Tuesday, October 20, 2015

PHẠM BÁ HOA * HỒI KÝ TÙ I



KÝ SỰ TRONG TÙ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA - KỲ 1










1 2 3 4 5 6 7 8


Việt Nam 1858-1954


Năm 1858 là năm thứ 11 của Vua Tự Đức, bị thực dân Pháp dùng Hải Quân tấn công Đà Nẳng. Sau khi thiết lập được bàn đạp trên đất liền, từ đó Pháp đánh chiếm nhiều nơi khác trên lãnh thổ Việt Nam. Năm 1867, sáu tỉnh miền Nam là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, trở thành thuộc địa của Pháp. Lần lượt họ đánh chiếm toàn cõi Việt Nam bằng những phương thức thích hợp. Năm 1883, Việt Nam bị Pháp chia làm 3 Kỳ: Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, với 3 chế độ cai trị khác nhau về cách dùng chữ nhưng thực chất đều là thuộc địa.





Tháng 9/1939, Phát xít Đức tấn công chiếm đóng Ba Lan (Poland), mở màn cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai trên vùng đất Châu Âu. Ngày 7/12/1941, Nhật Bản tấn công Hạm Đội 7 Hoa Kỳ tại quần đảo Hawaii, mở màn cuộc chiến tranh vùng Châu Á-Thái Bình Dương. Cùng lúc, Đức tuyên chuyến với Hoa Kỳ. Ngày hôm sau, Hoa Kỳ chánh thức tuyên chiến. Nhật Bản yêu cầu Pháp cho mượn lãnh thổ Việt Nam để thiết lập những căn cứ quân sự trong chiến lược đánh chiếm các quốc gia khu vực Đông Nam Á. Do yếu thế, chánh phủ Pháp chấp nhận lời yêu cầu có tính cách cưỡng bách của Nhật Bản. Ngày 9//3/1945, quân Nhật đảo chánh Pháp, chánh phủ Trần Trọng Kim ra đời với mô hình chánh phủ phương Tây.


Ngày 6/6/1944, quân đội Đồng Minh mà Hoa Kỳ là lực lượng chánh, đổ bộ lên bờ biển Normandy phản công chiếm lại nước Pháp. Từ bàn đạp đó, quân đội Đồng Minh tiến đánh quân phát xít Đức & Ý. Với cuộc tiến quân như vũ bão, quân đội Đồng Minh nhanh chóng chiến thắng khắp nơi, và cuối cùng đánh bại quân phát xít Đức. Ông Hitler, lãnh tụ phát xít Đức, tự sát trong hầm chỉ huy dưới lòng thủ đô Đức quốc ngày 30/4/1945. Chiến tranh vùng Châu Âu chấm dứt.


Ngày 15/8/1945, Nhật Bản đầu hàng Hoa Kỳ sau khi hai thành phố Hiroshima và Nagasaki bị bom nguyên tử, và chiến tranh vùng Châu Á-Thái Bình Dương chấm dứt từ đó.


Chánh phủ Trần Trọng Kim với các đảng chính trị khuynh hướng quốc gia, tổ chức mít tinh mừng độc lập, nhưng với bản chất gian trá xảo quyệt của cộng sản, ông Hồ Chí Minh biến cuộc mít tinh đó trở thành của đảng cộng sản tổ chức. Ông Hồ mời gọi các đảng chính trị nói trên tham gia chánh phủ liên hiệp, và uy hiếp vua Bảo Đại thoái vị. Khi đứng vững, ông Hồ đã lần lượt loại trừ các đảng chính trị quốc gia để chỉ còn lại đảng duy nhất cầm quyền là đảng cộng sản Việt Nam.


Đồng Minh cử quân đội Trung Hoa (thời Tổng Thống Tưởng Giới Thạch), cùng với quân đội Anh và Ấn Độ đến Việt Nam thi hành nhiệm vụ giải giới quân Nhật. Quân Trung Hoa phụ trách từ vĩ tuyến 16 trở lên Bắc, quân Anh với Ấn Độ phụ trách từ vĩ tuyến 16 trở xuống Nam. Quân Pháp đã theo chân cánh quân của Anh với Ấn Độ, trở lại chiếm đóng Việt Nam.


Sau những lần thương thuyết thất bại, chiến tranh giữa Việt Minh cộng sản với thực dân Pháp bắt đầu từ 19/12/1946. Việt Minh cộng sản rút vào rừng núi Bắc Việt.


Năm 1947, khi Pháp bắt đầu sa lầy trong chiến tranh tái chiếm 3 nước Đông Dương (Việt Nam, Cam Bốt, Lào), chánh phủ Pháp tuyên bố sẳn sàng thương thuyết với các tổ chức chính trị Việt Nam.


Ngày 09/09/1947, sau khi tiếp 24 nhà chính trị Việt Nam và sau khi thương thảo với chánh phủ Pháp, cựu Hoàng Bảo Đại tuyên bố sẳn sàng đứng ra hòa giải giữa các tổ chức chính trị quốc gia.


Ngày 05/06/1948, trên chiến hạm Duguay Trouin của Pháp trong Vịnh Hạ Long, Quốc Trưởng Bảo Đại cùng với các nhân sĩ và tổ chức chính trị chứng kiến Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân ký Thỏa Ước với Toàn Quyền Đông Dương Bollaert. Theo đó, Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp.


Ngày 08/03/1949, tại điện Elysée, Tổng Thống Pháp Vincent Auriol với Quốc Trưởng Bảo Đại ký thỏa ước. Một lần nữa, chánh phủ Pháp công nhận quốc gia Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp và có quân đội riêng.


Ngàỵ 25/04/1949, cựu Hoàng Bảo Đại từ Pháp về Việt Nam.


Ngày 01/0/1949, thành lập chánh phủ quốc gia Việt Nam. Cựu Hoàng Bảo Đại giữ chức Quốc Trưởng.


Ngày 21/01/1950, Quốc Trưởng cử ông Nguyễn Phan Long thành lập chánh phủ.


Ngày 04/02/1950, chánh phủ Hoa Kỳ công nhận chánh phủ quốc gia Việt Nam.


Ngày 15/05/1950, Quốc Hội Pháp thông qua đạo luật thành lập quân đội Việt Nam với 60.000 quân dưới tên gọi “Quân Đội Quốc Gia Việt Nam”. Dưới nét nhìn chính trị, đạo luật thể hiện chính sách thực dân Pháp sử dụng “người Việt không cộng sản cùng với Pháp đánh người Việt cộng sản” để họ giảm bớt máu xương! Tôi nghĩ, một quân đội ra đời trong bối cảnh như vậy không phải là tốt, nhưng là điều may vì nhờ đó mà Việt Nam chúng ta bắt đầu hình thành một quân đội chống lại cộng sản ngay sau khi thành lập.


Ngày 01/05/1952, Quốc Trưởng bảo Đạo ký văn kiện thành lập Bộ Tổng Tham Mưu và cử Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh giữ chức Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Đây là vị Tổng Tham Mưu Trưởng đầu tiên của quân đội.


Căn cứ quan trọng bậc nhất của quân Liên Hiệp Pháp tại Điện Biên Phủ với hơn 12.000 quân trú phòng, thất thủ ngày 7/5/1954 dẫn đến Hiệp Định Đình Chiến ký ngày 20/07/1954 tại thành phố Genève, Thụy Sĩ. Theo đó, vĩ tuyến 17 trở lên Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do cộng sản cai trị, vĩ tuyến 17 trở xuống Nam là nước Việt Nam theo chế độ tự do. Biểu thị vĩ tuyến 17 trên thực tế là sông Bến Hải với cầu Hiền Lương. Lúc ấy, Quốc Trưởng Việt Nam vẫn là cựu Hoàng Bảo Đại. Trước đó hai tuần, ngày 07/07/1954, ông Ngô Đình Diệm trình diện nội các với quốc dân đồng bào và ngoại giao đoàn. Cũng theo Hiệp Định Đình Chiến, quân đội và cán bộ cộng sản từ dưới vĩ tuyến 17 chuyển ra Bắc, quân đội Pháp và quân đội Việt Nam từ trên vĩ tuyến 17 chuyển vào Nam. Cùng lúc, gần một triệu đồng bào miền Bắc không chấp nhận chế độ cộng sản, đã bằng mọi cách với biết bao gian khổ và hiểm nguy thoát chạy vào Nam xây dựng cuộc sống mới.


Việt Nam 1955-1975.


Kết quả cuộc “trưng cầu dân ý” ngày 23/10/1955, Quốc Trưởng Bảo Đại bị truất phế, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống từ ngày 26/10/1955. Quốc Hội Lập Hiến được bầu ra để soạn thảo Hiến Pháp. Sau khi ban hành Hiến Pháp (26/10/1956) khai sinh nền đệ nhất Cộng Hòa, các cơ cấu bộ máy hành chánh từ trung ương đến địa phương được hình thành. Việt Nam theo chế độ Cộng Hòa, và trên công văn chánh phủ có tiêu đề Việt Nam Cộng Hòa.


Để chuẩn bị chống lại cuộc chiến tranh từ phía cộng sản, với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, Việt Nam đã cải tổ quân đội về tổ chức, trang bị, và huấn luyện. Từ cấp Tiểu Đoàn tổ chức thành Trung Đoàn, Sư Đoàn, và Quân Đoàn. Từ trang bị vũ khí cũ kỹ hầu hết do Pháp sản xuất, được trang bị vũ khí do Hoa Kỳ sản xuất. Từ huấn luyện chiến thuật cấp Tiểu Đoàn, nay huấn luyện tác chiến cấp Trung Đoàn, Sư Đoàn, phối hợp tác chiến với các quân chủng binh chủng. Sau cuộc cải tổ năm 1955-1956, quân đội Việt Nam có hai loại Sư Đoàn: 4 Sư Đoàn Dã Chiến 1, 2, 3, 4, và 6 Sư Đoàn Khinh Chiến 11, 12, 13, 14, 15, 16. Quân số Sư Đoàn Khinh Chiến vừa hơn 6.000 trong khi quân số Sư Đoàn Dã Chiến khoảng 10.000.


Tuyên Cáo của Việt Nam Cộng Hòa với đồng bào và thế giới, nêu rõ, do không ký vào Hiệp Định Đình Chiến Genève, nên không bị ràng buộc cuộc tổng tuyển cử dự liệu trong Hiệp Định vì đó là mưu đồ của cộng sản Việt Nam được cộng sản Nga và cộng sản Trung Hoa hỗ trợ mạnh mẽ tại hội nghị. Bằng chứng rõ rệt là cộng sản Việt Nam, trong khi tập trung mà họ gọi là “tập kết lực lượng” dưới vĩ tuyến 17 chuyển ra Bắc, đã gài lại trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa hằng chục ngàn cán bộ đảng viên. Sự kiện này đủ chứng minh lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã chuẩn bị đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa từ trước khi thật sự đình chiến.


Năm 1957, cán bộ đảng viên cộng sản do ông Hồ gài lại miền Nam, bắt đầu gây chiến với Việt Nam Cộng Hòa sau thời gian xây dựng hạ tầng cơ sở, với những hoạt động thu thuế trong vùng xa xôi hẻo lánh, tổ chức những cuộc biểu tình gây rối trật tự xã hội, bắt giết các viên chức Xã, Ấp. Giết cả những vị lãnh đạo tôn giáo những vùng nông thôn hay rừng núi xa xôi.


Trong những năm 1958-1959, hai loại Sư Đoàn nói trên cải tổ lại thành 7 Sư Đoàn Bộ Binh, tổ chức và trang bị thống nhất: Sư Đoàn 1 Bộ Binh (trước đó là SĐ1DC), Sư Đoàn 2 Bộ Binh (trước đó là SĐ2DC), Sư Đoàn 5 Bộ Binh (trước đó là SĐ3DC), Sư Đoàn 7 Bộ Binh (trước đó là SĐ4DC), Sư Đoàn 21 Bộ Binh (kết hợp SĐKC 11+13), Sư Đoàn 22 Bộ Binh (kết hợp SĐKC 12+14), và Sư Đoàn 23 Bộ Binh (kết hợp SĐKC 15+16).


Về sau thành lập thêm Sư Đoàn 25 Bộ Binh tại Quảng Ngãi, Sư Đoàn 9 Bộ Binh tại Qui Nhơn, Sư Đoàn 10 Bộ Binh tại Xuân Lộc, sau cùng là Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại Quảng Trị. Riêng về Sư Đoàn 10 Bộ Binh, thời Đại Tá Đỗ Kế Giai giữ chức Tư Lệnh (năm 1966), ông đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu đổi phiên hiệu là Sư Đoàn 18 Bộ Binh nhưng Trung Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Trưởng không đồng ý. Đại Tá Giai trực tiếp gặp Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng xin đổi phiên hiệu vì con số 10 là con số không hên (!), cuối cùng Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng đồng ý, và Sư Đoàn 10 thành Sư Đoàn 18 Bộ Binh từ đó.


Ngày 11/11/1960, Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn Nhẩy Dù, đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhưng thất bại. Đại Tá Thi và bộ tham mưu đảo chánh lấy chiếc C47 của Không Quân Việt Nam bay sang Nam Vang, thủ đô Hoàng Gia Cam Bốt xin tị nạn chính trị.


Ngày 01/11/1963, một số vị Tướng Lãnh Việt Nam do Trung Tướng Dương Văn Minh lãnh đạo đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, khi cuộc chống đối của Phật Giáo đòi chánh phủ hủy bỏ lệnh cấm treo cờ Phật Giáo lên cao độ. Hoa Kỳ đứng sau lưng cuộc đảo chánh này ngang qua ông Conein, tình báo Hoa Kỳ có mặt trong nhóm quí vị Tướng Lãnh Việt Nam lãnh đạo đảo chánh. Sáng ngày 02/11/1963, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, bị giết chết trong chiếc Thiết Vận Xa M113, sau khi Tổng Thống yêu cầu Hội Đồng Tướng Lãnh đảo chánh đưa xe đến đón tại nhà thờ Cha Tam ở Quận 5 thủ đô Sài Gòn, đến Bộ Tổng Tham Mưu, nơi đặt bản doanh của Hội Đồng Tướng Lãnh đảo chánh. Sự kiện Tổng Thống điện thoại yêu cầu đưa xe đến đón ông, có thể hiểu là Tổng Thống chấp nhận đầu hàng, cũng có thể hiểu là Tổng Thống hành động như một Tổng Thống đương quyền. Cuộc đảo chánh thành công, Trung Tướng Dương Văn Minh trong chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng với chức năng Quốc Trưởng.


Ngày 30/01/1964, lại một cuộc đảo chánh xảy ra do Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 tại Sài Gòn, Trung Tướng Nguyễn Khánh Tư Lệnh Quân Đoàn 1 tại Đà Nẳng, và Đại Tá Cao Văn Viên Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù tại Sài Gòn thực hiện, nhưng gọi là Chỉnh Lý. Đảo chánh thành công sau khi bắt giữ 5 vị Tướng Lãnh thân cận của Trung Tướng Dương Văn Minh, và Trung Tướng Nguyễn Khánh đương nhiên giữ chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, cũng là Quốc Trưởng. Lúc ấy, Trung Tướng Dương Văn Minh nhận chức Cố Vấn. Trong cuộc đảo chánh này, vẫn là Hoa Kỳ đứng sau lưng ngang qua sự có mặt của một người tình báo Hoa Kỳ trong nhóm quí vị đảo chánh. Trong nét nhìn chính trị, có thể nhìn thấy quí vị Tướng Lãnh thân Mỹ gạt quí vị Tướng Lãnh thân Pháp ra khỏi chính trường Việt Nam chăng?


Một Thông Điệp của Trung Tướng Nguyễn Khánh, kêu gọi các quốc gia Đồng Minh hỗ trợ Việt Nam Cộng Hòa chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đang ngày càng gia tăng chiến trận khắp nơi cả về mức độ lẫn cường độ. Từ năm 1965, Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam cùng tác chiến chống quân cộng sản. Lần lượt quân đội của Đại Hàn Dân Quốc (South Korea), Thái Lan, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, cũng đưa quân đến hỗ trợ Việt Nam chống lại cộng sản.


Ngày 15/07/1964, tại Vũng Tàu, Trung Tướng Nguyễn Khánh ban hành bản Hiến Chương, qui định vị đứng đầu quốc gia với chức danh Chủ Tịch nắm nhiều quyền hành. Ông được Đại Hội Đồng Quân Lực bầu vào chức Chủ Tịch nước. Ngay sau ngày ban hành Hiến Chương mà báo chí gọi là “Hiến Chương Vũng Tàu”, những cuộc mít tinh biểu tình gần như liên tục hằng ngày, đòi Trung Tướng Khánh hủy bỏ bản Hiến Chương độc tài, đồng thời đòi ông từ chức. Trung Tướng Khánh lùi bước dưới hình thức lãnh đạo bởi một “tam đầu chế” gồm Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Nguyễn Khánh, và Trung Tướng Dương Văn Minh.


Ngày 13/09/1964, Trung Tướng Dương Văn Đức, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 tại Cần Thơ, lãnh đạo cuộc “Biểu Dương Lực Lượng”. Mục đích, theo lời ông là cảnh cáo Trung Tướng Nguyễn Khánh đã có hành động độc tài. Cũng có Hoa Kỳ đứng sau lưng ngang qua viên chức tình báo tại tòa đại sứ Hoa Kỳ mà Trung Tá Tạ Thành Long -Tham Mưu Phó Hành Quân/Quân Đoàn 4- tiếp xúc nhận lệnh. Sau khi viên tình báo Hoa Kỳ buộc Trung Tướng Đức rút quân, Trung Tướng Nguyễn Khánh tạm thời không cho Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trở về Sài Gòn bởi ông nghi ngờ Đại Tướng Khiêm đứng sau lưng biến động quân sự này. Lúc ấy Đại Tướng Khiêm và gia đình lên Đà Lạt và dự trù trở về Sài Gòn trong ngày. Một tuần sau, Trung Tướng Khánh cho Đại Tướng Khiêm về Sài Gòn, nhưng buộc Đại Tướng Khiêm lưu vong từ ngày 07/10/1964. Tháng 12 cùng năm, đến lượt Trung Tướng Dương Văn Minh, cũng bị Trung Tướng Nguyễn Khánh buộc lưu vong.


Trung Tướng Nguyễn Khánh bị cáo buộc độc tài vì ông nắm giữ hầu hết các chức vụ lãnh đạo quốc gia: (1) Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng tức Quốc Trưởng và Tổng Tư Lệnh Tối Cao. (2) Thủ Tướng. (3) Tổng Trưởng Quốc Phòng. (4) Và Tổng Tư Lệnh Quân Đội (Chức vụ này thật ra là Tổng Tham Mưu Trưởng).


Ngày Quốc Khánh 01/11/1964, Trung Tướng Khánh cử kỹ sư Phan Khắc Sửu vào chức Quốc Trưởng, giáo sư Trần Văn Hương vào chức Thủ Tướng.


Ngày 15/02/1965, Trung Tướng Khánh lại cử Bác Sĩ Phan Huy Quát giữ chức Thủ Tướng thay thế Giáo Sư Trần Văn Hương. Hành động này cho thấy ông tự xem chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng trên chức Quốc Trưởng.


Ngày 19/02/1965, Thiếu Tướng Lâm Văn Phát sử dụng Sư Đoàn 25 Bộ Binh lãnh đạo cuộc “Đảo Chánh” lật đổ Trung Tướng Nguyễn Khánh nhưng thất bại, vì không được sự ủng hộ của các vị Tư Lệnh Sư Đoàn, Quân Đoàn. Hội Đồng Quân Lực ra lệnh rút quân về căn cứ. Sau đó, Hội Đồng Quân Lực quyết định loại Trung Tướng Nguyễn Khánh ra khỏi Hội Đồng này và buộc ông lưu vong từ ngày 25/02/1965.


Do không đồng quan điểm về thay đổi vài chức vụ trong chánh phủ, Quốc Trưởng từ chức, Thủ Tướng phải từ chức theo. Thủ Tướng Phan Huy Quát gởi thư yêu cầu Hội Đồng Quân Lực nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc gia. Sau những lần hội họp và bầu cử nội bộ: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ giữ chức Thủ Tướng mà lúc ấy gọi là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, và ngày 19/06/1965 Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia ra mắt quốc dân đồng bào cùng ngoại giao đoàn. Sau đó, ngày này được chọn là Ngày Quân Lực, và Ngày Quân Lực được tổ chức trọng thể tại thủ đô Sài Gòn vào ngày 19 tháng 06 năm 1966.


Cũng xin nói thêm. Sau cuộc Đảo Chánh ngày 30/01/1964, Trung Tướng Nguyễn Khánh nắm quyền lãnh đạo quốc gia, ông chọn ngày 30 tháng 01 làm Ngày Quân Lực, và Ngày Quân Lực 30 tháng 01 chỉ tổ chức lần duy nhất rất đơn giản trong phạm vi câu lạc bộ Bộ Tổng Tham Mưu vào ngày 30 tháng 01 năm 1965. Hơn 3 tuần sau đó, Trung Tướng Khánh lưu vong.


Ngày 09/03/1966, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu hẹp, cách chức Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 kiêm Đại Biểu Chánh Phủ miền Trung. Hệ lụy sau đó là những cuộc mít tinh biểu tình chống đối chánh phủ diễn ra tại miền Trung và vài tỉnh miền Nam. Bước thứ nhất đòi phục chức cho Trung Tướng Thi. Bước thứ hai đòi Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, và Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Tổng Trưởng Quốc Phòng, từ chức. Bước thứ ba đòi thực hiện dân chủ thông qua bầu Quốc Hội Lập Hiến để soạn thảo Hiến Pháp mới. Cuộc khủng hoảng kéo dài đến ngày 15/05/1966 kết thúc. Ủy ban Lãnh Đạo Quốc Gia tổ chức bầu Quốc Hội Lập Hiến vào tháng 09/1966. Và bản Hiến Pháp công bố ngày 01/04/1967. Những tháng còn lại của năm 1967, các cơ cấu dân cử mà Hiến Pháp qui định được thực hiện đầy đủ. Lần đầu tiên, Việt Nam có Quốc Hội lưỡng viện. Liên danh Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đắc cử Tổng Thống với Phó Tổng Thống và tuyên thệ nhận chức ngày cuối tháng 10/1967.


Ngày cuối tháng 01/1968, đêm Giao Thừa Tết Nguyên Đán Mậu Thân, quân cộng sản đồng loạt tấn công nhiều tỉnh lỵ miền Trung, đêm hôm sau tấn công các tỉnh lỵ miền Nam. Tuy bất ngờ, vì hai bên có công bố tự ý “hưu chiến trong 3 ngày Tết” để đồng bào mừng Năm Mới, nhưng quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã phản công chiếm lại tất cả các thành phố thị trấn trong thời gian ngắn nhất, chỉ riêng thành nội Huế phải trải qua 26 ngày chiến đấu mãnh liệt mới đánh bật hoàn toàn quân cộng sản. Trong trận chiến tại Huế, quân cộng sản đã vô cùng man rợ khi chúng bắt 5.327 người gồm Dân lẫn Quân và một số giáo sư giáo sĩ ngoại quốc đem giết bằng mọi cách, kể cả trói chặt và chôn sống! Mãi mấy tháng sau mới khám phá nhiều mồ chôn tập thể với hơn 2.800 bộ xương đếm được! Các cơ quan truyền thông thế giới ghi nhận những hình ảnh bi thương của Việt Nam nói chung và người dân Huế nói riêng, với nỗi ngậm ngùi của những người từng ghi nhận những cuộc tàn sát trong các cuộc chiến tranh trên thế giới!


Cuối năm đó hội nghị tại Paris Pháp quốc bắt đầu với những bên tham gia gồm: Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và một tổ chức có cái tên dài ngoằng là Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam do cộng sản Hà Nội thành lập cuối năm 1960 tại vùng biên giới Việt Nam-Cam Bốt, để làm bình phong cho họ. Trong khi hội nghị diễn tiến rất chậm chạp thì chiến trường trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa càng khốc liệt, và không quân chiến lược lẫn không quân chiến thuật Hoa Kỳ liên tiếp oanh tạc các cơ sở Tiếp Vận trên lãnh thổ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và dọc đường Trường Sơn, nơi mà những đoàn xe chuyển vận quân đội cùng súng đạn của quân cộng sản vào chiến trường Việt Nam Cộng Hòa.


Trận chiến “Mùa Hè năm 1972” do hằng chục Sư Đoàn quân cộng sản từ miền Bắc tràn qua vĩ tuyến 17 tấn công trực diện vào các căn cứ ở tỉnh Quảng Trị, luồn theo đường Trường Sơn trên đất Lào tấn công tỉnh Kon Tum, và từ bên trong biên giới đông bắc Cam Bốt tấn công sang tỉnh Bình Long. Tại mặt trận Quảng Trị, đại đa số đồng bào bồng bế gồng gánh theo quốc lộ 1 chạy về hướng Huế, có đến hằng ngàn người già trẻ lớn bé chết đầy đường do đạn pháo binh và hỏa tiễn của quân cộng sản bắn xối xả! Xác người ngổn ngang đến mức báo chí quốc tế gọi là “đại lộ kinh hoàng”, trong khi đoàn người chạy giặc cộng sản vẫn phải thoát chạy khỏi tầm tay cộng sản! Kết quả, cộng sản Việt Nam bị thất bại như đã thất bại trong cuộc tấn công đầu năm 1968 mà họ gọi là “tổng công kích”.


Do quyền lợi của Hoa Kỳ, nhất là sau khi Hoa Kỳ bắt tay với Trung Hoa cộng sản (năm 1972), “Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh & Tái Lập Hòa Bình Việt Nam” ký ngày 27/01/1973 tại Paris, thủ đô nước Pháp, với những lợi thế về phía cộng sản. Hoa Kỳ và Đồng Minh rút toàn bộ lực lượng ra khỏi Việt Nam, trong khi cộng sản Việt Nam vẫn được hỗ trợ mạnh mẽ từ cộng sản Nga và cộng sản Trung Hoa.


Ngay sau khi Hiệp Định có hiệu lực, quân cộng sản mở cuộc bao vây và tấn công căn cứ Tống Lê Chân ở ranh giới tỉnh Tây Ninh với Bình Dương. Không thấy quân đội Hoa Kỳ can thiệp, cộng sản xem như được khuyến khích tham vọng của chúng. Thế là bọn chúng tung các Sư Đoàn chính qui từ miền Bắc tràn qua vĩ tuyến 17, và luồn theo đường Trường Sơn tấn công Việt Nam Cộng Hòa khắp mọi nơi như chưa hề biết Hiệp Định Paris là gì cả.


Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vừa nhanh chóng phát triển lực lượng để lấp vào khoảng trống do quân Đồng Minh rút về nước, vừa quyết liệt chống trả quân cộng sản.


Ngày 07/01/1975, toàn tỉnh Phước Long thất thủ bởi sự bao vây và tấn công của khoảng 2 Sư Đoàn quân cộng sản. Ngày 13/03/1975, tỉnh Darlac (Ban Mê Thuột) lọt vào tay quân cộng sản. Ngày 17/03/1975, theo lệnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú Tư Lệnh Quân Đoàn 2, rút bỏ Cao Nguyên Miền Trung để đem quân phản công lấy lại Darlac. Nhưng cuộc hành quân lui binh trên đường liên tỉnh số 7 từ Kon Tum-Plei Ku-Phú Bổn xuống Tuy Hòa bị thất bại nặng nề chưa từng thấy trong chiến tranh Việt Nam đến lúc ấy. Đoàn quân bại trận đến mức không thể phản công Ban Mê Thuột như kế hoạch. Từ thất bại kinh hoàng đó, những cuộc lui binh của các đại đơn vị và đơn vị địa phương -nói cho đúng là tháo chạy hỗn loạn- từ Quảng Trị (19/03/1975), Thừa Thiên/Huế (26/03/1975), Quảng Nam/Đà Nẳng (29/03/75), Quảng Tín, Quảng Ngãi (23/03/1975), Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa (01/04/1975), Cam Ranh, Phan Thiết (19/04/1975), đến Bình Tuy, rồi Vũng Tàu. Chỉ có Sư Đoàn 18 Bộ Binh chấp nhận đánh với khoảng 2 Sư Đoàn quân cộng sản tại Xuân Lộc (Long Khánh), cho đến khi có lệnh của Quân Đoàn 3 mới rút về căn cứ Long Bình.


Trong khi đó, tình hình chính trị tại thủ đô Sài Gòn rất rối ren. Đêm 21/04/1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức. Theo Hiến Pháp, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương tuyên thệ nhậm chức. Tôi không rõ tường tận nguyên nhân nhưng rõ ràng là Đại Tướng Dương Văn Minh tạo áp lực buộc Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao chức Tổng Thống cho ông để ông cứu vãn tình hình. Sự bàn giao như vậy là vi phạm Hiến Pháp nên Tổng Thống Hương yêu cầu Quốc Hội lưỡng viện họp khẩn cấp để quyết định và ông thi hành theo quyết định của Quốc Hội.


Sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức, lần lượt những vị lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo quân đội, đến những vị có quân có quyền cấp Sư Đoàn Quân Đoàn, gần như ào ạt bỏ chạy ra ngoại quốc để lại đằng sau một dân tộc, trong đó có một quân đội hơn một triệu quân! Có vị Tư Lệnh Sư Đoàn ngay sau khi ra lệnh cho Sư Đoàn của mình quyết tâm phòng thủ, lập tức ra cửa sau lên phi cơ bỏ chạy. Với Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn súng trong tay, thử hỏi, còn nỗi đắng cay nào cay đắng hơn tình trạng cấp lãnh đạo bỏ chạy! Và liệu hành động đó có phải là đào ngũ không?


Đại Tướng Dương Văn Minh ngồi vào ghế Tổng Thống chiều 28/04/1975, sáng hôm sau, 29 tháng 4, Tổng Thống chánh thức yêu cầu Hoa Kỳ rút toàn bộ nhân viên quân sự dân sự ra khỏi Việt Nam trong vòng 48 tiếng đồng hồ.


Cuộc di tản gia đình quân nhân Việt Nam do Hoa Kỳ thực hiện từ đêm 24/04/1975 với tất cả sự âm thầm lặng lẽ, nhưng khi có lệnh của Tổng Thống đuổi Hoa Kỳ thì cuộc di tản trở nên hỗn loạn chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam cận đại!


Loạn thì lạc! Biết bao cảnh tượng hãi hùng kinh khiếp xảy ra ngay trước mắt!


Ngày 30 tháng 4 năm 1975, lúc 10 giờ 15 (?) phút sáng, từ máy thu thanh, có tiếng thúc giục: "... ông nói đi...., nhanh lên,.... chờ gì nữa,....". Một giọng nói gần như quát: "Ông tuyên bố nhanh lên..." Và đại ý lời của Tổng Thống Dương Văn Minh như là một mệnh lệnh đối với quân đội ".... các đơn vị không được nổ súng, ở yên tại chỗ và bàn giao cho lực lượng giải phóng...". Đối với phía cộng sản, ông yêu cầu đừng nổ súng và ông hứa sẽ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự.


Tháng 02/2007, người bạn từ Washington DC, gởi tặng tôi trang giấy có bút tích của Đại Tướng Tổng Thống Dương Văn Minh với nét chữ vội vàng và không mạch lạc như thế này:


“Tôi, Đại Tướng Dương Văn Minh, Tổng Thống chánh quyền Sài Gòn, kêu gọi quân lực Cộng Hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố, chánh quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn bộ chánh quyền từ trung ương đến địa phương cho chánh phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam”.


Hơn một tiếng đồng hồ sau lời tuyên bố đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh, đơn vị Thiết Giáp đầu tiên của quân cộng sản vào dinh Độc Lập. Từ giờ đó, Việt Nam Cộng Hòa chúng ta bị nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam cai trị!


Trước đó, khi cuộc chiến chưa ngừng tiếng súng, có những vị lãnh đạo cũng như những vị Tướng đầy quyền lực đã bỏ Việt Nam chạy ra ngoại quốc! Giờ đây, cuộc chiến thật sự đã tàn trong ý nghĩa thua trận, nhưng trong cảnh thua trận này, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chúng ta xuất hiện Những Vị Sĩ Quan & Tướng Lãnh Thật Sự Là Những Anh Hùng không kém những vị Anh Hùng trong lịch sử “thành mất chết theo thành”, đã can đảm tuẫn tiết khi chế độ tự do sụp đổ:


“Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn 4. (Cần Thơ)


“Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4. Chuẩn Tướng Hưng đã được vinh danh "Anh Hùng An Lộc" trong mùa hè đỏ lửa 1972 ở chiến trường An Lộc, tỉnh Bình Long.


“Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh. (Lai Khê, Bình Dương)


“Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. (Mỹ Tho)


“Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn 2, tự tử tại nhà ở Sài Gòn vì tên tuổi Quân Đoàn 2 đã bị chôn theo những nấm mồ vô danh trên đường liên tỉnh số 7 từ giữa tháng 3 năm 1975.


Ngoài ra, còn biết bao Quân Nhân thuộc các Quân Chủng, Binh Chủng, Binh Sở, Cảnh Sát, Viên Chức Hành Chánh các ngành, đã tuẫn tiết! Đó là "Những Anh Hùng Vô Danh" xứng đáng cho chúng ta trân trọng.


Vào những ngày 30 tháng 4, tôi nghĩ, chúng ta nên dành vài chục giây đồng hồ, đứng hay ngồi ở đâu đó cũng được, cúi đầu, im lặng, để tưởng nhớ những Quân - Dân- Cán - Chánh Việt Nam Cộng Hòa, và những vị Anh Hùng đã cùng chúng ta cầm súng chống quân cộng sản xâm lược, nhưng vào giờ phút cuộc chiến bảo vệ tổ quốc kết thúc bi thảm, đã can đảm thực hiện tròn vẹn lời thề trước bàn thờ Tổ Quốc trong ngày tốt nghiệp các trường võ bị:


"... Quyết hy sinh thân mình để bảo vệ Tổ Quốc Dân Tộc ..."


Một giai đoạn lịch sử do Tổng Thống Dương Văn Minh -vị Tổng Thống có nhiệm kỳ hơn 40 tiếng đồng hồ- vừa sang trang!


Dân Tộc Việt Nam, từ nay dưới sự thống trị của cộng sản độc tài nghiệt ngã!


Quê hương Việt Nam chúng ta,


dân tộc Việt Nam chúng ta,


sao mà bi thảm đến như vậy!


sao mà bất hạnh đến như vậy!


Chương 2 / Trước ngày vào trại tập trung.


- hai -


Trước ngày vào trại tập trung.


******


Những ngày đầu tiên trong bước ngoặc của xã hội Miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng, trong tình trạng hỗn loạn! Đường phố Sài Gòn vẫn ngổn ngang các loại quân trang quân dụng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Với hình ảnh tang thương bi đát đó, hầu như mọi người dân Sài Gòn đều có nỗi sợ hãi riêng theo cách nhìn cách nghĩ của mỗi người.


Trên đường phố, từng toán thanh niên mặc đủ thứ áo quần, tay cầm súng AK47 của cộng sản hoặc M16 lấy của quân đội chúng ta, trên cánh tay họ có đeo băng đỏ, ngồi ngông nghênh trên những chiếc xe Jeep chạy khắp phố phường, thỉnh thoảng bắn từng viên từng tràng lên khoảng không, càng làm tăng thêm nỗi sợ hãi của mọi người, vì trong thời gian hỗn loạn này có luật pháp gì đâu. Trường hợp như con trai anh Trung Tá hành chánh quân y Giang Văn Trọng trong cư xá Bắc Hải, gần góc đường Lê Văn Duyệt với Tô Hiến Thành, thuộc Quận 10, bị một phát đạn chết tại chỗ. Anh Trọng, tôi với các bạn trợ giúp mang xác con anh về chôn.


Những người cộng sản sống trà trộn và hoạt động trong lòng Sài Gòn từ lúc nào đó mà danh từ quân sự gọi là “cộng sản nằm vùng”, cộng với những toán thanh niên nói trên mà lúc ấy người dân gọi là “cộng sản 30 tháng 4”. Có nghĩa là họ làm như họ là cộng sản từ rừng sâu hay từ đồng ruộng vào Sài Gòn vậy. Thật ra họ chỉ là những kẻ lợi dụng tình trạng hỗn loạn của xã hội, để hùa với bọn cộng sản nằm vùng lẫn cộng sản từ các cánh quân vào chiếm thủ đô, rồi tranh nhau vào những căn nhà trước đây cho người ngoại quốc mướn, những nhà mà gia đình đã di tản ra ngoại quốc, các cơ sở của chánh phủ, của quân đội, của ngoại giao đoàn, để tranh đoạt tài sản bên trong. Họ tự tay khuân vác, họ dùng cả xe để chở bất cứ thứ gì họ giành được. Những hồ sơ giấy tờ họ vứt đầy đường, vì những thứ đó không phải là những thứ mà họ cần tranh đoạt.


Theo lệnh của “Ủy Ban Quân Quản”, cơ quan của cộng sản điều hành Sài Gòn-Gia Định lúc bấy giờ, cờ đỏ sao vàng và hình ông Hồ bày bán khắp đường phố. Trong tinh thần hoang mang sợ hãi, người dân Sài Gòn treo đủ thứ cờ, cờ cộng sản miền Bắc, cờ cộng sản miền Nam, người Việt gốc Hoa treo thêm cờ cộng sản Trung Hoa nữa. Người Việt gốc Hoa có lý khi làm như vậy vì Trung Hoa cộng sản là đàn anh của Việt Nam cộng sản mà.


Sáng ngày 03/05/1975, vợ chồng tôi đi chợ An Đông, nghe được mẫu đối thoại giữa người mua tạm gọi là ông A (người miền Nam), và người bán tạm gọi là bà B (người miền Bắc), như thế này:






Ông A: “Tấm hình ông Hồ bao nhiêu vậy bà?”






Bà B: “Hai chục”.






Ông A: “Mắc vậy. Miếng giấy nhỏ xíu có tấm hình lão già râu mà hai chục. Mười đồng được hông?”






Bà B: “Mười thì mười. Ông lấy đi. Tại thằng già này mà tôi bỏ làng bỏ xóm ngoài Bắc chạy vào đây, bây giờ gặp lại thằng chả. Chán mớ đời”.






Hai ông bà này vừa liếc nhìn chung quanh, vừa mua vừa bán.


Thôi thì tối ngày đài phát thanh ra rả điều mà họ gọi là “bách chiến bách thắng”, là “cả nước tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, là “chính sách khoan hồng nhân đạo” đối với quân nhân viên chức cán bộ của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cũ mà họ gọi là “ngụy quân ngụy quyền”. Trong khi họ ra rả những điều nói trên thì lác đác họ đã lùng bắt một số sĩ quan, như Đại Tá Hồ Văn Hiền thuộc ngành Quân Cụ ở đường Tô Hiến Thành (Quận 10, Sài Gòn), bị bắt vào khám Chí Hòa vì trong nhà có vài người bạn đến dùng cơm. Như Đại Tá Nguyễn Văn Phiên thuộc Bộ Quốc Phòng, trên đường từ Sài Gòn về Châu Đốc thăm nhà đã bị bắt giam tại Long Xuyên. Như Thiếu Uý Triệu Văn Lễ thuộc ngành Quân Nhu, bị bắt đưa vào giam tại Vĩnh Long…v..v..


Trong những tuần lễ kế tiếp, hằng trăm quân nhân viên chức -kể cả viên chức cấp Xã- đã bị những tổ chức địa phương gọi là “Ủy Ban Quân Quản” bắt đưa ra tòa án, mà hầu hết là bị những tên “răng đen mã tấu” xử tử hình. Những buổi nhóm họp mà cộng sản gọi là những phiên tòa, không giống bất cứ phiên tòa nào tại các quốc gia văn minh trên thế giới, vì chỗ nào ngồi được là mang bàn ghế đến đó ngồi xử án, và bất cứ tên cộng sản nào cũng có thể ngồi vào chiếc ghế chánh án mà không cần kiến thức tư pháp gì cả. Những phiên tòa của năm 1975 không có gì khác những phiên tòa thời “cải cách ruộng đất” những năm 50 trên đất Bắc. Tuy không có hình thức đấu tố, nhưng cách buộc tội dẫn đến bản án tử hình, về căn bản vẫn thế. Những phiên tòa diễn ra ở hai khoảng không gian cách nhau hằng ngàn dặm, với hai thời gian cách nhau trên dưới 20 năm, nhưng man rợ thì giống nhau.


Những nạn nhân mà họ gọi là “tội nhân” không được quyền biện minh cho mình, cũng không ai được phép biện minh cho họ. Điển hình cho những nạn nhân nói trên là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện, một tỉnh lọt thỏm giữa ranh các tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ), Kiên Giang (Rạch Giá), Bạc Liêu, An Xuyên (Cà Mau), và Ba Xuyên (Sóc Trăng). Đại Tá Cẩn cùng lực lượng dưới quyền, đã chống trả quân cộng sản đến khi bị chúng bắt chớ không đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh.


Chỉ đôi nét về cảnh tượng nói trên, cho phép chúng tôi nhận định hành động của quân cộng sản là hành động của kẻ cai trị tàn bạo, chẳng khác thời thực dân Pháp cai trị, nếu không nói là tệ hơn. “Tệ hơn” vì thực dân Pháp là kẻ ngoại xâm, trong khi quân cộng sản là kẻ nội xâm. Cả hai cùng là kẻ tàn bạo, nhưng cộng sản là kẻ tàn bạo kiểu man rợ rừng sâu trong khi thực dân Pháp là kẻ tàn bạo kiểu thị thành. Mới thoáng qua thời gian ngắn ngủi với một số trường hợp xảy ra, đã làm cho hằng triệu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ thường xuyên trong tình trạng sợ hãi. Không biết rồi đây cộng sản sẽ áp dụng biện pháp nào, nặng nhẹ ra sao, dù rằng hằng ngày trên làn sóng phát thanh trên màn ảnh phát hình của chúng tại Sài Gòn, cứ mang cái mảnh giấy “chính sách 10 điểm” mà chúng gọi là “chính sách khoan hồng nhân đạo” ra rao giảng.


Tôi nghĩ, câu nói đủ nghĩa nhất trong thời gian này là “nước mất nhà tan, người loạn lạc!”.


Thưa quí vị quí bạn, cư xá Bắc Hải, nơi có khoảng 750 gia đình sĩ quan cư trú mà hầu hết đều phục vụ tại các cơ quan đơn vị trong phạm vi Quân Trấn Sài Gòn. Trong những ngày đầu, hai cổng ra vào chưa bị đóng nên anh em chúng tôi trong và ngoài cư xá thường gặp nhau, hỏi thăm những tin tức trước mắt về nơi trình diện. Trong khi chờ đợi lệnh rõ ràng của chúng, cứ chỗ nào có thông cáo gọi trình diện là chúng tôi kéo nhau tới đó. Đến ngày 09/05/1975, thông cáo chánh thức gọi tất cả quân nhân viên chức cán bộ trình diện tại khu dự bị đại học, số 91 đường Trần Hoàng Quân (gần ngã sáu Chợ Lớn). Vợ tôi sợ lắm:


“Anh chở con gái (Tuyết Vân, 14 tuổi) theo, nếu có gì xảy ra Em còn biết tin tức của Anh mà lo liệu”.


“Anh nghĩ là tụi nó chưa bắt tụi Anh một cách ồ ạt đâu, nhưng Anh chưa ước tính được tụi nó áp dụng biện pháp trừng phạt như thế nào. Theo anh Đặng Đình Đán -Đại Tá ngành Chiến Tranh Chính Trị- cầm chắc là tụi nó bắt tụi Anh đi cải tạo. Đó mới chỉ là ước tính trước mắt thôi Em”.


Ngay sau ngày quân đội tan rã, chúng tôi ra chợ mua 2 chiếc xe đạp người lớn và 2 chiếc xe đạp nhỏ cho hai con lớn. Thường ngày chúng tôi đi chợ An Đông, trong khi vợ tôi vào chợ thì tôi mua gói khoai mì sượng (loại này ăn giòn giòn) ngồi trên yên xe dựa gốc cây mà ăn. Đúng là hình ảnh “người thất nghiệp!”


Đến địa điểm trình diện, con gái tôi đứng cạnh gốc cây bên ngoài rào coi chừng xe. Tôi vào trong. Cái quang cảnh lúc ấy cho đến bây giờ vẫn nguyên vẹn trong trí nhớ. Rất đông sĩ quan cấp Tá, mới ngày nào quân phục thẳng nếp mà giờ đây mặc thường phục nhăn nheo, đủ màu sắc, mặt mũi vóc dáng trông mất hẳn phong độ quân nhân. Tuy vẫn trao nhau những nụ cười nhưng rõ ràng là không thể che giấu những lo âu đằng sau những nụ cười đó! Đông đảo gặp nhau tuy không hẹn, nhưng nhờ đông như vậy nên ai nấy có vẻ vững dạ hơn, dù biết rằng nó bắt là nó bắt chớ không phải đông mà chúng nó không bắt. Mỗi sĩ quan trước khi ra khỏi nơi đây, phải nộp tất cả giấy tờ tùy thân quân sự lẫn dân sự, rồi nhận lại tờ giấy bé xíu có dòng chữ “Giấy Chứng Nhận Trình Diện”. Giấy trình diện của tôi số 116/13/AN, có chữ ký của tên Cao Đăng Chiếm, Ban An Ninh Nội Chính/Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định.


Bị thẩm vấn tại Sài Gòn.


Lần thứ nhất.


Vài ngày sau đó, một người mặc quân phục cộng sản có vẻ là sĩ quan, dừng xe Vespa trước nhà tôi: “Tôi muốn gặp Phạm Bá Hoa”.






“Tôi đây. Xin lỗi, anh là ai?” Tôi vừa đáp vừa hỏi.






Anh ta không trả lời, mà nói:






“Tôi đến đưa anh thư mời. Thủ trưởng của tôi mời anh đến cơ quan ở số 26 đường Lê Văn Hưu, để trao đổi một số vấn đề công tác của anh trong quân ngụy”.






Nghe giọng anh ta nhấn mạnh âm thanh “quân ngụy” tôi cảm thấy nóng mặt. Nhìn hắn một lúc, tôi hỏi: “Đường Lê Văn Hưu ở đâu?”






“Là con đường nhỏ, ngắn, gần Sở Thú. Anh biết Sở Thú không?”






“Biết”.






Không biết anh ta thấy gì trong câu trả lời cộc lốc của tôi, anh ta nói:






“Cơ quan chúng tôi chỉ mời anh đến trao đổi công tác chứ không gì đâu”.






“Anh thấy tôi thế nào mà anh cho là tôi sợ?”






“Không. Tôi nghĩ thế thôi”.






“Anh không phải nghĩ gì cả. Tôi đang đứng trước mặt anh có nghĩa là tôi chẳng sợ gì cả, với lại có sợ cũng chẳng giải quyết được gì”.






Lúc ấy, vợ tôi từ trên lầu xuống, anh ta đon đả:






“Chị an tâm. Chúng tôi chỉ mời anh đến làm việc một lúc vào sáng mai thôi. Không việc gì đâu chị”.






Anh ta có vẻ tâm lý chớ lúc đó vợ tôi chẳng có vẻ gì lo âu, nhưng khi anh ta đi rồi thì vợ tôi lo thật sự:






“Mai Anh nên cho con Trung (16 tuổi) theo Anh nghe?”






“Nếu tụi nó có làm gì Anh thì Em cũng chẳng kêu ca với ai được đâu, trong khi nó thấy Anh đem người theo có thể tụi nó cho rằng Anh sợ chúng nó bắt. Sợ thì sợ nhưng đừng lộ ra cho tụi nó biết Em à. Từ nay mình qui ước với nhau, nếu Anh đi đâu hết buổi mà không về thì coi như Anh bị tụi nó bắt. Em cho các bạn biết mà đề phòng. Đến lúc nào đó thì Em cũng biết tin Anh bị giam ở đâu thôi. Ngày mai, Anh sẽ đi một mình hà Em”.






“Dù sao Anh cũng không nên liều lỉnh”.






“Họ có kiêu hãnh của họ, mình cũng có kiêu hãnh của mình cho dù mình thua trận”.





Ngày hôm sau. Đây là lần đầu tiên tôi đến cơ quan của cộng sản mà không một bạn đồng đội nào của tôi có mặt. Khóa xe đạp xong, vừa lúc một lính cộng sản bước đến, lớn giọng:






“Anh là ai? Đến đây làm gì?”






Tôi im lặng trong khi đưa hắn tờ giấy. Lật qua lật lại, hắn nhìn tôi:






“Anh theo tôi.”






Đây là ngôi biệt thự nhỏ, xinh xắn. Vào gian phòng bên trong. Chiếc bàn con giữa bộ ghế mới toanh, một bình trà, 4 cái tách, và gói thuốc lá đen sản xuất ngoài Bắc. Khoảng 5 phút sau, một anh chàng khá cao, mặc quân phục bộ đội cộng sản nhưng không đeo cấp bậc, bước vào, ngồi xuống. Hắn mở gói thuốc đưa về phía tôi:






“Mời anh.”






“Cám ơn. Tôi không biết hút.”






Anh ta vừa rót trà vừa hỏi:






“Có phải anh là Phạm Bá Hoa không?”






“Phải. Tôi là Phạm Bá Hoa. Anh có bắt buộc cách xưng hô không?”






“Không. Trước hết tôi muốn biết trong gia đình anh có ai chạy ra nước ngoài không?”






“Em tôi thì có, vợ con tôi thì không.”






Hắn bắt đầu lên giọng:






“Anh chạy không được hay không muốn chạy?”






“Tôi tính sai nên không chạy được.”






Hắn nhìn thẳng vào tôi: “Nghĩa là anh có tìm cách chạy?”






“Đúng.”






Đôi mắt hắn cho tôi suy đoán hắn đang bực tôi với những câu trả lời khô khan gần như thách thức, hay ít ra cũng không kiên nễ hắn. Bỗng hắn dịu giọng cùng lúc với nét mặt trở nên nhẹ nhàng:






“Thôi được. Bây giờ tôi có một số vấn đề trao đổi với anh.”






“Trong thư mời có nói mục đích. Bây giờ tôi sẳn sàng.”






“Ông Khuyên của anh còn ở Sài Gòn không?”






“Tôi không biết.”






Nét mặt hắn đanh lại:






“Tại sao anh không biết, ông Khuyên là Thủ Trưởng của anh mà?”






“Đúng. Trung Tướng Khuyên là cấp chỉ huy của tôi, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi biết mọi hành động của ông ấy. Tôi chỉ biết Trung Tướng Khuyên rời văn phòng trưa ngày 29 tháng 4 (1975), sau đó tôi hoàn toàn không biết gì thêm.”






Hắn lại dịu xuống và mời tôi tách trà, nhưng hắn uống trà đắng quá nên tôi chỉ hớp một hớp là để xuống. Hắn lại hỏi:






“Tướng Viên của anh chạy hồi nào?”






“Tôi không biết.”






“Tôi có vào bàn giấy của anh. Bản tên của anh vẫn còn đó. Với cấp chức của anh như vậy tại sao anh không biết gì hết.”






Có vẻ như hắn nghĩ rằng trong chức vụ Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận là tôi phải biết nhiều việc trong Bộ Tổng Tham Mưu nên hắn có ý cho là tôi không nói sự thật. Nếu hắn nghĩ như vậy là đúng. Thấy tôi im lặng, hắn tiếp:






“Tôi muốn anh cho biết trong khu vực Bộ Tổng (Tham Mưu) của anh có hầm chứa vũ khí khí tài gì không?”






“Trước khi trả lời anh, xin anh giải thích khí tài là gì?”






“Nó có nghĩa như từ Quân Cụ của anh vậy.”


“Vậy là tôi hiểu. Trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu chúng tôi rộng lắm, với nhiều cơ quan khác nhau đồn trú trong đó. Riêng phạm vi Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi không có hầm hố gì cả, còn các cơ quan khác thì tôi không biết.”






“Các anh có hầm bí mật nào trong căn cứ Long Bình?”






“Chắc anh cũng biết căn cứ Long Bình rộng hằng mấy chục lần diện tích Bộ Tổng Tham Mưu, trong đó rất nhiều đơn vị quân đội, rất nhiều cơ quan kinh tế. Tại đó, chúng tôi có Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận và một Tổng Kho. Cả hai cơ quan này không có hầm bí mật nào cả, mà chỉ có hầm nửa nổi nửa chìm để tồn trữ hàng cần nhiệt độ lạnh của máy vô tuyến thôi. Bản thân tôi cũng chưa biết hết hai khu vực của cơ quan Tiếp Vận thì những cơ quan khác làm sao tôi biết. Với lại trong tồn trữ, quân đội chúng tôi không có khái niệm về hầm bí mật chôn giấu bất cứ loại trang cụ nào cả.”






“Tôi sang vấn đề khác. Anh suy tư gì khi quân đội cách mạng chúng tôi vào giải phóng hoàn toàn miền Nam?”






Tôi cầm tách trà và nhích từng nhích một để có thời gian tập trung những điều mà tôi ước tính khi bị chúng nó hỏi đến, và câu hỏi này nằm trong ước tính đó. Tôi nhìn thẳng vào mắt hắn và chậm rãi:






“Bây giờ nói gì thì nói, chúng tôi đã thua các anh rồi, nhưng có điều tôi không hiểu là tại sao chúng tôi thua và thua các anh như trong cơn ác mộng vậy.”






Hắn có vẻ bực: “Đây chính là câu tôi hỏi anh.”






“Vậy thì anh xem như tôi vừa trả lời anh.”






“Ngắn gọn quá. Anh có thể phát biểu cụ thể được không?”






“Như anh đã biết. Các đại đơn vị của chúng tôi từ Quảng Trị, Tây Nguyên, vào đến Biên Hòa, và thậm chí cả Sài Gòn nữa, xem như rút lui trước khi các anh đến, gọi là thua cũng được. Nhưng toàn bộ lực lượng Quân Đoàn 4 vùng đồng bằng Cửu Long sẳn sàng tác chiến mà vẫn thua. Và rất có thể vì chúng tôi thua một cách khó hiểu như vậy mà quân đội chúng tôi có đến 5 vị Tướng cùng nhiều sĩ quan đã tự sát tại đơn vị. Chắc anh có nghe tin này chớ? Tôi có giả thuyết rằng, phải chăng chúng tôi thua vì vấn đề chiến lược của các nước lớn là Hoa Kỳ, Nga Sô, và Trung Cộng chăng? Xin anh hiểu rằng, câu trả lời của tôi chẳng qua là do câu tự hỏi của tôi thôi.”


Hắn nhìn ra ngoài cửa, im lặng một lúc, hắn nhìn tôi với cái vẻ tâm lý:






“Được. Bây giờ cũng đến giờ ăn trưa, anh về kẻo chị và mấy cháu trông.”






Sau khi chào nhau, hắn tiễn tôi ra … tận gốc cây vì xe đạp của tôi khóa ở đó. Anh ta nói:






“Có thể một đồng chí nữa của tôi sẽ mời anh sau.”






“Tôi sẳn sàng.”






Về nhà, tôi thuật lại cho cựu Đại Tá Nguyễn Thành Chí (Bộ Quốc Phòng), cựu Đại Tá Lại Đức Chuẩn (Bộ Tổng Tham Mưu), và cựu Đại Tá Phạm Văn Thường (Tổng Cục Tiếp Vận) nghe. Lúc ấy tôi mới biết cơ quan đó (chẳng biết cơ quan gì) đã mời một số các bạn cấp Đại Tá thua trận đến thẩm vấn trước tôi.






Lần thứ hai.


Mấy hôm sau, vẫn anh chàng đi xe Vespa lần trước, đến đưa thư mời và anh ta rời ngay chớ không ra cái điều kiêu hãnh như trước. Vẫn tại số 26 đường Lê Văn Hưu. Qua lần trước, vợ con tôi có vẻ an tâm phần nào nên chỉ nhắc tôi cẩn thận khi gặp họ thôi.


Vừa khóa xong chiếc xe đạp vào gốc cây, vẫn anh lính gác nhỏ nhắn quê mùa hôm trước đến cạnh tôi. Sau khi xem thư mời, anh ta đưa tôi vào phòng làm việc. Đó là gian phòng nhỏ, không phải gian phòng lần trước. Một bàn viết, một ghế bành ngay sau bàn dành cho người “thắng trận”, và hai ghế nhỏ trước bàn chắc là dành cho người “thua trận”. Ngồi một lúc, anh lính có lẽ là lính tùy phái, cho tôi biết:






“Anh sẳn sàng. Thủ trưởng tôi sắp gặp anh”.






Danh từ “thủ trưởng” của cộng sản được hiểu là cấp chỉ huy đứng đầu cơ quan hay đơn vị. Và xem chừng cái anh chàng thủ trưởng nào đó có chức vụ cao hơn cái anh chàng lần trước chăng? “Chào anh”.






Anh chàng này có vóc dáng cao lớn, mặt mũi có phần thô kệch, vừa bước ra lên tiếng như vậy. Trước khi ngồi vào ghế, anh ta chìa tay ra bắt tay tôi.






“Chào anh”. Tôi nhớm dậy bắt tay anh ta.






Hắn rót nước trà vào hai cái tách. Từ chiếc bình cao bên trên, dòng trà đậm tuôn vào tách tạo nên âm thanh róc rách, bỗng dưng tôi liên tưởng đến âm thanh của dòng suối Yaly trong vùng rừng núi Kon Tum, nơi mà 20 năm trước tôi phụ trách theo dõi các đơn vị của Trung Đoàn 35 Bộ Binh huấn luyện. Chẳng hiểu sao trong tình cảnh ấy mà tôi chợt có một thoáng lãng mạn như vậy nữa.






“Anh xơi nước”. Lời của hắn kéo tôi trở lại thực tế.






“Mời anh”.






Tôi hớp vài ngụm trà, đắng ơi là đắng. Tôi thầm nghĩ: “Vậy là họ uống trà thật đặc. Rất có thể họ quen dùng trà đặc để chống đỡ khí lạnh khi họ lầm lũi trong rừng núi dọc con đường sinh bắc tử nam mà họ gọi là đi “giải phóng” đó chăng?”


Hắn bắt đầu với cái vẻ chậm rãi:


“Tuần trước tôi bận công tác nên một đồng chí của tôi tiếp anh. Tôi có biết qua những trao đổi đó. Hôm nay tôi mời anh đến đây trao đổi tiếp vài vấn đề”.






“Tôi sẳn sàng”. Tôi đáp.






“Anh có chắc là ông Tướng Khuyên của anh đã chạy sang Mỹ không?”






Hắn hơi nhấn mạnh mấy chữ cuối câu.






“Tôi chỉ biết là ông ấy rời khỏi văn phòng trưa ngày 29 tháng 4 (1975), còn sau đó tôi không biết gì thêm.”






“Có một Đại Tá của mấy anh nói với chúng tôi là ông ta đi không được. Anh nghĩ sao?”






“Tôi biết chắc chắn là Trung Tướng Khuyên đã vào Tân Sơn Nhất để di tản bằng trực thăng, còn thật sự có đi được hay không thì tôi không thể trả lời anh được. Với lại tôi nghĩ, anh nên hỏi thêm tin tức ở anh nào đó đã nói với anh cho rõ. Phần tôi, tôi chưa biết số phận của tôi và gia đình tôi ra sao, còn lòng dạ nào nghĩ đến cấp chỉ huy cũng như những đồng đội của tôi đi được hay không đi được”.






Hắn nhìn thẳng vào mặt tôi: “Sao anh bi quan quá vậy?”






Không kém. Tôi cũng nhìn thẳng vào hắn:






“Tôi không cho là bi quan. Nhìn nhận một sự thật không phải là bi quan.”






Hắn dịu giọng với cái vẻ tình cảm: “Bây giờ mình sang vấn đề khác.”






“Tôi sẳn sàng”.






Tôi hay dùng câu này để hắn hiểu là tôi chấp nhận đối phó với hắn.






“Cái hầm bí mật trong Bộ Tổng (Tham Mưu) của mấy anh ở chỗ nào?”






“Lần trước tôi đã trả lời rồi. Tôi xin lặp lại với anh, trong phạm vi cơ quan tôi làm việc không có hầm hố gì cả, còn trong phạm vi các cơ quan khác thì tôi không biết.”






Thật ra trong Bộ Tổng Tham Mưu có một cái hầm bí mật mà Trung Tướng Nguyễn Khánh cho Công Binh xây cất năm 1964 để các cấp lãnh đạo tránh bom trong khi vẫn chỉ huy chiến đấu trong trường hợp quân cộng sản nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sử dụng đến Không Quân. Hầm này có cầu thang xoáy ốc từ cuối phòng trước mặt của vị Tổng Tham Mưu Trưởng đi xuống. Cầu thang xuyên qua phòng họp ở tầng trệt, nhưng nếu không để ý cũng không dễ gì nhận ra tác dụng của cầu thang xoáy ốc này.






Hắn ra chiều tức tối và bắt đầu gay gắt:






“Anh có biết quân ngụy của anh thua trận không?”






“Dĩ nhiên là tôi biết, nhưng tôi không biết tại sao chúng tôi lại thua các anh, và vì thua trận nên giờ này tôi ngồi trước mặt anh đây.”






“Thua trận, lại được đảng với nhà nước khoan hồng nhân đạo. Tại sao anh vẫn ngoan cố không chịu hợp tác khai báo với chúng tôi?”






“Tại các cơ quan mà tôi đã trình diện cũng như bây giờ, các anh hỏi điều gì tôi khai báo điều đó. Vậy mà anh cho là tôi ngoan cố trong khi tôi tự thấy tôi rất thành thật khi trả lời câu hỏi của anh. Tôi biết phải trả lời như thế nào anh mới cho là không ngoan cố?”






Hắn lại dịu giọng nhưng không còn chút lịch sự như lúc bắt đầu nữa:






“Tại Long Bình, các anh chôn giấu vũ khí khí tài trong hầm bí mật rất lớn. Hầm đó ở chỗ nào?”






“Anh hỏi những câu mà tôi không biết, rồi anh nói tôi ngoan cố. Tôi không biết phải trả lời anh như thế nào vì lần trước tôi đã trả lời rồi. Riêng những cơ quan Tiếp Vận của chúng tôi trong căn cứ Long Bình, không có hầm bí mật nào cả. Đơn giản vì trong tồn trữ, chúng tôi không có khái niệm về hầm bí mật như các anh.”


Im lặng một lúc, hắn lại rót trà, nhưng là rót cho hắn chớ không mời tôi nữa. Hắn nhìn ra sân, nốc một hơi hết chun trà chắc là cho hạ cơn giận, rồi quay sang tôi:


“Anh cứ ngồi đây, trong chốc lát trao đổi tiếp.”


Hắn đứng lên, bước vội vào phòng bên cạnh. Tôi nghĩ: Dường như hắn tự hưu chiến để cơn giận hạ xuống rồi “oánh” tiếp, hoặc lục lọi tài liệu gì đó để nghiên cứu thêm, hoặc cũng có thể tạo không khí im lặng khó thở để thần kinh tôi căng thẳng dễ bị hắn “oánh” chăng?


Áng chừng 10 phút sau, hắn ngồi vào ghế, giọng hắn mềm mại như lúc bắt đầu:






“Gia đình ta có mấy người làm tay sai cho chế độ Thiệu? Và có ai theo cách mạng không?”






Chừng như hắn cho tôi là con nít không bằng, khi hắn hỏi “gia đình ta có mấy người làm tay sai cho chế độ Thiệu”, nghe mà dễ giận:






“Trừ tôi ra, không một ai trong thân quyến tôi làm việc trong chế độ của chúng tôi vừa sụp đổ, và cũng không có người nào tham gia hoạt động trong hàng ngũ các anh.”






“Gia đình anh có cơ xưởng hay nhà máy sản xuất gì?”






“Không có gì cả.”






Hắn ghìm đôi mắt vào trang giấy xếp đôi nhưng tôi không rõ có chữ nghĩa gì trong đó. Đoạn, hắn nhìn tôi:






“Anh trong sạch quá hả?”






“Không. Tôi biết tôi chẳng trong sạch gì, vì nhiều lần tôi đã dùng xăng của quân đội đổ vào xe riêng.”






“Anh có tin vào chính sách khoan hồng nhân đạo của đảng với nhà nước đối với sĩ quan ngụy các anh không?”






“Nói thiệt với anh, cho đến lúc nào tôi còn sống bên cạnh vợ con tôi thì tôi biết là tôi chưa chết.”






Hắn xuống giọng:






“Sao anh bi quan vậy? Thời gian học tập cải tạo là cần thiết để các anh có điều kiện tiếp thu tư tưởng cách mạng.”






“Tôi nghĩ lời anh nói không đúng. Tôi không bi quan, nhưng chỉ riêng một số trường hợp mà các anh áp dụng trong cư xá chúng tôi, đã không cho chúng tôi điều gì để gọi là lạc quan cả. Với lại tôi nghĩ là tôi thực tế chớ không phải là bi quan. Nói cho cùng, anh em chúng tôi trong tay các anh, hà tất phải bi quan.”






Giọng hắn trở nên gắt gỏng:






“Anh làm tay sai trong quân đội ngụy bao lâu?”






“Hơn 20 năm, hay nói 21 năm cũng được.”






“Trong cơ quan anh có bao nhiêu Đại Tá bỏ chạy?”






“Tôi không rõ, vì mạnh ai nấy tìm đường thoát thân, và tàn cuộc chiến chưa ai liên lạc với ai nên tôi chưa biết trong số bạn tôi, ai đi ai còn.”






“Chức vụ Tướng Khuyên là gì?”






“Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.”






“Dưới ông Khuyên là ai?”






“Đại Tá Phạm Kỳ Loan.”






“Dưới ông Loan là ai?”






“Là tôi.”






“Anh vẽ cho tôi tổ chức của anh được không?”






“Được.”


Tôi ngồi vẽ tại chỗ về tổ chức tổng quát của bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận. Tôi nghĩ, không chắc hắn cần sơ đồ này mà có thể hắn dò xem tôi có khai thật với hắn không, vì tất cả tài liệu về tổ chức lẫn hoạt động của Tổng Cục Tiếp Vận còn nguyên trong các tủ, thể nào hắn cũng có trong tay. Cho nên có giấu cũng chẳng lợi gì mà có khai cũng chẳng có gì hại. Nghĩ vậy, tôi vẽ đúng sự thật.


Hắn xem một lúc rồi lật qua lật lại, cuối cùng hắn để sang một bên, hỏi tiếp:


“Anh có thể vẽ lại tổ chức Bộ Tổng (Tham Mưu) của mấy anh được không?”






“Không. Vì tôi không biết hết các cơ quan của Tổng Tham Mưu.”






Hắn nhìn tôi một lúc, chừng như hắn quan sát xem tôi có thành thật hay không thì phải. Hết nhìn tôi lại nhìn ra cửa, tôi tưởng là hết chuyện. Nhưng không, hắn lại hỏi:






“Tôi trở lại câu mà đồng chí của tôi đã hỏi anh hôm trước. Anh có biết tại sao các anh thua nhanh như vậy không?”






Hóa ra là hắn suy nghĩ tìm cách kéo tôi trở lại câu hỏi và có lẽ đó là câu hỏi chánh thì phải. Tôi đáp:






“Vẫn là câu trả lời lần trước vì tôi không thể có câu nào khác, nhưng tôi nói thêm với anh rằng, nhiều anh em chúng tôi nhìn nhận sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi như cơn ác mộng mà trong thực tại không thể chối bỏ, và thực tại đó chắc sẽ còn dài lâu trong anh em chúng tôi.”






“Anh có cho rằng, quân đội mấy anh thua trận là do tan rã hàng ngũ không?”






Tôi hơi ngạc nhiên khi hắn đặt câu hỏi như vậy, vì tôi cứ nghĩ là hắn sẽ huênh hoang đề cao cái quân đội của hắn:






“Tôi chưa hiểu rõ chữ tan rã mà anh vừa nói.”






Hắn gằn giọng: “Anh hiểu thế nào?”






“Có phải anh cho là chúng tôi tan rã hàng ngũ mà thua các anh phải không?”






“Đồng chí của tôi nói đúng. Anh rất ngoan cố.”






Tôi cố gắng giữ bình tỉnh và thầm nghĩ, đã vào hang cọp thì nó muốn ăn thịt mình lúc nào chẳng được, có sợ hãi cũng không giải quyết được gì, cho nên cần giữ phong cách vững vàng cho hắn thấy tư cách và nhận thức của người thua trận. Tôi từ tốn:






“Theo tôi, suy cho cùng, sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi vẫn là một vấn đề chiến lược từ bên ngoài.”





“Anh ám chỉ Hoa Kỳ phải không?”






“Tôi không có ý như vậy.”






“Anh ngoan cố. Anh đã nói như vậy với đồng chí của tôi trong lần trước.”






“Chắc là do hiểu lầm thôi, vì đó chính là câu mà tôi tự đặt ra cho tôi để thay câu trả lời chớ không phải câu xác định. Sự nhầm lẫn trong ngôn ngữ chính trị cho dẫu là vô tình, thường khi rất nguy hại.”





“Tôi trông đợi ở anh vì các bạn anh đều khai rằng, anh là người ở Bộ Tổng (Tham Mưu) lâu năm, nhưng sau hai lần trao đổi, anh chẳng nói lên được điều gì. Anh có thấy thế không?”






Bỗng dưng hắn dịu giọng đến mức như tâm tình, ra cái điều như bè bạn vậy. Nếu tôi thiếu thận trọng là dễ rơi vào bẫy của hắn. Tôi đáp:






“Biết làm sao hơn khi mà tôi chỉ biết có bấy nhiêu đối với những câu hỏi của anh. Chúng tôi đã thua các anh rồi, còn gì mà giấu nữa. Với lại nói là làm Chánh Văn Phòng cho ông này ông kia, nhưng tôi chỉ lo những việc lặt vặt của các vị ấy, còn việc quan trọng thì có các cơ quan phòng sở nhận lệnh và trực tiếp thi hành rồi.”






Hắn đưa tay lên xem đồng hồ, chắc mới chia chác đâu đó nên có cái đồng hồ mới toanh, màu vàng óng ánh. Bỗng dưng hắn mỉm cười:






“Anh có thể về dùng cơm. Chúng tôi sẽ mời anh sau.”






“Chào anh.”






Tôi không quên lời của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu tại Quốc Hội iưỡng viện trong trận chiến Tết Mậu Thân đầu năm 1968: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỷ những gì cộng sản làm”, nên tôi ứng dụng ngay trong lần thẩm vấn trước và rút ra chút kinh nghiệm, giúp tôi thêm tự tin khi vào “hang cọp”. Với chút kinh nghiệm khi đối diện với kẻ thắng trận, suy nghĩ của tôi vừa giữ những bí mật cần thiết dù chưa biết lợi ích ra sao, vừa giữ phong cách của người sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và lần thứ hai này tôi đã “xung trận” với họ trong sự suy nghĩ đó.


Từ sau ngày có lệnh trình diện chánh thức (9/5/1975) cổng ra vào cư xá Bắc Hải bị khép chặt, các anh em sĩ quan chúng tôi không một ai được ra khỏi cổng, cũng không một ai từ bên ngoài được vào. Chúng tôi thường gặp nhau bên trong cư xá để bàn những chuyện xoay quanh những biện pháp mà chúng nó có thể áp dụng với mình mà chúng nó gọi là “quân ngụy”. Thật ra chỉ là bàn chuyện theo cách suy nghĩ của người tự do chớ có ai hiểu gì về phía cộng sản đâu, ngoại trừ anh Đặng Đình Đán (Tổng Cục Chiến Thanh Chính trị) là có chút kinh nghiệm. Một buổi sáng, hai chúng tôi ngồi trên xích đu trong sân nhà tôi, anh nói:






“… Bác Hoa này, bác nhớ là khi bị chúng nó thẩm vấn chỉ trả lời càng ngắn càng tốt, không nên giải thích dài dòng, vì càng dài dòng chúng càng moi được những sơ hở rất thành thật của mình để rồi chúng nó qui trách tội này tội khác…”






Anh Đán giải thích thêm rằng:






“… Khi cộng sản muốn kết tội thì chúng hỏi mình thật nhiều lần về một nội dung, dĩ nhiên là cách hỏi có thể khác nhau đôi chút. Phương cách đó dễ làm cho người bị tra hỏi trở nên bực mình, để rồi rơi vào áp lực tâm lý càng lúc càng nặng mà trả lời bừa bãi. Hoặc nếu mình nói dối, thì trong nhiều lần trả lời thể nào cũng có những điểm không giống nhau, thế là chúng nó căn cứ vào đó để kết tội, một cái tội nghe rất kỳ cục là “phản cách mạng”. Kỳ cục ở chỗ là người bị kết tội có bao giờ tham gia hàng ngũ của chúng đâu mà chúng gọi là “phản cách mạng.”






Phỏng vấn thu hình.


Một buổi sáng, anh Nguyễn Kim Sơn dẫn một nhóm người đến gõ cửa. Thấy anh kỹ sư Sơn trong cùng cư xá nên tôi mở cửa:






“Chào anh Sơn. Có việc gì vậy?”






“Đây là các anh ở đài truyền hình đến xin phỏng vấn anh.”






Rồi anh giới thiệu:






“Đâ là Cán bộ. Đây là anh Tổ trưởng. Và đây là chuyên viên quay phim.”






Sau khi ngồi vào ghế, anh chàng được giới thiệu là Tổ Trưởng tự giới thiệu:






“Tôi là bác sĩ, nhưng tôi không thích nghề đó mà lâu nay tôi theo ngành truyền hình.”






Trời đất! Nghe hắn tự giới thiệu là tôi mỉm cười vì tôi tin là hắn “xạo”. Bởi vì cái xã hội xã hội chủ nghĩa của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trên đất Bắc, làm quái gì có hệ thống truyền hình mà hắn theo từ lâu. Từ cái xạo đó, tôi nghĩ, không chừng cái danh xưng “bác sĩ” cũng là “xạo” luôn nữa chăng? Chẳng qua là mới tập tễnh trong ngành này từ khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ chớ bao lâu đâu. Trong khi “Tổ trưởng truyền hình xạo” tự giới thiệu, anh chuyên viên chuẩn bị thu hình, còn anh chàng được giới thiệu là cán bộ thì ngồi viết lia lịa, chẳng hiểu là anh ta viết cái thứ gì trong ấy.






Trước khi thu hình, “Tổ Trưởng xạo” hỏi tôi:






“Anh có cần viết trước không?”






“Không.”






“Khi chúng tôi mở đèn anh cố giữ tự nhiên nhé!”






Có lẽ hắn nhà quê nên tưởng ai cũng quê như hắn?”






“Anh không cần nhắc điều này.” Tôi bắt đầu tưng tức.






“Vậy thì thuận lợi đấy.”






Tôi hỏi: “Tại sao là thuận lợi?”






Với một thoáng nhìn biểu lộ vẻ ngạc nhiên: “Anh hiểu sao cũng được.”






Bắt đầu phỏng vấn. Lúc ấy có cả vợ và các con tôi ngồi cạnh. Anh ta hỏi: “Trong gia đình anh có ai chạy ra nước ngoài không?”






“Không.”






“Những ngày cuối cùng, gia đình anh có ai thiệt hại gì không?”






“Không.”






Hắn mở tờ thông cáo ra và hướng sang tôi:






“Anh suy nghĩ gì về chính sách khoan hồng nhân đạo của cách mạng đối với ngụy quân ngụy quyền?”






“Tôi có đọc thông cáo đó và anh bộ đội gác cổng cư xá chúng tôi cũng đã xé bỏ nó khi tôi đưa anh ta xem để xin ra cổng, đưa con tôi đi băng bó cánh tay bị sai khớp xương do trượt chân trên nền gạch. Anh ta nhất định không cho, và nói rằng tờ giấy đó có giá trị gì mà đưa anh ta. Hành động đó làm tôi cảm thấy nóng mặt và tôi quay vào. Vậy là giữa lời nói với việc làm của Ủy Ban Quân Quản không đúng, nhưng tôi nhìn nhận cho đến bây giờ, tôi và gia đình tôi vẫn an toàn, còn từ bây giờ về sau tôi chưa rõ.”






Hắn khựng một lúc:






“Cách mạng nói là làm, anh hãy tin vào cách mạng.”






Tôi chờ hắn hỏi thêm để trả lời nhưng hắn nói đến đây là hết phần thu hình. Bấy giờ anh chàng “cán bộ” hỏi tôi:






“Anh là Đại Tá, chắc anh giết nhiều con nít lắm mới được quân hàm đó phải không?”






Có thể lúc ấy mặt tôi đỏ lên, và tôi phải trấn tĩnh lại mới trả lời hắn:






“Quân đội nhân dân của anh thăng cấp như vậy sao?”






“Tôi hỏi anh sao anh hỏi lại tôi?”






“Vì đây là lần đầu tiên tôi nghe câu hỏi như vậy. Tôi nghĩ là anh nên hỏi bất cứ người dân nào ở Sài Gòn này và cả miền Nam chúng tôi nữa, anh sẽ có câu trả lời, vì câu trả lời của tôi có chắc gì anh tin”.


Nhóm thu hình ra về. Tôi trở lại chuyện anh Nguyễn Kim Sơn, đang là “Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng” cư xá Bắc Hải. Năm 1973, bà con trong cư xá bầu ra một Ủy Ban Xây Dựngngôi chùa An Quốc trong khuôn viên cư xá. Bác sĩ Hoàng Gia Hợp trách nhiệm Trưởng Ban, tôi trách nhiệm Tổng Thư Ký, anh Nguyễn Kim Sơn -kỹ sư điện- trách nhiệm kỹ thuật, dường như anh Lê Kim Ngô -Đại Tá Công Binh- trách nhiệm xây dựng thì phải, và một số vị khác nữa. Ngôi chùa đã cử hành lễ an vị Tượng Phật ngày 8 tháng chạp âm lịch (đầu năm 1975).


Ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, anh Sơn tự thành lập Ủy Ban nói trên trước sự ngỡ ngàng của bà con trong cư xá, nhất là tôi và các vị trong Ủy Ban Xây Dựng chùa An Quốc. Lúc bấy giờ anh Sơn cho tôi biết, anh thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và “nằm vùng” từ khi anh là nhân viên của hãng thầu Hoa Kỳ RMK-BRJ ở Qui Nhơn.


Trong những ngày đầu tiên này phải công nhận anh Nguyễn Kim Sơn rất sốt sắng giúp đỡ các sĩ quan trong cư xá, nhất là khi hai cửa ra vào cư xá bị đóng lại dưới sự canh gác của lính cộng sản, anh Sơn đã vào nhà tướng cộng sản Trần Văn Danh -chiếm nhà của Trung Tướng Phạm Quốc Thuần- ngay sau lưng nhà tôi, để can thiệp cho các sĩ quan được tự do ra vào cư xá trong khi chờ ngày học tập cải tạo. Tướng cộng sản đã mắng chửi anh Sơn là nuông chiều chúng tôi trong khi anh Sơn quì dưới chân ông ta.


Anh Sơn nói với tôi:






“Anh Hoa ơi! Dường như lý tưởng của tôi đặt không đúng chỗ.”






Tôi im lặng. Suy nghĩ… , vì điều mà anh gọi là lý tưởng đối nghịch với lý tưởng mà tôi phụng sự.






Nhưng rồi anh được lệnh (chẳng biết từ đâu) tịch thu tất cả nhà không có chủ hợp pháp để giao cho cán bộ chúng nó vào ở. Anh Sơn nhờ cựu Đại Tá Đàm Quang Yêu làm Trưởng Toán Kiểm Kê, một nhân viên của Phường xuống làm Phó Toán. Anh Đàm Quang Yêu nhờ tôi tiếp tay làm Thư Ký. Tôi với anh Yêu -cùng trong cư xá- bàn với nhau là hãy làm hết sức mình để thân nhân của những bạn đã di tản, đem ra khỏi nhà những gì có thể đem ra được mà không bị tên Phó Toán ngăn chận, vì hắn là cộng sản của Phường. Có tất cả 174 nhà trong danh sách kiểm kê có lẽ do anh Sơn thiết lập. Sau cuộc gọi là kiểm kê này, hầu như những đồ dùng như: tủ lạnh, tivi, đàn piano, xe xấu để lại xe còn tốt đem ra, đến bàn ghế cũng vậy, cái nào bán được giá thì đem ra. Không phải dễ dàng nhưng vì Phó Toán là tên cộng sản từ rừng núi vào thành phố nên hắn không hiểu hết giá trị của những đồ dùng trong nhà, nhờ vậy mà mạnh dạn cãi lý với hắn là hắn làm thinh. Hễ hắn làm thinh thì người trong nhà dọn ra ngay, sau đó đem gởi hàng xóm để khi nào cho đem ra khỏi cổng thì đem. Công việc cũng kịp lúc, vì tuần lễ sau đó là cái bọn rừng rú thắng trận ào ào vào chia nhau chiếm nhà.


Nói cho thật đúng, anh Nguyễn Kim Sơn cũng đồng ý với anh Đàm Quang Yêu và tôi cố gắng giải quyết vấn đề như vậy.


Khi tôi vào trại tập trung, cựu Thiếu Tá Trương Nguyên Thảo (anh vợ của anh Sơn) cho biết anh Nguyễn Kim Sơn bị bắt vào tù với tội “dùng vũ khí bất hợp pháp”. Bị ngồi tù ở khám Chí Hòa, tôi nghĩ, đó là chính sách “vắt chanh bỏ võ” như chúng đã bỏ hẳn cái võ “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” sau khi chiếm được Việt Nam Cộng Hòa vậy. Sau khi ra tù, anh Nguyễn Kim Sơn và gia đình vượt biển sang định cư ở Cộng Hòa Liên Bang Đức. (Mùa hè năm 2003, khi hay tin vợ chồng tôi du lịch Âu Châu, vợ chồng anh có đến thăm tại nhà thông gia chúng tôi ở thành phố Langen, ngoại ô thành phố Frankfurt)






Đôi nét phản ảnh sinh hoạt miền Bắc.


Tôi không chứng kiến những gì xảy ra ngoài phố, vì từ giữa tháng 5 (1975) họ đã quản thúc tất cả sĩ quan trong cư xá, tuy không có lệnh nào tống đạt đến chúng tôi như vậy nhưng đóng chặt hai cổng ra vào thì có khác gì quản thúc đâu. Cũng vì quanh quẩn trong cư xá nên thu nhặt được vài mẫu tin vặt đã xảy ra trong cư xá hoặc do các bà từ bên ngoài cư xá vào thuật lại, nhưng từ đó cho phép suy đoán sinh hoạt của người dân xã hội chủ nghĩa nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc).


Mẫu chuyện thứ nhất. Toán quân cộng sản vào chiếm căn nhà X10 (cách nhà tôi một căn) của Trung Tá Lương Phúc Xinh, Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn 25 Bộ Binh đã bị bắt trong khi gia đình anh đã di tản. Trong toán này có một đứa thỉnh thoảng lén sang nhà tôi xem tivi. Anh ta sinh ra và lớn lên trên đất Bắc. Một hôm, anh ta thuật chuyện ra cơ quan lãnh gạo (trước đó là cơ sở Cục Quân Tiếp Vụ, đường Tô Hiến Thành), thấy nhiều người đang nhốn nháo chỗ phòng vệ sinh. Và chuyện như thế này: “Toán nấu ăn mà anh ta gọi là anh nuôi thả vô cái chậu 2 con cá lóc để chiều ăn, nhưng phút chốc 2 con cá biến mất. Trong toán nghi ngờ lẫn nhau, vì thế mà cãi nhau to tiếng nặng lời. Cũng may lúc ấy có người nhà là dân Sài Gòn (di cư năm 1954), đến tìm bà con trong toán lính cộng sản này. Sau khi thuật chuyện và dẫn bà ta vào xem cái chậu, bà cười lớn và giải thích:






“Cái mà mấy anh gọi là “cái chậu” là cái cầu tiêu đó. Vậy là 2 con cá lóc xuống hầm cầu tiêu mất rồi”.






Câu chuyện chấm dứt ở đó, và anh ta nêu thắc mắc:






“Chúng tôi thấy trong (Nam) này làm cầu ỉa trong nhà, lượng phân thải ra không thu lại để chăm bón rau xanh, thật là phí. Còn chỗ ngồi ỉa cần gì phải làm đẹp như đồ sành đồ sứ trang trí trong nhà, phí phạm tài sản nhà nước quá”.






Người cộng sản xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc không dùng chữ “đi cầu” hay “đại tiện” mà họ dùng chữ “ỉa”. (Năm 1979 tôi bị giam tại trại tập trung Nam Hà A, khi họ bắt chúng tôi quét dọn nhà của tên Trung Tá Trại Trưởng, thấy ghi chữ “ỉa nam” và “ỉa nữ”. Điều này xác nhận nền giáo dục nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đào tạo nên những thế hệ với ngôn ngữ như vậy đó).


Anh ta nêu thắc mắc một cách tỉnh bơ làm tôi liên tưởng như suốt ngần ấy tuổi đầu, anh ta chỉ sống trong rừng sâu mới vào thành phố, hoặc anh ta ở thành phố nhưng sinh hoạt trong thành phố xã hội chủ nghĩa miền Bắc chẳng khác người sống trong rừng sâu bao nhiêu.






Tôi hỏi: “Vậy ngoài Bắc các anh làm cầu tiêu ở đâu?”






“Nhà nước hướng dẫn làm cầu 2 hầm và làm bên ngoài nhà. Khi hầm bên này đầy thì đậy nắp lại rồi dùng hầm bên kia. Độ 3 tháng thì phân hoai (được hiểu là khô lại và ít mùi hôi), lúc đó xúc vào thùng làm phân bón rau xanh hoặc đem bán cho những hợp tác xã.”






Tôi thấy hứng thú về tìm hiểu xã hội miền Bắc, nên hỏi tiếp:






“Đó là vùng ngoại ô. Vậy trong thành phố làm sao có đất như ở làng quê mà làm cầu 2 hầm?”






Anh ta đáp:






“Ở nội thành thì làm trong nhà, mỗi sáng có xe thùng đến từng nhà lấy phân ngay dưới chỗ cầu ỉa đổ vào xe, đem bán cho các hợp tác xã nông nghiệp ngoại thành. Tôi thấy trong Nam mấy anh phí phạm nguồn phân này quá. Nhà nước nói bỏ như vậy là phí phạm tài sản xã hội chủ nghĩa đấy”.






“Trời đất ơi! Làm cầu trong nhà theo cái kiểu ấy thì tài sản xã hội chủ nghĩa hôi thúi chịu gì nỗi. Rồi ruồi nhặng ô nhiễm nữa. Ghê quá vậy! Tôi chưa biết đất Bắc của anh ra sao, nhưng nghe anh nói tôi có cảm tưởng miền Bắc của mấy anh lạc hậu quá, đi sau xã hội miền Nam chúng tôi ít ra cũng 30 năm hay hơn nữa mặc dù miền Nam chúng tôi bị các anh vào gây chiến.”






Ngồi một lúc, chừng như hiểu được lời mỉa mai của tôi nên anh ta ngượng ngùng và lặng lẽ ra về. Từ đó, anh ta không lén sang nhà tôi xem nhờ tivi nữa.


Mẫu chuyện vặt thứ hai. Chuyện xảy ra ngay trong cư xá chúng tôi trong căn thứ 3 dãy V, đối diện dãy X của tôi. Cũng là nhà đã di tản nên một toán quân cộng sản vào chiếm giữ. Một buổi sáng, một tên cộng sản bé con hối hả vào nhà bên cạnh nhờ sang xem giùm cái máy không biết để làm gì mà phát ra gió lạnh quá, toán anh ta phải ra ngủ ngoài hiên. Khi anh cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa xem sang giùm chúng. Hóa ra chuyện rất đơn giản. Vì họ không biết đó là cái máy điều hòa không khí, tay chân táy máy thế nào lại vặn đúng cái nút ON. Thế là máy chạy, ban đầu thì mát, đến nửa đêm quá lạnh mà họ không có mền.


Mẫu chuyện vặt thứ ba xảy ra ở cư xá Đô Thành, đường Phan Thanh Giản. Một nữ bác sĩ cộng sản từ Bắc trở về Nam sau hơn 20 năm theo cha “tập kết” ra Bắc, cô ta tìm đến gia đình người chú là Trung Tá Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa. Dù mới gặp nhau lần đầu nhưng chú cháu tỏ ra vui vẻ, cho dẫu trong lòng hai chú cháu nghĩ như thế nào thì chỉ có họ mới biết. Sáng dậy. tiếng cô cháu bác sĩ cộng sản ơi ới:






“Thiếm ơi! Đi ỉa ở đâu Thiếm?”






Bà Thiếm là người miền Nam.






“Cháu đẩy cửa đó mà vào.”






“Sao cầu ỉa làm trong nhà, mà lại trên lầu thì làm sao người ta mang đi đổ được?”






“Cháu nói đổ cái gì?”






“Đổ phân chứ đổ gì.”






“Vậy chớ ngoài Bắc không làm cầu tiêu trong nhà thì làm ở đâu?”





“Cầu ỉa phải làm ở ngoài chứ ai làm trong nhà, để xe đến lấy phân bón rau xanh chứ thiếm. Đảng với nhà nước nói bỏ là phí phạm tài sản xã hội chủ nghĩa mà.”






“Ở Sài Gòn, nói chung là cả miền Nam này đều làm cầu trong nhà, và là loại cầu tự hủy chớ ai mà khiêng đổ. Ghê lắm!”






Cô ta vào phòng vệ sinh, lại thò đầu ra:






“Cái nào là cầu ỉa hả Thiếm?”






Báo hại bà Thiếm “ngụy” phải vào phòng vệ sinh chỉ cho cô cháu “bác sĩ cộng sản” biết, cái nào là cầu tiêu, cách ngồi như thế nào, dùng giấy ra sao, dùng rồi phải bỏ vào đâu, cách giật nước, ..v..v.. Bà Thiếm chỉ dẫn rồi, phải nhắc lại cho cô cháu “






“bác sĩ lạc hậu” biết cách sử dụng loại giấy sản xuất cho nhu cầu này, chớ các thứ giấy khác sẽ làm nghẹt cầu. Bà Thiếm phải giải thích như vậy, vì cô cháu chồng là bác sĩ xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc, một xã hội rất xa lạ với những tiện nghi sinh hoạt của người dân bình thường trong xã hội tự do trên đất Nam. Nghe giải thích đến đâu, cô cháu bác sĩ cộng sản thè lưỡi đến đó.


Tôi chưa biết miền Bắc mà chỉ biết qua sách báo. Theo đó, Hà Nội trong những năm 40-50 được xem là thanh lịch nhất, nhưng hơn 20 năm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, người Hà Nội thụt lùi quá xa so với người dân Sài Gòn, xa đến mức không thể tưởng tượng được.


Chỉ vài ba mẫu chuyện vặt về tiện nghi sinh hoạt trong gia đình người dân miền Nam mà họ gọi là “ngụy”, đã vượt quá xa mức sống của người dân miền Bắc xã hội chủ nghĩa, kể cả tầng lớp bác sĩ kỹ sư của họ. Từ đó tôi suy đoán dưới sự cai trị độc tài của cộng sản, người dân không thể nào tiến lên mức văn minh được. Thế mà họ cứ hô hào tiến lên xã hội chủ nghĩa. Tôi nghĩ:






“Vậy là xã hội chủ nghĩa nằm sâu dưới đáy vực của văn minh?”






Thưa quí vị quí bạn, tiếp đây cũng là chuyện vặt nhưng dính dáng tí ti về chính trị. Chuyện xảy ra tại chợ Mỹ Tho sau khi quân cộng sản vào chiếm thành phố này, do cựu Trung Tá Trần Kinh Điển -bạn cùng khóa 5 Thủ Đức với tôi- kể lại khi gặp nhau trước ngày vào trại tập trung. Cũng như những nơi khác, sau ngày vào Mỹ Tho, chúng sử dụng mọi phương tiện kể cả những toán cán bộ đến các đường phố để tuyên truyền về điều mà chúng gọi là bách chiến bách thắng của xã hội chủ nghĩa. Một buổi sáng trong tuần lễ đầu tiên của tháng 5 năm 1975, một cán bộ cộng sản đi phỏng vấn có thu hình một bà trung niên, trang phục của bà cho thấy bà là người thành thị, tay xách giỏ đầy thức ăn. Hắn bước nhanh tới trước mặt bà:






“Chào bà. Tôi là cán bộ đài truyền hình cách mạng. Bà đi chợ xong rồi chứ?”






“Ừa. Tôi chỉ mua vài món thôi, ở nhà có cá rồi.”






Trả lời xong bà ta bước đi. Anh chàng tự xưng cán bộ bước nhanh theo:






“Nhà bà cách đây xa không?”






Bà sồn sồn vừa đi vừa trả lời: “Gần đây nè.”






Vừa trả lời bà ta vừa bước nhanh hơn, cứ như tránh họ thì phải. Một tên vác máy thu hình một tên cầm cái micro chạy theo. Với giọng như đứt quảng:






“Xin bà cho biết, bà có vui mừng khi thấy cách mạng vào thành phố không?”






“Có chớ. Vì cách mạng vô mấy ông giải phóng hổng còn bắn hỏa tiễn vô thành phố nữa, chớ trước đây họ bắn chết dân nhiều quá. Ác lắm ông ơi!”






Câu trả lời của bà làm cho họ đứng lại sững sờ như vừa “sụp đường mương” vậy. Anh bạn tôi vui lắm nhưng không dám cười vì sợ hai tên cộng sản này “thua me gở bài cào” thì phiền lắm.


Đúng là bà sồn sồn được phỏng vấn đó không biết cách mạng hay giải phóng là gì cả, mà chỉ biết rằng giải phóng thường pháo kích bắn giết đồng bào, cho nên bà nói có cách mạng vào thì hết quân giải phóng. Nhưng suy cho cùng, thế mà hay. Hay ở điểm, bà ấy chửi xéo quân cộng sản mà chính bà không biết, trong khi hai tên cộng sản bị chửi cũng không thể có biện pháp gì vì bà ta nói sự thật theo như hiểu biết của bà.


1 2 3 4 5 6 7 8







KÝ SỰ TRONG TÙ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA - KỲ 2





1 2 3 4 5 6 7 8


CHƯƠNG 3 ĐƯỜNG VÀO TRẠI TẬP TRUNG.








Thưa quí vị quí bạn, thỉnh thoảng vợ tôi chọc quê:






“Nghĩ mà tức cười, bỗng dưng anh với bè bạn thất nghiệp hết trơn. Đã vậy mà có anh bị bắt vào tù nữa chớ!”




Nói là tức cười chớ thật ra vợ tôi rất lo nhưng tìm cách an ủi tôi, mà vợ tôi cũng tự an ủi nữa. Con nhỏ giúp việc nhà cho chúng tôi nhiều năm qua, đã về quê ở Cái Tàu Hạ (Sa Đéc). Lý do mà con bé (20 tuổi) nói với vợ tôi rằng:


“Cô ơi! Giải phóng vô rồi, mọi người đều làm chủ nên không ai đi làm hết.”






Hẳn quí vị quí bạn cũng đồng ý cái lối tuyên truyền lừa dối của cộng sản như vậy dễ lừa người dân ít hiểu biết, nên chúng đã thành công bước đầu khi chiếm được Việt Nam Cộng Hòa. Từ điểm này mà suy ngẫm, trong thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh 1945-1954, với chính sách lừa dối đó, họ đã thu hút đông đảo thanh thiếu niên và cả trí thức tham gia hàng ngũ của chúng cũng phải thôi. Không thể trách thành phần không cộng sản đã tham gia vào tổ chức Việt Minh, võ bọc của đảng cộng sản lúc ấy. Vì hơn nửa thế kỷ bị thực dân Pháp cai trị, bấy giờ người Việt Nam đứng lên chiến đấu chống thực dân Pháp nên mọi thành phần trong xã hội dễ dàng chấp nhận những gì mà tổ chức đó tuyên truyền.






Những ngày đầu tháng 06/1975, một thông cáo của Ủy ban Quân Quản Sài Gòn-Gia Định, ra lệnh cho tất cả sĩ quan, viên chức, cán bộ, và đảng phái chính trị trong chế độ cũ, phải trình diện trong các ngày 13, 14, và 15 tháng 6 (1975) mà họ gọi là “học tập cải tạo”. Thông cáo cũng cho biết các địa điểm trình diện dành cho các thành phần khác nhau. Mỗi người phải mang theo quần áo kể cả áo ấm, mùng mền, và tiền đủ cho 30 ngày ăn do nhà hàng Đồng Khánh cung cấp. Cấp Tướng và cấp Đại Tá trình diện tại khu đại học xá Minh Mạng ở ngã sáu Chợ Lớn.






Xem xong thông cáo, anh em chúng tôi trong cư xá bàn tán nhau rất ư là linh tinh, để rồi tựu trung mọi người đều thở phào nhẹ nhỏm, vì theo cách hiểu chân phương của chúng tôi, những người chưa thấu hiểu sự gian trá trong cái ngôn ngữ “học tập cải tạo” của cộng sản, nên chấp nhận mình đi học tập chớ không bị tù đày, lại ăn cơm do nhà Đồng Khánh cung cấp nữa chớ. Thế là trút hết nỗi lo ra phía sau để chuẩn bị đi về phía trước, mà thật ra chẳng một ai trong số chúng tôi hình dung được phía trước là cái gì ngoài cái thời hạn 30 ngày gọi là “học tập cải tạo”.


Tôi đem cái võng nylon màu xanh ô liu ra cắt may, chầm qua đấp lại cũng thành cái túi đeo lưng. Chẳng hiểu sao lúc ấy tôi có ý nghĩ “nếu có di chuyển đi đâu thì tốt hơn là mọi thứ cho vào túi đeo lưng để di chuyển được gọn gàng giống như đi hành quân vậy”. Tôi sử dụng một nửa cái võng quân đội, một nửa còn lại tặng anh cựu Đại Tá Nguyễn Thành Chí và chị Chí cũng may cho ảnh cái túi đeo lưng.


Như những ngày trước đó, cựu Đại Tá Đặng Đình Đán đến chơi. Chúng tôi vẫn ngồi trên xích đu trong góc sân. Anh hỏi:






“Nè. Bác có đọc thông cáo của Ủy Ban Quân Quản chưa?”






“Đã xem rồi. Mà anh thấy gì trong nội dung đó?”






“Phải bác muốn nói đến thời gian 30 ngày không?”






“Đúng. Nhưng nếu 30 ngày sao họ bảo bọn mình đem theo áo ấm? Phải chăng địa điểm học tập ở vùng lạnh?”






Anh Đán có vẻ kinh nghiệm và tin tưởng:






“Theo kinh nghiệm của tôi thì thời gian đó hợp lý. Có thể bọn mình sẽ trải qua 4 tuần lễ như thế này: 2 tuần học tập, 1 tuần kiểm thảo, tuần còn lại là chuẩn bị và làm lễ chấm dứt. Cách của họ bao giờ cũng vậy. Bác yên chí đi.”






“Anh còn có kinh nghiệm của họ chớ tôi có vốn liếng kinh nghiệm gì đâu. Cứ mong là diễn tiến như anh nghĩ.”






“Đừng có bi quan. Tôi trông bác thọ lắm. Hai trái tai của bác đầy đặn và rất dài. Tốt tướng lắm.”






“Bi quan thì không, nhưng lạc quan thì chưa có anh ơi! Dù sao thì bọn mình cũng ưu tư là sau 30 ngày đó sẽ làm gì? Và liệu còn chuyện gì xảy ra cho chúng mình nữa không?”






“Tôi chắc là họ sẽ sử dụng chúng mình để xây dựng đất nước thôi bác à!”






Anh Đặng Đình Đán có vẻ tự tin lắm.






Ngay tối hôm đó có hai người mặc thường phục gõ cửa nhà tôi.






“Xin hỏi hai anh là ai?” Tôi hỏi.






Họ chẳng tự giới thiệu, chỉ cười cười và cứ như bè bạn từ lúc nào ấy, tự nhiên vào nhà. Tôi lặp lại:






“Xin lỗi, hai anh là ai? Đến đây có chuyện gì?”






Tuy hỏi nhưng tôi nghĩ họ là cộng sản, chớ không người miền Nam nào lại chẳng biết lịch sự tối thiểu khi đến nhà người chưa quen. Nghĩ vậy nên tôi đành phải mời chúng nó ngồi. Ngồi xong. Một trong hai đứa hỏi tôi toàn những chuyện linh tinh, nhưng tôi càng đề phòng vì nghĩ rằng chúng nó dẫn chuyện vòng vo để bất chợt vào chuyện làm cho mình bất ngờ cũng nên. Và rồi một tên ra cái vẻ nghiêm chỉnh:






“Anh có biết là anh học tập ở đâu không?”






“Không”. Tôi trả lời.






“Ở quanh đây thôi. Có thể là Hóc Môn hay vùng lân cận.”






“Nếu ở vùng đó thì có Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, nhưng sao bảo chúng tôi mang theo áo ấm?”






“Có thể lắm. Áo ấm là phòng khi các anh bị ốm thôi. Các anh nên an tâm và tin tưởng vào cách mạng. Cách mạng đã nói là làm.”






Đến trước khi tiễn chúng nó ra cửa, chúng nó mới tự giới thiệu, một tên là cán bộ chính trị và tên kia là nhân viên của Phường. Tôi cảm thấy thắc mắc: “Tại sao họ tung người đến từng nhà trấn an người thua trận? Bởi vì từ khi có cái thông cáo gọi trình diện đã có điều gì xảy ra làm cho họ sợ đâu?”


Tại Sài Gòn đã có một vài bạn cùng nhiệm sở với tôi đã bị bắt, nhưng có tính cách lẻ tẻ. Trong khi tại các tỉnh vùng đồng bằng Cửu Long, theo những tin loan truyền từ bên ngoài vào cư xá, đã có nhiều sĩ quan bị bắt ngay khi chúng tràn vào thị trấn, tỉnh lỵ. Trường hợp điển hình là các bạn tôi ở Long Xuyên như anh chị Lê Hồng Danh, anh chị Nguyễn Ngọc Chươu, …. chúng không cho mang bất cứ vật dụng gì ra khỏi nhà, chỉ mỗi bộ quần áo trên người khi bị đẩy ra khỏi cửa mà không một lời giải thích. Một bức thư viết vội của chị Nguyễn Ngọc Điệp chuyển vào cho tôi biết, anh Điệp -Đại Tá, Tỉnh Trưởng Bạc Liêu sau khi bàn giao xong -thật là mỉa mai- cho một tên cộng sản, anh Điệp mời hắn ra nhà hàng ăn cơm. Thế nhưng ngay khi ăn xong, hắn bắt anh Điệp đẩy vào nhà giam tại Bạc Liêu kèm theo câu ngắn ngủn của hắn: “Anh ở đó chờ đi học tập”.






Trong khi thu xếp vài món hành trang vào túi đeo lưng, vợ tôi để vào cái bóp 100.000 đồng Việt Nam Cộng Hòa và 10 đồng của cộng sản. Sau khi miền Nam sụp đổ, họ đem tiền miền Bắc gạ đổi 1 đồng miền Bắc bằng 1.000 đồng miền Nam. Tôi nói:






“50.000 đồng quá đủ rồi Em vì tiền ăn trong 30 ngày chỉ 15.000 thôi mà. Còn tiền miền Bắc đem theo làm chi Em.”






“Thì anh cứ giữ số tiền đó cho Em. Xài không hết thì mang về chớ có sao đâu. Còn 10 đồng kia (tiền miền Bắc) Anh cứ giữ, nhỡ họ có đưa Anh ra ngoài Bắc thì có mà xài. Sau đó Em sẽ liệu cách.”






“Có thể họ đưa tụi Anh lên rừng núi chớ ra Bắc chắc không có đâu Em.”






“Thì Anh cứ giữ đi mà. Tiền giấy có nặng nề gì mà mình tranh luận. Cất đi Anh.”






(Giữa năm 1976, tôi bị chuyển ra Bắc. Có lúc ngồi nghĩ lại câu trên đây của vợ tôi mà tự hỏi: Không biết đó có phải là “linh tính” trong tình yêu hay không mà sự thể xảy ra đúng như vậy?)


Khu đại học xá Minh Mạng.


Ngày 14 tháng 6 năm 1975, tức Mùng Năm tháng Năm âm lịch, một ngày mà tôi không thể nào quên được. Hôm đó sau giấc ngủ trưa, nói vậy chớ làm gì ngủ được, tôi quàng vợ con tôi vào vòng tay và hôn qua một lượt, lúc ấy con út chúng tôi mới 4 tuổi. Vợ tôi buột miệng:






“Liệu họ có kéo dài hơn 30 ngày không Anh?”






Tôi đáp thật nhỏ:






“Trong tình cảnh mình làm sao đoán được gì Em. Thôi thì mình cứ tin là sau 30 ngày mình lại sống bên nhau. Nhớ nhau nhiều nghe Em.”






Vợ tôi gật đầu mà đôi mắt đỏ hoe!






Tôi mang túi đeo lưng lên ngồi Honda của con trai lớn tôi, Phạm Bá Trung. Rời nhà… Đang trên đường Nguyễn Tri Phương, chợt nhớ đứa con trai thứ ba của chúng tôi -Phạm Bá Tín- đang bị nóng, tôi tạt vào nhà thuốc tây mua cho con tôi ống thuốc Tifomycine đưa con tôi mang về. Tại cổng đại học xá Minh Mạng, xéo nhà thờ Ngã Sáu Chợ Lớn, bên cạnh là trường trung học Chu Văn An cũng là địa điểm mà họ qui định các sĩ quan trình diện. Trên đoạn đường này lúc ấy đông nghẹt người và xe hai bánh, đậu cả trong khuôn viên nhà thờ nữa. Xuống xe, con tôi vẫn đứng yên. Vào cổng đại học xá có hai lính cộng sản đứng gác nhưng không hỏi giấy tờ gì cả. Tôi nhìn ra, con tôi vẫn đứng đó nhìn tôi đến khi tôi khoác tay con tôi mới quay về! Bước vào vài bước nữa, hai tên lính cộng sản khác chỉ lối vào trong. Qua khỏi cửa, cái bàn vừa lớn vừa dài đặt ở giữa phòng, có mấy người mặc đồ lính cộng sản mà họ gọi là “bộ đội”. Một người trong số đó hỏi tôi:






“Anh tên gì?”






“Phạm Bá Hoa”. Tôi trả lời.






“Cấp chức?” (tức là cấp bậc chức vụ)






“Đại Tá, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa”.






Hắn ngưng viết, nhìn tôi, có vẻ như cho là tôi có ý trêu chọc hắn thì phải. Nếu hắn nghĩ vậy là đúng thôi.






“Anh nộp phiếu trình diện chưa?”






“Có đây”. Tôi để lên bàn, và đẩy nhẹ sang hắn trong khi hắn lườm tôi.






Hắn gằn giọng:






“Từ ngày giải phóng đến giờ, anh đã nộp vũ khí khí tài gì cho bộ đội cách mạng tại địa phương chưa?”






“Tôi đã nộp 1 khẩu M16, 1 khẩu Carbine, 2 máy điện thoại. Còn chiếc xe Jeep thì anh tài xế mang nộp rồi”.






Hắn vẫn cắm cúi viết và đưa tay về phía nhiều hàng ghế:






“Sang đó ngồi chờ”.






Đã có nhiều bạn tôi ngồi đây. Trong khi chờ đợi chuyện gì đó sẽ xảy ra cho mình nhưng không bạn nào dự đoán được gì cả, nên anh em nói với nhau về những tin tức liên quan đến những ai di tản, những ai còn kẹt lại. Dĩ nhiên là không thể nào có đầy đủ tin tức của anh em đồng đội, ai biết đến đâu thì nói đến đó.


Một lúc sau họ đọc danh sách mà họ gọi là “biên chế tổ chức”. Danh sách đang đọc là Trung Đội 5 mà họ gọi là B5. Mỗi B có 3 A tức Tiểu Đội, và một A có 10 người. Vị chi mỗi Trung Đội nói chung và Trung Đội 5 nói riêng có 30 cựu Đại Tá. Anh Nguyễn Hữu Phụng -Truyền Tin- đứng đầu danh sách là B Trưởng, tức Trung Đội Trưởng Trung Đội 5. Sau khi kiểm soát đủ 30 người, hắn chỉ sang bàn bên cạnh đóng tiền ăn 3 ngày. Đóng tiền xong, mỗi người lãnh 1 chiếc chiếu nhỏ. Công tác này do sinh viên đại học Sài Gòn phụ trách. Tôi không rõ số sinh viên này thuộc thành phần trước đây thường chống đối chánh phủ hay bị cộng sản bắt buộc tham gia công tác hôm nay. Lãnh chiếu xong, lần lượt lên lầu. Cứ mỗi bốn người trong một phòng nhỏ, mà bình thường chỉ hai sinh viên ở. Vì vậy mà chỉ vừa vặn 4 manh chiếu cho bốn cựu Đại Tá “nghỉ tạm chờ học tập cải tạo!”


Chung phòng với tôi có Anh Nguyễn Ấm, tôi quen với anh khi anh là Đại Tá Tỉnh Tưởng Quảng Trị. Anh Trần Văn Hào, Đại Tá Pháo Binh tôi quen trong lớp học Quân Chánh năm 1968. Anh Phạm Hà Thanh, Chuẩn Tướng Cục Trưởng Cục Quân Y, cùng trong ngành Tiếp Vận nên quen từ lâu. Nhưng đến tối thì anh Thanh được lệnh dọn sang ở chung với quí vị cựu Tướng Lãnh. Đóng tiền ăn 3 ngày x 500 đồng (tiền Việt Nam Cộng Hòa) nhưng ngày mai mới được ăn. Thế là mất toi 500 đồng vì hôm nay đâu có ăn, nên phải nhai ngấu nghiến mẫu bánh mì mang theo phòng hờ. Nước thì uống từ vòi nước trong phòng tắm của sinh viên.


Thế là từ ngày giờ ấy, chúng tôi, những người thua trận chắng khác những con chim gãy cánh bị nhốt trong lồng, nhưng chưa biết cái lồng như thế nào! Nói là “học tập cải tạo” nhưng sao họ không cho liên lạc với bên ngoài? Và liệu có phải thời gian là 30 ngày hay không? Vậy là vài câu hỏi bắt đầu xuất hiện trong sự suy nghĩ của tôi, bởi vài sự kiện hôm nay là sự thật chớ không phải trong tưởng tượng hay bị ám ảnh gì cả!


Đêm xuống. Đèn đường lên. Tôi đứng tựa khung cửa sổ nhìn xuống đường chập choạng vừa tối vừa sáng bởi những tán cây che từng mảng ánh sáng đèn đường. Dòng người qua lại khá đông, đa số đi chầm chậm nhìn lên dãy phòng bên trên, chừng như muốn tìm hình bóng người thân yêu trong ngày đầu “trình diện học tập!” Quay vào trong, hai ông bạn già của tôi đã chui vào mùng nhưng vẫn thì thào tâm sự, đôi lúc ôn lại chút gì trong quảng đời binh nghiệp. Lại nhìn xuống dòng người ngược xuôi, tôi cảm thấy có cái gì đó lờ mờ đang ám ảnh tôi. Phải chăng là “bước ngoặc của cuộc đời?” Có lẽ đúng, vì rõ ràng là gia đình chúng tôi và gia đình các bạn đồng đội bị kẹt lại hay ở lại, đang vào bước ngoặc đó! Có điều là chúng tôi chưa thể hình dung được bước ngoặc đó sẽ như thế nào, mà chỉ biết rằng cuộc sống trở nên khốn khổ và đầy hiểm nguy bất trắc chực chờ phía trước!


Ngày 15/06/1975. Điểm tâm với khúc bánh mì + một miếng phó mát + một trái chuối + ly cà phê đen pha sẳn trong cái thùng nhôm lớn. Cơm chiều giống cơm trưa = Cơm trắng + món canh + món mặn + và trái chuối. Cả ba bữa ăn đều do nhà hàng Đồng Khánh mang đến. Hôm nay cũng là hạn định cuối cùng phải trình diện mà họ qui định trong thông cáo.


Rồi đêm lại xuống. Đèn đường lại lên. Tôi vẫn tựa cửa sổ nhìn dòng người qua lại một cách chậm rãi, không phải cái dáng vẻ nhàn hạ mà như tìm ẩn những ưu tư qua nét nhìn xa xôi hướng lên những dãy phòng trên lầu! Lại quay nhìn hai anh bạn già vẫn thì thào ôn chuyện ngày qua. Không biết là hai anh bạn già của tôi làm như vậy để cố tình tránh né chuyện hôm nay, hay hoàn toàn tin tưởng vào điều mà cộng sản gọi là “chính sách khoan hồng nhân đạo”, hay là phó mặc cho dòng đời? Nhưng dòng đời quá mênh mông trong khi ngay trước mặt phải đối diện với cộng sản, một chế độ đã quẳng không biết bao nhiêu con người vào cuộc chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa! Tôi lại nhìn xuống dòng người trên đoạn đường nhiều bóng tối do mấy cái bóng đèn đường không hắt ra ánh sáng. Bỗng tôi bị cuốn trở lại thực tế khi anh Nguyễn Thành Chí (cựu Đại Tá, Bộ Quốc Phòng) bước vào:


“Anh Hoa. Ở phòng mấy ông Tướng, có một anh cán bộ (cộng sản) đến nói là các anh chuẩn bị tư tưởng để học tập dài dài đó!”.


Ngưng một chút, anh tiếp:


“Theo như anh đó nói thì hổng phải 30 ngày như trong thông cáo gọi mình trình diện đâu, mà là không biết chừng nào tụi mình mới được về nghe anh.”


“Dám lắm à anh. Tôi không giải thích được với anh cũng như với chính tôi, nhưng tôi có cảm giác là tụi mình long đong lắm. Điều này tôi vừa nhận ra khi nghe anh nói, kết hợp với điều gì đó ám ảnh tôi từ chiều qua.”


“Hổng lẽ họ nói 30 ngày là gạt tụi mình?”


“Tôi cũng cảm thấy bị kẹt trong cái lẩn quẩn đó như anh. Muốn tin, nhưng nỗi ngờ vực bắt đầu từ trưa hôm qua và mỗi lúc mỗi cao thêm trong ý nghĩ.”


Câu chuyện đến đây có tiếng la ơi ới ngoài hành lang:


“Mấy anh ơi! Anh Liệu đập ót xuống sàn gạch nằm ngay đoong rồi. Tiếp cứu tiếp cứu”.


Anh Trương Đình Liệu là Đại Tá, Chỉ Huy Trưởng Tổng Kho Long Bình. Thế là hầu như tất cả “các ông Đại Tá” từ các phòng lân cận đều chạy tới, tôi thấy anh Liệu nằm thẳng cẳng, mặt mày xanh lè:


“Để tôi chạy cầu cứu anh Thanh (bác sĩ Thanh) đến xem sao.”


Vừa nói tôi vừa chen các bạn để chạy lại phòng anh Thanh, một anh kéo tay tôi lại và cười hề hề:


“Chạy làm chi cho mệt. Hắn say thuốc lào lăn quay cu-đơ một lúc là tỉnh lại thôi, có gì đâu mà kêu bác sĩ.”


Và sự thể đúng như vậy quí vị quí bạn à. Một lúc sau, anh Liệu ngồi dậy và tấm tắc khen thuốc lào ngon hết biết nữa chớ. Tôi vỗ vai anh:


“Tôi chạy tới thấy anh nằm bất động, tưởng anh trúng gió hay đứt gân máu tiêu tùng rồi, nên chạy cầu cứu anh Thanh. Say thuốc lào sao ghê vậy?”


Anh Liệu tỉnh bơ:


“Anh không hút nên không biết thưởng thức. Sướng bỏ xừ chứ ghê nỗi gì.”


Mọi người trở về phòng, nhưng chưa ngủ được bao lâu thì toán quân cộng sản đến từng phòng gọi dậy:


“Tất cả các anh thu dọn tư trang và đồ dùng, tập kết (có nghĩa như chữ tập trung) tại phòng lớn chuẩn bị hành quân.”


“Chúng tôi mà hành quân gì anh?”


Tôi hỏi, vì từ ngữ hành quân của mình có nghĩa là mang theo vũ khí đạn dược sẳn sàng đánh nhau với quân địch.


Hắn trả lời với giọng hằn học dường như hắn cho là chọc hắn:


“Hành quân là hành quân. Không được dài dòng. Tiến hành nhanh lên.”


Lúc đó là 10 giờ đêm. Mọi người đều nhanh tay lẹ chân. Sẳn sàng. Chờ đợi. Trong khi chờ đợi, hầu như tất cả các bạn đều thì thầm nhỏ to, tuy nghe không rõ nhưng chắc là dự đoán việc gì sắp xảy ra thôi.


Cách chuẩn bị của quân cộng sản rất là chậm, hoặc họ chuẩn bị sớm quá nên chờ đến giờ giới nghiêm (12 giờ khuya) cũng nên. Cho dù là lý do gì thì rõ ràng là gần 300 cựu Đại Tá ngồi chờ đến 2 tiếng đồng hồ, họ mới đến gọi từng B (Trung Đội) theo thứ tự 1, 2, 3, ..v..v… Mỗi B lên một xe vận tải Molotova do Nga sản xuất. Tuy đang giữa đêm nhưng cũng nhận ra được mức già cỗi ọp ẹp của đoàn xe chẳng khác những con trâu già kiệt sức khi đứng trước cái cày vậy. Mỗi B 30 chục người phải ngồi lên mớ hành lý nhỏ bé ít ỏi của mình vì chật lắm. Mỗi xe có 2 lính cộng sản ngồi trên thành tấm bửng sau, tay cầm súng quay vào trong xe như sẳn sàng bắn xả vào các sĩ quan thua trận trong lòng xe! Xe được phủ “tấm bạt” kín mít hai bên hông và phía trước. Mọi người ngồi trong “cái hộp đen” đó cả tiếng đồng hồ ngộp quá trời, vì họ cho lên từng xe để kiểm soát chặt chẽ nên rất chậm.


Trong bóng tối của chiếc xe bít bùng, giọng nói của anh nào đó từ trong góc xe phía trước:


“Tôi nghe mấy anh trình diện hồi trưa cũng đóng tiền 3 ngày ăn, nhưng có ăn được bữa nào đâu, cũng không nghe nói đến cái vụ hoàn lại tiền nữa. Tại sao?”


“Tụi mình đóng tiền 3 ngày mà chỉ ăn có ngày hôm nay, đã có ai nói gì hoàn lại đâu. Chắc là xong rồi đó.” Tiếng của một anh khác cũng từ góc phía trước xe.



Chương 4 / Trại tập trung Long Giao


- bốn-


TRẠI TẬP TRUNG LONG GIAO


Sài Gòn đến Long Giao.


Cuối cùng đoàn xe Molotova già nua cũng lăn bánh. Lúc ấy là giờ đầu tiên của ngày 16/06/1975. Tôi phải ghi rõ như vậy, vì tôi muốn lưu vào ký ức tất cả những sự kiện cũng như những thời điểm diễn tiến trong cuộc sống trước mắt của “những người thua trận,” để có thể tìm hiểu bản chất cộng sản Việt Nam như thế nào.


Cho dù có bí mật cách mấy đi nữa họ cũng hiểu rằng thời hạn ấn định phải trình diện trong các ngày 13, 14, và 15 tháng 6 năm 1975, mà ngày đầu tiên họ bảo phải mang theo thức ăn, như vậy người trình diện ngày 14 chỉ ăn có 1 ngày, người trình diện ngày 15 thì chẳng ăn bữa nào hết. Khi di chuyển thì tất cả cùng đi một lượt, mà tiền ăn vẫn phải đóng y chang nhau. Chỉ với sự kiện nho nhỏ của vài ngày đầu tiên “học tập cải tạo” đã là không đúng với bản thông cáo rồi. Phải chăng đây là hành động gian trá cướp đoạt dù trị giá chưa bao nhiêu? Cướp nhà cướp của, nói chung là cướp tài sản ngay sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa nói chung và thủ đô Sài Gòn nói riêng, bây giờ đến cái nhỏ nhoi chỉ mấy đồng tiền ăn cũng gian trá để ăn cướp!


Đoàn xe lớn bé khoảng 15 chiếc, từ từ ra cổng đại học xá, quẹo trái theo đường Minh Mạng đến Ngã Bảy. Rồi quẹo phải sang đường Lý Thái Tổ. Đến Công Trường Cộng Hòa quẹo trái sang đường Hồng Thập Tự. Lại quẹo phải sang đường Công Lý, khi đến đại lộ Thống Nhất quẹo trái. Đến sát Thảo Cầm Viên, quẹo trái sang đường Cường Để. Đến đường Phan Thanh Giản, quẹo phải thẳng ra xa lộ Biên Hòa. Chẳng hiểu sao họ lại chạy quanh co vòng vèo như vậy, vì muốn ra xa lộ cứ đường Minh Mạng đến Ngã Bảy, vẫn con đường đó trở thành đường Phan Thanh Giản, và ra xa lộ. Đơn giản quá.


Đó là cách nghĩ của tôi, nhưng có thể quân cộng sản muốn đánh lạc hướng với “đoàn người trong những cái hộp đen” không biết họ chở đi đâu chăng? Thật sự thì “đoàn người đó” quá quen thuộc mọi hang cùng ngõ hẻm của thủ đô Sài Gòn thì sá gì cái mẹo vặt ấy che mắt được. Hoặc vì từ trong rừng mới vào thủ đô Sài Gòn nên chưa thạo đường đi chăng? Điều này nghe không ổn, vì cho dù đoàn quân từ rừng rú vào Sài Gòn nhưng còn thành phần cộng sản nằm vùng dẫn đường chớ. Tôi nói đoàn quân cộng sản từ rừng rú vào thủ đô Sài Gòn, là bao gồm cả thành phần đảng viên cán bộ cộng sản từ Hà Nội nữa, bởi sinh hoạt ở thủ đô Hà Nội của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng không khác bao nhiêu với sinh hoạt của họ trong rừng rú.






Với vài mẫu chuyện về tiện nghi sinh hoạt thông thường của người Việt Nam Cộng Hòa, mà người cộng sản từ người lính trong quân đội cho đến người bác sĩ trong xã hội chủ nghĩa 20 năm trên đất Bắc, thật sự là họ quê mùa không thể tưởng tượng được. Nói cho đúng là họ quá lạc hậu. Do vậy mà tôi nhận xét về cái câu “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, mà họ nhai đi nhai lại không mệt mỏi không ngượng ngùng trên các phương tiện truyền thông của họ, nên hiểu như thế này: “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc xuống đáy của chủ nghĩa phong kiến” mới đúng. Thật sự xã hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sau 20 năm (từ năm 1955) là tiến xuống chớ không phải tiến lên theo cách nhìn của tôi, và tôi nghĩ cũng là nét nhìn của người Việt Nam Cộng Hòa chúng ta nữa.






Phong kiến là một chủ nghĩa mà người đứng đầu quốc gia được xem là Vua mà Trung Hoa gọi là Con Trời với quyền lực tuyệt đối, muốn giết bất cứ thần dân nào thì giết, thậm chí đến các quan trong triều cũng vậy. Dưới chế độ phong kiến, người dân chỉ biết vâng lời vua. Dưới triều đại cộng sản, nhóm lãnh đạo cộng sản nắm quyền cai trị, chẳng những rập khuôn các triều đại vua quan phong kiến mà còn lồng trong những thủ đoạn gian trá tinh vi hơn nhiều, bao gồm gian trá tinh vi trong những cách giết người dưới quyền cai trị của họ, như Liên Bang Sô Viết đã giết hằng 70 triệu dân của họ, Trung Hoa cộng sản đã giết hằng 50 triệu dân, các quốc gia Đông Âu dưới chế độ cộng sản cũng thế, và nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng tàn bạo như vậy. Ít nhất trong 20 năm xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc, cộng sản đã giết nhiều trăm ngàn dân bằng những cách thật là man rợ, khi bị họ ghép vào thành phần “trí, phú, địa, hào” từ đầu năm 1954 đến tháng 9 năm 1956! Họ đã tiêu diệt hàng ngũ nhà văn nhà báo trong vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” hồi năm 1957 theo chính sách “trăm hoa đua nở” của Trung Hoa cộng sản! Và họ đã thiêu đốt hằng chục triệu thanh niên vào cuộc chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa! Trong trận chiến Tết Mậu Thân đầu năm 1968, cái đám cháu ngoan của ông Hồ đã giết hằng mấy ngàn người tại Huế một cách dã man kể cả chôn trong những ngôi mộ tập thể!






Đoàn xe lầm lủi một cách chậm chạp. Chốc chốc chúng tôi luân phiên nhau len lén hé một khoảng nhỏ tấm bạt phía trước để quan sát những nơi đi qua. Mờ sáng, qua khỏi Biên Hòa và đang trên quốc lộ số 1 về phía bắc. Đoàn xe dừng lại Xuân Lộc một lúc chắc là chờ cả đoàn tập trung đầy đủ chăng? Tôi dùng lưỡi lam rạch một lằn ngắn trên tấm bạt phía bên hông, trông thấy nhiều người dân cố gắng áp sát xe nhưng bị lính cộng sản chận lại. Rất có thể người dân nghi ngờ xe chở quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ đem đi đâu đó nên họ tìm cách đến sát hông xe để xem, nhưng không được.


Khoảng 7 giờ 30 phút sáng, đoàn xe chở gần 300 Đại Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thua trận, từ từ vào một doanh trại. Xe ngừng hẳn. Hai lính cộng sản mà họ gọi là “bộ đội” cầm súng nhảy xuống, hạ tấm bửng và lớn giọng:


“Các anh mang tư trang xuống xe. Không một ai được quan sát địa hình.”


Chữ nghĩa của cộng sản sử dụng không cùng chữ nghĩa mà người tự do chúng ta sử dụng. Câu vừa rồi có nghĩa là các anh mang đồ đạc xuống xe và không một ai được tìm hiểu nơi đây là đâu.


Nhìn cổng trại, tôi nhận ra nơi đây là doanh trại cũ của Trung Đoàn 48 Bộ Binh mà có lần tôi tháp tùng Trung Tướng Nguyễn Văn Là đến thăm. Lúc ấy Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá Trần Bá Thành. Bây giờ anh Thành cũng đang trong đoàn xe này. Doanh trại này trước kia do một Trung Đoàn Kỵ Binh Hoa Kỳ trú đóng, là một trong những căn cứ tạo thành vòng đai bảo vệ an ninh cho căn cứ Long Bình. Tên địa phương nơi đây là Long Giao, trên đường liên tỉnh nối liền Xuân Lộc với Bà Rịa, Vũng Tàu.


Một tên lính cộng sản hướng dẫn B5 chúng tôi ngang qua các căn trại đã có các B đến trước từ hôm nào rồi. Cứ mỗi lần ngang một căn trại thì từ bên trong có tiếng:


“Bò tứ đây nghe. Bò ngũ đây nghe. Bò tam đây nghe. Xin lỗi bò mấy đó?”


Một anh đi phía trước trả lời: “Bò lục đây nghe.”


“Xin lỗi có bò thất đó không?” Các anh từ bên trong hỏi vọng ra.


“Không có bò thất. Có ở chung nhưng không rõ bị chuyển đi đâu.” Một anh trong số bò lục đáp lời.


Chữ “bò” dùng trong tiếng lóng này là dựa theo con bài domino để chỉ cấp bậc. Theo đó thì “bò tam” là Đại Úy, “bò tứ” là Thiếu Tá, “bò ngũ” là Trung Tá, “bò lục” là Đại Tá, và “bò thất” là cấp Tướng. Trong quân đội, tôi không rõ ở đơn vị tác chiến có dùng tiếng lóng này hay không chớ ở trung ương tôi chưa hề nghe. Khi trình diện có gặp nhau đâu mà qui ước, thế nhưng khi gặp nhau trong cùng cảnh ngộ, một bên lên tiếng thì bên kia đáp lại là hiểu được nhau cứ như đã qui ước với nhau từ lâu vậy.


Tổ chức và sinh hoạt.


Đến trước một căn trại, hắn mở cửa. Trời đất ơi! Mùi ẩm mốc thoát ra muốn nghẹt thở. Mọi người đều hắt xì liên tục. Nền xi măng nhưng chẳng thấy xi măng đâu cả vì bụi phủ kín mít. Nhện giăng tứ tung, đến mức mỗi bước đi phải đưa tay vẹt mạng nhện. Tên lính cộng sản nói:


“Đây là nơi ở của B5. Các anh phải dọn dẹp sạch sẽ mà ở. Chốc nữa sẽ có anh nuôi (tức lính nhà bếp) đến hướng dẫn các anh xuống bếp nấu ăn.”


Lúc mở cửa còn kêu trời, nhưng bây giờ đâu thể đứng đó mà kêu trời nữa. Vấn đề trước mắt mà anh Phụng -B Trưởng- phải làm là phân chia chỗ nằm. Anh Phụng nằm sát vách đầu nhà, tôi với anh Nguyễn Hữu Có (cựu Đại Tá, Phụ Tá Võ Phòng Phủ Thủ Tướng) nằm cạnh nhau và đối chân với anh Phụng. Tôi nói đối chân, vì đầu hướng vào vách và lối đi ở giữa căn trại rộng khoảng một thước. Anh Có nhanh tay lẹ chân mà mau miệng nữa:


“Anh Hoa, anh tạm thời dọn dẹp, tôi đi kiếm miếng ván hay thứ gì đó lót cho đỡ lạnh lưng. Quay về, tôi dọn tiếp với anh.”


Nói xong là anh chạy ngay. Một lúc sau, anh mang về tấm ván ép bể đầu này tét đầu kia, ấy thế mà rất hữu ích, vì nhờ có nó mới tránh được cái lạnh của nền xi măng ẩm ướt. Ngoài ra anh còn mang về 2 cái thùng đạn rỗng để đựng những thứ lặt vặt nữa:


“Anh tìm đâu ra cái thứ này vậy anh Có?”


“Tôi chui xuống hầm đạn đó.”


Tôi hết hồn:


“Sao anh liều mạng quá vậy. Nó nổ là hổng kịp phủi chân lên bàn thờ nghe anh”.


Anh Có tỉnh queo, còn cười nữa chớ:


“Đông nghẹt người trong hầm đạn chớ đâu phải mình tôi. Thùng đạn còn nguyên xi, tôi phải cạy cục một lúc mới tháo ra được đó. Bao nhiêu thùng đạn các loại đều bị tháo tung hết, đạn súng cối có, đạn đại bác có, đạn M79 có, mà chất nổ cũng có nữa. Đạn dược chất nổ văng tung tóe hết trơn. Ghê thì ghê thiệt, nhưng ai sao mình vậy mà anh.”


“Phải cẩn thận chớ anh, giỡn mặt với đạn dược chất nổ là nguy hiểm vô cùng. Thôi, từ nay có cần đến mấy cũng không xuống hầm đó nữa nghe anh. Nhỡ có tai nạn gì tôi ăn nói làm sao với chị.”


“Hổng sao đâu anh. Trời độ tụi mình mà.”


“Độ thì độ, nhưng mình hổng độ mình trước thì trời cũng hổng độ nỗi mình đâu anh!”


Tôi trải 2/3 chiếc chiếu vì bề ngang không đủ cho cả chiếc. Chiếu này gồm 3 miếng xếp lại theo bề ngang mà tôi mua tại Singapore hồi tháng 06/1973, khi tôi là thành viên trong phái đoàn chánh phủ sang đó nghiên cứu về xây dựng chiều cao và hải cảng dành riêng cho loại tàu hàng chở container. Tôi moi từ trong cái ba-lô ra miếng mousse nhỏ dùng tựa lưng khi lái xe để làm gối, nhưng thấp quá phải ghép thêm hai bộ đồ bà-ba đen mới may, quấn lại trong cái khăn nhỏ mới vừa độ cao cái gối.


Về bếp, họ chia bếp A cho các B1, B2, B3, và B4. Bếp B do các B5, B6, B7, và B8 sử dụng. Bữa ăn đầu tiên cho mỗi bếp, tức phần ăn của hơn 120 người mà họ nói có 45 kí lô gạo + 100 gram bột ngọt + 1 tô muối + 2 kí lô rau muống. Trên bếp B của chúng tôi có sẳn cái chảo nấu cơm và cái chảo nấu canh. Đây là bữa ăn đầu tiên trong “trại tập trung cải tạo” Long Giao do “cải tạo viên” tự nấu dưới sự hướng dẫn của lính nhà bếp cộng sản mà họ gọi là “anh nuôi”.Chữ “trại tập trung cải tạo với nhóm chữ cải tạo viên” do anh lính nhà bếp này nói. Anh ta dùng cái xẻng lớn bằng xẻng xúc đất, vừa ngoáy vào chảo cơm vừa nói:


“Hôm nay mấy anh ăn cơm với canh, chưa có món mặn.”


Ngoáy cơm xong, hắn cho rổ rau muống áng chừng hơn 1 kí lô (chớ không phải 2 kí như hắn nói) vào cái chảo chứa 3 thùng nước (60 lít) đang sôi. Kế tiếp, hắn cho vào 10 bịt mì gói, một tô muối, và cái bịt 100 gram bột ngọt mà hắn gọi là “mì chính”. Không biết có cái gì thần kỳ trong đó mà anh ta dùng cái xẻng ngoáy lia ngoáy lịa vào cái gọi là chảo canh. Thế là có chảo canh rau muống với mì gói cho hơn 120 cựu Đại Tá Việt Nam Cộng Hòa ăn bữa đầu tiên tại “trại tập trung Long Giao!” Tôi không nhớ anh bạn nào đó trong B5 chúng tôi đã đặt tên cho chảo canh rất ngộ nghỉnh là “canh đại dương”. Nhưng nghĩ cho cùng, cái tên đó rất đúng, vì một bó rau muống với 10 bịt mì gói trong 60 lít nước, quí vị quí bạn nghĩ xem có cái tên gọi nào đúng hơn cái tên “canh đại dương”!


Sau vài ngày hướng dẫn của anh ta, từ đó các B tự nấu ăn. Vài tuần đầu họ cung cấp gạo Mỹ do họ lấy trong các kho tồn trữ ở Sài Gòn, nhưng sau đó là ăn toàn gạo “đại mễ” do Trung Hoa cộng sản viện trợ. Chẳng biết họ cất giữ bao lâu trong các hầm hố mà gạo vừa ẩm vừa mục rất ư là khó nuốt, nhưng cũng phải nuốt vì không nuốt thì chết là cái chắc!


Về phân chia nấu ăn. Mỗi B phụ trách một ngày. Trong mỗi B có 30 người phân công theo từng toán trong bếp. Nặng nhất là toán phụ trách nước nên cần 10 anh Đại Tá tương đối lực lưỡng để kéo nước. Cái giếng nước thật sâu, sâu đến mức chỉ khi ánh nắng mặt trời chiếu thẳng đứng trên miệng giếng mới trông thấy mực nước lấp lánh dưới đáy giếng. Trên miệng giếng có cái rỏ rẻ với sợi giây thật dài, một anh đứng tại rỏ rẻ hạ cái thùng xuống và nắm đầu sợi giây, khi cảm thấy nặng tay có nghĩa là nước đã vào đầy thùng, ra hiệu cho năm anh ở đầu giây ra sức kéo thùng nước lên, bốn anh còn lại phụ trách khiêng về nhà bếp. Toán nào xong phần việc của mình thì nghỉ ”chờ ăn”.


Gần như 12 ngày đầu tiên mọi người đều cắn răng nhăn mặt mà ăn cơm vừa sống vừa khét vừa nhão, vì mỗi toán nấu bếp phải đến lần nấu thứ nhì mới có kinh nghiệm. Phần ăn chỉ có bữa trưa và bữa chiều chớ không có ăn sáng. Cứ mỗi khẩu phần là hai chén cơm ngang mặt chén. Anh nào muốn có chút ăn sáng thì dành lại vài muỗng cơm.


Một hôm, anh lính cộng sản phụ trách liên lạc với nhà bếp chúng tôi mang đến hai con gà trống làm sẳn cho hai bếp, nhưng gà này thuộc loại không có bộ lòng (cộng sản ăn rồi) và ra cái điều vui vẻ:


“Hôm nay các anh ăn thịt gà kho, với canh rau muống. Các anh làm mà ăn.”


Thưa quí vị quí bạn, canh đại dương thì ngày nào cũng giống ngày nào, cứ 60 lít nước + khoảng hơn một kí lô rau muống + một tô muối + 100 gram bột ngọt. Hôm nay có món gà quả là đặc biệt. Nó càng đặc biệt vì 120 Đại Tá thua trận mà chỉ có một con gà trống nhẵn nhụi khoảng hơn 1 kí lô. Không thể nào chặt được 120 miếng cho mỗi bếp, mà không chặt được ngần đó miếng thì làm sao chia cho 120 phần ăn. Trong cái đặc biệt đó, anh Cao Văn Phước có sáng kiến cũng không kém phần đặc biệt là băm nhỏ con gà ra, có thể gọi là băm nát như tương rồi cho vào nhiều nước nhiều muối mà kho. Nếu gọi “thịt gà kho” thì tội nghiệp cho văn chương chữ nghĩa nhà bếp quá! Nấu xong, một anh bèn đặt tên thức ăn trong cái nồi đó là “xác gà kho” và được các anh có mặt vui vẻ chấp nhận món ăn mới trong thực đơn trại tập trung của xã hội chủ nghĩa. Kể ra tên gọi này có phần sát thực tế, vì đâu thể gọi là thịt gà kho được. Thế là mỗi anh được chia một muỗng bầy nhầy xác gà kho.


Tôi với anh Có ăn chung. Cứ mỗi chiều dành lại 1/3 chén gọi là phần điểm tâm sáng mai. Chỉ sau vài tuần là tôi thèm chất béo và chất ngọt vô cùng. Chất béo thì không đào đâu ra, nhưng chất ngọt thì anh Nguyễn Gia Ngọc (Đại Tá Quân Nhu) làm quen với nhà thầu cung cấp thực phẩm cho khu C2, nhờ họ mua giúp từng kí lô đậu nành hột và đường tán để làm sữa uống mỗi sáng. Đậu nành hột đem phơi thật khô, cứ mỗi chiều tôi cho một nắm vào cái nón sắt lượm ở đường mương cạn, dùng khúc củi đâm hột đậu giập giập chớ đâu thể nát như bột được, cho vào cái ca nhựa cùng với nửa tán đường. Sáng hôm sau, nấu nước sôi bằng cái nón sắt kê trên ba cục gạch, là có ca sữa đậu nành ngon lắm quí vị quí bạn à!


Thỉnh thoảng anh Ngọc nhờ mua giúp được vài gói mì ăn liền, tôi chế biến thành chè bằng cách dùng mì cho vào cái nón sắt vừa nấu nước đường tán, hòa cho đều rồi cho vào cái ca nhựa là có “ca chè mì” ngay. Thật lòng mà nói, “ca chè mì” không giống bất cứ loại chè nào có tên gọi, nhưng phải công nhận là rất hữu ích cho nhu cầu bổ sung chất ngọt cho cơ thể.


Về tắm giặt rất ư là khó. Khó vì nước rất hiếm, phải vất vả lắm mới kéo được một thùng nước nhỏ từ cái giếng sâu lên. Đem được nước về đựng trong cái thùng sắt mà mục đích của nó khi được nhà sản xuất chế tạo là đựng đạn, nay thì nó thuộc loại đa dụng đối với chúng tôi. Lượng nước đó dùng rửa chén rửa mặt rửa tay và tắm giặt. Nếu như nước Cam Lồ có tác dụng đem đến sự khoan khoái và tươi tỉnh cho con người, thì quả thật chỉ vài lít nước đó dội lên người, chúng tôi cảm nhận tức thì tác dụng của nó chẳng khác nước Cam Lồ.


Thế nhưng” trong cái khó nó ló ra cái khôn”. Anh Nguyễn Văn Nhu (Đại Tá Quân Y)
“phát minh” cách tắm giặt đáng xếp vào loại “thần kỳ” trong thế giới trại tập trung. Anh Nhu dùng cái lon guigoze bằng nhôm cứng mà Hòa Lan sản xuất dùng đựng sữa bột, đục hai cái lỗ bằng đầu cây tăm xỉa răng, nghĩa là nhỏ xíu xìu xiu. Cho nước vào đầy lon guigoze, để lên cái bệ cũng bé tí tương đương trên vách, rồi thong thả đứng tắm. Lúc đầu tôi thấy hơi kỳ kỳ, nhưng sau mấy lần nhìn anh ấy đứng tắm tôi thấy có lý. Có lý ở chỗ là chưa có cách nào giải quyết vấn đề nước “thần kỳ” hơn “phát minh” của anh Nhu cả. Rồi từ có lý đến bắt chước anh chỉ một buổi chiều.
Hôm ấy tôi hy sinh cái lon guigoze, cũng đục lỗ, cũng để lên bệ, và tắm. Quí vị thử tưởng tượng như đang nóng nực, mồ hôi nhuễ nhoại sau khi kéo được thùng nước nhỏ từ dưới giếng sâu lên, phải xách nó trên đoạn đường vài trăm thước dưới cái nắng gay gắt về căn trại, cho vào cái “vòi nước bông sen thần kỳ” do anh Nhu phát minh, rồi từ từ xoay người cho nước ngấm dần từ trên đầu xuống mặt, ưỡn ngực, khom lưng, đến thẳng người cho nước ngấm xuống chân. Trong lúc đó, xát xà bông lên đầu, lên toàn thân, và cả chiếc quần đùi đang mặc nữa. Tắm và giặt đúng nghĩa mà.
Bây giờ bắt đầu gội sạch trên đầu, hai giọt nước bé tí lần lượt trôi xuống toàn thân trong khi vẫn chầm chậm xoay người trên “cái trục tưởng tượng”, để dòng nước nhỏ nhoi đó ướt khắp châu thân mà không một giọt nước nào rơi ra ngoài. Mỗi giọt nước, sau khi gội sạch đầu, lần lượt trôi xuống làm sạch xà bông trên toàn thân. Xong, lau mình và thay áo quần. Ngay tức khắc phải giặt chiếc quần đùi, vì nếu chậm sẽ mất lượng nước quí báu còn lại trong cái “hồ nước guigoze” có một không hai trên thế giới. Tắm giặt xong là vừa hết nước trong cái “hồ guigoze bé xíu”. Nói là bé xíu nhưng về ý nghĩa thì  “cái hồ guigoze” đó rất lớn và rất hữu dụng với chúng tôi. Dần dần nhiều anh cũng áp dụng cách tắm giặt rất ư kỳ diệu này.
Tôi nghĩ, tuy không biết vào thời gian nào, nhưng thể nào cũng có lễ vinh danh những “phát minh kỳ diệu” của các “cải tạo viên” vốn dĩ là quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa trong các trại tập trung của cộng sản Việt Nam giai đoạn 1975-1992. Với “phát minh” của anh Bác sĩ Nguyễn Văn Nhu, chẳng những vinh danh anh mà còn vinh danh nhà phát minh nào đã sản xuất cái lon guigoze nữa. Trong những năm sau đó, quả thật cái lon guigoze đã giúp chúng tôi về nhiều công dụng khác nhau trong các trại tập trung trên đất nước Việt Nam. Chẳng hạn như:
- Chỉ một cái lon guigoze cắt làm hai, phần trên làm cái bếp với năng lượng là cây đèn cầy (đèn sáp) và phần dưới làm cái nồi nấu.
- Cái lo guigoze làm bình đựng cơm, đựng canh, đựng nước lạnh, nước nóng, nước trà, cà phê, nói chung là dùng đựng bất cứ thứ gì đựng được.
- Cái lon guigoze làm quai móc hai bên, cho chút gạo và nước vào, đem máng bên cạnh cái thùng nấu nước của mỗi B tại chỗ lao động (đốn cây trong rừng, cuốc đất trồng lúa, trồng khoai, trồng bắp, trồng rau, ..v..v.. ). Đến trưa là có lon cơm hoặc lon cháo đỡ lòng, vì cái loại chất bột “bo bo” dành cho ngựa ăn nhưng cộng sản đem nuôi chúng tôi trong các trại tập trung của họ, không ăn nỗi nhất là các anh bị đau bao tử (dạ dày)!               
Lao động.
Trở lại sinh hoạt trại Long Giao. Họ chỉ định anh Cao Văn Phước (Đại Tá Quân Vận) là C Trưởng C2. Bên khu Trung Tá họ gọi là C1. Kế bên C1 là C3. Trách nhiệm của C Trưởng C2 là điều hợp các B Trưởng. Cứ mỗi chiều, anh Phước đến văn phòng trại để nhận lệnh. Trở về khu C2, anh chuyển các lệnh đó cho các B Trưởng thi hành. Anh Cao Văn Phước, một thời là Tổng Cuộc Bóng Tròn Quân Đội, và anh đã từng là Trưởng Phái Đoàn bóng tròn Việt Nam Cộng Hòa tham dự nhiều giải bóng tròn quốc tế.
Hằng ngày, họ bắt chúng tôi ra những mảnh đất trống ở bìa rừng làm cỏ đánh vồng trồng khoai mì mà họ nói “lao động là vinh quang”. Một hôm, anh lính cộng sản gốc miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954, hướng dẫn đến cuốc nền bãi đáp trực thăng trồng khoai mì mà họ gọi là “sắn”. Bãi đáp này tráng nhựa mà hắn bảo chúng tôi cuốc từng hộc nhỏ mỗi cạnh khoảng một gang tay là mồ hôi ướt cả người, mà nghe hắn giảng giải kỹ thuật mồ hôi càng nhỏ giọt nhanh hơn. Hắn nói:
“Đất của ta ưu việt lắm. Các anh chưa từng lao động nên không biết gì hết. Các anh cứ cho một cọng hom xuống là các anh sẽ nhận được một chùm củ”.
Tôi hỏi:
“Anh bộ đội ơi! Đá cứng như thế này làm sao nó ra rễ được mà có chùm củ?”
 “Đảng đã nói đất của ta ưu việt lắm, anh đừng có hỏi dài dòng.”
Hắn nói tỉnh bơ, cứ như thiệt vậy quí vị quí bạn à!
Anh em chúng tôi mỉm cười. Có vẻ như hắn tưởng chúng tôi vừa từ mặt trăng xuống địa cầu nên chẳng hiểu gì ở cái cõi nhân gian này hay sao ấy. Toàn đá với nhựa đường và xi măng, làm sao cọng hom khoai mì sống được mà ưu việt với không ưu việt. Có vẻ như não bộ của quân lính cộng sản đặc sệt do bị nhồi nhét những cái thứ mà lãnh đạo của họ gọi là ưu việt, và họ không được phép hiểu khác hơn những gì họ được nhồi nhét cái thứ ưu việt ấy. 
Ngày cuối cùng trồng khoai mì trên mảnh đất mà  lính cộng sản gọi là  ưu việt đó, hắn cho biết “quân hàm” (cấp bậc) của hắn là Thượng Sĩ, hắn bưng cho một nồi khoai mì vừa nấu xong:
“Các anh ăn đi, khoai này là thủ trưởng tôi mới đem về đó”.
Tôi hỏi: “Thủ trưởng của anh là ai vậy?”  
“Là đồng chí Đại úy Xê mà lúc nảy đứng đây nói chuyện với mấy anh đó.”
“Đại Úy Xê vô quân đội mấy anh bao lâu rồi?” Anh Nguyễn Thành Chí hỏi.
“Tôi nghe thủ trưởng tôi nói có tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ (1954). Như vậy là đi lâu lắm rồi.” 
Chỉ một lúc là nồi khoai mì hết trơn. Có lẽ lúc nào cũng đói, cộng thêm khoai mì là món mà mấy tháng nay mới được ăn nên rất ngon.
Sau đó, rẫy khoai mì trên bãi đáp trực thăng, những mầm cũng vươn lên nhưng èo uột, vàng úa, rồi tắt lịm. Cuối cùng không còn một dấu vết gì của “rẫy khoai mì ưu việt” cả. Không thể hiểu được là tại sao hắn nghe theo lời đảng của hắn dạy đến mức không cần suy nghĩ xem lời dạy đó như thế nào trong thực tế cuộc sống. Sao người cộng sản lại ngu muội đến như vậy?
“Học tập cải tạo”.
Căn cứ theo thông báo của Ủy Ban Quân Quản thì thời gian học tập 30 ngày. Tuần lễ thứ nhất chưa thấy nói gì đến hai chữ học tập, cũng có thể chấp nhận được vì phải lo ổn định sinh hoạt hằng ngày. Tuần lễ thứ hai cũng chưa có dấu hiệu gì, thôi thì cũng chấp nhận được vì có thể chỉ cần một tuần học tập chăng? Đến tuần lễ thứ ba vẫn chưa nghe họ nói gì về học tập, và từ lúc này anh em chúng tôi bàn ra tán vào biết bao nhiêu là chuyện, chẳng hạn như:
“Có thể họ thấy mình chẳng những không chống đối họ mà còn ra sức lao động như vậy là tốt rồi”.
“Có lẽ khỏi học tập chính trị, vì hòa bình rồi họ đâu còn sợ mình chống đối như khi họ chiếm được miền Bắc”.
“Có thể họ chỉ trừng phạt mình tí thôi chớ thật sự là họ cần mình để khôi phục đất nước, vì họ chỉ biết đánh nhau chớ có học hành như anh em chúng mình đâu”.
“Vân vân và ..v.. v… “
Đến đây bỗng dưng tôi nhớ đến tập sách mỏng do Bộ Thông Tin Việt Nam Cộng Hòa phiên dịch sang Việt ngữ và ấn hành khoảng năm 1965 hay 1966 gì đó, với tựa “Bạn Có Thể Tin Người Cộng Sản, Nếu ...” Đến ấn bản lần hai thì tựa dài thêm một chút “Bạn Có Thể Nghe Cộng Sản Nói Nhưng Đừng Bao giờ Tin Cộng Sản”. Nguyên tác bằng Anh ngữ của Bác Sĩ Fred C. Schwarz (có thể tên lót tôi nhớ không chính xác).
 Tác giả sinh ra và lớn lên ở thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland, Australia. Ông đã dành ra khoảng 20 năm để nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản về lý thuyết lẫn thực tế trong cuộc sống. Toàn bộ tập sách, tác giả dẫn chứng rõ ràng giúp người đọc nhận ra người cộng sản bày tỏ tư tưởng của họ chẳng khác tư tưởng của người tự do nhưng hoàn toàn khác nghĩa. Chẳng hạn như họ nói “chúng tôi tha thiết với hòa bình”, đó là họ nói thật nhưng nghĩa của nó thì không thật. Với người tự do, khi quốc gia mình không có chiến tranh thì đó là hòa bình, nhưng với người cộng sản thì khi nào toàn thế giới dưới quyền thống trị của họ mới là hòa bình. Khi họ nói đến dân chủ có nghĩa là người dân được phép nói xuôi theo đường lối của đảng cộng sản, đó là dân chủ. Nếu nói ngược với đường lối của đảng lập tức bị ghép vào tội phản động, và những biện pháp trừng trị xảy ra sau đó.                  
Theo cách nói và hiểu như vậy, liệu một tháng học tập nêu trong thông cáo của Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định phải hiểu như thế nào đây? Tuần lễ thứ ba trôi qua gần hết mà học tập cải tạo vẫn trong sự yên ắng một cách mệt mỏi!
Ngày qua ngày, chúng tôi càng có chung thắc mắc: Họ nói tụi mình đi “học tập cải tạo” mà sao họ canh giữ mình kỷ quá. Ra bãi trồng khoai mì mà có lính mang súng theo gác, và có cả máy vô tuyến nữa? Họ sợ mình hay sợ ai bên ngoài mình? Rồi cấm liên lạc nhau giữa các khu trại Trung Tá với Đại Tá? Thắc mắc nhưng đâu có ai giải đáp cho mình đâu. Anh Nguyễn Thành Chí:
“Trước khi trình diện, tôi nghe tin các sĩ quan bị kẹt lại Huế với Đà Nẳng hồi cuối tháng 3 (1975) đều bị tước quyền công dân, mà mất quyền công dân là ở tù rồi còn gì”.
Hầu hết các anh trong B5 đều nghe đến tin đó, nhưng không một ai -kể cả tôi- chấp nhận mình là tù cả, dù tất cả giấy tờ tùy thân bị họ bắt giao nộp. Rõ ràng là đến lúc này (cuối tuần lễ thứ ba của 30 ngày), sự suy nghĩ của anh em chúng tôi trong các B đều dừng lại ở “vấn đề thời gian học tập 30 ngày nhưng sao lại bị canh giữ chặt chẻ quá”.
Đầu tuần lễ thứ tư, không chỉ B5 chúng tôi mà các bạn trong các B khác vẫn bàn ra tán vào, nhưng nội dung chuyển sang hướng khác. Vì đề tài “học tập và ra về” bàn mãi rồi cũng cạn, nên chuyển sang đề tài “quần vợt”. Hăng say với đề tài này là anh Nguyễn Thành Chí (Đại Tá Pháo Binh), anh Trần Văn Hào (Đại Tá Pháo Binh), anh Võ Thành Phú (Đại Tá Công Binh), anh Nguyễn Hữu Có (Đại Tá Bộ Binh), liên tục cáp độ và cùng hẹn một ngày ngay sau khi về đến Sài Gòn là vào sân tranh tài. Người thua (đánh đơn) hay cặp thua (đánh đôi), sẽ đãi bên thắng một chầu không giới hạn.
Những mẫu chuyện như vậy, cho thấy một số trong số anh em chúng tôi trong B5 có vẻ như không một chút ngờ vực về thời hạn 30 ngày “học tập cải tạo” sắp hết. Trong bầu không khí ngờ vực thì ít mà tin tưởng thì nhiều ấy, anh Trần Thanh Liêm (Đại Tá Quân Tiếp Vụ) trồng được một dây dưa leo nhỏ nhắn đang có một trái đầu tiên, và hai vồng khoai lang dài độ 3 thước đang xanh tươi. Khoai lang giống là tôi với anh Liêm lượm từng cọng rễ khi chúng tôi làm cỏ gần giếng nước đem về trồng. Việc làm âm thầm của anh Liêm, không hiểu có phải do anh không tin ngày về trong cái hạn 30 ngày hay do tính cần cù kiên nhẫn vốn có của anh, nhưng nhiều anh trong B5 tuy nói vui nhưng cũng pha chút giễu cợt:
“Ông Liêm ơi! Ông ráng ở đó mà ăn  khoai lang với dưa leo nghe”.
Anh Liêm cười cười:
“Biết đâu được. Còn ở thì ăn, về thì thôi chớ có sao đâu. Làm cho đỡ buồn mà”.
Thưa quí Anh cùng trong B5 trại tập trung Long Giao năm 1975, thuật lại đoạn trên đây tôi có ý nhấn mạnh đến sự hiểu biết của chúng ta lúc ấy về chủ nghĩa cộng sản nói chung và cộng sản Việt Nam nói riêng, là quá kém! Nhận thức này càng minh chứng thêm rằng: “Nếu chúng ta hiểu được bản chất cộng sản thì chẳng bao nhiêu người trong số chúng ta lại vác ba-lô vào các trại tập trung của cộng sản”. Cũng xin thêm lời cho rõ nghĩa, chữ “chúng ta” mà tôi dùng ở đây bao gồm cả tôi trong đó.
Thế nào là cơ động?
Và rồi như thường lệ, một buổi chiều sau khi anh Cao Văn Phước -C Trưởng- đi họp ở bộ chỉ huy trại về, liền gọi các tất cả 8 anh B Trưởng đến họp gấp. Họp xong, B Trưởng chúng tôi là anh Nguyễn Hữu Phụng thông báo cho cả B rằng:
“Sáng sớm mai, trừ những anh đau yếu, các anh khác đều sẳn sàng cơ động ”.
Chỉ ngắn gọn thế thôi mà gần như cả 30 anh em chúng tôi có quá nhiều suy đoán, mà lời suy đoán nào cũng quan trọng cũng tròn trịa như vừa xem xong trên giấy trắng mực đen vậy. Sau đây là một số suy đoán chỉ xoay quanh hai chữ cơ động mà ra:
“Cơ động tức di chuyển, mà di chuyển bằng xe chớ không phải đi bộ, và như vậy là tụi mình về Sài Gòn chớ còn đi đâu nữa, vì chúng ta đag ở tuần lễ cuối cùng của 30 ngày mà.”
“Nếu vậy thì tụi mình về lại đại học xá Minh Mạng là cái chắc, không chừng làm lễ ở đó cũng nên, vì đó là địa điểm mình tập trung đi học tập.”
“Không đâu, tôi nghe loáng thoáng là xe đưa mình về căn cứ Sóng Thần cũ (ở Dĩ An, Biên Hòa) chớ hổng phải Sài Gòn đâu, vì nơi đây rộng lớn mới chứa được nhiều ngàn người. Còn đại học xá bằng bụm tay mà tổ chức lễ với lạc gì.”
“Thôi các anh ơi! Chỉ cần tụi mình được di chuyển bằng xe là chỉ dấu tốt rồi, chớ suy đoán xa xôi tôi ngại lắm. Còn nữa, tại sao cơ động đi về mà ngoại trừ những anh đau yếu là thế nào?”
“Mấy anh ngại cái gì nào? Anh B Trưởng thông báo chánh thức như vậy mà ngại với không ngại. Hay là xin ở lại học thêm cho có bằng cấp rồi về sau nhé! Còn mấy anh bệnh chắc là có xe đón tại chỗ, mạnh như mình thì đi bộ đến chỗ xe đậu chớ có gì đâu mà thắc mắc”.
“Nghe cứ như thiệt vậy mấy cha”.  
Chúng tôi suy đoán lung tung như vậy đó quí vị quí bạn à! Trúng trật chẳng ai biết, nhưng gop1 phần giảm bớt mức căng thẳng trong sự suy nghĩ của chúng tôi.  
Thế rồi đêm đó trôi qua như muôn thuở đã trôi qua mà tôi nghĩ không ai trọn giấc. Từ mờ sáng, mạnh ai nấy lo thu vén chuẩn bị … cơ động. Đến khi gọi tập họp ra sân, tất cả chúng tôi mới vở lẽ rằng, chữ của người cộng sản mà hiểu theo nghĩa của người tự do là sai hoàn toàn. Bởi vì sĩ quan của họ dõng dạc đọc bản qui định cho “đoàn quân cơ động” như thế này:
“Sáng hôm nay, các anh cơ động đi lấy củi ở một nơi cách đây 5 kí lô mét. Tất cả phải đi hai hàng, không một ai tự ý ra khỏi hàng khi chưa được phép. Cũng không được liên hệ với nhân dân (cấm nói chuyện với dân). Khi đến khu vực chỉ định, mỗi người phải tự kiếm và vác về một bó củi, hoặc hai người cột củi chung một bó khiêng về”.
Quí vị quí bạn có tưởng tượng nỗi sự thất vọng của anh em chúng tôi như thế nào không? Tuy chưa phải là ghê gớm lắm, nhưng rõ ràng đủ để thay đổi hẳn nét mặt tươi tắn với thái độ hăng hái lúc ra sân như thế nào! Trông thảm hại lắm quí vị quí bạn à! Thế nhưng vẫn phải cố gắng để “cơ động bằng chân”, vì nếu không sẽ rắc rối chớ đâu phải chuyện đùa.
Nửa giờ sau đó. Trên dưới 300 Đại Tá thua trận chúng tôi -kể cả số anh từ các tỉnh miền Tây đến đây- ra khỏi cổng, quay lại nhìn thấy hàng chữ “quân đội nhân dân Việt Nam” mà muốn ói.Rẽ phải theo đường liên tỉnh hướng xuống Bà Rịa. Nhìn bên kia cổng trại, người dân buôn gánh bán bưng từ trong những dãy nhà lụp xụp ùa ra, đứng nhìn đoàn người ăn mặc khá tươm tất, đang lặng lẽ đếm bước giữa những tên lính cộng sản súng cầm tay chỉa vào đoàn người. Vài đứa trẻ ngập ngừng: “Mấy ông ngụy đó”.
Cũng may là đám trẻ này gọi “ngụy” bằng ông! Người lớn thì đăm chiêu, im lặng. Tôi không rõ những người dân nghĩ gì đằng sau thái độ của họ, nhưng hiển nhiên không phải là hình ảnh của niềm vui. Tôi nhìn người dân, nhìn vài chiếc xe đò nhỏ thoáng qua, chính tôi cũng không rõ mình đang nghĩ gì, vì sự suy nghĩ dường như quá mong manh. Có thể sau 2 tháng mất tự do, đây là lần đầu tiên trông thấy người dân và xe cộ qua lại, nên cách nhìn và cách nghĩ chưa gom góp đủ yếu tố để định rõ được điều gì cả! Phải chăng những suy nghĩ trên đây là lúc tôi đang đứng một khoảng cách bên trên mặt đất?
Nơi tìm củi là khu rừng cạnh đường liên tỉnh. Mạnh ai người ấy sục sạo tìm kiếm. May quá, tôi gặp được cành cây khô khá lớn. Anh Có (Nguyễn Hữu) cũng vậy. Chúng tôi đang đứng nói chuyện thì một cậu bé chui ra từ trong bụi rậm, mang theo một cái “gùi” nặng trỉu. Cậu ta nhìn quanh không thấy tên lính cộng sản nào, bèn moi ra một nải chuối xiêm (hay là chuối sứ) tròn trịa vừa chín. Tôi mua ngay nải chuối đó và chỉ mấy phút sau tôi với anh Có ăn hết trơn. Mỗi đứa ăn 7 trái. Bây giờ viết lại cảm thấy ngượng ngùng!
Tẩy não là đây.
Lên lớp. Sau ngày cơ động lấy củi là lệnh chuẩn bị “học chính trị”. Mỗi người phải sẳn sàng giấy viết, và cái gì đó để lót mà ngồi. Các khu “bò tam, bò tứ, bò ngũ, bò lục”, nói rõ là từ cấp Đại Úy đến Đại Tá đều tập trung vào một khu căn trại liền nhau không vách ngăn tạm gọi là hội trường mà họ gọi là “lên lớp”. Chỗ ngồi là nền xi măng, ai có gì thì lót thứ ấy mà ngồi đỡ lạnh đít. Ngồi thật sát nhau vì mỗi lớp học có đến hơn ngàn người lận. Bài số 1 là “Đế quốc Mỹ, kẻ thù số một của nhân dân Việt Nam”. Tên cộng sản đứng trên bục giảng gọi là “giáo viên”, và cách gọi là “học chính trị”  như thế này: “Giáo viên nhìn vào tài liệu viết sẳn mà đọc. Không một ai được quyền thắc mắc hay nêu câu hỏi gì cả mà chỉ lo ghi chép, còn ghi chép gì thì tùy mỗi anh. Nghe xong phần đọc tài liệu, giải tán về căn trại của mình.
Từ buổi kế tiếp, mỗi B ngồi tại chỗ nằm để vào phần gọi là “thảo luận”. Với bài số 1 này họ qui định thời gian là 2 ngày rưỡi. Trong suốt thời gian đó, sĩ quan của họ ngồi bên cạnh theo dõi thảo luận.
Thế nào là thảo luận? Mỗi người phải theo câu hỏi của giáo viên đưa ra, và thảo luận là mỗi người phải lặp đi lặp lại nội dung đã được giáo viên đọc trong tài liệu, đồng thời nói thêm những gì mình biết hoặc mình nghĩ, nhưng nhất thiết phải biết phải nghĩ theo tài liệu chớ không được nói bất cứ những gì mà tài liệu không nói đến. Điều quan trọng mà họ bắt mọi người khi gọi là “thảo luận” phải khẳng định những gì “giáo viên” đã giảng là hoàn toàn đúng, tuyệt đối không được phủ nhận hay sửa đổi ý nào lời nào. Họ nói rằng tài liệu đã được trung ương đảng của họ duyệt, mà khi trung ương đảng của họ duyệt thì tuyệt đối đúng. Cũng vì họ hướng dẫn như vậy nên anh Bùi Quang Định (Đại Tá bộ binh) phát biểu như để bớt cơn tức giận:
“Vậy thì thảo luận gì nữa mấy anh.” 
Anh Phụng -B Trưởng- nhỏ nhẹ:
“Xin anh cẩn thận, cách mạng hướng dẫn như vậy thì mình phải thi hành, không nên thắc mắc ngoài hướng dẫn đó.”
Có vẻ như anh Phụng muốn ngăn chận những ý kiến tương tự vì tên cán bộ cộng sản ngồi cạnh đang cau mày tỏ vẻ khó chịu. Đa số anh em thông cảm với anh Phụng, vì khi B5 bị mắng thì anh Phụng bị mắng trước nếu như điều hợp thảo luận “không đạt yêu cầu”.
Vậy, đạt yêu cầu là gì? Xin thưa rằng, khi mục đích của họ muốn những người thua trận phải nói đúng như họ muốn. Nếu như mình nói đúng sự thật mà sự thật đó không đúng theo mục đích của họ, họ bảo là “chưa đạt yêu cầu”. Thế là họ bắt phải thảo luận lại, cho đến khi họ nghe mình nói đúng theo bài học.
Tại sao mỗi người phải lặp lại nội dung mà “giáo viên” đã đọc trong tài liệu? Tôi nghĩ, họ bắt buộc như vậy cho thâm nhập vào não bộ của người học tựa như thu vào băng từ, thậm chí giống như con két nghe mãi nó sẽ thuộc lòng rồi phát ra vậy. Từ đó, tôi khẳng định rằng: Người cộng sản nói theo tiếng nói của người lãnh đạo họ chớ không phải họ nói từ cái đầu của chính họ, và họ buộc mọi người khác cũng phải hiểu và nói như họ. Chữ “tẩy não” hay “nhồi sọ” là đây rồi”.
Mỗi buổi thảo luận, B Trưởng phải lập biên bản những ai nói gì hay có những thắc mắc nào, đem nộp cho C Trưởng -tức anh Cao Văn Phước- để anh C Trưởng gộp chung lại mang nộp cho Ban Chỉ Huy. Sau đó, tất cả sẽ tập trung trở lại hội trường để nghe “giáo viên giải đáp” thắc mắc. 
Thế nào là giải đáp thắc mắc? Chẳng qua là giáo viên đọc tiếp phần kết luận mà hắn đã viết sẳn cho phần này, để khẳng định đề tài học tập là đúng (theo cách hiểu của người cộng sản). Cho nên có nêu thắc mắc hay không nêu thắc mắc, giáo viên cứ bình thản đọc phần mà hắn gọi là giải đáp thắc mắc. Nói cách khác, họ chỉ chấp nhận thắc mắc xuôi tức là vuốt đuôi theo nội dung bài học, chớ họ không chấp nhận thắc mắc ngược tức là không có trong bài học, thậm chí họ hiểu những thắc mắc ngược như là chống đối họ nữa.
Cứ trung bình một bài học là 5 ngày, cộng 1 ngày cuốc đất, và 1 ngày nghỉ là hết một tuần. Trong thời gian học chính trị, căn-tin của họ mua về một số mặt hàng như đường cát, sữa hộp, mì gói ăn liền, ..v..v.. để bán lại cho anh em chúng tôi mà họ gọi là “bồi dưỡng trí óc”(!) Đợt học tập kéo dài gần hai tháng, qui vào 3 nội dung: “Chủ nghĩa tư bản là xấu xa, chủ nghĩa cộng sản là ưu việt, Việt Nam dưới tài lãnh đạo của đảng cộng sản là vĩnh viễn độc lập, vĩnh viễn hòa bình, và tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Trong bài học “chủ nghĩa cộng sản là ưu việt”, tên Bình (Thượng tá Công An) nói rằng:
“ … Rồi đây, các anh sẽ được đảng với nhà nước sử dụng lại để sang giúp đỡ cách mạng Thái Lan giải phóng xứ sở họ…”.
Sau buổi “lên lớp” đó, anh em chúng tôi có đề tài bàn luận sôi nổi. Không phải bàn luận về sử dụng lại hay không sử dụng lại, mà vì từ trong câu nói đó bao hàm một chiến lược xâm lăng toàn cõi Đông Nam Á Châu của cộng sản quốc tế sau khi chiếm được Việt Nam Cộng Hòa chúng ta. Trên bản đồ xâm lăng của cộng sản Nga với cộng sản Trung Hoa, thì cộng sản Việt Nam là cánh tay nối dài của chúng trong khu vực Đông Nam Á Châu. Tôi nghĩ:
“Phải chăng chủ thuyết Domino của Hoa Kỳ hồi những năm 50-60 trong mục đích ngăn chận chiến lược xâm lăng của cộng sản quốc tế, giờ đây chúng sắp thực hiện sau khi chủ thuyết này bị đứt mắt xích Việt Nam Cộng Hòa?”
Rồi ý nghĩ khác chợt đến: “Phải chăng khi Hoa Kỳ bắt tay với cộng sản Trung Hoa thì xóa bỏ mắt xích Việt Nam Cộng Hòa chăng?”
Chính trị mà! Nay là thù, mai là bạn, cũng có thể vừa bạn lại vừa thù. 
Cuối loạt học chính trị gồm 10 bài, họ bắt mỗi người chúng tôi phải viết bản tự khai. Họ nói rằng:
“Các anh đã hiểu đường lối chính sách của đảng với nhà nước, các anh phải tự liên hệ với những lỗi lầm của bản thân và khai báo thành thật với cách mạng. Cách mạng biết rõ những việc làm của các anh, nhưng cách mạng muốn chính các anh tự mình khai báo, vì cách mạng khoan hồng cho các anh là có điều kiện chớ không phải khoan hồng chung chung…” 
Theo hướng dẫn của họ, bản tự khai gồm 3 đời lý lịch: Đời thứ nhất là Ông Bà Nội với tất cả Bác Chú Cô. Đời thứ hai là Cha Mẹ với anh chị em ruột. Và đời thứ ba là bản thân với vợ con. Về bản thân -tức là chính mình- phải khai từ lúc cha mẹ sinh ra, làm gì, ở đâu. Vào quân đội phải khai cấp bậc chức vụ, đơn vị, nơi đóng quân, làm những công việc gì, đã bắt hay giết bao nhiêu người cộng sản của họ, đã học những trường nào, ở đâu, học về gì, đã có những huy chương nào và tại sao có, … tất cả phải khai theo từng năm một. Sơ khởi họ phát mỗi người 2 tờ giấy đôi, nếu thiếu thì xin thêm.
Quí vị quí bạn biết không, nghe họ hướng dẫn mà phát mệt rồi vì làm sao nhớ nỗi tên tuổi của cả dòng họ được. Nhưng khi ngồi trên chỗ nằm hay dựa vào gốc cây, bất cứ thứ gì miễn tạo được cái chỗ nho nhỏ tương đối bằng phẳng để giấy lên viết, đều được gắn cho cái tên là bàn viết. Còn nội dung cứ ngắn gọn trong 4 trang giấy là xong. Có điều là tên tuổi của đời thứ nhất đều do tưởng tượng rồi viết vào chớ làm sao biết được. Thế là xong phần học chính trị, các Đại Tá thua trận quay sang bàn luận trong khi tự gắn cho mình cái thời gian chờ đợi về nhà. Chữ chờ đợi mà tôi dùng ở đây là tự mình chờ đợi chớ họ có nói gì liên quan đến chờ đợi đâu. Mọi bàn luận vẫn xoay quanh ngày về với vợ con. Tuy mỗi anh mỗi bạn có cách nhìn cách nghĩ không hoàn toàn giống nhau, nhưng có điều giống nhau là đồng ý đã lao động rồi, đã học chính trị xong rồi, chỉ chờ về thôi. Đơn giản quá. Bây giờ nghĩ lại mới nhận ra mình không hiểu được chiều sâu nham hiểm thâm độc của cộng sản nên đặt vấn đề quá ư đơn giản. Tuy luận bàn không ồn ào như hồi cuối tháng thứ nhất nhưng cũng sôi nổi đáng kể.  
Nhân lúc thưởng thức những củ khoai lang bé bỏng do vồng khoai cũng bé bỏng của anh Trần Thanh Liêm đào được một thùng, tôi nhớ lại câu nói của anh Hào có ý giễu cợt khi thấy anh Liêm chăm bón vồng khoai lang và dây dưa leo:
“Anh Liêm ơi! Anh ráng ở lại mà ăn dưa leo với khoai lang nghe.”
 Thế nhưng sau 3 tháng, dường như anh Hào không nhớ câu mà anh giễu cợt pha chút mỉa mai anh Liêm, nên anh cùng các bạn ăn những củ khoai nhỏ nhắn một cách ngon lành. Thật sự là khoai lang rất ngon, có điều là phẩm chất của nó chẳng phải là do giống khoai hảo hạng gì cả, chỉ vì trong cái xã hội chật hẹp lại bị cấm mọi thứ, nên những củ khoai lang cở ngón tay ngón chân trở thành món ăn tuyệt diệu đó thôi.
Đang ngồi ăn khoai, một trong số các anh đến sau là anh Nguyễn Ngọc Điệp (Đại Tá, Tỉnh Trưởng Bạc Liêu) bị bắt từ các tỉnh đồng bằng Cửu Long chuyển đến Long Giao nhập vào “học chính trị”. Anh kể chuyện về bản thân anh trong ngày “gọi là bàn giao” tỉnh Bạc Liêu. Thi hành lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, anh ngồi chờ bàn giao. Khi gọi là “bàn giao” xong, anh mời tên cộng sản vừa “nhận bàn giao” ra chợ ăn trưa. Vừa trả tiền xong thì tên “tân Tỉnh Trưởng cộng sản” đưa anh Điệp vào nhà giam Bạc Liêu luôn. Hắn nói:
“Anh ngồi đó chờ ngày đi học tập cải tạo để thông suốt đường lối của đảng theo chính sách khoan hồng.”
 Nói xong, hắn ra lệnh khóa cửa đánh rầm một cái. Anh Điệp nói sự kiện diễn biến nhanh đến mức anh không kịp suy nghĩ gì hết. Anh ngồi bó gối trong nhà tù cho đến chiều mới tỉnh hồn lại để biết là anh đang trong nhà tù. Cùng lúc anh nhận ra “cái đểu” lồng trong cái gọi là chính sách “khoan hồng nhân đạo” của cộng sản Việt Nam! 
Anh Điệp cùng với hơn chục bạn Đại Tá bị bắt hoặc trình diện ở các tỉnh đồng bằng Cửu Long, chuyển đến trại Long Giao nhập vào đúng lúc chuẩn bị “học chính trị”. Cũng vào thời gian này, mọi người thua trận được phép viết thư về gia gia đình theo hướng dẫn của họ:
“Đây là chính sách nhân đạo của đảng và nhà nước cho các anh đi học tập cải tạo để các anh trở thành người dân lương thiện, và cũng giúp các anh tránh sự trả thù của nhân dân. Nhưng đảng với nhà nước vẫn cho các anh liên hệ với gia đình. Nội dung thư, các anh chỉ được nói về sức khỏe tốt và tình cảm gia đình mà thôi. Hoàn toàn không được nói mấy anh đang ở đâu, làm gì. Nói chung là các anh không được nói những gì không được phép. Thư viết xong, nộp cho cán bộ duyệt, còn có chuyển đi hay không là tùy nội dung các anh viết trong thư”.
Với đoạn ngắn trên đây có 3 vế: (1) Họ nói là học tập cải tạo để trở thành người dân lương thiện. (2) Họ bắt nhốt để tránh bị dân giết. (3) Họ dạy cách viết thư.
Tôi thấy cần giải thích theo cách hiểu của tôi: (1) Ngay sau khiếm chiếm Việt Nam Cộng Hòa, cộng sản chứng tỏ chúng là chế độ cướp công khai, cướp nhà cửa cướp cơ sở kinh doanh thương mại, nói chung là cướp mọi thứ tài sản của người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ, nhưng họ gắn cho sĩ quan viên chức Việt Nam Cộng Hòa cái tội trấn lột tài sản của dân rồi họ giành quyền dạy dỗ để thành người lương thiện. (2) Do lòng thù hận, họ không cần đến luật pháp mà ngang nhiên bắt nhốt hằng trăm ngàn công dân Việt Nam Cộng Hòa cũ (năm 2004 mới biết được con số bị chúng bắt giam là 222.809 người) mà họ nói là giúp chúng tôi không bị dân giết. (3) Họ nói xã hội chủ nghĩa của họ là dân chủ gấp ngàn lần dân chủ phương Tây, mà đến viết thư họ cũng bắt buộc phải viết theo ý họ, kể cả đói sắp chết vẫn phải nói với gia đình là ấm no mạnh khỏe.
Rõ ràng và chắc chắn là ngay bước đầu, bản chất dối trá của chế độ đã phủ trùm lên sự suy nghĩ của mọi người trong các trại tập trung. Viết đến đây tôi chợt nhớ đến sự kiện vào một tối, Đại Úy cộng sản tên Xê, trại trưởng, bất chợt đến nhà B5 của 30 Đại Tá thua trận. Anh ta tự ngồi xuống và vào chuyện có vẻ như  tâm tình, nhưng không hiểu anh ta đến tìm hiểu hay theo dõi điều gì thì không anh nào trong B5 chúng tôi đoán được. Anh ta lên tiếng khi mọi người ngồi dậy -vì chuẩn bị ngủ mà- để nói chuyện. Anh ta nói:
“Tôi đến để nói chuyện chơi với các anh.”
“Xin lỗi anh. Anh vào bộ đội bao lâu rồi?” Một anh hỏi.
Thật ra mình gọi là quân đội, nhưng nếu nói như vậy e là anh ta không hiểu nghĩa, rồi có thể tưởng là mình ám chỉ điều gì chỉ thêm rắc rối. Đành phải dùng chữ mà anh ta sử dụng. Lần lượt các bạn luân phiên nêu câu hỏi với hắn.
“Tôi đi từ trước khi có trận Điện Biên Phủ, và tôi đã tham gia chiến trường đó từ đầu”.             
“Trong bộ đội, mấy anh liên lạc thư tín về gia đình như thế nào?”
“Đối với chúng tôi không có vấn đề gì cả, vì vào bộ đội chỉ biết có cách mạng và chiến đấu thôi, còn gia đình thì có nhà nước lo. Trường hợp có thư gia đình báo tin buồn cũng không đến tay chúng tôi đâu, vì “chính ủy” (ủy viên chính trị của đơn vị) cho là thư đó chỉ làm yếu tinh thần chiến đấu chớ không có lợi trong khi thân nhân cũng chết rồi. Hồi tiếp quản Hà Nội, tôi về thăm nhà thấy bàn thờ tôi ở giữa nhà, có tấm ảnh thuở tôi còn thanh niên trên đó. Lúc ấy cả nhà nhìn tôi như muốn bỏ chạy vì không thể tin tôi còn sống. Tính ra đến lúc ấy  tôi vào bộ đội gần 9 năm nhưng hoàn toàn không có tin tức gì giữa tôi với gia đình hết. Rồi lần chiến đấu này lâu hơn, vì tôi vào chiến trường miền Nam đã hơn chục năm cũng không một tin tức gia đình. Đó là chính sách của đảng với nhà nước, không có vấn đề thắc mắc gì cả vì có thắc mắc (cấp) trên cũng chẳng giải quyết”.
“Vậy mấy tháng nay anh cũng không liên lạc về gia đình à?”
“Tôi thì không liên lạc, nhưng vừa rồi có người đồng hương  thăm quê trở vô cho biết có tìm được gia đình tôi, nhờ đó tôi mới biết có vài thân nhân đã chết, con tôi đang học lớp 8. Nói chung thì chuyện chiến đấu với chuyện gia đình của anh em chúng tôi ngoài Bắc không như các anh, mà cũng chẳng có gì vui cả.”
“Xin lỗi anh nghe. Theo anh thì lý tưởng mà anh chiến đấu không bao gồm gia đình trong đó sao?”       
“Có chứ. Nhưng nhà nước lo rồi.”
“Nhà nước là dĩ nhiên, vì đó là trách nhiệm của nhà nước phải lo cho dân. Thế nhưng sự trao đổi tin tức giữa mấy anh với gia đình là phần riêng tư của mình chớ. Cái ý nghĩa cao quí của cuộc sống gia đình chính là đấy, và cái ý nghĩa đó càng được trân trọng trong thời chiến tranh mới phải chớ anh.”
“Anh em chúng tôi đi chiến đấu không có tin tức gia đình và ngược lại là chuyện bình thường, trong khi các anh trong Nam lại cho là quan trọng. Mới vắng nhà mấy tháng mà anh nào anh nấy cũng kêu nhớ. Lâu dần các anh phải quen như chúng tôi thôi.”
“Nói thiệt với anh nghe, riêng cái khoản ấy thì anh em chúng tôi không thể xem thường như các anh đâu. Chúng tôi quí trọng tình cảm gia đình lắm, nó là cốt lõi của cuộc sống mà. Gia đình là tế bào của xã hội, xã hội mà không gồm gia đình thì nó có nghĩa gì đâu, phải không anh?”
“Thôi, tôi vắn tắt để các anh hiểu: Với cách mạng, các anh không nên thắc mắc bất cứ điều gì. Bây giờ khuya rồi, tôi về.”
Nói xong, anh ta đứng dậy ra cửa luôn, chừng như có vẻ khó chịu với những câu hỏi tới tấp của chúng tôi thì phải. Sở dĩ tôi với các bạn dám hỏi anh ta và là hỏi có phần hóc búa nữa, vì cho đến lúc này chưa ai nghĩ rằng mình là tù của cộng sản cả, dù rằng giấy tờ tùy thân bị họ tịch thu hết trơn, nên mới vặn vẹo anh ta cũng là cách bày tỏ quan điểm của mình một cách tự nhiên, giống như “người điếc không sợ súng” vậy. 
Nhưng sau cuộc nói chuyện khá dài với con người cộng sản có tên là Xê, đang là Trưởng Trại chúng tôi, anh em chúng tôi rút ra vài điểm căn bản sau đây: (1)  Cái chính sách cắt đứt liên lạc giữa người lính của họ với gia đình, là một thứ chính sách hoàn toàn vì đảng cộng sản của họ mà không hề có tình người trong đó. Đây là biểu hiện rõ nét về bản chất vô gia đình của lãnh đạo cộng sản Việt Nam. (2) Tình cảm gia đình bị thui chột đến mức người lính cộng sản không còn ý thức gia đình nữa mà chỉ biết có đảng với nhà nước. Đây là chính sách thâm độc của nhóm lãnh đạo, khi sử dụng con người như một loại phương tiện để phục vụ tham vọng của họ. Vì vậy mà “con người” trong xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ là một thứ phương tiện đa dụng được lồng trong chính sách giáo dục trăm năm trồng người mà ông Hồ và “cái đám cháu ngoan” của ông luôn miệng rêu rao. (3) Lãnh đạo của họ nói như thế nào thì người lính chỉ được hiểu như thế đó mà không có quyền thắc mắc. Sự ngu muội của người cộng sản dù là đảng viên hay chưa là đảng viên, còn tệ hơn người dân và quan chức thời phong kiến hằng trăm hằng ngàn năm trước. 
Sau tuần lễ gởi thư đi, chúng tôi nhận được thư nhà. Tuy nội dung thư viết theo bắt buộc, nhưng cũng có một số bạn nhờ “méo mó chữ nghĩa” nên thân nhân cũng đoán được chỗ ở. Đây là đoạn thư méo mó đó: “… Trước khi đi học tập, vì buồn quá nên Anh đi đánh bài. Thua và thiếu nợ chút ít. Cũng may có tía thằng Long, Ông Nội thằng Long là anh Giao già lọm khọm đó, hai người cho Anh mượn trả cho chủ sòng bài. Nếu Em có tiền, ráng mang trả hai ảnh giùm Anh 100 đồng nghe Em. Anh hứa khi học tập về sẽ không bao giờ đánh bài nữa …”
Thế là cấp Đại Tá “học tập” ở Long Giao được loan truyền từ gia đình này sang gia đình khác trong vùng Sài Gòn Gia Định. Vài tuần sau đó, anh Nguyễn Văn Đương (Đại Tá Biệt Động Quân) được vợ đến thăm nhưng không được gặp, mà cộng sản bằng lòng nhận giỏ thức ăn đưa vào trại cho anh Đương.
Được thư vợ tôi. Nhìn dòng chữ thân thương trên bao thư, tôi xúc động vô cùng! Tôi biết là vợ tôi và các con chúng tôi mong tin lắm. Thông thường chỉ một ngày vắng nhau về tin tức đã đủ tạo nên không khí lo âu trong gia đình, huống hồ từ hôm tôi rời nhà đến nay đã hơn 3 tháng rồi! Thời gian đó đối với cuộc sống chẳng có nghĩa gì hết, nhưng với vợ chồng tôi trong tình cảnh này quả là nỗi lo nặng trỉu biết bao! Cũng vì sợ cách biệt nhau mà vợ tôi đã khước từ di tản trong đêm 24 tháng 4 năm 1975, sẳn sàng chấp nhận hiểm nguy miễn được sống bên nhau. Do đó, tôi mới xoay sang giải pháp đi Australia ngang qua Singapore ngay sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố trung lập. Vậy mà…, chúng tôi vẫn xa nhau trong mịt mù tin tức!
Xem xong thư, tất cả anh em chúng tôi hiểu ngay rằng, các bà vợ chúng tôi cũng phải “học tập” cách viết thư cho những ông chồng trong trại tập trung, vì nội dung thư chúng tôi gởi về với thư nhận được từ gia đình, y chang nhau. Xã hội xã hội chủ nghĩa có vẻ như “một cái nhà tù lớn” và mọi người từ trong cái nhà tù lớn đó bị buộc phải suy nghĩ và hành động y chang theo lời dạy của cộng sản vậy đó!
Cơm trưa hôm ấy, trong khi trao đổi những mẫu chuyện ngăn ngắn xoay quanh đợt thư đầu tiên, những tiếng nói vội vã từ ngoài cửa:
“Có tin vui. Có tin vui.”
“Tin gì mà vui?”
“Anh C Trưởng hội ý bất thường -tức nhận lệnh của Trại- về đến, anh ấy đang gọi các anh B Trưởng họp gấp. Chốc lát sẽ rõ. Đừng hỏi  nữa được không?”
Mỗi lần có bất cứ tin tức gì miễn là cứ ởm ờ làm cho mọi người xôn xao, thì mạnh ai người ấy tự hỏi hoặc nêu câu hỏi bâng quơ, cho nên không thể nào nhớ nỗi ai hỏi câu gì mặc dù nhiều người hỏi nhưng chẳng ai trả lời.
Một lúc sau, anh B Trưởng về đến căn trại mà không cần gọi tập họp gì cả, vì mọi người trong B bao quanh anh rồi. Anh Phụng vẫn từ tốn như thuở nào:
“Lệnh cho anh em mình chuẩn bị “cơ động”. Lát nữa có Trại Trưởng xuống nói chuyện với anh em mình.”
Thế là quá đủ để mọi người nhao nhao lên với những âm thanh rất ư là lộn xộn. Có tiếng anh Bùi Quang Định càu nhàu:
“Lại cơ động! Một lần cơ động lấy củi gần ẹo xương sống rồi, bây giờ cơ động gì nữa đây mấy cha?”
Anh Phụng kéo tôi ra bên ngoài:
“Anh Phước cho biết là mình chuẩn bị “go home”. Anh phải giữ kín nghe chưa vì anh em đồn ầm lên là phiền lắm.”
“Mong là vậy.” Tôi đáp, nhưng vẫn có chút e dè ..
Toàn bộ khu C2 cấp Đại Tá tập họp nghe Trại Trưởng -Đại Úy Xê- thuộc Đoàn 263 đến. Anh ta nói đại ý rằng:
“Các anh sẽ cơ động ngay tối nay đến một trại khác có tiện nghi hơn, vì về lâu về dài thì trại này không đủ điều kiện sinh hoạt cho các anh. Chúc các anh có sức khỏe để học tập tốt mà sớm về với gia đình.”    
Thôi thì mọi người vừa thu dọn vừa mạnh ai người ấy nói, nói cho mình và nói cho cả những anh im lặng suy nghĩ. Một số câu nói kiểu ấy tôi ghi lại sau đây: “Chắc chắn là tụi mình về rồi.”
“Nếu về, sao họ nói là trại kia có tiện nghi hơn?”
“Thì họ sợ mình xôn xao nên họ nói vậy chớ có gì đâu.”
“Chính họ nói vậy mới làm mình xôn xao đó mấy anh ơi!”
“Việt cộng nói hơi nào mà nghe. Ba chục ngày mà bây giờ mấy lần ba chục rồi, vậy mà các cha  cứ nghe chúng nó hoài, có mà chết đó.”
“Nó còn nhốt mình dài dài cho coi. Tôi “đếch” tin tụi nó nữa.”
“Thôi các bạn ơi! Mệt lắm! Chắng ai xác nhận lời nào đúng lời nào sai. Cứ mặc kệ, tới đâu thì tới!”
“Nói vậy thì còn gì nói nữa. Chuyện có ảnh hưởng đến mình thì mình phải nói phải bàn, may ra có câu trả lời hợp lý chớ. Mà nói cho cùng, bàn chuyện với nhau dù trúng hay không trúng cũng góp phần nâng đỡ tinh thần anh em chớ bạn.”
“Nghĩ gì thì nghĩ, nói gì thì nói, nhưng đừng cãi cọ nhau chẳng đẹp đẽ gì đâu.”
“Ai cãi ai mà ông nói?”
“Không cãi thì thôi”.
“Thực tế chút đi các bạn ơi! Thu dọn mọi thứ cần thiết để có mà dùng nếu như cái số của tụi mình vẫn long đong!”
“Cha nào nói nghe xui xẻo không hà!”
Đại loại những câu chuyện râm ran như vậy, tuy có vẻ bâng quơ nhưng tự nó đã biểu lộ tâm trạng của những người vừa hụt hẫng với thời gian 30 ngày nêu trong cái thông cáo của “Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn - Gia Định”.
Một đêm hạ tuần tháng 10 năm 1975, hoàng hôn phủ xuống, đoàn xe Molotova già nua cũ kỹ từ từ vào cổng trại. Anh em chúng tôi dưới sự hướng dẫn lẫn thúc giục của quân cộng sản, lần lượt lên xe với mớ hành trang lỉnh kỉnh. Lên xong, chung quanh bị phủ kín như lần “cơ động” từ đại học xá Minh Mạng Sài Gòn đến Long Giao này vậy. Khoảng 8 giờ đêm, đoàn xe chầm chậm ra cổng. Vào quốc lộ 1, hướng về Sài Gòn. Sự kiện nhỏ nhoi này làm tăng thêm niềm hi vọng “go home” của anh em chúng tôi. Nhưng …. …

1      2      3      4      5      6      7      8

KÝ SỰ TRONG TÙ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA - KỲ 3

1      2      3      4      5      6      7      8
CHƯƠNG 5  TRẠI TẬP TRUNG TAM HIỆP.
Tổ chức và sinh hoạt.

Ba tiếng đồng hồ sau đó, niềm hi vọng của chúng tôi tắt lịm khi đoàn xe bít bùng vào cổng trại Tam Hiệp, tỉnh Biên Hòa. Trại này nguyên là “trại tù binh cộng sản” nên không xa lạ với những bạn có thời gian phục vụ ở Biên Hòa và vùng lân cận.

Sân trại dưới ánh sáng vàng vọt của những bóng đèn gắn tạm, cho thấy hai cái bàn với mấy cái ghế, và một toán cộng sản đi qua đi lại chỉ chỗ cho xe đậu. Tắt máy. Tại mỗi chiếc hầu như có tiếng thúc giục xuống xe và đứng tại chỗ. Từ giữa sân, một giọng ồm ồm:
“Các anh tập trung trước cái bàn dài này để nghe biên chế. Khẩn trương lên”.
Những ngày đầu ở trại Long Giao, anh em chúng tôi chẳng ai hiểu nghĩa của chữ “khẩn trương”nên đôi lần bị họ mắng. Dần dần mới hiểu được, hóa ra chữ khẩn trương có nghĩa như chữ nhanh lên hay lẹ lên của người dân Việt Nam Cộng Hòa vậy. Còn chữ “biên chế” có nghĩa như chữ tổ chức của mình. Bởi vì chữ của cộng sản sử dụng không cùng nghĩa với chữ thông dụng trong văn hoá Việt Nam, đã biết vậy cho nên chẳng phải thắc mắc làm chi cho mệt trí.

Chỗ ở. Họ đọc danh sách biên chế vào từng “Khối”. Tất cả cấp Đại Tá vào 4 Khối, con số diễn biến từ 92 đến 94 người trong mỗi Khối, và mỗi Khối ở trong hai dãy nhà. Tôi ở trong Khối 2, dọn vào dãy số 3 và 4. Đồ đạc lỉnh kỉnh tạm thời để ngổn ngang, miễn có chỗ nằm ngủ rồi sáng mai dọn dẹp. Lúc ấy là hơn 1 giờ sáng.  
Toàn bộ trại này là loại nhà sườn sắt, lợp tôn, nền tráng xi-măng, vách cũng bằng tôn cách mặt đất khoảng 3 tấc (0.3 mét) cho gió lùa đỡ nóng. Vách nhà này với vách nhà kia cách nhau khoảng 5 thước, giữa đầu hồi của hai dãy cũng một khoảng cách tương tự. Chung quanh mỗi dãy đều có mương thoát nước rất rộng, và khá sâu nhưng khô queo. Khu vực này toàn đất cát nên trời mưa vẫn sạch.
Cầu tiêu là cái mương dài đủ cho khoảng 20 người ngồi cùng lúc. Cầu tiêu không mái che, cũng không có vách bao bọc chung quanh, chỉ có mấy tấm ván mảnh mai bắt ngang cái mương đủ để ngồi làm cái việc “sản xuất phân bón”, nên khi có lượn gió hây hây đủ làm mát rượi khắp người! Khi “phân bón xã hội chủ nghĩa ưu việt” được thải ra từ những con người không phải công dân xã hội chủ nghĩa đến mức đầy cái mương cầu tiêu, thì trời đất ơi, ruồi nhặng xanh lè, con nào con nấy bằng ngón tay út vì chúng nó ăn thả giàn. No bụng là bay nhỡn nhơ khắp các dãy nhà, và đậu vào bất cứ chỗ nào nó muốn. Khốn nỗi cái mương cầu tiêu đầy ắp phân bón xã hội chủ nghĩa chỉ cách dãy nhà số 3 -nơi tôi ở- khoảng 15 thước, chỉ cần chút gió thoảng là cái “mùi xã hội chủ nghĩa ưu việt” đến kinh tởm đó tràn vào nhà này và những nhà kế cận.
Những ngày đầu, anh em chúng tôi tưởng chừng không thể sống nỗi với cái không khí khiếp đảm này, nhưng rồi cũng phải quen để mà sống. Chẳng những không thể trốn cái mùi ấy, mà nhiều bạn phải ra ngồi dưới bóng mát của cây trứng cá nhỏ nhoi ở khoảng cách giữa dãy nhà số 3 với cái mương cầu tiêu, để tránh “cái nóng nung người nóng  nóng ghê” của vách nhà và mái nhà lợp tôn. Cũng có bạn chấp nhận cái nóng gay gắt để được nằm trong nhà vì lúc ấy mới nằm thong thả được, bởi chỗ nằm của mỗi người được phân chia một cõi không gian bé tí vỏn vẹn 6 tấc (0.6 thước) bề ngang.
Nấu ăn. Một gian nhà bếp có 6 miệng lò cở chảo đụn (loại chảo có sức chứa 60 lít nước) dành cho 4 Khối nấu ăn. Mỗi Khối tổ chức thành 6 Tổ nhà bếp để tự lo cho Khối mình. Nhà thầu cung cấp cây cao su già nguyên khúc, và rau với cá tươi. Toàn là “cá ngừ”, một loại cá biển có giá trị thấp nhất trong các họ nhà cá. Tôi phụ trách một Tổ trong 6 Tổ nấu bếp của Khối 2.
Tổ chức nhóm. Mỗi Tổ chia ra như sau: Nhóm nấu bếp thì tôi nấu cơm. Anh Nguyễn Ngọc Điệp (Đại Tá bộ binh) chụm củi. Anh Trần Phước Dũ (Đại Tá Hải Quân) nấu thức ăn. Nhóm làm rau gồm 6 anh mà hầu hết là Bác Sĩ Quân Y. Nhóm sau cùng là chẻ củi cao su và cung cấp nước. Ở trại này, nước dùng thong thả chớ không khốn đốn như ở trại Long Giao.
Phân công. (1) Nhóm nấu bếp. Từ mờ sáng, anh em chúng tôi xuống bếp nhóm lửa nấu hai chảo nước sôi (120 lít nước). Khiêng lên hai dãy nhà số 3 và 4 để các bạn có nước chín sử dụng trong ngày. Sáng sớm có nước sôi pha trà, pha cà phê, thậm chí ăn mì gói nữa. (2) Nhóm làm rau. Ra ngoài cổng lãnh gạo, rau, và cá ngừ ở Ban Chỉ Huy trại. Nói là ra ngoài cổng chớ thật sự chỉ cách ba lớp hàng rào kẽm gai liền nhau thôi. Sau khi giao cá cho tôi, nhóm này rửa rau xắc rau nếu cần. Rau, thường là trái su le hay bắp cải. Làm xong rau thì giao cho anh Dũ. (3) Nhóm chẻ củi. Củi thì chẻ lúc nào cũng được. Lúc làm bếp thì lo cung cấp nước theo nhu cầu của Nhóm Làm Rau và Nhóm Nấu Bếp. Công việc đơn giản so với hai Nhóm kia.
Diễn tiến. Trong khi tôi làm cá mà thông thường là 5 hay 6 con cá ngừ lớn bằng cổ chân, anh Dũ cho 60 lít nước vào chảo chuẩn bị nấu canh. Thường khi tôi làm cá xong, cũng là lúc anh Điệp đâm xong tô muối trộn với một bó hành lá xắc nhỏ và khoảng 100 trái ớt (do chúng tôi trồng) để tôi ướp cá. Phải dùng nhiều hành nhiều ớt để giảm bớt mùi tanh của cá ngừ. Ướp xong để đó, cho rau vào chảo nước đang sôi, cùng lúc cho vào tô muối hột với 100 gram bột ngọt. Thế là chúng tôi có chảo canh, múc ra hai cái chậu thau lớn để sang một bên. Xong món canh, rửa chảo và cho nước vào chảo chuẩn bị nấu cơm. Cứ một thùng gạo là một thùng rưỡi nước, theo tỷ lệ đó mà lường gạo với nước. Trước khi cho gạo vào, tôi nhắc:
“Cho lửa tối đa nghe anh Điệp”. 
Khi cơm sôi: “Anh Điệp ơi! Bớt lửa 50%”
Lúc ấy anh Điệp kéo lửa ra, anh Dũ dùng lửa đó kho cá. Khi chảo cơm đủ hơi, anh Điệp kéo hết lửa ra ngoài và cứ thế mà chờ cơm chín, cá chín.
Chia thức ăn. Cơm chia ra hai phần, cá cũng vậy, và toán trực của Khối xuống bếp khiêng về phân chia cho 92 (hay 94) khẩu phần. Chia cơm, canh, cá kho, cũng là vấn  đề đôi khi rắc rối chớ hổng phải đơn giản đâu, vì lẽ lúc nào cũng không đủ ăn, nên lỡ tay chia không đều là bị bạn bè phản đối lia lịa! Mỗi người có một dụng cụ đựng cơm, một dụng cụ đựng canh, và một dụng cụ đựng thức ăn mặn. Dụng cụ mà tôi nói ở đây có thể là cái tô, cái bình nhựa, cái ca uống nước, cái lon guigoze, hay bất cứ thứ gì đựng được thức ăn nước uống. Thậm chí cũng có thể là một miếng ni-lông nhỏ đựng cơm.
Nghỉ trưa một lúc, Tổ nấu ăn chúng tôi xuống bếp và lặp lại những động tác nấu cơm thôi, vì canh với cá kho còn dành lại. Mồ hôi đẫm người trong ngày nấu ăn, vì lửa từ trong bếp, cộng với cái nắng gay gắt hòa trong sức nóng của mái tôn.
Cả ngày, ngày này sang ngày khác, gần 400 Đại Tá thua trận cứ vòng vòng trong bốn bức rào kẽm gai cao khỏi đầu người. Thỉnh thoảng họ vào điểm danh từng người trong từng nhà một. Trại này do Đoàn 775 canh giữ. Trại gồm nhiều Khu ngăn cách bởi hàng rào kẽm gai. Nhờ lén lút liên lạc qua lại chúng tôi mới biết là mỗi Khu họ giam giữ một cấp, từ Đại Úy đến Đại Tá. Dần dần chúng tôi hiểu được cách dùng “phiên hiệu” cho các đơn vị của cộng sản. Chẳng hạn như Đoàn này mang số 775 có nghĩa là thành lập hồi tháng 7 năm 1975. Ngược dòng thời gian vào năm 1971 khi tôi phục vụ tại Tổng Cục Tiếp Vận, trong mục đích nghiên cứu tiếp vận của cộng sản mà họ gọi là “hậu cần”, tôi tập trung tài liệu liên quan đến tổ chức và điều hành của Đoàn 559 hậu cần chiến lược đường bộ của cộng sản, phụ trách chuyển quân lính của họ cùng với vũ khí đạn dược men theo dãy Trường Sơn xâm nhập Việt Nam Cộng Hòa, mới biết đơn vị đó thành lập vào tháng 5 năm 1959. Sự kiện này nối tiếp sự kiện họ gài lại miền Nam hằng chục ngàn đảng viên khi rút quân ra miền Bắc theo qui định trong Hiệp Định Genève tháng 7 năm 1954, đã chứng minh rõ nét là cộng sản nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã chuẩn bị chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa chúng ta từ trước khi Hiệp Định Genève có hiệu lực.       
 Mỗi sáng sớm, mọi người khốn khổ với mấy cái loa chỏ vào khu nhà cấp Đại Tá, cứ ra rả những mẫu tin nghe đến nhàm tai, như: đã làm đất vô phân bón lúa, đã làm cỏ sục bùn cho vùng ruộng này được bao nhiêu mẫu, vùng ruộng kia được bao nhiêu mẫu, đạt bao nhiêu phần trăm, ..v..v…  Nhìn từ góc độ kinh tế một quốc gia, những mẫu tin như vậy chẳng những không nói lên được sự phát triển gì cả, mà chỉ cho thấy một đất nước quanh năm suốt tháng không có sinh hoạt nào khác hơn là đồng ruộng nương rẫy. Nhưng nghĩ cho cùng, những tin tức đó còn đỡ khổ hơn là nghe những bài diễn văn của những người mà họ gọi là lãnh đạo đảng lãnh đạo nhà nước. Trong cái không khí mà họ thường dùng những nhóm chữ như: “Thừa thắng xông lên. Việt Nam sẽ ngang tầm thế giới. Việt Nam tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nào là ai thắng ai. Nào là tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, ..v..v… “ Ông nào cũng nói cũng phát biểu, và bài phát biểu nào cũng tràng giang đại hải nhưng không rời khỏi những điệp khúc nghe đến ngượng cho họ.
Cho nên có những anh thích chơi bài mạt chược để giết thì giờ trong khi chờ về nhà, đã rất kiên nhẫn cưa củi cao su ra, đẽo nhỏ, mài láng, tạo nên những bộ mạt chược tưởng như mới mua ở chợ miền núi vậy. Từ đó, một sòng mạt chược thường ngày chiếm gốc cây trứng cá ở giữa nhà số 3 với cái đường mương tồn trữ “phân bón ưu việt xã hội chủ nghĩa”. Mùi hôi thúi từ nơi tồn trữ đó không có nghĩa gì với các bạn ấy, mà thật ra có ngồi trong nhà thì mùi đó vẫn ngang nhiên tạt ngang để sang nhà số 4 và những nhà khác nữa! Số sòng mạt chược dừng lại ở con số 3, có nghĩa là đủ thỏa mãn nhu cầu của các anh mộ điệu.
Từ các sòng mạt chược giải trí nhìn sang một sinh hoạt khác đáng khuyến khích. Đó là một số anh lén cắt dây kẽm gai, kiên nhẫn gở bỏ từng cái gai, vỗ cho dây kẽm thẳng ra, cắt từng đoạn ngắn, đánh lại thành từng khoen, rồi nối các khoen lại làm dây kéo nước giếng. Tuy nặng một chút, nhưng có mà sử dụng vẫn hơn. Đến ăn cắp tôn rải rác trong khu trại. Tôn lợp nhà hay làm vách đều là tôn dợn sóng, cho nên phải kiên nhẫn vỗ cho thẳng trước khi gò thành cái thùng kéo nước giếng, hoặc đựng nước sử dụng trong ngày. Đến một sinh hoạt khác nữa cũng  đáng khuyến khích. Đó là có những anh đào rễ và củ hà thủ ô. Không biết vì sao mà loại này thường mọc giữa những lớp hàng rào kẽm gai ngăn cách giữa các khu trong trại. Hà thủ ô là loại dây leo, ít lá, trông có vẻ lơ thơ tơ liễu buông mành, vậy mà phải đào liên tục từ 3 đến 5 ngày mới đến củ của nó ở độ sâu thường thấy từ 2 đến 3 thước. Sự kiên nhẫn này thường được đền bù cho những anh đào xới một mớ củ và rễ. Sau khi nâng niu cho mát tay, đem củ và rễ hà thủ ô rửa sạch, xắc phơi khô nấu nước uống. Tôi thường được anh bạn trẻ cùng quê Vĩnh Long cho một ly nhỏ, cho vào chút đường, uống rất ngon, và vào giấc ngủ rất nhẹ nhàng. Lính canh cộng sản bắt gặp chui vào hàng rào kẽm gai là họ mắng dữ lắm, nhưng cũng may là họ chưa bắt tại trận anh nào vạch hàng rào chui vào nên chưa ai bị biệt giam.
Tôi nhớ có đọc bài viết về hà thủ ô, vì lâu quá nên trí nhớ còn lưu giữ đôi nét. Là loại cây mọc hoang nhiều nhất ở Việt Nam, Trung Hoa, Đài Loan, Nhật Bản. Trong ngành y dược Đông cũng như Tây, đều công nhận hà thủ ô là loại dược thảo thường dùng trong các viện bào chế thuốc. Khi đào lên chưa chế biến gì thì gọi là “hà thủ ô trắng”, nhiều nơi -nhất là Trung Hoa- đem nấu với đậu đen được gọi là “hà thủ ô đỏ”. Khác biệt giữa hai loại hà thủ ô này là “hà thủ ô đỏ” nhiều tính năng trị liệu hơn “hà thủ ô trắng”. Ngay trong anh em chúng tôi, tác dụng cảm nhận được khi sử dụng hà thủ ô là dễ tiêu hóa, dễ ngủ, khỏe khoắn, không bị bón, và nếu uống nhiều giúp cái bao tử dễ chịu hơn.           
Lại một kỳ công nữa của anh Nguyễn Văn Nhu (Đại Tá Quân Y). Khi ở trại tập trung Long Giao, anh đã  phát minh cái vòi tắm bông sen cực nhỏ với vật liệu quá ư đơn giản, chỉ là cái lon đựng sữa bột guigoze do Hòa Lan sản xuất. Tại trại tập trung Tam Hiệp này, anh hoàn thành cây đàn Banjo hoàn toàn sử dụng vật liệu ngay trong trại, gồm: củi cao su, giây điện, và giây điện thoại. Kết quả sản phẩm của anh, tuy âm thanh không thể sánh với cây đàn Banjo thứ thiệt, nhưng vẫn cung cấp những âm thanh mềm mại trong bầu không khí của trại tập trung thường xuyên căng thẳng. Có điều là sáng tạo này hiệu quả không cao như phát minh vòi tắm bông sen kỳ diệu. Sau đó, anh Nhu còn dùng đất sét làm tô làm chén ăn cơm nữa. Phải công nhận, bác sĩ Nhu là người rất kiên nhẫn nhưng lại rất ít nói. Ít nói đến mức mà anh Nguyễn Kim Tây (Đại Tá Biệt Động Quân) em vợ của anh, cầm trên tay mấy viên thuốc đến hỏi anh:
“Anh Tư, anh Tư, em bị cảm uống thuốc này được không?”
Xem một lúc, anh Nhu buông thỏng một câu: “Bộ muốn chết hả.”
(Năm 2004, tôi có dịp gặp Bác sĩ Nhu tại Houston, được biết anh và gia đình ở Tampa, Florida. Cựu Đại Tá Nguyễn Kim Tây đã từ trần tại Dallas dường như là năm 2005).
Gói quà đầu tiên. 
Đầu tháng 12/1975, họ cho phép viết thư về gia đình, đồng thời họ cho nhận quà từ gia đình gởi đến nhân lễ Giáng Sinh. Từ vài ngày trước ngày 25 tháng 12, họ đưa xe về Bưu Điện Sài Gòn -nơi tập trung bưu kiện- và chuyên chở về trại trong ngày. Rất nhiều anh em cùng trong Khối 2 nhận được quà từ gia đình gởi đến, trong số đó có tôi. Tháo gói quà ra mà việc trước tiên là xem thư. Ồ! Trong thư có vài tấm ảnh. Sau 6 tháng xa cách, trông thấy vợ con tôi mà xót xa vô cùng! Vợ tôi ốm (gầy) hẳn đi! Các con tôi, tuy sức khỏe không kém nhiều, nhưng nỗi buồn hiện rõ trên nét mặt và cả dáng đứng nữa! Vợ tôi nhắc lại hai lần là tôi phải giữ gìn sức khỏe, vì trong mọi hoàn cảnh vợ con tôi “sống trong cảnh sống của tôi”, và đó là điều mà tôi không được quên! Vợ tôi cho biết Ba Má tôi đã dọn nhà về Nha Mân -quê Nội- mà không cho biết lý do, nhưng điều này tôi đã biết hồi tháng trước (11/1975). Lúc ấy có anh bạn cấp Đại Úy nhờ các bạn bên khu cấp Trung Tá chuyển tiếp qua khu cấp Đại Tá cho tôi biết, nhà Ba Má tôi ở Vĩnh Long đã bị cộng sản tịch thu với lý do là “Ba Má của Đại Tá ngụy”.
Xem thư và ảnh xong tôi mới nâng niu gói bưu phẩm, phải nói cho đúng là gói quà thân thương trên tay. Suy nghĩ như vậy mới cảm nhận được chiều sâu của khối tình cảm từ vợ và các con tôi bàng bạc trên khắp những gói những hộp! Nói nghe có vẻ như nhiều lắm, nhưng thật sự với 5 kí lô nên chỉ vài gói vài hộp với đồ dùng linh tinh là đến trọng lượng giới hạn rồi. Bây giờ mới đến từng món quà. Với cái quần pyjama trên tay, tôi sờ theo đường dây thun vì trong thư vợ tôi có nói cái quần đã luồn thun rồi, ắt phải có cái nghĩa khác hơn là luồn thun. Đúng vậy, lần lượt tôi nhẹ tay kéo ra được 4 tờ giấy bạc loại 10 đồng. Đây là tiền giấy mà cộng sản vừa đổi vừa ăn cướp hồi tháng 9 vừa qua, và 1 đồng mới này họ đánh giá bằng 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa. Số tiền này tôi nhờ anh Nguyễn Trung Chánh (Đại Tá Quân Cụ) trong toán thợ rèn đi làm bên ngoài trại, lén lút gởi nhà thầu cung cấp thực phẩm mua giùm đậu nành và đường tán làm sữa uống.
Đổi tiền ngày 18/9/75 mà tôi nói họ vừa đổi vừa ăn cướp, vì mỗi người dân có bao nhiêu tiền cứ mang đến đổi, nhưng họ chỉ đưa lại tối đa có 200 đồng (bằng 100.000 đồng Việt Nam Cộng Hòa) dự trù cho mỗi gia đình 5 người chi tiêu trong một tuần lễ, còn bao nhiêu thì họ giữ lại. Sau đó, mỗi khi cần tiền phải làm đơn xin rút tiền và đơn này phải được Phường/Xã cứu xét. Còn họ có chấp thuận hay không, nếu chấp thuận rút và cho rút bao nhiêu tiền là quyền của lãnh đạo cộng sản địa phương. Thử ngược dòng lịch sử, chưa một chế độ nào kể từ thời phong kiến Việt Nam, thời bị phong kiến Trung Hoa cai trị ngót ngàn năm, cho đến thời bị thực dân Pháp cai trị hơn 80 năm, chỉ có thời cộng sản Việt Nam ngày nay mới có cái quyết định ăn cướp cạn như vậy thôi. Hé nhìn ra thế giới, không một nước văn minh nào có cái chính sách đổi tiền như lãnh đạo cộng sản Việt Nam cả. Tiền của mình mà khi cần mua sắm phải xin phép họ, và chỉ khi được phép mới lấy được tiền của mình mà xài. Trời đất ơi! Ngang ngược và man rợ không thể nào tưởng tượng nỗi! Thế mà họ luôn vễnh mặt rồi vỗ ngực tự xưng là “cách mạng”! Thật là tội nghiệp cho văn chương chữ nghĩa Việt Nam biết bao!
Một lon guigoze đựng đầy thịt heo nạc kho tiêu mà tôi tưởng chừng như còn vương mùi thơm hột tiêu mà vợ tôi vừa cho vào vậy. Ngay sau khi xong ngày nấu bếp, tôi với anh Nguyễn Ngọc Điệp, ngồi lại ăn chiều, và có lẽ trong đời tôi cho đến lúc ấy chưa bao giờ tôi có được bữa ăn ngon đến như vậy quí vị quí bạn à! Bởi vì sự thiếu ăn đã hơn 180 ngày qua, cho nên ngoài cái hương vị thông thường ra, thức ăn còn có cả hương vị từ tình yêu thương của vợ của con tôi nữa.
Đêm đó hầu như tôi không ngủ được bao nhiêu, nhưng không cảm thấy chút mệt mỏi nào. Bởi tôi hồi tưởng lại trong khoảng thời gian gần 3 năm kể từ khi quen biết nhau (năm 1955) đến ngày hôn lễ (1958), chúng tôi trao đổi nhau những quan niệm về cuộc sống lứa đôi. Theo đó, với quan niệm hạnh phúc gia đình, chúng tôi hứa với nhau sẳn sàng chấp nhận những thiệt thòi để giữ được hạnh phúc trong cuộc sống. Với các con thời thơ ấu, sức khỏe và niềm vui của các con là hạnh phúc của chúng tôi. Với các con trong tuổi học hành, xây dựng tương lai cho các con là hạnh phúc của chúng tôi. “Xây dựng tương lai” mà chúng tôi sử dụng ở đây đặt trên nền tảng “Kiến Thức, Đạo Đức, Nghị Lực”. “Kiến thức”, do bẩm sinh, do giáo dục gia đình, giáo dục học đường, và giáo dục xã hội. Kiến Thức được “Đạo Đức” hòa vào sẽ giúp cho những sáng tạo thực hiện được mục đích góp phần đưa xã hội phát triển theo nguyện vọng chung của xã hội. Nhưng nếu kiến thức hòa với đạo đức mà thiếu “Nghị Lực”, e rằng khó vượt qua những khó khăn bất trắc khi thực hiện. Và vân vân…  
Đêm cuối cùng của năm 1975, anh Trần Tín (Đại Tá Quân Nhạc) đã hát bài “Gói Quà Đầu Tiên” do chính anh vừa sáng tác. Lời ca chỉ là mớ ngôn ngữ thường dùng trong cuộc sống chớ không văn chương gì sâu xa, nhưng đã gây xúc động mạnh trong hầu hết anh em ngồi nghe, vì hình tượng gia đình đang ngày đêm hướng về mình trong một tình cảm thân thương vô hạn! Anh vừa hát vừa khóc! Chúng tôi vừa khóc vừa nghe!  
Vào những ngày cuối năm âm lịch tức gần Tết Nguyên Đán đầu năm 1976, họ cho phép gia đình gởi bưu phẩm cho chúng tôi trong trại. Vẫn cách làm như lần trước, họ cho xe về Bưu Điện Sài Gòn nhận và chở lên trại. Hầu hết là bánh mứt, trà, cà phê, nghĩa là những thứ gói ghém “hương vị ngày Xuân”.
Đêm Giao Thừa. Một bàn thờ Tổ Quốc thu nhỏ thiết lập trong một góc được che giấu khá kín đáo. Một nhóm bạn không nhiều lắm vì cần tránh ồn ào dễ bị lính cộng sản rình rập bắt được thì nguy. Ngay lúc bên ngoài có tiếng pháo đầu Xuân, là lúc chúng tôi lần lượt đứng trước bàn thờ cầu nguyện. Trong giờ phút đầu tiên của Năm Mới, tôi nghĩ các bạn tôi cũng như tôi, trong cái chung là giây phút nghiêm trang đó chúng tôi cảm nhận được sự xúc động từ nơi sâu thẳm của tâm hồn đến rớm lệ! Còn cái riêng của mỗi người thể hiện qua nét đăm chiêu nhăn nhúm, cho dẫu là đang bắt tay Chúc Mừng Năm Mới với nhau cũng vậy. Ngày thường trong buồn ngoài vui, nhưng ngày Tết thì buồn cả trong ngoài.
Từng nhóm chúng tôi quây quần bên lon trà, lon cà phê với bánh mứt bày trên “nắp bàn” là mảnh giấy ngay trên chỗ nằm. Câu chuyện chỉ là xoay quanh nội dung Tết buồn và số phận long đong!
Đây có phải là cái Tết trong trại tù không, mặc dù đang ở trong vòng rào chắc chắn của một khu trại, có lính cộng sản canh gác chặt chẻ, mất quyền công dân, ấy vậy mà hầu như đa số anh em chúng tôi chưa công khai nhìn nhận mình là tù! Từ hơn nửa năm qua, lúc nào cộng sản cũng nói chúng tôi là học tập cải tạo, và gọi chúng tôi là những “cải tạo viên”. Phải công nhận sự dối trá với những mỹ từ của cộng sản hay đến mức mình không nhận biết mình là tù, chỉ mới chấp nhận bị nhốt để học tập thôi. Hay là tại mình không biết gì về cộng sản? Có lẽ điểm này dễ được chấp nhận hơn.
Từ trại Long Giao chuyển đến đây đã hơn 3 tháng rồi mà chẳng thấy họ đá động gì đến cái gọi là “học tập cải tạo”, ngoại trừ lo cơm hằng ngày và thỉnh thoảng họ dắt ra ngoài trại làm những công tác lặt vặt. Chỉ có toán cơ  khí  với bảy anh Đại Tá hằng ngày ra ngoài trại làm cuốc xẻng. Do vậy mà những mẫu chuyện được mang ra bàn luận như lúc ở Long Giao. Tóm tắt như thế này:
“Có thể đây là thời gian để họ phân loại chúng mình chăng?”
“Phân loại như thế nào và để làm gì?”
“Thì chỉ phỏng đoán thôi chớ ai mà biết bọn họ tính toán gì đâu”.
“Tôi nghe toán cơ khí nói tụi nó (cộng sản) tính làm sạp gỗ cho mình nằm đó. Nếu sự thể đúng như vậy thì còn lâu tụi mình mới về được”.
“Làm gì có chuyện đó. Có học cái quái gì đâu mà làm sạp với không làm sạp.”
“Mấy hôm trước có anh nào bên Khối 1 nhận được thư nhà cho biết là hồi tụi nó vô Hà Nội năm 1954, đã bắt sĩ quan mình đi học tập lâu nhất là 18 tháng đấy các anh ạ!”
“Giỡn sao cha nội. Thời đó tụi nó mới chiếm một nửa nước, còn bây giờ nó nuốt trọn cả rồi thì tình hình khác chớ. Với lại cái thông cáo chỉ nói có 30 ngày mà, các cha quên mau vậy?”
“Thôi đi bạn. Bây giờ là gần 7 lần 30 ngày rồi mà tụi nó có nói gì với mình đâu. Tôi đếch tin chúng nó nữa.”
“Trong đám tụi mình, có lẽ chỉ có mấy cha chơi mạt chược là khỏe thôi.”
“Khỏe! Thế nào là khỏe.” Bóp đầu bóp trán cả ngày mà khỏe nỗi gì.”
“Tôi nói khỏe, tức là không bận tâm đến chuyện chung, chuyện chính trị, chớ hổng phải khỏe là không mệt.”
“Ừ! Nói vậy còn nghe được.”
Đại để thì rất nhiều hội nghị bàn tròn bàn vuông với những mẫu chuyện trao đổi râm ran như vậy, thế mà bánh mứt, trà, cà phê, thuốc lá sạch trơn, nhưng không anh nào hình thành được một kết luận nào khả dĩ có chỗ mà tin.
Chẳng bao lâu sau Tết Nguyên Đán, tất cả anh em cấp Đại Tá trong 4 Khối ở trong 8 nhà phải dồn lại, nhường chỗ cho anh em cấp Thiếu Tá ở doanh trại của Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo cũ từ Hóc Môn chuyển đến. Tụi cộng sản gọi là trại Hóc Môn. Mỗi nhà đang từ 46 hoặc 47 người, nay tăng lên đến 72 người, làm cho “cái cõi không gian bé tí” của mỗi anh em chúng tôi thu hẹp lại còn 42 phân tây (0.42m), tức vừa hơn 2 gang tay! Kích thước “cái body” của tôi còn nằm ngửa và thẳng người được. Khi muốn ngồi dậy, hai tay khoanh trước ngực và từ từ ngóc đầu ngồi dậy. Âu cũng là cách tập các bắp thịt bụng đó mà. Nhưng anh Điệp (Nguyễn Ngọc) mà tôi thường gọi là người bề thế vì “cái body” của anh rộng rãi lắm. Anh rất khổ sở về đêm. Do vậy mà vừa tối là anh ngủ say sưa vì lúc ấy anh có thể nằm thong thả hơn nhiều. Trong đêm, mỗi khi ngồi dậy đã là khó, nhưng khi vừa đứng dậy thì chỗ nằm bị hai anh bạn bên cạnh vô tình choán ngay. Nếu không làm dấu để nhận ra chỗ nằm của mình thì không tài nào nằm đúng chỗ được, mà mỗi lúc như vậy thì y như rằng tiếng càu nhàu cả đầu trên xóm dưới đều nghe. Khi nhận ra chỗ nằm phải từ từ nghiêng người dùng vai lách dần hai bạn bên cạnh, một lúc sau cũng nằm xuống được.
Lại lao động.
Thế rồi anh em chúng tôi được lệnh đi “lao động”. Nói rõ hơn là đi cuốc đất đánh vồng trồng khoai mì mà bọn cộng sản gọi là trồng sắn. Trong tuần, mỗi Khối đi làm vài ngày. Trong những ngày này, cứ mỗi sáng nghe loa phóng thanh ra rả nhắc đi nhắc lại cái gọi là kỹ thuật trồng sắn. Nào là cách đánh vồng, khoét một đường dài bao nhiêu, đoạn hom khoai mì dài 12 phân tây phải quay gốc về hướng đông khi đặt xuống, hai tay phải vung đất lấp lại. Thế nhưng khi ra khu đất sau trại, gần đường xe lửa xuyên Việt, mấy tên lính cộng sản lại hướng dẫn theo cách khác:
“Các anh cứ đánh vồng, dùng cuốc cuốc nhẹ xuống và kéo thành một đường dài, ném đoạn hom xuống đó mà chẳng cần xem hướng đông tây nam bắc gì cả, dùng chân đùa đất lên và đạp xuống cho chặt là xong.”
“Thế tại sao kỹ thuật viên hướng dẫn qui cách qui trình gì đủ thứ vậy bộ đội?” Một anh hỏi.
“Chuyên viên kỹ thuật họ chỉ biết lật sách ra mà đọc, còn tôi làm theo kinh nghiệm. Thôi, các anh làm đi, đừng có đứng đó mà dài dòng.”
Mỗi khi ra trại đi làm, tụi nó dẫn theo cả Tiểu Đội lính với đầy đủ súng đạn và cả máy truyền tin theo canh giữ chúng tôi, cứ như đi đánh trận vậy. Lần thứ hai khi ra làm ở khu đất này, chúng tôi thấy có 3 nhóm dân có vẻ như đang làm rẫy cách chúng tôi khoảng 30 thước. Nhìn kỹ, tôi nói với anh Điệp:
“Anh Điệp ơi! Có vẻ như đó là thân nhân trong số anh em  mình chớ không phải người dân vùng này làm rẫy đâu anh.  Mắt anh Điệp trông không rõ nên không có nhận xét gì, ngoại trừ suy đoán có thể như vậy lắm.”
Phụ nữ và trẻ con ăn mặc tươm tất của dân Sài Gòn cho dẫu Sài Gòn bây giờ dưới quyền của cộng sản. Ba nhóm đó đứng chống cuốc nhiều hơn là cuốc, và luôn nhìn về phía chúng tôi. Thỉnh thoảng mấy đứa trẻ nói lớn lên:
“Đường Trần Hưng Đạo nhé.”
“Đường Lê Văn Duyệt đây.”  
Nhưng không một ai trong chúng tôi dám lên tiếng, vì cả Tiểu Đội lính bao quanh chúng tôi chặt hơn, tụi nó quát tháo đuổi đi khi thấy mấy đứa trẻ mon men đến gần chúng tôi. Rõ ràng là gia đình anh em chúng tôi tìm cách để gặp người thân, nhưng không thể được. Điều đó nói lên tình cảm gia đình sâu nặng biết bao, cho dẫu không còn người chồng người cha làm ra tiền cho gia đình, người vợ thay vào đó gồng gánh cho cuộc sống gia đình, cùng lúc tìm mọi cách để thăm gặp người bạn đời thân thương trong trại “học tập cải tạo”.
Một hành động khác rất có ý nghĩa làm cho bọn canh giữ tức giận nhưng không làm gì được, trong khi anh em chúng tôi rất thích thú và thầm gởi lời cám ơn theo đoàn xe lửa. Đó là mỗi khi đoàn xe lửa chạy ngang, trên nóc các toa xe hầu như đứng đầy các thanh thiếu niên có chuẩn bị gạch đá, liệng tới tấp vào đám lính cộng sản canh giữ chúng tôi. Một vài em còn trịch quần xuống trong khi đoàn xe vẫn ung dung tốc độ từ từ vì chạy chậm lắm. Quả thật hành động trịch quần như vậy xem chừng không lịch sự chút nào, nhưng từ góc độ chính trị thì đáng cho anh em chúng tôi suy nghĩ về cách bày tỏ ý thức chính trị của người dân nhỏ bé Việt Nam Cộng Hòa cũ đối với cộng sản.
Bên khu cấp Trung Tá chuyền tin qua cho biết, đã có anh nhận được thư và tiền khi đi làm gần đường xe lửa do người nhà lén lút thâm nhập vào khu trồng khoai mì.
Phiên tòa rừng rú.
Một buổi chiều khi cuốc đất trở về, trông thấy tụi nó đang kéo dây và gắn hai cái loa khá lớn chỏ vào trại. Đường dây bắt đầu từ khu vực bộ chỉ huy trại, tức Đoàn 775. Sau cơm chiều hôm ấy, anh em chúng tôi có đề tài để đồn đoán, vừa giết thời gian cũng vừa nói lên tâm trạng “wait and see” của những người chỉ được quanh quẩn sau những lớp hàng rào kẽm gai.
“Có thể là lễ ra về đang được chuẩn bị chăng?”
“Không phải đâu bạn ơi! Lễ gì mà kéo dây dài vậy. Hệ thống âm thanh phải thiết trí ngay nơi tổ chức lễ chớ sao kéo vô trại làm chi.”
“Cách tổ chức của họ có chắc gì giống mình đâu mà khẳng định như vậy.”
“Theo tôi, họ bắt mình nghe radio đến mức không ngủ được cho mà coi. Họ hành hạ mình bằng cách làm cho mình điên lên đó.”
“Cũng dám lắm à.”
Và rồi sau đó, họ vào trại gọi các anh Khối Trưởng Khối Phó của các Khối Thiếu Tá, Trung Tá, Đại Tá, ra bộ chỉ huy Đoàn 775 dự thính một phiên tòa quân sự. Hóa ra hai cái loa chỏ vào trại buộc  anh em chúng tôi trong trại phải nghe cái gọi là tòa án quân sự Quân Khu 7 của họ. Chánh thẩm tên Nguyễn Văn Ba, Trung Tá Đoàn Trưởng Đoàn 775. Nói cho dễ hiểu là tên Đoàn Trưởng ngồi xử án. Bị can của phiên tòa là hai sĩ quan trong số anh em chúng tôi bên khu Thiếu Tá. Đó là anh Thiếu Tá Bé và Thiếu Tá Thìn (?). Hai bạn này khi ở trại Hóc Môn đã trốn trại và bị bắt lại. Từ khi chuyển đến đây (trại Tam Hiệp) hai bạn bị nhốt trong hai cái conex. Conex là cái thùng sắt ngang khoảng 2 thước, dài có lẽ hơn bề ngang một chút, và cao cũng khoảng 2 thước. Loại này do Hoa Kỳ viện trợ để quân đội sử dụng tồn trữ tạm khi chuyển hàng, vừa tránh hư hỏng vừa tránh mất mát mà lại gọn gàng khi bốc dỡ nữa. Cái thùng như vậy mà nhốt con người trong đó với sức nóng kinh khủng của miền Nam chỉ hai mùa mưa nắng! Dã man đến thế là cùng!
Theo lời thuật của các anh dự phiên tòa kể lại rằng:
“Cái gọi là phiên tòa quân sự đã căn cứ vào lời tự khai sau đợt học tập chính trị để kết tội hai anh bạn này. Họ gắn sự kiện du học trường Tình Báo Hoa Kỳ ở Okinawa, Nhật Bản với sự trốn trại để tiếp tục hoạt động chống lại họ, thế là họ tuyên án tử hình cả hai anh. Ngay lập tức, hai tên lính cộng sản bước tới bịt mắt,  lôi hai anh ra pháp trường, cột vào hai cột gỗ mới dựng buổi sáng. Và rồi loạt đạn AK 47 nổ vang đã kết thúc sự sống của hai bạn! Đầu ngoẻo về một bên, máu đẫm cả áo quần!. Bọn họ đem chôn xác hai anh ấy ở đâu không ai biết.”
Sáng hôm sau, Khối 2 chúng tôi đi làm nhà ở cạnh “pháp trường”. Tôi đến chỗ cột gỗ, máu dính lem nhem trên thân cột, còn nền đất pha cát đầy những vệt máu đã khô! Anh Trần Văn Lễ đến cạnh tôi, cả hai chúng tôi lặng lẽ chào tiễn biệt hai anh ấy cho dù lời chào muộn màng!
Xem lại vị trí của trại với vị trí pháp trường, có lẽ bọn họ chọn nơi làm pháp trường khi  mọi người thua trận đang theo dõi qua loa phóng thanh, từ lúc nghe tuyên án cho đến lúc hai loạt đạn khô khan xé không gian bay ngang các khu trại, như âm thanh đe dọa anh em chúng tôi thì phải? Tự động rời hội trường trở vào nhà số 2, mọi người hoàn toàn im lặng chừng như mỗi người có nỗi đau riêng của mình! Nhưng qua phiên tòa này, chúng tôi rút ra được kinh nghiệm là những gì mà mình nghe lời họ để rồi khai báo trung thực, đó chính là mình tự kết tội mình.. Khi bắt đầu viết bản tự khai, họ nói rồi nhắc đi nhắc lại nhiều lần:
“Mấy anh làm gì cách mạng đều biết hết, nhưng cách mạng muốn thấy các anh thành thật khai báo để cách mạng khoan hồng”.
Thưa quí vị quí bạn, nghe theo cộng sản là nguy lắm, thậm chí là chết mất xác đó! Thật ra thì bọn họ không biết gì hết, mà họ chỉ căn cứ vào bản tự khai của hai anh ấy, rồi dẫn đến bản án gần gủi với những bản án trong đấu tố thời cải cách ruộng đất 1953-1956, tại những địa phương dưới sự kiểm soát của lãnh đạo nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vậy. Nghĩa là man rợ. Quả thật câu nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại phiên họp của Quốc Hội lưỡng viện sau trận chiến Tết Mậu Thân đầu năm 1968, có ý nghĩa vượt thời gian: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỷ những gì cộng sản làm”. Nhờ sự ám ảnh đó đã giúp tôi chọn lọc trong khai báo.
Bị thẩm vấn tại trại Tam Hiêp.
Từ giữa tháng 04/1976, một số các bạn Đại Tá từng phục vụ tại các cơ quan trung ương bị họ gọi đến văn phòng làm việc. Tôi là một trong số đó. Họ dùng chữ “làm việc” nhưng theo tôi thì họ “thẩm vấn”. Hồi tháng 05/1975, khi còn ở Sài Gòn tôi đã bị “làm việc” hai lần. Nhưng theo cách vừa đe vừa vuốt trong từng câu hỏi, thật sự là cuộc thẩm vấn chớ không phải “làm việc” theo cách hiểu rõ nghĩa trắng đen của mình. Họ gọi không liên tục, có khi hai ba ngày liên tiếp, có khi cách vài ngày gọi một lần. Tôi tường thuật một số lần điển hình điều mà họ gọi là làm việc trong khi tôi vẫn khẳng định là bị thẩm vấn.
Ngày đầu tiên bước vào gian phòng nhỏ hẹp ngay bên ngoài vòng rào kẽm gai, hai tên mặc quân phục thẳng thớm nhưng không mũ mão lon lá gì hết nên chẳng biết họ cấp bậc gì. Một tên có vẻ là trưởng đoàn hỏi tôi:
“Chào anh. Anh có phải là Phạm Bá Hoa không?”
“Đúng. Tôi là Phạm Bá Hoa.”
“Hôm nay chúng tôi bắt đầu làm việc với anh về một số vấn đề.”
“Đây là lần thứ 3 sau ngày 30/4/1975, các anh thẩm vấn tôi. Và tôi sẳn sàng về những điều tôi biết”.
“Có gì đâu mà anh cho là thẩm vấn, chỉ trao đổi với nhau thôi mà.”
“Tôi sẽ cố gắng để hiểu như vậy.”
“Ở căn cứ Long Bình của mấy anh có mấy hầm bí mật? Chính xác là chỗ nào? Và cất giấu những gì trong đó?”
“Khi còn ở Sài Gòn, tôi cũng nhận được câu hỏi tương tự. Và câu trả lời là tôi không biết có hầm hay không có hầm. Đơn giản vì căn cứ Long Bình rộng lớn lắm mà trong đó chỉ có Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận chúng tôi, cùng với một số đơn vị Tiếp Vận đồn trú. Phần rộng lớn còn lại là những cơ sở kinh tế hoạt động. Trong phạm vi các cơ sở của chúng tôi không có hầm bí mật nào cả, ngoại trừ hầm nửa nổi nửa chìm sử dụng tồn trữ hàng cần nhiệt độ thấp như điện trì cho máy truyền tin chẳng hạn. Với lại trong tổ chức Tiếp Vận chúng tôi không có khái niệm về hầm bí mật như trong quân đội các anh.”
“Tôi chắc là trong một căn cứ rộng lớn như vậy phải có hầm bí mật chứ?”
“Tôi quả quyết như vậy, còn anh tin thế nào là tùy anh. Tôi xin nhấn mạnh là các cơ sở của ngành Tiếp Vận chúng tôi chỉ choán một phần đất nhỏ, nên tôi không biết toàn bộ khu vực còn lại.”
Hắn im lặng, chừng như hắn đang tìm hiểu bên trong câu trả lời của tôi có thành thật hay không, hoặc tìm câu  khác “oánh” tiếp chăng? Tôi tiếp:
“Tôi nghĩ, bây giờ các anh đã kiểm soát toàn bộ căn cứ Long Bình của chúng tôi thì việc lục soát tìm kiếm có gì khó khăn đâu.”
“Thôi được, chúng tôi sang vấn đề khác. Về vận tải của các anh như thế nào? Đường bộ lẫn đường thủy?”
“Chúng tôi có 5 Liên Đoàn Vận Tải tại 5 Vùng Tiếp Vận, phụ trách vận chuyển trong phạm vi địa phương. Còn từ trung ương đến các Vùng do Liên Đoàn Vận Tải trung ương trách nhiệm. Trong hệ thống tổ chức mỗi Sư Đoàn Lục Quân có một Đại Đội Vận Tải. Hải Quân có Hải Đội Quân Vận Hạm. Và Không Quân có những Phi Đoàn Vận Tải. Ngoài ra chúng tôi còn có các khế ước thuê mướn các công ty dân sự cung cấp phương tiện vận chuyển đường bộ lẫn đường thủy nữa”.
“Khả năng trọng tải chung của các anh là bao nhiêu, kể cả phương tiện dân sự mà các anh thuê mướn?”
“Tôi không nắm dữ kiện này, nhưng mọi nhu cầu vận chuyển các loại hàng tiếp liệu của quân đội chúng tôi đều được cung ứng”.
“Về vận tải biển của các anh?”
“Ngành Tiếp Vận chúng tôi có khả năng vận chuyển dọc theo duyên hải, nhưng không có khả năng viễn dương.”
“Vậy thì vũ khí khí tài mà Mỹ cho các anh đến bằng cách nào?”
“Đơn giản thôi. Hoa Kỳ mướn tàu hàng chở đến cung cấp cho chúng tôi.”
“Có trường hợp nào tàu biển cặp các cảng biển miền Trung không?”
“Có”.
“Ngắn gọn quá vậy. Anh cụ thể hơn cho chúng tôi biết?”
“Thí dụ về đạn dược. Chúng tôi thiết lập kế hoạch bổ sung cho các Vùng Tiếp Vận tại các cảng Cam Ranh, Qui Nhơn, Đà Nẳng, rồi trao cho Hoa Kỳ. Thế là Hoa Kỳ ký khế ước với các công ty vận tải đường biển, và chở hàng giao thẳng các nơi theo yêu cầu của chúng tôi. Bằng cách đó, chúng tôi tiết kiệm được thời gian, chi phí, kho tồn trữ trung gian, và an toàn nữa.”
Đấy là buổi thẩm vấn đầu tiên tại trại Tam Hiệp, và là lần thẩm vấn thứ ba kể từ sau ngày 30/04/1975. Trước khi ra cửa, hắn kêu tôi lại đưa tôi mấy tờ giấy ô vuông (cũng gọi là giấy manh) và nói:
“Anh viết lại những gì anh đã nói với chúng tôi sáng nay. Đồng thời tôi muốn anh vẽ những sơ đồ mô tả sự việc rõ hơn. Anh có một tuần để làm việc này.”
“Anh nói mơ hồ quá. Anh cần sơ đồ gì tôi sẽ vẽ nếu tôi biết.”
“Sơ đồ vận chuyển đường thủy. Sơ đồ các Vùng Tiếp Vận của anh ở đâu?”
“Tôi sẽ vẽ. Bây giờ tôi vào trại được chưa?”
“Được. Anh vào đi.”
Tuần sau, lính gác vào gọi tôi. Vẫn địa điểm cũ. Hai tên cộng sản khác đang chụm đầu vào nhau. Tôi gõ cửa. Họ quay nhìn tôi, một trong hai tên hơi gắt giọng:
“Anh tên Phạm Bá Hoa phải không?”
“Đúng. Tôi đây.” Tôi cũng có chút gắt giọng với hắn.
Im lặng một lúc. Sau khi hắn xem những trang giấy viết và hai sơ đồ tôi trao khi bước vào, hắn lên tiếng:
“Sao anh nặng lời thế. Bài viết mà anh cho là tờ khai à.”
“Các anh có dùng từ ngữ gì đi nữa thì thực chất nó vẫn là tờ khai mà.”
Tên kia chen vào:
“Thôi được. Cứ luận bàn cách dùng từ không khéo lại lạc đề. Anh cho chúng tôi biết Tổng Cục Tiếp Vận của anh có cố vấn Mỹ không?”
“Từ cuối năm 1972 về trước thì có, sau đó thì không.”
“Họ đối với các anh như thế nào?”
“Anh có thể nêu câu hỏi rõ nghĩa một chút, vì tôi chưa hiểu ý anh muốn hỏi gì.”
Mặt hắn bắt đầu đỏ lên: “Mỹ chỉ huy các anh phải không?”
“Xin lỗi hai anh nghe. Bộ cố vấn Trung Cộng với cố vấn Liên Xô chỉ huy các anh hay sao mà anh hỏi tôi như vậy?”
Hắn đập tay xuống bàn nhưng không mạnh lắm:
“Anh trả lời câu hỏi của tôi. Anh phải nghiêm túc trước mặt chúng tôi.”
“Lại xin lỗi hai anh. Tôi nêu câu hỏi một cách đúng đắn. Sở dĩ tôi hỏi lại hai anh vì đây là lần đầu tiên tôi nghe như trong câu hỏi có tính xác định Mỹ chỉ huy chúng tôi. Lạ tai lắm. Tôi trả lời là không. Cố vấn là cố vấn, hoàn toàn không có vấn đề người Mỹ chỉ huy chúng tôi như trên màn ảnh nhỏ mà các anh đã tạo dựng trong các vở kịch và tuồng cải lương mà tôi đã xem khi chưa vào trại.”
Cả hai lại bắt đầu đỏ mặt. Lại gằn giọng: “Anh có thành thật không?”
“Tùy hai anh đánh giá câu trả lời của tôi. Riêng với tôi thì tôi rất thành thật.”
“Vậy anh cụ thể điều mà anh nói cố vấn là cố vấn.”
“Tháng 4/1962, lúc ấy tôi phục vụ tại Sư Đoàn 21 Bộ Binh ở vùng đồng bằng Cửu Long. Lần đầu tiên chúng tôi được Hoa Kỳ yểm trợ phương tiện không vận đổ quân ngay tại trận địa mà không cần nhẩy dù, đó là trực thăng H21 có hình dạng “trái chuối già”. Sĩ quan Hoa Kỳ hướng dẫn chúng tôi về kỹ thuật cất cánh, khi bay, khi hạ cánh, về khả năng hỏa lực, nói chung là những gì thuộc về khả năng và kỹ thuật của  phi cơ. Cố vấn tại đơn vị hướng dẫn thực tập lên quân xuống quân, còn chỉ huy khi thật sự lên quân xuống quân và tấn công các anh là chúng tôi. Một trường hợp khác, tại chiến trường, tức là lúc đánh nhau với các anh, cố vấn Hoa Kỳ tại các đơn vị đó là gạch nối giữa đơn vị trưởng của chúng tôi với đơn vị Pháo Binh và Không Quân chiến thuật Hoa Kỳ, để yểm trợ hỏa lực theo yêu cầu của cấp chỉ huy Việt Nam chúng tôi. Nói chung, Hoa Kỳ cố vấn chúng tôi về kỹ thuật các loại quân dụng mà Hoa Kỳ viện trợ và kỹ thuật bảo trì nó. Còn về chiến thuật, nhiều trường hợp, cố vấn Hoa Kỳ còn học kinh nghiệm từ phía chúng tôi thì làm gì có việc chỉ huy chúng tôi như các anh hỏi. Tôi nói Hoa Kỳ học chúng tôi, vì Hoa Kỳ không thể hiểu các anh như chúng tôi hiểu các anh, bởi trong cuộc chiến này bao gồm cả vấn đề văn hoá khi nghiên cứu về chiến lược chiến thuật”.
Im lặng một lúc, hắn hỏi: “Anh có chủ quan không?”
“Cũng tùy các anh thôi. Khi tôi trả lời các anh, tôi vẫn hiểu là các anh có nhiều cách để phối kiểm câu trả lời của tôi, vì các anh muốn gọi bất cứ ai trong số anh em chúng tôi ra làm việc thì gọi ra hỏi dễ dàng. Khi tôi hiểu như vậy, dại gì tôi nói theo cách tôi nghĩ, vì chẳng những không có lợi gì cho tôi mà trái lại có hại là cái chắc.”
Hắn nhìn thẳng tôi:
“Thôi được. Bây giờ chuyển sang đề tài khác. Ngành Mãi Dịch của anh là gì?”
“Đúng như tên gọi của nó là dịch vụ mua hàng cho nhu cầu quân đội chúng tôi mà trong nước có khả năng sản xuất.”                          
“Anh được cấp tiền như thế nào để mua hàng?”
“Cơ quan Mãi Dịch chúng tôi mua hàng nhưng không bao giờ được ngân sách Quốc Phòng cấp một đồng bạc nào cả, nhưng mỗi năm tôi mua hàng trị giá trên dưới 30 tỷ đồng (30.000.000.000,00).”
Với giọng ngạc nhiên, hắn hỏi: “Bằng cách nào?”
 “Cơ quan Mãi Dịch chúng tôi chỉ trách nhiệm thiết lập khế ước theo qui định quốc gia về nguyên tắc hành chánh mãi ước, theo đúng nhu cầu kỹ thuật của từng món hàng và số lượng mà cơ quan đơn vị yêu cầu. Hằng năm, ngân sách quốc phòng dành một ngân khoản thích hợp cho các cơ quan đơn vị trong ngành Tiếp Vậnị, để thực hiện những mặt hàng cần thiết cho quân đội mà nền kỹ nghệ trong nước sản xuất. Nhà thầu giao hàng trực tiếp cho các cơ quan đơn vị, nhưng tiền thì nhận ở Bộ Quốc Phòng. Nói chung, cơ quan Mãi Dịch chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ kỹ thuật từ lúc gọi thầu đến khi tống đạt khế ước đến nhà thầu thi hành, và góp phần kiểm soát phẩm chất cùng với số lượng hàng khi nhà thầu giao tại các kho qui định trong khế ước.”
“Các anh lãnh lương của Mỹ bằng đô la chứ?”
“Tại sao Mỹ trả lương cho chúng tôi trong khi chúng tôi là quân nhân Việt Nam, phục vụ cho Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam? Tôi quả quyết với các anh rằng, ngân sách của Bộ Quốc Phòng chúng tôi trả lương cho toàn thể quân nhân và công chức quốc phòng trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa bằng đồng bạc Việt Nam chúng tôi.”
“Vậy tiền Mỹ viện trợ cho các anh dùng vào khoản nào?”
Nghe hỏi mà phát tức, tôi hơi gắt giọng:
“Có vẻ như các anh cho rằng chúng tôi chia nhau bỏ túi số tiền viện trợ phải không? Xin lỗi các anh, hằng năm Hoa Kỳ viện trợ cho quốc gia chúng tôi với một khoản tiền nào đó, trên các văn bản cũng như trên báo chí toàn là những con số về tiền, nhưng thực tế nó biến thành những món hàng mà chúng tôi gọi là dụng cụ chiến tranh, từ Hoa Kỳ đi thẳng vào các kho tồn trữ của chúng tôi từ trung ương đến các địa phương, nó cũng biến thành các khóa đào tạo các ngành chuyên môn trên đất Hoa Kỳ. Nói vắn tắt, tiền Hoa Kỳ viện trợ nhưng không phải viện trợ bằng tiền như các anh hiểu, mà là bằng dụng cụ chiến tranh và các dịch vụ quân sự.”
Bọn họ im lặng một lúc, chừng như họ ngạc nhiên lắm thì  phải. Theo tôi biết, trong ngân sách quốc phòng có phần viện trợ của Hoa Kỳ là 25% mà chúng tôi dùng nhóm chữ viện trợ chung đậu để chỉ số tiền đó, và nó bàng bạc trong các chương ngân sách chớ không riêng cho khoản chi về lương.
“Bây giờ là câu hỏi chót. Anh có thể vẽ sơ đồ ngành Tiếp Vận của anh chứ?”
“Được.”
Họ lại trao cho tôi mấy tờ giấy ô vuông và tôi có thời gian một tuần làm việc này. Một tuần là thong thả vì chỉ cần vài ngày là xong, vì vậy mà khi đến phiên nấu bếp tôi vẫn cùng các anh trong nhóm làm công việc này. Với lại nấu bếp tuy có phần vất vả nhưng cũng vui vui.
Đây là một trong những chuyện vui pha chút ngậm ngùi! Đó là mỗi sáng có một anh rất trẻ, tên Huệ, theo lời anh bạn ở Sư Đoàn 23 Bộ Binh thì anh Huệ là Thiếu Úy phục vụ Đại Đội Thám Báo Sư Đoàn, đã một lần bị thương có ảnh hưởng đến thần kinh. Cứ y như rằng, với cái  lon guigoze trên tay khi đến nhà bếp, anh vừa nói vừa cười nhưng không biết anh cười với ai nữa:
“Cho Thiếu Tướng gô nước cơm.”
Anh Điệp cười ngất và đáp: “Thiếu Tướng để đó, chờ cơm sôi tôi lấy cho!”
Vì vết thương chạm thần kinh nên anh tự cho mình là “Thiếu Tướng, Tư Lệnh Sư Đoàn 23B.” Cũng vì cái cấp bậc với cái chức vụ tự phong đó mà anh bị quân cộng sản bắt. Lại có anh bạn trẻ khác cũng trong tình trạng không bình thường như vậy, nhưng không do thương tích. Thường ngày, anh bạn này ăn xin ở chợ Bà Chiểu, Gia Định. Ngày 30/04/1975, anh ta lượm được cái áo treillis có cấp hiệu Thiếu Tá và vui vẻ mặc vào. Vài ngày sau anh bị công an cộng sản bắt vô trại tập trung, lại ở chung với “Thiếu Tướng Nguyễn Huệ”. Thế là “Thiếu Tướng Nguyễn Huệ” cử anh “Thiếu Tá” này vào chức “sĩ quan tùy viên”.
“Sư Đoàn 23B” là một đơn vị không hề có trong tổ chức Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thế nhưng sư đoàn này lại là một đề tài mà khi thẩm vấn tôi, họ cứ xoay quanh cái “sư đoàn” ấy.
Tuần lễ sau đó, thẩm vấn tái diễn. Vẫn hai tên cộng sản tuần trước. Xem xong sơ đồ, họ bắt đầu:
“Địa bàn hoạt động của Sư Đoàn 23B ở đâu?”
Tôi nhìn trái rồi nhìn phải để xem họ hỏi tôi hay hỏi ai. Một trong hai tên quát:  “Tại sao không trả lời tôi mà anh quan sát địa hình?”
Câu quát của hắn chừng như nghi ngờ tôi có ý định bỏ chạy thì phải.
“Tôi nhìn xem có phải anh hỏi tôi hay hỏi người nào khác, vì tôi phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (có cơ hội là tôi nhấn mạnh chữ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa) vừa đúng 21 năm, chưa bao giờ nghe nói đến sư đoàn này, cho nên tôi nhìn xem có người nào khác ngoài tôi ra không, có gì đâu mà anh định gắn cho tôi cái âm mưu trốn trại.”
“Vậy tại sao các anh có Tướng Nguyễn Huệ, Tư Lệnh Sư Đoàn 23B?”
“Các anh tin lời anh ấy sao. Anh ta chưa đến tuổi 30 làm sao lên đến cấp Tướng được. Theo chỗ tôi biết, anh ấy là Thiếu Úy phục vụ ở Sư  Đoàn 23 Bộ Binh. Trong trận đánh với các anh, viên đạn AK đã gây thương tích cơ thể làm chấn thương đến thần kinh anh ấy. Tôi chỉ biết đôi điều về anh ấy như vậy thôi.”
“Không ai lại tự mình khai quân hàm (tức cấp bậc) với chức vụ không có cả.”
“Có chớ. Anh Nguyễn Huệ khai với các anh đó.”
Vầng trán hắn nhăn nhúm cùng lúc với đôi mắt cau lại, chứng tỏ hắn đang tức tôi lắm. Lại gằn giọng:
“Anh có khẳng định là quân đội mấy anh không có Thiếu Tướng Nguyễn Huệ?”
“Chắc chắn là như vậy.”
“Anh nghĩ gì khi có người xác nhận quân đội các anh có Tướng Huệ?”
“Tôi không nghĩ gì hết mà tôi khẳng định người nào xác nhận như vậy thì người đó cũng có vấn đề về thần kinh như anh bạn trẻ chúng tôi đang mang cái tên Nguyễn Huệ. Còn tôi, cho đến bây giờ thần kinh tôi chưa có vấn đề.”
“Được. Chúng tôi tạm nghe như vậy. Về ngành Mãi Dịch của anh, chúng tôi sẽ trở lại vào ngày khác. Bây giờ anh cho chúng tôi biết, Đồng Văn Khuyên với Nguyễn Văn Chức của anh hiện nay ở đâu, và làm gì?”
“Tôi hoàn toàn không biết. Ngay cả gia đình tôi mà tôi cũng không biết thì làm sao tôi biết hai vị ấy ở đâu.”
“Khi ông Khuyên bỏ chạy có từ giã anh không?”
“Trung Tướng Khuyên có đến văn phòng tôi trước khi đi, nhưng không một lời từ giã. Nói cho đúng là cấp chỉ huy của tôi với tôi, chỉ nhìn nhau mà không ai nói với ai lời nào cả.”
“Ông Khuyên đi bằng gì?”
“Đi bằng xe Jeep.”
Hắn đỏ mặt lên và chồm tới cứ như muốn tát tai tôi vậy:
“Chạy sang Mỹ mà đi bằng xe Jeep à?”
“Tôi đâu có nói với anh là Trung Tướng Khuyên sang Hoa Kỳ bằng xe Jeep. Tôi trả lời chính xác theo câu hỏi của anh sao anh tức giận. Tôi nói rõ thêm là lần sau cùng gặp cấp chỉ huy của tôi là lúc ông ngồi trên xe Jeep, sau đó ông rời khỏi Tổng Cục Tiếp Vận để vào phi trường Tân Sơn Nhất. Còn ông ấy có đi được hay không, hoặc có đi được mà đi bằng gì, tôi hoàn toàn không biết.”
Có vẻ như hắn cảm thấy bị hố, nên nhẹ giọng:
“Có người nói là ông Khuyên không đi được, anh nghĩ sao?”
“Tôi không nghĩ gì hết, vì tôi hoàn toàn không biết tin tức gì về cấp chỉ huy của tôi sau khi xe Jeep đưa ông rời khỏi chỗ tôi đứng. Với lại ngay bây giờ, tôi chưa biết số phận long đong của tôi sẽ ra sao, thì lòng dạ nào tôi tìm hiểu về các cấp chỉ huy của tôi. ”
“Anh có biết Trung Tướng Trưởng không?” (Trung Tướng Ngô Quang Trưởng)
“Có. Tôi có biết Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, nhưng chưa bao giờ làm việc dưới quyền ông, nên chỉ biết mà không hiểu gì về ông ấy.”
“Anh có tin tức gì về ông Trưởng không đi Mỹ mà đi Thái Lan không?”
“Tôi lại hoàn toàn không biết.”
“Sao cái gì anh cũng trả lời không biết?”
“Những gì tôi biết thì tôi trả lời tôi biết, còn những gì tôi không biết thì tôi trả lời không biết. Tôi còn nhớ sau khi học tập chính trị ở trại Long Giao, anh giảng viên hướng dẫn khai báo, anh ấy nói là cách mạng biết tất cả những việc mà chúng tôi đã làm, nhưng cách mạng muốn chúng tôi khai báo thành thật để đánh giá kết quả học tập. Tôi nghĩ, nếu tôi nói không thành thật thì các anh biết ngay thôi.”
Không hiểu hắn nghĩ gì về câu trả lời của tôi. Hắn nhìn thẳng vào tôi:
“Tuần này anh viết cho tôi về tổ chức ngành Tiếp Vận.”
“Tuần trước tôi đã vẽ sơ đồ rồi mà.”
“Tôi có xem. Nhưng tuần này anh viết cụ thể hơn. Bây giờ anh vào trại được rồi.”
Trở lại với anh “Tư Lệnh Sư Đoàn 23B và anh tùy viên của Tư Lệnh”. Anh Nguyễn Huệ  “Tư Lệnh Sư Đoàn 23B” những lúc tỉnh táo, anh nói chuyện hóm hỉnh và ý nghĩa nữa. Trường hợp điển hình là trong khi chờ đợi lon guigoze nước cơm sôi, anh tâm tình với nhóm nấu bếp chúng tôi rằng:
“Tôi xưng Thiếu Tướng, Tư Lệnh Sư Đoàn 23B, là tôi nói với cộng sản chớ không phải tôi nói với các ông (có lẽ do anh quá trẻ nên gọi chúng tôi bằng các ông thì phải). Các ông đừng buồn tôi”.
Anh ấy nói như vậy là lúc tỉnh, vì rõ ràng là những khi đến xin nước cơm thì anh vẫn xưng Thiếu Tướng với chúng tôi, chắc lúc ấy không tỉnh chăng?
Lại nói qua về “Thiếu Tá tùy viên của Tư Lệnh Sư Đoàn 23B”. Anh này gần như hoàn toàn bất bình thường, tệ hơn nữa có thể nói là khật khùng. Chẳng thấy anh ta nói chuyện với ai nhưng lúc nào cũng gắn sẳn nụ cười trên môi cứ như đang cười với ai đó, mà thật ra có thấy ai đâu. Cười khơi khơi đó quí vị quí bạn à! Cứ “tư lệnh” đi đâu thì “tùy viên” theo đến đó, đôi khi chậm trễ như xuống nhà bếp chẳng hạn, chỉ một lúc sau thì anh ta cũng đến đứng hay ngồi bên cạnh “sếp”, chờ xách lon guigoze nước cơm sôi cho “sếp”. Những chiều xem tivi ở hội trường, thì ”tùy viên” có trách nhiệm choán chỗ trước, bằng cách xách hai khúc gỗ cao su nhỏ dùng làm ghế ngồi cho “hai thầy trò”. Và y như rằng, ghế của “tùy viên” ngay sau lưng ghế của “tư lệnh”. Nói cho cùng, có hai anh chàng này đôi lúc cũng giúp cho nhiều người chung quanh đỡ buồn vì những hành động ngớ ngẩn của hai anh ấy. Ngược lại, bọn cộng sản ở trại Tam Hiệp này bối rối vì không tìm được “tông tích của Sư Đoàn 23B”.
Tôi lại ra ngoài trại cho họ thẩm vấn nữa đây. Lần này bọn họ ba đứa, hai đứa cũ với một đứa gặp lần đầu. Câu đầu tiên là vỗ mặt liền:
“Anh có biết vì sao Mỹ thua trong chiến tranh xâm lược Việt Nam không?”
“Xin lỗi các anh. Các anh muốn tôi trả lời theo bài học hay trả lời theo cách nghĩ của tôi?”
Hắn gằn giọng:  “Anh phải nghiêm túc khi trả lời câu hỏi của tôi.”
“Tôi rất nghiêm chỉnh. Tôi hỏi như vậy để tôi trả lời đúng câu hỏi của anh.”
“Tại sao anh hỏi chúng tôi câu đó?”
“Tại vì bài học chính trị số 1 có dạy chúng tôi về nguyên nhân mà anh nêu trong câu hỏi rồi. Còn nếu anh muốn tôi trả lời theo cách nghĩ của tôi thì khác với bài học, liệu anh có chấp nhận không?”
“Trao đổi với anh cũng căng đấy. Các đồng chí của tôi đã nói đúng. Thôi, đừng có lý luận nữa, trả lời đi.”
“Lẽ ra câu ấy dùng cho tôi mới đúng, vì tôi hoàn toàn trong thế bị động, bị thẩm vấn. Bây giờ tôi trả lời các anh theo cách nghĩ của tôi. Cuộc chiến đã ngưng tiếng súng gần tròn một năm rồi mà tôi vẫn tự hỏi: Hoa Kỳ rút quân đội khỏi Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi là do Hoa Kỳ thay đổi chiến lược sau khi bắt tay với Trung Hoa cộng sản, hay vì thất bại đúng nghĩa của nó? Mà cho dù là nguyên nhân nào đi nữa, rõ ràng là chúng tôi thua trận, nhưng thua trận mà bản thân tôi vẫn chưa lý giải được. Đó là điều luôn ám ảnh tôi, và cũng là câu mà tôi trả lời các anh. Tôi nghĩ là các anh không hài lòng, vì chính tôi cũng không hài lòng với tôi nữa mà.”
Cả bọn cùng nhìn thẳng vào tôi một lúc:
“Nếu như Mỹ bỏ rơi miền Nam, tại sao còn chở viện trợ tới cho các anh bằng những phi cơ vận tải lớn.”
“Chính trị mà các anh, có chữ nào một nghĩa đâu. Giờ này viện trợ, giờ sau chấm dứt, có gì lạ đâu. Và thực tế đã xảy ra như vậy đó.”
“Khi trả lời chúng tôi, có vẻ như anh bị mặc cảm thua trận phải không?”
“Đây là lần thứ tư tôi nghe câu hỏi này từ phía các anh. Khi trả lời các anh những lần trước đây cũng như ngay bây giờ, lúc nào tôi cũng ngẫng cao đầu. Tôi quan niệm rằng, khi hai bên đánh nhau phải có bên thắng bên thua, thậm chí khi gọi là huề cũng vẫn có bên thua bên thắng hiểu theo một ý nghĩa nào đó. Chúng tôi đã thua và đang trong tay các anh, tôi mặc cảm có giải quyết được gì đâu.”
Cả ba tên nhìn nhau, im lặng, rồi cùng nhìn tôi. Tôi không đoán được trong đầu bọn họ nghĩ gì qua nét nhìn đó. Vài phút tiếp theo, một tên nói:
“Anh có thể vào trại, chúng tôi sẽ gặp lại anh.”
“Chào các anh.”
Thưa quí vị quí bạn, qua ba lần thẩm vấn tính ra là 15 ngày rồi, bọn họ “xa luân chiến” nêu câu hỏi không ngưng nghỉ, có lẽ chiến thuật của họ làm cho người bị thẩm vấn mệt mỏi trong suy nghĩ mà khai thật với họ chăng? Hoặc bực tức rồi gây hấn với họ chăng? Kinh nghiệm qua những lần bị thẩm vấn khi còn ở Sài Gòn cho tôi quan niệm rằng: “Giữ được sự bình tỉnh cũng là kềm chế được lời nói của mình. Sự bình tỉnh giúp mình biết mình nên nói những gì, và mình hiểu họ muốn gì trong câu hỏi, để mà trả lời.” Và tôi có nét nhìn chung là họ nêu nhiều câu hỏi của một số vấn đề, nhưng quanh đi quẩn lại họ nhắm vào những câu sau đây:       
- Tại sao các anh thua nhanh vậy?
- Tướng Khuyên và Tướng Trưởng của anh ở đâu? Làm gì?
- Hầm bí mật chôn giấu vũ khí khí tài ở đâu?
- Và anh có mặc cảm thua trận phải không?
Kể ra cũng khá đau đầu vì bị họ luân phiên đặt câu hỏi, đi vòng vòng rồi cuối cùng họ cũng xoáy vào những câu hỏi mà họ dự liệu trước. Cho nên lúc nào cũng phải chuẩn bị tư tưởng để xung trận với họ. Đã khai như thế nào khi vào trại phải ghi chép lại để nhớ mà khai khi bị thẩm vấn những lần kế tiếp, vì sơ hở một chút có thể sẽ bị họ xoáy vào đó là rắc rối lắm. Trong những ngày bị thẩm vấn, anh Nguyễn Ngọc Điệp thường nhắc tôi uống nước đường để tỉnh táo mà đỡ đòn xa luân chiến của cộng sản. Cũng may là anh bạn trẻ, Đại Úy Không Quân, hằng ngày vẫncho tôi ly nước hà thủ ô pha đường, ngon lắm.
Nhân đây xin nói một chút về anh bạn trẻ này. Anh là Đại Úy Không Quân mà tôi quên tên, quê Vĩnh Long. Anh nói với tôi như sau: Cô ruột của anh là bà Dương Quỳnh Hoa, Bộ Trưởng Y Tế trong Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam của kỹ sư Huỳnh Tấn Phát, là tổ chức ngoại vi của lãnh đạo cộng sản Việt Nam thành lập năm 1960. Sau ngày 30/04/1975, ba của anh đưa anh đến gặp bà Quỳnh Hoa để xem bà có giúp gì được cho anh không. Bà Dương Quỳnh Hoa trả lời với ba của anh một cách chua chát rằng:
“Không có cách nào giúp đâu anh. Thân em chưa biết ra sao thì nói gì đến cháu!”
Thế là anh bạn trẻ vào trại tập trung.
Trung tuần tháng 06/1976, trong khi nhiều bạn đang theo dõi chương trình trên màn ảnh nhỏ của đài truyền hình Sài Gòn mà họ đã gắn cái tên ông Hồ vào đó, bất ngờ xướng ngôn viên công bố chính sách khoan hồng nhân đạo (!) cho những sĩ quan viên chức cán bộ của Việt Nam Cộng Hòa cũ mà họ gọi là “ngụy quân ngụy quyền”. Tôi không bao giờ xem cái tivi đó mà chỉ nghe các bạn xem xong về thuật lại cho tất cả các bạn cùng nhà nghe. Vắn tắt thế này: “Đó là chính sách cải tạo ba năm trong các trại tập trung.”
Kiểm điểm lại những văn kiện của họ công bố chánh thức về cái gọi là chính sách đối với quân nhân viên chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa cũ, như sau:
Tháng 05/1975, bản thông cáo về chính sách khoan hồng nhân đạo 10 điểm của cái gọi là chánh phủ Huỳnh Tấn Phát, nhưng cầm chắc là không phải do ông chánh phủ trời ơi đó viết đâu, mà lãnh đạo cộng sản tự làm nhưng gắn cái tên ông kỹ sư đó vào cho ra vẻ không cộng sản thôi. Võ bọc ngụy trang đó.
Đầu tháng 06/1975, cái thông cáo gọi đi học tập mà trong nội dung bảo chuẩn bị cho 30 ngày.
Và bây giờ, tháng 06/1976 là cái chính sách ba năm. Từ chính sách chung chung, đến 30 ngày, rồi 3 năm.
Nói là làm của “cách mạng” đó quí vị quí bạn à! Liệu rồi đây sẽ có chính sách bao nhiêu năm nữa? Không anh nào có can đảm suy đoán thêm. Thôi thì cứ bám giữ cái thời gian 3 năm này để mà sống vậy, dù chưa biết cuộc sống sẽ như thế nào!
Đây là đề tài lẽ ra ngay đêm nay bàn luận sôi nổi lắm, thế nhưng bầu không khí trong căn nhà số 2 này lại yên lặng một cách lạ thường! Phải chăng mỗi người trong chúng tôi đang có những suy nghĩ riêng tư của mình, và ngày mai mới bắt đầu chăng? Nhưng chưa kịp sáng mai vì ngay trong đêm, lúc ấy khoảng 10 giờ, có tiếng của lính cộng sản đến từng nhà của cấp Đại Tá, với giọng ồn ào:
“Tất cả các anh thức dậy, ra sân tập trung. Phải đi ngay tức thì.”
Thế là tất cả 4 Khối bỗng dưng trở nên ồn ào hẳn lên. Ai nấy vội mặc áo quần ra sân. Ngồi yên chỗ mới nhìn thấy khoảng 10 tên cộng sản đi tới đi lui, không ai đoán được điều gì sắp xảy ra cho mình cả. Sau khi họ đến từng nhà kiểm soát, biết chắc không còn ai trong các nhà đó, họ bắt đầu:
“Chúng tôi bắt đầu làm việc. Anh nào nghe thấy tên mình thì đứng dậy sang phía bên này”. Vừa ra lệnh hắn vừa chỉ tay qua khu vực sân còn trống.
Họ đọc cả họ tên, cấp bậc, chức vụ, đơn vị của từng người. Đến khi đọc xong danh sách, lượng người hai bên sân có thể nói là bằng nhau. Họ ra lệnh tiếp:
“Các anh vừa nghe đọc tên mình, về nhà thu xếp và mang tất cả tư trang ra đây trong vòng 15 phút. Các anh không có tên, ngồi yên tại chỗ.”
Tôi trong số còn ngồi lại. Anh em chúng tôi ngồi sát vào nhau bàn luận nho nhỏ vì chúng nó cứ chầm chập nhìn chúng tôi. Những mẫu chuyện mà chúng tôi rù rì với nhau như thế này:
“Về rồi các bạn ơi!”
“Về cái khỉ họ. Đêm qua chúng nó công bố chính sách 3 năm mà về nỗi gì. Chúng nó đưa tụi mình đi trại khác đó.”
“Chúng nó dám đưa mình ra Bắc không?”
“Ông là gì của nó mà nó không dám.”   
“Lúc nảy thằng cha Xê (trưởng khu cấp Đại Tá) nói là đi về hướng Hóc Môn thì đâu phải ra Bắc.”
“Thì chỉ có về mới đi hướng đó thôi mà.”
“Mấy cha cứ nghe tụi nó hoài. Chừng nào sự việc tới hãy hay, chớ cứ nghe chúng nó mà chết đó.”
“Từ 1 tháng trở thành 3 năm mà cứ tin chúng nó nữa à!”
Tôi không tham gia trong vụ bàn luận này, vì tôi nghĩ rằng: “Nếu chuyển trại sao lại đọc lý lịch kỹ vậy, cứ đến chở đi như hai lần trước thôi. Còn đi về, điều này chưa thể xảy ra, vì chúng nó mới công bố chính sách 3 năm, nói trắng ra chúng nó nhốt mình ít nhất là 3 năm mà bây giờ mới vừa đúng 1 năm làm sao về được. Với lại di chuyển ban đêm thì khó có được điều lành. Vậy thì đi đâu? Làm gì? Tôi không thể nào có được kết luận”. Tôi đang bối rối!
Sau khi phân nửa sân bên kia đông nghẹt người trở lại với mớ hành trang quá ư là lỉnh kỉnh luộm thuộm, vì mấy tháng nay ở trại này hầu như anh nào cũng tạo được một số tài sản linh tinh, từ cái thùng kéo nước với sợi dây nặng ơi là nặng, đến cái gàu cái rương cái hộp, đủ thứ hết vì cái gì cũng cần thiết cả.
Số còn lại được lệnh trở về ngủ tiếp. Anh em chúng tôi trong mỗi nhà kiểm điểm lại còn đúng một nửa, có nghĩa là số người đi một nửa. Hỏi chuyền sang các nhà khác, cũng y chang như vậy. Những con số ra đi một nửa này làm chúng tôi chú ý. Nếu đi về, tại sao lại đúng một nửa? Vậy, chắc là chuyển trại rồi. Lần này đi một nửa, và một nửa còn lại sẽ đi lần sau. Lý giải này có vẻ chấp nhận được. Thế là anh em chúng tôi trong tinh thần chuẩn bị, nhưng không đoán nỗi sẽ đi đâu. Tôi vẫn mắc kẹt cái câu “tại sao chuyển trại mà họ đọc lý lịch kỹ quá vậy?” Nhưng rồi tôi lại nghỉ: “Biết đâu đó cũng là cách họ đánh lừa mình chăng? Họ cố tạo những yếu tố không thật sự cần thiết cho một hành trình chuyển trại làm cho mình phán đoán sai cũng nên?” Đến đây có thể lý giải được phần nào những bàn luận của anh em chúng tôi.
“Hơn 12 giờ rồi, làm ơn ngủ giùm các bạn ơi!”
“Trời ơi! Chuyện quan trọng phải bàn cho ra lẽ chớ. Vừa rồi có mấy anh bên Khối 4 mò ra sát hàng rào, nhờ có ánh trăng mờ mờ nên thấy tụi nó xét đồ đạc kỹ lắm. Thùng gàu dây kéo nước, lon guigoze, nó liệng hết trơn. Nghe nó nói chỉ cho đem 1 cái lon guigoze, vì mỗi người chỉ được mang theo tối đa 20 kí lô thôi.”
“Dám mấy chả đi bằng phi cơ lắm à!”
“Tôi không nghĩ chúng nó đưa chúng mình ra Bắc, mà tôi cho là tụi nó đưa chúng mình vô rừng sâu nên không cho mang nặng vì đi bộ đường rừng mà, còn rừng sâu ở đâu thì tôi chịu thua.”
Đến quá nửa đêm chúng tôi mới nghe đoàn xe rời khỏi trại.   
“Bây giờ ngủ được rồi các bạn ơi!”
Thật ra chẳng mấy ai ngủ được thẳng giấc hết, bởi cái long đong nghiệt ngã đối với bản thân như thế nào, chưa ai suy đoán nỗi!
Thế rồi … Tiếng kẻng gọi dậy. Mặt trời lên. Mọi việc vẫn phải diễn tiến như thường ngày.
Toán nấu bếp gom ba toán làm một. Ra ngoài trại lãnh su-le vẫn theo lượng 92 người ăn cho mỗi nhà và họ dặn ăn trong hai ngày. Đúng thôi, vì mỗi nhà chỉ còn lại một nửa số người. Và rồi ngày hôm nay, thời gian có vẻ như trôi qua một cách chậm chạp trong nỗi lo âu hay niềm vui xa xôi nào đó, tùy theo cách nghĩ của mỗi người trong số chúng tôi. Chẳng hạn như nghĩ rằng ở lại là tội nhẹ, mà tội nhẹ thì có thể về sớm. Có người trong nỗi lo vì cái số long đong luôn đeo đẳng bên mình, trong khi chính mình không lý giải nỗi cái long đong đó!
Ngày kế tiếp, họ lại gọi ra ngoài trại lãnh thêm một ít trái su-le nữa, và họ dặn gộp lại số lượng lãnh hôm qua và hôm nay chia ra ăn trong 4 ngày. Đến tối họ lại bảo chia số su-le đó ra ăn trong 7 ngày. Hầu hết anh em chúng tôi còn lại đều tin rằng, ít nhất cũng còn ở đây 7 ngày nữa kể từ hôm nay, và tự cho mình cái thanh thản trong thời gian đó.
Nhưng lại bị lừa! Thế mới đau! Đau là vì từng cho rằng, lúc nào cộng sản cũng nói dối, cũng tìm cách đánh lừa mà mình vẫn tin. Nhưng nghĩ cho cùng, khi mà con người không có gì để bám víu cho cuộc sống long đong, thì bất cứ gì xem như có thể bám được thì cứ bám còn hơn là buông xuôi! Đêm xuống từ lâu, chuyện bàn cũng hết, nhưng chưa ai ngủ. Bị lừa là bất thình lình, một toán lính cộng sản đi từng nhà ra cái lệnh giống hệt cái lệnh mà một nửa trong số anh em chúng tôi đã di chuyển đi đâu không ai biết:
“Tất cả các anh thức dậy và ra sân tập trung ngay lập tức.”
Mọi người vừa ra khỏi mùng, họ nối thêm cái đuôi nghe rất khô khan:
“Các anh mang theo tất cả tư trang.”          
Mang theo tư trang mà phải đi tức thì, cái lệnh nghe mà phát tức! Thôi thì hơi sức đâu mà dồn ép chữ nghĩa, trong khi mọi người gần như ngỡ ngàng về cái lệnh chia rau ăn 7 ngày mà lại dọn đi ngay trong đêm!
Vẫn cái cảnh cách đây một đêm, nghĩa là họ vẫn đọc tên, cấp bậc, chức vụ, đơn vị, ai nghe tên mình thì đứng dậy và sang bên kia ngồi. Khi họ xếp danh sách lại, thì số người còn ngồi tại chỗ chỉ khoảng hơn chục người mà hầu hết là bác sĩ quân y. Sau khi họ cho số người còn lại vào nhà ngủ tiếp, họ ra lệnh cho chúng tôi:
“Theo thứ tự từng danh sách, các anh mang tư trang ra ngoài trại theo hướng dẫn của bộ đội.”
Mỗi danh sách là một B cùng ngồi một chỗ. Họ ra lệnh tiếp:
“Các anh bày tất cả tư trang ra trước mặt để chúng tôi kiểm tra.”
Họ đi xét từng người, lục từng món. Thùng, gàu, dây kéo nước, họ quẳng xuống cái đường mương cạn trước mặt. Có mấy cái lon guigoze chẳng cần biết, họ chỉ cho để lại 1 cái còn bao nhiêu họ liệng luôn. Khi tôi thu xếp phần còn lại vào cái túi đeo lưng, tôi thấy bốn tên lính cộng sản đứng dưới mương gom lại tất cả những gì mà mấy tên lục xét liệng xuống đó. Thật là trắng trợn, đứa này lấy của mình liệng xuống, đứa kia lượm lên làm của. Lục xét xong thì đám dưới mương cũng gom đồ đạc xong. Tất cả chúng tôi nằm ngồi tại chỗ mà ngắm trăng bất đắc dĩ!
Quá nửa đêm một chút, đoàn xe Molotova già cỗi kia mới đến. Tất cả lên xe. Đoàn xe hướng về Sài Gòn. Chầm chậm. Dọc hai bên đường, lính cộng sản tay cầm súng trong tư thế chiến đấu, giống như lúc chở chúng tôi từ khu đại học xá Minh Mạng Sài Gòn lên Long Giao, rồi từ Long Giao xuống Tam Hiệp, Biên Hòa, cũng vậy. Nghĩa là chỉ có một kế hoạch an ninh dùng cho 3 lần vận chuyển chúng tôi. Chắc chắn là đám lính này giữ an ninh cho đoàn xe chúng tôi đây. Vậy là họ sợ chúng  tôi sẽ được ai đó giải thoát chăng? Nhưng chánh phủ  nói “học tập cải tạo” mà sao họ giữ chúng tôi kỹ quá? Vậy, sự thật là gì?
Đoàn xe vào lộ Hàng Xanh. Qua đường Chi Lăng. Rẽ lên đường Võ Di Nguy. Tôi theo dõi đoạn đường đi qua, nhưng chưa đoán được họ đưa chúng tôi đi đâu. Có lúc cứ tưởng là lên Ngã Năm Chuồng Chó để lên hướng Hóc Môn. Nhưng không, đoàn xe rẽ vào Tân Sơn Nhất từ đường Võ Di Nguy. Chắc là họ cố ý nên cho đoàn xe chạy vòng vèo trong khu vực Tân Sơn Nhất, để rồi cuối cùng dừng lại một trong những “cái ụ” mà ngày trước Không Quân dùng che chắn phi cơ tránh đạn và hỏa tiển của quân cộng sản.
Lúc đó là 6 giờ 30 phút sáng ngày 15/06/1976, và là ngày thứ nhất của năm thứ hai đối với tôi kể từ ngày “trình diện” họ tại khu đại học xá Minh Mạng, Sài Gòn. Họ ra lệnh:
“Tất cả các anh tập trung vào đây (vào cái ụ chứa phi cơ),  không một ai tự ý ra khỏi khu vực này.”
Tôi nhìn lên đầu tường che chắn ụ này, đầy lính cộng sản đứng bên trên, tay cầm súng cũng trong tư thế chiến đấu. Lần lượt các bạn nhìn thấy nhiều giấy gói đồ vung vải trong ụ mới suy đoán một nửa các bạn đi trước đã có mặt nơi đây. Từ đó suy đoán thêm, vậy là chúng ta sẽ đến cùng chỗ với các bạn đi trước thôi. Trong số những mảnh giấy lượm được, có mẫu giấy còn nguyên tên của anh Đại Tá Lê Ngọc Quỳnh, trước là Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 7 Công Binh Kiến Tạo ở Cần Thơ. Tôi nói với anh Lê Minh Luân (Không Quân):
“Anh Luân ơi! Tôi đoán chúng nó đưa mình ra Bắc à anh. Các bạn đi trước đã ra đó rồi, chớ nếu chúng nó giữ mình ở miền Nam thì chúng không chở bằng máy bay đâu.”
“Cầm chắc là thế rồi.”
Sau đó họ đem lương khô phân phối cho chúng tôi, mỗi khẩu phần là một mẫu bánh như bánh in bày bán ở chợ Sài Gòn để ăn trong ngày. Lương khô này do Trung Hoa cộng sản sản xuất, cứng hơn bánh in thường và rất mặn. Tôi ăn ngay một miếng vì đói quá, miếng còn lại cho vào túi áo treillis đang mặc để ăn sau. Trong thời gian ở trại Tam Hiệp, họ phát cho chúng tôi mỗi người một bộ treillis mà họ đã lấy trong các kho của ngành Quân Nhu chúng tôi.
Hai chiếc phi cơ vận tải C130 mà trước kia là của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, đang từ từ đến. Dừng hẳn lại. Bọn họ ra lệnh:
“Các anh được đi bằng máy bay, yêu cầu các anh phải tuân thủ sự chỉ dẫn sắp xếp của chúng tôi trong thời gian di chuyển. Tư trang sắp xếp gọn gàng. Vì điều kiện an ninh cần thiết, chúng tôi sẽ áp dụng một số biện pháp mà lãnh đạo chúng tôi qui định. Hành lý cho lên trước. Các anh xếp hàng đôi, và lên máy bay từng hai người một.”
Khi mọi người ngồi xong, động cơ máy bay hoạt động, cửa sau được nâng lên cũng là lúc hai tên cộng sản xách theo hai xâu còng từ khoang lái máy bay ra, mỗi đứa phụ trách một bên băng chúng tôi đang ngồi. Một tên “oắt tì” hách dịch:
“Các anh cởi đồng hồ cất vào túi. Xắn tay áo lên. Các anh làm khẩn trương  để máy bay cất cánh.”
Rồi chúng nó lần lượt còng từng anh em chúng tôi. Tôi ngồi ở cuối băng, bên trái tôi là cửa sau vừa được nâng sát lên. Bên phải tôi là anh Đại Tá Nguyễn Văn Tài, Phòng 2 Tổng Tham Mưu. Họ bảo tôi:
“Hai tay kẹp ngược vào nhau như thế này.“
Vừa nói hắn vừa thực hành để tôi làm theo. Bàn tay trái hướng về cùi chỏ tay phải, và tay phải làm ngược lại. Còng số 8 bóp vào crắc! Thế là hai tay dính vào nhau! Tôi nhìn thấy hai giọt nước mắt của anh Tài từ từ trôi xuống!
Tôi thúc nhẹ cùi chỏ phải vào hông anh và nói khẽ:
“Anh Tài, anh giấu những giọt nước mắt đi, đừng để tụi nó coi thường mình. Từ nay tôi dứt khoát tụi mình là tù của bọn nó chớ hổng phải học tập gì hết”.
Buổi sáng, ánh mặt trời hướng Đông. Tôi ngồi ngược ánh nắng, và phi cơ bay về bên trái, vậy là hướng ra miền Bắc rồi. Tôi nâng tay lên cố cho hai ngón tay vào túi áo treillis để kẹp lấy miếng bánh in lương khô còn lại, nhưng không vói tới. Thật ra tôi chưa thấy đói, nhưng muốn giữ cho thái độ không bối rối khi suy nghĩ của tôi bảo tôi là tù chính trị của cộng sản! Một tên cộng sản bước tới, gằn giọng:
“Anh làm gì thế?”
“Tôi muốn lấy lương khô ra ăn.”
Hắn mở nắp túi lấy ra đưa cho tôi, kèm theo câu :
“Các anh muốn gì thì nói chứ không được có bất cứ thái độ nào.”
Tiếng của bạn nào đó ngồi bên phải tôi một khoảng cách:
“Ta đang bay trên một vùng hoàn toàn lạ, có lẽ qua khỏi Bến Hải rồi.”
Tên cộng sản lúc nảy quát:
“Các anh không được quan sát địa hình.” 

CHƯƠNG 6  TRẠI TẬP TRUNG YÊN BÁI.
Sau hai vòng lượn, phi cơ đáp xuống một đường băng nào đó không bằng phẳng, làm phi cơ nhảy tưng tưng. Phi cơ dừng hẳn. Động cơ tắt. Lại ra lệnh:
 “Mọi người ngồi yên tại chỗ chờ mở còng.”
Ấy vậy mà khi xuống phi cơ có một anh (tôi quên tên) vẫn còn cái còng trong tay. Mãi khi những chiếc Molotova lệt bệt tới, họ mới tìm được cái chìa khóa mở còng. Tôi lượm được sợi dây ni-lông dùng cột lạp xưởng:
“Đúng là mình đến cùng địa điểm với các anh đi trước rồi, sợi dây này  đủ chứng minh điều đó.”
“Trên đất Bắc, nhất là ở cái phi trường đèo heo gió hú này làm gì có lạp xưởng.”
Tôi trông thấy 2 chiếc phản lực cơ Mig họ giấu trong rừng chồi bên ngoài phi trường một khoảng cách, đúng là 2 chiếc này tôi đã trông thấy trên một tấm không ảnh hồi cuối năm 1974 do Phòng 2 Tổng Tham Mưu cho xem. Tôi quay sang các bạn:
“Các anh ơi! Chắc chắn là chúng mình đang ở vùng núi trên đất Bắc rồi, vì 2 chiếc Mig này tôi thấy trong không ảnh nhưng không nhớ chính xác nơi đây.”
Anh Luân nói:
“Tôi là dân Bắc Kỳ chính cống mà cũng chịu. Không biết đây là đâu nữa, vì mấy cây gồi này không nói lên được điều gì hết.”
Mỗi xe 20 người cùng với mớ hành lý ít ỏi. Tất cả ngồi trên đống tài sản của mình vì chỉ có sàn xe chớ không có băng ngồi. Tôi ngồi khoảng giữa xe. Ngoài tên lính cộng sản tài xế, còn có một tên ngồi cạnh, và hai tên nữa ngồi trên tấm bửng xe, một tay vịn mui xe một tay cầm súng hướng vào trong xe. Mui và hai bên hông xe phủ kín mít bằng “tấm bạt”, chỉ còn thấy một mảng trời xanh nho nhỏ xa xa, qua khoảng trống giữa hai tên lính cộng sản ngồi trên bửng sau. Tôi nhìn qua nhìn lại trong cái khoảng không gian bé xíu chỉ là do tò mò chớ thật ra có biết đây là nơi nào đâu. Ấy vậy mà bị một tên quát:
“Anh kia, không được quan sát địa hình.”
“Tôi nhìn ra trước mặt tôi mà.”
“Anh không được lý luận.”
Tôi vừa cười vừa nhìn sang anh  Luân, cũng bị quát:
“Tại sao anh cười?”
“Anh đâu có cấm tôi cười.” 
Hắn quát to: “Im.” 
Nghĩ sao không biết, đôi mắt hắn xoáy vào tôi, gằn giọng:
“Bọn ngoan cố.”
Gần như đám cộng sản này từ cấp lớn xuống đến cấp bé, khi thấy đuối lý thì phun ra hai chữngoan cố để bịt miệng kẻ thù trước mặt.
Anh Luân nói khẽ:
“Nói với mấy thằng chó đẻ này làm mẹ gì cho thêm tức.”
Đoàn xe dừng lại. Chúng tôi từng hai người một,  xuống xe. Bên tay phải là thị xã Yên Bái nhưng phút chốc bị che khuất bởi một đám đàn bà và đám “oắt tì” (con nít) kéo đến với thái độ sừng sỏ. Miệng hét tay xỉa xói vào nhóm chúng tôi đang chầm chậm xuống bờ sông để lên phà. Họ đứng cách chúng tôi khoảng chục thước, cùng lúc đến mấy chục cái miệng oan oác:
“Đồ bán nước. Giết hết chúng nó đi.”
“Đồ ăn thịt con nít. Đem bắn hết đi.”
“Bọn giặc lái giết người. Cho nó rục xương trong rừng đi.”
Đám lính cộng sản áp tải chúng tôi có vẻ hài lòng với nụ cười của tụi nó khi thấy đám phụ nữ và trẻ con sỉ vả chúng tôi. Chúng tôi im lặng. Lên phà. Cho dẫu mỗi chúng tôi có suy nghĩ gì đi nữa, tôi nghĩ, cũng đều ngỡ ngàng qua “cú sốc” đầu tiên kể từ ngày thua trận! Nhưng ngay bước đầu trên đất xã hội chủ nghĩa 20 năm, sự kiện vừa qua chứng tỏ cộng sản đã nhồi nhét trong đầu người dân từ bé đến lớn một lòng căm thù chúng tôi không thể nào tưởng tượng đến như vậy. Họ nói chúng tôi ăn thịt con nít! Điều này làm tôi nhớ lại câu hỏi của một tên cộng sản mà anh Nguyễn Kim Sơn giới thiệu là cán bộ, khi anh hướng dẫn đến nhà tôi phỏng vấn có thu hình vào những ngày đầu tháng 5 năm 1975. Hắn hỏi tôi:    
“Anh là Đại Tá, chắc anh giết nhiều con nít lắm mới được quân hàm đó phải không?”
Rõ ràng là từ trong quân ra đến dân và từ già đến trẻ trên cái đất xã hội chủ nghĩa này, chỉ có một cách hiểu một cách nói mà thôi! 
Tiếng anh bạn bên cạnh kéo tôi lại thực tế:
“Đây là phà Ô Lâu trên thượng nguồn Sông Hồng. Ngày trước tôi có qua phà này khi tham gia trận đánh Nghĩa Lộ. Vậy là tụi nó đưa mình vô cánh rừng già phía Nam Yên Bái rồi.”
Phà Ô Lâu, chỉ là chiếc xà-lan có chiếc tàu kéo cặp bên hông đẩy đi. Nó không giống bất cứ chiếc phà nào ở Mỹ Thuận hay  Cần Thơ cả. Cũ kỹ già nua mà lỗi thời nữa. Sông Hồng Hà mà tôi học trong sách “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” từ cuối những năm 30,  bây giờ mới trông thấy, nhưng là trông thấy trong một tình cảnh hoàn toàn ngoài ý muốn.
Phà vừa cặp bến, anh Vũ Tiến Phúc (Đại Tá Pháo Binh) xin đi cầu (đại tiện) vì đau bụng chịu không nỗi nữa. Tụi nó không cho. Mãi đến khi thấy anh Phúc nắm cái quần đi tới đi lui với dáng vẻ iquýnh quáng vì  phân bón xã hội chủ nghĩa ưu việt sắp … ra quần, chúng nó mới cho anh chui vô rừng giải quyết.
Sang bên kia, đoàn xe lại lăn bánh trên đường liên tỉnh 37. Cuối đường này nối vào đường liên tỉnh 32 đến Nghĩa Lộ, tiếp tục theo hướng tây bắc sẽ đến Lai Châu. Lại có một đám đàn bà con nít “dàn chào” nữa. Họ đứng một bên đường, ném đá vào xe trúng tấm bạt nghe lịch bịch. Khi xe qua khỏi, tôi thấy mấy cái miệng nhóp nhép lia lịa. Họ chửi họ nghe luôn chớ chúng tôi có nghe gì đâu. Nghĩ đến con người trong cái xã hội chủ nghĩa này mà tức cười, nhưng không dám cười. Cười là bị quát mà. Họ chẳng khác những cái máy cát-xét, thu thế nào phát ra thế ấy! 
Khoảng 12 giờ trưa, đoàn xe dừng lại một ngã ba đường đất đá. Nhìn thấy căn trại chỉ là mấy cái nhà ọp ẹp xa xa, có lẽ cũng cả cây số chớ không ít. Ngay ngày đầu tiên trên đất Bắc, chúng tôi phải đội cái nắng oi bức của mùa hè khắc nghiệt so với cái nắng hiền hòa trong Nam. Mọi người tay xách nách mang, mồ hôi nhuễ nhoại. Trông thấy mấy anh mập quá kích thước, mang xách lỉnh kỉnh vừa đi vừa thở một cách nặng nhọc mà áy náy, nhưng giờ phút này có ai tiếp được ai đâu! Nhiều anh phải cả tiếng đồng hồ sau mới lê thê lếch thếch đến trại! Khu vực này ở nam tây nam thị xã Yên Bái khoảng 6 cây số.
Trại nhà ngói.
Ở đây gọi là “trại nhà ngói”. Trại này có một dãy nhà duy nhất lợp ngói. Dài khoảng 20 thước và 6 thước ngang. Nối dài là một dãy nhà tranh dài khoảng 10 thước. Xéo về bên trái là hai dãy nhà tranh đâu lưng nhau, cũng dài khoảng ấy. Trước mặt dãy phía sau là cái nhà bếp với 4 cái chảo lớn. Ngoài cổng vào có cái chuồng bò cũ, đã có một số anh đến trước ở trong đó. Hơn 300 Đại Tá thua trận, chen chúc nhau trong mấy dãy nhà này, thì liệu cái cõi không gian bé tí của mỗi chúng tôi được bao nhiêu? Hơn 20 anh em trong số chúng tôi vừa đến -tôi trong số này- ở ngoài sân. Nói cho đúng là ở ngoài rừng. Chúng tôi chọn ở cuối dãy nhà tranh, đạp cỏ cho rạp xuống rồi để đồ đạc lên, những gì có quai máng thì máng lên nhánh cây rừng.
Anh Nguyễn Ngọc Điệp đến đây trong chuyến trước. Anh cho tôi chén cơm độn bắp. Anh nói là chén cơm này anh để dành từ hôm qua, sáng một nửa chiều một nửa để làm phần điểm tâm sáng hôm nay. Khi nghe bọn nó nói là chúng tôi sắp đến nên anh nhịn ăn dành lại cho tôi! Thật lòng mà nói, bưng chén cơm mà nước mắt rưng rưng, bởi … tôi đang đói!
Họ bảo chúng tôi tập trung ra sân và tổ chức mà họ gọi là “biên chế”  thành từng Tổ. Mỗi Tổ 20 người, do một sĩ quan làm “quản giáo”. Tên Trung Úy phó trại trưởng, sau khi tổ chức xong, hắn phun ra bài học đầu tiên:
“Các anh là những người theo chân đế quốc, bóc lột nhân dân, đó là tội chết. Nhưng đảng với nhà nước khoan hồng, không giết, lại cho các anh tập trung để chúng tôi dạy dỗ các anh biết lao động, biết làm ăn lương thiện mà nuôi vợ nuôi con. Chúng tôi được đảng với nhà nước giao trách nhiệm dạy dỗ các anh. Chúng tôi là thầy của các anh, là cha mẹ của các anh …”
Nghe đến đây tôi cảm thấy lùng bùng lỗ tai. Cạnh tôi, anh Dương Hiếu Nghĩa (Đại Tá Thiết Giáp) nói khẽ:
“Thằng chó đẻ này ngạo mạn quá!”
Tôi hỏi: “Anh biết nó tên gì không?” Anh Nghĩa đến đây trong đợt trước.
“Không. Mà chi vậy?”
“Trái đất tròn mà anh.”   
Hắn lại phun tiếp:
“Tất cả các anh phải ký gởi cho trại tất cả tư trang quí như: Đồng hồ, dây chuyền, nhẫn, tiền. Còn quần áo tư (không do trại phát) phải cột lại đem gởi vào kho. Ngay chiều nay, các anh phải thực hiện điều này. Về cách xưng hô, các anh gọi các chiến sĩ là bộ đội, còn sĩ quan phải gọi là cán bộ. Khi muốn báo cáo điều gì, phải đứng xa 6 mét (thước).”
Một anh đứng lên nêu câu hỏi:
“Thưa cán bộ, làm sao chúng tôi phân biệt được bộ đội với cán bộ?”
Ngưng một lúc, hắn đáp: “Dần dần các anh sẽ biết.”
Áo quần của tôi cho vào cái túi đeo lưng, cột chặt lại đem bỏ vào kho. Áo quần do trại phát thì quấn vào cái khăn rằn, kẹp thêm cái gối nhỏ tôi mang theo từ nhà làm  gối nằm. Phần gọi là ký gởi ở bộ chỉ huy trại là cái đồng hồ đeo tay và 35 đồng. Trong số này có 10 đồng mà vợ tôi bảo cứ mang theo, nhỡ họ có đưa ra Bắc có mà xài. Sự thể đúng như linh tính của vợ tôi.     
Bữa ăn chiều là một chén cơm độn bắp thoạt trông cứ như cơm đậu xanh cà, với một muỗng mắm xềng xệch giống như muỗng nước vừa múc từ trong hũ mắm cá trèn hay cá sặc ra vậy. 
Đêm xuống. Tôi nằm trên thảm cỏ rừng dưới bầu trời sao, nhiều sương, ít gió! Vừa nhìn bầu trời vừa nhớ lại lời lẽ của tên cán bộ hồi chiều, dẫn tôi trở lại những ngày bị thẩm vấn gần như tôi đôi co cãi lý thẳng thừng với bọn họ. Bây giờ nghĩ lại, thấy mình chưa hẳn như “người điếc không sợ súng”, nhưng quả tình là ngồi ngay miệng cọp mà không biết sợ cọp. Có lẽ do lúc ấy họ chưa phân định cách xưng hô, cũng chưa gạch hẳn một khoảng cách như cái tên phó trại này vừa gạch hồi chiều, trong khi tôi chưa cảm thấy mình là người tù chính trị, nên vừa trả lời vừa có ý phản công lại họ. Nghĩ cho cùng, thế mà hay. Hay ở điểm mình “dại khờ” về bản chất dối trá  của chủ nghĩa cộng sản nên trong tư thế bị thẩm vấn nhưng đôi lúc cũng vùng lên phản công được. Giờ thì khẳng định mình trong tay họ rồi, không điếc nữa nhưng nhất thiết phải giữ cái thế của người tù chính trị hoàn toàn đối nghịch với chúng. Miên man một lúc cũng thiếp đi trong giấc ngủ dưới bầu trời đầy sao giữa rừng già trên đất Bắc!
Tiếng kẻng vang dội giữa rừng già tây bắc Hà Nội, lôi mọi người ra khỏi chỗ nằm. Chiếc chiếu tôi nằm, phía dưới ướt đẫm, thấm cả lưng nữa. Tất cả tôi trải ra phơi tại chỗ, nếu không, tối đến không thể nằm được.
Anh Điệp lại cho tôi nửa chén cơm độn bắp với vài hột muối. Tất cả chúng tôi bị lùa lên núi đốn cây rừng cây chổm về cất căn trại. Gỗ rừng làm cột, kèo, đòn tay, phần còn lại đều dùng cây chổm làm lá lợp nhà, làm vách, làm vạt nằm. “Cây chổm” giống như cây nứa miền Nam, nhưng thân dầy một chút. Cưa từng khúc dài 1.20 thước, đập giập rồi chẻ ra trải dài làm lá lợp nhà. Lợp xong, nằm nhìn lên thấy mây bay gió thổi với trăng sao nhưng nước mưa lọt xuống rất ít. Kể cũng lạ. Cũng cây chổm làm vạt giường nằm, mỗi cử động đầu này thì đầu kia nghe trọn vẹn âm thanh. Mãi rồi cũng quen. Một tuần sau, 20 anh em chúng tôi dọn vào bên trong dãy nhà vừa cất xong, không bị cái cảnh ban đêm nằm ngắm sao trời bất đắc dĩ nữa.
Cơn bệnh tưởng chết.
Đúng một tháng sau ngày đặt chân lên đất Bắc, tôi bị đau với cơn nóng liên tục ngày đêm. Ngay trước đó tôi rất khỏe. Lên núi đốn cây làm cột nhà, vác nó từ trên núi về trại trên quảng đường dài hằng bảy tám cây số. Cất nhà xong họ bắt đào giếng. Nền giếng là loại đất từa tựa như than bùn, màu xám đậm, nhưng óng ánh dưới nắng trưa. Đặc biệt khi đào sâu xuống thì mùi càng nồng nặc rất ư là ngột ngạt bốc lên khá mạnh, giống như có sức đẩy từ bên dưới vậy. Chẳng biết có phải vì cái mùi đó mà tôi bị bệnh hay không, nhưng có điều là ngày hôm sau, các bạn trong toán đào giếng với tôi lần lượt kẻ trước người sau nằm la liệt, mà tôi là nặng nhất. Nặng đến mức không thể tự mình đi tiểu được nữa mặc dầu cầu tiêu chỉ cách nhà tranh đang ở khoảng 20 thước. Mỗi lần như vậy, tôi nhờ hai bạn xốc nách dìu tôi đi, nhưng cũng phải ngồi lại đến 2 lần mới đến nơi được. Anh Điệp và anh Nghĩa (Dương Hiếu) cũng bệnh nhưng nhẹ hơn tôi nhiều, hai anh luân phiên nấu cho tôi chén cháo bằng nhúm gạo với nhúm bắp lén xin các bạn nhà bếp. Nhưng chỉ húp được vài muỗng mỗi lần.
Trong tình trạng như vậy cho đến ngày thứ 10, anh Nguyễn Văn Hướng (Đại Tá, Quân Đoàn 3) hỏi tôi:
“Anh Hoa. Anh có thuốc Tifomycine không?”
“Có.” Tôi trả lời rất yếu, yếu đến mức anh Hướng phải kề tai sát miệng tôi mới nghe được. Lúc ấy tôi không còn đủ lực để đẩy âm thanh ra ngoài miệng nữa!
Anh Hướng kề  miệng sát tai tôi:
“Anh cứ uống đại 10 viên trong một ngày xem sao. Tôi đã một lần liều mạng uống như vậy và tôi hết bệnh. Có thể là anh bị bệnh thương hàn đó.”
Tôi nhờ anh Nghĩa đỡ đầu tôi dậy, anh Nguyễn Trọng Luật (Đại Tá, Tỉnh Trưởng Darlac) kéo cái gọi là cái gối ra, mở bên trong tìm giùm ống thuốc. Anh Điệp múc cho tôi chút nước cơm sôi và cho tôi uống thuốc. Uống năm lần trong ngày, mỗi lần 2 viên. Trước khi cho tôi uống thuốc, anh Điệp cố ngăn tôi đừng uống quá liều nguy hiểm lắm. Nhưng lúc ấy tôi không nghĩ là sống được, cứ thà liều may ra. Thế rồi đêm đó tôi ngủ được.
Sáng ra, tôi cảm thấy cơn nóng gần như không còn, trong người sảng khoái, không mệt mỏi như những ngày trước. Tôi thử lần từng bước sang nhà bếp, xin anh bạn cho chút nước cơm để uống với miếng đường tán còn lại do vợ tôi gởi cho hồi Tết. Trời đất ơi! Nếu như nước cam lồ làm cho người uống trở nên tỉnh táo khỏe mạnh thì quả thật chén nước cơm với đường đã cho tôi cảm giác kỳ diệu đó. Trưa hôm ấy, tôi ăn chén cơm độn bắp với những cọng măng cây chổm phơi khô luộc chín, chấm vào muỗng mắm tôm quậy nát, nó ngon không thể tưởng được. Tôi không nhớ rõ những bạn nào vì có đến mấy bạn góp chung lại cho tôi được gần chén cơm độn bắp nữa, tôi ăn hết và ăn thật ngon. Ngày kế tiếp tôi uống 8 viên trong 4 lần. Ngày kế tiếp nữa, tôi uống 6 viên trong 3 lần. Và tôi bình phục.
Khi viết lại những dòng này, vợ chồng tôi rất chân thành cám ơn các bạn đã giúp tôi trong cơn kiệt sức ấy. Chính các bạn đã góp phần giúp tôi tồn tại trong cuộc sống hôm nay.  
Trở lại cơn bệnh. Trong trại không có một bác sĩ hay một y tá nào của cộng sản cả. Chúng tôi có đau thì tự mà lo lấy. Chết thì họ đem chôn ở đâu đó cũng không ai biết! Lính của họ cứ chết đâu chôn đó thì tù chính trị chúng tôi có nghĩa gì!
Anh Nghĩa nói với tôi trong nụ cười:
“Tụi tôi không tin anh sống được.Nhưng mà con người có số mệnh, tụi nó bỏ cho mình chết nhưng tụi mình vẫn cứ sống. Anh không chết trong trận đau này thì anh sẽ không bao giờ chết trong tù đâu. Yên tâm.”
Tôi siết tay anh trong niềm vui vừa vượt qua cái chết:
“Chính tôi cũng không tin là tôi sống được khi tôi cảm thấy mất hết sinh lực, thậm chí đến khả năng phát âm cũng không còn.”
(Năm 2005, anh Dương Hiếu Nghĩa vào chùa tu. Thời gian đầu ở Nam California, sau đó chuyển sang Houston)
Lên rừng lấy củi.
Tuần sau đó, Tổ chúng tôi chuyển sang công tác lấy củi. Củi là loại cây bồ đề trên đỉnh núi chớ không phải loại bồ đề trồng ở sân chùa trong miền Nam. Cây này trồng chớ không phải mọc tự nhiên, họ giải thích cây bồ đề là nguyên liệu làm giấy. Lúc trồng phải trồng với mật độ dày, khi lớn lên ngành lâm nghiệp đốn bớt những cây không đủ tiêu chuẩn phát triển, và đó là những cây chúng tôi tìm vác về trại làm củi. Cứ sáng sớm, sau khi lót dạ bằng nửa chén cơm độn bắp dành lại từ chiều qua, xuống nhà bếp xin lon guigoze nước nấu chín, cả Tổ kéo nhau lên núi. Ngày nào cũng vậy, tên quản giáo và tên võ trang dắt chúng tôi đến chân núi ở khoảng cách thường là từ 6 cây số trở lên, rồi ra lệnh:
“Các anh mỗi người vác một bó ít nhất là 6 cây, mỗi cây  dài ít nhất là 5 mét. Nếu buổi sáng vác đủ chỉ tiêu,  buổi chiều nghỉ. Nếu không thì chiều đi nữa.”
Chúng nó thả chúng tôi lên núi nhưng đâu sợ chúng tôi trốn, vì rừng núi ở mạn nam sông Hồng này mênh mông trùng trùng điệp điệp và hoàn toàn xa lạ với chúng tôi, biết đường đâu mà trốn. Với lại nghe chúng nó nói là người dân quanh vùng này được lệnh bắt nếu chúng tôi trốn trại hay họ nghi ngờ chúng tôi có ý trốn trại.
Những vùng núi trồng cầy bồ đề do các Lâm Trường quản trị, có thể do sự thỏa thuận giữa trại với bên Lâm Trường, nên bọn quản giáo bảo chúng tôi leo lên các ngọn núi bồ đề, cứ thấy cây nào đã bị đốn ngã và khô thì vác về. Thông thường những cây này dài từ 5 thước trở lên, đường kính ở gốc cũng bằng cổ chân. Những cây bồ đề nằm rải rác đó đây trên đỉnh núi, sườn núi, và cả dưới thung lũng nữa. Trong thời gian lên núi lấy củi bồ đề, trung bình mỗi ngày  đi bộ trên dưới 15 cây số kể cả khoảng 4 cây số trên núi. Những anh bị tim như anh Cao Văn Ủy (Đại Tá Biệt Động Quân), anh Võ Hữu Hạnh (Đại Tá Bộ Binh), không thể vác bó củi theo chỉ tiêu bọn họ bắt buộc. Anh em tiếp tay bằng cách mỗi người cố gắng nhận giúp 1 cây, dù rằng anh nào cũng ướt đẫm mồ hôi, mặt vừa xanh vừa đỏ vì mệt dưới cái nắng oi bức của mùa hè đầu tiên trên đất Bắc khắc nghiệt! Trên núi cao, khi cơn nắng “nổ đom đóm mắt” thì cơn khát bắt đầu hành hạ ghê gớm lắm. Trong lon guigoze nước phải cho vào một ít muối để giữ mồ hôi, vì lượng mồ hôi ra nhiều quá có thể ngất xỉu. Những lúc khát quá, anh em chúng tôi cứ lội ra giữa dòng suối, úp mặt xuống dòng nước màu nâu sậm của lá rừng ngập dầy bên dưới mà uống, dù biết rằng nước suối giữa rừng già là mầm bệnh kiết lỵ và sốt rét. Từ trại Tam Hiệp, Biên Hòa, tôi mang theo 50 viên Vitamine C, tôi đã ngậm hết từ vài tuần nay.  Thuốc ngừa sốt rét do vợ tôi gởi trong gói quà hồi Tết lúc ở trại Tam Hiệp, vẫn còn nhiều nên tôi vẫn uống hằng tuần.
Ngạc nhiên thứ nhất.
Một buổi chiếu, khi về ngang dòng suối cạn còn cách trại hơn cây số, anh em chúng tôi dừng lại giữa suối rửa tay chân mặt mũi. Cùng đứng giữa dòng suối cạn với chúng tôi là hai ông già rửa xe đạp, trong khi tiếng loa phóng thanh từ khu cư xá Lâm Trường trên sườn đồi, oang oang tiếng người xướng ngôn loan tin về vụ mùa thắng lợ” ở Hà Nam Ninh. Một trong hai ông già, vừa rửa xe vừa chửi đổng:
“Bố tiên sư nó, vụ nào cũng thắng lợi mà năm nào dân cũng đói. Nói khoét mãi mà không ngượng!”
Tôi ngẫng lên nhìn ông ta để đánh giá câu chửi của ông có phải là thật không. Ông ta cũng nhìn tôi kèm theo nụ cười héo hắt. Thấy thế tôi hỏi ông: “Có thật vậy không ông?”
Ông ta đáp ngay:
“Các anh sống trong Nam, các anh chưa hiểu được họ đâu. Tôi khuyên các anh hãy hiểu ngược lại lời họ nói thì đúng sự thật.”
Cả hai ông đẩy xe đạp lên bờ, đạp tiếp. Tôi khều anh Thống:
“Anh có đồng ý với tôi rằng hai ông già này là người dân dưới chế độ cộng sản nhưng không phải cộng sản?”
“Đúng. Tôi càng tin chắc là trong dân chúng cũng nhiều người như vậy chứ không ít đâu.”
“Tôi nghe nói vùng này là vùng họ chỉ định cư trú số anh em quân nhân viên chức bị kẹt lại hồi năm 1954, có thể do vậy mà họ có cảm tình với mình, nên mình chưa thể đánh giá người dân ở vùng khác cũng như người dân vùng này đâu anh.”
Lại giọng quát của thằng võ trang: “Các anh khẩn trương đi về.”
Bạn tôi trốn trại.
Trong thời gian chúng tôi lên núi tìm củi, có 4 anh trốn trại. Chuyện như thế này: Hôm ấy có 2 Tổ đi đốn cây chổm cách trại khoảng 8 cây số, về một hướng khác với hướng chúng tôi. Đến chiều trở về thì thiếu 4 anh: Anh Nguyễn Phương Thành (Đại Tá, Sư Đoàn 7 Bộ Binh). Anh Võ Quế (Đại Tá Không Quân). Anh Đỗ Trọng Huề (Đại Tá Hành Chánh Tài Chánh). Và anh Nguyễn Văn Thi (Đại Tá Pháo Binh).
Tối đến, bọn cộng sản chia nhau rình rập các dãy nhà xem tù chính trị bàn tán những gì may ra từ đó chúng nó có thể tìm ra manh mối các anh ấy. Nghĩ vậy nên anh em chúng tôi rất thận trọng. Tôi chui sang nằm sát cạnh anh Nghĩa và anh Nguyễn Xuân Dung (Đại Tá Thiết Giáp) để bàn luận chung quanh việc các anh trốn trại. Tôi hỏi:
“Anh Nghĩa. Anh có nghĩ là các anh ấy có thật sự trốn trại hay bị tai nạn như rắn cắn, trăn quấn, lọt hố sâu, hay bị cọp tha không?”
“Tôi cho là mấy ảnh trốn thật vì trong nhóm đó có anh Huề giỏi tướng số tử vi lắm. Mấy tuần nay mấy ảnh đẩy xe cải tiến ra Sông Hồng lấy cát, rất có thể mấy ảnh móc nối được với dân ngoài đó để tổ chức trốn trại. Chớ tai nạn thì đâu đến nỗi một lúc bị đến bốn anh.”
“Cầu xin các anh ấy trốn thoát để có được tiếng nói của mình ra bên ngoài, chớ cái kiểu họ giấu tụi mình trong tận cánh rừng già heo hút này chỉ có Trời mới biết thôi.”
Anh Nguyễn Văn Của (Đại Tá Thiết Giáp, bạn cùng khóa với tôi) chen vào:
“Trong nhóm có thằng Thành ngon lắm. Nó rất xông xáo, có thể thoát được.”
“Anh Nghĩa. Anh có biết là trong toán lấy cát có anh Lại Đức Chuẩn (Đại Tá, Bộ Tổng Tham Mưu) đã lén tiếp xúc được với bà con của ảnh không?” Tôi hỏi.
“Có. Tôi có nghe.”
“Nếu được giúp đỡ của người địa phương thì mức độ hy vọng trốn thoát cao hơn anh à! Biết đâu người mà anh nghĩ có thể đã móc nối là đây chăng?”
“Không đoán nỗi.”
Và rồi 4 ngày sau. Trong lúc Tổ chúng tôi đang ngồi trên mái nhà của bộ chỉ huy trại để kéo vĩ tre lên giằng mái tranh. Tôi chợt thấy từ xa và khều nhẹ anh Luân:
“Trời ơi! Anh đi đầu giống anh Võ Quế quá Luân ơi!”
Anh Quế với anh Luân cùng phục vụ trong quân chủng Không Quân, nhưng anh Luân biệt phái sang Tổng Cục Tiếp Vận, phụ trách chuyển vận hàng không quân sự.
“Đúng. Vậy là mấy anh em mình bị bắt rồi.”
“Sao có ba anh hà. Còn một anh nữa đâu?”
“Chúng nó nhìn mình kìa. Làm đi.”
Một lúc sau, bọn chúng dắt cả ba anh vào trong sân căn nhà bộ chỉ huy trại, trong khi Tổ chúng tôi làm xong trên mái nhà. Tất cả tuột xuống và đem vật dụng còn lại vào kho. Tôi cố ý đi sát lại anh Võ Quế:
“Anh Thành đâu anh Quế?”
“Nó bị nhốt riêng rồi.”
Đến tối, chúng nó dắt ba anh lên Liên Trại, chắc là nhốt các anh trên đó. Sáng hôm sau, thay vì đưa Tổ chúng tôi lên núi, bọn họ dắt chúng tôi vòng ra triền núi bên kia dãy nhà ngói, để đào đất:
“Các anh đào 3 cái hầm sâu vào trong núi theo kích thước sau đây: Mỗi hầm ngang 1 mét, sâu vào 2 mét. Cách 1 mét thì đào hầm thứ hai, rồi hầm thứ ba cũng khoảng cách đó. Lòng hầm ngang 1 mét,  dành 0.6 mét làm chỗ nằm, còn 0.4 mét kia tiếp tục đào xuống 0.5 mét là thành cái giường nằm.”
Chúng ra lệnh, nhưng lúc nào cũng đứng bên cạnh thúc hối đào cho nhanh. Đào xong, bọn họ dắt chúng tôi lên núi đốn cây lót làm trần bên trên, rồi đổ đất lên như triền núi lúc chưa đào. Cánh cửa làm bằng cây chổm, có khóa. Cái gọi là “giường nằm”, chỉ là đất sét ướt, ngang 0.6 mét x dài 2.0 mét x cao 0.5 mét. Tôi không rõ là chúng nó có cho các anh trải chiếu hay lót cái gì đó để tránh lưng bị lạnh không, chỉ biết là khi làm xong vào lúc hoàng hôn thì bọn họ dắt ba anh vào nhốt trong hầm này! Rồi mùa Đông, liệu các anh có chịu nỗi không? Tuy tôi chưa biết mùa Đông nơi đây ra sao, nhưng nghe người dân vùng này mô tả hãi hùng lắm.
Đêm nằm nghĩ lại, mỉa mai quá! Mình đào hầm để nhốt bạn mình! Nhưng nghĩ cho cùng, không đào cũng không được với chúng nó. Và qua đó, chúng tôi nhận thức rõ thêm về cách của chúng đối xử với tù chính trị chúng tôi!
“Liệu quốc tế làm cách nào để hiểu được mức độ tàn bạo nghiệt ngã của cộng sản Việt Nam?”  
Vài hôm sau, chúng tôi nghe mấy thằng võ trang nói với nhau là anh Nguyễn Phương Thành đã tự tử trong hầm giam ở Liên Trại. Lại mấy ngày sau nữa, chúng tôi mới biết là anh Thành đã chết thật sự, nhưng không rõ là anh ấy bị chúng nó giết hay là anh tự tử. Anh Nguyễn Phương Thành, một Trung Đoàn Trưởng rất can đảm của Sư Đoàn 7 Bộ Binh.            
Người Mỹ Tên Nam.
Tổ chúng tôi lại đi hái trà gần khu vực Liên Trại 1. Nơi đây có cái máy phát điện với năng suất chỉ đủ cho khu vực bộ chỉ huy và các trại lân cận với những áng sáng vàng vọt. Phụ trách kỹ thuật là một người Hoa Kỳ. Nếu nhìn từ sau lưng thì vóc dáng anh ta chẳng khác gì người Việt Nam bao nhiêu. Tù chính trị không được đến gần anh ta. Trong gian nhà tranh của anh ta bên kia đường nhìn từ đồi trà, có một phụ nữ và một bé gái khoảng 2 tuổi (năm 1976), có lẽ là vợ và con anh ta. Nhân lúc gạ chuyện với mấy tên bộ đội phụ trách điều hành nhà máy xay lúa mà họ gọi là máy xay xát, và phụ trách an ninh máy phát điện, mới biết thêm tin tức nhưng không rõ sự thật ra sao. Theo đó , anh ta là Trung Úy Biệt Kích Hoa Kỳ (mũ nồi xanh), đã lái xe Jeep băng qua cầu Bến Hải đầu hàng quân cộng sản tại đó. Anh ta lấy tên là Nam, nên gọi là anh Nam. Khi Đoàn 776 thành lập cách nay vài tháng, anh Nam này mới chuyển đến đây làm việc. Lương mỗi tháng 75 đồng. Nghe nói anh ta nói được chút ít tiếng Việt. Nhưng anh em chúng tôi chưa dám tin, vì chỉ riêng cái hành động một sĩ quan Hoa Kỳ lái xe băng qua bên kia cầu Bến Hải mà vẫn còn sống, quả thật là khó tin. 
Có những lúc anh ta như muốn tiếp xúc với chúng tôi, nhưng trong những lần gặp thì anh ta không bao giờ đứng một mình, ít nhất bên cạnh cũng có người đàn bà có vẻ như vợ anh ta. Một hôm, nhân lúc hái trà xong và trên đường về trại, trông thấy anh ta đi sau một tên bộ đội, tôi cố lướt lên với hy vọng nói được với anh ta vài câu, nhưng tên bộ đội bất chợt quay lại trông thấy, hắn liền dừng lại rồi đi ngang với anh ta. Lỡ bộ, nhóm chúng tôi đi với tốc độ nhanh hơn và qua mặt anh ta luôn.
Một dịp khác, khi đang làm cỏ ở lưng chừng đồi trà, tôi trông thấy anh chàng Mỹ tên Nam lửng thửng từ chân đồi đi lên, tôi bước vội xuống thì một tên bộ đội bên kia đường trông thấy, hắn nhanh chân băng qua đường theo sát anh ta. Tôi quay lên đồi, không ngờ lại gặp anh chàng khật khùng “tùy viên của Thiếu Tướng Nguyễn Huệ” lúc ở trại tập trung Tam Hiệp, từ bên kia triền đồi qua khu vực chúng tôi. Vẫn nụ cười mà thật sự không rõ là anh ta cười với ai. Có lẽ cộng sản cũng xếp anh ta vào loại tù chính trị nguy hiểm như chúng tôi hay sao mà đưa anh ta từ trại Tam Hiệp, Biên Hòa, ra đây nữa.
Chuyển trại.
Tháng 09/1976, tất cả tù chính trị cấp Đại Tá được lệnh chuyển từ “trại nhà ngói” này đến một trại có tên là “Trại Cốc” nằm sâu trong một thung lũng, cách trại này khoảng 4 cây số. Thế là chúng tôi gồng gánh mang vác đi bộ thành một đoàn dài ngoằng, và nhiều anh gần như chỉ nhấc nỗi từng bước chân! Trên đoạn đường đầy người gồng gánh đó, tôi gặp anh Đại Úy Nguyễn Ngọc Chươu cũng dọn trại nhưng ngược chiều. Trong những năm 1956-1958, chúng tôi cùng phục vụ ở Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 35 Sư Đoàn 12 Khinh Chiến ở Catecka, Pleiku, rồi chuyển lên Kontum. Chúng tôi chỉ ôm nhau rồi chia tay ngay, để theo kịp các bạn!
 “Trại Cốc”, gồm khu nhà của bộ chỉ huy trại trên sườn đồi bên kia dòng suối nhỏ. Phần nhà cho hơn 300 Đại Tá chỉ có hai gian nhà tranh cấu trúc như chữ L, dưới chân đồi bên này dòng suối. Dòng suối nhỏ này là nguồn cung cấp nước duy nhất cho chúng tôi và đơn vị quân đội cộng sản canh giữ chúng tôi. Nếu so sánh thì chúng tôi ở trại này chật hơn trại nhà ngói, nhưng có phần sạch và thoáng hơn trại nhà ngói, nhất là có dòng nước thoạt xem là tốt.
Đêm đầu tiên tôi bị đau bụng dữ dội. Không thể nào chịu đựng được tới sáng nên  nửa đêm phải đi tiêu. Với cái đất Bắc xã hội chủ nghĩa này không nói là đi tiêu hay đi cầu, mà nói là “đi ỉa”. Khổ nỗi là cái cầu tiêu họ làm bên kia triền đồi, hoàn toàn vắng vẻ. Vừa ôm bụng vừa bấm bụng mà lần mò trong đêm tối. Vừa bước ra khỏi nhà trại phải báo cáo theo nội qui của họ:
“Báo cáo bộ đội, tôi đi ỉa.”
Tối thui tối mịt. Chẳng cần thấy ai nhưng vẫn cứ báo cáo như vậy. Cứ từng bước khập khễnh theo sự thúc giục của “tào tháo” trong khi trống ngực đánh liên hồi vì rừng vắng giữa đêm khuya. Ngồi lên hai thanh cây rừng làm cái việc “sản xuất phân bón ưu việt xã hội chủ nghĩa”, trong khi mắt láo liên dù chỉ thấy lờ mờ chung quanh, tai lắng nghe khu rừng bên kia nhỡ có tiếng xào xạc nặng nề của cọp của beo còn chạy cho kịp. Bỗng có tiếng bước chân chầm chậm, tôi lên tiếng ngay:
“Có tôi đây.” Tôi nói khá lớn, vừa nói cho ai đó nghe, cũng vừa tự trấn an do âm thanh dội lại từ đồi bên kia thật rõ ràng.
“Sao lâu thế?” Tên bộ đội đứng đâu đó hỏi tôi.
 “Báo cáo bộ đội, tôi đau bụng.”
 “Tại anh không quyết tâm chứ đau bụng gì lâu thế.”               
  “Đi ỉa cũng có quyết tâm sao bộ đội?”
 “Anh không có quyết tâm làm sao nó ra. Khẩn trương lên. Không có lý sự nữa.”
Tôi mỉm cười trong đêm tối, trong khi hắn càu nhàu:
“Các anh đừng tưởng qua mặt chúng tôi được nhé! Các anh không thoát được chúng tôi đâu.”
“Tôi thiếu quyết tâm một chút mà bộ đội nói sang chuyện trốn trại làm chi.” 
“Khẩn trương lên, đừng có ở đó mà lý sự”.
Dù sao thì lượt vào tôi đi một cách “hiên ngang” vì có tên bộ đội “hộ tống”. Sáng sớm, tôi thuật cho anh Dương Hiếu Nghĩa với anh Nguyễn Phán nghe, hai bạn cười ngất.
Ngạc nhiên thứ hai.
Hôm ấy chúng nó dẫn chúng tôi đào lỗ trồng cột bằng cây rừng để kéo dây điện thoại dọc theo đường đá lởm chởm, từ bộ chỉ huy Liên Trại 1 đến Trại Cốc chúng tôi. Ngoài tên bộ đội cầm súng canh giữ, còn có tên quản giáo hướng dẫn công tác. Hắn tự xưng là cán bộ binh chủng thông tin. Anh ta áng chừng 25 tuổi, ăn nói tương đối dễ chịu chớ không quát tháo mắng chửi như cái đám gặp ngày đầu tiên. Nói chuyện với hắn một lúc mới biết, các trại tập trung tù chính trị thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn này có đến  hằng mấy chục trại lận. Chỉ huy tất cả các trại là Đoàn 776, dưới Đoàn 776 có 6 Liên Trại, mà trại đang giam giữ cấp Đại Tá chúng tôi là Trại 2 thuộc Liên Trại 1. Các Liên Trại kia nằm rải rác đến sát biên giới Trung Hoa cộng sản. Thế là được biết thêm, tất cả tù chính trị chúng tôi bị giữ ở vùng rừng núi này do Bộ Quốc Phòng của họ quản trị chớ không phải Công An.
Những vị trí hắn chỉ chúng tôi đào lỗ hầu như toàn đá nên khá vất vả. Mọi người mồ hôi nhỏ giọt từ hai bên má. Tên quản giáo đến cạnh nhóm chúng tôi nói nhỏ:
“Các anh chưa quen lao động dưới cái nắng oi bức của mùa hè miền Bắc nên mau mệt.”
Nói xong, anh ta hướng sang tên cầm súng và nói lớn:
“Các anh nghĩ giải lao 10 phút.”
Khi chúng tôi dừng tay, đến cạnh bếp đang nấu chảo nước sôi với lá bàng. Lá bàng là loại lá lớn bằng bàn tay xòe, mùa này nó rụng quanh gốc cây. Khi nấu nước, tên cầm súng bảo chúng tôi:
“Các anh lượm những lá bàng chuyển màu nâu (sắp khô) bỏ vào chảo mà uống như uống chè (trà) cho đỡ khát”.
Khi tên cầm súng đến gốc cây bàng xa xa đằng kia ngồi, tên quản giáo từng bước đến cạnh tôi với anh Trần Ngọc Thống (Đại Tá, Bộ Tổng Tham Mưu), anh ta nói thật nhỏ, có lẽ sợ tên cầm súng nghe:
“Các anh có thiên đường mà các anh không biết giữ.”
Tôi nhìn anh Thống, anh Thống nhìn tôi. Tuy không nói ra, nhưng chúng tôi ngầm hiểu với nhau “không rõ tên này muốn bẫy mình hay sao đây”, nên hai đứa làm thinh. Chừng như hắn nhận ra điều đó, hắn nói tiếp:
“Tôi đã vào Sài Gòn và tôi đã hiểu các anh.”
Nói xong anh ta bước đi ngay.
Quí vị quí bạn thấy không, qua thái độ của anh chàng gọi là cán bộ thông tin hay quản giáo vừa rồi, cho thấy giữa những người cộng sản với nhau, họ cũng canh chừng nhau nữa, huống gì là chúng tôi.
Chúng tôi đến ngồi quây quần với các bạn cạnh chảo nước lá bàng như là cùng nhau giải khát, rồi thuật lại hai câu nói của anh ta cho các bạn nghe. Anh Thống nói:
“Tôi thấy thằng này tuy trẻ nhưng câu nói của nó đáng cho mình để ý lắm.”
Tôi góp thêm:
“Hoặc nó nói thật, hoặc nó xỏ mình. Nhưng quan sát thái độ của nó nhìn trước nhìn sau, và khi nói xong là vội vàng đi ngay, tôi nghĩ là hắn nói thật. Vì hắn nói hắn đã vào Sài Gòn, được hiểu là hắn đã nghe tại chỗ về mình, được thấy tận mắt về cuộc sống của người miền Nam mình rồi.”
Anh Lê Minh Luân (Đại Tá Không Quân) chen vào:
“Liệu trên đất Bắc xã hội chủ nghĩa 20 năm này có một thằng bộ đội trẻ dám nhận xét ngược với đảng của nó không?”
“Chính tôi cũng tự hỏi như anh.”
Anh Thống tiếp lời:
“Tôi vẫn tin, không phải mọi người trên đất Bắc này đều là cộng sản đâu. Riêng trường hợp thằng bộ đội này, tôi tin là hắn nói thật.”
Tôi tiếp lời anh Thống:
“Từ nay, anh em mình nên lắng nghe những mẫu chuyện của người dân quanh vùng mà mình gặp, tôi chắc là mình có thể tìm hiểu được ý thức chính trị của người dân đất Bắc xã hội chủ nghĩa này ra sao. Biết đâu mình sẽ ghi nhận được nhiều điều mà mình không ngờ như trường hợp thằng nhóc này cũng như với hai ông già rửa xe đạp hôm trước cũng nên.”
Xì xầm nhỏ to đến đây thì thằng cầm súng từ xa quát lớn:
“Đi làm đi. Thông tin cái gì đó?”
Chúng tôi không ai trả lời. Mạnh ai người ấy vác dụng cụ đào lỗ trồng cột tiếp. Anh bộ đội quản giáo quay lại sát chúng tôi:
“Các anh cẩn thận trong mọi tình huống.”
Nói xong là anh ta đến với tên võ trang. Có lẽ nảy giờ anh ta theo dõi chúng tôi to nhỏ với nhau nên anh ta sợ đến tai tên võ trang chăng? Thêm một câu nói giúp chúng tôi tin hắn không phải là người cộng sản cuồng nhiệt, nhưng nhất thiết phải giữ một khoảng cách nhất định khi tiếp xúc với bất cứ tên cộng sản nào.
Ngạc nhiên thứ ba.      
Vì trại chưa có rau nên họ chỉ định 6 người đi mua rau ở chợ Yên Bái. Trong số này có tôi và anh Nghĩa. Một tên võ trang dẫn đi. Hắn đưa chúng tôi 3 cái đòn khiêng và 3 cái bao bố (loại bao gạo 100 kí lô), nghĩa là hai người một khiêng. Trên quảng đường đá lổm chổm chừng 6 cây số, chúng tôi đi ngang một trại. Nhanh tay lẹ chân tiếp xúc với anh bạn đang cuốc đất bên đường, chúng tôi được biết  đây là Trại 1, giam giữ các anh cấp Trung Tá.
Đến bờ nam sông Hồng, hắn không đưa toán chúng tôi sang phà Ô Lâu qua chợ Yên Bái mà ghé vào khu nhà bên nay Sông Hồng mua khoảng 150 kí lô chuối xanh còn trên cây. Tôi trông thấy cây ớt hiểm chín đỏ mà phát thèm, thèm chất cay của ớt để kích thích khẩu vị. Tôi mon men đến ông cụ đang ngồi hút thuốc lào ở thềm nhà:
“Chào cụ. Cụ có thể cho tôi một trái ớt được không?”
“Ông ăn cay được không? Ớt này cay lắm đấy.”
“Dạ được.” Nói xong, tôi bước đến cây ớt cạnh thềm nhà. Ông cụ lên tiếng:
“Ông ngồi đây xơi nước. Tôi bảo con gái tôi nó hái cho ông.”
Vừa nói ông vừa kéo cái ghế nhỏ cho tôi ngồi, vừa rót chun trà:
“Hồng à! Con vặt (hái) cho ông này nắm ớt rồi gói lại đàng hoàng nghe con”.
“Cám ơn cụ.”
“Chè xanh đó. Xơi vào ông thấy thấm giọng và chống được cơn khát. Mùa hè của chúng tôi oi bức hơn trong Nam nhiều. Các ông chưa quen nên mau mệt lắm.”
Cô con gái đưa ông cụ một gói ớt lớn bằng cái chén ăn cơm. Ông cụ cho tôi hết gói đó. Tôi nói:
“Cụ làm ơn nói với bộ đội võ trang giùm, nếu không thì tôi không dám nhận.”
“Này anh bộ đội. Tôi cho ông này gói ớt đấy nhé!”
Ông chỉ nói thế chớ không xin phép tắc gì cả, chứng tỏ ông cụ xem thường hắn. Chừng như hắn cũng nễ ông cụ, không biết có phải do hắn “tán” con gái ông cụ mà hắn nễ không? 
Sau lời cám ơn rối rít, tôi chạy lại các bạn đang may mấy bao chuối. Tôi với anh Nghĩa một khiêng. Anh Nghĩa nghiêm giọng:
“Ông cụ này có thiện cảm với anh em mình đó.”
“Đúng anh. Ông ta gọi chúng mình là “các ông” với ý kính trọng, chớ không như cái đám phụ nữ với con nít trong ngày đầu tiên trên đất Bắc mà mình gặp ở gần phà Ô Lâu. Tôi nghĩ là rồi đây người dân vùng này sẽ nhìn mình tốt hơn, và cư xử với mình tốt hơn. Rõ ràng là mình có cơ hội tiếp xúc với người dân, mình với họ sẽ hiểu nhau hơn. Nghĩ cho cùng, đây cũng là một hình thức chiến tranh chính trị mà.”          
Mỗi hai người khiêng 50 kí lô. Dọc đường nghỉ ba lần. Sáu cây số chớ gần gủi gì đâu! Lần nghỉ thứ nhì do chúng tôi cố tình đi không nỗi để được dừng lại gần cổng Trại 1. Tiếp xúc chớp nhoáng ngang qua hàng rào, chúng tôi được biết thêm là tất cả các anh từ cấp Trung Tá trở xuống, họ đưa ra Bắc bằng tàu chở hàng cặp vào bến thành phố Vinh hoặc Hải Phòng, từ đó đưa lên vùng rừng núi Yên Bái này bằng xe lửa. Nhưng không phải tù chính trị được ngồi trong các toa hành khách đâu, mà là bị chúng nó nhốt trong các toa chờ hàng hóa súc vật kín mít, chỉ có những lỗ nhỏ sát trên nóc toa có không khí vào thôi. Anh Trung Tá Hùng, bộ tham mưu Tổng Cục Chính Trị bị suyển, lại trong tình trạng ngột ngạt trong toa chở hàng nên đã chết vì nghẹt thở trước khi đến trại này! 
Số chuối xanh mua về,  họ bảo các anh nhà bếp xắc từng khoanh rồi chẻ làm hai cho vào chảo, cho thêm muối và bột ngọt vào, quậy những thứ ấy vào nhau, gọi là “món ăn mặn” nhiều ngày của chúng tôi.  
Ngạc nhiên thứ tư.
Cuối tháng 8 năm 1976, bọn họ cho chúng tôi viết thư về gia đình. Vẫn cái cách hướng dẫn viết thư y chang bài bản như lúc ở trại Long Giao (Long Khánh) với Tam Hiệp (Biên Hòa). Vẫn có sức khỏe tốt, lao động tốt, học tập tốt, gia đình an tâm và chấp hành tốt những lệnh địa phương. Họ cho biết là các địa phương đã thông báo cho các gia đình được gởi quà cứ mỗi ba tháng một lần, với trọng lượng tối đa là 5 kí lô. Hầu hết anh em chúng tôi khi nhận thư gia đình đều có mẫu tin trên báo “Nhân Dân”, mới biết được trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn và Lai Châu có tất cả 82 trại, đánh số mà họ gọi là “hòm thư” từ AH 1 đến AH 82, thuộc Đoàn 776 giam giữ mà họ gọi là “quản lý giáo dục”. Bây giờ thì chúng tôi tin con số đó là thật.
Lần đi chợ thứ nhì cũng dùng đòn khiêng. Lần này sang chợ Yên Bái bằng con đò nhỏ chớ không phải bằng phà. Anh Nghĩa, anh Phán, anh Hồ Văn Thành (Đại Tá Quân Vận), anh Luân, anh Trần Văn Lễ (Đại Tá Quân Tiếp Vụ), và tôi. Yên Bái nhỏ lắm, nhà cửa lụp xụp, không thể gọi là phố xá được. Có một dãy khoảng chục căn bằng gạch, còn lại là nhà tranh. Các cửa hàng rải rác nhưng tất cả có ghi hàng chữ quốc doanh hẳn hòi. Tiệm may thì trên bảng ghi “Cửa hàng đo may”. Bên cạnh có “Cửa hàng bách hóa”, nhưng ôi thôi bên trong chỉ có khoảng chục cái kệ với lơ thơ vài chục mặt hàng, mà là hàng hóa thô kệch quá sức. Bên ngoài nhà  chợ có nhà máy đường với cơ sở rất ư là ọp ẹp. Tôi nói nhỏ với anh Phán: “Phán ơi! Chợ gì mà giống trại lính quá.”
“Trông chẳng giống làng xã gì của mình cả.”
“Thị xã Yên Bái xã hội chủ nghĩa, chẳng khác buôn làng của đồng bào Thượng  vùng Pleiku Kontum trong những năm 1950!”  
Chuẩn bị đi chợ lần thứ ba. Tên võ trang ra lệnh:
“Các anh đi lấy 2 xe cải tiến. Hôm nay mua cải bắp.”
Tôi nhìn qua nhìn lại có ý tìm xe cải tiến, hắn thấy tôi làm thinh mà cứ nhìn qua nhìn lại, hắn quát:
“Không đi lấy xe mà nhìn gì thế kia?”
“Tôi không thấy xe ở đâu làm sao lấy.” 
“Thế cái gì kia?” Vừa gắt gỏng hắn vừa chỉ chiếc xe cút-kít ở gần chuồng heo bên kia dòng suối.
“Cái đó là xe cải tiến hả bộ đội?”
Hắn trừng mắt nhìn tôi:
“Anh đùa à. Xe để đấy mà còn hỏi”.
“Không. Tôi không biết đó là xe cải tiến mà cán bộ”.
“Cái anh này buồn cười chưa. Thế các anh gọi nó là cái gì?”
‘Trong Nam chúng tôi gọi nó là “xe cút kít”. 
“Ra lấy đi, đừng có đứng đó mà lý sự”.
Chúng tôi qua chiếc cầu nhỏ, lôi hai chiếc cút-kít từ trong bờ rào ra. Chưa biết phải làm gì tiếp, hắn lại quát:
“Vào kho mượn giây để kéo. Đứng đó làm gì?”
Hóa ra chuyện như thế này. “Xe cải tiến” là chiếc xe mà những năm 50 người  Sài Gòn gọi là xe “cút-kít”, loại xe của những toán sửa đường dùng chở gạch đá lặt vặt. Xe cút-kít bằng kim loại, có một bánh xe ở giữa phía trước, cái thùng xe bầu xuống, hai chân đứng phía sau với hai cái càng để đẩy. Với dạng xe đó được xã hội chủ nghĩa “cải tiến” phía trước có hai bánh xe (thay vì một), cái thùng xe hình chữ nhật (thay vì bầu), phía sau cũng có hai chân đứng, và hai cái càng để đẩy. Vật liệu đều bằng cây với ván. Theo họ nói thì trọng lượng xe khi chở đầy vào khoảng 150 kí lô. Chiếc xe cải tiến vận chuyển được những gì trong cái thùng hình chữ nhật đó, là do 3 “nhân lực” (không phải mã lực) kéo và đẩy. Hai sợi dây cột hai bên cái thùng phía trước cho hai người kéo, một sợi dây khác cột ở hai cái càng sau và người cầm càng máng lên vai cho hai cái chân xe cao khỏi mặt đất, và ra sức đẩy tới. “Xe cải tiến chuyển động bằng ba nhân lực” là như vậy.  
Đến đám bắp cải của hợp tác xã nào đó sát bờ nam Sông Hồng, trông thấy một cô gái mặc quần tây áo sơ-mi, mang giày ống, cổ quấn khăn quàng ấm, tóc uốn dợn phần đuôi. Nhìn chung, cô ta là cô gái sáng sủa so với hai cô gái đang trong rẫy bắp cải. Cô ta giao việc cho hai cô kia đang quần quật chặt gốc bắp cải và mang vào sân nhà lều. Tên võ trang bảo chúng tôi đứng chờ, hắn đến nói chuyện với cô gái mang giày ống chắc là về chuyện mua bán. Hắn trở lại anh em chúng tôi:
“Đấy là con gái của nữ đồng chí lãnh đạo Công An Huyện (Trấn Yên). Người ta đưa bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu, cho lên xe cột lại. Các anh cẩn thận, không được nói linh tinh nghe chưa?” 
Nói xong, hắn đi về phía ngôi nhà gần bờ sông. Chẳng hiểu hắn muốn dọa chúng tôi hay ngăn cấm chúng tôi nói chuyện với con gái của Công An quận này? Khi nghe hắn nói cô này là con bà Trưởng Công An cũng hơi ớn, chỉ nghe hai chữ Công An đã cảm thấy lạnh lùng rồi, huống chi là con gái của Trưởng Công An, mà lại là Công An quận nữa chớ.
Một cô lo cân. Cân xong, cô kia chất sang một bên, lúc ấy có tiếng của cô mang giày ống:
“Yến. Em gở hết những lá xanh bên ngoài rồi cân lại cho mấy anh đó.”
Thế là hai cô gái phụ việc làm lại từ đầu mà chẳng nghe càu nhàu gì cả, trong khi cô gái mang giày ống gọi chúng tôi đến nhận bắp cải. Đang chất bắp cải lên xe, cô ta đứng cạnh tôi:
“Anh biết dùng lá cải bắp làm dưa ăn không?”
Tôi dùng chữ bắp cải còn cô ta dùng chữ cải bắp. Thấy cô ta nói chuyện có vẻ nhẹ nhàng và tự nhiên, tôi đáp:
“Có. Tôi biết cách làm và cũng biết ăn nữa cô.”
“Tôi cho các anh những lá này, đem về cắt ra phơi một nắng,nấu nước muối đổ vào. Vài hôm là ăn được.”
“Không được đâu cô.”
“ Anh vừa nói anh ăn được mà?.”
“Cô phải nói với anh bộ đội võ trang mới được. Nếu cô không nói thì anh bộ đội võ trang cho là tôi ăn cắp, tôi sẽ bị phạt giam khi về trại.”
“Được. Tôi sẽ nói cho anh.”
Trong khi chờ tên võ trang trở lại, cô ta hỏi:
“Quê anh ở đâu?”
“Tôi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long mà trong Nam chúng tôi thường gọi là Miền Tây, nhưng tôi sống ở Sài Gòn lâu rồi cô.”
“Anh có thường được thư gia đình không?”
Tôi khựng lại, vì không hiểu cô ta hỏi thật hay dò xét. Con của Trưởng Công An quận mà. Thấy tôi ngập ngừng, cô ta nói:
“Tôi hỏi thật, anh đừng sợ. Tôi có vào Nam rồi. Tôi thấy người miền Nam thành thật mà dễ mến nữa. Tôi nói thật đấy.”
Tôi có  phần vững dạ:
“Vâng. Thỉnh thoảng thôi, vì người ta ấn định thời gian chớ không phải lúc nào cũng được gởi đâu cô.”
“Lần sau các anh có ra đây, mang theo thư đưa tôi gởi cho. Các anh đừng sợ.  Tôi hỏi thêm, các anh có bị người ta đánh không?”
Tôi nhìn thẳng cô ta và chậm rãi trả lời để dò xem cô ta hỏi thật hay giăng bẫy:
“Cám ơn cô. Chúng tôi không mang thư theo được đâu vì bộ đội võ trang xét kỹ lắm. Về đánh đập thì tôi và các bạn cùng Tổ với tôi chưa bị, những chửi rủa nhục mạ thì thường lắm, thường đến mức mỗi khi người ta bắt đầu thì chúng tôi thuộc luôn mấy câu sau rồi. Đối với chúng tôi, điều đó còn đau hơn đánh đập vì trình độ của chúng tôi ít nhất  cũng phải tốt nghiệp trung học rồi cô.”
Cô ta đứng yên một lúc, chừng như có chút xúc động:
“Họ có cho các anh ăn no không?” 
“Nếu tôi nói với cô là chốc nữa đây tôi sẽ ăn hai củ khoai mì mà cô gọi là sắn, để chiều về tôi ăn một lúc hai phần, cô có tin tôi không? Hai phần gộp lại là hai chén cơm độn bắp, đó là hạnh phúc của chúng tôi!”
Cô ta xoay mặt ra bờ sông. Yên lặng. Tôi tiếp:
“Cô hỏi tôi những câu ẩn chứa tình người làm tôi cảm thấy ngại ngùng. Ngại ngùng vì vị trí giữa cô với anh em chúng tôi là một khoảng cách chính trị, mà chúng tôi là những người bị tù đày sau khi chúng tôi thua trận!”
“Vào Nam, tôi mới hiểu người miền Nam các anh. Trong ấy có người thân của gia đình tôi vào đó từ năm 1954, cũng ở trong quân đội như mấy anh. Tôi muốn giúp các anh điều gì chớ không có ý dò xét các anh. Bây giờ tôi phải lo công việc.”
Nói xong cô ta trở lại nhà lều ở đầu đám rẫy. Có lẽ cô ta thấy tên võ trang đang đến nên cô ta không nói nữa thì phải?
“Cám ơn cô.”
Tên bộ đội võ trang đến bảo chúng tôi ăn trưa rồi chuẩn bị về trại. Nói xong, hắn quay lại nhà lúc nảy. Sáu anh em chúng tôi đang ngồi ăn khoai mì, cô gái mang giày ống  đi ngang, đứng nhìn:
“Các anh ăn thế làm sao no?”
“Tôi nói với cô rồi. Chúng tôi đâu có cách nào khác. Hai củ khoai này là phần ăn của mỗi anh em chúng tôi đây!”
“Các anh ráng giữ sức khỏe để về với gia đình. Chào các anh. Tôi về  ăn trưa.”
“Chào cô.”
Phải nói rằng, sau cái lần nghe ông cụ già rửa xe đạp vạch trần sự tuyên truyền dối trá trên làn sóng phát thanh, đến tên quản giáo nói như trách chúng tôi có thiên đường mà không biết giữ,rồi đến lần mua chuối xanh nhìn thấy thái độ của ông cụ đối xử với chúng tôi rất tình người, hôm nay đến cô gái con bà Trưởng Công An quận mà họ gọi là huyện Trấn Yên này nói chuyện với chúng tôi ẩn chứa sự thông cảm với chúng tôi, cho phép tôi nhận ra rằng: “Không phải mọi người dân 20 năm xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc đều là cộng sản dù họ sinh ra và lớn lên trong chính sách giáo dục của cộng sản, ngay cả cô con gái của Trưởng Công An quận Trấn Yên này cũng vậy. Tôi nghĩ, chúng ta thua trận gần hai năm rồi, nhưng có vẻ như chúng ta thắng cộng sản về chính nghĩa thì phải. Bởi vì qua nét nhìn, người dân xã hội chủ nghĩa vùng rừng núi nơi đây dù chưa thể xem là tiêu biểu cho cả miền Bắc, nhưng rõ ràng họ cư xử với chúng tôi có đạo nghĩa. Tôi nghĩ, điều đó không mang ý nghĩa của lòng thương hại, mà là ý nghĩa của sự đồng cảm ý thức chính trị. Phải chăng, sự thua trận của chúng ta lại giúp cho người dân có cơ hội cũng như hoàn cảnh nhận định được chế độ nào là chính nghĩa? Trong cái rủi (ro) có cái  may (mắn), trong cái nguy (hiểm) có cái cơ (hội) là thế. Chúng tôi vẫn tiếp tục quan sát để có được nhận định vững vàng hơn”.        
Tổ nấu bếp ở trại này là chuyên nghiệp, nghĩa là không luân phiên như ở trại Long Giao hay Tam Hiệp trong Nam. Anh Nguyễn Kỳ Nguyện (Đại Tá, Bộ Tổng Tham Mưu) nấu nước, anh Cao Văn Phước (Đại Tá Quân Vận) với anh Lê Ngọc Ẩn (Đại Tá Quân Cụ) nấu thức ăn, anh Nguyễn Hữu Phước (Đại Tá Quân Cảnh) nấu cơm.      
 Cung cấp củi cho nhà bếp là Tổ của anh Tạ Đình Siêu (Đại Tá Thiết Giáp). Họ ấn định “chỉ tiêu” mỗi người/một ngày một bó từ 25 đến 30 kí lô. Ai lấy đủ thì nghỉ, bằng không thì chiều đi tiếp. Củi là chặt cây rừng trên các đỉnh núi, cột lại từng bó. Xuống chân núi, phải qua sự kiểm soát của tên võ trang. Hắn ngắm nghía xem chừng đủ chỉ tiêu thì hắn dắt về, giao cho nhà bếp. Các bạn trong nhà bếp, cứ đẩy nguyên bó cây xanh tươi đó vào lò, một lúc thì cháy thôi.
Ngạc nhiên thứ năm.
Tổ chúng tôi là Tổ cơ động, nên hết việc này họ bảo làm việc kia mà hầu hết là leo núi đốn cây. Đầu tiên là đốn cây cung cấp cho mấy Tổ kia cất thêm căn trại. Cứ sáng sớm, mỗi người lãnh vài củ khoai mì cho vào túi áo treillis, lon guigoze nước chín xách tay, đến nhà kho gặp anh Tạ Văn Kiệt (năm 1955 là Quận Trưởng Quận Trà Ôn, Vĩnh Long) mượn dao. Tên võ trang dắt đến chân núi, hắn chờ ở đó và chúng tôi cùng leo núi. Tổ chúng tôi 20 người, khi lao động phải từ 17 người trở lên, nếu dưới con số đó thì tên quản giáo là Trung Úy Bật hạch hỏi đủ điều. Nhức đầu lắm! Vì những cây dùng làm cột  nhà có đường kính từ 20 phân tây trở lên nên nặng lắm. Đến những cây dùng làm kèo làm đòn tay cũng không phải là nhẹ. Anh em chúng tôi kết lại thành từng nhóm để giúp đỡ lẫn nhau. Tôi, anh Hồ Văn Thành, anh Nguyễn Văn Sang (Đại Tá Tiếp Vận), anh Trần Văn Lễ (Đại Tá Tiếp Vận) một nhóm. Anh Sang với anh Lễ kém sức khỏe, khi lên núi xuống núi, hai anh bò nhiều hơn là đi, do vậy mà tôi với anh Thành trợ giúp. Lên đỉnh núi, thường khi phải theo đường đỉnh đi từ núi này sang núi kia, đôi khi phải xuống thung lũng tìm cây đúng với nhu cầu của Tổ cất nhà. Tôi với anh Thành đốn cây, anh Sang với anh Lễ tìm chặt dây  cột lại thành bó để khi lăn xuống núi không bị văng tứ tung. Vác đến triền núi, hai người nắm chặt hai đầu bó cây, tôi chụm hai tay lại rồi nói thật to cho âm thanh phóng đi xa để báo động người bên dưới tránh xa dù có thấy hay không thấy người nào:
“Chú ý. Chú ý. Chúng tôi phóng cây xuống.”
Báo động xong, tôi đếm đếm một, hai, ba, hai bạn cùng buông tay cho bó cây lăn xuống chân núi. Trông cái cảnh ấy gợi cho anh Lễ nhớ lại truyện Trung Hoa ngày xưa. Anh vắn tắt cho bớt nỗi nhọc nhằn:
“Tôi nhớ cái trận đánh mà ông Tiết Nhơn Quý chinh đông chinh tây gì đó, khi địch quân bao vây từ chân núi tiến lên, ông ta áp dụng chiến thuật “dứt dây lăn gỗ” giống như chúng mình vừa rồi đẩy bó cây xuống núi. Vậy mà ổng gây thiệt hại nặng nề cho quân địch vì không tránh vào đâu được.”
Anh em cười xòa, cùng nhau xuống núi. 
Cũng cái hôm ấy, khi vác cây trên đường đỉnh để xuống núi, trông thấy một ông có lẽ cũng khoảng 50-60 gì đó đang ngồi ôm đứa con trai trong lòng, chúng tôi dừng lại nhưng cũng ngài ngại vì không biết thái độ ông ta đối với chúng tôi ra sao. Thấy ông không có vẻ gì phản đối, tôi hỏi:
“Cháu làm sao mà ông ôm cháu vậy?”
Nhìn chúng tôi một lúc, ông đáp:
“Cháu nhà tôi bị sốt rét ông à! Ở đây người ta chỉ phát cho mỗi thứ thuốc xuyên tâm liên không trị được gì hết.”
“Nếu ngày mai ông với cháu có đến đây, tôi sẽ tặng cháu vài viên thuốc uống chống sốt rét. Ông cho cháu uống thử xem sao”.
“Cám ơn ông. Mai tôi chờ ở đây. Ông coi chừng mấy đứa bộ đội bắt gặp là nó phạt ông đó.”
Ngày hôm sau là ngày chót của Tổ chúng tôi đốn cây trên núi này. Tôi gặp ông già và đứa bé áng chừng 10 tuổi, nhưng thật sự thì cháu 16 tuổi. Thiếu dinh dưỡng mà! Tôi đưa ông già 10 viên Chloroquine và dặn mỗi ngày uống một viên. Tôi quá đổi ngạc nhiên về sự vui mừng của ông già:
“Ông cho cháu uống thử chớ tôi không dám chắc là cháu hết bệnh ngay đâu, vì tôi không phải là thầy thuốc.”
“Tôi mừng vì ở miền Bắc này có bao giờ tôi trông thấy thuốc ngoại đâu, tôi tin là cháu sẽ hết bệnh.”
Từ hôm sau tôi không có dịp gặp ông cho đến một hôm. Hôm ấy chúng tôi sang dãy núi khác để đốn cây chổm lợp nhà, làm vách nhà, và làm vạt giường nằm, xa hơn khu vực đốn cây làm cột nhà. Khi vừa lên đến đỉnh núi, tôi trông thấy ông với đứa bé mạnh khỏe. Ông nhìn qua nhìn lại, tôi đoán là ông sợ có thằng võ trang đi theo, tôi nói ngay:
“Bộ đội võ trang ở dưới đường chớ không theo chúng tôi. Ông sợ anh ta trông thấy phải không?”
Hai bàn tay ông già nắm lấy tay tôi thật chặt, miệng ríu rít:
“Cả gia đình tôi cám ơn ông. Cháu chỉ uống viên đầu tiên là hết sốt rét, tôi cho cháu uống thêm 2 viên nữa, mấy viên còn lại gia đình tôi chia cho hai đứa cháu cũng bị sốt rét. Tất cả chúng nó khỏe hết rồi. Thuốc ngoại hay lắm ông ơi!”
“Sao ông biết chúng tôi đốn cây ở đây mà chờ?”
“Mấy hôm tôi đến chỗ cũ không gặp ông, tôi phải tìm hỏi mãi mới biết là Tổ đốn cây của ông đã chuyển sang đốn chổm. Tôi đoán mấy ông đốn ở núi này nên tôi chờ. May quá, được gặp ông.”
Rồi ông xuống giọng như tâm tình:
“Gia đình tôi nghèo lắm, có cơm độn ngày hai bữa là khá rồi. Tôi có mang biếu ông hai củ lang (khoai lang) ông nhận giùm tôi. Ơn của ông to lắm.”
Vừa nói ông vừa bước đến gốc cây, dùng tay bươi đám lá khô lôi ra cái gói lá chuối, sau khi thổi bụi trên củ khoai, ông cầm hai tay run run đưa tôi làm tôi xúc động thật sự. Sự xúc động của tôi một phần vì hai củ khoai mà tôi nghĩ có thể ông trích trong phần ăn của gia đình ông, phần khác là thái độ cùng cách xử sự của ông đối với anh em chúng tôi nói chung và với tôi nói riêng. Ông đã lặn lội tìm cách gặp tôi để đền ơn mà không ngại núi rừng, cũng không sợ bị tên quản giáo hay võ trang bắt gặp, nếu không phải là tấm lòng thì ông đâu cần phải hành động như vậy. Nhưng ở đây tôi còn nhìn sang hai góc độ nữa:
Một là góc độ chính trị. Rõ ràng là người dân xã hội chủ nghĩa nơi đây không phải  ai cũng ủng hộ chế độ cộng sản. Sống trong lòng chế độ nhưng sự phản kháng vẫn tiềm ẩn trong lòng họ, có cơ hội thích hợp là họ bộc lộ như trường hợp ông già nêu trên. 
Và hai là góc độ kinh tế. Cả một quốc gia chỉ uống toàn thuốc “xuyên tâm liên” thì một dân tộc bệnh hoạn yếu đuối là đúng thôi! Tuy ông chưa biết công hiệu của viên thuốc ra sao, chỉ cầm trong tay viên thuốc ngoại quốc đã đủ làm cho ông tin tưởng con của ông hết bệnh rồi. Tội nghiệp cho người dân 20 năm xã hội chủ nghĩa này biết bao!       
Anh Nguyễn Phán đi lạc.
Mời quí vị quí bạn thử theo chúng tôi lên núi đốn cây chổm một lần nhé!
Đường dẫn đến vùng núi có nhiều cây chổm có dòng suối mà chúng tôi phải lội qua. Lúc không mưa thì mực nước ngang lưng quần, khi mưa lớn hoặc mưa nhỏ mà liên tiếp vài ngày, mực nước có thể cao đến tận cổ. Những lúc như vậy, mọi người muốn mặc áo quần ướt hay khô là tùy. Muốn khô phải cởi trần trụi ra lội sang bên kia bờ mặc lại, nếu muốn ướt cứ để nguyên qua suối. Rồi bắt đầu leo núi. Độ dốc của núi này khá cao, có lúc chân bước lên là đầu gối chạm vào triền núi. Anh nào lên đến đỉnh trước thì ngồi chờ, đủ mới đi. Phải theo đường đỉnh qua ba ngọn núi, rồi tuột xuống lưng chừng thung lũng sâu mới tìm thấy rừng chổm. Thung lũng này dốc cao lắm, không thể bước được mà là tuột dốc từ từ. Đốn được một cây chổm đã khó vì nó chen chúc nhau rất dầy nên đưa được cây dao vào vị thế để chặt không phải dễ. Chặt xong phải giữ nó lại, nếu không thì nó tuột luôn xuống tận đáy thung lũng, vừa phí sức vừa không đủ số lượng mà tên quản giáo ấn định!
Chưa hết, tôi phải chuyển ngược từng cây lên hướng đỉnh cho anh Thành. Hành động này rất nguy hiểm! Nếu chẳng may anh Thành ở trên nắm không chắc, cây chổm lao xuống sườn núi rất có thể nó đâm thẳng vào tôi một cách ngọt xớt vì cho dẫu trông thấy nó lao xuống cũng không dễ gì tránh được vì chỗ đứng rất khó xoay trở!
Anh Thành có sức khỏe, rất tốt với bạn nhưng thị lực rất kém, suýt nữa anh bị cây chổm xé mặt khi luân phiên tôi đứng trên, anh đứng dưới đốn chổm chuyền lên tôi. Anh chặt nhát dao thật mạnh, cây chổm ngã dần xuống hướng triền núi, bất ngờ phần còn lại của gốc chổm tét làm hai và bật mạnh lên. Rất may, trước khi xuống nhát dao anh đứng xéo qua một bên để giữ thế, nếu không thì phần tét ra của cây chổm chém nát mặt anh chớ không vừa. Khi cây chổm bị tét ra nó nhọn và rất bén, nó mà đâm vào da thịt con người thì khiếp lắm quí vị quí bạn à!      
Nhiều lần chúng tôi trông thấy bọn quản giáo với võ trang làm heo, họ dùng ngọn cây chổm vạt nhọn, thọc vào cổ con heo. Cả cơ thể con heo oằn oại miệng la eng éc. Con heo càng la, họ càng ấn sâu khúc chổm vào, rồi kéo ra đẩy vào cho máu theo khúc chổm chảy vào cái thau phía dưới. Trông cách thọc huyết heo của họ dã man quá! Vậy mà họ cười một cách thích thú, cứ như họ vừa lập được thành tích vậy. Thật không thể tưởng tượng tính dã man của cái đám cháu của ông Hồ!
Có một anh Thiếu Úy bị bắt khi Ban Mê Thuột bị tấn công chiếm đóng hồi tháng 3 năm 1975, chúng nó đưa anh ấy ra Bắc trước, và năm 1976 nhập vào chúng tôi trong Nam ra nhưng khác trại. Khi chặt chổm, chân trái của anh sát cây chổm mà cây dao của anh rất bén, anh lại còn trẻ nên khỏe so với chúng tôi. Chỉ một nhát dao cây chổm đứt lìa, nhưng bắp đùi của anh cũng bị chiều dài lưỡi dao phập vào khá sâu. Về sau chúng tôi không rõ cái chân của anh như thế nào nữa!    
Họ ấn định chúng tôi mỗi người 10 cây, dài ít nhất là 5 thước. Tuy “thịt cây chổm” không dầy bằng “thịt cây tre” nhưng 10 cây tươi cũng nặng lắm. Khi tuột xuống triền chỉ có con dao trên tay đã thấy khó khăn, khi chuyển được cây chổm trở lên càng khó khăn hơn nữa! Nhưng vẫn phải làm bằng tất cả sức lực cộng với mức độ nguy hiểm không phải là thấp! Trở về đến đỉnh cuối cùng, chúng tôi cùng nhau ngồi lại nghỉ chân trước khi xuống dòng suối, mạnh ai người ấy moi hai củ khoai mì trong túi ra ăn. Ăn khoai mì, ăn cả mùi mồ hôi chen lẫn trong mùi quần dơ với nước suối đục ngầu trong đó! Nhìn mặt trời ngã về tây khá lâu, chúng tôi đồng ý với nhau là xuống núi, đưa những bó chổm qua bên kia dòng suối. Chúng tôi tự quyết định với nhau, vì tên quản giáo với tên võ trang chờ bên kia suối.
Tên võ trang đi tới đi lui nhìn mấy bó chổm. Xem chừng đủ số lượng ấn định nên hắn làm thinh. Xong hắn đếm từng người, hắn hỏi vội:
“Anh Hoa. Còn một anh nữa đâu?”
“Tôi làm sao biết bộ đội.”
“Anh khẩn trương xem lại mất anh nào?”
Tên này thường dùng chữ “khẩn trương” khi thúc hối chúng tôi nhanh lên, cho nên chúng tôi khi nói với nhau về hắn, không cần nói tên mà chỉ dùng chữ “khẩn trương” là hiểu.
Tôi kiểm lại, mãi một lúc mới nhận ra:
“Báo cáo bộ đội, còn thiếu anh Phán. Anh ấy yếu lắm, có thể vì vậy mà ảnh về chậm.”
Hắn quát ngay: “Các anh phải lên núi tìm. Khẩn trương lên.”
Trời đất ơi! Giờ này nghe nói đến lên núi, cơ thể như rã rời làm sao mà đi nỗi. Anh em chúng tôi nhìn nhau như muốn nói với nhau rằng: “Tôi đuối rồi”. Không ai nói năng gì cả. Hắn quát lớn hơn:
“Khẩn trương lên. Tại sao các anh ngồi yên đó?”
Không nhìn nhau nữa mà mỗi người nhìn thẳng về phía trước, chừng như vừa lo cho bạn, vừa lo cho mình. Chẳng đặng đừng, tôi đứng dậy:
“Báo cáo bộ đội. Tôi đi.”
“Hai anh nữa đi với anh Hoa. Đề phòng nguy hiểm.”
Không hiểu chữ nguy hiểm mà hắn dùng, là hắn sợ thú rừng giùm tôi hay sợ tôi nhân cơ hội này trốn trại?
“Không được đâu bộ đội. Các bạn tôi mệt lắm rồi, cần phải lấy sức vác chổm về nữa. Một mình tôi đủ rồi.”
Nói xong là tôi đi luôn. Anh Hồ Văn Thành chạy theo. Tôi nói gì anh ấy cứ một mực cùng đi với tôi. Thế là hai chúng tôi cởi áo quần lội qua suối. Lên đến đỉnh núi đầu tiên là tôi với anh Thành luân phiên, dùng hai tay chụm lại đưa lên miệng làm ống loa: “Anh  Phán  ơi! Anh  Phán!” Tôi gọi không to lắm nhưng giữ hơi ngân dài để âm thanh đi được xa. Từ trên cao gọi xuống thung lũng âm thanh đi xa lắm. Cứ mỗi tiếng gọi, âm thanh từ các triền núi chung quanh dội lại rất rõ. Hết đỉnh núi này sang đỉnh núi kia, tôi với anh Thành đều cất tiếng gọi như vậy. Đến thung lũng thứ ba bên trái thung lũng cây chổm, sau “tiếng loa” của anh Thành, tôi nghe tiếng anh Phán như xa lắm:
“Tôi .. đây .. nè!”
“Anh nghe tiếng chúng tôi rồi, anh hãy đi về hướng chúng tôi đi.”
“Không .. được. Tôi .. không .. dám .. đi .. nữa. Tôi .. sợ .. lắm.”
“Anh ngồi yên đó. Khi tôi gọi thì anh lên tiếng để chúng tôi tìm đến anh.”
Chúng tôi theo đường mòn quanh co xuống thung lũng theo hướng có tiếng nói của anh ấy:
“Anh Phán ơi! Hãy lên tiếng giùm coi, chúng  tôi xuống đến thung lũng rồi.”
“Tôi . đây . nè. Tôi . đây . nè.”
“Tôi nhận ra hướng của anh rồi. Anh đứng dậy và nắm cái cọng gì đó quơ qua quơ lại cho chúng tối thấy đi.”
Và rồi chúng tôi đến nơi. Hóa ra khi anh vác bó chổm lên đường đỉnh, lại không để ý đến ngã ba nhỏ xíu để quẹo trái theo đường đỉnh mà ra điểm tập trung, lại đi thẳng theo đường mòn xuống thung lũng bên này.    
“Tôi sợ quá hai anh ơi! Tôi nghĩ là chết ở đây chớ không thể nào về được. Nghe tiếng hai anh tôi mừng quá, nhưng không đủ can đảm đứng dậy đi về hướng mấy anh, sợ đi lạc xa nữa.”
“Bó chổm anh đâu?”
“Đằng kia kìa. Tôi không vác nỗi đâu. Về trại nó làm gì tôi thì làm.”
“Tụi mình lớn tuổi rồi, không nên để thằng nhóc đó nó mắng. Bây giờ tôi với anh Thành vác cho anh, nhưng từ chỗ tập trung về trại, anh cố gắng nghe.”
Chúng tôi về đến điểm tập trung, tôi thuật lại sự kiện anh Phán đi lạc, vậy mà hắn vẫn hạch hỏi:
“Tại sao anh đi lạc?” 
Tôi đỡ lời vì anh Phán đâu đã hoàn hồn:
“Bộ đội thông cảm, anh Phán còn run sợ lắm, chưa đủ bình tỉnh để trả lời bộ đội đâu. Nếu nhớ đường về thì đâu có ai đi lạc bao giờ.”
“Tất cả đi về.”  Hắn quát nhưng nhẹ thôi.
Thừa lúc hắn đến phía trước kiểm lại từng người, tôi rút một cây anh Thành rút một cây cho vào bó của chúng tôi, giúp anh Phán đỡ nặng. Chúng tôi khệnh khạng rồi cũng về đến trại. Lội suối tắm xong, chờ lãnh phần ăn trưa lẫn phần ăn chiều gộp lại ăn một lần cho no. Anh em khỏe muốn được đi lao động “thông tầm” tức là đi từ sáng đến chiều, nhịn đói một chút để buổi chiều có được hai phần ăn, tức hai cái bánh bột mì luộc. Gần đây chúng nó cho chúng tôi ăn bánh bột mì luộc, trông như cái bánh bao nhưng hoàn toàn chỉ có bột mà thôi. Số bột mì này do một quốc gia nào đó ở Châu Âu (dường như là Thụy Điển) viện trợ, họ bán cho dân thay khẩu phần gạo + bắp, nhưng người dân không quen ăn nên đưa vào trại tù chính trị chúng tôi. Bánh bao bột mì luộc bằng cái chén nhỏ, chấm với muỗng nước muối và mấy cọng rau muống gọi là canh. Ở đây họ không cho ăn muối hột vì họ sợ chúng tôi trữ lại để trốn trại, nên họ buộc nhà bếp bỏ muối vào nồi đổ nước vô hòa tan, một muỗng nước muối là phần ăn mặn của mỗi tù chính trị chúng tôi.
Ăn cắp thức ăn của trại.      
Thường ngày trong mỗi bữa ăn, anh Nghĩa chuẩn bị một rổ rau má. Rau má ở khu rừng này “mập” lắm, cọng lớn lá to. Anh Nghĩa rửa thuốc tím hẳn hòi. Cứ mỗi miếng ăn kèm theo một cuộn rau má chấm mắm tôm. Buổi chiều ba anh em chúng tôi -Anh Nghĩa, anh Điệp, và tôi- ăn no là nhờ độn rau má. Những hôm tôi  đi thông tầm có hai phần ăn trong bữa ăn chiều, tôi chia làm ba phần nhưng anh Nghĩa với anh Điệp không nhận. Hai anh cho rằng tôi lên núi vất vả, cần giữ sức khỏe hơn. Một hôm anh Nghĩa lần mò sang bên kia triền núi, nơi có rẫy khoai lang họ đã đào lấy củ rồi, nhưng anh cũng mót được khoảng 20 củ chỉ bằng ngón tay út. Anh lại mang cái gà-mèn xuống tận thung lũng nấu được lon guigoze chè. Nuốt vào đến đâu nghe ngọt lịm đến đó. Thật lòng mà nói, không phải chúng tôi ăn, mà là chúng tôi thưởng thức đến tận cùng cái chất bột của khoai ngấm trong đường, cái chất ngọt của đường hòa trong chất the the của lá gừng ăn cắp. Cho nên chỉ ăn có chén chè nhỏ xíu mà thời gian bằng cả bữa ăn. Ngon lắm quí vị quí bạn à!
Do được ăn khoai lang, tôi nghĩ đến cách ăn cắp khoai mì mà người miền Bắc gọi là sắn. Cứ sau Tết Nguyên Đán, chúng nó bắt tù chính trị chúng tôi trồng khoai mì trên hằng chục ngọn đồi quanh trại giam, thế nhưng tên võ trang ngồi trên chòi cao dễ bắt gặp lắm, vì khi mình nắm cây khoai mì kéo lên thì ngọn cây lắc lư là nó báo động đến bắt ngay. Tôi nghĩ cách, và thực hành luôn. Tôi may cái túi nhỏ, dùng cây kim tây ghim vào bên trong nách áo. Miếng kim khí mài sẳn thay con dao đem ra ngoài trại giấu trước. Những khi lao động gần các ngọn đồi khoai mì, giờ trưa chui vào khoảng giữa, dùng miếng kim khí như lưỡi dao moi từ từ tránh đụng vào thân cây khoai mì, mỗi cây chỉ khứa lấy một củ thôi, vì lấy hai củ cây sẽ ngã khi có gió. Chỉ cần 2 hoặc 4 củ tùy lớn nhỏ là đủ cho một lần ăn. Lột võ chôn xuống đất ngay gọi là phi tang dấu tích. Xuống suối rửa, khứa nhỏ, cho vào cái túi gài trong nách áo.
Đến giờ về, cứ thản nhiên vào cửa vì trên tay không mang theo gì hết nên không bị xét. Chưa xong đâu. Khi về trại, nhét vào lon guigoze, cho vào miếng đường tán, cho nước vào, đậy nắp lại, xách tòn teng đi xuống xuối như đi lấy nước vậy. Nhà bếp sát lối đi xuống suối. Vì họ cấm nấu, nên khi ngang nhà bếp phải nhìn trước ngó sau, lượm thanh cây nhỏ xỏ vào cái quai đẩy lon guigoze vào sát một bên lò đang nấu. Bước  ra tức thì và xuống suối làm bộ rửa tay, rồi lên trại. Chừng một tiếng đồng hồ sau lại lảng vảng nhà bếp, thuận tiện là kéo lon guigoze ra, xách về. Đến khi tiếng kẻng ngủ, tôi với anh Nghĩa mới đem ra ăn. Ăn sớm sợ các anh khác thấy rồi nói tới nói lui đến tai tụi quản giáo hay võ trang biết được là nguy lắm. Nếu còn đường thì ăn chè, hết đường thì ăn khoai luộc, miễn no là được rồi.
Cũng vì ăn cắp mà tôi đã một lần bị hạch hỏi, nhưng từ đầu đến cuối đều chối nên không bị phạt biệt giam. “Biệt giam” là nhốt vào một chỗ chật hẹp, tay chân bị còng lại, khẩu phần ăn chỉ bằng một nửa. Mấy ngày họ mới cho ra ngoài tắm một lần. Nhưng không phải tôi ăn cắp khoai mì mà là ăn cắp trứng gà. Thật ra nói tôi ăn cắp cũng không hoàn toàn đúng, vì không phải tôi sang chuồng gà ăn cắp. Chẳng là một hôm khi giao củi cho nhà bếp xong, tôi về chỗ nằm thò tay lên cái kệ bằng cây chổm trên mái nhà để lấy quần áo xuống suối tắm. Dọc theo vạc giường cây chổm làm chỗ ngủ của chúng tôi,  nếu nằm ngửa nhìn lên trần nhà thì trên đó có cái kệ để đồ dùng. Tôi đụng vật lạ trên đó như là cái trứng, cầm xuống hóa ra là cái trứng gà. Tôi chưa biết phải làm sao, lúc ấy các bạn Tổ bên kia tắm xong đang vào nhà, tôi vội bóp bể võ và cho cái trứng tuột vào miệng ngay. Quí vị quí bạn ơi, tôi ăn sống cái trứng gà đó. Và ngày nào tôi cũng “ăn cắp” một cái trứng gà và ăn như vậy. Thật tình tôi không biết là con gà mái leo lên đó đẻ lúc nào, cứ có cái trứng là ăn mà chẳng cần biết gì thêm. Một hôm khi vào nhà thì con gà kêu oác oác rồi cục tác cục tác. Hóa ra chị gà ta hôm ấy đẻ “trễ giờ”, thay vì đẻ lúc sáng hay trưa gì đó, hôm nay đến chiều mới đẻ nên tôi mới có dịp trông thấy. Thế nhưng thời gian tôi được ăn cái trứng gà kéo dài chỉ được gần hai tuần thì tên quản giáo gọi tôi sang văn phòng trại: “Anh ăn cắp trứng bao lâu rồi?”
“Tôi đâu có ăn cắp trứng cán bộ.”
Tôi có ý xỏ hắn khi tôi nhấn mạnh âm thanh trứng cán bộ!
“Con gà đẻ ở chỗ nằm của anh mà anh còn nói không có.”
“Không. Tôi không hề thấy con gà nào đến chỗ tôi cả. Nhưng mà gà đẻ ở chuồng chớ sao đẻ ở chỗ tôi nằm”
Im lặng một lúc, hắn quát: “Tôi bắt gặp là anh biết tay tôi.”
Thế là con gà mái bị nhốt vô chuồng nên không sang đẻ ở chỗ nằm của tôi nữa. Cũng may, nếu nó không bị nhốt mà nó tiếp tục sang chỗ tôi để đẻ thì nguy. Tôi biết anh bạn đã “báo cáo” sự việc đó, nhưng tôi thấy không nên viết lại làm chi. Chuyện nhỏ mà.
Đốn cây.
Đốn cây rừng với cây chổm làm nhà, nhưng không có dây thì làm gì cột với kèo và đòn tay dính vào nhau. “Cây dang” (có thể tôi viết không đúng chữ) cũng là dòng họ của tre, trúc, chổm, dùng làm dây cột rất chắc. Nhưng loại này mọc ở những chỗ nguy hiểm lắm, đốn dang khốn khổ hơn đốn chổm nhiều. Dang chẻ được nhiều dây, rất dai.
Đây là đoạn đường chúng tôi lần mò từng bước đến rừng dang. Thời tiết vào đông, vùng núi rừng Tây Bắc này nhiệt độ khá thấp so với đồng bằng Sông Hồng. Nhóm chúng tôi đi đốn dang gồm năm người: Anh Huỳnh Thanh Sơn, anh Hồ Văn Thành, tôi, và hai anh nữa mà tôi không nhớ. Tên võ trang dắt đi khoảng 3 cây số trên đường liên tỉnh Hoàng Liên Sơn - Lai Châu, đến ngã ba có cái lò gạch bên đường là quẹo xuống suối với mực nước lưng chừng đầu gối. Lòng suối nhiều đá lởm chởm. Chúng tôi phải bì bỏm ngược dòng suối dưới những tàng cây phủ xuống đến mặt nước, có lúc phải dùng tay đẩy những cành lá sang một bên để có lối đi. Trên thí ánh mặt trời không soi sáng được bao nhiêu, dưới thì nước mùa Đông quá lạnh. Tấm vải nhựa dùng làm áo mưa phủ từ bờ vai xuống đến lưng quần, chống đỡ phần nào cơn mưa phùn lất phất từ lúc ra khỏi trại.
Chúng tôi đi như vậy với khoảng cách tương đương đi trên đường, mới đến khu rừng cây dang. Thân cây dang lớn hơn cây chổm nhưng ngắn. “Thịt cây dang” rất dầy. Lóng cây dang ngắn so với lóng cây chổm hoặc cây nứa trong Nam. Độ rỗng ruột như cây tầm vông trong Nam. Võ có những đốm mốc chớ không trơn láng như cây chổm hay cây nứa. Cây dang không lên thẳng đứng mà lại oằn thấp gần như song  song với mặt đất. Chui vào chặt được nó rất khó, kéo được nó ra khỏi “bà con dòng họ nó” càng khó hơn. Cuối cùng, mỗi người chúng tôi cũng có được một bó 6 cây nhưng gian nan hơn 10 cây chổm rất nhiều. Dưới cơn mưa nhẹ giữa đám rừng dang âm u với tiếng muỗi vo ve không ngưng nghỉ, chúng tôi lôi trong túi ra mấy củ khoai mì pha trộn nhiều thứ mùi bên trong với những vệt đen đúa bên ngoài. Sau khi gọi là ăn xong, vác bó dang lên vai bắt đầu bì bỏm xuôi dòng suối cạn lởm chởm đá. Đến ngã ba có lò gạch là hết đoạn đường suối, leo lên đường liên tỉnh, về trại.   
Với những cây rừng, cây chổm, cây dang, hơn 300 tù chính trị cấp Đại Tá chúng  tôi đã nới nhà bếp vừa rộng vừa thoáng, gian trạm xá trông cũng khang trang. Tổ chúng tôi lại đi đốn cây chổm làm hàng rào vòng quanh trại để tự rào mình rào bạn! Lần này là loại chổm nhỏ bằng ngón chân cái hoặc lớn hơn chút ít. Họ ấn định mỗi người 60 cây. Loại chổm nhỏ này trên các đỉnh núi gần hơn loại chổm lớn, với lại 60 cây này chắc là nhẹ hơn 10 cây chổm lớn vì vừa nhỏ vừa ngắn. Nhóm chúng tôi gọi là trợ giúp nhau, vẫn là anh Sang, anh Lễ, anh Thành, và tôi. Lên đến đường đỉnh, tôi với anh Thành cứ đi trước chỉ cần bẻ nhánh cây dọc đường làm dấu cho anh Sang với anh Lễ từ từ đến sau. Đốn đủ cho 4 bó, cũng là lúc anh Sang với anh Lễ chặt dây xong. Cột lại chặt chẽ, chúng tôi vác trở lại triền núi để thả xuống như ông Tiết Nhơn Quí trong truyện dã sử Trung Hoa với chiến thuật “dứt dây lăn gỗ” vậy. Bốn bó xuống núi xong, tôi với anh Thành xuống trước, anh Sang với anh Lễ tuột xuống sau.
Kiểm điểm đủ người, tên võ trang bắt cả Tổ xếp hàng đôi để hắn kiểm soát số lượng. Nó đếm từng bó, bó nào thiếu nó đẩy mạnh qua một bên. Cuối cùng là nó mắng:
“Các anh là những người phản quốc, các anh đã bóc lột nhân dân, bây giờ các anh còn qua mặt chúng tôi? Những bó tôi đẩy qua một bên, chỉ có hơn 50 cây thôi. Các anh bỏ cái tính gian dối đó đi, tập sống lương thiện để còn nuôi vợ nuôi con. Lần này tôi tha, lần sau các anh biết tay tôi.”
Tất cả chúng tôi, mặt người nào người nấy dài xuống một cách thảm hại, vì cái thằng nhóc con nó chửi như tát nước do thiếu vài cây chổm. 
Hắn nói như quát một cách khô khan: “Về trại”.
Bó chổm lúc nảy không nặng bao nhiêu, nhưng bây giờ thì quá nặng! Anh Lễ ra dấu bảo tôi chờ. Tôi chầm chậm đến khi anh lên ngang tôi. Anh nói:
“Theo anh, thằng chó đẻ này chửi tụi mình là do cá nhân nó hay là do chính sách của tụi nó?” 
“Thằng Bật quản giáo đứng im khi thằng võ trang chửi mình, tôi không cho là vấn đề cá nhân, mà là chính sách của tụi nó sỉ nhục mình, hay ít ra cũng là một loại chính sách không thành văn.”
Lại bệnh tưởng chết.
Hôm sau tôi vờ bệnh xuống trạm xá lấy thuốc uống. Khi đến Trại Cốc này, chúng nó bắt buộc chúng tôi phải gói tất cả các loại thuốc lại và đem gởi ở trạm xá, khi có bệnh thì đến xin nhận lại và uống tại chỗ. Anh Huỳnh Ngọc Lang (Đại Tá An Ninh Quân Đội) là người giữ thuốc của chúng tôi. Nhân đến trạm xá, lần đầu tiên trông thấy anh Dư Thành Nhựt (Đại Tá, Bộ Quốc Phòng) nhổ răng quá ư độc đáo, nhưng rất công hiệu. Một anh từ ngoài bước vào, tay bụm hàm bên trái, mặt nhăn nhó chứng tỏ là anh đau lắm. Đau răng mà quí vị quí bạn, nó thấu lên đầu chớ giỡn đâu! Anh Nhựt chậm rãi như lúc nào:
“Chịu hết nỗi phải không? Tôi bảo đưa tôi nhổ mấy hôm nay mà không chịu”              
“Anh làm ơn nhổ giùm tôi đi. Chịu hết nỗi rồi.” Anh bệnh nhân rên rỉ.
“Chờ tôi một phút là xong ngay.”
Mời quí vị quí bạn xem anh Dư Thành Nhựt nhổ răng như thế nào mà ảnh nói tỉnh bơ. Anh Nhựt bảo:
“Nhắm mắt lại, chừng nào tôi bảo mở mới mở nghe chưa.”
Anh nắm tay anh “bệnh binh” dẫn đến sát cánh cửa, lấy sợi dây nhỏ mà anh đã se sẳn, một đầu cột vào chân răng còn đầu kia cột vào cánh cửa. Anh nói:
“Anh vẫn nhắm mắt nhé, ngẩng mặt lên trần nhà đi.”
Anh “bệnh binh” vừa ngẩng mặt lên thì anh Nhựt đẩy mạnh cánh cửa nghe cái “phựt”, thế là cái răng theo sợi dây ra ngoài. Một chút máu rướm ra khóe miệng. Sau khi nhét tí xíu bông gòn vào lỗ chân răng để cầm máu, anh nói:
“Anh ngồi nghỉ một chút, súc miệng, tôi thay miếng bông gòn khác là về lán. Hôm nay anh ăn cháo, tôi qua nhà bếp ghi tên cho anh.”
Phải công nhận là anh Nhựt rất dạn tay. Tôi không rõ trước năm 1975, anh có học Đông Y hay không, nhưng khi anh được chỉ định vào trạm xá trại này thì anh rất nhiệt tình, từ cạo gió, nhổ răng, đi rừng tìm những cây dược liệu về cắt gọt phơi khô nấu nước cho anh em uống. Thật sự có bổ hay không thì không ai quả quyết, nhưng có điều chắc chắn là nếu uống hết một tô thì “no bụng”. Vì vậy mà nhiều anh em đến xin “nước bổ” của anh Nhựt. Tôi cũng vậy.
Giả vờ bệnh, không ngờ lại bệnh thiệt. Tại chỗ nằm, anh Nghĩa bên  phải và anh Nguyễn Phán bên trái tôi, mỗi người khoảng 7 tấc (0.7m). Áng chừng giữa đêm, vì chúng nó bắt gởi đồng hồ nên chúng tôi không biết giờ giấc gì hết mà chỉ áng chừng thôi. Tôi biết là tôi thức, nhưng không thể nhúc nhích được để lay anh Nghĩa hay anh Phán thức dậy giúp đỡ, cũng không phát âm thành tiếng để gọi hai anh ấy nữa. Tôi cứ ú ớ, và rên. Chắc cũng khá lâu. Bỗng anh Nghĩa giật mình vì tiếng ú ớ của tôi. Tôi nghe anh gọi “Anh Hoa. Anh Hoa”, nhưng không thể nào đáp lại được, quai hàm như cứng lại rồi. Anh Nghĩa lật đật ngồi dậy, một tay đỡ đầu tôi một tay anh tìm hộp dầu cù là, vì thường ngày tôi có nói với anh  là tôi để nó dưới đầu nằm để khi anh ấy cần thì cứ sử dụng, cũng là cách tôi dự phòng trường hợp này sau lần bị “thương hàn” suýt chết ở trại nhà ngói. Anh xoa dầu vào tay, chân, ngực, cổ, và cạo gió. Tôi ấm người và tỉnh lại. Thở ra một cái thật mạnh, giống như hơi thở bị dồn nén bên trong bây giờ mới đẩy nó ra được là cảm thấy khỏe ngay. Anh nói:

“Anh bị trúng gió nặng quá. Tôi mà ngủ mê là anh dám đi luôn lắm.”
“Đúng. Lúc ấy tay chân tôi như đóng băng cứng lại, trong khi tôi cảm thấy nghẹt thở có lẽ vì không đẩy hơi thở ra ngoài được. Cám ơn anh rất nhiều. Đây là lần thứ hai tôi thoát chết nếu không có anh và các bạn.”

1      2      3      4      5      6      7      8


No comments: