tức chiếc xe kéo, có
mui giương lên, cụp xuống, hai bánh có nan hoa gắn vào trục, kéo đi đẩy lại quanh sân được. Nệm xe
trắng tinh, trên đó có con mèo tam thể nằm, hàng mã mà khéo như con mèo sống đang lim dim ngủ. Vì
người quá cố là chị Hân, con gái độc nhất của bác tôi, mất năm ngoái, người rất yêu quý mèo. Hôm
nay là ngày giỗ đầu.
Khi còn sống chị Hân ở ngoài tỉnh, lâu lâu mới về thăm mẹ. Thường chị đi xe Sơn (tức xe chạy đường
Sơn Tây-Hà Nội) tới ngã ba Quai Chè, lấy xe cao su về nhà. Xe chị đỗ ở sân, ngay trước cửa vào
buồng. Chị bước xuống, quần sa tanh trắng sột soạt. Chân chị đi hài cườm có thêu hai con chim
phượng. Chị mặc áo dài nhung, quàng khăn san và vấn tóc trần. Chị đi đến đâu mùi nước hoa sực nức
đến đấy. Độ này chị về luôn. Có khi đi xe ô tô nhà, mầu tím, đậu tại Ngã Ba. Mùi xăng thơm nồng. Chị
quả là người đến từ một cõi nào xa lạ và sang trọng quá. Rồi có tin chị lấy chồng. Chồng chị là một
ông giáo ở gần đây. Vợ cả ông mới mất, nhưng ông đã có vợ lẽ và mấy đứa con. Đám cưới dồn dập
đến. Cỗ bàn nấu theo nửa tỉnh nửa quê. Khách đông lắm. Khách ở tỉnh về đi xe tay, xe đạp và có cả xe
hơi. Đó là khách nhà gái. Khách nhà giai cũng toàn là dân có học, hầu như tất cả là nhà giáo. Họ nói
với nhau khi thì bằng tiếng ta, khi thì bằng tiếng Tây.
Chị Hân về nhà chồng bằng mấy chục chiếc xe cao su. Đồ dẫn cưới là những cái gối thêu và cái chăn
bông mầu hồng. Nghe nói hồi môn lớn lắm. Chú rể, lúc này tôi được phép gọi là Anh Giáo, mặc áo sa,
đi giày dôn bóng lộn. Quê chồng chị là làng Ngô-Tề, cách làng tôi độ 3 cây số. Bác gái tôi thương con
gái, nên cho một chị-ở đi theo để “đỡ chân đỡ tay cho cô ấy.” Vài tuần sau chị Hân về, mới gặp mặt
bác tôi đã oà khóc. Việc người lớn, tôi trẻ con, đâu biết gì. Rồi Anh Giáo đi xe đạp lên, tươi cười
chào bác tôi, một lời “thưa mẹ”, hai lời “thưa mẹ” thật là lễ phép. Bác tôi dặn dò hai vợ chồng rồi
cho gọi một chiếc xe-sắt để đưa chị về. Anh Giáo đi xe đạp bên cạnh.
Đùng một cái, một buổi sáng sớm, chị-ở hốt hoảng chạy về, vừa vào đến cổng đã oà khóc lớn: “Bà ơi,
cô con mất rồi.”Bác gái tôi cuống quýt. Rồi các anh, các chị tôi từ ngoài tỉnh về. Bác trai tôi về. Thôi
thì rối mù, bận rộn. Người ta bảo chị Hân bị đánh thuốc độc chết, thưa kiện ầm ĩ. Nhưng dù thế nào thì
chị cũng đã chết rồi. Chị Hân chết, bác gái tôi buồn lắm. Suốt 49 ngày, bác gái tôi đều cúng cơm và
nhờ ông thầy cúng hàng ngày đến tụng kinh cầu siêu. Có những buổi chiều lúc chập tối, bác gái tôi
đứng trước hiên nhà, nhìn ra mặt ao, thấy một đàn đom đóm lập loè ở hàng tre, bác tôi mở to đôi mắt
nhìn qua. Rồi bác tôi vào nhà, thắp hương lên đủ các bàn thờ ông vải, khấn vái la liệt. Sáng hôm sau
thế nào bác tôi cũng kể lại giấc mơ gặp chị Hân đêm qua. Lúc thì bác thấy chị khóc, lúc thì thấy chị
lăn lộn trên giường khi lâm chung. Nỗi thương nhớ, đau xót về cái chết của chị Hân như chẳng khi nào
dứt trong dòng suy nghĩ của bác gái tôi.
Bây giờ là ngày giỗ đầu. Thương con, bác đặt đồ mã đầy đủ như thế. Riêng cái xe cao su phải thửa từ
phố Hàng Mã, Hà Nội. Hôm đem về, hai bánh xe được tháo ra. Cái xe hàng-mã ấy ngự ngon lành ở
hàng ghế sau chiếc xe ô tô nhà của bác tôi. Sau mấy lần tụng kinh, khấn vái đã đến lúc hoá vàng. Tất
cả các thứ mà bác tôi cố gắng, chi ly nghĩ ra để “cô ấy sẽ không thiếu thứ gì dưới cõi âm”, bác tôi
đã thửa hàng mã làm đủ cả. Bây giờ tất cả đồ mã được gom lại. Cái nhà Tây hai từng được nhóm lửa
đầu tiên. Lửa bắt vào những mảnh giấy phất phơ là màn cửa, rồi lửa bùng lên thiêu đốt căn nhà, hệt
một đám cháy. Các “xấp vải” được vất vào. Này là hòm quần áo. Này là hình nhân. Cuối cùng là cái
xe cao su được kéo sát lại ngọn lửa. Lửa bắt vào mui xe. Bỗng lưỡi lửa như reo vui, chùm lớp cả lòng
xe. Ở đó có con mèo tam thể nằm trông y như thật, bị ngọn lửa bập bùng ôm kín. Đốt xong cái xe cao
su, ngọn lửa lụi dần. Một người lấy gậy ngắn khơi từ đống tro, các xấp giấy bết lại không cháy hết, giờ
lại bùng lên. Hình đôi hài cườm, cái đế còn nguyên không cháy được, giờ chỉ còn là một mảnh như
chiếc lá, đen ngòm. Tôi nhìn mà tiếc lắm. Hình hai con phượng lung linh những hạt cườm đã cháy tiêu.
Đống tro được bới qua bới lại cho cháy hết. Lúc ấy bác gái tôi đem tất cả những ly rượu trên bàn thờ,
lần lượt tưới xuống đống tro. Vừa tưới bác tôi vừa khấn. Hơi rượu nồng hoà với mùi khét lửa than bay
đầy mảnh sân rộng. Khi đống tro đã tắt, bác tôi sai người nhà đem đổ xuống ao. Tro giấy nhẹ nổi dật
dờ trên mặt nước. Một làn gió từ đâu tạt về, phả xuống mặt ao, thổi ngược lên, đem theo một số mảnh
tro bay tạt về phía bác tôi. Bác tôi bỗng hốt hoảng kêu lên:“Con ơi, con ơi! Thế con giận mẹ ư. Con
không nhận các thứ mẹ đốt cho con ư. Hay là còn thiếu thứ gì khiến con giận mẹ...” Bác tôi tức
tưởi khóc, mếu máo: “Khốn khổ con tôi, chết oan, chết uổng...”
Mảnh sân sau lễ hoá vàng nóng hổi. Người nhà lấy nước tưới lên, khói bay nghi ngút từ những mặt
gạch xám đen. Các hòn gạch cháy xám đen này còn mãi, chẳng phai nhoà những năm sau đó, như nỗi
nhớ thương không nguôi về cái chết oan khuất của chị Hân, con gái bác tôi.
Bây giờ, bây giờ là tháng 4 năm 1994, sau nửa thế kỷ xa cách chia lìa, tôi từ Hoa Kỳ trở lại Việt Nam,
về thăm quê cũ. Bước xuống Hà Nội. Hà Nội như bé lại, chật hẹp và nghèo nàn. Chỗ nào nhìn cũng
chan chứa xót xa. Nhưng ở phố Hàng Mã thì khác. Cờ ngũ sắc cắm đầy. Xưa là những con ngựa giấy,
là những cái mũ ông công, là chiếc xe cao su làm y như thật. Bây giờ là quần áo bộ đội, là các xấp tiền
Xã Hội Chủ Nghĩa và có cả những xấp tiền đô-la Mỹ. Một vài hàng còn bày bán xe Honda nữ làm to
và khéo như thật, có thể dắt đi lòng vòng được, như xưa kia người ta đã làm chiếc xe cao su. Có lẽ xe
Honda là món hàng mẫu, đắt giá, nên được bọc kín trong bao nylon, để ở trong nhà, tránh cho trẻ con
mó máy, làm hư. Quả là thời đại đã đổi thay. Hà Nội cũng đổi thay. Nhu cầu của người chết cũng đổi
thay theo nhu cầu của mực sống hàng ngày. Từ cái xe Honda nữ, khiến tôi nhớ đến mảnh sân cháy xám,
vết tích cuộc hoá vàng ngày cũ. Mảnh sân ấy có còn không. Một vùng những hòn gạch cháy xám giữa
mặt sân gạch đỏ au. Tôi náo nức muốn về quê ngay. Tôi muốn nhìn lại mảng sân ngày cũ.
Khi về đến quê, đến nhà, tất cả đã đổi thay, nhưng cái nhà cũ vẫn còn. Này là cái cổng ngoài, hai cánh
gà xây vòng như vòng tay mở đón mời, còn đấy, nhưng lớp vôi ngoài long lở, phô những hòn gạch chỉ
nằm ép vào nhau, giữa những lớp vôi hóm sâu tả tơi. Hàng chữ triện trên cao còn, nhưng rêu phủ đen
ngòm. Này là cổng trong, cái cổng làm theo lối Nhật. Hai cánh cổng có những thanh gỗ tréo ở trên như
biểu hiệu của ánh mặt trời, giờ cái còn, cái mất. Này là ngôi nhà từ đường đã phá mất từng trên trong
dịp tiêu thổ kháng chiến. Giờ lợp lại qua quýt. Tám cánh cửa ở gian giữa, giờ phải thật khéo mới mở
ra được. Mối mọt và những bản lề hư gãy với thời gian. Ở ngoài đã như thế, nói gì đến các đồ thờ, câu
đối rực rỡ một thời xa. . .
Trong cái ồn ào xúc động, lòng tôi ở một góc kín, tôi muốn nhìn lại mảnh sân xưa. Mảnh sân có các
viên gạch xám đen bởi cuộc hoá vàng. Không còn nữa. Nền sân lún, gạch vỡ. Tôi đi đi lại lại. Tôi
dừng chân ở nơi hoá vàng ngày cũ, mong thấy chút hơi ấm ngày xưa. Không còn gì. Mặt đất im lặng,
lạnh ngắt. Tôi đứng khá lâu. Từ sâu thẳm trong lòng sân, như có một sự cựa mình, nhưng vi tế quá, tôi
hình như chỉ thấy tự tâm tôi. Tôi bước những bước rất từ tốn trên mặt sân, mỗi bước chân đặt xuống
nhẹ nhàng, êm ả, chỉ sợ đất buồn. Tôi vẫn cố lắng nghe, mà như đất khô già quá, đất lặng lẽ nín câm.
Tới cuối sân, tôi dừng lại. Nhìn qua bức tường đổ, qua mảnh ao cạn, bên kia ao là một bụi tre. Lá tre
thưa nhè nhẹ đong đưa. Xưa ở đó có cái cầu ao gạch ong nằm ngay đầu bếp nhà chú Thư Ký. Một buổi
trưa lặng lẽ, bỗng có tiếng kêu thảng thốt: “Làng nước ôi ! Cứu cháu tôi...” Một người đàn bà ra bờ
ao, thụt tay xuống nước, kéo lên đứa bé lên hai. Đứa nhỏ ra ao chơi, sa chân chết đuối. Tiếng kêu hốt
hoảng ấy vỡ ra giữa buổi trưa vắng lặng với tất cả kinh hoàng, đã ám ảnh tôi, dính chặt vào trí nhớ tôi
như một vết chàm, không tài nào tẩy xoá được. Từ đó, mỗi buổi tối đến, nhìn những con đom đóm lập
loè trên cành tre, tôi càng sợ hãi. Phải chăng hồn em bé đã nhập vào bụi tre này. Trong niềm ưu tư đó,
một cơn gió từ đâu thổi tới làm tôi ghê gai, se sắt đôi tay. Làn gió này có giống làn gió nào bao năm xa
cũ. Lòng tôi như một sợi dây đàn mỏng manh muốn run lên theo từng đổi thay nơi quê hương cũ. Tôi
bồi hồi lặng lẽ. Bao nhiêu oan trái của chiến tranh, bao nhiêu người đã ra đi, oan uổng bỏ mình. Ôi
những anh linh của kẻ Nam, người Bắc, đã chết oan cho cuộc chiến thật buồn. Lúc nhắm mắt giã từ
cuộc sống, họ có nhớ về một ngọn tre nơi làng cũ. Ở quê nhà, cứ mỗi lần gió thoảng, lúc chiều rơi, có
những đốm hương đốt lên để tưởng nhớ những người đi biền biệt, chẳng về. Có lúc vì lầm lẫn, tên tôi
đã được đăng trên mục chia buồn ở một số tờ báo Sài Gòn, và cũng được đọc qua các làn sóng điện
lan đi khắp bốn phương trời. Trong lặng lẽ của thinh không, tin dữ ấy cũng đã lọt qua những cách trở
của chiến tranh, về đến tận nơi này. Anh cả tôi, các em tôi, cô chú tôi đã lặng lẽ thắp hương và khóc,
tội nghiệp cho tôi không bao giờ có thể trở về được nữa. Vậy mà bây giờ cuộc chiến tàn, tôi còn sống,
tôi lại còn về được đây. Tôi đang đi trên nền sân cũ, và bỗng nhớ quá những đợt khói hương, hơi ấm
của buổi hoá vàng. Cái nghi lễ lạ lùng, huyền hoặc mà người dân miền Bắc đã không bỏ. Phí phạm và
vô lý quá chăng. Nhưng nó lại như một sợi dây liên lạc, mơ hồ giữa hai cõi âm dương. Thôi thì như
lời của người xưa: Tâm động quỷ thần tri. Lòng ta thành thì thần thánh biết, ma quỷ biết. Lòng ta nghĩ
đến, biết đâu chẳng như một dòng điện, dù vi tế thế nào, cũng gây chấn động tới ngàn xa, nơi có cùng
tần số. Mà ở đời có tần số nào mạnh mẽ như tần số của thương yêu. Có nỗi niềm nào mãnh liệt, sâu
bền sánh được với sự mong chờ mòn mỏi giữa mẹ con, chồng vợ, giữa những người ruột thịt! Nghĩ thế,
tôi thấy trong không gian tịch mịch này như đầy ứ những niềm vui. Tôi ngửa mặt nhìn lên bầu trời cao
rộng, chi chít những vì sao. Thầy mẹ tôi, bác tôi, những người thân yêu, và cả các bạn bè một thời,
những người đã sang thế giới bên kia, đang thấp thoáng hiện về. Họ ở trên cao nhìn xuống. Họ mừng
vui thấy tôi trở lại. Tôi đang đi trên mảnh sân xưa, nơi những người ấy một thời cũng từng bước đi như
thế, trên mảnh sân này. Chân tôi đang đặt lên những bước chân của họ. Lòng tôi và hồn họ đang cùng
thổn thức. Đêm thật đẫm và lòng tôi cũng thật đẫm. Nước mắt tôi chan hoà mà lòng tôi thì vô cùng yên
ả. Tôi đã về. Tôi đã thấy lại quê hương. Quê hương trong lòng tôi còn đầy ứ. Tôi cúi đầu bước vào
nhà, nhìn lên bàn thờ gia tiên, tuy xưa cũ đi nhiều, nhưng vẫn giữ được phần nào hình ảnh bao năm
trước. Hình bà nội tôi ở giữa, hai bên, thấp hơn là hình bác tôi, thầy tôi. Tôi thắp một nén hương. Khói
bay toả nhẹ nhàng. Tôi đứng yên trước bàn thờ và thầm khấn: “Xin tổ tiên phù hộ cho con cháu ...”
Lên Đồng
Chú Châu tôi là con út của ông trẻ tôi. Ông trẻ và các chú lớn đi làm ăn xa, tận trên mạn ngược, đâu
như Hà Giang, Bắc Mục. Những địa danh xa tít, đầy lam sơn trướng khí, mịt mù huyền hoặc. Lâu lâu
gia đình ông trẻ tôi mới về. Lúc nhỏ chú Châu theo gia đình lên trên đó. Sau chú bị báng, bụng cứ to
ra, da bủng và vàng ệch. Người ta bảo chú ngã nước. Có người bảo tại chú nghịch ngợm sao đó bị ma
ốp, bị người Thổ họ thư. Vì thế chú về làng uống thuốc. Khi khỏi bệnh, chú không lên mạn ngược nữa,
sợ ma nó nhớ, nó bắt. Tuy theo vai vế chú gọi thầy tôi là anh, nhưng chú chỉ nhỉnh hơn anh hai tôi cỡ
một hay hai tuổi gì đó, nên chú xưng với thầy tôi là “em” và gọi thầy tôi là “bác.”Chú nhập bọn với
các anh lớn của tôi và các con của cô tôi. Tất cả năm, sáu người ở tuổi mười lăm, mười sáu, cười đùa
rinh rích, nhưng mỗi khi thầy tôi tới gần, cả bọn lại im như không, như ngoan lắm vậy. Nhưng cả bọn
không giấu được tài ăn của họ. Họ ăn nhanh và ăn nhiều quá. Nhà có giỗ chạp gì, mâm của họ, thức ăn
không bàyra đĩa, mà xúc vào bát lớn. Mới bày ra, loáng cái đã nhẵn bóng. Các bàn trên, các cụ vừa
ăn vừa nhâm nhi câu chuyện, thức ăn còn lại “thôi đưa xuống cho bọn trẻ”, ngoảnh đi ngoảnh lại đã
hết veo. Thầy tôi bảo “Quái. Tụi này ăn nó không nhai chắc.” Đấy là vừa ăn vừa nói. Họ nói với
nhau bằng những tiếng lóng, chả ai hiểu nói gì, chỉ thấy chốc chốc họ lại phá lên cười. Tôi đoán là có
nhiều điều“láo lếu” lắm đây. Mà thật. Một điều láo lếu mà tôi biết, biết mà giữ kín, nín thinh trong
bao nhiêu năm. Đến khi có thể nói ra được thì tôi đã ở xa quê quá đỗi. Các người trong cuộc kẻ mất
người còn mà vai chính là chú Châu. Câu chuyện thế này…
Giỗ chị Hân đã xong. Lễ hoá vàng cũng đã xong.
Tro cũng đã được hốt đổ xuống ao, nhưng bác gái tôi vẫn bồi hồi nhớ chị Hân. Chị chết oan uổng, đau
đớn. Bác gái tôi cho gọi ông thầy cúng đến để phụ đồng chị Hân lên. Bác tôi mong rằng sống khôn thác
thiêng, bác muốn hỏi cho ra lẽ về cái chết của chị.
Trời đã tối. Mảnh sân hoá vàng còn nóng hôi hổi. Bác gái tôi cho bày một bàn thờ riêng ở gian bên, có
hình chị Hân trên bàn thờ. Hình chị Hân tô mầu, chị mặc áo nhung, đeo kiềng vàng, vấn tóc trần. Quanh
ảnh chị có hoa tươi, trà, một đĩa xôi đậu, một con gà luộc. Mỏ gà cắp một đoá hoa hồng, ngắt ngoài
vườn. Hai cây nến trắng lung linh, bát hương nghi ngút khói. Đặc biệt có một mâm bồng cam Bố Hạ.
Thứ cam to, mỏng vỏ, ngọt mát mà ngày xưa chị Hân rất thích. Ông cung văn và cô đồng đón từ xa đến,
được bác tôi đãi ăn rất hậu. Bác tôi còn hứa “nếu hồn về trót lọt, trả lời xuông xẻ”, bác tôi sẽ còn
thướng thêm.”
Cơm nước xong, trước bàn thờ, ông cung văn ngậm cây tăm trên miệng, nhẹ nhàng ngồi vào góc chiếu
lên dây đàn: Phừng phừng. Phừng phứng phưng... Những ngón tay dài khẳng khiu nắn buông trên
phím, phô cái khuỷu tay áo the rách. Mọi người đã tề tựu. Bác gái tôi đã có mặt. Cô đồng được mời
vào. Cô đồng trạc trên dưới 40, là vợ của ông cung văn, nổi tiếng là người có căn, hồn dễ nhập. Cô
được mời ngồi vào giữa chiếu. Đèn măng xông thắp sáng. Cô e dè ngồi lê dần vào vị trí trước bàn thờ.
Ông cung văn phủ lên đầu cô cái khăn đỏ rộng chùm đầu, che kín cả vai và lưng. Trên đầu cô, một bát
nhang được nhẹ nhàng đặt lên. Cô đồng từ từ dơ hai bàn tay, run run, úp vào mặt. Cung văn bắt đầu
hát: “Ơ cô. Cô đẹp cô xinh. ... Ấy a hồn rằng hồn thác ban ngày. Thương cha nhớ mẹ (chứ) hồn rày
thác đêm.” Bác gái tôi bắt đầu tấm tức khóc. Không lễ, vì cha mẹ không phải lễ con, nhưng bác tôi nói
nho nhỏ: “Sống khôn thác thiêng, con có điều gì oan khuất thì xin nhập vào đồng, nói cho mẹ biết.”
Ông cung văn vẫn cao giọng vừa đàn, vừa hát. Mắt ông không rời nhìn vào cô đồng. Vì theo kinh
nghiệm thông thường, hát chưa xong một khúc, đồng đã đảo. Nhưng khúc hát đã chuyển mà đồng vẫn
lặng yên, chỉ thấy hơi run run như lo, như sợ. Hết khúc hát khen, ông cung văn chuyển sang khúc tán.
Giọng ông lúc cao vút như gió cuốn trên ngàn, lúc chùng xuống như thác đổ đầu ghềnh. Cô đồng vẫn
ngồi im như cũ. Bỗng cô đồng buông tay, đỡ bát nhang trên đầu xuống, để ở trước mặt. Tháo khăn phủ
đầu xuống. Ông cung văn bỡ ngỡ, bỏ dở tiếng đàn, tiếng hát. Cô đồng mặt mày nhợt nhạt, cúi đầu, chấp
tay lễ hai lễ, rồi lễ phép thưa: “Xin cụ bỏ lỗi cho. Nhà cháu không hợp căn, hồn không nhập được.”
Mọi người ngơ ngác. Ông cung văn hạ cây đàn xuống, để dài trên chiếu. Chiêu một ngụm nước lớn, lấy
tay gãi nách, rồi thưa: “Hồn cô cao lắm, nhà cháu không hợp căn cơ, không đậu được hồn về. Ở đây
có ai ngồi được xin mời vào ngồi hộ cho.” Trên bàn thờ, nhang đã cháy hết một nửa. Hai ngọn nến
lung linh, leo lét. Bỗng có ai tắt bớt ngọn đèn măng xông. Bàn thờ bỗng trở nên u linh, huyền hoặc.
Hình chị Hân trên bàn thờ lúc sáng lúc mờ theo ánh nến. Ông cung văn nhắc lại: “Ai có căn xin ngồi
hộ.” Ông chiêu một nhụm chè mạn đặc, nhưng nét mặt ông lo lắng thấy rõ. Như thế là tiếng tăm của cô
đồng mất, việc làm của vợ chồng ông sẽ xa sút chăng. Đợi một lúc, ông cung văn lại hỏi: “Ở đây ai có
căn cơ hầu đồng được thì xin ngồi hộ đi.” Ngoảnh đi ngoảnh lại không thấy ai. Sau một tuần trà nước
nữa, cuộc hầu đồng tưởng đã bỏ ngang thì cửa phòng bỗng mở. Một luồng gió tạt vào, lạnh toát. Chú
Châu tôi xuất hiện., khẽ nói: “Nếu không có ai thì để tôi ngồi thử xen sao.” Có ai đáp “Phải đấy!”
Cô đồng lê ra cạnh chiếu, nhường chỗ cho chú Châu tôi ngồi vào giữa chiếu. Đầu chú phủ khăn đỏ, và
không quên để bát hương lên đầu. Hai tay chú bưng mặt. Tiếng đàn lại nổi. Tiếng hát của ông cung văn
lại cất. Lúc đầu đầu đồng quay nhè nhẹ, rồi theo nhịp đàn, theo tiếng hát, đầu đồng quay rộng vòng
hơn, ngả ra phía trước, ngả ra phía sau. Tiếng đàn hát mỗi lúc mỗi thêm hưng phấn. Mọi người trố mắt
dõi theo vòng đảo chao chát của đồng. Bỗng tiếng đàn như chùng, tiếng hát nhẹ như ru, như dỗ:
“Chẳng mấy khi xa loan giá ngự về đ.. ồ..n.. g.”
Bây giờ đồng đảo mạnh, mềm như không có xương, rạp xuống phía trước, ngả ra phía sau, vậy mà bát
hương trên đầu đồng không đổ. Mọi người ngồi quanh im phăng phắc, nét mặt ai nấy đăm chiêu, sợ
hãi. Bác gái tôi thì xuýt xoa. Đồng đảo một vòng rất sâu rồi từ từ ngưng lại. Tiếng đàn thưa thớt theo
lời như khấn, như dỗ dành: “Đêm có khuya, ngày có rạng. Xin đồng ngả tay đồng xuống để ăn trầu
uống nước.” Đồng chìa bàn tay run run ra phía trước. Mọi người nín thở. Hai tay đồng đón bát hương
trên đầu xuống, trịnh trọng để ngay trước mặt, rồi nhẹ nhàng vén mảnh vải đỏ ra. Mọi người nín thở.
Chú Châu bây giờ khác hẳn. Mặt mày đỏ ửng, hai mắt khép hờ, rồi từ từ mở ra, thất thần như đang còn
chìm trong một cõi huyền hoặc nào xa. Đồng đảo mắt một vòng rồi bỗng oà khóc. Khóc như mưa, chan
hoà, nức nở. Bác gái tôi có vẻ sợ mà nước mắt cũng đầm đìa. Tiếng đàn lại nổi, và giọng ông cung văn
như giục, như mời: “Xin hồn hãy bớt lo toan, đừng khóc nữa. Hồn có điều gì oan khuất thì có mẹ
hồn đây, hồn có thể giãi bày vài lời cho thoả.” Hồn vẫn khóc, khóc lớn hơn. Bác gái tôi trong nước
mắt nghẹn ngào: “Con ơi, con chết oan chết uổng, khổ sở thân con. Mà con có biết hôm nay là ngày
gì của con không.” Hồn khẽ gật đầu, nói: “Biết. Ngày giỗ đầu của con.” Thế là bác gái tôi oà khóc
và hỏi: “Mẹ có thửa mã cho con đủ cả. Nhà Tây, xe cao su, hài thêu, quần áo, người hầu, không
thiếu một thứ gì. Con có nhận được không.”Hồn lại khóc và khẽ đáp: “Con chỉ nghe được tiếng
trống cúng xa xa thôi. Vì lũ quỷ nó cản, nó cướp mất cả, con chả được gì.” Thế là bác gái tôi lại
khóc nấc lên não nuột: “Khốn khổ con tôi. Thế con đã ăn uống gì chưa.” Hồn lắc đầu ra chiều buồn
bã quá. Hồn nhìn lên bàn thờ mình, trong lúc tiếng đàn của ông cung văn lại nổi lên rộn rã, reo vui:
“Hồn đói, hồn khát, thương quá hồn ơi.” Thế là bác gái tôi bảo đem con gà luộc trên bàn thờ xuống,
xé cái đùi gà ra, chặt vội vã bày trước mặt hồn. Hồn ăn một miếng thịt gà rồi lại khóc. Bác gái tôi lại
hỏi: “Thế con làm gì ở dưới âm ty.” Hồn đáp: “Con nghèo khổ quá, phải đi buôn rau buôn chè.”
Đó là nghề ít vốn mà những người cùng quẫn của làng tôi mới làm. Nghe thế bác gái tôi lại khóc và
nói: “Khốn khổ quá con tôi.” Ông cung văn vẫn hát, hồn khen “Hát hay” và bảo hồn cần tiền để
thưởng cho ông cung văn. Bác gái tôi liền móc túi lấy mấy đồng bạc đưa cho hồn. Hồn cầm tiền bỏ cả
vào túi, chỉ lấy ra có mất xu thưởng cho ông cung văn. Ông cung văn đón lấy tiền thưởng và cao giọng
hát tiếp, ý chừng sẽ còn nhận được thêm tiền thưởng:
Âm dương cách trở đôi đàng
Khuất oan hồn cứ thực lòng kể ra
Này anh, này mẹ, này cha
Này là chú bác toàn là người … thân.
Tiếng đàn càng trở nên quấn quýt, rộn rã như thúc dục, như tươi vui: Á à a… hồn ơi, hồn chớ ngại
ngần…
Có ai đó lấy từ trên bàn thờ xuống một quả cam Bố Hạ đỏ au, vỏ mỏng như giấy, bóc đưa cho hồn.
Hồn nhận và cho vào miệng một lần 4 múi. Quả cam vừa hết, mọi người hy vọng hồn sẽ thổ lộ thêm về
cái chết oan khuất của hồn thì hồn bỗng lăn ra và thăng. Ông cung văn hốt hoảng ngưng đàn hát. Bác
gái tôi thì sững sờ, hai tay quơ quơ như muốn bám víu, muốn giữ hồn ở lại. Chú Châu tôi lồm cồm
ngồi dậy, mắt nháo nhác như vừa tỉnh một cơn mê. Chú vái vội vàng mấy vái trước bàn thờ rồi nhanh
chân lui ra. Mọi người còn ngơ ngác. Bác gái tôi mếu máo: “Thế là nó đi. Mẹ con âm dương cách
trở, mới gọi được hồn lên, chưa hỏi đươc ngọn ngành nó đã thăng”. Trong không khí bàng hoàng
đó, chú Châu nhanh chân lẻn ra ngoài. Anh cả tôi chạy theo. Tôi cũng chạy theo xem sao. Trời đêm tối
như mực. Đom đóm đâu đó kéo về bay nháo nhác đầy sân. Chú Châu vỗ vào túi áo, nói nhỏ với anh cả
tôi: “Đi. Đi ăn phở.” Chú cho tôi đi theo và nhắc khẽ, lời nói sắc, gọn như chỉ lọt qua kẽ răng: “Câm.
Phải câm nghe không.” Vâng, lúc ấy vì sợ chú, vì bỗng dưng được đi ăn phở, tôi đã “câm”, không
dám hở cho ai hay.
Tôi đã giữ kín điều ấy qua mấy chục năm sinh sống ở trong Nam, rồi sang Mỹ. Bây giờ bác gái tôi đã
mất và nếu có thế giới bên kia thì bác gái tôi đã gặp được chị Hân rồi. Mọi việc đã cũ, tôi không còn
phải “câm” nữa, nhưng suốt bao nhiêu năm, cứ mỗi khi nhớ đến quê nhà, tôi lại nhớ đến chú Châu.
Hình ảnh chú Châu bao giờ cũng vẫn thế, như lời thầy tôi nói: “Bao giờ cho đứng đắn đây”.
Đám Cưới Nhà Quê
Rồi cái tuổi “láo lếu” ấy qua đi, chú Châu lấy vợ. Cụ Trẻ Ba đi làm ăn xa nên thầy tôi phải “quyền
huynh thế phụ”, thay mặt cụ Trẻ Ba, đại diện nhà trai lo liệu.
Hôm đi đánh tiếng, chú sang nhà tôi khi thầy tôi vừa ăn cơn xong, chú nói: “Bác mặc cái áo dài vào
đi lại nhà gái cho em.” Thầy tôi bảo: “Để anh uống ngụm nước cá đã.” Chú giục:“Thế nào nhà gái
cũng mời mình uống nước mà.”Đám cưới chú Châu như tất cả các đám cưới khác trong làng, tôi chỉ
nhớ được mấy điều. Khi nhà trai mang lễ vật đến nhà gái, có cụ Từ Vang mặc áo thụng xanh cầm
hương đi đầu. Sau là mấy người trai trẻ bưng các mâm cau, trầu và những chai rượu Văn Điển. Kế đến
là chú rể, phù rể và họ hàng nhà trai. Khi đám đón dâu rẽ vào xóm Ngõ Mắm, cái ngõ có lát gạch
nhưng hẹp dí. Tụi trẻ con trong xóm đã căng mấy dây mùng tơi để cản đường đám đón dâu. Mùng tơi
là thứ dây leo rất dễ đứt, tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng, phải nương nhau mà gìn giữ. Cũng vì
thế không ai dám đụng sợi dây căng ra cản đường, sợ đứt thì không nên, không tốt. Cũng chẳng ai dám
bước qua. Trẻ con biết thế, cứ mè nheo, đòi tiền chăng-dây. Nhì nhằng một lúc cho có lệ, tụi trẻ mở
dây để nhà trai tiếp tục đi. Đến cổng nhà gái, thì cổng đóng chặt. Tụi trẻ con nhà gái giữ cổng lại đòi
tiền mở-cổng. Lại nhì nhằng mà cả mãi, cổng mới được mở ra. Đám đón dâu ùn lại trễ đến nửa giờ.
Khi cánh cổng nhà gái vừa mở, một bánh pháo Điện Quang buộc ở cành na, trước sân bắt đầu nổ vang
đì đùng. Khói pháo mù mịt. Cụ cầm hương xênh sang bước tới. Chú rể và họ nhà trai quần áo chững
chạc bước vào sân gạch còn đầy xác pháo hồng và mù mịt khói thơm. Khi hai họ đã tề tựu, lễ vật đã
được bày trước bàn thờ gia tiên, có một bà cô nào đó bên nhà gái đỏng đảnh ngỏ lời: “Thay mặt cho
nhà gái, chúng tôi muốn được biết đồ dẫn cưới gồm những gì đây.” Áo dài, áo cánh, váy lụa, sà tích
bạc và một gói tiền được bày ra. Bà đại diện nhà gái lại nói: “Nói trên có các cụ bỏ lỗi cho, chứ
cháu gái tôi đáng giá có ngần ấy thôi sao?” Tuy đây chỉ là đối đáp theo thủ tục cho có lệ, nhưng
cũng làm cho mọi người khựng lại. Chú Châu tôi đứng ở hàng sau, nóng mặt nói lớn:“Để đó mà làm
mắm à?”Mọi người cười ồ. Nhà gái vội nhận lễ vật, đem vào buồng cho cô dâu thay áo mới.
Cô dâu bước ra, áo dài tứ thân bên ngoài, áo cánh nâu non bên trong, yếm trắng tinh, thắt lưng hoa lý,
dây xà tích bạc buông dài bên gối, đủng đỉnh, thẹn thùng. Nhờ có mấy người đẩy, cô dâu mới bước tới
chào hai họ. Lúc ấy bà đại diện nhà gái lại tươi cười lên tiếng: “Dạ, trên có các cụ hai họ, dưới là
tất cả gia đình hai bên. Cháu gái tôi được về làm dâu họ Phan là một điều sung sướng. Nhưng
cháu nó có nhớn mà chả có khôn. Thôi thì khôn thì các cụ dạy ít, dại thì các cụ dạy nhiều.” Tiếp
theo là các bà dì, bà cô, họ hàng sà vào, tíu tít: “Dì thì nghèo. Dì chả có gì nhiều cho cháu, gọi là
có, dì cho cháu cái thoi.” “Cô tuy có tiếng mà chả có miếng, cô có tấm vải cô cho cháu đem về lám
dấn làm vốn…” Sau mục họ hàng cho quà, cỗ bàn được bày ra. Ngoài những bát canh, bát om, đĩa
thịt mỡ thái quân cờ như thường lệ ở làng, cỗ cưới bao giờ cũng có một gói nem. Nem là bì thịt lợn
trộn với thính, được gói bằng lá chuối xanh vuông vức, buộc bằng hai lạt màu đỏ, để ở cạnh mâm như
một thứ trang trí đẹp, rất vui mắt. Những tay xính rượu, trước khi đi dự đám cưới đã thủ sẵn một nhúm
lá ổi non để nhắm với món mem này.
*
Sau bao nhiêu năm xa cách, trước phút vợ chồng tôi lên đường ra phi trường về thăm Việt Nam, anh
Hai tôi từ Úc gọi qua. Anh dặn thêm: “Như thế là chu tất. Có điều em nhớ thăm chú Châu cho anh.
Nhớ biếu chú một món quà cho anh.” Tôi vâng lời mà lưỡng lự. Anh tôi hiểu ra và tiếp: “Sở dĩ anh
nhắc em điều ấy vì anh em mình chịu chú một cái ơn.” Câu chuyện thế này. Lúc ấy là cuối năm
1954, hiệp định Geneve đã ký. Ai muốn đi Nam thì đi, ai ở lại cũng được. Anh Hai tôi lúc ấy là Trung
Uý, thường gọi là Quan Hai. Sau mấy tuần nằm nhà thương vì trúng đạn ở chân trong một trận đụng độ
khá ác liệt, anh Hai tôi được chỉ định ở lại Hà Nội, phụ trách việc liên lạc với Hải Quân Hoa Kỳ
trong việc đưa đồng bào vào Nam. Trung Uý trẻ, được phát một cái xe jeep mui trần mới tinh, sau giờ
làm việc, buổi chiều lái loanh quanh Hà Nội. Anh Cả tôi và hai cô em gái từ quê ra bảo: “Chú ở lại
đi. Đi Nam làm gì. Hai năm nữa tuyển cử mà. Ở lại không sao đâu, họ bảo thế.” Anh Hai tôi chỉ
cười, nhưng lòng cũng hoang mang. Đến ngày cuối phải giao Hà Nội cho Việt Minh, chú Châu tôi từ
quê ra tìm gặp anh Hai tôi và hỏi: “ Quan Hai, có xe ô tô riêng oai nhỉ. Thế vào Nam họ có cho lon
Quan Hai nữa không?” Anh Hai tôi cười và nói: “Vẫn thế và có thể còn từ từ lên cao hơn nữa
chứ.” Nghe thế, chú Châu nói nhỏ bảo anh tôi: “Chú nói thật. Chạy đi. Ở lại không được đâu. Đi đi.
Tin họ thế nào được.”
Nhờ lời nhắn nhủ đó, anh em tôi đã có mặt ở trong Nam suốt 21 năm. Chúng tôi, như đa số đồng bào
Bắc vào Nam, nhờ chịu khó, hầu như ai cũng có cuộc sống no đủ. Riêng anh em tôi, chúng tôi, ngoài
nỗi nhớ quê nhà, nhớ Hà Nội, chúng tôi đã có cơ hội học lại, học thêm và thăng tiến. Ở miền Nam, dù
chúng tôi không thuộc đảng phái nào cũng được xã hội đối đãi đầy thương mến. Chúng tôi có bằng
hữu, có các chân tình giữa đồng đội, xóm giềng. Nhiều lần khi còn ở Việt Nam, anh em tôi thường nói
với nhau: “Miền Nam hiền hoà, đơn giản. Miền Nam đã rộng lòng bao bọc chúng ta.” Chúng tôi
cũng hết lòng làm một công dân lương thiện. Chúng tôi đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình. Tôi
nghĩ đại đa số người Bắc vào Nam năm 1954 đều có ý nghĩ như tôi. Nhưng xa hơn một chút, nếu
không có chú Châu lặn lội từ quê ra Hà Nội nhắc “đi đi” thì chưa chắc chúng tôi đã quyết liệt đi như
thế. Bao nhiêu năm xa cách. Bao nhiêu chia lìa, tang tóc, giờ cuộc chiến đã tàn. Nhưng gian lao cơ cực
của người tỵ nạn lúc đầu với tôi đã tạm qua. Chúng tôi đã có cuộc sống ổn định. Các con, dù rất chật
vật, chúng tôi cũng đã nuôi dạy, học hành coi như xong. Tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm,
không còn tuỳ thuộc cha mẹ nữa. Tôi tạ ơn miền Nam, tạ ơn miền đất mới xa lạ này. Tất nhiên tôi
không thể quên lời nhắc của chú Châu. 40 năm xa cách, thời gian quá dài. Tôi nhắm mắt lại cố hình
dung ra chú. Chắc chú đã già, râu tóc đã bạc, nhưng chú có còn cười đùa, nghịch ngợm như xưa?
Chịu. Hình ảnh chú Châu với tôi chỉ là một thanh niên ngoài 30 tuổi, đùa nghịch, nghịch tinh và như
thầy tôi nói “Biết đến bao giờ mới đứng đắn đây.”
Về quê, sau những gặp gỡ, lễ lạc chính, tôi bảo chú em“Cho anh thăm chú Châu.”Chú em tôi như
một thoáng ngỡ ngàng: “À, cụ Châu. Vâng thì mình hãy thư thả.” Sợ quên, nhất là lời dặn của anh
Hai tôi, tôi nhắc:“Cứ cho anh thăm cụ Châu trước, sợ rồi bề bộn công việc.”
Chúng tôi đi theo con đường chính giữa làng. Xưa, tôi thấy nó thênh thang đỏ au gạch chỉ, nay sao nó
bé quá, hai bên nhà cửa chen chúc mọc đầy, khác hẳn quang cảnh ngày cũ. Nhưng khi qua bờ ao Hậu
thì tôi nhớ ra. Con đường này, ngày đám cưới chú Châu, hai họ đã đi qua đây. Cụ cầm hương mặc áo
thụng xanh đi đầu. Khói hương bay lượt thượt. Chú rể áo the, khăn lượt vừa đi vừa cười. Cô dâu nón
thúng quai thao, bao xanh hoa lý, xà tích bạc óng ả, thẹn thùng đi giữa các cô phù dâu. Cạnh ao là dinh
cơ của bác Tham tôi. Một dinh cơ cất theo lối mới nhưng vẫn là “thượng gia hạ trì”, nhà trên ao
dưới, tường hoa phủ kín hoa tường vi vàng ối. Nay dinh cơ ấy vẫn còn mà sao bề bộn, cũ kỹ quá. Dọc
theo bên kia ao là nhà thờ Quan Bác. Những năm cụ Thiếu về quê ăn Tết, nhà Quan Bác sửa soạn nhà
thờ từ trong năm. Dù, lọng óng ả. Bát bửu, y môn, câu đối được lau lại, treo lên rực rỡ, uy nghi. Giờ là
một căn nhà tối đen, thấp tè ẩn hiện qua mấy khóm tre um tùm mọc ở mé ao. Tôi vừa đi vừa nhớ lại.
Những vết tích cũ đều phai nhoà, tàn tạ, khiến lòng tôi buồn bã bâng khuâng. Đang miên man suy tưởng
thì chú em tôi nói: “Dạ, xin bác vào đây.” Tôi theo chú em rẽ vào một ngõ nhỏ, tường gạch ong đen,
hai bên cống rãnh dật dờ, mùi hôi phảng phất. Chúng tôi dừng lại trước một căn nhà nhỏ. Một bà cụ
mặc áo cánh nâu bạch thếch, đầu vấn tóc trần nhìn ra. Chú em tôi lên tiếng trịnh trọng, to tát: “Thưa
cụ, bác cháu từ Mỹ về lại thăm hai cụ.”
Tôi cúi đầu chào thím. Bà cụ ngỡ ngàng một chút, giơ hai tay lên trời và kêu lên: “Ấy cháu”. Tôi nắm
lấy đôi tay bà cụ. Đôi cánh tay gầy bọc trong hai ống tay áo bạc màu, đã rách. Rồi bà thảng thốt nói
lớn vào phía trong: “Ông ơi! cháu nó từ bên Mỹ về…” Tôi cúi đầu bước vào nhà. Căn phòng ánh
sáng mập mờ. Một cụ già từ trong góc chiếu đưa đôi tay quờ quạng ra phía trước: “Ờ ờ, cháu về thật
à.” Đôi mắt cụ kém, tay run run và cái đầu lúc lắc không yên. Tôi nắm bàn tay chú, cố tưởng tượng
hình ảnh ngày xưa mà đành chịu. Trước mặt tôi là một cụ già mà sức khoẻ cũng như tinh thần đã lụn
tàn. Trước chỗ ngồi là những ly nước chè đóng váng cáu đen. Cái điếu bát đầy tàn thuốc. Tôi ngồi
xuống bên cạnh chú. Chú vòng tay qua ôm lưng tôi. Một chút hơi ấm pha mùi thuốc lào cay nồng. Thật
là hết, hết hẳn hình ảnh chú Châu ngày cũ. Tôi nhắc lại chuyện cũ, nhắc lại lời anh Hai tôi nói cám ơn
chú, chú chỉ “ờ ờ.” Đôi lúc chú lại nắm lấy cổ tay tôi và nói: “Cháu, cháu thật à.” Tôi nhẹ nhàng bỏ
một phong thư vào túi áo chú. Chú cười cười. Tôi nói đùa: “Để chú ăn phở.” Chú lại cười, khoe hai
hàm răng chỉ còn có lợi.
Rời nhà ông chú trở về, trời đã tối. Những căn nhà nhô ra, thụt vào lấp loáng ánh đèn. Người đi kẻ lại,
nói cười, chào hỏi mà tôi không nhìn rõ mặt, cũng chẳng nhận ra ai, như bóng dáng của những người
quen đã mờ xa, còn mất, không thật. Bước những bước chập choạng lạ lùng trên con đường cũ bao
năm xa cách, tôi thấy mình đang bị chìm ngợp giữa một cơn mê chập chờn, quá khứ và hiện tại mờ
nhoà không thể nào phân định. Tôi ngước nhìn lên trời, vì sao Hôm xanh ngắt ẩn trong tàn lá ở cuối
con đường, như đôi mắt ai lấp lánh đón mừng. Một cơn gió thổi tới, thoáng lạnh làm tôi ghê gai cả hai
cánh tay.
QUÊ NGOẠI
Mẹ tôi người bên Chàng. Làng Chàng cách làng tôi một cánh đồng nhỏ, Đồng Mát và làng Thạch, được
gọi là Thạch Thôn, làng của anh Trần Lê Nguyễn, giải nhất Văn Học Toàn Quốc với kịch bản Bão
Thời Đại. Làng này liền với làng Chàng. Giữa hai làng ngăn cách bằng một cánh cổng tre đơn sơ, vì
cổng không có cánh. “Biên giới” hai làng, một cách cụ thể là hai con chó đá để ở hai bên cổng của hai
làng. Hai con chó này cũng là nơi trẻ con hai làng tụ họp, cỡi lên mình chó để chơi đùa và đánh nhau.
Lạ là hai làng liền nhau như thế nhưng giọng nói mỗi làng mỗi khác, cách nói cũng khác. Làng Chàng,
quê mẹ tôi, giọng nói trong hơn, êm hơn, nhất là thong thả hơn. Đặc biệt cuối mỗi câu nói thường được
vuốt bằng chữ“chưõng ...” kéo dài, khiến lời nói của làng Chàng trở nên êm ả. Đàn bà làng Thạch thì
nhiều lời và rất chua ngoa. Làng Thạch dính liền với làng tôi bằng cánh đồng Mát và cái đầm Bùi.
Mùa chiêm, nước nổi, đầm Bùi mênh mông như biển. Nước từ cánh đồng Hiệp đổ xuống, từ Hương
Ngải tràn vào và từ cánh đồng Cầu Rô, cầu Chợ làng tôi trút xuống. Hôm trước vụ chiêm mới gặt, cả
cánh đồng đi lại không lấm chân, chỉ sau một trận mưa, hôm sau ra đồng, đầm Bùi đã mênh mông trắng
xóa nước. Những dãy tre làng Núc bỗng nhòa nhạt xa tít tắp như một thế giới nào trong chiêm bao.
Trên mặt nước mênh mông ấy, những thuyền nan đen xì, thuyền thúng lao chao của làng Thạch lững lờ
qua lại. Những cây tre khô trắng làm cánh cho các vó bè đã như được mặc áo mới. Khung tre được
bung ra, và mạng vó khổng lồ mầu nâu sẫm được gắn vào đầu những cây tre ấy. Cùng lúc, dọc theo bờ
những thửa ruộng bên mép đồng Bùi, làng Thạch đã cắm sẵn những cái đó để đơm cá. Lạ là cá ở đâu
sẵn thế. Cá như từ trời theo nước mưa đổ xuống. Trong những cái đó dựng đứng ở ven ruộng ấy, sau
cơn mưa, thường có những con cá rô đen, to như chiếc lá mít, hoặc những con cá trê to trùng trục nằm
trong lòng đó. Đôi khi cũng là chú rắn nước oằn mình trong đó.
Vào những tháng mùa chiêm như thế cũng là lúc Thầy Mẹ tôi, gia đình nhà dì tôi phải sang Chàng để
ăn giỗ. Tôi không nhớ là giỗ ai, nhưng chắc là giỗ ông hoặc bà ngoại tôi nên không năm nào chúng tôi
vắng mặt. Thay vì phải đi qua làng Thạch bằng đường bộ, hai gia đình chúng tôi đi ăn giỗ bằng thuyền.
Chiếc thuyền nan to của nhà dì tôi từ mấy tháng trước đã được đem từ trên sà nhà ngang xuống, lấy dầu
chai chét vào các chỗ nan vênh, rỉ nước. Bây giờ đầm Bùi nước mênh mông, phải sáu người khiêng
cái thuyền nan ấy từ nhà ra đồng. Bác Bòi Kế, một gia nhân của nhà dì tôi, quần áo nâu mới chỉnh tề,
quấn ngang bụng cái thắt lưng to bản, đứng ở cuối thuyền, cầm cây sào dài, giữ cho mũi thuyền găm
vào bờ đất. Chú Cửu tôi xuống trước, đứng ở mũi thuyền, chân trước, chân sau, lấy thế cho vững, để từ
trên bờ Thầy tôi bế chúng tôi xuống sau. Chúng tôi được xếp ngồi trên hai thanh ngang giữa lòng
thuyền. Mẹ tôi và dì tôi xuống sau cùng, đem theo những thúng gạo, những con gà, bó hương và cả các
tập vàng hồ có gắn trang kim, những mặt kính óng ánh. Cả hai người mặc áo tứ thân, thắt lưng hoa lý,
hoa đào, đội nón lá thúng, quai thao, ngồi ở cuối thuyền, gần nơi bác Bòi Kế cầm sào. Chú tôi đứng ở
mũi thuyền, vẫn chân co chân duỗi như lấy tấn. Khi tất cả đã đâu vào đấy, chú tôi lấy một cây chèo
ngắn, chống vào bờ, đẩy mũi thuyền ra. Thuyền quay mũi, và một tay bác Bòi Kế, với cái sào dài đầy
thuyền lướt đi. Thuyền rẽ sóng, gió lên ào ạt bên tai. Có lúc thuyền đi gần những ngọn cây mọc nhô lên
mặt nước. Trên đó có những con cò ướt cánh đứng co ro trú mưa. Nếu tinh mắt còn thấy cả những con
rắn nước cuốn lòng thòng ở các cành cây thấp. Tôi rùng mình, nhìn quanh, dãy tre làng tôi mỗi lúc mỗi
xa. Gió như mỗi lúc mỗi mạnh và lạnh hơn. Nhìn về mũi thuyền, chú tôi vẫn đứng uy nghiêm như cũ.
Tay ôngchống cái gậy xuống đầu thuyền. Tà áo dài và cái khăn quàng nơi cổ ông bay lòa xòa về phía
sau lật phật. Mắt ông vẫn hướng về phía trước. Đôi lúc ông lấy cái gậy chỉ về bên trái hay bên phải để
mũi thuyền theo đó mà đi. Mấy anh em tôi, và các em nhỏ con nhà dì tôi ngồi co ro, xúm lại với nhau.
Thầy tôi đứng ngay đó, như sẵn sàng bảo vệ chúng tôi lỡ có đứa nào dại dột nghịch nước, rơi ra ngoài
thuyền. Thuyền không đi ra giữa cánh đồng mà đi men quanh làng Thạch. Đôi khi thuyền chui dưới các
bụi tre to khum mình ra đồng, mát dượi. Từ trên thuyền chúng tôi nhìn rõ những ngôi nhà tranh, những
đống rơm, đống rạ, những mảnh sân, ở đó giữa các đàn gà, có những đứa nhỏ đang chơi đùa, bỗng
ngừng lại nhìn con thuyền của chúng tôi đi qua. Người lớn không chú ý, nhưng những đứa trẻ ấy nhìn
tụi tôi, rồi nắm tay dứ dứ, nói điều gì tụi tôi không nghe rõ.
Qua một khúc quanh, làng Chàng, quê Mẹ tôi đã hiện ra rõ dần. Từ trong làng hình như có tiếng trống,
tiếng chiêng lúc mờ, lúc rõ. Thuyền có lúc trôi trên những ngọn lúa lơ thơ trồi lên mặt nước. Dì tôi
chép miệng “ruộng nhà ai gặt trễ thế này đây...” Khi thuyền chuyển hướng, đâm thẳng vào lũy tre thì
tôi biết đã đến. Giữa lũy tre đen đặc ấy, một lỗ trống mở ra, con thuyền của chúng tôi từ từ xuôi mái
chui vào. Thầy tôi, chú tôi đều ngồi xuống. Chú tôi lấy cây gậy nhỏ sẵn sàng chống lên bờ. Con thuyền
ngoan ngoãn ép mình vào bờ đất. Từ trên bờ đã lao xao tiếng chào “các cô các chú đã về này...” Các
anh lớn của tôi đi học ở trường huyện tan học về trước, đang vắt vẻo trên cây sung nô đùa, hái quả, sợ
hãi phải đòn vì leo trèo dại dột, vội vàng leo xuống. Anh Giáo Cả, bụng tròn như quả mít, đứng đó,
tươi cười chào đón mọi người. Chú tôi lên trước, đứng ở trên bờ. Từ dưới thuyền thầy tôi bế từng đứa
đưa cho chú tôi. Đến lượt em bé trai út của nhà dì tôi mới ba, bốn tuổi, nó bỗng chùn người lại, không
chịu cho thầy tôi bế lên. Dì tôi phải dơ tay ẵm em, mới khám phá ra em bé đã bĩnh ra quần, thối hoăng,
làm bẩn cả cái quần trắng trúc bâu mới. Ai nấy vừa mắng yêu em vừa cười. Dưới thuyền bác Bòi Kế
chống con sào, buộc ghì cột chèo vào một gốc tre, rồi ngồi xuống mạn thuyền, lấy cái điếu cày, thong
thả châm điếu thuốc, hít một hơi dài, thở khói mù mịt.
Trên mảnh sân đất mịn trẻ con nô đùa. Ở một góc sân nồi nước sôi bốc khói. Mấy chị, mấy cô đang
xúm nhau vặt lông gà, lông vịt. Khói bếp và mùi đun nấu bay tỏa, bao trùm. Chúng tôi những đứa trẻ
năm, bảy tuổi tha thẩn ra mảnh vườn trước nhà, đi dưới bóng những cây na, cây chanh. Cành cây la đà
ngang mặt. Chúng tôi tiện tay hái những quả chanh vàng mịn óng. Mùi hương thơm của lá, của hoa lan
tỏa ngây ngất. Ở cuối vườn có một cầu tre lắt lẻo, bắc từ vườn bên này qua vườn bên kia. Bên kia là
dinh cơ của nhà mợ hai tôi. Qua những hàng cây xanh lá là một dãy cau trồng trước hiên nhà. Những
cây cau cao đong đưa trong gió như lúc nào cũng đứng đó để bảo vệ căn nhà tranh êm ả của nhà mợ
hai tôi. Tôi đứng đó rất lâu, lấy những cục đất ném vu vơ sang bờ bên đó, khiến con chó vàng to xù từ
trong nhà chạy ra nhe răng trắng ởn, sủa vang. Chúng tôi vẫn đứng đó. Con chó ra tận mép ao gầm gừ
sủa tiếp. Thấy chẳng làm gì được chúng tôi, con chó sủa thêm vài tiếng rồi quay vào nhà. Chúng tôi
lấy đá ném qua, con chó quay lại sủa thêm vài tiếng vu vơ nữa rồi đi khuất vào trong lớp cánh dại
trước hiên nhà.
Dọc theo mép ao, theo lối mòn, chúng tôi đi tiếp. Tay cầm cành tre nhỏ cời bới như đi thám hiểm một
vùng đất hoang vu. Dưới bóng mát của những cành tre khum mình xuống mặt ao, thế giới nhỏ bé của
chúng tôi như thu kín lại. Những tiếng động ồn ào của ngày giỗ như mờ nhạt hẳn đi. Chúng tôi nhặt
những cái mo nang lớn thả xuống mặt ao. Mo nang lững lờ như những cái thuyền trống trôi qua trôi lại
theo chiều gió thổi. Một vài chiếc “thuyền” mắc vào những cụm tre khô nhoi lên từ mặt nước. Ở đó
thấp thoáng có những tăm cá to như hột nhãn thỉnh thoảng nổi lên. Tôi biết đó là tăm của loài cá chắm
thường làm tổ trong các nhánh tre. Chắc chúng đang cựa mình ve vẩy cái đuôi to mầu hồng nhạt. Chúng
đang cạ mình, chà những hàng vảy xanh đen vào các cành tre khô dưới đáy ao. Hay chúng nhởn nhơ
bơi qua, bơi lại phô nghiêng cái bụng trắng hồng. Đôi khi có những hàng tăm cá nhỏ nổi lên từng chụm.
Đấy là tăm của những chị cá diếc. Như những cô gái đang độ xuân thì, cá diếc thường đi từng đàn, bơi
lội tung tăng, có khi con cá này cắn đuôi con cá kia, tinh nghịch đùa rỡn khoe làn vảy trắng óng ánh
như bạc, trước vẻ ưu tư trầm mặc của các anh cá chắm. Những chú tôm thì khác. Chúng phóng vun vút,
thoáng ở chỗ này, thoáng ở chỗ kia như những anh hề của một tuồng múa dối... Một làn gió thổi, hàng
tre oằn mình, đong đưa, thả thêm những chiếc lá khô rơi la đà trên mặt ao vắng. Có một đàn chim
khuyên từ lưng trời chao chát sà xuống đỉnh cây, chưa đậu lại, chừng như phát giác có chúng tôi ở
trong vườn, vội vã bay vút lên cao, kêu ríu rít. Tiếng chim nghe nhỏ dần và mất hút như chìm lấp vào
những đám mây xa. Một làn gió thổi qua làm rung rinh cành lá. Chúng tôi bỏ bờ ao trở vào lòng vườn
tìm hái những đoá hoa tranh nở muộn, cánh dày trắng phớt hồng, chà nát trong lòng bàn tay, một mùi
thơm hăng chát toả nồng.
Ở giữa vườn có những hàng gạch chỉ vuông vức. Anh Giáo tôi nói đây là vết tích của cái nền nhà cũ,
khi hai cô — tức là mẹ tôi và dì tôi — chưa đi lấy chồng, bà ngoại tôi còn sống, đã dựng một khuôn
nhà tranh hai gian, rất xinh ở giữa vườn, mỗi gian kê một cái khung-cửi-tay, mỗi cô một cái. Từ ngoài
đường cái nhìn qua mặt ao có cành sung đong đưa lả ngọn, và được đan kín thêm bằng những cây
chanh, cây ổi, cây đào, cây mận, người đi đường có thể thấy thấp thoáng hai cô thôn nữ cần cù bên
khung cửi. Hình ảnh hai cô dưới ánh đèn chong, không rõ mặt, nhưng nổi tiếng là đẹp, chăm làm.
Những tấm vải do hai cô dệt thật đều tay, mặt vải mịn mà, dịu mát. Tiếng đồn hai cô đẹp người đẹp nết
như thế nhưng vẫn kín cổng cao tường. Vẫn lời anh Giáo Cả tôi cho hay, những hôm trăng sáng, hai cô
ngồi dệt cửi rất khuya, bên kia đường có những anh trai làng lượn qua lượn lại. Có anh cùng bè bạn
ngồi lỳ bên bờ ao hát vọng sang. Tiếng hát tình tứ hoà với tiếng sáo tre bay qua mặt ao lấp loáng ánh
trăng,“Người về người nhớ ánh trăng, ta về ta nhớ hàm răng cô mình cười. …” Hai cô biết cả
nhưng cứ tỉnh như không, càng chăm chú hai tay nhịp nhàng thoăn thoắt đưa thoi. Những khi xuân đến,
hoa đào đỏ hồng, hoa mận trắng xoá nở ở ngoài hè thơm ngát, càng làm cho khuôn nhà tranh của hai cô
trở nên thơ mộng.
Rồi trong một ngày Tết, vẫn theo lời anh Cả tôi kể lại, làng Chàng mở hội tế Thành Hoàng, đón xuân,
có đánh cờ người ở sân đình. Mẹ tôi được chọn làm quân xe, còn dì tôi là quân tượng. Cả hai mặc áo
tứ thân, váy lụa, đội nón thúng quai thao, thắt bao hoa lý, đeo sà tích bạc ống vôi quả đào, nổi tiếng
đẹp giòn rã, tươi vui. Chú Cửu tôi và thầy tôi là hai anh em con cô con cậu, cùng tuổi, ở sát nhà nhau
nên thân nhau lắm. Hai người là hình ảnh của các thầy khoá cuối mùa nhưng vẫn giữ được nề nếp nho
phong, từ làng bên sang xem hội. Cả hai đều dong dỏng cao, nhưng chú tôi da trắng, cuốn khăn chữ
Nhân, mặc áo sa, cầm ô lục soạn, đi giày Gia Định, rõ ra là một văn nhân con nhà giàu. Còn thầy tôi
mặc áo the trơn, đội khăn gõ, quần chúc bâu ống sớ, đi guốc mộc, cầm cái ô đen, có phong thái một
anh đồ con nhà thanh bạch, khiêm cung nhưng có tiếng là hay chữ. Vẫn lời anh Giáo Cả tôi, chẳng biết
hai chú làm quen với hai cô thế nào, chỉ biết Cô P. (tên dì tôi) lấy chồng trước, và nửa năm sau là đến
cô L. (tên mẹ tôi) cùng về làm dâu làng Nủa. Hai cô đi, nhưng cả năm sau, bên bờ ao các đêm trăng
sáng, vẫn còn những chàng trai tụ họp, tiếng sáo bát ngát buồn, hát những câu ca dao tiếc nuối “ai đem
con sáo sang sông, để cho con sáo xổ lồng nó bay.” Hai cô đi khỏi làng, cái nhà nhỏ giữa vườn ấy
bỏ không đến mấy năm, bà ngoại mới cho dỡ đi, nền đất bỏ không, nhưng những cây chanh, cây đào
tiếp tục ra hoa, ra quả đến tận bây giờ.
Như thế, mẹ tôi và dì tôi cùng lấy chồng thiên hạ, làm dâu đồng đất xứ người nhưng hai chị em lấy hai
anh em con cô con cậu, hai nhà ở cạnh nhau, chỉ cách một mảnh vườn cỏ và một mặt ao hẹp, nên thân
thiết biết dường nào. Dì tôi là người tháo vát, có tài buôn bán nên gia đình đã có bát ăn, bát để, mỗi
ngày lại mỗi thêm giàu có. Còn gia đình thầy mẹ tôi thì thanh bạch. Mẹ tôi nổi tiếng khéo tay và chăm
chỉ làm ăn, nhưng lợi nhuận của cả gia đình chỉ trông vào hai bàn tay của mẹ tôi thì làm sao đủ được.
Nhất là khi một lũ anh em tôi lần lượt được sinh ra. Khi tôi còn bé, tôi không thể quên những hôm trời
mưa dầm dài ngày, vải mẹ tôi dệt không bán được, vì chợ không họp, những bữa cơm của gia đình
thường chỉ có nồi canh dưa nấu với cà chua và một đũa mỡ. Mà trời càng mưa, càng rét, càng hay đói.
Lu gạo trong bếp đã vơi. Những hôm như thế, giữa lúc mưa to gió lớn, dì tôi mặc áo tơi, đội nón lá
đến, bưng theo một cái thúng nhỏ, tạt mưa nghiêng người vào nhà. Trong cái thúng ấy, trước tiên là
những chiếc bánh giò, bánh đậu làm quà cho lũ trẻ chúng tôi. Và dưới mảnh buồm cói là nửa thúng
gạo, một miếng thịt ba chỉ, hay một con cá gáy còn tươi đem cho mẹ tôi. Bữa cơm hôm ấy bừng lên
mùi thịt cá. Dù không phải nhắc, lũ chúng tôi biết ơn dì thế nào mà nói. Lúc ấy Thầy tôi lại vắng nhà,
cảnh thanh bạch càng thêm cô quạnh. Từ Thanh Hoá, đại diện cho một cửa hàng vải của bác tôi, trong
một buổi chiều, nhớ nhà, Thầy tôi đã tức cảnh mà viết những câu thơ:
Ngắm cảnh chiều hôm trạnh nhớ nhà
Mây vàng kia ắt hẳn đấy nhà ta
Thần hôn những luống đàn con trẻ
Định tỉnh nào nguôi nỗi mẹ già
. . .
Thầy tôi nhớ đến mẹ già nơi quê nhà, có nghĩa là khi bà nội tôi còn tại thế, cũng có nghĩa là tôi chưa
được sinh ra, vì khi bà tôi mất, như mẹ tôi nói lại, mẹ tôi đang mang bầu tôi. Nhưng bài thơ ấy mẹ tôi
thuộc. Bà đọc cho chúng tôi nghe khi thầy tôi vắng nhà, nên tôi biết và nhớ cho đến tận bây giờ.
*
Chúng tôi trở lại “bến thuyền” khi mới đến. Bến đã trống không. Từ khoảng trống này chúng tôi nhìn
ra, một vùng đồng mênh mông nước. Từ ngoài xa ấy chúng tôi còn bắt gặp chiếc thuyền nan, trên đó
bác Bòi Kế đang cúi mình đẩy thuyền đi, trở về. Thuyền không, đi rất lẹ. Chỉ một thoáng chiếc thuyền
đã rẽ, mất hút ở một góc làng xa. Trời đất thênh thênh. Mặt nước trắng xoá in bóng ngọn núi Tản Viên
mờ nhạt lẩn trong mây, lung linh vỡ ra từng vệt ngang dài trôi đi, trôi đi và tan vào những bờ ruộng
cao… Bây giờ nhà trên đã đông khách. Họ hàng gần gũi lần lượt vào lễ. Thấy tụi trẻ con chúng tôi xuất
hiện, anh Giáo Cả, con trai trưởng của Mợ Cả tôi nói lớn “các chú vào lễ ông bà đi...” Chúng tôi bắt
chước người lớn vào lễ trước bàn thờ, cũng lên gối xuống gối lần lượt bốn lần. Người lớn chú ý theo
dõi, nên khi chúng tôi lễ xong, có nhiều tiếng nói “giỏ..i.” Bước ra sân, thấy mẹ tôi đứng đó mỉm cười
sung sướng. Mẹ tôi thưởng cho chúng tôi mỗi đứa một cái chân cọ gà. Giữa lúc ấy, gia đình nhà Già
tôi đến. Già tôi da mặt có nhiều chỗ loang trắng vì bịnh bạch tạng, tóc bạc ở hai bên vành tai, bước đi
ngắn, rất chậm, ít nói, nhưng miệng lúc nào cũng ngậm cái tăm và mỉm cười. Mọi người tíu tít chào
đón Già tôi. Giữa lúc ấy, anh Tân, con trai trưởng của Già tôi vừa từ dưới cầu ao lên, mới rửa chân
xong, đang lấy đôi giày ta, giày Gia Định, xỏ vào, lẹp kẹp đi trên nền sân đất mịn. Anh tươi cười, ăn
trầu bỏm bẻm, chào hỏi mọi người rất rôm rả. Anh đứng trước bàn thờ, chấp hai tay trước bụng nói
lớn: “Thưa trên có các cụ, các ông bà, dưới có tất cả anh em nội ngoại. Hôm nay là ngày kỵ của
ông ngoại chúng tôi. Lẽ ra Thầy chúng tôi phải có mặt, trước là để lễ Ông Ngoại chúng tôi, sau là
để có dịp gặp gỡ, thăm hỏi, hàn huyên cùng bà con thân quyến. Song vì Ông thân chúng tôi hôm
nay không được khỏe, nên chúng tôi là con trưởng, chúng tôi đem đầu đến đây để thay mặt cho
Thầy chúng tôi...” Dứt lời anh Cả Tân cúi xuống lễ bốn lễ rất nghiêm trang. Nét mặt anh chùng lại,
hai mắt khép hờ. Hình như anh còn khấn những lời rất nhỏ. Xong lễ, nét mặt anh như bừng tỉnh sau cơn
mê. Anh tươi cười nhìn sang hai bên tả hữu, chào hỏi khắp lượt. Có tiếng ai nói đâu đó: “Anh cả Tân
chững chạc thế, kỳ tới nên chạy cho anh chân phó lý...”.
Tiệc đã xong, mọi người lần lượt ra về. Mặt người nào cũng đỏ gay, hơi men tỏa nồng. Chẳng mấy
chốc khung cảnh đám giỗ ở nhà Mợ Cả tôi đã vãn. Mấy anh lớn của chúng tôi được phép: “Thôi cho
chúng bay về nhà trước, để có thì giờ học bài. Nhớ về thẳng nhà, không được la cà, đánh đáo,
đánh nhau trên đường đi...” Mấy anh lớn như mở cờ trong bụng, vội cởi bỏ áo dài đen, cho vào cặp,
nhảy chân sáo ra về. Tôi nhìn theo các anh mà ao ước mình lớn như các anh, đi về qua làng Thạch
không sợ trẻ con làng này bắt nạt. Vì các anh hình như còn biết nhiều miếng võ nữa. Tụi làng Thạch mà
lại gần các anh ấy phi thân đá chết. Chiều đã ngả. Anh Giáo Cả tôi nhờ một người mang vó ra ao, thả
xuống. Để một lúc, rồi lấy mấy hòn đất lớn ném vào đám rong tre ở giữa ao. Đợi thêm một chút như có
ý chờ những con cá lớn bơi vào lòng vó, vó mới được kéo lên, thật thong thả. Bốn góc vó lên trước,
miệng vó hiện lên sau. Lòng vó hẹp dần, mọi người nhìn cả vào lòng vó. Có những cái quẫy xôn xao
trong đáy vó còn lưng chừng nước. Khi đáy vó vừa lên khỏi mặt nước, mọi người cười nói ồn ào:
“Mấy con cá chắm để dành cho các cô mới vó được có một con...” Người kéo vó quay vó vào sân,
thả xuống, những con cá to nhỏ đủ loại đang cong mình dãy trong lòng vó đặt ở giữa sân. Một người
nhặt những con cá trôi nhỏ, mình trắng, mắt đỏ, thả lại xuống ao. Con cá chắm lớn được lấy lạt giang
sâu vào mang, đặt giữa hai mảnh vỏ thân chuối tươi, giữ cho cá được mát. Miệng cá được nhét mấy
cánh bèo tây sũng nước, cho cá khỏi khát. Con cá ấy đưọc đưa cho Dì tôi: “Con này là phần của
Cô...” Như thế, đến lúc chúng tôi ra về, phần quà từ bên ngoại gồm những con cá lớn, những quả bưởi,
quả mít và cả những nửa rổ vừa tranh, vừa ổi. Riêng tụi trẻ con chúng tôi còn có một vòng quả sung
đeo ở cổ. Những quả sung chín mầu tím thẫm, bửa ra, từ giữa lòng quả sung có những con muỗi bay ra.
Không biết muỗi từ đâu lại có sẵn trong lòng quả sung như thế. Những quả sung ấy ăn ngọt lịm. Mẹ tôi
và Dì tôi quảy những món quà ấy về, đi theo đường bộ về trước, tất nhiên phải qua làng Thạch. Thầy
tôi, Chú tôi và tôi về sau, vì chúng tôi còn phải tạt vào thăm gia đình Cậu Giáo.
Nhà Cậu Giáo ở gần đình. Căn nhà nhỏ nhưng xây cất theo lối nửa tỉnh nửa quê, tọa lạc trên một thửa
đất cao. Bước lên ba bực gạch vào sân. Con chó vàng thấy động sồ ra sủa inh ỏi. Cậu Giáo tôi từ
trong nhà khách bước ra, kéo trễ cái kính xuống, tươi cười đón Chú và Thầy tôi vào nhà khách, rồi ông
đi lên nhà trên. Chú và Thầy tôi ngồi trên hai chiếc ghế song uốn cong, mặt và lưng ghế là những sợi
mây đan. Tôi ngồi ké né ở góc tấm ghế ngựa kê sát cửa sổ. Gió từ mặt ao thổi vào lồng lộng. Cạnh tôi
là cuốn sách đang mở, bên cái gối mây. Tôi chắc Cậu Giáo tôi đang nằm đọc sách. Sát tường nơi kê
bàn ghế là một cái tù chè, trên có một đỉnh đồng đen, chân cao. Trên tường có một bức đại tự, nét chữ
thanh thoát như bay. Sau này tôi mới hay đó là chữ Hiếu. Hai bên đại tự là một đôi câu đối hình trái
vật thủ, sơn son thiếp vàng. Dọc theo tường có hai tấm hình khá lớn. Tấm trên là hình Cậu Cử trong mũ
áo thụng đen vào ngày đỗ cử nhân Trường Luật Hà Nội. Bên dưới đó là hình Cô Cử mặc áo dài gấm,
đội khăn vành dây, đứng trên mảnh ván cầu ao. Hình chụp từ trên nhìn xuống nên hậu cảnh là mặt ao
thấp thoáng những cánh bèo ong nổi trên một nền mây lồng dưới đáy ao sâu thẳm. Tường bên có tấm
ảnh lớn, đóng khung trang trọng, chụp trong ngày cưới của Cô Cậu Cử. Tấm hình chụp ở tam cấp trước
nhà thờ và cũng là tư dinh của cụ Thiếu. Trên bực cao nhất có ba người. Cụ Thiếụ mặc áo gấm, đeo
thẻ ngà, chít khăn chữ Nhân đứng giữa. Bên phải Cụ là quan Thượng, trưởng nam, bên trái là quan Bố,
thứ nam. Cả hai là người đang tại chức. Hai vị cũng mặc áo gấm, đeo thẻ ngà, đội khăn chữ Nhân. Bậc
thứ hai, sát bên cánh phải là Cụ Ba, bà thứ thất của Cụ Thiếu và là thân mẫu của Cô Cử, mặc áo đoạn,
trên vai có phủ khăn thêu. Thấp nhất và đứng ở hai bên, dưới nền sân gạch bên hai cái dù thêu cắm
trong giá là tân lang và tân giai nhân. Bên trái là Cậu Cử, bên phải là Cô Cử. Cả hai đều mặc áo gấm,
đi hài. Riêng Cô Cử bưng trên tay một cái âu đựng trầu, có vẽ hình phụng vũ, sơn son, thiếp vàng.
Nhìn kỹ vào tấm ảnh, còn thấy hậu cảnh là một dãy dáo mác, gươm, quả chùy giả được cắm trên giá
xòe ra như nan quạt. Sau nữa là thấp thoáng những đôi câu đối ánh lên nét mạ vàng ở những hàng cột.
Tấm hình là cả một thứ bậc, tôn ty và tràn đầy vẻ giàu sang, quyền quý của một đại gia lừng lẫy Bắc
Hà thời đó...
Đối diện với cái ghế ngựa, nơi tôi đang ngồi, là một bộ phản trải chiếu đậu mầu vàng nhạt dịu dàng. Ở
đó có cái quạt nan nằm giữa phản. Tôi chắc là nơi Bà, cụ thân sinh ra Cậu Giáo nghỉ ngơi. Tôi đang
trầm ngâm tư lự như thế thì Cậu Giáo bước vào. Ông mặc áo thâm, khăn xếp nghiêm túc như khi ra
đình, hay đi dạy học. Tôi khoanh tay cúi đầu chào Cậu Giáo. Chú tôi, Thầy tôi cũng đứng lên chào
Cậu Giáo. Cậu cười, đon đả mời mọi người an vị, khoe hàm răng đen mà mấy chiếc răng cửa đã nhạt
mầu.
Câu chuyện giữa Thầy tôi, Chú tôi với Cậu Giáo là sự học hành của các anh tôi, của tôi trong những
ngày tới. Là ngôi trường Khôi Việt mà Cậu Ba, em Cậu Giáo đang dự trù mở ở trên Săn, để học trò
hàng huyện có thể tụ về học hỏi. Là đường công danh của Cậu Cử, ra làm quan hay làm việc tại Hà
nội...Trong lời nói của Cậu Giáo, dù rất thân tình và khiêm tốn, dù còn bé, tôi cũng nhận thấy sự hãnh
diện của Cậu về sự thành đạt của các em, về sự hy sinh tận tụy của Cậu, quyền huynh thế phụ, đưa đến
kết quả ngày nay.
Chúng tôi từ giã nhà Cậu Giáo ra về.
Hết quãng đường gạch trước sân đình, rẽ trái, đi một quãng nữa là hết địa phận làng Chàng. Những
mảnh ao sau trận mưa đục ngầu ở bên tay phải. Hai con chó đá ngồi chầu nhau, đấy là ranh giới của
hai làng. Tôi phải đi sát bên cạnh Thầy tôi. Tôi rất sợ những đứa trẻ làng Thạch. Chúng lừ mắt nhìn
tôi. Tôi ngoảnh lại, thường thấy chúng dơ nắm đấm dứ dứ về phía tôi. Nếu thầy tôi ngoảnh lại, thì
chúng lại nhìn đi nơi khác, như không, như chẳng để ý gì đến tôi. Qua cổng làng Thạch, chúng tôi phải
trèo lên một cái dốc, ấy là cái cống đìa Đọ. Những trận mưa đầu mùa làm nước đầm Bùi ngập trắng
xóa.Nước từ cánh đồng bao la đó dồn cả vào cái cống này để đổ vào sông Tích Giang. Từ trên đỉnh
cống nhìn xuống, nước chảy ào ạt. Nước hút vào ba miệng cống đá ong khổng lồ như cổng tam quan.
Từ đó nước túa ra, tuôn phăng phăng, cuốn theo cả những cành cây khô ngụp lặn trong dòng cuồng nộ
của nước. Từ bên này dốc, tôi đã thấy làng tôi trước mặt. Nhưng ngay nơi đầu dốc, một khuôn đá xanh
lớn hình chữ nhật, to bằng tám mặt chiếu và dày độ hai gang tay người lớn. Tại sao phiến đá ấy lại
nằm đây? Nó từ đâu lạc đến và bằng cách nào? Thuở nhỏ tôi đã tư lự về khuôn đá này như ám ảnh về
một cõi u minh, thần bí của thủa hồng hoang. Chỉ vài trăm thước nữa là đến cây gạo ở bên tay phải.
Gốc gạo xù xì như những củ nâu to dính chặt vào nhau. Thân cây gạo to, kềnh càng vào mùa này không
còn lá. Những đóa hoa gạo cánh to dày mọng nước, mọc đều trên những cành cao. Lâu lâu, một vài cái
hoa gạo đỏ rơi quay quay trong làn gió thổi. Bầu trời trong, nắng gắt oi nồng đưa tiếng chim tu hú côi
cút từ nơi nào về, như từ lưng chừng trời vọng xuống.
Đã đến giữa cánh đồng. Gò Gai ở bên trái. Nơi đó có ngôi mộ của họ nhà tôi. Bên tay mặt là làng Yên
Thôn. Con đường nhỏ quanh co khuất vào đám cây rồi dẫn vào cái cầu có mái che, có miếu thờ. Bên
kia cầu là đền Đỗng Hoa thấp thoáng trong hàng tre thưa lá. Ở đó những buổi chiều có tiếng chuông
vang lên êm ả. Những tiếng chuông của làng Yên Thôn, nhưng dóng lên như chỉ để cho làng tôi nghe.
Vì đền Đỗng Hoa ở tận bìa làng. Tiếng chuông từ đó, qua con ngòi êm ả, tỏa ra cánh đồng, hướng cả
về làng tôi. Tôi yêu tiếng chuông này lắm. Tiếng chuông ấy, từ khi còn bé dại, đã thấm đẫm vào lòng
tôi mỗi khi chiều xuống. Tiếng chuông lành hiền, êm mượt như giọng nói của người Yên Thôn. Yên
Thôn, cái thôn hiền lành, sát làng tôi mà chẳng bao giờ có những eo xèo phiền lụy. Một đoạn đường
nữa là đến ngã tư Giếng Bìm. Rẽ mặt là đường đi qua Tam Thôn, với Cống Cầu Tiên. Đi thẳng là
đường Cao Vòng, đi tuốt ra Cống Đặng. Rẽ trái là về làng tôi, giếng Bìm ở ngay góc trái này. Trai gái
làng tôi đang tấp nập kéo nước quảy về. Tới đây, tôi không còn sợ gì nữa. Ở đây ai cũng biết tôi,
không sợ đứa nào bắt nạt.
Chính chỗ này, cái ngã tư này là nơi các ông chức dịch làng tôi thường túc trực, khăn áo chỉnh tề, để
đón quan huyện mỗi khi quan về kinh lý. Cũng chính chỗ này, khi đám cưới của Cậu Cử, làng tôi đã
dựng một cổng chào để đón, đưa nhà trai. Cổng chào là mấy cây tre buộc vào nhau, gắn những tàu lá
dừa. Bên trên có hình lưỡng long chầu nguyệt tết bằng rơm. Mắt hai con rồng là hai hạt nhãn. Miệng
hai con rồng ngậm hai trái chanh màu vàng. Một tấm vải nâu kết hoa ở giữa buông thõng sang hai bên.
Hai bên cổng chào cắm sẵn những ngọn cờ đuôi nheo ngũ sắc. Một bánh pháo dài được treo ngay giữa
cổng chào. Ông Thủ Phiên mặc áo the, quần trắng, thắt lưng điều, cầm cái tay thước sơn then, đi đi, lại
lại, xếp đặt anh em tuần viên mặc áo ngắn, chít khăn đầu rìu, cầm dáo mác, xếp hàng bên trái, đối diện
với gò đất cao quanh Giếng Bìm, nơi rất đông dân làng tụ họp để đón xem đám cưới.
Từ Cổng Giếng đám cưới xuất hiện, đám tuần đinh thổi ốc tí u, tí u và đánh trống, đánh chiêng inh ỏi.
Ông Thủ Phiên bước những bước ngắn, dáng uy nghi, lo lắng. Khi chiếc xe cao su đi đầu chở Bà, thân
mẫu của Cậu Cử gần tới, ông Thủ Phiên ra lệnh đốt bánh pháo. Tiếng pháo nổ vang rền, khói tỏa mù
mịt, thơm nồng. Cậu Giáo, đi xe thứ hai vội xuống xe, lại vái chào ông Thủ Phiên, nói mấy lời đa tạ và
đưa tặng một mâm lễ vật có phủ vải hồng. Ông Thủ Phiên trân trọng đón nhận mâm lễ vật rồi đưa cho
một người tuần viên cạnh đó. Ông cúi đầu vái chào và nói mấy lời chúc mừng. Cậu Giáo nói mấy lời
đa tạ.
Rồi hai người vái nhau rất là trân trọng.
Sát sau xe của Cậu Giáo là chiếc xe hơi mầu đen, có tài xế mặc áo tây trắng, đội nón lưỡi chai cầm
lái. Cô dâu, chú rể là cô cậu Cử ngồi ở ghế sau. Cậu giáo trở lại xe. Đám tuần viên lại thổi ốc tí u, tí u
và đánh trống, đánh chiêng inh ỏi. Một bánh pháo nữa buộc trên ngọn giáo được đốt lên, pháo tiễn, nổ
tưng bừng. Đoàn xe chuyển bánh trong khói pháo thơm nồng. Khi chiếc xe hơi lấp khuất bên kia Cống
Cầu Tiên, mấy chục chiếc xe cao su, xe sắt của hai gia đình đi đưa dâu vẫn chưa qua hết ngã tư Giếng
Bìm. Toán tuần đinh cuốn cờ, vác dáo mác cùng dân làng tản mạn ra về, bàn tán ồn ào về đám cưới.
Anh tôi dắt tôi về, lòng tôi ngơ ngác như vừa mất một cái gì thân quý, đẹp đẽ, vui tươi và cũng lạ lùng
như hình ảnh trong một truyện cổ không có thật từ một thuở nào xa. Mùi thơm của pháo còn nồng. Xác
pháo hồng tươi còn vương vãi dưới những bước chân đi. Gió đồng vẫn lồng lộng như từ đầm Bùi thổi
qua gò Gai, thổi vút lên trên cả giếng Bìm, rồi thổi lướt trên đồng lúa bát ngát mầu xanh. Gió miên
man như cố đuổi theo đám cưới đã mất hút ở cuối đường mờ nhạt bụi.
Tôi nhớ hình như năm ấy tôi mới bắt đầu đi học.
Bây giờ, bây giờ bao nhiêu kẻ còn người mất, bao nhiêu nỗi thăng trầm, hợp tan khốn khổ. Thoáng
chốc trên nửa thế kỷ đã ào ạt trôi qua...Cậu Cử, người em út cũa Cậu Giáo tôi, niềm hãnh diện và cũng
là hình ảnh mà lũ học trò nghèo nhà quê chúng tôi hướng tới như một ước mơ, một mục đích, cũng
không còn. Sau 1975, với những đoạn đường oan nghiệt trong tay kẻ thắng, nhiều năm sau gia đình cậu
tôi mới đuợc định cư tại Pháp. Tháng năm và thời cuộc khiến tôi có cơ hội gần gũi với Cậu hơn, không
còn xa cách như bao ngày tháng cũ. Trong những lá thư dài cậu gửi cho tôi, nét chữ Cậu viết đã run,
quê hương nghèo đơn sơ và những ngày xa của một sinh viên đầu tiên của Đại Học Hà Nội những năm
ba mươi, bốn mươi, đã quện lẫn vào nhau như một nỗi u hoài, vàng son với đầy nuối tiếc. Như thư của
cô Cử viết “Cậu mất tuổi thọ đã trên 80 mà cô thấy như còn trẻ quá…”
Đám tang Cậu, tôi cũng không dự được.
Tôi có viết một lá thư khá dài bày tỏ nỗi tiếc thương “…một người mà cháu hằng ngưỡng mộ đã
không còn. Thời buổi của chúng cháu đầy những biến động, tang thương, nhưng trong hoàn cảnh
nghiệt ngã ấy, chúng cháu vẫn cố noi theo gương của Cậu Giáo, của Cậu mà anh em cố gắng đùm
bọc nhau, vừa đi làm vừa đi học, và cố làm những điều lành cho những người xung quanh, những
ai khốn khổ hơn mình…”
Cô Cử đã đọc thư của tôi trước bàn thờ, ngày giỗ Cậu, rồi đốt theo những thiếp vàng, và “cô nghĩ là
Cậu đã nhận được và sẽ phù hộ cho anh ...”
Ôi một người thật như thế, đẹp đẽ như thế bỗng biến đi êm ả như một đám mây.
NGƯỜI NGHỆ SĨ LÀNG QUÊ
Chim khôn chết mệt về mồi
Người khôn chết mệt về nhời nhỏ to
(Ca dao)
Ở vào tuổi đã nghĩ đến việc nghỉ hưu, nhiều lúc một mình ôn lại các quãng đời đã trải, xem lại lòng
mình, nghĩ đến bạn bè đủ loại, tôi thấy thật tình cờ, tôi đã có nhiều bạn quý. Người này cho tôi sự
tương thân đầm ấm, người khác cho tôi những quãng đời vui, người khác nữa cho tôi những ngày sinh
hoạt đầy ý nghĩa. Ngay cả rất đông người vừa là bạn, vừa là thầy của tôi nữa. Tôi vẫn thường nghĩ:
Trong lòng ta có bạn mà trong lòng bạn chắc hẳn có ta…. Ý nghĩ đơn sơ ấy đã tạo cho tôi nhiều lúc
thanh thản, thảnh thơi, rất ít khi phiền muộn. Nhưng trong sâu thẳm, là một người nhà quê, sinh ra và
lớn lên trong lũy tre làng, dù đi xa bao năm dài dặc, tôi vẫn thấy thời thơ ấu tại quê nhà đã in vào lòng tôi sâu đậm nhất. Chắc chắn đó là một lẽ rất riêng, rất thiên kiến, mà nó là thế trong tôi. Trong quãng
đời thơ ấu ấy tôi có một người bạn nhà quê, nhiều lúc tôi đã quên, nhưng bây giờ sau chuyến về thăm
quê cũ, tôi nhớ người đó nhất. Và người đó, chính người đó đã cho tôi nhiểu nhất. Nghĩ cho cùng, tôi
phải cám ơn người ấy.
Người ấy đúng là người nhà quê, ít học ở trường. Tôi không nhớ người ấy học đến đâu, chắc là không
qua lớp Dự Bị, chỉ biết đọc chữ quốc ngữ thôi, rồi bỏ học, ở nhà. Nhà nghèo nhưng không vất vả lắm,
anh ta (tôi gọi như thế cho gần với tuổi trẻ của anh), sống giữa thôn làng, sống đắm mình trong lũy tre
và lớn lên ở đó. Lúc bé, trên dưới 10 tuổi, sau các giờ đi học, tôi tìm đến nhà anh. Anh làm cho tôi cái
diều thật khéo. Anh biết điều chỉnh sợi dây máy cho diều lên cao. Anh biết gọt miệng sáo cho tiếng
sáo vang vọng. Và những buổi trưa hè, mùa nắng chảng, anh rủ tôi đi câu. Mọi sự anh đã sẵn, từ đào
run, rang cám, cần câu…đủ hết. Anh kéo tôi đi qua những thửa vườn, rồi chui vào bụi rậm ở bờ ao,
câu trộm cá của ao nhà người khác. Ngồi trong bụi rậm, anh bảo: “Câu trộm mới thích. Mà đằng ấy
tưởng ao nhà đằng ấy không có đứa câu trộm à…” Vâng, quả đi câu trộm vừa có cái sợ, sợ chủ ao bắt
được, nhưng lại có cái thích của sự mạo hiểm của trẻ con. Anh ấy nói: “Đấy cái bọt lăn tăn kia là
anh cá diếc. Cái phao lỉm dỉm kia là anh cu tôm đến rỉa mồi. Phao chúi đầu một cái, rồi lại nổi
lên, nổi lên một chút rồi lại kéo đi thun thút, ấy là cách phàm ăn của anh cá rô. Ấy, cái tăm to như
hột nhãn là tăm của anh cá chắm. Cẩn thận nhé, cá lớn, cần yếu lưỡi nhỏ, đừng có giật vội mà
mất, cứ thả dài dây ra, mặc cho nó quẫy, quẫy chán đi, mệt là lúc ta kéo lên…” Tôi khoái chí vô tả
khi cầm trên tay cái cần câu mà cảm thấy lũng nhũng, nằng nặng vẫy vùng của con cá dưới nước.
Khoái lắm. Khi giựt lên, con cá kêu lạch sạch, vây, đuôi múa, quạt tứ tung. Anh lại bảo: “Cẩn thận
nhé. Nhể lưỡi câu ra cho khéo kẻo lưỡi câu móc vào tay, và cầm cho khéo kẻo cá nhảy xuống ao
mất nhá…”
Lớn hơn chút nữa, tôi vẫn đi học, anh ta ở nhà vừa giúp việc nhà, vừa quanh quẩn rong chơi. Những
khi làng vào đám, anh ta hay lắm. Trước sân đình, đồ tế tự uy nghi, tàn lọng rợp mắt. Các quan viên áo
thụng xanh tề tựu ở cuối sân. Bên kia tả mạc, phía của đàn bà con gái đã chật ních. Bên này, hữu mạc,
dành cho đàn ông, con trai, chật hơn, vì còn phải chừa gian giữa để cụ Thiếu ra chủ lễ. Cụ Thiếu, vị
quan đại thần, tiên chỉ của làng. Khi mọi việc đã tề tựu, cụ mới từ nhà ra. Cụ đi xe tay, có người lính
lệ mặc áo nẹp xanh, đội nón chóp, kéo. Đi trước xe tay, có mấy người vác mấy ngọn cờ và một người
đánh cái trống khẩu: tung tung. Xe vào sân đình, cụ bước xuống. Cụ mặc áo gấm tía, đeo thẻ ngà, đội
khăn xếp. Theo sau cụ có mấy anh lính lệ khiêng hòm khăn áo. Cụ được mời ngồi trên chiếc chiếu cạp
điều. Các vị chức dịch đứng quanh khép nép. Khi ông thủ phiên đương cai, mặc áo the, quần trắng, thắt
lưng điều bó que, cầm cái tay thước sơn son thiếp vàng, đến trước mặt cụ Thiếu, thưa: “Trình quan
lớn. mọi lễ vật đã sẵn sàng…” Cụ cười “ừ!” Rồi cụ thay áo đại trào vua ban, đội mũ cánh chuồn, hai
tai mũ nghênh ngang hai bên vai. Cụ hỏi thêm vài câu cho có lệ:“Thế ai viết văn tế năm nay…Ai đọc
văn tế hôm nay…” Sau đó cụ vuốt râu, nhìn ra sân đình. Cảnh trí thật là uy nghiêm. Cụ nói: “Được.”
Thế là ông thủ phiên đưa cao chiếc tay thước, lộ cái ngù vàng buông thõng, biểu hiệu của sự bắt đầu.
Từ góc đình trên một bục xây, có lọng che, ông Tây xướng giơ cao áo thụng ngang mày, hô: “ Khởi
trình cổ…” Lời hô vang đi. Lập tức, ở hai góc sân đình, hai người mặc áp nẹp đỏ, đội mũ bọ hung,
gióng lên một hồi trống lớn, cùng với tiếng chuông: tùng bi, tùng bi…Sau đó ông Đông xướng hô:“Củ
soát lễ vật…” Cả lể trường im phắc. Từ trên cao, ở hậu cung hai anh xã từ, quần áo đỏ, khăn đỏ,
miệng bịt khăn đỏ, đi lại thấp thoáng, xem lại lễ vật và thắp nến trên các đài nến ở trên cao. Ngoài sân
đình, một cụ già, áo the khăn xếp, cũng xem lại hương nến, thắp một tuần nhang mới. Sau đó ông Tây
xướng hô: “Cử nhạc”. Tiếng hô vừa dứt, từ bên sân tế, đứng sau lớp bát bửu óng ả thiếp vàng, anh
bạn tôi mặc áo the, thắt lưng nhiễu điều, cùng mấy người nữa, cất lên tiếng trống, tiếng thanh la thật
đều: rập cheng dình, rập cheng dình...Tiếng trống con rộn rã do anh bạn tôi đánh, hoà với tiếng trống
nhỡ do một người khác, tiếng thanh la…Trống mà rộn rã như đàn. Tiếng to tiếng nhỏ, tiếng giữa mặt
trống, tiếng bên rìa gần tang. Và cả tiếng lách cách thật vui, thật hay, thật nghiêm trang. Tôi đứng chen
lẫn trong hữu mạc nhìn ra, thấy anh bạn tôi sao oai quá, tài quá. Cuộc tế tự từ hồi trống của anh mới
thực sự bắt đầu. Và cứ mỗi lần các ông Tây xướng, Đông xướng hô lên, các vị quan viên lễ xuống, anh
bạn tôi và các người đánh trống lại đánh một hồi trống. Mỗi hồi một khác. Suốt mấy tiếng đồng hồ của
cuộc tế tự, tiếng trống của anh vẫn nghiêm chỉnh, không sớm, không muộn chút nào. Chỉ đến khi dẫn
rượu, phường bát âm thong thả đi lên đình, tấu nhạc là đoàn trống của anh bạn tôi mới tạm ngưng. Sau
đó tiếng trống của anh lại làm chủ cuộc tế. Tôi theo dõi cuộc tế thì ít mà theo dõi đôi tay tài hoa của
anh thì nhiều.Tôi phục anh quá. Khi cuộc lễ chính hoàn tất, cụ Thiếu trong phẩm phục đại trào, đi hia,
đội mũ cánh chuồn bước ra lể Thánh. Phía sau là các vị chức dịch, tất cả đều lần lượt vào lễ. Sau chót
là các người trong ban âm nhạc gồm các người đánh trống, đánh chiêng, và cả mấy cô nhà trò bỏ bộ,
cùng vào lễ. Anh bạn tôi ở trong nhóm người này.
Khi tan lễ, mọi người đi xem như tôi, lần lượt ra về. Riêng anh, anh được mặc áo the, thắt lưng nhiễu
điều như các quan viên khác khi vào lễ Thánh. Anh oai thiệt. Tôi thèm vai trò của anh quá. Tôi đợi
anh ở gốc cây đa mõm ngựa. Anh ra, vẫn mặc áo the, nhưng đã cởi chiếc khăn điều vắt lên vai, cười
vui, rõ ra là một người vừa “hoàn tất một vai trò quan trọng mà vẫn bình dân…” Nhiều người nhìn
anh. Các cô gái nhỏ nhìn anh. Anh chỉ nhìn qua rồi chạy lại phía tôi:“Tớ cho đằng ý cái khăn nhiễu
này đấy.” Anh quàng cái khăn nhiễu điều, lễ vật của làng dành cho những người có chức việc, cho tôi.
Tôi cảm động lắm, quàng vào quanh cổ, rồi thấy “thế nào ấy”, tôi trả lại anh: “Trả lại đằng ý. Phải
mặc áo the, cuốn khăn nhiễu điều mới đẹp…”
Lớn lên chút nữa, anh tập kéo nhị. Anh tập hồi nào tôi không biết. Một hôm, sáng trăng, anh đem nhị ra
sân đình, có cả một lũ bạn bè cùng tuổi, trong đó có tôi. Anh nói: “Để tớ kéo cho đằng ý nghe.” Anh
ngồi xuống, lấy cái nhị ra. Một chân anh đè lên cái nhị bằng ngón chân cái ở cái bầu như quả dưa nhỏ.
Tay phải cầm cần kéo, tay trái, những ngón tay chạy lên chạy xuống nắn trên hai dây tơ. Tiếng nhị nỉ
non, uốn éo, não nề. Tôi hỏi:“Bài gì vậy?” Anh bảo: “Bài này là bài bình bán. Còn bài tớ sắp kéo
là bài tứ đại cảnh… khó lắm, tớ mới học đuợc có vài bài.” Dưới ánh trăng mờ như sữa loãng, gió
mát, trên cao cành lá đa đùa trong gió lách cách. Tôi nhìn không rõ mặt anh, chỉ thấy anh nghiêng đầu,
lắc lư theo điệu nhạc. Còn bàn tay trái của anh, các ngón khi thì quơ ra, lúc thì cụm lại trên cần cây
nhị. Tôi ngẩn ngơ theo điệu nhạc. Tôi hỏi: “Sao đằng ấy tài thế…” Anh ta chỉ cười và lâu mới nói:
“Tại cái hoa tay…”.
Sau này khi ra Hà Nội học, tôi nhớ quê nhà quá và nhớ đến anh nhiều nhất. Khi chiến tranh toàn quốc
bùng nổ, tôi phải về nhà quê, lại có nhiểu dịp gần gũi anh. Bây giờ anh là nhi đồng, tôi cũng là nhi
đồng. Xưa anh đánh trống tế đã hay, bây giờ anh đánh trống ếch cũng hay lắm, từ nhịp ba qua nhịp sáu,
anh đánh trống con rất giòn. Anh đóng kịch cũng hay, hát các bài ca mới rất chóng. Lúc ấy, anh hơn tôi
cỡ vài tuổi, đã có nhiều cô bạn nhi đồng mua bánh bột tẻ cho anh ăn mỗi khi đi cắm trại dừng lại các
quán giữa đường. Lần nào như thế anh cũng chia cho tôi.
Các ngày vui của đoàn nhi đồng không lâu, Tây tràn về, mọi thứ giải tán hết. Làng tôi qua bao lộn xộn
lại đặt dưới quyền quản trị của Hội Đồng Hương Chính, thay cho Uỷ Ban Hành Kháng Việt Minh. Lúc
ấy dù chưa đến tuổi 20, anh đã lấy vợ. Vợ anh người cùng làng, một trong số cô nhi đồng đã mua bánh
tẻ cho anh ăn. Và lúc ấy, tôi lại ra Hà Nội học. Mỗi lần về quê chơi, tôi lại tìm gặp anh. Bây giờ anh
làm nghề hớt tóc, một nghề tương đối nhẹ nhàng và là nơi biết nhiều chuyện nhất. Có hôm anh đến gặp
tôi, lúc tôi vừa ở Hà Nội về, anh bảo: “Nên ra tỉnh đi. Đêm không nên ở nhà…” Tôi hiểu, nên vừa
về nhà chơi, lại đạp xe ra Phùng, ra Hà Nội trở lại. Thời gian này cuộc chiến Việt – Pháp đã đến lúc
gay go. Chính thời gian này các hoạt động của “phiá bên kia” đã ngấm ngầm có mặt khắp nơi. Làng tôi,
ban ngày là Quốc Gia, ban đêm cán bộ Cộng Sản hoạt động gần như công khai. Đám thanh niên tân học
như các anh tôi, các nhà có máu mặt ở Hà Nội cả và bắt đầu phải động viên, đi lính. Tôi cũng bắt đầu
lo về việc này. Tôi quyết định đi Nam. Tôi về nhà lần chót chào anh cả tôi, từ giã các em, thắp hương
lên mộ thầy mẹ tôi để đi Nam. Tôi không cho ai biết, anh ta tôi cũng giấu.
Tôi về buổi sáng, độ 2 giờ tôi lại ra đi. Tôi đạp xe đi lối tắt qua Nghĩa Đàn. Nghĩa Đàn, nơi làng tôi
thu nhặt hài cốt từ mấy ngàn ngôi mộ vô chủ bao nhiêu đời, xếp chung vào một nơi, và lập Nghĩa Đàn
để có nơi hương khói. Nghĩa Đàn vì thế rất thiêng. Tuy Nghĩa Đàn chỉ cách cầu Chợ không xa, nơi
buổi trưa người đi làm ruộng lên ăn uống, nghỉ ngơi rất chật mà không ai dám ghé. Ở đó, Nghĩa Đàn,
gió thổi hiu hiu, lạnh ngắt qua các khe hoa văn. Đôi khi có con rắn vào nằm khoanh trước bàn thờ.
Người vào lễ rón rén thắp hương rồi đi ra, con rắn vẫn nằm đó. Lát sau quay lại, con rắn đã đi đâu
mất. Người ta bảo đó là rắn thần. Vì là nơi vắng vẻ, có người đã lẻn vào treo cổ tự tử nên Nghĩa Đàn
mỗi lúc mỗi kinh sợ và càng trở nên linh thiêng hơn. Cả làng tôi vẫn nhắc chuyện ông Đỗ Văn Đô hiển
linh. Lâu rồi, có người phu xe chở sợi. Khi trở về, trời đã nhá nhem, từ Phùng về làng Nủa, qua Nghĩa
Đàn, gặp một người ăn mặc lịch sự xưng tên là Đỗ Văn Đô, bảo kéo về quê vợ ở Quai Chè cùng
đường đi Phùng. Bác phu xe cắm đầu kéo, trời mỗi lúc mỗi tối, lúc thấy nặng, lúc thấy nhẹ, và thỉnh
thoảng thấy có luồng gió lạnh từ phía sau thổi tới. Tới Quai Chè, đỗ lại, khách trả mấy hào bạc. Hôm
sau đem mấy hào bạc ra xem, hoá ra là mấy cục đất. Anh ta khiếp vía và hỏi ra mới hay ông Đỗ Văn
Đô đã mất từ lâu.
Tôi ra Hà Nội để đi Nam và là chuyến đi chưa biết ngày trở lại. Quá trưa, đồng vắng, tôi qua đó, phải
xuống xe, vì có cái rãnh và trước Nghiã Đàn có hai chữ Hạ Mã, tức là xuống ngựa, xuống xe. Tôi
xuống xe và mong “phiá bên kía” không ai biết tôi sẽ đi Nam. Nếu họ biết, chắc phiền phức lắm. Vừa
xuống xe, trước mặt có một người từ Nghĩa Đàn bước ra, tim tôi đập mạnh: Họ đón mình ở đây ư? Tôi
nhìn lên, hoá ra anh ấy. Anh bạn thân nhà quê của tôi. Anh mỉm cười, vịn tay lái xe đạp của tôi và nói:
- Đằng ý chuyến này đi xa mà…
Tuy là bạn thân, tôi cũng không dám nói thật:
- Ai bảo đằng ý thế?
Anh bạn tôi cười, vỗ vai tôi, nói:
- Ai không biết, chứ đằng này phải biết.
Rồi anh bạn tôi cười và tiếp:
- Đằng ý đi là phải.
- Sao lại phải?
- Phải chứ. Theo cán bộ họ nói, cuộc đánh nhau này sắp đến ngày kết thúc. Lúc ấy khi đánh Tây đi rồi,
là lúc thanh trừng các thành phần phản động, trí, phú, địa hào…
- Mà tôi là con nhà nghèo mà.
Bạn rôi cười :
- Nhà đằng ý nghèo thật. Ruộng chả có, nhưng nhà bác đằng ý giẩu. Giầu lại có tiếng, tuy không làm
quan, nhưng mà quen biết rộng, nói lên có lắm người nghe.
- Còn tôi, anh em tôi?
- Đằng ý con nhà nghèo mà lại được ra Hà Nội học. Học cả tiếng Tây, là có ý sẽ làm cho Tây. Anh
đằng ý đã làm quan Hai.
- Nếu tôi ở lại?
- Ở lại cũng chẳng được. Họ đã quy thành phần rổi.
Chúng tôi đi bộ vừa trò chuyện. Giữa đồng lúa vắng lặng quá, nếu có mấy anh du kích hiện ra, thật
phiền. Anh bạn tôi tiếp:
- Đằng ý đi xa, đằng này biết, biết mà chỉ để bụng thôi. Đằng này không dám đến nhà tiễn, mà đằng ý
cũng chẳng thích như thế, phải không nào?
Tôi cười. Anh ta tiếp:
- Thấy bà chị đằng ý sửa lễ cơm mới đem ra cúng ở bàn thờ Đức Ông, là đằng này biết chứ. Và biết,
mà vẫn là bạn của đằng ấy, nên tớ đón đằng ý ở đây để gọi là tiễn nhau một khúc đường.
Tôi nhìn quanh đồng lúa vắng lặng. Anh ta tiếp:
- Chả có gì phải ngại. Cứ để tớ đi tiễn cho đến giáp ranh đồng làng Núc. Từ đó đằng ý đạp xe ra
Phùng chỉ độ 45 phút mà thôi, ra Hà Nội còn sớm chán…
Tới địa phận làng Núc, chúng tôi bắt tay nhau, anh ta nói:
- Cứ đi đi. Có ở lại cũng chẳng được đâu. Mỗi người mỗi cảnh. Lúc nào đằng ý cũng vẫn là bạn của
đằng này. Thôi đi cho tốt nhé. Có cơ hội thì viết thư về…
Tôi lên xe, đạp thẳng. Đến con đê Hiệp cao, tôi dừng xe, đứng nhìn về, vẫn thấy anh bạn đứng nguyên
chỗ cũ. Hình anh như cái chấm đen in trên đồng lúa xanh. Gió thổi miên man. Tôi nhìn về cuối chân
trời, làng tôi ở đó. Rặng tre đen xa, mấy ngọn đa cao nổi lên. Ở đó là đường lên chùa, là các nơi hội
hè, đình đám. Ở đó, có lúc anh ta đã tặng tôi cái khăn nhiễu điều, anh ta đã kéo nhị…
Tôi giơ tay vẩy tay chào. Xa quá, anh ta chả nhận ra đâu. Tôi đứng đó một lúc lâu, mới lên xe xuống
bên kia đê Hiệp. Từ đó hình ảnh làng cũ mất hẳn. Người bạn tôi cũng chìm đi, không biết có còn đứng
đó hay đã đi về rồi. Đó là hình ảnh cuối cùng tôi có với anh, với quê nhà làng cũ từ 40 năm xưa.
Sau này, sau 1975, khi đã liên lạc với anh em, làng cũ, tôi có hỏi thăm anh. Anh cũng hỏi thăm tôi.
Trong đám cưới cháu tôi ở Hà Nội, chụp hình tất cả mọi người có mặt, anh tôi có ghi: “Người đội mũ
dạ đứng sau, có dấu X là ông N., bạn nhi đồng của chú đấy. Ông ta vẫn nhắc đến chú luôn.” Cháu
tôi thì viết:“Bác nên cố về thăm quê cũ. Như bác Hai, tuy tuổi chưa cao mà bạn bè cũ chẳng còn ai.
Ông Tào Mạt cứ mong có lúc được gặp bác Hai và bác mà không được, ông ấy đã mất rồi. Trước
khi ông ấy mất, may mà còn nhận thư và quà của hai bác… Ông N., bạn của bác từ lúc còn nhỏ.
Lúc nào cũng nhắc đến bác…Có lẽ bạn bè cũ tại quê nhà của bác, cứ như mẹ cháu nói, thì chỉ còn
ông ấy mà thôi. Bác nên cố thu xếp về thăm quê một chuyến. Tất nhiên là mẹ cháu, già cháu và bác
Cả cùng cả nhà sẽ mừng lắm. Làng xóm lúc này, bình tâm nhớ lại cũng mong được thấy bác về. Mà
lúc này người nước ngoài về quê chơi cũng đã nhiều, không phải là ít người từ Mỹ về. Bác cứ về,
cả nhà mong đợi.”
Bây giờ sau 40 năm xa quê cũ, tôi và vợ tôi nhất định trở về. Về để thăm lại anh, thăm lại em và làng
cũ. Về để thắp hương lên phần mộ song thân. Tôi lo lắng, tôi bồi hồi đã đành. Anh em tôi tại Hà Nội,
tại quê nhà cũng bổi hồi không kém. Trước khi về tôi có viết thư căn dặn: “Xin giới hạn người đi đón
tại phi trường, chỉ có anh em ruột thịt mà thôi.” Điều ấy anh em tôi đã làm đúng. Nhưng khi về quê
thì anh em tôi không thể làm được. Dù có nhắc, cũng không ai cản được anh em, chú bác, bạn bè ra
đón. Trong phút bồi hồi cảm động đó, tôi đã nhìn thấy anh ấy. Anh ấy đội cái mũ dạ, người gầy, đứng
xa xa. Tôi chạy lại. Anh ôm tôi và nói: “Sau 40 năm bây giờ mới gặp được ông.” Tôi nhớ đến lối
xưng hô ngày cũ, nên nói: “Đằng ý vẫn như thế nhỉ?” Chúng tôi cùng cười với nhau.
Và từ phút ấy, trong lặng lẽ “đằng ấy” lúc nào cũng có mặt quanh tôi. Tôi nói với ông ta: “Tôi sau 40
năm mới trở về, lòng ngổn ngang xúc động, Ông thấy cái gì nên, cái gì không nên phải nhắc tôi
đấy nhé…” Ông ta tặc lưỡi nói:“Khỏi phải nhắc, tốt cả. Có gì tôi đã nói.” Suốt 3 ngày, 2 đêm ở lại
quê nhà, lúc nào ông ta cũng quanh quẩn bên tôi. Ban đêm. Lúc mọi người về hết, nhìn lại, ông ta nằm
dài trên cái ghế ở phỏng khách. Tôi đi lại, ông ta nhổm dậy, nói: “Thế còn thức hở?” Đêm đã khuya,
tôi và ông ta ngồi ở hàng hiên, tôi lại hỏi: “Liệu có gì phiền không?” Ông ta cười: “Yên chí mà, tốt
cả.”
Một lúc khác, lúc đã đi thăm mộ thầy mẹ tôi về xong, đi lại trên con đường cũ, con đường 40 năm xưa
tôi đã đi, ông bạn tôi đã đi. Trước mặt là Nghĩa Đàn còn đó. Ông ta nắm bàn tay tôi, nói:“Đằng ý đi
như thế cũng là lạ. Bây giờ đằng ý là người của thế giới mà…” Tôi cười, hỏi:
- Sao lại là người của thế giới?
- Thì đằng ý đi các nước. Lúc thì nói trên đài Vê Ô A, khi thì nói trên đài Bê Bê Xê.
Tôi hỏi:
- Sao ông biết?
- Thì cả hàng xứ biết. Cả làng này biết cái vụ ông lo đi cứu thuyền nhân đó mà.
Tôi “ồ” và nói:
- Thực ra chỉ ở Mỹ mà điện thoại thôi, ít khi phải đi đến các nơi đó.
- Thế mà ở đây nghe rõ mồn một.
Chúng tôi nắm tay nhau đi trên đường cũ. Tôi hỏi:
- Thế ông bây giờ làm gì ?”
- Thì có lúc làm trong ban văn công, lúc thì cắt tóc, sống nhì nhằng.
Lúc ấy cháu tôi đi cạnh, nói :
- Dạ thưa bác, ông N. hiện sống ở bên Chàng. Ông có bà ba ở đó, ít khi về làng. Hôm nay nghe bác về,
ông N. mới về lại.
Tôi hỏi:
- Sao vậy?
Ông ta cười. Nụ cười lạnh, rồi tiếp :
- Ờ, tại cái số nó thế!
Bây giờ đã đến Nghĩa Đàn. Cái miếu xưa linh thiêng, ghê sợ như thế, nay vẫn y như cũ, có phần cũ kỹ,
rêu mốc và thảm đạm hơn xưa. Tôi ngó vào. Vẫn có bức mành mành treo giữa gian trong và gian
ngoài. Không biết có con rắn nào nằm trong đó không. Cái xà cao phía trong đen, chắc nịch còn đó,
nơi năm xưa có người vào đó thắt cổ tự vận. Chúng tôi đi qua mà như vẫn nghe thấy tiếng gió thổi ù ù
ở mấy lỗ hoa văn bên hông tường ngôi miếu. Chúng tôi đi thăm những ngôi mộ khác. Những nén hương
nối nhau tỏa khói đây đó, và mùi thơm thoảng trong gió mát. Đồng lúa vẫn xanh ngắt mênh mông.
*
Cuộc vui càng về khuya càng ý nhị. Cô em họ tôi hát thật hay, nhưng hát một mình nhiều quá, cô nói:
“Hát nữa cũng được, nhưng hát một mình không vui, có ai hát bè, hay hát dậm mới vui…” Mọi
người vỗ tay kêu “phải” và yêu cầu ông bạn tôi hát phụ. Vẻ mặt vẫn lặng lẽ, ông ngồi nhích ra chỗ ánh
sáng, hất hàm nói:
- Cô hát trước đi.
Cô em họ tôi lại hát, hát Quan Họ.
- Người ơi, người ở đừng về
Người về em những phập phồng
Hai bên vạt áo ướt đầm như mưa
Người ơi, người ở đừng về…
Ông bạn tôi cất giọng :
– Người ơi, người ở đừng về
( Có người nói: Thế chứ lỵ )
Người về anh nhắn lời này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua
Người ơi….”
Giọng của ông ấm mà xa vắng thế nào.
Ông lại tiếp:
- Chim khôn chết mệt về mồi
Người khôn chết mệt về nhời nhỏ to
Người ơi, người ở đừng về…
Cuộc vui mãi cũng tàn. Ông bạn tôi vẫn ở lại với gia đình chúng tôi. Gió đêm đã lạnh Trong lúc mọi
người sửa soạn nhà cửa, lo chỗ ngủ, tôi và ông bạn cũ, kéo nhau ra ngồi ở bậc thềm trước nhà. Đêm
sâu thẳm.
Tôi hỏi:
- Sao ông lại ở tận bên Chàng, ít khi về làng?
Một hồi lâu ông mới nói, nói nhỏ đủ hai người nghe:
- Ừ, tôi ở bên đó với dì ba nó.
- Dì ba ?
- Là cô vợ ba của tôi. Nói ra dài lắm. Tội nghiệp con nhỏ. Nó còn thua con gái tôi vài tuổi.
- Vậy đó?”
- Thìcũng là cái số nó thế. Và cũng tại ba cái bài Quan Họ mà ra “
- Thế ư?
- Thì nó hát Quan Họ”
- Và ông hát dặm! Tôi nói đùa.
- Thì thế. Lúc đầu chỉ là vui thôi. Khi đã vập vào rồi, bỏ thì thương, vương thì tội”
Nhớ tới ngón nhị tài hoa ngày cũ, tôi hỏi :
- Chắc ngón nhị của ông bây giờ tuyệt lắm?
- Thì… cũng như mình cầm cái lược, cái kéo trên tóc người ta, tay mình bao nhiêu năm nắn trên đôi
dây cái nhị thì nó phải nhuyễn, phải ý nhị chớ…”
Lại nhớ đến cái khăn nhiễu ngày cũ, sau cuộc tế đình, ông quàng vào cổ tôi mà nói “Tớ cho đằng ý…”
Tôi vào nhà lấy bộ quần áo màu tím than, còn rất mới, để trong túi áo một chút quà, đem ra.
Tôi khoác cái áo vào vai ông và nói:
- Ông giữ lấy mặc cho ấm.
Ông so vai, xốc lại cái áo, ra ý vừa lòng, rồi đứng lên vào phòng trong soi gương. Một lát ông đi ra
nói:
- Đẹp, Đẹp quá. Cái tay có khí ngắn, mà lo gì sửa một tị là được.
Ông ngồi xuống, nói nhỏ:
- Món quà ông cho bằng hai ba tháng cắt tóc của tôi.
Tôi lái sang chuyện khác. Tôi hỏi:
- Ông ở bên đó bao lâu rồi ?’
- Cũng lâu ạ. Gần xịt thế mà nhiều lúc nhớ làng quá ông ơi
- Thì về.
- Về thì có khó gì, nhưng cũng nhiêu khê lắm, ngại lắm.
Nói tới đó ông ngồi lặng im. Trời đêm đen thẳm. Ngang trời như có đàn chim nào bay qua, buông tiếng
kêu rời rã. Ông bạn tôi nói:
- Ở bên đó, những đêm trời trở gió, cò trắng ở đâu về đậu kín các cành tre. Ngọn tre cúi đầu vật vã…
sao mà nhớ vô tả. Lại như ngày hết, tết đến, đêm về. Ở bên ấy dân thưa, đèn đóm leo lét mà nhớ cái
cảnh đèn đóm như sao xa của làng mình rập rìu đi đòi nợ cuối năm. Nhớ quá ông à. Ông nhớ chứ. Để
tránh cho những người mang công mắc nợ, không dám xuất đầu lộ diện tối 30 tết nên các cụ làng mình
có cái lệ là cúng giao thừa sớm. Mới độ 9,10 giờ đêm, các cụ đã cúng. Khi nghe tiếng trống cúng nổi
lên từ đình, là các nhà mang công mắc nợ, nằm đâu đó trong nhà, vội vã đốt lửa lên. Thế là Năm Mới,
Năm Mới, ai đòi nợ là ta đánh gãy chân, vì “định trù ếm, giông suốt năn sao?’ Ông à, bao nhiêu năm
tôi đánh cái trống ấy. Tôi đánh trống mà biết có bao nhiêu người làng lắng đợi, để mừng, để đón xuân
về. Vì thế ông ơi, ở bên quê vợ, lạ cảnh, lạ người, trời đất cứ u u, minh minh, nghe tiếng trống ở làng
nhà vọng lại, lòng tôi xốn sang vô tả.
Nghe bạn nói lòng tôi cũng bồi hồi. Mà so ra, nỗi bồi hồi của tôi bao nhiêu năm xa quê, có lẽ bớt xót
xa hơn nỗi xót xa của ông bạn cũ. Tôi nói:
- Ông nên thu xếp mà về lại làng cũ đi”
- Thì tôi cũng định mà…
Nói tới đó ông im bặt. Tôi như thấy ông thở dài.
Rồi ông nói :
- Thôi, đi nghỉ đi. Tôi cũng mệt.
*
Sau chuyến về thăm quê đầy xúc động và quá bận rộn, tôi mất sức quá nhiều. Trở lại Hoa Kỳ, tôi lại
phải đi làm ngay. Công việc chờ đợi, liên tiếp 2 tuần lễ, mỗi ngày tôi làm từ 10 đến 12 giờ. Về đến
nhà là nằm lăn ra, chỉ muốn ngủ mà không ngủ được. Tuổi đã lớn, tôi có chứng bệnh thong phong, phải
ăn kiêng tránh các món bổ dưỡng như thịt bò, đồ biển…Ăn các thứ đó vào, ít thì không sao, nhiều một
chút là ngón chân cái xưng lên, đau nhức, không ngủ được. Để trừ sự đau nhức này, tôi phải uống
thuốc, mỗi ngày một viên. Như thường lệ, sau bữa cơm, tôi uống một viên. Vừa uống xong và đi cầu.
Vào nhà cầu, tôi ngã ra, không còn biết gì nữa. Khi toán cấp cứu tới, người nhà nói lại, họ bảo áp xuất
máu của tôi chỉ còn chưa đầy 40. Do đó họ đưa thẳng tôi vào nhà thương. Giữa lúc ấy thần khí tôi đã
thoát ra ngoài thân thể. Tôi không đau đớn gì, dù toán cấp cứu bóp, chích vào thân thể tôi. Mà lạ thay,
trong cái phút kỳ lạ đó, tôi nhớ lại hết mọi chuyện của cả một đời người, và đặc biệt tôi thấy ông bạn
nhà quê của tôi. Thấy thật rõ. Ông nhìn tôi buồn bã.
Nghỉ mấy ngày cho lại sức, tôi đã đi làm lại. Và chỉ mấy ngày sau, tôi nhận được thư từ quê nhà như
sau:“Một tin không vui. Ông N. đã chết, thắt cổ tại Nghĩa Đàn…” Tôi buông tờ thư, một hồi lâu mới
đọc tiếp. Các dòng chữ nói về những chuyện khác. Tôi đi ra sân cho thoáng, nhìn trời đêm mà lòng
bàng hoàng chưa dứt. Sau đó, thư khác cho hay “… Ông N. có tất cả 3 bà. Ông bỏ bà vợ đầu người
làng. Lấy bà hai người ngoài Thày, có mấy mặt con. Ông lại không ở được với bà hai. Lấy bà ba,
cô này trẻ hơn con gái của ông, mà không con. Bao nhiêu năm nay ông không về làng. Hôm bác về
chơi, ông trở lại và là ngày vui của ông ấy đấy. Ông đã dành dụm được một số tiền kha khá, định
sẽ về lại làng, dựng căn nhà nhỏ sống với bà ba. Mà các con cái của bà hai nỉ non sao đó, ông gửi
số tiền ấy cho con. Lúc hỏi ra, số tiền ấy đã được đem đi làm việc khác, đòi không được, vô
phương. Buồn và bực quá, ông ta vào Nghĩa Đàn treo cổ, tự vận.. Bộ quần áo mà bác cho đẹp quá,
ông ta chưa mặc lần nào…”
Tôi tần ngần mãi về tin này. Không biết nỗi tuyệt vọng của ông xẩy ra trước khi tôi gặp lại ông hay sau
đó. Nếu sự việc xẩy ra trước đó thì quả ông đã cố gắng vô cùng, ông đã dành cho tôi quá nhiều ưu ái.
Nhưng dù thế nào, đó là một điều chua xót, mà trong nỗi chua xót ấy, tôi thấy tôi đã nợ ông một tấm
lòng.
Trong bóng đêm yên lặng nơi đất Mỹ, tôi thắp một nén hương lên bàn thờ Phật. Tôi đứng lặng nghĩ tới
hình dáng người bạn cũ đã có với tôi bao nhiêu kỷ niệm…
Về Thăm Mộ Bạn
(Tặng Người Nghệ Sĩ Miền Quê)
Ta, ông già tóc trắng
Lặng đứng, nắng chiều nghiêng
Khói hương bay lả tả
Bên nấm mộ cỏ vàng
Bạn nằm đây hở bạn
Có nghe chuông chiều buông
Đàn chim về sải cánh
Giữa bầu trời mênh mang
Bạn nằm đây hở bạn
Có nhớ tiếng trống vang
Lòng đình Tết lấp lánh
Câu đối và đèn nhang.
Bạn nằm đây hở bạn?
Xuân đến trống chèo rung
Đánh thức hàng tre cũ
Tưới mát mặt ao buồn.
Bạn nằm đây hở bạn?
Đâu tiếng nhị nỉ non
Từ lòng tay của bạn
Quằn quại khi nắn buông
Bạn nằm đây hở bạn?
Hồn làng những đêm sâu
Rừng người như miếng thạch
Đậm giọng ngâm ngọt ngào.
Bạn nằm đây hở bạn?
Ôi tiếng hồ thở than
Kinh Kha hề, sông Dịch
Vua Tần hề, kinh hoàng.
Bạn nằm đây hở bạn?
Ôi mắt ai như gươm
Thướt tha giải yếm thắm
Tóc cài hoa nhài thơm.
Bạn nằm đây hở bạn?
Có nhớ thuở thiếu niên
Trống ếch khua rộn rã
Tiếng quân hành ngân vang.
Bạn nhớ không thời loạn?
Tây về bắn, đốt làng
Du kích đêm xuất hiện
Bắt người đi mất tăm.
Sống chết như sợi tóc
Làng xóm ngập buồn đau
Nhớ nhau đành cách biệt
Quê hương, ôi ngàn thương.
Bạn nằm đây hở bạn?
Tôi vượt vạn dặm đường
Về tìm mà chẳng gặp
Gửi lòng qua khói hương.
Bạn nằmđây hở bạn?
Đất cũ gửi thịt xương
Nắng mưa chừng vẩn thế
Bạn ơi, thôi ngủ yên.
Quê hương nhoè trong mắt
Mỗi bước mỗi đoạn trường.
Có tiếng chim lảnh lót
Cao vút giọng bi thương.
Tan vào từng trời rộng
Hồn ai trong tiếng chim.
(14 tháng 5 năm 2006)
SOÁI NHAM
Dưới ánh đèn đất xanh ngắt, mọi khuôn mặt của đám đông nhợt nhạt, chìm đắm theo lời hát.
Anh bộ đội lim dim đôi mắt, lùi lại một chút, đưa bàn tay ra phía trước, cất cao giọng:
“Trên nước sông Lô thuyền tôi buông lái như xưa,
Trong lúc phong ba thuyền tôi qua bến qua bờ.
Ai nhớ sông Lô giặc lên ăn cướp dân ta?
Tôi nhớ sông Lô ngày qua chôn xác quân thù…”
Anh bộ đội cúi đầu chào, rồi lui vào, tấm màn bằng vải nâu kéo vội vã, khép lại, những vòng dây thép
kêu kít kít. Tiếng vỗ tay nổi lên như cồn. Ở một góc trái khu vực dành cho đoàn thể phụ nữ, nổi lên
những tiếng rì rào:
- Hay, hay quá. Anh ấy chắc là thanh niên thủ đô.
Rồi mấy cô cậu cấu véo vào nhau, cười nói rinh rích. Tiếng người xướng ngôn viên:
- Thưa đồng bào, sau đây là vở kịch Lòng Yêu Nước…
Tiếng xướng ngôn vừa dứt là tiếng gỗ đập trên bục một hồi “kịch, kịch, kịch…” Màn mở ra, cảnh trí
đơn sơ, chỉ có cái bàn, hai cái ghế. Diễn viên ra, mặc quần áo nâu, đi đi lại lại từ góc này sang góc
khác dọc sân khấu ra chiều suy nghĩ….
Tất cả khung cảnh đêm liên hoan do anh em bộ đội sông Lô trình diễn, và cả làng tham dự trước cửa
sân chùa, từ đầu tới giờ, từ lúc chủ tịch Xã lên bày tỏ cảm tưởng, và đại diện hội Liên Việt, Lão Ông,
Lão Bà, Phụ Nữ, đến các màn trình diễn, anh Nham đều theo dõi hết. Anh ngồi vắt vẻo trên cành cây
đa-mõm-ngựa nhìn vào. Anh không ở đoàn thể nào hết. Mọi người bảo anh dở người, anh cũng không
phản đối. Mọi lần các đoàn thể trong làng tổ chức, anh có thèm tới coi đâu. Dưới mắt anh những thằng
cu Tí, cu Nhớn, cái đĩ Dậu mà làm được gì. Hát xướng gì tụi nó. Anh coi như thời buổi đổi đời này
loạn hết rồi. Hát gì mà giựt giựt, chả có vần có điệu gì hết. Nhưng hôm nay, anh cố đến đây xem họ hát
thế nào. Lúc trưa khi anh nằm trong miếu Cổng Đông, thấy tụi trẻ em, thanh niên đi gánh nước ngoài
cầu ao, kháo rằng đêm liên hoan hôm nay đặc biệt lắm, do trung đoàn Sông Lô trình diễn nên anh gắng
đi xem, coi thế nào. Anh cố gắng lắm mới nán lại đến bây giờ. Nhưng khi nhân vật trên sân khấu bắt
đầu nói: “Quái, cả nhà đi đâu vắng nhỉ?” thì anh Nham chịu không nổi nữa. Anh nhảy xuống, người
anh dài như con vượn, đu một cái đã tới đất. Anh đi về phía sau anh đám người quây quần trước sân
chùa còn đông đặc. Con đường gạch dọc theo hông đình hiện lên lờ nhờ giữa hai vườn cỏ. Anh bước
thong thả, êm đềm. Những viên gạch xếp nghiêng nghiêng, in dưới bàn chân anh từng bước êm mát.
Anh ngửa mặt nhìn lên, góc mái đình uốn cong in lên nền trời mờ đục. Con-bống-gỗ tuần đinh làm mõ
cầm canh treo lủng lẳng, trên hàng triện gỗ chạy dọc theo đường lan can đầu đình. Lòng đình tối thẫm,
vắng hiu. Một đống cột cờ đại xếp dưới gậm đình thò đầu ra lổn nhổn. Anh có cảm tưởng rờn rợn gai
người. Anh nhớ đến đôi rắn cạp nong lớn bằng bắp chân xưa kia làm tổ trong đó. Biết đâu nay nó lại
về. Anh vẫn lặng lẽ đi. Phía nhà tổ sau chùa cửa đóng phăng phắc. Cái mảnh sân cỏ đen thẫm hơn cả
màu đêm, anh có nhìn thấy lốm đốm những lỗ cột cờ bằng đá trắng, cái mất cái còn. Ở sân cỏ này, từ
ngày còn bé, anh đã được xem cuộc đánh cờ người, đẹp quá. Và cũng chính nơi này, năm nào các cụ
cũng treo giải để trai làng thi vật và đánh gậy. Nhưng vui nhất phải kể những đêm chèo. Rạp được
dựng tại đây. Buồng trò phía kia, sân khấu chỗ này và hướng về phía hông đình. Từ trên bục đình các
kỳ hào, bô lão mặc áo sa, áo gấm ngồi thưởng thức. Chà, vui quá. Anh Nham nhớ đến đó như muốn
nhảy lên vui sướng. Anh nhớ đến tiếng trống chèo rung lên cùng tiếng thanh la rộn rã, tiếng nhị, tiếng
hồ ai oán nỉ non. Anh cũng nhớ đến tiếng trống chầu cầm nhịp chững chạc của ông thủ Nhị. Tiếng trống
ấy đã có lần điểm “thùng, thùng, thùng” ba tiếng để khen kép Hai Chí trong vai Lã Bố. Và cũng
chính tiếng trống ấy trong một đêm, dễ có đến sáu bảy năm rồi, đã ba lần điểm như thế để khen anh.
Thật lạ quá. Cho đến bây giờ anh vẫn còn cho là lạ.
Chẳng là năm ấy cả làng làm ăn khá giả, lại không có trộm cướp gì, ngày xuân mới đón phường chèo
từ Hiệp về hát suốt năm đêm. Trong đoàn chỉ có Hai Chí là trội nhất. Đóng vai nào cũng khéo. Những
vuông lụa hồng điều dành cho đào kép đóng vai hay nhất đêm nào cũng về tay Hai Chí. Vì thế thiếu gì
gái làng yêu mến Hai Chí. Đêm thứ tư với vở Kim Vân Kiều, tiếng trống chầu đã giục mà không thấy
Hai Chí đâu. Ông trùm phường chèo hốt hoảng, tiếng nhị, tiếng kèn tàu cứ thổi mãi chờ đợi. Trên bục
đình tiếng trống mỗi lúc mỗi điểm giục giã, có đến nửa trống canh sau, ông trùm phải khăn áo chỉnh tề
lên tạ lỗi với các cụ và cả làng, vì không biết Hai Chí đi đâu mất. Cả làng ồn ào, bực tức. Nghe đâu
Hai Chí đã cùng cái Gái con bà Xã Hậu rủ nhau trốn đi tối hôm qua. Thôi, việc ấy xét sau. Bây giờ ai
thay được vai của Hai Chí. Chẳng lẽ cả làng mang tiếng là đất văn vật mà không ai thay được Hai Chí
sao. Ai dám thay Hai Chí trong vai Thúc Sinh đêm nay. Mọi người nhìn nhau tìm kiếm. Ông trùm
phường chèo cũng ra ý mong kẻ đồng điệu bước ra. Một lát, dưới đám người nghìn nghịt như nêm cối,
anh Nham dõng dạc tiến lên:
- Để tôi thay cho.
Đám đông ồn ào. Có người nói:“Mày hát thì hay, còn đóng tuồng gì được.” “Cứ liều đi anh
Nham.”
Ồn ào một lúc, chưa đâu ra đâu, từ trên bục đình nổi lên ba tiếng tang: cắc cắc cắc, tỏ ý không bằng
lòng. Nham ta tức khí, bước ra giữa rạp chèo, nói lớn:
- Xin cứ cho tôi đóng thử, nếu không tròn vai, xin các cụ bắt vạ.
Cả làng reo hò. Đám trai làng la ó inh ỏi. Trên bục đình trống điểm một tiếng “tùng” tỏ ý được. Anh
Nham vén lớp quần áo xanh đỏ thêu thùa rực rỡ, bước vào phòng chèo. Ông trùm nắm lấy hai vai anh,
bốn mắt nhìn nhau, ông cười cười khuyến khích:
- Cố hộ nghe anh bạn.
Mọi người xúm lại vẽ mặt, mặc áo cho anh Nham. Ở ngoài tiếng trống vẫn giục, tiếng kèn réo rắt hòa
với tiếng hồ êm ả đợi chờ. Anh Nham nắm hai tay vào nhau, nhẩm lại vở tuồng, đằng hắng lấy giọng,
đợi dứt trống là ra. Ông trùm ghé tai anh nói nhỏ:
- Lễ tổ cho được vững bụng đi em.
Anh Nham nghe lời, lại góc buồng trò vái mấy vái. Lúc đó hồi trống vừa dứt. Tiếng nhị léo lắt ngân
nga. Anh Nham bình tĩnh bước ra. Anh đi một vòng, tay phải vuốt cái dải mũ lướt thướt. Mọi người im
phăng phắc, nhột nhạt dưới ánh đèn đất. Anh lùi lại một bước, chắp hờ đôi tay và cất tiếng “Như tôi
nay chính thực…Thúc Sinh”, tiếng trống điểm “tùng” rất sát khi anh Nham vừa dứt lời và anh quên
hẳn mình là Nham. Anh đã là Thúc Sinh từ phút đó.
Vở chèo đêm ấy ai cũng phải nhận là hay, ai cũng phải khen anh Nham trội nhất. Nhờ anh thuộc Kiều
làu làu, lại có giọng ca ngâm ngọt lịm. Vốn xưa nay anh hát hay nhất làng, nhất tổng. Khi vãn hát, cộng
tất cả là năm lần “trống thưởng”, anh Nham được ba. Anh Nham đã nghiễm nhiên thay hẳn vai Hai
Chí, cùng với phường chèo đi lưu diễn hết tháng giêng. Không ở đâu, không vai nào anh thủ lại không
được thưởng. Trai làng khoái quá, gọi anh là “Nguyên soái Nham hát chèo”, rồi gọi tắt là “Soái
Nham.”
Soái Nham từ đó tiếng nổi như cồn. Phường nào đón được anh coi như cầm chắc được thưởng hằng
đêm. Soái Nham hàng năm sống thung dung suốt cả mùa Xuân hội hè đình đám. Tiền tiêu rủng rỉnh, lụa
hồng thiếu chi.
Cho đến khi “khởi nghĩa”, mọi người ào ạt sống đời sống mới. Trai gái làng vui với những đêm kịch
và hăm hở với nhiệm vụ “toàn dân kháng chiến.” Chẳng ai cần và nhớ đến Soái Nham nữa. Soái
Nham như con ốc, mỗi ngày mỗi thu mình vào vỏ cứng. Soái Nham chỉ còn là kẻ dở người. Soái Nham
vẫn bước tới. Gió từ mặt ao đình phả lên lạnh ngắt. Anh kéo cao cổ áo dạ lính phủ gáy, bước xuống
con đường đất, dọc theo dãy tường hoa sau đình. Mùi hoa ngọc lan từ sân hậu cung đưa ra thoang
thoảng. Gió vẫn từng đợt đưa từ mặt ao lên lạnh ngọt. Mặt ao loang loáng. Không hiểu sao anh dừng
lại một lúc rồi đu mình lên bờ tường hoa. Anh ngồi đó. Phía sau anh là ngôi đình u tịch, đồ sộ. Anh
nhắm mắt lại, nhưng vẫn thấy thật rõ con-cá-hóa-long đắp bằng những mảnh sứ, vi kỳ rực rỡ trên mái
đình. Bên kia bờ ao là nhà cụ đồ Vi. Cây khế ngọt mọc ở đầu nhà lù mù đen thẫm. Con đường đất ngăn
cách hai cái ao, quanh năm mát rượi dưới bóng tre.
Anh lấy tay vuốt mặt, bàn tay khô, những ngón tay dài ngoẵng lướt trên sống mũi. Bàn tay bóp cằm lởm
chởm những sợi râu cứng. Trong tĩnh mịch của đêm anh nhớ lại đến muốn khóc những đêm như thế này
những năm về trước. Anh thấy nhớ quá cái mùi hương, mùi trầm tỏa ra từ hậu cung. Nhớ cái không khí
tưng bừng ngày mồng một tết. Sân đình rộn rịp. Cái cờ đại to bằng mười cái chiếu hoa, kéo lên chiếc
cột lớn trước sân chùa. Những sợi dây song chằng từ cột cờ qua mặt ao đình, buộc vào cột trụ trước
cổng làng. Tiếng trống cúng đêm ba mươi tết, những ngọn nến lung linh cao thẳm ở hậu cung. Hình ảnh
anh xã từ mặc quần đỏ, khăn đỏ, miệng bịt vải đỏ, thấp thoáng trên đó, ẩn hiện qua những hàng bát
bửu, tiến túc, gươm đao và cờ lọng. Lúc ấy, anh Nham mặc áo sa đen, thắt lưng bó que màu đỏ thẫm,
đầu chít khăn gõ, anh đứng bên cánh trái đình sau sau con hạc thờ cao ngất. Thằng cu Tí, thằng Diên,
thằng Ất, thằng Kính cùng mặc áo the, quần chúc bâu ống xớ đứng quanh anh. Đứa cầm thanh la, đứa
thì trống con, trống nhớn, anh Nham thủ trống cái. Lúc ấy phải chú ý nhìn sang cụ Từ Vang. Mặc dầu
đã quen thuộc lắm, nhưng cụ vẫn không quên nhắc lại:
- Nham à, khi ông đông xướng hô “khởi trinh cổ” thì mày hãy đánh trống nha.
Và đúng như thế. Đêm ba mươi tết nào cũng vậy, khoảng mười giờ đêm, các cụ đã tề tựu cử lễ tế thần
và tống cựu nghinh tân. Các cụ thường bảo: “Ấy phải cúng sớm sớm lên một chút, để gọi là đã sang
năm mới, những chủ nợ không dám đi đòi nữa, những con nợ mới dám bò về nhà chứ.” Do đó cả
làng từ lâu rồi, đêm ba mươi tết nhà giàu cũng như nhà nghèo, ai cũng đều lắng nghe tiếng trống cúng.
Anh Nham biết thế. Anh biết cả làng đang lắng nghe tiếng trống của anh rung lên, để báo hiệu năm cũ
đã qua, năm mới đã đến. Trong phút chờ đợi ấy, anh xòe bàn tay xoa trên mặt trống. Làn da khô căng
và nháp ở xung quanh. Anh sờ xuống tang trống, rồi tới hai cái vành đai mây chít quanh tang trống. Và
hai cái dùi, vừa thỏm trong lòng bàn tay, bằng gỗ mít bóng lưỡng. Đôi dùi trống này anh cầm từ bao
nhiêu năm rồi. Từ ngày ông Tư Tấn chết. Anh Nham từ tay trống nhỏ được cử thay ông Tư Tấn. Chà,
có đến trên mười năm chứ ít gì. Ngày ấy còn vui quá. Tháng giêng hội hè, tháng bảy đình đám. Rồi cái
mặt trống cũ quá, bục mất, phải thay mặt trống mới. Tiếng trống thanh hơn cũ, nghe lạc đi mất vài năm,
sau đó mặt da khô, thuần đi nên nghe đã ấm lắm. Tiếng trống và anh Nham như dính liền với nhau. Anh
chỉ thật sự vui, thấy được cả làng biết đến, được coi là quan trọng trong những dịp tế lễ hội hè. Anh
Nham miên man nghĩ về những năm thanh bình đó, thấy mình đang đứng sau con hạc thờ, sửa soạn rung
trống cúng, thì từ phía sân chùa, nơi đang diễn kịch, mọi người vỗ tay quá xá. Anh sực tỉnh, ngoảnh
mặt nhìn về phía sau. Cả ngôi đình chìm trong tĩnh mịch của đêm đen. Anh thở dài, chống hai bàn tay
vào bờ thành tường hoa lạnh ngắt, đu mình nhảy xuống. Những lá cỏ ướt đẫm sương đêm chạm vào bàn
chân anh lạnh buốt. Anh nhảy ba bước ra giữa mặt đường, rẽ tay mặt, đi lững thững tìm con đường về
xóm Cổng Đông. Dinh cơ nhà ông Bố đóng cửa im ỉm. Gió lạnh quá, anh phải vừa đi vừa chạy gằn.
Những bụi tre mỗi lúc một nhiều. Thân tre cọ vào nhau ken két mỗi lần gió thổi. Một vài chiếc lá khô
rơi chao chát chạm xuống mặt đường. Có một mùi hương nào thoảng mát như mùi hoa lý, hoa ngâu.
Anh vẫn lầm lũi đi, chẳng mấy chốc đã về đến miếu Cổng Đông. Hai cánh gỗ đóng kín, anh dừng lại,
với tay lên tường hoa nhảy vào. Sân miếu vắng ngắt. Qua tấm mành mành anh thấy có đốm lửa lung
linh. Anh tặc lưỡi: “Ai thắp hương nhỉ?” Trời vẫn lạnh ngắt, cao vút và im lìm. Anh đứng giữa sân
vươn vai cho khỏe. Những khớp xương chạm vào nhau kêu răng rắc. Bây giờ anh mới ngửi thấy mùi
hương. Thơm quá, anh quay vào, bẻ lại cổ áo rồi xá mấy xá. Lễ xong anh có cảm tưởng như vị thần
của xóm từ lâu đi vắng, hôm nay đã hiện về. Thần đang lẩn khuất đâu đó trong u tịch của căn miếu này.
Anh ngửa mặt nhìn trời. Trời vẫn cao thăm thẳm.
Qua những ngọn tre, những vì sao thấp thoáng. Anh thấy lòng mình sảng khoái vô cùng. Anh nuốt nước
miếng và cất tiếng hát:“Sáng trăng suông sáng cả cái đêm hôm (thời) rằm, nửa đêm (là đêm) về
sáng (thấy mấy) trăng bằng, (trăng bằng cái) ngọn cây tre… Anh trót yêu em, yêu trọn một bề”
Tiếng hát như vang động và đầy ắp cả trời. Đúng là tiếng hát của mình. Tiếng hát mà anh đã làm say
mê các cô thợ gặt. Tiếng hát làm anh đổi mới mỗi mùa xuân đến, mùa gặt về. Những lúc ấy thì anh
không còn là anh Nham dở người, bẩn thỉu nữa. Anh đã được trai làng đưa áo sa, quần trắng cho mặc.
Kẻng ra phết. Anh bỗng nhớ đến khát khao chính tiếng hát của mình. Anh sờ vào túi trong, cái lược đồi
mồi và cái khăn mùi xoa trắng lụa bạch ướp mùi hoa nhài còn đây. Kỷ vật của một cô gái trong hội
chùa Trầm tặng anh để làm kỷ niệm buổi hát ví giữa đám con gái làng So Sở với bạn trai làng. Anh
mỉm cười. Con bé xinh tệ. Răng đen rưng rức, môi cắn chỉ, áo trắng bao xanh. Thấp thoáng thế mà đã
ba bốn năm rồi. Sau đêm hát ví ấy anh đã cầm cổ tay trắng ngần của người tình mà hứa kỳ hội sang
năm ta hẹn nhau gặp lại chốn này. Nhưng buồn thay, sau đó là loạn lạc. Tuy giặc giã còn ở đâu xa,
nhưng bây giờ người ta hát khác. Người ta diễn kịch, người ta đâu còn lẩy Kiều, hát ví, hát chèo như
xưa. Anh Nham đành thất hứa với người tình từ đấy. Nhưng kỷ vật còn đây. Vuông lụa thì đã cũ, đã ố
vàng và đã bay hết mùi hương. Riêng cái lược vẫn nguyên như cũ, càng chùi càng bóng. Ai cũng bảo
anh Nham dở người, nhưng riêng anh, anh nghĩ, chẳng ai biết được lòng ta.
Từ đó, anh Nham cứ quanh quẩn cư ngụ tại căn miếu này. Anh ngủ vùi ngày này qua ngày khác, chả
cần ai biết tới. Thản hoặc chán ngủ, anh lững thững mở cổng miếu bước ra, người ta mới biết là anh
còn sống. Những lúc ấy anh Nham thực sự là hình ảnh một kẻ dở người. Mặt bủng, da vàng, người cao
như vượn, răng dài như răng ngựa trắng nhởn, gặp ai cũng cười. Sau mỗi lần anh xuất hiện như thế,
trên mặt tường quanh miếu lác đác có những đồ ăn người ta thương tình mang đến. Cơm canh, bánh
trái. Tỉnh dậy nhìn ra mặt tường hoa, thấy ai cho cái gì anh ăn cái nấy. Cơm ăn xong, để trả bát lại chỗ
cũ, rồi ngủ. Nghĩ đến những đồ ăn, anh mới thấy đói bụng. Thò bàn tay vào bọc bóp làn da bụng, anh
càng thấy đói tợn. Mùi hương còn thơm ngát. Anh nghĩ tới các đồ cúng trong miếu. Anh vén tấm mành
mành bước vào, nhìn lên bàn thờ thần, đốm lửa của bánh hương vòng lung linh đỏ rực, anh hơi sợ.
Nhưng bụng đói quá, định thần một lát, anh sát lại bàn thờ. Trên đó chỉ có nải chuối. Anh vái thần mấy
xá xin thần cho phép anh thừa hưởng lộc thừa. Thế là anh hạ nải chuối. Bẻ một trái, dai ngoắc, anh biết
là chuối còn xanh. Vỏ chuối dính nhằng khó bóc, nhưng anh cũng cố ăn cho đỡ đói. Ăn ba, bốn trái đã
chán, miệng chát xít, anh khát nước quá, quờ tay tìm chén nước cúng. Đây rồi, chén tống nước sóng
sánh trong tay anh. Anh khè một hơi, quờ tay áo chùi miệng và lẩm bẩm: “Chà. Thần Thánh ôi, hóa ra
là rượu.” Rượu thấm vào dạ dày anh nóng ấm, rượu làm anh hứng chí, anh bước ra sân, gió lùa vào
mát lạnh. Anh đưa ly rượu lên tớp nốt chỗ còn lại. Anh mỉm cười, nghĩ đến buổi hát của bộ đội ban tối
ngoài sân đình. Anh lắc đầu, quay vào thả mình trên bục gỗ bên hông miếu, cởi cái áo dạ lính ra phủ
lên đầu mà ngủ. Ly rượu đã làm anh ngà ngà, choáng váng. Anh nằm đó, giữa mùi hương thơm thoang
thoảng, giữa vắng lặng, u tịch của đêm ba mươi tết. Anh Nham quên rằng bây giờ là thời kháng chiến.
Anh thiếp đi với hình ảnh rực rỡ của bàn thờ thành hoàng, anh thấy rõ ràng anh sắp sửa cầm đôi dùi
trống rung lên giữa đêm trừ tịch: “Khởi trinh cổ”.Tùng…lắc cắc.
Tiếng trống đã khởi, buổi tế thần đã bắt đầu. Anh thận trọng từng tiếng trống, tiếng tang, làm nhịp cho
các tay trống con phụ họa. Lúc dồn dập, tưng bừng, lúc ngưng nghỉ phăng phắc để phường hát âm cử
bài lưu thủy. Anh chìm đắm trong sự cẩn trọng linh thiêng. Cho đến khi ông Đông xướng hô “Lễ tất”
anh mới được tùy nghi khua đôi dùi trống liên hồi trên mặt trống. Tiếng trống thật mau, thật lớn, thật
vui. Mọi người bồi tế cũng tất tả khăn áo từng hàng vào lòng đình lễ thánh. Và lúc ấy, vị chủ tế trịnh
trọng bước tới trước án thư, vái hai vái, rút một cây hương lớn, uy nghi tiến ra trước sân đình, vén tay
áo thụng xanh trịnh trọng ấn chấm than hồng trên đầu cây hương vào ngòi pháo. Tiếng pháo nổ tưng
bừng làm át cả tiếng trống của anh Nham. Khói bay thơm ngát. Bánh pháo thật dài, chốc chốc lại điểm
một cái pháo đùng giòn rã. Cả khuôn đình âm vang tiếng pháo, cả bầu trời đen thẫm bỗng ánh lên rực
rỡ vì lửa pháo, và anh Nham dứt hồi trống lúc nào chẳng ai hay. Anh trịnh trọng như các cụ quan viên,
quỳ xuống lễ thần bốn lễ, rồi thong thả ra về. Tiếng pháo đã dứt nhưng còn như âm âm trùm kín không
gian. Anh bước xuống mấy bực thềm đình ngợp xác pháo hồng như hoa đào. Mùi pháo thơm phức ẩn
khuất không thôi. Ngoài bao lơn đầu đình, mọi người đã thu xếp mũ áo ra về. Tiếng chào hỏi nhau vui
vẻ. Tiếng guốc khua vang trên mặt đường gạch, tản mát vào các xóm.
Ở sân đình đám diễn kịch đang vui bỗng nhiên ngưng lại. Ban tổ chức nói vắn tắt, “vì tình hình quan
trọng đêm kịch xin được ngừng lại ở đây.” Thế thôi, mọi người tất tả ra về. Mấy anh bộ đội chỉ một
thoáng đã đi đâu mất hết, cả mấy ông trong ủy ban chấp hành xã cũng không còn. Mấy anh du kích tất tả
chạy đi chạy lại. Dân làng hối hả chạy về. Tiếng loa từ cái chòi cao cất ở giữa làng vang vọng: “Đồng
bào chú ý, đồng bào chú ý. Địch đã thừa cơ hội tết đến, đang kéo từ Hạ Bằng ra. Đồng bào hãy
sửa soạn để được anh em du kích hướng dẫn đi tản cư…” Chẳng bao lâu sau, thực sự có những tiếng
súng nhỏ lốp bốp nổ. Rồi lửa cháy ở làng bên cạnh. Mọi người lũ lượt bồng bế kéo nhau đi. Chỉ riêng
anh Nham vẫn đang say ngủ. Khi gần sáng, gió lạnh hơn, anh bàng hoàng chợt thức. Tất cả đều im ắng
vô cùng. Anh nghe rõ tiếng chiếc lá rơi ngoài sân miếu. Mùi thơm của nén hương vòng còn ngào ngạt.
Anh ngây ngất đắm chìm vào giấc mộng những ngày thanh bình cũ. Anh lại sờ vào túi áo. Cái lược
cưng cứng còn đây. Anh mỉm cười, yên chí là tết đang đến, đang trở lại như những ngày xưa. Phải rồi,
gần sáng rồi. Dễ đã tàn canh. Anh lắng nghe như có tiếng pháo tép nơi nào nổ đì đạch. Tiếng pháo nổ
giòn quá. Tiếng nổ liên tiếp nổi lên nhiều hơn và gần hơn nữa. Anh Nham mỉm cười duỗi chân ra,
chạm vào cái trống cái của xóm để lăn lóc trong góc sạp. Anh để bàn chân đó. Ngón chân cái của anh
sờ sờ vào cái đai trống. Những vòng lạt kết vào nhau quấn quýt gây cho anh cảm giác lờn xờn thích
thú. Anh nghĩ bụng, cái trống này chỉ được cái tiếng tang là hay. Gỗ vàng tâm có khác, còn tiếng trống
thì tệ quá, lục bục như đập chiếu. Anh lắng nghe hình như có tiếng chuột nhắt kêu lít chít ở hốc ngói.
Anh chưa mở mắt, nhưng như thấy mùa xuân đã về. Anh tin khi anh mở cánh cổng miếu bước ra, anh sẽ
gặp những người mặc quần áo mới. Nhưng sao vắng quá. Anh thèm được nghe tiếng guốc khua vang
trên mặt đường làng. Thèm nghe tiếng trống cúng sớm mai bên làng Vĩnh Lộc. Tiếng chuông chùa rền
rĩ ngân vang. Trong vắng lặng của buổi mai ngày đầu năm, anh chỉ ngửi thấy có mùi thơm hương vòng
bát ngát. Tiếng nổ lại rộ lên rộn rã, đâu như phía đình làng. Kỳ quá, tiếng pháo gì mà lẹt đẹt đến hay.
Rồi tất cả chìm trong sự vắng lặng tận cùng. Cả tiếng chim sâu lít chít trên bụi tre cũng không có, Chỉ
có tiếng gió thổi rì rào. Rồi hình như có tiếng chân ai rậm rịch chạy thoáng qua. Sau đó có những bước
chân rộn rã khua vang trên mặt đường gạch. Bước đi đều đều rồn rột. Anh Nham vẫn nằm im, anh
không biết tiếng chân ai đi lại mà vội thế. Rồi những bước chân dừng lại ngoài cổng miếu. Anh nghĩ
có lẽ mấy đứa trai làng đến rủ anh đi hát đây. Mặc nó, anh vẫn nằm như thiếp ngủ. Mùi hương vòng
vẫn tỏa bay thơm ngát.
Có tiếng xầm xì, rồi một người hỏi lớn:
- Có ai trong miếu không?
Anh Nham vẫn nằm im. Tiếng cổng miếu bị đẩy mạnh, ầm ầm. Anh Nham vẫn nhắm mắt nói vọng ra
như mắng:
- Làm gì mà nhắng lên thế.
Anh vừa cất tiếng thì ngoài cổng miếu lặng im, rồi một người nói:
- Ai đó, ra đi.
Anh Nham không nói gì, lăn mình vào phía trong mà ngủ. Chân anh khua phải cái trống, làm nó lăn
xuống nền nhà, kêu linh kinh. Cái trống lăn xuống sân, đụng phải cánh cổng miếu. Anh Nham vẫn mặc
kệ. Nhưng tụi ở ngoài hốt hoảng, lùi lại, bố trí ba phía. Đợi một lát không thấy động tĩnh gì, họ bắn
một tràng đạn vào cổng miếu. Tiếng nổ ran, khói bay khét lẹt. Cánh cổng miếu bung ra. Họ từ từ tiến
vào. Tất cả đều vắng lặng. Cái trống lăn lóc tại góc sân sát cổng, lỗ chỗ vết đạn. Khói súng vương vất
trong sân miếu nhỏ, hệt như khói pháo đầu xuân. Không có xác pháo hồng vương vãi nhưng có những
giọt máu loang lổ. Bên trong miếu, anh Nham nằm trên sạp gỗ quay mặt vào tường. Đôi mắt anh mở ra
bỡ ngỡ. Máu ứa ra từ lỗ đạn xuyên qua lồng ngực, chảy chan hòa.
Toán lính lục soát một lát, lật xác anh Nham lên, xét trong thi thể anh, chẳng tìm thấy giấy tờ gì, chỉ có
một cái lược đồi mồi đã cũ, gói kỹ trong vuông lụa đã úa vàng. Họ vất trả lại trên thi thể anh và bỏ đi.
Trên bàn thờ thần, bánh hương vòng im lìm cháy, tỏa hương thơm ngào ngạt suốt đêm qua, vừa hết.Trời đã sáng rõ. Một mùa xuân vừa về.
SƠN CHUNG TIÊN SINH
Sơn Chung tiên sinh, tên là Tân, đệm chữ Nhật, họ Đỗ, nguyên quán làng Hữu Bằng, tục gọi là làng
Nủa Chợ, thuộc quận Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, tức Hà Tây bây giờ. Là trưởng nam trong một gia đình
đông anh em, trên có nhiều chị, dưới có nhiều em gái và một cậu em trai út. Song thân là người lành
hiền chân chỉ làm ăn. Ngoài nghề dệt vải, nhuộm nâu, nhà còn cày cấy dăm ba mẫu ruộng, nên quanh
năm buông cái cày, cái bừa lại bắt tay vào với xa ống, với khung cửi. Do đó gia đình họ Đỗ được coi
là nhà có bát ăn, bát để. Dinh cơ ở giữa làng, nhà ngói, sân gạch xây kiểu chữ môn. Dinh cơ ấy cụ
Bánh, thân sinh ra ông Tân đã dày công trông nom, săn sóc khi xây cất. Từ cổng ngoài bước vào,
đường lát gạch chỉ xếp nghiêng, xi măng trộn nhiều hơn cát, nên mạch gạch liền nhau như đúc. Thợ cấy
quảy lúa về, có nhảy cũng chả vỡ được. Mạch gạch như thế, một hạt thóc rụng ra, ta quét dễ như bỡn...
Nơi bậc gạch từ trên nhà ngang bước xuống sân gạch, để cho khỏi lún vì ai cũng bước vào, cụ cẩn một
viên đá xanh cố ý để cao hơn mặt gạch thường nửa phân. Cụ bảo, nó có lún chút ít cũng là vừa. Mà lún
được nó còn là khướt. Vì cả vùng đất gắn viên đá ấy cụ đổ toàn đá tai mèo, có đến cả thước chứ ít gì.
Đường đi đã thế nói gì đến căn nhà trên. Ngắm kỹ từ cái kèo, cái cột, thậm chí đến những cánh cửa
lùa, tất tật là gỗ lõi, không có gỗ rác, đều tăm tắp, bào nhẵn thín. Dưới mỗi chân cột lại kê một miếng
đá tròn chạy chỉ hai lớp. Rồi căn nhà ngang, nơi cả nhà xúm lại làm ăn, có chỗ kê hai khung cửi máy.
Cuối nhà là cái cối giã gạo. Miệng cối gắn nổi hai tấc, bao quanh bằng vành xi măng xanh nguyên chất
mua từ ngoài tỉnh. Xi măng ấy miết thật nhuyễn, chính tay cụ làm, nhẵn như gương, sờ vào mát cả tay.
Cụ bảo “hạt tấm bắn ra lấy chổi rơm ta lại quét vào...” Căn nhà ngang bên kia là bếp và chuồng lợn.
Chuồng lợn ngay cổng vào để khi lấy phân đi không gây bẩn cả sân. Sát bếp, ngay mặt ngoài là cái bể
nước mui luyện, hình cong như mái thuyền. Cái bể ấy kể như nằm giữa nhà. Nước từ mái nhà trên, nhà
ngang chảy vào. Bên ngoài thì lấy nước ở đầu bể. Còn trong bếp muốn lấy nước nấu ăn, kể cả khi mưa
gió, ngày rét, tháng đông cũng chả lo gì, bể xây lặn một phần ba vào nhà bếp. Ngày thường phần bể này
được đậy kín để tránh tro bụi bếp bay vào mất vệ sinh. Bể sâu dưới mặt sân có đến cả thước nên nước
quanh năm vừa nấu ăn, vừa tắm táp, thừa dùng, mát ngọt và cứ trong như nước suối. Ba căn nhà ấy ba
bề, ôm lấy cái sân lát gạch Bát Tràng đỏ thậm. Cụ bảo: “Gạch đem về tôi chọn từng viên. Non mặt,
dễ vỡ là không được với tôi đâu, tôi trả lại..” nên nền sân gạch của cụ mầu gạch đều, tím sẫm như
mai cua đồng. Cái sân gạch ấy rộng lắm, xe đạp lái quanh sân như không. Dinh cơ ấy lối đi chính mở
ra đường Ngã Ba, giữa làng, tiện đi lại. Nhưng phòng khi có công kia việc nọ, cụ còn mở một cửa
hông đi ra ngõ nhà cụ Tú, nhà quan Hàn, cạnh nhà thờ ngành họ Phan. Những hôm trời nồng, cụ cho mở
cái cổng ngách này, trời ơi, gió từ Ao Hậu, từ Quán Chợ thổi vào, mát cứ lồng lộng còn hơn có người
đứng quạt. Cụ bảo:“Lúc mở cái cửa này tôi chỉ nghĩ tới khi có động. Động cổng trước, tôi có cổng
sau, chứ đâu có biết ông Giời lại chiều mình như thế.”
Cụ xây xong dinh cơ ấy tốn kém tới bạc nghìn, đồng tiền thời những năm bốn mươi. Người làng bàn
tán, đồn đại “không ngờ cụ Bánh lại giầu thế.” Dinh cơ của cụ tất nhiên không lớn như dinh cơ nhà
quan Nghè họ Nguyễn, cũng chẳng sang trọng như dinh cơ của anh em quan Hàn họ Phan, nhưng họ nói
“Dinh cơ của cụ Bánh như con dao pha. Khi cần khao vọng, mời hàng phe, hàng giáp, trong ngoài
dễ có thể trải chiếu đến năm mươi mâm. Ngày thường làm ruộng, sân ấy có thể phơi trên hai trăm
hộc thóc...Chứ còn những dinh cơ kia, trông thì oai vệ thế, hằng năm, năm ba tháng một lần các
ông ấy về quê chơi, giỗ Tết mới giở giói ra, còn thì bốn mùa đóng cửa bỏ đó cho bụi bám, nhện
giăng, ích gì. Làm nhà như nhà cụ Bánh mới là khéo.” Lời phẩm bình ấy đến tai cụ Bánh, cụ chỉ
mỉm cười. Có ai hỏi gặng thì cụ nói: “Mỗi người mỗi cảnh. Cảnh chúng tôi quanh năm hết buông
tay cày, lại đến cái khung cửi. Bì thế coi sao tiện. Các vị ấy biết, các vị ấy cười chết.” Nói là nói
thế, chứ trong lòng cụ, cụ biết có thừa tiền cũng chả làm nhà to thế. Cụ rất vừa lòng về dinh cơ của cụ.
Sau một năm, khi mọi việc đã đâu vào đó, cây hồng cụ trồng trước sân đã bắt đầu ra hoa. Cây na bên
bể nước, ngọn cũng đã ngang miệng giếng. Mấy cây cau cụ đặt mấy năm trước từ người chuyên gây
giống ở ngoài Thày, đánh về trồng đã bén rễ, ra những tàu lá mới. Cụ cho tết sẵn những vòi cau, buộc
vào thân cây, nước mưa từ những tàu cau sẽ chảy thẳng vào các chum nước. Nước ấy sẽ thơm mùi hoa
cau, êm mát, thanh tịnh, dùng để cúng. Cụ bảo “cơ mầu này thì chỉ vài năm nữa là hàng cau có quả,
bà ấy tha hồ ăn trầu.” Tàn cau sẽ tỏa ra như mấy cái lọng dựng ở trước nhà. Vừa mát, vừa đẹp. Chứ
như mấy cái tàn, cái tán nhà quan thì mỗi năm mỗi cũ.... Nghĩ thế cụ Bánh rất vui, và cụ nói với cụ bà,
với các con, cụ muốn “Tết này tôi sáu mươi, tôi muốn sửa cái lễ ra lão cho tươm tất, gọi là có chén
rượu mời họ hàng, làng xã...” Nhưng ông Giời oái oăm, hàng cau trước sân chưa có quả thì cụ Bánh
đau nặng, nằm liệt. Cứ tưởng cụ đau vài ngày, ăn bát cháo hoa nóng với hành, mồ hôi toát ra là khỏi,
nhưng không. Kể bệnh với ông lang Tàu ngoài Ngã Ba, uống hết ba thang, không bớt. Phải triệu ông
lang ngoài Phùng vào. Ông lang Phùng ngồi bắt mạch cụ rất lâu. Mọi người nín thở theo dõi hành động
của ông lang. Hồi lâu, hết cổ tay bên trái, lại bắt mạch ở cổ tay bên phải, sờ trán, vạch mắt ra xem, ông
lang Phùng đứng lên, vẻ mặt lạnh ngắt không nói gì. Ông lấy trong bọc ra thỏi quế, bảo “mài ra cho cụ
uống, may ra thì dương khí ấm lên được...” Ông lang Phùng sửa soạn ra về, còn đứng ở hiên, ông
Tân tới vái chào và gặng hỏi, ông lang im lặng hồi lâu rồi khẽ đáp: “Bệnh thì chữa được, nhưng
mệnh thì do Giời...”
Biết bệnh mình khó bề qua khỏi, cụ gọi ông Tân vào nói: “Thầy bỏ học và tu chí làm ăn, chẳng quản
khó nhọc. So với đời cũng là mát mặt. Cơ ngơi này để lại cho anh, anh cố tu chí mà làm ăn. Mấy
người con gái đã có chồng con, thôi thì chả nói làm gì. Còn thằng em út đấy, thôi thì quyền huynh
thế phụ, anh cố lo cho nó.” Nói tới đó cụ lặng im. Cả nhà đã thút thít có tiếng khóc. Cụ mở mắt, nói
tiếp: “Không phải tôi ghen ghét gì ai. Nhưng như anh thấy đấy, bao nhiêu người đi học họa hoằn
lắm mới có một người đỗ được cái tú tài. Còn đa số chỉ vin vào lời kinh, lời sách sống nghèo túng,
lây lất, chỉ tội cho vợ con...Tôi không muốn anh là một trong các người ấy...” Cụ nhắm mắt, lạnh
dần, rồi đi. Đám tang cụ linh đình, nhà táng giấy, phường bát âm...đủ cả. Mộ cụ táng ngay trong thuở
ruộng nhà, không phải xin đất, phiền lụy đến ai.
Ông Tân nghe lời cụ dặn, chuyên chú làm ăn. Mấy mẫu ruộng trên đồng, nhờ có hệ thống sông đào dẫn
thủy nhập điền nên cấy được hai mùa. Nhưng ông để cho mấy người bà con cấy rẽ, thôi thì lọt sàng
xuống nia, chả đi đâu mà thiệt. Gia đình ông chú tâm vào việc dệt vải, nhuộm nâu, nhờ được lãnh bông
sợi từ nhà máy Nam Định, căn cứ trên số khung cửi máy đang hoạt động. Mảnh vườn và mảnh ao nhà
ông nằm bên đường cái chính, một bên là ao Hậu, một bên là ao Môn Sinh, nước cứ trong leo lẻo.
Quanh vườn không có bóng cây nên mới sáng sớm, nắng lên, mảnh vườn đã chan hòa nắng. Với sự
chăm chỉ của hai anh em, anh nhuộm, em chạy phơi, một ngày có đến trên mười nước, gấp rưỡi những
nhà khác. Còn mảnh ao nhà, ông tát cạn, vét bùn đắp lên quanh bờ. Tháo nước vào, ông mua mấy trăm
cá mè, cá trôi thả xuống. Mỗi sáng đàn cá nổi lên đớp bọt, mỗi ngày như mỗi nhỉnh ra thấy rõ. Giữa ao
ông cho cắm mấy bè rau rút. Vừa tạo bóng mát cho cá ẩn thân, vừa có rau ăn. Ngọn rau rút thả ở ao
này, cọng cứ nõn như ngón tay các cô gái. Rau ấy tuốt bỏ lớp áo mềm như bông, luộc chấm muối vừng
thôi, cứ giòn sần sật và thơm mát cả miệng.
Tuy làm ăn chăm chỉ thế nhưng ông Tân vẫn không quên đọc sách. Mấy bộ Tam Quốc Chí, Thủy Hử,
Chinh Đông Chinh Tây, Hán Sở Tranh Hùng..., ông vừa đọc bằng Hán văn, vừa coi bằng Quốc Ngữ.
Một hôm, nhân đọc tập Hương Ước của làng, ông thấy nhắc đến việc xã viên các phe phải bảo quản
cẩn trọng văn bia của làng được để ở vườn sau, bên hữu hậu cung, không để cho trẻ con chơi đùa phá
phách, làm hư hại di sản lịch sử của làng. Một buổi trưa nắng, gió im như đứng, ông bèn nhảy qua
tường hoa vào nhà bia. Dưới bóng cây lan tỏa mát hương thơm, ông lau hai mặt bia thật trang trọng,
nâng niu. Văn bia viết về các danh nhân thành đạt của làng và ông truy nguyên ra dòng họ Đỗ nhà ông
mấy trăm năm trước cũng có người khoa bảng, làm hào trưởng làng này. Lòng ông như mở hội. Từ đó
ông ngấm ngầm nuôi chí dấn thân. Ông muốn là ông nọ bà kia như người ta. Ông không muốn suốt đời,
dù có đồng tiền vẫn là bố cu, mẹ đĩ.
Nhưng cùng lúc ấy, thời thế đổi thay. Việt Minh lên, cuộc sống mới phát triển, ông hăng hái tham gia.
Nhân nhà có bát ăn bát để, ông được mời giữ chân Thủ Quỹ trong Ủy Ban Hành Kháng Liên Xã Quang
Trung. Xã này to lớn, gồm cả mấy làng họp lại, bằng một tổng những thời kỳ trước. Bây giờ ông theo
mốt mới, mặc quần soóc tím, sách cặp da đi họp. Người trong làng gọi ông là Ông Quỹ. Với ông, như
thế cũng là bắt đầu có danh phận với đời. Nhưng thời cuộc không dừng ở đó. Cuộc chiến chống Pháp
bùng nổ. Mặt trận lan đến khắp vùng Bất Bạt, Sơn Tây. Làng Nủa không tránh khỏi. Tây từ Hòa Bình,
từ trong núi tiến ra, rồi đóng đồn ngay Cống Đặng, trấn ngay ngã tư đường đi Sơn Tây - Phủ Quốc.
Năm ấy là năm 1949, các làng lần lượt phải “ tề.” Một hôm, Tây về làng bắt phu, kiếm gỗ và lấy cả
hoành phi, câu đối lót đường cho xe các quan chạy. Người con trai cụ tú họ Phan, biết nói tiếng Pháp,
được người làng yêu cầu “ nói cho họ biết, cần gỗ thì lấy cánh cửa cũng được. Sao lại phải lấy câu
đối, hoành phi..” Tây nghe ra và tỏ vẻ thông cảm. Ông Tân đứng cạnh người con cụ Tú họ Phan, chứng
kiến cuộc nói chuyện này. Đêm đến, Tây trở về đồn. Việt Minh còn ẩn khuất trong làng, tới lễ phép
mời người con trai cụ Tú và ông Tân đi họp. Cả hai được du kích dẫn ra cánh đồng chân núi Sài Sơn.
Họ giữ chặt tay chân người con trai cụ Tú, nói mấy lời kết án, rồi sai hai người lấy dây thừng kéo
mạnh, siết cổ tới chết. Ông Tân đứng đó chứng kiến, sợ đến lạnh toát cả chân tay, sẵn sàng chờ đến
lượt mình. Nhưng không. Họ kéo xác người con cụ Tú đi, và nói với ông Tân: “Chúng tôi tha chết
cho anh...” Như người vừa tỉnh cơn mê, trời tối đen, ông Tân đứng lặng một hồi để thần trí trở lại.
Trước mặt là núi Sài Sơn đen thẫm, phía sau một vùng sáng mờ mênh mông, ông đoán đó là đồng Bùi
nước trắng. Ông cắm đầu chạy một quãng và ngã chúi xuống ven con sông đào. Ông biết hiện ông ở
đâu. Trời đã hửng sáng. Cứ theo bờ con sông đào mà đi. Con sông đào dẫn tới đập cầu Phùng, nơi
phát xuất nguồn nước dẫn thủy nhập điền chảy về những cánh đồng các làng Canh Nậu, Dị Nậu, Bến
Thôn và cánh đồng trên của làng, nơi gia đình ông có mấy mẫu ruộng cấy hai mùa. Cầu Phùng, đập
Phùng và bây giờ có Đồn Phùng, nơi Pháp đóng quân. Ông cắm đầu chạy miết. Trước mắt ông chỉ là
hình ảnh người con trai cụ Tú mờ nhạt trong bóng đêm, kêu ú ớ, ngã xuống và bị lệt xệt lôi đi. Vừa mệt
vừa kinh hãi, ông ngã xuống và thiếp đi. Mở mắt ra, quanh ông là mấy người dân đi chợ sớm, họ lấy
nước tiểu xoa vào mặt ông, lay gọi ông thức dậy. Ông được đưa đến đồn Phùng. Ở đây, qua người
thông dịch, ông kể lại nỗi kinh khiếp đêm qua. Người sĩ quan Pháp dùng máy liên lạc xì sồ, ông không
hiểu, nhưng ông nghe nhắc đến Nóc-Bai, Huu Bang, thì ông biết có lẽ họ đang nói chuyện liên hệ đến
Ngọc Bài, đến làng Hữu Bằng. Người sĩ quan Pháp, sau cuộc điện đàm có thái độ cởi mở hơn đối với
ông. Họ hỏi ông muốn gì. Ông chỉ nói muốn ra Hà Nội. Ra Hà Nội làm gì, sinh sống ra sao, ông không
cần biết. Ông chỉ muốn bỏ hết mà đi thật xa khỏi quê hương ông. Rõ ràng đó là nơi không còn đất sống
cho ông, cho những người như ông. Ông đã cộng tác với họ, với Việt Minh, nhưng chính những người
ban ngày là bạn ông, ban đêm, với những suy nghĩ khác, với những liên hệ khác, chính họ, họ đã đến
nhà ông, rất thân tình... “thì trên cho chúng tôi tới mời anh đi họp.” Họ đã nói như thế, nhưng vừa
rời khỏi nhà, vừa khuất tầm mắt của vợ con ông, của mẹ ông, hai người du kích đã nắm chặt hai cánh
tay ông. Phía sau, người bí thư xã chĩa nòng súng lục lạnh ngắt vào lưng ông, với giọng nói nhỏ gọn
như phát ra từ hai kẽ răng “Đừng có dại dột mà vùng chạy...”
Ra tới Hà Nội, sau ít ngày bị giam giữ, ông khai báo là có quen người này, người khác mà ông nghe
phong thanh đã về thành. Sở Liêm Phóng phóng thích ông và coi ông như một người Quốc Gia yêu
nước, có thành tích chống Cộng. Chẳng bao lâu giữa quê ông và Hà Nội đã đi lại bình thường. Quê
hương ông đã có nhiều người đi lại, buôn bán. Ông được vợ con nhắn về, nhưng ông nhất định không
về. Ở Hà Nội, ông lần mò tới những nơi cửa đình, cửa phủ, với vốn chữ Hán học được khi còn nhỏ,
ông kiếm ăn bằng nghề viết sớ, đoán thẻ, xin sâm. Lạy Thánh mớ bái, những ngày lang thang như thế,
ông sống cũng tạm ổn, không phải phiền lụy, vay mượn ai. Cũng trong dịp này, chữ nghĩa như có chân,
khiến ông làm quen được với một số người gọi là trí thức, một vài nhà thơ. Nhưng tiếng súng mỗi đêm
đã vọng về Hà Nội. Rồi cả nước rộn lên vì mặt trận Điện Biên. Rồi chia đôi đất nước. Người Hà Nội
rộn rã vào Nam. Bà vợ ông bao lâu ở tịt trong làng, một hôm, ông từ đền Ngọc Sơn về, thì thấy bà ấy
đứng ở trước nhà trọ. Hai người bỡ ngỡ nhìn nhau. Bà nói:
- Thầy nó có về không. Người ta bảo về được đấy, về đi.
Ông lặng yên. Một hồi lâu ông mới nói:
- Tin họ không được đâu. Tôi không về được.
- Thế thầy nó đi Nam à?
- Nào biết trong Nam ra sao. Mà lòng tôi lúc nào tôi cũng chỉ biết tới căn nhà mình. Tôi nhớ mảnh ao
cá, bè rau rút, tôi nhớ mẹ nó và lũ con ở nhà... Nhưng nhất định là tôi không về được đâu. Thôi thì cứ
coi tôi như không còn nữa... Thôi mẹ nó về, trăm sự tôi trông cả vào mẹ nó. Nhớ săn sóc Mẹ và các
con hộ tôi. Và cố gây dựng cho chú Út nó...
Trong gần một triệu người từ Bắc vào Nam, có lẽ ông là người không muốn đi chút nào, nhưng cũng
lại là người nhất quyết phải ra đi. Ở trong Nam, không vợ con, ông cũng chẳng màng làm ăn gì cả. Bao
nhiêu năm như thế, với chiếc xe đạp cũ, ông đạp khắp Sài Gòn, thăm khắp lượt bà con xa gần, người
làng và cả những người hàng tổng, hàng huyện. Anh em thấy ông túng thiếu, tự động giúp đỡ, ông vui
vẻ nhận, nhưng tuyệt nhiên không ngỏ lời vay mượn, xin xỏ ai. Sau này, những bà con từ Bắc vào đã ổn
định cuộc sống, nhiều người làm ăn giàu có, nhưng vẫn theo lệ cũ, ông đều một năm đôi lần đạp xe tới
thăm, bất luận giàu nghèo. Do đo muốn biết người làng, bà con ra sao, cứ hỏi ông là rõ cả. Ông này
mới làm nhà. Bà kia mới khai trương tiệm vải. Con nhà ông nọ vừa đỗ cử nhân... Ai ông cũng biết.
Rồi một biến cố xẩy ra.
Trong kỳ phát Giải Thưởng Văn Chương Tổng Thống, giải dịch thuật, có tên ông: Sơn Chung Đỗ nhật
Tân, trúng giải ba. Mấy chục ngàn tiền thưởng, đúng là tiền vào nhà khó, như gió vào nhà trống. “Thì
cũng là cái lộc. Trang trải những món nợ từ bấy lâu nay.” Nhưng trong ngôn ngữ của ông có phần
thay đổi. “Ấy cụ Quốc Vụ Khanh Mai Thọ Truyền nhờ xem hộ mấy cuốn sơ khảo .... Hôm nọ cụ
Vương Hồng Sển mời tới Viện Bảo Tàng nhờ đọc hộ mấy cái văn bia...” Vì thế trong những giao
tiếp giữa bà con, có ai gọi ông là Ông Quỹ, thì tuy không nói ra, nhưng ông có vẻ không bằng lòng.
Biết thế nhưng không ai biết phải gọi ông với danh xưng gì cho phải. Nhà văn ? Không ổn. Ông chưa
có tác phẩm trước tác nào. Thi sĩ? Cũng không ổn. Gọi là nhà biên khảo hay dịch giả có lẽ gần gũi với
công việc của ông hơn. Vì tác phẩm mà ông trúng giải, nghe đâu là một cuốn truyện cổ từ chữ Hán,
được ông chuyển ra Quốc Ngữ. Cuốn truyện ấy sau đó cũng chìm vào quên lãng vì nghe ông than phiền
“Bản dịch ra đấy, Phủ chẳng có ngân quỹ để in...”
Cứ như thế, ròng rã bao nhiêu năm ông không có gì thay đổi. Ăn mặc xuềnh xoàng. Mặc ai xe cộ
nghênh ngang, ông vẫn chiếc xe đạp cũ đi khắp đó đây. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 75, người ta đổ
xô tìm đường ra đi, ông ở lại. “Già rồi, đi đâu nữa. Mà mình đâu có làm gì. Như các chú còn ra làm
quan, có chức có phận, có ở lại với họ cũng chả được đâu. Đi đi.” Ông nóí thế.
Sau những ngày sôi nổi ban đầu, ông liên lạc về quê cũ. Ông hỏi về những người năm xưa đã coi ông
như kẻ thù, được người nhà cho biết:“Họ chết cả rồi.” Ông quyết định bỏ miền Nam trở về Bắc. Trên
xe hỏa xuyên Việt đầy ứ người và chật ních những hàng hóa “chiến lợi phẩm” như quạt máy, radio,
quần áo, đồ chơi... Mọi người cười nói hể hả và không giấu được vẻ ngỡ ngàng trước sự giàu có,
phong phú của miền Nam. Có người trên cùng toa xe đã hỏi ông “thế hàng của bác đâu?”, không biết
trả lời sao, ông chỉ ậm ừ nói “tôi già rồi, buôn bán gì...” Đây cũng là cơ hội đầu tiên ông được nhìn
thấy suốt chiều dài của đất nước với các vết tích của chiến tranh còn để lại. Những hố bom, những đổ
nát trùng trùng không dứt...Ông tiếc, ông không có khả năng của một nhà văn, nhà báo để ghi lại, viết
lại.
Gần 25 năm kể từ cái đêm kinh hoàng ở chân núi Sài Sơn, hôm nay ông mới bước chân về làng cũ.
Ông lấy xe từ Cầu Giấy, Hà Nội đi Sơn (Sơn Tây). Xe đến Phùng thì ông xuống. Lòng ông nhẹ tênh mà
ngao ngán, bồi hồi. Con đê Hiệp trước mặt. Từ đó ông đã nhìn thấy nóc tháp chuông nhà thờ của họ
đạo làng Vĩnh Lộc nổi cao giữa những hàng tre. Cuối hàng tre ấy là hàng tre làng ông. Gió đồng lồng
lộng thổi. Hai bờ con sông đào hiện ra thẳng tắp. Ông lại thấy hiện ra hình ảnh người con trai cụ Tú họ
Phan mềm rũ được lôi đi trong bóng đêm mù mịt. Đoạn đường từ chân con đê Hiệp đến Cầu Rô dọc
theo sông đào đã gợi trong lòng ông bao nhiêu xao xuyến. Những dải đường mòn dưới chân ông như
thì thầm chào hỏi. Ông bỗng nhớ tới mẹ. Bà cụ đã mất. Ông nhìn sang bên trái, cánh đồng trên, nơi ấy
có mấy mẫu ruộng nhà ông, nhất đẳng điền, cấy hai mùa. Nơi thân phụ ông đã nằm lại trên thửa ruộng
nhà. Ông định tạt vào thăm mộ, nhưng trời đã chiều, ông khấn nhỏ trong lòng và nhớ lại những lời cụ
dặn: “Bao nhiêu người đi học, mấy ai đã đỗ được cái tú tài, còn thì cứ vin vào lời dạy của sách mà
sống nghèo túng...” Ông bỗng thấy lời nhắn của thân phụ ông như một lời tiên tri, lòng ông tràn dâng
một nỗi bồi hồi, mồ hôi toát ra, chân tay run rẩy. Ông cắm cúi đi. Cả đoạn đời cũ bao nhiêu năm bỗng
rộn rã hiện về. Gió đồng vẫn miên man thổi. Ông thấy mhững năm tháng ở trong Nam như chẳng dính
gì đến ông, nhẹ tênh, mờ nhạt như một giấc mơ.
Ông bước vào cổng làng, gặp nhiều người mà chẳng thấy ai quen. Đến ngõ nhà ông, ông đứng laị. Vừa
lúc ấy, vợ ông từ trong sân đi ra. Hai người sững sờ nhìn nhau, một lúc lâu ông mớí lên tiếng: “Mẹ nó
không nhận ra tôi ư...” Từ phút ấy là những tiếng kêu, những dòng lệ tủi mừng: “Thế anh cả đây ư?
Bác đây ư? Ông của cháu đây ư....?” Quanh ông là con, là cháu, là chị, là em, bà con, làng xóm. Ông
nhìn lên bàn thờ, mấy cái chân đèn gỗ long lở, bụi bậm. Ông đứng im rồi với mấy cây hương, đốt lên
cầm giữa hai tay mà vái. Nước mắt ông chan hòa...
Nhưng mới hôm trước hôm sau, Uỷ Ban Xã mời ông ra trụ sở làm việc. Họ ăn nói rất ôn hòa “... Bác
ở xa mới về, chưa quen nếp sống mới, bác cần được nghỉ ngơi, học tập một thời gian...” Thế là ông
phải đi tù. Hôm đến trại, sau phần thủ tục, ông ngồi dưới gốc cây, có một ông già đến, đứng trước ông
khá lâu. Biết thế, nhưng ông chẳng nhìn. Rồi người đứng cất tiếng hỏi: “Cụ là cụ Tân...”, lúc ấy ông
mới ngước lên: “Ô…ng?” Ông chưa hỏi hết câu người trước mặt đã thảng thốt kêu lên: “Thầ..y. Thầy
đây hả thầy...Con đây thầy ơi!” Người con ôm chầm lấy bố, mếu máo, nước mắt như mưa, nhưng ông
Tân thì rửng rưng, lạnh ngắt. Nỗi mừng vui đoàn tụ bất ngờ, đột ngột quá khiến tâm trí ông như chưa
sẵn sàng, chưa có một dự tưởng nào về nỗi éo le này. Hay nỗi bàng hoàng kinh khiếp của buổi trở về
đã làm tâm hồn ông lạnh giá. Như một phản xạ tự nhiên, ông vòng tay quàng vào tấm thân gầy yếu, rách
rưới, con ông. Trong một khắc trôi qua, ông bỗng trào nước mắt, và mếu máo thốt lên:
- Con. Con đây ư ...
Ngươì con oà khóc và nói :
- Con đã tưởng ở trong Nam thì Thầy đã thoát. Sao Thầy lại còn về để bố con mình gặp nhau ở đây...
Vừa lúc đó có tiếng tên quản giáo quát lên:
- Hai anh kia, linh tinh...
Một cơn gió rừng bỗng ào ào thổi tới, cuốn theo từng mảng lá khô, mịt mù che lấp tầm mắt. Gió
chuyển trên những đỉnh cây, hàng cây nghiêng ngả, cúi đầu. Âm vang của gió rít từng cơn cuồng nộ lan
tỏa khắp bầu trời nặng trĩu, âm u. Và mưa xuống ào ào như thác đổ...
Chỉ một lát mưa tạnh, ngưòi con đã chạy đi đâu không biết. Ông nghĩ thầm: “Chẳng lẽ là nó...”
Trên đây là những việc thật, người thật. Vì Sơn Chung là anh tôi, con trai trưởng của già tôi. Mẹ tôi là
em ruột của mẹ ông. Sơn Chung Đỗ Nhật Tân gọi mẹ tôi là dì. Người thanh niên xấu số bị thắt cổ chết
tên là Phan Lạc Trạch, là con của bác Tú tôi, là anh họ tôi, là chú ruột của Phan Lạc Tuyên... Những
nỗi tang thương, những oan khiên, chia lià của thời cuộc trải dài trên nửa thế kỷ, phủ lên bao nhiêu gia
đình, qua mấy thế hệ, xét cho cùng, thật vô cùng ghê gớm và cũng thật là vô ích. Hoàn toàn vô ích. Biết
ra thì đã quá muộn màng.
Năm 1994, sau 40 năm xa cách, từ Mỹ tôi trở về thăm lại quê nhà. Trong những người đến thăm chúng
tôi, có Sơn Chung Tiên Sinh. Ông bị tù mấy năm rồi được thả về, vì già yếu. Ông bắt tay tôi vừa phải,
không vồn vã như những người khác. Ông trao cho chúng tôi đôi câu đối cũ, do tay ông viết lại và
bảo: “Chú đem về bên Mỹ mà treo hai bên bàn thờ. Lời của tổ tiên họ nhà từ mấy trăm năm để lại.
Và tôi tặng chú cuốn sách nhỏ này để biết thêm về làng ta ...” Khi ông ra về, tôi nhìn theo. Tóc ông
thưa, phờ phạc và bạc trắng. Giữa hàng tường hoa rêu mốc, đổ nát, ông bước đi chân không, nhẹ
nhàng, không ngoảnh lại. Tình cờ tôi thấy vai áo ông, đũng quần ông chằng chịt những miếng vá. Tôi
muốn khóc vì thương ông. Tôi đứng lặng một hồi rồi nhìn xuống cuốn sách. Bìa mầu tím phết cậy,
đóng bằng ba mũi chỉ khâu, như những cuốn sách chữ Nho, cuốn Tam Tự Kinh mà mấy mươi năm
trước tôi đã ê a học trong nhà thầy đồ. Nhưng đây là cuốn Hữu Bằng Xã Chí. Cuốn sách viết về làng
tôi từ thuở xa xưa tới những năm cận đại. Lối văn như nói, lối nói của làng quê, làng Nủa. Cuốn sách
tuy mỏng, chỉ có 61 trang đánh máy trên giấy mỏng, nhưng đề cập tới mọi sinh hoạt của làng, nói đến
những thành công mọi mặt, từ các danh nhân thành đạt qua khoa cử, đến những đóng góp cụ thể của
những ai mang lại sự hưng thịnh cho làng. Ông tỏ ra rất chừng mực, công bằng nói đến tất cả những
dòng họ, dù to, dù nhỏ đã góp mặt tạo nên làng Hữu Bằng. Tất nhiên ông đã ca ngợi các nét hay, đẹp
của làng, nhưng ông cũng thẳng thắn nêu ra các thói hư tật xấu mà người làng vì cớ này, cớ khác đã
mắc phải. Riêng về những giai thoại, những thơ văn tiêu biểu bằng Hán Văn, cũng như bằng chữ nôm,
chữ Quốc Ngữ, được ông sưu tầm rất công phu, với lời dẫn giải, ghi chú rất rành mạch. Về Mỹ, cuốn
sách mỏng này khiến tôi bồi hồi và sửng sốt, vì càng đọc càng thấy cha ông chúng tôi qua biết bao
sóng gió, khó khăn đã dày công vun đắp, giữ gìn làng xóm ra sao. Càng biết như thế càng thấy ông,
Sơn Chung Tiên Sinh, là một người thật hiếm. Tấm lòng ông dành cho quê hương thật đầy đặn. Đúng là
ông sinh chẳng phùng thời. Ông sinh năm 1920, tôi nghĩ giá ông sinh sớm hơn độ 30 năm, cuối thế kỷ
19, dù Nho học đã bắt đầu tàn, ông còn có thể đi thi, nếu không là ông cử, ông tú, chắc chắn ông đã thi
thố được mộng ước của mình, của một kẻ sĩ. Nhưng nghĩ cho cùng, ông như cái bóng của dĩ vãng còn
sót lại, lạc loài giữa xã hội chúng ta. Ông sống thanh bần, liêm khiết, trong sáng như hương đồng gió
nội, cần mẫn như người nông dân sớm hôm tay lấm chân bùn. Thấy việc phải thì làm, cần mẫn làm, ai
biết thì quý, không ai biết cũng chẳng quan tâm. Ông mất tại quê nhà, năm 2000, lúc người con trai ông
đã được tha tù. Trước phút lâm chung, người con trai trưởng của ông đứng cạnh, nắm chặt bàn tay ông.
Ông nằm trên cái phản mà trên năm mươi năm trước cụ thân sinh của ông đã nằm. Ánh mắt mờ nhoà
khép lại. Ở đuôi mắt ông, hai giọt nước mắt long lanh rơi, chảy sang hai bên thái dương. Ông trút hơi
thở cuối cùng. Bàn tay ông lạnh giá trong bàn tay sần sùi khô cứng của con ông. Cả nhà oà lên tiếng
khóc. Ông hưởng thọ 81 tuổi, tuổi ta.
Một cuộc đời nho sĩ vừa đóng lại. Tôi lại nghĩ đến bút hiệu của ông. Sơn Chung. Sơn là núi. Chung
đây là cùng, là tận. Sơn Chung, góc núi. Người ví mình như kẻ sống trong tận cùng góc núi, tự xa lánh
cuộc đời, hay ví mình như một thứ trích tiên. Tôi không biết thực ý của ông khi lấy bút hiệu ra sao, vì
trong giao tiếp hàng ngày ông không nói. Trên những trang sách ông viết, ông chỉ nói về làng xóm, về
những người khác, tuyệt nhiên không có một dòng nào viết về ông. Nhưng anh em tôi, những kẻ hậu
sinh, trong mấy chục năm qua, vì thời cuộc đẩy đưa được làm việc này việc khác, có cơ hội gặp gỡ,
học hỏi từ nhiều người, khi nghĩ về ông, Sơn Chung Đỗ nhật Tân, chúng tôi vẫn thấy ông là một người
hiếm quý. Ông đúng là một kẻ sĩ đầy nghĩa khí và khiêm cung. Ông như từ một cõi nào xa cũ, lạc loài
sống giữa thời đại chúng ta. Bao quanh ông hình như có một bầu không khí khác, một cảnh chí khác
đầy ắp vàng son đang tàn lụi, lẫn những nuối tiếc, buồn phiền. Ông biết thế, biết rất rõ, nhưng ông
chẳng muốn thoát ra mà còn vô cùng trân quý, nâng niu những hình bóng ấy. Do đó, dù không nói hết
được những điều ông đã làm, đã ký thác, tôi viết những dòng này thay cho nén hương vái trước linh
cữu ông, vì chúng tôi ở xa không thể về viếng thăm và nhìn ông lần cuối. Mộ ông táng ở cánh đồng
làng, “gối đầu” vào Sài Sơn, núi Thày, trước mặt, dưới thấp là cánh đồng Bùi trùng trùng gió thổi, và
bạc trắng nước khi mùa mưa tới.
Sau bao tháng ngày tha hương, dâu bể, ông đã về, ông đã tới quê nhà. Một quê nhà không còn những
phiền muộn, tàn độc, hận thù. Một quê nhà miên viễn của bình yên. Và tôi tin rằng ông đã gặp được
“những người muôn năm cũ” nơi quê hương bình yên đó.
(29 tháng 12 năm 200)
chạm vào cái trống cái của xóm để lăn lóc trong góc sạp. Anh để bàn chân đó. Ngón chân cái của anh
sờ sờ vào cái đai trống. Những vòng lạt kết vào nhau quấn quýt gây cho anh cảm giác lờn xờn thích
thú. Anh nghĩ bụng, cái trống này chỉ được cái tiếng tang là hay. Gỗ vàng tâm có khác, còn tiếng trống
thì tệ quá, lục bục như đập chiếu. Anh lắng nghe hình như có tiếng chuột nhắt kêu lít chít ở hốc ngói.
Anh chưa mở mắt, nhưng như thấy mùa xuân đã về. Anh tin khi anh mở cánh cổng miếu bước ra, anh sẽ
gặp những người mặc quần áo mới. Nhưng sao vắng quá. Anh thèm được nghe tiếng guốc khua vang
trên mặt đường làng. Thèm nghe tiếng trống cúng sớm mai bên làng Vĩnh Lộc. Tiếng chuông chùa rền
rĩ ngân vang. Trong vắng lặng của buổi mai ngày đầu năm, anh chỉ ngửi thấy có mùi thơm hương vòng
bát ngát. Tiếng nổ lại rộ lên rộn rã, đâu như phía đình làng. Kỳ quá, tiếng pháo gì mà lẹt đẹt đến hay.
Rồi tất cả chìm trong sự vắng lặng tận cùng. Cả tiếng chim sâu lít chít trên bụi tre cũng không có, Chỉ
có tiếng gió thổi rì rào. Rồi hình như có tiếng chân ai rậm rịch chạy thoáng qua. Sau đó có những bước
chân rộn rã khua vang trên mặt đường gạch. Bước đi đều đều rồn rột. Anh Nham vẫn nằm im, anh
không biết tiếng chân ai đi lại mà vội thế. Rồi những bước chân dừng lại ngoài cổng miếu. Anh nghĩ
có lẽ mấy đứa trai làng đến rủ anh đi hát đây. Mặc nó, anh vẫn nằm như thiếp ngủ. Mùi hương vòng
vẫn tỏa bay thơm ngát.
Có tiếng xầm xì, rồi một người hỏi lớn:
- Có ai trong miếu không?
Anh Nham vẫn nằm im. Tiếng cổng miếu bị đẩy mạnh, ầm ầm. Anh Nham vẫn nhắm mắt nói vọng ra
như mắng:
- Làm gì mà nhắng lên thế.
Anh vừa cất tiếng thì ngoài cổng miếu lặng im, rồi một người nói:
- Ai đó, ra đi.
Anh Nham không nói gì, lăn mình vào phía trong mà ngủ. Chân anh khua phải cái trống, làm nó lăn
xuống nền nhà, kêu linh kinh. Cái trống lăn xuống sân, đụng phải cánh cổng miếu. Anh Nham vẫn mặc
kệ. Nhưng tụi ở ngoài hốt hoảng, lùi lại, bố trí ba phía. Đợi một lát không thấy động tĩnh gì, họ bắn
một tràng đạn vào cổng miếu. Tiếng nổ ran, khói bay khét lẹt. Cánh cổng miếu bung ra. Họ từ từ tiến
vào. Tất cả đều vắng lặng. Cái trống lăn lóc tại góc sân sát cổng, lỗ chỗ vết đạn. Khói súng vương vất
trong sân miếu nhỏ, hệt như khói pháo đầu xuân. Không có xác pháo hồng vương vãi nhưng có những
giọt máu loang lổ. Bên trong miếu, anh Nham nằm trên sạp gỗ quay mặt vào tường. Đôi mắt anh mở ra
bỡ ngỡ. Máu ứa ra từ lỗ đạn xuyên qua lồng ngực, chảy chan hòa.
Toán lính lục soát một lát, lật xác anh Nham lên, xét trong thi thể anh, chẳng tìm thấy giấy tờ gì, chỉ có
một cái lược đồi mồi đã cũ, gói kỹ trong vuông lụa đã úa vàng. Họ vất trả lại trên thi thể anh và bỏ đi.
Trên bàn thờ thần, bánh hương vòng im lìm cháy, tỏa hương thơm ngào ngạt suốt đêm qua, vừa hết.Trời đã sáng rõ. Một mùa xuân vừa về.
SƠN CHUNG TIÊN SINH
Sơn Chung tiên sinh, tên là Tân, đệm chữ Nhật, họ Đỗ, nguyên quán làng Hữu Bằng, tục gọi là làng
Nủa Chợ, thuộc quận Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, tức Hà Tây bây giờ. Là trưởng nam trong một gia đình
đông anh em, trên có nhiều chị, dưới có nhiều em gái và một cậu em trai út. Song thân là người lành
hiền chân chỉ làm ăn. Ngoài nghề dệt vải, nhuộm nâu, nhà còn cày cấy dăm ba mẫu ruộng, nên quanh
năm buông cái cày, cái bừa lại bắt tay vào với xa ống, với khung cửi. Do đó gia đình họ Đỗ được coi
là nhà có bát ăn, bát để. Dinh cơ ở giữa làng, nhà ngói, sân gạch xây kiểu chữ môn. Dinh cơ ấy cụ
Bánh, thân sinh ra ông Tân đã dày công trông nom, săn sóc khi xây cất. Từ cổng ngoài bước vào,
đường lát gạch chỉ xếp nghiêng, xi măng trộn nhiều hơn cát, nên mạch gạch liền nhau như đúc. Thợ cấy
quảy lúa về, có nhảy cũng chả vỡ được. Mạch gạch như thế, một hạt thóc rụng ra, ta quét dễ như bỡn...
Nơi bậc gạch từ trên nhà ngang bước xuống sân gạch, để cho khỏi lún vì ai cũng bước vào, cụ cẩn một
viên đá xanh cố ý để cao hơn mặt gạch thường nửa phân. Cụ bảo, nó có lún chút ít cũng là vừa. Mà lún
được nó còn là khướt. Vì cả vùng đất gắn viên đá ấy cụ đổ toàn đá tai mèo, có đến cả thước chứ ít gì.
Đường đi đã thế nói gì đến căn nhà trên. Ngắm kỹ từ cái kèo, cái cột, thậm chí đến những cánh cửa
lùa, tất tật là gỗ lõi, không có gỗ rác, đều tăm tắp, bào nhẵn thín. Dưới mỗi chân cột lại kê một miếng
đá tròn chạy chỉ hai lớp. Rồi căn nhà ngang, nơi cả nhà xúm lại làm ăn, có chỗ kê hai khung cửi máy.
Cuối nhà là cái cối giã gạo. Miệng cối gắn nổi hai tấc, bao quanh bằng vành xi măng xanh nguyên chất
mua từ ngoài tỉnh. Xi măng ấy miết thật nhuyễn, chính tay cụ làm, nhẵn như gương, sờ vào mát cả tay.
Cụ bảo “hạt tấm bắn ra lấy chổi rơm ta lại quét vào...” Căn nhà ngang bên kia là bếp và chuồng lợn.
Chuồng lợn ngay cổng vào để khi lấy phân đi không gây bẩn cả sân. Sát bếp, ngay mặt ngoài là cái bể
nước mui luyện, hình cong như mái thuyền. Cái bể ấy kể như nằm giữa nhà. Nước từ mái nhà trên, nhà
ngang chảy vào. Bên ngoài thì lấy nước ở đầu bể. Còn trong bếp muốn lấy nước nấu ăn, kể cả khi mưa
gió, ngày rét, tháng đông cũng chả lo gì, bể xây lặn một phần ba vào nhà bếp. Ngày thường phần bể này
được đậy kín để tránh tro bụi bếp bay vào mất vệ sinh. Bể sâu dưới mặt sân có đến cả thước nên nước
quanh năm vừa nấu ăn, vừa tắm táp, thừa dùng, mát ngọt và cứ trong như nước suối. Ba căn nhà ấy ba
bề, ôm lấy cái sân lát gạch Bát Tràng đỏ thậm. Cụ bảo: “Gạch đem về tôi chọn từng viên. Non mặt,
dễ vỡ là không được với tôi đâu, tôi trả lại..” nên nền sân gạch của cụ mầu gạch đều, tím sẫm như
mai cua đồng. Cái sân gạch ấy rộng lắm, xe đạp lái quanh sân như không. Dinh cơ ấy lối đi chính mở
ra đường Ngã Ba, giữa làng, tiện đi lại. Nhưng phòng khi có công kia việc nọ, cụ còn mở một cửa
hông đi ra ngõ nhà cụ Tú, nhà quan Hàn, cạnh nhà thờ ngành họ Phan. Những hôm trời nồng, cụ cho mở
cái cổng ngách này, trời ơi, gió từ Ao Hậu, từ Quán Chợ thổi vào, mát cứ lồng lộng còn hơn có người
đứng quạt. Cụ bảo:“Lúc mở cái cửa này tôi chỉ nghĩ tới khi có động. Động cổng trước, tôi có cổng
sau, chứ đâu có biết ông Giời lại chiều mình như thế.”
Cụ xây xong dinh cơ ấy tốn kém tới bạc nghìn, đồng tiền thời những năm bốn mươi. Người làng bàn
tán, đồn đại “không ngờ cụ Bánh lại giầu thế.” Dinh cơ của cụ tất nhiên không lớn như dinh cơ nhà
quan Nghè họ Nguyễn, cũng chẳng sang trọng như dinh cơ của anh em quan Hàn họ Phan, nhưng họ nói
“Dinh cơ của cụ Bánh như con dao pha. Khi cần khao vọng, mời hàng phe, hàng giáp, trong ngoài
dễ có thể trải chiếu đến năm mươi mâm. Ngày thường làm ruộng, sân ấy có thể phơi trên hai trăm
hộc thóc...Chứ còn những dinh cơ kia, trông thì oai vệ thế, hằng năm, năm ba tháng một lần các
ông ấy về quê chơi, giỗ Tết mới giở giói ra, còn thì bốn mùa đóng cửa bỏ đó cho bụi bám, nhện
giăng, ích gì. Làm nhà như nhà cụ Bánh mới là khéo.” Lời phẩm bình ấy đến tai cụ Bánh, cụ chỉ
mỉm cười. Có ai hỏi gặng thì cụ nói: “Mỗi người mỗi cảnh. Cảnh chúng tôi quanh năm hết buông
tay cày, lại đến cái khung cửi. Bì thế coi sao tiện. Các vị ấy biết, các vị ấy cười chết.” Nói là nói
thế, chứ trong lòng cụ, cụ biết có thừa tiền cũng chả làm nhà to thế. Cụ rất vừa lòng về dinh cơ của cụ.
Sau một năm, khi mọi việc đã đâu vào đó, cây hồng cụ trồng trước sân đã bắt đầu ra hoa. Cây na bên
bể nước, ngọn cũng đã ngang miệng giếng. Mấy cây cau cụ đặt mấy năm trước từ người chuyên gây
giống ở ngoài Thày, đánh về trồng đã bén rễ, ra những tàu lá mới. Cụ cho tết sẵn những vòi cau, buộc
vào thân cây, nước mưa từ những tàu cau sẽ chảy thẳng vào các chum nước. Nước ấy sẽ thơm mùi hoa
cau, êm mát, thanh tịnh, dùng để cúng. Cụ bảo “cơ mầu này thì chỉ vài năm nữa là hàng cau có quả,
bà ấy tha hồ ăn trầu.” Tàn cau sẽ tỏa ra như mấy cái lọng dựng ở trước nhà. Vừa mát, vừa đẹp. Chứ
như mấy cái tàn, cái tán nhà quan thì mỗi năm mỗi cũ.... Nghĩ thế cụ Bánh rất vui, và cụ nói với cụ bà,
với các con, cụ muốn “Tết này tôi sáu mươi, tôi muốn sửa cái lễ ra lão cho tươm tất, gọi là có chén
rượu mời họ hàng, làng xã...” Nhưng ông Giời oái oăm, hàng cau trước sân chưa có quả thì cụ Bánh
đau nặng, nằm liệt. Cứ tưởng cụ đau vài ngày, ăn bát cháo hoa nóng với hành, mồ hôi toát ra là khỏi,
nhưng không. Kể bệnh với ông lang Tàu ngoài Ngã Ba, uống hết ba thang, không bớt. Phải triệu ông
lang ngoài Phùng vào. Ông lang Phùng ngồi bắt mạch cụ rất lâu. Mọi người nín thở theo dõi hành động
của ông lang. Hồi lâu, hết cổ tay bên trái, lại bắt mạch ở cổ tay bên phải, sờ trán, vạch mắt ra xem, ông
lang Phùng đứng lên, vẻ mặt lạnh ngắt không nói gì. Ông lấy trong bọc ra thỏi quế, bảo “mài ra cho cụ
uống, may ra thì dương khí ấm lên được...” Ông lang Phùng sửa soạn ra về, còn đứng ở hiên, ông
Tân tới vái chào và gặng hỏi, ông lang im lặng hồi lâu rồi khẽ đáp: “Bệnh thì chữa được, nhưng
mệnh thì do Giời...”
Biết bệnh mình khó bề qua khỏi, cụ gọi ông Tân vào nói: “Thầy bỏ học và tu chí làm ăn, chẳng quản
khó nhọc. So với đời cũng là mát mặt. Cơ ngơi này để lại cho anh, anh cố tu chí mà làm ăn. Mấy
người con gái đã có chồng con, thôi thì chả nói làm gì. Còn thằng em út đấy, thôi thì quyền huynh
thế phụ, anh cố lo cho nó.” Nói tới đó cụ lặng im. Cả nhà đã thút thít có tiếng khóc. Cụ mở mắt, nói
tiếp: “Không phải tôi ghen ghét gì ai. Nhưng như anh thấy đấy, bao nhiêu người đi học họa hoằn
lắm mới có một người đỗ được cái tú tài. Còn đa số chỉ vin vào lời kinh, lời sách sống nghèo túng,
lây lất, chỉ tội cho vợ con...Tôi không muốn anh là một trong các người ấy...” Cụ nhắm mắt, lạnh
dần, rồi đi. Đám tang cụ linh đình, nhà táng giấy, phường bát âm...đủ cả. Mộ cụ táng ngay trong thuở
ruộng nhà, không phải xin đất, phiền lụy đến ai.
Ông Tân nghe lời cụ dặn, chuyên chú làm ăn. Mấy mẫu ruộng trên đồng, nhờ có hệ thống sông đào dẫn
thủy nhập điền nên cấy được hai mùa. Nhưng ông để cho mấy người bà con cấy rẽ, thôi thì lọt sàng
xuống nia, chả đi đâu mà thiệt. Gia đình ông chú tâm vào việc dệt vải, nhuộm nâu, nhờ được lãnh bông
sợi từ nhà máy Nam Định, căn cứ trên số khung cửi máy đang hoạt động. Mảnh vườn và mảnh ao nhà
ông nằm bên đường cái chính, một bên là ao Hậu, một bên là ao Môn Sinh, nước cứ trong leo lẻo.
Quanh vườn không có bóng cây nên mới sáng sớm, nắng lên, mảnh vườn đã chan hòa nắng. Với sự
chăm chỉ của hai anh em, anh nhuộm, em chạy phơi, một ngày có đến trên mười nước, gấp rưỡi những
nhà khác. Còn mảnh ao nhà, ông tát cạn, vét bùn đắp lên quanh bờ. Tháo nước vào, ông mua mấy trăm
cá mè, cá trôi thả xuống. Mỗi sáng đàn cá nổi lên đớp bọt, mỗi ngày như mỗi nhỉnh ra thấy rõ. Giữa ao
ông cho cắm mấy bè rau rút. Vừa tạo bóng mát cho cá ẩn thân, vừa có rau ăn. Ngọn rau rút thả ở ao
này, cọng cứ nõn như ngón tay các cô gái. Rau ấy tuốt bỏ lớp áo mềm như bông, luộc chấm muối vừng
thôi, cứ giòn sần sật và thơm mát cả miệng.
Tuy làm ăn chăm chỉ thế nhưng ông Tân vẫn không quên đọc sách. Mấy bộ Tam Quốc Chí, Thủy Hử,
Chinh Đông Chinh Tây, Hán Sở Tranh Hùng..., ông vừa đọc bằng Hán văn, vừa coi bằng Quốc Ngữ.
Một hôm, nhân đọc tập Hương Ước của làng, ông thấy nhắc đến việc xã viên các phe phải bảo quản
cẩn trọng văn bia của làng được để ở vườn sau, bên hữu hậu cung, không để cho trẻ con chơi đùa phá
phách, làm hư hại di sản lịch sử của làng. Một buổi trưa nắng, gió im như đứng, ông bèn nhảy qua
tường hoa vào nhà bia. Dưới bóng cây lan tỏa mát hương thơm, ông lau hai mặt bia thật trang trọng,
nâng niu. Văn bia viết về các danh nhân thành đạt của làng và ông truy nguyên ra dòng họ Đỗ nhà ông
mấy trăm năm trước cũng có người khoa bảng, làm hào trưởng làng này. Lòng ông như mở hội. Từ đó
ông ngấm ngầm nuôi chí dấn thân. Ông muốn là ông nọ bà kia như người ta. Ông không muốn suốt đời,
dù có đồng tiền vẫn là bố cu, mẹ đĩ.
Nhưng cùng lúc ấy, thời thế đổi thay. Việt Minh lên, cuộc sống mới phát triển, ông hăng hái tham gia.
Nhân nhà có bát ăn bát để, ông được mời giữ chân Thủ Quỹ trong Ủy Ban Hành Kháng Liên Xã Quang
Trung. Xã này to lớn, gồm cả mấy làng họp lại, bằng một tổng những thời kỳ trước. Bây giờ ông theo
mốt mới, mặc quần soóc tím, sách cặp da đi họp. Người trong làng gọi ông là Ông Quỹ. Với ông, như
thế cũng là bắt đầu có danh phận với đời. Nhưng thời cuộc không dừng ở đó. Cuộc chiến chống Pháp
bùng nổ. Mặt trận lan đến khắp vùng Bất Bạt, Sơn Tây. Làng Nủa không tránh khỏi. Tây từ Hòa Bình,
từ trong núi tiến ra, rồi đóng đồn ngay Cống Đặng, trấn ngay ngã tư đường đi Sơn Tây - Phủ Quốc.
Năm ấy là năm 1949, các làng lần lượt phải “ tề.” Một hôm, Tây về làng bắt phu, kiếm gỗ và lấy cả
hoành phi, câu đối lót đường cho xe các quan chạy. Người con trai cụ tú họ Phan, biết nói tiếng Pháp,
được người làng yêu cầu “ nói cho họ biết, cần gỗ thì lấy cánh cửa cũng được. Sao lại phải lấy câu
đối, hoành phi..” Tây nghe ra và tỏ vẻ thông cảm. Ông Tân đứng cạnh người con cụ Tú họ Phan, chứng
kiến cuộc nói chuyện này. Đêm đến, Tây trở về đồn. Việt Minh còn ẩn khuất trong làng, tới lễ phép
mời người con trai cụ Tú và ông Tân đi họp. Cả hai được du kích dẫn ra cánh đồng chân núi Sài Sơn.
Họ giữ chặt tay chân người con trai cụ Tú, nói mấy lời kết án, rồi sai hai người lấy dây thừng kéo
mạnh, siết cổ tới chết. Ông Tân đứng đó chứng kiến, sợ đến lạnh toát cả chân tay, sẵn sàng chờ đến
lượt mình. Nhưng không. Họ kéo xác người con cụ Tú đi, và nói với ông Tân: “Chúng tôi tha chết
cho anh...” Như người vừa tỉnh cơn mê, trời tối đen, ông Tân đứng lặng một hồi để thần trí trở lại.
Trước mặt là núi Sài Sơn đen thẫm, phía sau một vùng sáng mờ mênh mông, ông đoán đó là đồng Bùi
nước trắng. Ông cắm đầu chạy một quãng và ngã chúi xuống ven con sông đào. Ông biết hiện ông ở
đâu. Trời đã hửng sáng. Cứ theo bờ con sông đào mà đi. Con sông đào dẫn tới đập cầu Phùng, nơi
phát xuất nguồn nước dẫn thủy nhập điền chảy về những cánh đồng các làng Canh Nậu, Dị Nậu, Bến
Thôn và cánh đồng trên của làng, nơi gia đình ông có mấy mẫu ruộng cấy hai mùa. Cầu Phùng, đập
Phùng và bây giờ có Đồn Phùng, nơi Pháp đóng quân. Ông cắm đầu chạy miết. Trước mắt ông chỉ là
hình ảnh người con trai cụ Tú mờ nhạt trong bóng đêm, kêu ú ớ, ngã xuống và bị lệt xệt lôi đi. Vừa mệt
vừa kinh hãi, ông ngã xuống và thiếp đi. Mở mắt ra, quanh ông là mấy người dân đi chợ sớm, họ lấy
nước tiểu xoa vào mặt ông, lay gọi ông thức dậy. Ông được đưa đến đồn Phùng. Ở đây, qua người
thông dịch, ông kể lại nỗi kinh khiếp đêm qua. Người sĩ quan Pháp dùng máy liên lạc xì sồ, ông không
hiểu, nhưng ông nghe nhắc đến Nóc-Bai, Huu Bang, thì ông biết có lẽ họ đang nói chuyện liên hệ đến
Ngọc Bài, đến làng Hữu Bằng. Người sĩ quan Pháp, sau cuộc điện đàm có thái độ cởi mở hơn đối với
ông. Họ hỏi ông muốn gì. Ông chỉ nói muốn ra Hà Nội. Ra Hà Nội làm gì, sinh sống ra sao, ông không
cần biết. Ông chỉ muốn bỏ hết mà đi thật xa khỏi quê hương ông. Rõ ràng đó là nơi không còn đất sống
cho ông, cho những người như ông. Ông đã cộng tác với họ, với Việt Minh, nhưng chính những người
ban ngày là bạn ông, ban đêm, với những suy nghĩ khác, với những liên hệ khác, chính họ, họ đã đến
nhà ông, rất thân tình... “thì trên cho chúng tôi tới mời anh đi họp.” Họ đã nói như thế, nhưng vừa
rời khỏi nhà, vừa khuất tầm mắt của vợ con ông, của mẹ ông, hai người du kích đã nắm chặt hai cánh
tay ông. Phía sau, người bí thư xã chĩa nòng súng lục lạnh ngắt vào lưng ông, với giọng nói nhỏ gọn
như phát ra từ hai kẽ răng “Đừng có dại dột mà vùng chạy...”
Ra tới Hà Nội, sau ít ngày bị giam giữ, ông khai báo là có quen người này, người khác mà ông nghe
phong thanh đã về thành. Sở Liêm Phóng phóng thích ông và coi ông như một người Quốc Gia yêu
nước, có thành tích chống Cộng. Chẳng bao lâu giữa quê ông và Hà Nội đã đi lại bình thường. Quê
hương ông đã có nhiều người đi lại, buôn bán. Ông được vợ con nhắn về, nhưng ông nhất định không
về. Ở Hà Nội, ông lần mò tới những nơi cửa đình, cửa phủ, với vốn chữ Hán học được khi còn nhỏ,
ông kiếm ăn bằng nghề viết sớ, đoán thẻ, xin sâm. Lạy Thánh mớ bái, những ngày lang thang như thế,
ông sống cũng tạm ổn, không phải phiền lụy, vay mượn ai. Cũng trong dịp này, chữ nghĩa như có chân,
khiến ông làm quen được với một số người gọi là trí thức, một vài nhà thơ. Nhưng tiếng súng mỗi đêm
đã vọng về Hà Nội. Rồi cả nước rộn lên vì mặt trận Điện Biên. Rồi chia đôi đất nước. Người Hà Nội
rộn rã vào Nam. Bà vợ ông bao lâu ở tịt trong làng, một hôm, ông từ đền Ngọc Sơn về, thì thấy bà ấy
đứng ở trước nhà trọ. Hai người bỡ ngỡ nhìn nhau. Bà nói:
- Thầy nó có về không. Người ta bảo về được đấy, về đi.
Ông lặng yên. Một hồi lâu ông mới nói:
- Tin họ không được đâu. Tôi không về được.
- Thế thầy nó đi Nam à?
- Nào biết trong Nam ra sao. Mà lòng tôi lúc nào tôi cũng chỉ biết tới căn nhà mình. Tôi nhớ mảnh ao
cá, bè rau rút, tôi nhớ mẹ nó và lũ con ở nhà... Nhưng nhất định là tôi không về được đâu. Thôi thì cứ
coi tôi như không còn nữa... Thôi mẹ nó về, trăm sự tôi trông cả vào mẹ nó. Nhớ săn sóc Mẹ và các
con hộ tôi. Và cố gây dựng cho chú Út nó...
Trong gần một triệu người từ Bắc vào Nam, có lẽ ông là người không muốn đi chút nào, nhưng cũng
lại là người nhất quyết phải ra đi. Ở trong Nam, không vợ con, ông cũng chẳng màng làm ăn gì cả. Bao
nhiêu năm như thế, với chiếc xe đạp cũ, ông đạp khắp Sài Gòn, thăm khắp lượt bà con xa gần, người
làng và cả những người hàng tổng, hàng huyện. Anh em thấy ông túng thiếu, tự động giúp đỡ, ông vui
vẻ nhận, nhưng tuyệt nhiên không ngỏ lời vay mượn, xin xỏ ai. Sau này, những bà con từ Bắc vào đã ổn
định cuộc sống, nhiều người làm ăn giàu có, nhưng vẫn theo lệ cũ, ông đều một năm đôi lần đạp xe tới
thăm, bất luận giàu nghèo. Do đo muốn biết người làng, bà con ra sao, cứ hỏi ông là rõ cả. Ông này
mới làm nhà. Bà kia mới khai trương tiệm vải. Con nhà ông nọ vừa đỗ cử nhân... Ai ông cũng biết.
Rồi một biến cố xẩy ra.
Trong kỳ phát Giải Thưởng Văn Chương Tổng Thống, giải dịch thuật, có tên ông: Sơn Chung Đỗ nhật
Tân, trúng giải ba. Mấy chục ngàn tiền thưởng, đúng là tiền vào nhà khó, như gió vào nhà trống. “Thì
cũng là cái lộc. Trang trải những món nợ từ bấy lâu nay.” Nhưng trong ngôn ngữ của ông có phần
thay đổi. “Ấy cụ Quốc Vụ Khanh Mai Thọ Truyền nhờ xem hộ mấy cuốn sơ khảo .... Hôm nọ cụ
Vương Hồng Sển mời tới Viện Bảo Tàng nhờ đọc hộ mấy cái văn bia...” Vì thế trong những giao
tiếp giữa bà con, có ai gọi ông là Ông Quỹ, thì tuy không nói ra, nhưng ông có vẻ không bằng lòng.
Biết thế nhưng không ai biết phải gọi ông với danh xưng gì cho phải. Nhà văn ? Không ổn. Ông chưa
có tác phẩm trước tác nào. Thi sĩ? Cũng không ổn. Gọi là nhà biên khảo hay dịch giả có lẽ gần gũi với
công việc của ông hơn. Vì tác phẩm mà ông trúng giải, nghe đâu là một cuốn truyện cổ từ chữ Hán,
được ông chuyển ra Quốc Ngữ. Cuốn truyện ấy sau đó cũng chìm vào quên lãng vì nghe ông than phiền
“Bản dịch ra đấy, Phủ chẳng có ngân quỹ để in...”
Cứ như thế, ròng rã bao nhiêu năm ông không có gì thay đổi. Ăn mặc xuềnh xoàng. Mặc ai xe cộ
nghênh ngang, ông vẫn chiếc xe đạp cũ đi khắp đó đây. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 75, người ta đổ
xô tìm đường ra đi, ông ở lại. “Già rồi, đi đâu nữa. Mà mình đâu có làm gì. Như các chú còn ra làm
quan, có chức có phận, có ở lại với họ cũng chả được đâu. Đi đi.” Ông nóí thế.
Sau những ngày sôi nổi ban đầu, ông liên lạc về quê cũ. Ông hỏi về những người năm xưa đã coi ông
như kẻ thù, được người nhà cho biết:“Họ chết cả rồi.” Ông quyết định bỏ miền Nam trở về Bắc. Trên
xe hỏa xuyên Việt đầy ứ người và chật ních những hàng hóa “chiến lợi phẩm” như quạt máy, radio,
quần áo, đồ chơi... Mọi người cười nói hể hả và không giấu được vẻ ngỡ ngàng trước sự giàu có,
phong phú của miền Nam. Có người trên cùng toa xe đã hỏi ông “thế hàng của bác đâu?”, không biết
trả lời sao, ông chỉ ậm ừ nói “tôi già rồi, buôn bán gì...” Đây cũng là cơ hội đầu tiên ông được nhìn
thấy suốt chiều dài của đất nước với các vết tích của chiến tranh còn để lại. Những hố bom, những đổ
nát trùng trùng không dứt...Ông tiếc, ông không có khả năng của một nhà văn, nhà báo để ghi lại, viết
lại.
Gần 25 năm kể từ cái đêm kinh hoàng ở chân núi Sài Sơn, hôm nay ông mới bước chân về làng cũ.
Ông lấy xe từ Cầu Giấy, Hà Nội đi Sơn (Sơn Tây). Xe đến Phùng thì ông xuống. Lòng ông nhẹ tênh mà
ngao ngán, bồi hồi. Con đê Hiệp trước mặt. Từ đó ông đã nhìn thấy nóc tháp chuông nhà thờ của họ
đạo làng Vĩnh Lộc nổi cao giữa những hàng tre. Cuối hàng tre ấy là hàng tre làng ông. Gió đồng lồng
lộng thổi. Hai bờ con sông đào hiện ra thẳng tắp. Ông lại thấy hiện ra hình ảnh người con trai cụ Tú họ
Phan mềm rũ được lôi đi trong bóng đêm mù mịt. Đoạn đường từ chân con đê Hiệp đến Cầu Rô dọc
theo sông đào đã gợi trong lòng ông bao nhiêu xao xuyến. Những dải đường mòn dưới chân ông như
thì thầm chào hỏi. Ông bỗng nhớ tới mẹ. Bà cụ đã mất. Ông nhìn sang bên trái, cánh đồng trên, nơi ấy
có mấy mẫu ruộng nhà ông, nhất đẳng điền, cấy hai mùa. Nơi thân phụ ông đã nằm lại trên thửa ruộng
nhà. Ông định tạt vào thăm mộ, nhưng trời đã chiều, ông khấn nhỏ trong lòng và nhớ lại những lời cụ
dặn: “Bao nhiêu người đi học, mấy ai đã đỗ được cái tú tài, còn thì cứ vin vào lời dạy của sách mà
sống nghèo túng...” Ông bỗng thấy lời nhắn của thân phụ ông như một lời tiên tri, lòng ông tràn dâng
một nỗi bồi hồi, mồ hôi toát ra, chân tay run rẩy. Ông cắm cúi đi. Cả đoạn đời cũ bao nhiêu năm bỗng
rộn rã hiện về. Gió đồng vẫn miên man thổi. Ông thấy mhững năm tháng ở trong Nam như chẳng dính
gì đến ông, nhẹ tênh, mờ nhạt như một giấc mơ.
Ông bước vào cổng làng, gặp nhiều người mà chẳng thấy ai quen. Đến ngõ nhà ông, ông đứng laị. Vừa
lúc ấy, vợ ông từ trong sân đi ra. Hai người sững sờ nhìn nhau, một lúc lâu ông mớí lên tiếng: “Mẹ nó
không nhận ra tôi ư...” Từ phút ấy là những tiếng kêu, những dòng lệ tủi mừng: “Thế anh cả đây ư?
Bác đây ư? Ông của cháu đây ư....?” Quanh ông là con, là cháu, là chị, là em, bà con, làng xóm. Ông
nhìn lên bàn thờ, mấy cái chân đèn gỗ long lở, bụi bậm. Ông đứng im rồi với mấy cây hương, đốt lên
cầm giữa hai tay mà vái. Nước mắt ông chan hòa...
Nhưng mới hôm trước hôm sau, Uỷ Ban Xã mời ông ra trụ sở làm việc. Họ ăn nói rất ôn hòa “... Bác
ở xa mới về, chưa quen nếp sống mới, bác cần được nghỉ ngơi, học tập một thời gian...” Thế là ông
phải đi tù. Hôm đến trại, sau phần thủ tục, ông ngồi dưới gốc cây, có một ông già đến, đứng trước ông
khá lâu. Biết thế, nhưng ông chẳng nhìn. Rồi người đứng cất tiếng hỏi: “Cụ là cụ Tân...”, lúc ấy ông
mới ngước lên: “Ô…ng?” Ông chưa hỏi hết câu người trước mặt đã thảng thốt kêu lên: “Thầ..y. Thầy
đây hả thầy...Con đây thầy ơi!” Người con ôm chầm lấy bố, mếu máo, nước mắt như mưa, nhưng ông
Tân thì rửng rưng, lạnh ngắt. Nỗi mừng vui đoàn tụ bất ngờ, đột ngột quá khiến tâm trí ông như chưa
sẵn sàng, chưa có một dự tưởng nào về nỗi éo le này. Hay nỗi bàng hoàng kinh khiếp của buổi trở về
đã làm tâm hồn ông lạnh giá. Như một phản xạ tự nhiên, ông vòng tay quàng vào tấm thân gầy yếu, rách
rưới, con ông. Trong một khắc trôi qua, ông bỗng trào nước mắt, và mếu máo thốt lên:
- Con. Con đây ư ...
Ngươì con oà khóc và nói :
- Con đã tưởng ở trong Nam thì Thầy đã thoát. Sao Thầy lại còn về để bố con mình gặp nhau ở đây...
Vừa lúc đó có tiếng tên quản giáo quát lên:
- Hai anh kia, linh tinh...
Một cơn gió rừng bỗng ào ào thổi tới, cuốn theo từng mảng lá khô, mịt mù che lấp tầm mắt. Gió
chuyển trên những đỉnh cây, hàng cây nghiêng ngả, cúi đầu. Âm vang của gió rít từng cơn cuồng nộ lan
tỏa khắp bầu trời nặng trĩu, âm u. Và mưa xuống ào ào như thác đổ...
Chỉ một lát mưa tạnh, ngưòi con đã chạy đi đâu không biết. Ông nghĩ thầm: “Chẳng lẽ là nó...”
Trên đây là những việc thật, người thật. Vì Sơn Chung là anh tôi, con trai trưởng của già tôi. Mẹ tôi là
em ruột của mẹ ông. Sơn Chung Đỗ Nhật Tân gọi mẹ tôi là dì. Người thanh niên xấu số bị thắt cổ chết
tên là Phan Lạc Trạch, là con của bác Tú tôi, là anh họ tôi, là chú ruột của Phan Lạc Tuyên... Những
nỗi tang thương, những oan khiên, chia lià của thời cuộc trải dài trên nửa thế kỷ, phủ lên bao nhiêu gia
đình, qua mấy thế hệ, xét cho cùng, thật vô cùng ghê gớm và cũng thật là vô ích. Hoàn toàn vô ích. Biết
ra thì đã quá muộn màng.
Năm 1994, sau 40 năm xa cách, từ Mỹ tôi trở về thăm lại quê nhà. Trong những người đến thăm chúng
tôi, có Sơn Chung Tiên Sinh. Ông bị tù mấy năm rồi được thả về, vì già yếu. Ông bắt tay tôi vừa phải,
không vồn vã như những người khác. Ông trao cho chúng tôi đôi câu đối cũ, do tay ông viết lại và
bảo: “Chú đem về bên Mỹ mà treo hai bên bàn thờ. Lời của tổ tiên họ nhà từ mấy trăm năm để lại.
Và tôi tặng chú cuốn sách nhỏ này để biết thêm về làng ta ...” Khi ông ra về, tôi nhìn theo. Tóc ông
thưa, phờ phạc và bạc trắng. Giữa hàng tường hoa rêu mốc, đổ nát, ông bước đi chân không, nhẹ
nhàng, không ngoảnh lại. Tình cờ tôi thấy vai áo ông, đũng quần ông chằng chịt những miếng vá. Tôi
muốn khóc vì thương ông. Tôi đứng lặng một hồi rồi nhìn xuống cuốn sách. Bìa mầu tím phết cậy,
đóng bằng ba mũi chỉ khâu, như những cuốn sách chữ Nho, cuốn Tam Tự Kinh mà mấy mươi năm
trước tôi đã ê a học trong nhà thầy đồ. Nhưng đây là cuốn Hữu Bằng Xã Chí. Cuốn sách viết về làng
tôi từ thuở xa xưa tới những năm cận đại. Lối văn như nói, lối nói của làng quê, làng Nủa. Cuốn sách
tuy mỏng, chỉ có 61 trang đánh máy trên giấy mỏng, nhưng đề cập tới mọi sinh hoạt của làng, nói đến
những thành công mọi mặt, từ các danh nhân thành đạt qua khoa cử, đến những đóng góp cụ thể của
những ai mang lại sự hưng thịnh cho làng. Ông tỏ ra rất chừng mực, công bằng nói đến tất cả những
dòng họ, dù to, dù nhỏ đã góp mặt tạo nên làng Hữu Bằng. Tất nhiên ông đã ca ngợi các nét hay, đẹp
của làng, nhưng ông cũng thẳng thắn nêu ra các thói hư tật xấu mà người làng vì cớ này, cớ khác đã
mắc phải. Riêng về những giai thoại, những thơ văn tiêu biểu bằng Hán Văn, cũng như bằng chữ nôm,
chữ Quốc Ngữ, được ông sưu tầm rất công phu, với lời dẫn giải, ghi chú rất rành mạch. Về Mỹ, cuốn
sách mỏng này khiến tôi bồi hồi và sửng sốt, vì càng đọc càng thấy cha ông chúng tôi qua biết bao
sóng gió, khó khăn đã dày công vun đắp, giữ gìn làng xóm ra sao. Càng biết như thế càng thấy ông,
Sơn Chung Tiên Sinh, là một người thật hiếm. Tấm lòng ông dành cho quê hương thật đầy đặn. Đúng là
ông sinh chẳng phùng thời. Ông sinh năm 1920, tôi nghĩ giá ông sinh sớm hơn độ 30 năm, cuối thế kỷ
19, dù Nho học đã bắt đầu tàn, ông còn có thể đi thi, nếu không là ông cử, ông tú, chắc chắn ông đã thi
thố được mộng ước của mình, của một kẻ sĩ. Nhưng nghĩ cho cùng, ông như cái bóng của dĩ vãng còn
sót lại, lạc loài giữa xã hội chúng ta. Ông sống thanh bần, liêm khiết, trong sáng như hương đồng gió
nội, cần mẫn như người nông dân sớm hôm tay lấm chân bùn. Thấy việc phải thì làm, cần mẫn làm, ai
biết thì quý, không ai biết cũng chẳng quan tâm. Ông mất tại quê nhà, năm 2000, lúc người con trai ông
đã được tha tù. Trước phút lâm chung, người con trai trưởng của ông đứng cạnh, nắm chặt bàn tay ông.
Ông nằm trên cái phản mà trên năm mươi năm trước cụ thân sinh của ông đã nằm. Ánh mắt mờ nhoà
khép lại. Ở đuôi mắt ông, hai giọt nước mắt long lanh rơi, chảy sang hai bên thái dương. Ông trút hơi
thở cuối cùng. Bàn tay ông lạnh giá trong bàn tay sần sùi khô cứng của con ông. Cả nhà oà lên tiếng
khóc. Ông hưởng thọ 81 tuổi, tuổi ta.
Một cuộc đời nho sĩ vừa đóng lại. Tôi lại nghĩ đến bút hiệu của ông. Sơn Chung. Sơn là núi. Chung
đây là cùng, là tận. Sơn Chung, góc núi. Người ví mình như kẻ sống trong tận cùng góc núi, tự xa lánh
cuộc đời, hay ví mình như một thứ trích tiên. Tôi không biết thực ý của ông khi lấy bút hiệu ra sao, vì
trong giao tiếp hàng ngày ông không nói. Trên những trang sách ông viết, ông chỉ nói về làng xóm, về
những người khác, tuyệt nhiên không có một dòng nào viết về ông. Nhưng anh em tôi, những kẻ hậu
sinh, trong mấy chục năm qua, vì thời cuộc đẩy đưa được làm việc này việc khác, có cơ hội gặp gỡ,
học hỏi từ nhiều người, khi nghĩ về ông, Sơn Chung Đỗ nhật Tân, chúng tôi vẫn thấy ông là một người
hiếm quý. Ông đúng là một kẻ sĩ đầy nghĩa khí và khiêm cung. Ông như từ một cõi nào xa cũ, lạc loài
sống giữa thời đại chúng ta. Bao quanh ông hình như có một bầu không khí khác, một cảnh chí khác
đầy ắp vàng son đang tàn lụi, lẫn những nuối tiếc, buồn phiền. Ông biết thế, biết rất rõ, nhưng ông
chẳng muốn thoát ra mà còn vô cùng trân quý, nâng niu những hình bóng ấy. Do đó, dù không nói hết
được những điều ông đã làm, đã ký thác, tôi viết những dòng này thay cho nén hương vái trước linh
cữu ông, vì chúng tôi ở xa không thể về viếng thăm và nhìn ông lần cuối. Mộ ông táng ở cánh đồng
làng, “gối đầu” vào Sài Sơn, núi Thày, trước mặt, dưới thấp là cánh đồng Bùi trùng trùng gió thổi, và
bạc trắng nước khi mùa mưa tới.
Sau bao tháng ngày tha hương, dâu bể, ông đã về, ông đã tới quê nhà. Một quê nhà không còn những
phiền muộn, tàn độc, hận thù. Một quê nhà miên viễn của bình yên. Và tôi tin rằng ông đã gặp được
“những người muôn năm cũ” nơi quê hương bình yên đó.
(29 tháng 12 năm 200)
NGƯỜI ĐÀN BÀ NHAN SẮC
Thưa chị Tố Uyên,
Trước hết em xin được xưng hô với chị là “chị”. Vì em nhỏ tuổi hơn chị rất nhiều và chị một thời còn
là người chị dâu trong họ Phan nhà em nữa. Lấy năm 1945 làm cái mốc thời gian, trước và sau thời
điểm này, em nghĩ là thời điểm có nhiều điều đáng ghi nhớ về quê hương chúng ta, và cũng chính thời
điểm này là thời xuân sắc của chị. Lúc ấy em còn bé, mới trên 10 tuổi thôi, vui chơi trong tuổi nhi
đồng còn chị đã là cô gái trên 20, đẹp nổi tiếng. Không hiểu sao lúc ấy làng ta nhiều người đẹp như
thế. Cũng quanh quẩn ở gần nhà chị là cô Q., con gái rượu của cụ Thiếu. Cô có nét sang cả, con nhà
quan, ít ra ngoài, rồi sau này lấy chồng bên Chàng nên cũng ít người nhắc đến. Sát nhà chị, ngay trước
cổng nhà cụ Thiếu, cũng có một người con gái thật đẹp, cao thanh, về làm dâu nhà ông L.X, ván đã
đóng thuyền, ít ai biết tới. Cũng gần nhà chị, ngay lối vào nhà cụ Bá B., có cô con gái ông Cả Lãm, từ
ngoài Hiệp tản cư về, năm 1946, cô 16 tuổi, đẹp lồ lộ, ngây thơ của con gái mới lớn. Mấy năm sau,
khi chiến cuộc lan đến vùng mình, cô gái này đi đâu đó, theo gia đình, không ai biết nữa. Cô gái làng
Nủa này vào Nam trở thành nghệ sĩ ngâm thơ rất nổi tiếng có tên là Hồ Điệp. Sau biến cố 1975, trong
làn sóng người bỏ nước ra đi, được biết có Hồ Điệp. Chị đi mà không bao giờ đến. Thân phận chị trên
đoạn đường gian khổ này nhiều người nói lại, thật là đau đớn, nhưng không biết thực hư ra sao. Sau
đó, người con gái nhỏ của chị Hồ Điệp cũng vượt biên, được con tàu nhân đạo của Hội Y Sĩ Thế Giới
vớt, đem vể Pháp. Hôm tàu chở các thuyền nhân này tới Pháp, em hân hạnh là người đại diện Uỷ Ban
Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển, một tổ chức của người Việt mình hợp tác với Hội Y Sĩ Thế Giới,
đón đồng bào tới định cư tại Pháp. Các thuyền nhân tới bến được vinh danh là Những Chiến Sĩ của Tự
Do. Sau này em cũng có dịp tiếp xúc với mấy người con trai của chị ấy, hiện định cư tại Mỹ. Đó là
những người có chí khí, học hành thành đạt. Nói chung, những người đàn bà đẹp ấy, không là cánh hoa
được nuôi dưỡng bằng hương phấn của làng và cũng không ở lại với làng mình lâu. Có lẽ vì thế không
được người làng, người hàng tổng chiêm ngưỡng nhiều, nhắc đến nhiều. Chỉ riêng chị, chị lớn lên từ
trong làng và có mặt sinh hoạt với quê hương qua nhiểu giai đoạn. Vì thế chị được nhiều người biết và
nhắc nhở cho đến bây giờ.
Đã trên 6,7 chục năm qua, nói đến chị, mọi người vẫn tấm tắc khen: Cô ấy đẹp. Đẹp và rất là “tiểu
thuyết” nữa.
Những điều em biết về chị là do các anh em của em nhắc lại, từ lúc còn bé. Nhất là sau này ở trong
Nam, hai miền xa cách, hàng năm em thường đến thăm chị Vân, người bà con của chị. Khi trước chị
Vân ở trong căn nhà nấp sau dinh cơ nhà chị, cùng đi chung một cổng. Đặc biệt chị và chị Vân ngang
tuổi nhau, đi đâu cũng có nhau. Nhưng chị đẹp mượt mà, còn chị Vân, nét mặt y hệt như chị, nhưng khô
cứng. Người làng Nủa mình đã ví chị như mắt phải vuông đầu-cái của tấm vải, mịn màng, óng chuốt.
Còn chị Vân như mắt trái của vuông vải này. Mà cái hay là chị Vân không lấy thế làm điều. Chị Vân đi
bên chị như chỉ sẵn sàng làm tăng nét thanh tú, hiếm quý của chị lên. Chính thời gian xa cách này, em
và chị Vân đã có những buổi chiều cuối năm, ngồi trong căn nhà vườn vùng Ông Tạ ở Sài Gòn để nhớ
về làng cũ, xóm xưa. Những lúc ấy, kỷ niệm về chị dội lên trong câu chuyện giữa hai chị em, và in sâu
trong lòng em mãi đến lúc này.
Chị Vân nhớ lại: “Khi cái Bạ (lối nói thân quen ở nhà) mới lên sáu, lên bảy, nhiều người đã bảo “con
bé này lớn lên đẹp phải biết.” Những năm trước 1945, làng ta là một làng trù phú, văn hiến có tiếng.
Gia đình cụ Thiếu, cả ba cha con làm quan to. Người đỗ đạt, khoa cử cũ cũng nhiều. Những ông tú,
ông đồ không thiếu. Đó cũng là buổi giao thời, mới-cũ, số người theo Tây học cũng đã đỗ đạt, có tiếng
tăm. Còn dân làng mình, nhờ nghề dệt vải bằng khung cửi máy, lại được mua sợi theo bông từ nhà máy
sợi Nam Định chở về tận Cống Đặng nên phải nói là cả làng đều làm ăn rất khấm khá. Nhiều người cất
nhà mới, có gác, được gọi là nhà tây. Đây cũng là lúc thanh niên tây học trong làng xuất hiện, cùng với
sự phát triển của văn chương chữ quốc ngữ mà những sách, truyện của nhóm Tự Lực Văn Đoàn lan
rộng. Đa số người làng ta chăm chỉ làm ăn, lo làm giầu, nhưng một số ít, con nhà khá giả như những
thanh niên con nhà quan hay những nhà có bát ăn bát để, là những người “đợt sống mới”, và chị tuy là
con gái, nhưng ở trong đợt này. Những người mà em biết, hay các anh của em kể lại, ở trong làng có
anh K. ở xóm Cổng Đông, ông Tú D., con trai cụ Thiếu, anh Trạch con bác Tú em. Anh D., anh T. bên
làng Thạch. Đây là những học trò trường Bưởi, học giỏi có tiếng, tiếng Tây rất cứng. Ở lớp sau, kém
lớp trên vài ba tuổi là anh P. em, bạn cùng với anh Quát, em chị. Anh Quát, làm thơ, tác giả cuốn
Hoàng Ca, lấy bút hiệu là Hoàng Quân. Tập thơ được thi sĩ Đinh Hùng viết lời giới thiệu rất hay. Em
không còn nhớ được bài nào trong tập thơ ấy, nhưng trước đó, lúc còn ở làng, anh Quát có hai câu thơ
tả buổi chiều ở đồng quê, em cho là thật hay, và em còn nhớ :
Xa xa tiếng ếch chìm trong lúa
Đổ cái hoàng hôn xuống tịch liêu.
Đó là những người một thời sống với nhau chằng chịt bao nhiêu kỷ niệm. Rồi vì thời cuộc đẩy đưa, kẻ
ở bên này, người ở bên kia chiến tuyến, nhiều người làng Nủa đã thành danh. Kẻ là chuyên viên cao
cấp. Người thành nhà văn, nhà báo, nhà biên soạn kịch, chèo. Còn bao nhiêu người nữa, em không
biết, không nhớ hết. Họ đã có mặt trong guồng máy chiến tranh chống lại nhau, nhưng trong thâm tâm,
họ nghĩ đến nhau thật nhiều. Họ cùng mang một hoài bão, cố đóng góp chút công lao cho quê hương,
dân tộc. Mà cụ thể, trong trí nhớ của họ là hình ảnh làng xưa, xóm cũ, bóng dáng của những người thân
yêu, trong đó chắc chắn hình ảnh của chị, em nghĩ rất là sắc nét trong tâm tưởng họ. Những người ấy,
trước và sau năm 1945, chơi với nhau, biết nhau rất kỹ. Nhưng là con trai mới lớn, thuở đương thì, câu
chuyện của họ là hình bóng của những người đẹp trong làng. Và “cô Bạ là người đẹp nhất làng mình.
Hàng tổng, kề từ Săn, xuống So Sở, chưa thấy ai sánh được.” Họ bàn tán như thế, và tự hào như thế
về chị.
Điều ấy, đúng sai thế nào, em không biết, nhưng với em, một cậu học trò nhỏ, thường hóng chuyện các
anh lớn, em thấy họ nói thế, và nhớ lại như thế. Trong số người tỏ lời khen chị, có người còn bảo: “Cô
ấy là con gái họ Nguyễn nhà tôi. Phiền nhỉ.” Chắc chị đoán biết người đó là ai. Như thế chị Bạ đẹp
thật. Đẹp và khác hẳn những cô gái khác đương thời. Em cũng thấy thế. Chị cao, da trắng, mắt sáng
long lánh, môi đỏ, răng không nhuộm đen mà để trắng, sáng ngời. Tóc chị dài, vấn trần, bỏ thõng đuôi
gà. Đi đâu chị mặc áo cánh bịt tà, buộc hai tay áo cái áo dài the hững hờ nơi cổ. Chị mặc váy lụa dài
sát đất, chân đi guốc sơn then. Thắt lưng hoa lý, hoa đào và đeo sà tích quả đào bên gối. Đặc biệt khác
hẳn những cô gái quê, khi chị vừa đi qua, một luồng gió thơm lan toả. Vì chị có bôi nước hoa. Gái nhà
quê không ai làm thế. Đôi khi đi xem hội, các cô cài cái búp hoa lan trên mái tóc đã được coi là
“khiếp lắm rồi.” Chị như thế, cá nhân chị như thế, nhưng chị còn hơn hẳn các cô gái khác. Chị là con
cụ đồ.
Nhà chị không uy nghi như dinh cơ những nhà quan, nhưng thật là hữu tình, thơ mộng. Nhà chị là nhà
tranh, nhưng cũng ba gian hai trái. Mái tuy lợp tranh nhưng cắt xén phẳng phiu. Trong nhà tường vôi
trắng toát. Hoành phi, câu đối uy nghi. Những nét chữ trên tường khoáng đãng mượt mà như lá cỏ, như
mây bay. Hai dãy nhà hai bên là nhà gia dụng, ôm lấy mảnh sân gạch vuông vắn, đỏ tươi. Một hòn non
bộ nơi sát bức tuờng hoa, với hốc đá kỳ bí rêu phong, những cây thông già oằn mình soi bóng xuống bể
nước. Nhưng những điều ấy cũng chỉ là thú tiêu khiển bình thường của mọi nhà, những ai tương đối
phong lưu, dư giả đều có thể thực hiện được. Cái dinh cơ mà cụ đồ thân sinh ra chị có không phải chỉ
có thế mà nó khác hẳn mọi nhà, ấy là địa thế đặc biệt của ngôi nhà ấy. Ngôi nhà ở giữa làng, nhưng
nằm giữa một khoảnh đất không to, không nhỏ, vuông vắn, hai mặt là ao. Thượng gia hạ trì. Lối vào
nhà hẹp thôi, nhưng bốn mùa lá tre xanh lả ngọn, tỏa bóng mát suốt ngày. Từ cổng ngoài vào cổng
trong mấy chục thước, lá tre bay loáng thoáng trên nền đất trong tiếng chim kêu lít chit chuyền cành.
Một cái cầu ao đá ong thoáng rộng bên bờ ao đình. Một mình gia đình nhà chị tắm giặt, không phải
phiền lụy, chung đụng với ai. Đặc biệt hơn hết là sát bên gốc cầu ao này có một khoảnh đất vuông vắn
trồi ra ao, bờ ao viền đá ong đen thẫm. Trên mảnh sân con này, ở giữa là một cây khế to, khế ngọt,
quanh năm tỏa bóng che kín mảnh sân. Khi khế đến mùa hoa, hoa tím phủ đều trên những cành từ cao
xuống thấp. Cây khế như một mâm xôi xanh tươi tắn làm duyên cho ngôi nhà tranh thơ mộng. Hoa khế
tím nhạt bay theo gió rải đều trên mặt sân đất mịn màng. Ngoài những cây cúc, cây ngâu bao quanh
khoảng sân, người ta còn thấy ở quanh gốc cây khế có những tảng đá nhỏ như những chiếc ghế thiên
nhiên. Chính những viên đá này, buổi trưa oi ả, người ta thấy chị mặc yếm trúc bâu trắng nõn, hở vai
và hai cánh tay nuột nà, ngồi gác chân trên một hòn đá khác, để suối tóc dài theo gió bay la đà đùa trên
mảnh lưng trần của chị. Chắc làn tóc ấy mới được gội không chỉ bằng bồ kết mà chị còn pha thêm
những hoa lá nào nữa chỉ mình chị biết, mình chị dùng, khiến cho tóc chị lúc nào cũng mượt mà, thơm
mát, mát một cách êm ả, gợi nhớ bâng khuâng. Quang cảnh ấy từ ngoài đường nhìn vào, qua mặt ao
long lanh sóng lượn, hoa nắng lung linh khiến cái nhìn của mọi người nhạt nhoà khi mờ, khi tỏ. Nhiều
người tự hỏi “đây là hình ảnh thật, hay chỉ là mình nghĩ ra nên nó hoá ra như thế. Chả lẽ trong cái
làng quê này lại có người đẹp như thế sao, tiểu thuyết đến như thế sao?” Bởi người ta chỉ đồn đại,
tưởng tượng, rồi nói với nhau, chứ mấy ai đã có diễm phúc thấy chị hong tóc như thế duới gốc cây
khế. Nhưng cũng có người có tuổi, nghe thế thì nói: “Cây khế ở đầu nhà. Nhà lại có con gái, mà là
con gái đẹp…Vui ít, buồn nhiều. Không tin rồi cứ nghiệm mà xem.”
Như chị biết làng mình có lệ, đàn ông con trai thì tắm rửa, bơi lội tại Ao Sen, trước cửa đình. Đàm bà
con gái không ai bén mảng đến. Nhưng Ao Đình, cái ao nằm sau đình, bên cạnh nhà chị thì dành riêng
cho đàn bà con gái xử dụng, đàn ông không được tắm táp ở đây. Vì thế buổi chiều đàn bà, con gái ra
đây tắm rửa rất đông vui. Bên bờ ao có một cây bàng nhỏ, oằn mình lả ngọn ra ao, như một thứ cây
cảnh trang trí cho bờ ao thêm hữu tình. Dưới gốc cây, bên cầu ao là một viền cỏ xanh, nơi các cô để
quần áo trong lòng những chiếc nón có quai xanh, đỏ. Vào buổi chiều ngày chưa qua, đêm chưa đến,
các cô ra đây tắm rất đông. Có nhiều cô buộc hai ống quần lại làm quần phồng lên như cái phao bao
quanh người, khiến các cô có thể thảnh thơi, hai tay khua nuớc, bơi ra giữa ao “để tắm rửa cho nó
thoáng” và tránh được những con mắt đàn ông tọc mạch đi lại trên đường. Nhưng những người này chỉ
có thể bơi tới quá giữa ao là cùng, không bơi vào gần được cầu ao nhà chị. Vì trước cầu ao nhà chị có
những ngọn tre khô cắm xuống lòng ao, tiếng là “để cho cá nó có chỗ nó ẩn náu, cựa mình”, nhưng
phần khác cũng là để không ai lội qua ao mà vào nhà chị được. Vì thế trong khi các cô gái làng tíu tịt
đùa vui tắm ở cầu ao ngoài, thì riêng chị thong thả đi lên đi xuống rửa chân trong cái cầu ao bên bờ
nhà chị. Một sự cách biệt, ưu tiên, xa cách.
Những hôm trăng sáng, mặt trăng nhô lên từ góc mái đao cong của ngôi đình uy nghi, toả áng trăng
vàng xuống mặt ao lóng lánh như dát bạc. Cũng lúc ấy cây hoàng lan từ hậu cung thơm tỏa ngát một
vùng. Những lúc như thế, các cô gái làng Nủa thường tắm khuya, đùa giỡn giữa ao. Trên dãy tường
hoa sau đình, thanh niên làng Nủa tụ họp, hát hò. Các bài hát mới như Lời Du Tử, Cô Láng Giềng,
Đàn Chim Việt… là các bài được biết đến ở đây. Nhưng khi tiếng sáo trúc của anh Thục cất lên bay
vút lên không, bay sang cả mảnh vườn cây khế nhà chị, thì mọi sự như lặng đi. Trong bóng đêm mờ
nhoà dưới gốc khế, thấp thoáng người ta thấy hình dáng chị ngồi nghe. Tiếng sáo ấy ngây ngất lúc tỏ,
lúc mờ. Người thổi sáo ấy sau này có bút hiệu là Tào Mạt, nhà soạn kịch tài hoa có công làm sống lại
môn chèo đất Bắc qua loạt sáng tác Bài Ca Giữ Nước. Nhất là vở Ỷ Lan Làm Vua, là một kiệt tác
không chỉ trong lãnh vực giải trí chèo mà còn là một kiệt tác văn học, có nhận định sắc bén liên hệ
đến thời cuộc qua ngôn ngữ của ông Hề Hoạn. Bởi thế trong dư luận, người ta đồn Tào Mạt đã dám
“dạy đảng làm vua”, khiến sau những vinh quang, thành đạt của vở chèo là những ngày nguy nan, khốn khó của Tào Mạt.
Tào Mạt bị thất sủng và bị vu là người mắc bệnh tâm thần, không dùng được nữa.
Những điều ấy chắc chị biết rõ hơn em.
Chắc chị cũng không thể quên, những năm đầu kháng chiến, năm 1947, 1948 làng mình thật vui, chưa
bao giờ vui thế. Người làng đi làm ăn xa, kể cả người đi làm quan xa, cũng tìm về làng cũ. Thanh niên
làng Nủa tụ lại và có những sinh hoạt chung rất ý nghĩa. Đáng chú ý nhất là tờ bích báo Tiếng Nủa,
mỗi tháng 2 kỳ, trình bày rất đẹp, bài vở công phu được dán ở Ngã Ba. Tờ báo ấy sau được đem dự
thi bích báo Quân Khu 3, đoạt giải nhất. Bên cạnh đó còn có một tờ báo khác là tờ Tre Xanh với
những bài viết ngắn thật hay, nhất là những bài thơ thật lạ và buồn. Có những câu như
Ba hòn gạch nguội cháy đen thui
Ngang kèo con nhện giăng tơ gió
Thằng bé mồ côi khóc sụt sùi.
Tờ báo ấy do một mình anh Phan Lạc Trạch thực hiện. Không biết có phải chính những câu thơ buồn
bã ấy đã khiến người anh họ tôi, anh Phan Lạc Trạch lọt vào mắt xanh của chị. Nhưng anh Trạch yêu
chị nồng nàn thì ai cũng biết. Cả làng biết. Cả hàng tổng biết.
Vì trong ngày “Hội chùa Thày vui thay cắc cớ. Trai không vô nhớ Hội Chùa Thày. Gái không chồng
nhớ ngày mà đi”, anh Trạch đã bày tỏ mối tình của mình rất công khai. Anh đã viết những câu thơ
ngắn, viết tên chị và tên anh cuốn vào nhau bằng cách lấy gai vạch sâu trên những chiếc lá dại to bản
trên con đường lên núi Thày trong ngày xem hội, từ lối lên núi ở Chùa Một Mái, dọc theo sườn núi,
lên Chợ Trời, và xuống bên kia núi nơi chùa Cả.
Có lẽ từ trước tới nay không ai biểu lộ tâm tình của mình công khai như thế. Những địch thủ của anh
không dám làm thế, không thiết tha như thế, hoặc ở xa, nhất là ở xa, lại không phải người tài hoa như
người anh họ của em. Lúc ấy người ta phổ biến, tán tụng bài thơ của anh như một người có tinh thần xã
hội như sau:
Anh Tán
Mỗi lần anh Tán hạ càng xe
Hấp háy con anh đứng vỉa hè
Nó thấy cha về reo hối hả
Tay cầm hòn đất múa xun xoe
Tiếng trống bên trường cũng mới tan
Từng bầy trẻ bé nói cười ran
Ngùi trông cái tổ chim non ấy
Anh tủi con anh đã lạc đàn
… Thế là đôi trai tài, gái sắc thành đôi lứa.
Con cụ tú họ Phan, lấy con gái cụ đồ họ Nguyễn, thật là môn đăng hộ đối. Đám cưới của anh chị giản
dị nhưng thật vui tươi, thật đẹp. Ngày cưới chú rể không mặc áo the quần trắng, mà mặc com-lê trắng,
thắt cà-vạt đỏ. Một hình ảnh mới và sang trọng lần đầu tiên xẩy ra trong làng. Cuộc đón dâu không xa,
vì hai nhà cũng ở gần nhau, nhưng đi qua một quãng đường đẹp nhất làng, từ xóm Đình vào Xóm giữa.
Từ đó chị là con dâu họ Phan, em phải gọi chị là “chị”. Nhưng những ngày vui của anh chị không dài.
Hình như không quá 2 năm. Vì Tết năm 1949, em nhớ rất rõ ngày này. Tây từ trong rừng, từ Hoà Bình
kéo ra, đóng quân tại làng Đặng Xá giữa ngày 30 tết. Cả làng mình chạy ra đồng Mát, nằm dưới bờ
mương cánh đồng Bùi. Sáng hôm sau. Mùng một Tết. chúng tiến sang làng mình. Du kích bắn vài phát
súng rồi tháo chạy. Lấy cớ có quân kháng cự, Tây nổi lửa đốt làng. Lửa ngùn ngụt cháy, khói bốc cao
đen kịt một góc trời. Khi Tây đã đi qua, vòng lên Săn, đóng đồn ở đó, mọi người trở lại làng, thì gần
như mọi nhà cửa bằng tranh, bằng gỗ đều đã ra tro hết. Thầy em bị Tây bắt. Nhà em bị cháy. Nhưng
nhà chị không bị cháy vì hai bề là ao. Rồi những ngày sau, Tây về đóng đồn tại Cống Đặng, hàng ngày
vào làng mình bắt phu, lấy gỗ lấp đường, tìm bắt du kích. Chúng đã bắn giết rất nhiều người. Những
tấm hoành phi, câu đối sơn son thiếp vàng tại các nhà thờ bị chúng lấy đem lót đường. Cả bức hoành
có chữ của vua ban cho làng, treo ở gian giữa đình cũng bị chúng bắt hạ xuống, lấy đi. Lúc ấy cả làng
tụ họp trong chùa. Đàn bà con gái thì lấy nhọ nồi bôi mặt, ngồi úp mặt vào lưng các pho tượng. Em
chắc chị nhớ việc này. Thấy Tây lấy gỗ kỳ quái quá, có người kêu lên “Ai biết nói tiếng Tây thi ra
bảo nó muốn lấy gỗ lát đường thì lấy cánh cửa, ván đình mà làm, đừng lấy những vật linh thiêng
này.” Mọi người đều kêu là phải. Và anh Trạch, người anh họ của em, chồng chị, bị đẩy ra nói cho
Tây nó biết. Chỉ vài lời trình bày, tên đội Tây hiểu ra, trả lại hoành phi câu đối cho làng. Thay vào đó,
chúng dỡ cánh cửa đình làm ván lót đường. Đứng cạnh anh trong lúc nói chuyện này có anh Quỹ Tân.
Đêm ấy, khi Tây đã đi, du kích ẩn ở trong làng xuất hiện. Họ đến mời anh và anh Quỹ Tân đi. Sau này
chính anh Quỹ Tân kể lại.“Du kích đến nhà tôi, năm, sáu người, họ có súng ngắn dắt trong bụng, ăn
nói rất từ tốn:“Trên mời các anh đi họp.” Tôi quàng cái áo theo họ ra đi. Tới ngoài đường cái
chính đã thấy anh Trạch ở đó. Hai người hai bên, nắm chặt cánh tay chúng tôi, một người chĩa
mũi súng lạnh ngắt vào bên hông, bảo:“Im, vùng chạy là chết.” Họ đưa chúng tôi ra cánh đồng
làng Thày. Qua mấy khúc sông đào khô nước, họ dừng lại. Trời tối như bưng. Họ nói:“Các anh
liên lạc với Tây, không thể tha được.” Lời nói lạnh toát thoát ra giữa hai hàm răng. Rồi họ sai hai
người lấy dây thừng quấn vào cổ anh Trạch và kéo. Anh Trạch chỉ ú ớ vài tiếng rồi ngã xuống. Họ
tiếp tục lôi xác anh ấy đi, vùi ở đâu tôi không biết. Một tên, người làng cả chứ đâu bảo:“Chúng tôi
cho anh chứng kiến cuộc hành quyết này và tha chết cho anh…” Anh Quỹ Tân, trong cơn mê hoảng
ấy, lần theo bờ con sông đào ra Phùng, ra Hà Nội, rồi năm 1954 vào Nam. Suốt hơn 20 năm ở trong
Nam, anh Quỹ Tân không làm gì cả, cũng chẳng lấy ai, chỉ đi loanh quanh, thăm người này, người
khác. Sau năm 1975, anh Quỹ về lại làng cũ, bị họ cho đi tù mấy năm, khi sức đã kiệt, họ tha về, và
anh Quỹ đã mất ở làng như chị đã biết.
Thưa chị,
Từ những biến cố đó làng mình tan nát. Anh em, chị em mình tan nát, chia lìa. Cuộc chiến chống Pháp
9 năm chấm dứt chưa được bao lâu, thì cuộc tương tan Nam Bắc lại bùng lên do người Cộng Sản phát
động. Một cuộc tương tàn vô cùng khủng khiếp. Hàng triệu người Việt đã chết. Bao nhiêu cảnh chia lìa
tan tác. Bao nhiêu đổ vỡ, đớn đau. Khi cuộc chiến tàn, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, trong đó
có em. Khi thời cuộc đổi thay, kẻ ra đi có thể trở về thăm lại cố hương, thăm lại họ hàng. Và năm
1994, em đã về thăm lại làng cũ, em đã đến thăm chị và gia đình của chị. Xin chị tha lỗi cho em, em
phải nói em không tài nào nhìn ra chị được nữa. Người con gái họ Nguyễn, con dâu họ Phan, đẹp nức
tiếng một thời đã không còn nữa. Vì tuổi già, đã đành mà còn vì những đắng cay, cùng quẫn. Em đã
nắm bàn tay chị. Bàn tay nhỏ lạnh tanh. Em không dám nhìn vào mắt chị, em cúi xuống, cố dằn lòng để
không bật ra tiếng khóc. Trong chuyến về thăm quê này, em cũng đi thăm lại Núi Thày. Em đã leo từ
Chùa Cả, lên Chùa Cao và xuống ở Chùa Một Mái. Từ đó theo cánh đồng em trở về làng mình. Trên
đường đi, em biết rằng em đang đi trên quãng đường oan nghiệt mà một đêm đen thẫm nào đó người
anh họ tài hoa của em đã bị giết ở đây. Em khấn nhỏ trong lòng: “Bây giờ cuộc chiến đã tàn. Bao
nhiêu người chết trong oan trái, kể cả những người đã được vinh danh là anh hùng. Một cuộc
chiến tàn khốc mà hoàn toàn vô ích. Anh có khôn thiêng thì phù hộ cho con cháu nên
người…”Trên đường về làng, em bước trên từng bờ cỏ mà như buớc bên nấm mộ của anh. Lòng em
tơi tả. Làng cũ năm 1994, tuy nhiều đổi thay, nhưng em vẫn nhận ra đường cũ, lối xưa. Những mảnh ao
vẫn còn. Căn nhà thơ mộng của chị vẫn còn. Cây khế ngày xưa vẫn còn.
Mới đây, tháng 11 năm 2008, em dự cuộc du lịch từ Bắc vào Nam, và đã dành 5 ngày định về thăm
làng cũ, thăm những bà con xa gần. Nhưng vừa đặt chân tới Hà Nội là những trận mưa dài không ngớt.
Cả Hà Nội lũng bũng như giữa lòng sông. Quê hương mình cũng thế. Tất cá chìm trong biển nước
mênh mông. Khi nước rút bớt, em cố về thăm làng cũ. Làng mình thay đổi quá. Hai người cháu dẫn em
đi mà em không còn biết đâu là đâu nữa. Nhà cửa chi chit, cây cối không còn. Lũy tre đã mất. Những
mặt ao khắp làng đã bị lấp, hay được đóng cọc cất nhà lên trên, rác rưởi và phóng uế tống cả xuống
ao. Mùi hôi thối xông lên ngầy ngật. Đường đi chật hẹp, lầy lội, vì nước ngập khắp nơi. Ở đâu cũng
thấy người chen chúc, nhưng em không biết ai là ai. Vì những bậc cha anh thì đã mất. Và em, đứa con
trai chưa lớn hồi xưa, nay đã là ông già ngoài bảy chục, nào ai cùng trang, cùng lứa mà nhận ra nhau.
Em lội đi thăm mộ Thầy Mẹ em, rồi về thắp hương bàn thờ gia tiên. Ngôi nhà gần như hoang phế, điêu
tàn. Xong việc, em phải vội vã ra đi cho kịp chương trình du lịch. Tất nhiên em không biết ngôi nhà
thơ mộng của gia đình chị hiện nay ra sao. Mặt ao tình tứ, cây khế nên thơ nay đâu, em không biết. Trở
về lại Hoa Kỳ, nhắm mắt lại, em không còn thấy quê cũ là đâu nữa. Nơi ấy mọi vết tích đã đổi, đã nhạt
nhoà. Nơi ấy không còn là của mình nữa. Tất cả đã khác, đã mất. Cuộc viếng thăm quê cũ như dự trù
không thực hiện đươc.
Sự thật là như thế. Quê cũ chẳng còn. Được người cháu nhắc “Bà Tố Uyên có lời thăm bác.” Nhớ đến
chị, ngồi lục lại những kỷ niệm xưa cũ, em gửi đến chị những hàng chữ này như một chút hương xưa,
thay cho món quà muộn màng dành riêng cho chị.
Chúc chị luôn an vui.
Một người em họ xa của chị.
*
Cháu tôi từ Hà Nội, cho biết, hôm cháu mang thư và quà tới thăm bà Tố Quyên, bà rất mừng. Mắt bà
đã kém, không đọc thư được nữa, tay cầm phong thư đựng chút tịnh tài của anh em chúng tôi gửi tặng,bà ngồi nghe cháu tôi đọc thư, nét mặt bà thay đổi theo từng đoạn văn.
Có lúc bà mỉm cười, có lúc bà rưng rưng lệ.
Lá thư đã hết, nhưng bà vẫn ngôi im khá lâu như chìm vào kỷ niệm của một thời xa khuất. Sau khi launhẹ những hàng lệ, bà nói:“Tôi thật không ngờ có lúc tôi nhận được một lúc hai thứ quà quý báu
này…”
Bà không cầm được những dòng lệ trào dâng, bà nức nở, ngậm ngùi. Mấy tháng sau bà mất.
Tôi hy vọng rằng trong cõi vĩnh hằng xa thẳm kia, bà đã gặp lại chồng bà, người anh họ tài hoa ngày cũcủa chúng tôi để cùng nhau an hưởng cuộc sống lứa đôi đầy thơ và mộng.
(7 tháng 2 năm 2009)
No comments:
Post a Comment