Chương 5
Những nghịch lý của chuyên chính vô sản
Quan niệm “chuyên chính vô sản”
của Marx, mới thoạt nhìn thì có vẻ hợp lý, phù hợp với logic; nhưng nếu
xem xét kỹ, chúng ta thấy nó chứa đựng nhiều điều nghịch lý:
1.
Trước hết là vấn đề thời hạn của chuyên chính vô sản. Trong quan niệm của Marx, chuyên chính vô sản chỉ là một hình thức nhà nước mang tính chất cách mạng và tạm thời. Nhưng
bao giờ thì chấm dứt nền độc tài của giai cấp vô sản? Làm thế nào để đề
phòng sự lạm dụng của những kẻ nhân danh giai cấp vô sản kéo dài thời
hạn của chuyên chính vô sản ra quá mức cần thiết, thậm chí kéo dài vô
hạn?
Theo lập luận của Marx và Engels,
chuyên chính vô sản được thiết lập nhằm mục đích trấn áp giai cấp tư
sản, xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất. Như vậy, sự tồn tại của chuyên chính vô sản liên quan đến hai điều
kiện: kẻ thù giai cấp (giai cấp tư sản) và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Về
điều kiện thứ nhất: nếu coi sự hiện diện của kẻ thù giai cấp là điều
kiện để duy trì chuyên chính vô sản thì không thể ngăn cản những người
cộng sản cầm quyền viện đủ mọi lý do để kéo dài thời hạn của chuyên
chính vô sản, bởi vì ngay cả khái niệm kẻ thù giai cấp cũng hết sức mơ hồ. Hãy thử xem xét trường hợp của nước Nga:
Trước Cách mạng tháng Mười, Lenin tỏ ra rất lạc quan. Trong Nhà nước và cách mạng, ông cho rằng việc đàn áp giai cấp bóc lột là việc tương đối dễ dàng, vì đây là sự trấn áp của đại đa số (nhân dân) đối với một thiểu số (bọn bóc lột). Ông viết:
… việc đa số người hôm qua
là nô lệ làm thuê trấn áp thiểu số người bóc lột, là việc tương đối dễ
dàng, đơn giản, tự nhiên, nên sẽ rất ít tốn máu hơn việc trấn áp những
cuộc khởi nghĩa của nô lệ, của nông nô, của công nhân làm thuê, nên, đối
với nhân loại, sẽ ít tốn kém hơn nhiều. Sự trấn áp ấy có thể dung hợp
với việc mở rộng chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân khiến sự
cần thiết phải có một bộ máy trấn áp đặc biệt cũng bắt đầu mất dần.(Lenin, Nhà nước và cách mạng, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1974, tr. 145)
Đến cuối năm 1918, do ảnh hưởng của cuộc nội chiến, giọng điệu của Lenin đã bớt lạc quan hơn. Ông đánh giá rằng: “… theo lệ thường
thì trong bất cứ cuộc cách mạng sâu sắc nào cũng thế, bọn bóc lột vẫn
duy trì được trong nhiều năm những ưu thế thực tế to lớn hơn những người
bị bóc lột, nên phản kháng lại một cách lâu dài, dai dẳng, liều mạng”. (Lenin, Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xky, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1974, tr. 49). Chẳng những thế, ông còn báo động về hy vọng và mưu đồ
phục hồi chủ nghĩa tư bản của bọn bóc lột, nguy cơ này tồn tại trong
suốt thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Nhưng không phải chỉ có giai cấp tư sản và bọn địa chủ. Ông còn cảnh báo
rằng “đằng sau bọn tư bản bóc lột là quảng đại quần chúng tiểu tư sản,
tầng lớp mà hàng chục năm kinh nghiệm ở tất cả các nước đã chứng tỏ rằng
họ ngập ngừng và dao động…” (Sđd, tr. 50).
Đến năm 1920, sau khi giành được chiến thắng trong cuộc nội chiến, ông lại nêu thêm một kẻ thù mới, đó là sức mạnh của tập quán, sức mạnh của nền tiểu sản xuất:
Vì đáng
tiếc là hiện nay, trên thế giới, nền tiểu sản xuất đang còn chiếm phần
rất, rất lớn, mà nền tiểu sản xuất thì từng ngày, từng giờ, luôn luôn đẻ ra
chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản một cách tự phát và trên những quy
mô rộng lớn. Vì tất cả những lẽ đó, nên cần phải có chuyên chính vô sản;
và không thể nào chiến thắng được giai cấp tư sản nếu không có một cuộc
chiến đấu lâu dài, kiên trì, quyết liệt, nếu không có một cuộc chiến
đấu sống mái đòi hỏi phải có tính kiên định, kỷ luật, quyết tâm, một ý
chí thống nhất và không gì lay chuyển nổi. (Lenin, Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1973, tr. 13)
Như vậy là có thêm một nguy cơ mới để bào chữa cho chuyên chính. Lenin còn nêu thêm một định nghĩa khác về chuyên chính vô sản:
Chuyên
chính vô sản là một cuộc đấu tranh kiên trì, đổ máu và không đổ máu, bạo
lực và hoà bình, bằng quân sự và bằng kinh tế, bằng giáo dục và bằng
hành chính, chống những thế lực và những tập tục của xã hội cũ. Sức mạnh
của tập quán ở hàng triệu và hàng chục triệu người là một sức mạnh ghê
gớm nhất. (Sđd, tr. 52)
Giờ đây chuyên chính vô sản không chỉ nhằm để đối phó với một thiểu số bóc lột như đã nói trong Nhà nước và cách mạng mà còn nhằm để đối phó với một nền sản xuất nhỏ, thậm chí với một kẻ thù vô hình (tập quán) ở hàng triệu, hàng chục triệu người.
Từ chỗ là tạm thời, chuyên chính vô sản bắt đầu được kéo dài tuổi thọ.
Từ chỗ chỉ có một nhóm nhỏ kẻ thù tương đối cụ thể, rõ ràng, giờ đây
chuyên chính vô sản đã có hàng triệu, hàng chục triệu kẻ thù không có
hình thù rõ rệt.
Không có gì là khó hiểu
nếu sau khi Lenin mất đi, Stalin lại tiếp tục tạo ra nhiều kẻ thù mới,
nhiều lý do mới để kéo dài thời hạn của chuyên chính vô sản. Và khi quan
niệm chuyên chính vô sản được vận dụng vào những nước kém phát triển
hơn cả nước Nga, nhất là những nước đã trải qua nền quân chủ tập quyền
hàng nghìn năm (như Trung Quốc hay Việt Nam chẳng hạn), thì chúng ta có
thể hình dung được sự tuỳ tiện trong việc sáng tạo ra những kẻ thù hay các thế lực thù địch muôn hình muôn vẻ để kéo dài tuổi thọ của chuyên chính vô sản.
Về điều kiện thứ hai, nếu giả định rằng chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
là nguồn gốc sâu xa làm phát sinh ra Nhà nước, thì sự tiêu diệt chế độ
tư hữu tất yếu sẽ dẫn đến sự tiêu vong của Nhà nước. Thế nhưng, nếu giả
thuyết nói trên sai, nghĩa là Nhà nước có một nguồn gốc độc lập, không
liên quan đến lĩnh vực kinh tế; thì việc xoá bỏ chế độ tư hữu, tập trung
tư liệu sản xuất của toàn bộ xã hội vào tay Nhà nước sẽ không làm cho
Nhà nước tự tiêu vong, mà ngược lại, sẽ làm cho Nhà nước ngày càng bành
trướng hơn nữa, vì nắm được trong tay cả quyền lực chính trị lẫn quyền
lực kinh tế. Về điều này thì nhân loại đã từng có quá nhiều kinh nghiệm,
rõ rệt nhất là chế độ quân chủ tập quyền ở phương Đông (như ở Trung
Quốc, Việt Nam,… chẳng hạn) với đặc điểm là quyền sở hữu tối cao về
ruộng đất thuộc về Nhà nước và sự can thiệp mạnh mẽ của Nhà nước vào mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Tư liệu sản xuất tập trung trong tay Nhà
nước sẽ giúp cho Nhà nước chuyên chính vô sản có điều kiện trở nên
chuyên chính hơn nữa và giả thuyết về sự tiêu vong của Nhà nước suy cho
cùng chỉ là một ảo tưởng hay tệ hơn nữa, một lời hứa hẹn mang tính chất
lừa bịp.
2. Nghịch lý thứ hai nằm ngay trong khái niệm giai cấp vô sản.
Theo
định nghĩa của Marx, giai cấp vô sản bao gồm những người lao động làm
thuê trong xã hội hiện đại, do không có tư liệu sản xuất nên phải bán
sức lao động để nhận tiền lương của chủ tư bản. Khi nói đến vô sản, Marx
muốn nói đến công nhân công nghiệp, những người lao động làm
thuê trong các công xưởng, nhà máy. Ông cũng tiên đoán rằng giai cấp vô
sản sẽ ngày càng chiếm số đông trong xã hội tư bản, trong khi các giai
cấp trung gian (như tiểu tư sản thành thị, nông dân) sẽ ngày càng tàn
lụi đi cùng với đà phát triển của sản xuất công nghiệp.
Nếu định nghĩa công nhân là những người làm công ăn lương (wage-earner)
thì thoạt nhìn vào các nước công nghiệp phát triển hiện nay, quả thật
giai cấp công nhân ngày càng chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội: hầu hết
mọi người đều trở thành người làm công ăn lương, tiểu chủ và thợ thủ
công ngày càng ít, nông dân lại càng hiếm hơn. Thế nhưng, người làm công
ăn lương ngày nay bao gồm từ các thợ mỏ, công nhân quét dọn trong các
bệnh viện, những nhân viên điện toán, những công chức thâm niên, các
giáo sư đại học, các cầu thủ bóng đá cho đến những nhân viên bảo vệ các
hộp đêm, thậm chí vũ nữ thoát y, v.v... Có tình hình đó là vì tỷ lệ của
sản xuất công nghiệp ngày càng giảm trong khi khu vực dịch vụ ngày càng
tăng lên. Đó là hiện tượng phổ biến ở tất cả các nước phát triển cao,
đánh dấu sự ra đời của các xã hội hậu - công nghiệp (post-industrial societies) [1] .
Ngược lại, nếu định nghĩa công nhân là những công nhân công nghiệp
thì giai cấp công nhân ngày nay lại giảm đi rất nhiều so với tổng số
lao động trong xã hội. Lấy ví dụ nước Anh, nước tư bản chủ nghĩa đầu
tiên trong lịch sử. Thống kê cho thấy vào cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ
XXI, trong tổng số 29,5 triệu lao động ở Anh, chỉ có 2% thuộc khu vực
nông, lâm, ngư nghiệp, 27% thuộc khu vực công nghiệp, trong khi có đến
71% lao động làm việc trong khu vực dịch vụ [2]
. Tỷ lệ của công nhân trong các công xưởng giảm đi, kèm theo đó là sự
giảm bớt số lượng công nhân trong các ngành công nghiệp nặng truyền
thống (như công nghiệp sắt thép chẳng hạn). Ở châu Âu ngày nay, chủ
nghĩa tư bản không cần đến một giai cấp công nhân đông đảo mà cần một
giai cấp công nhân với số lượng ít hơn, được trả lương cao và cực kỳ
năng động, một giai cấp công nhân có tay nghề cao. Ngày nay, những công
nhân có tay nghề cao này tạo thành một tầng lớp sống tương đối sung túc,
một “tầng lớp quý tộc” thật sự của giai cấp vô sản, hội nhập một cách
hoàn hảo vào nền kinh tế thị trường, và cùng dự phần vào sự phồn thịnh
của xã hội tiêu thụ. (Donald Sassoon, Sđd, tr. 655-656)
Sự
thay đổi về số lượng và cơ cấu của giai cấp công nhân như đã nêu trên
tất nhiên sẽ làm thay đổi tính chất, đặc điểm của giai cấp công nhân
hiện đại. Như vậy cái nhìn của Marx một thế kỷ rưỡi trước đây về một
giai cấp vô sản chủ yếu là công nhân công nghiệp, bị bóc lột đến tận
xương tuỷ, có tính tổ chức, kỷ luật cao như một đội quân, liệu có còn
phù hợp với giai cấp công nhân trong xã hội hiện đại hay không?
Có
thể nói giai cấp vô sản trong quan niệm của Marx là một khái niệm triết
học mang tính chất trừu tượng, giả tưởng hơn là một khái niệm khoa học.
Giai cấp vô sản trong cái nhìn của Marx là một giai cấp thuần nhất, có
cùng những điều kiện sinh hoạt như nhau, chịu cảnh bóc lột như nhau, có
cùng tình cảm, tư tưởng như nhau; trong khi trong thực tế, giai cấp công
nhân sống ở các quốc gia khác nhau, thuộc các chủng tộc khác nhau, mang
tâm lý dân tộc, tín ngưỡng khác nhau, điều kiện sinh hoạt cũng không
hoàn toàn giống nhau (kỹ năng lao động, trình độ tay nghề khác nhau, do
đó mức sống cũng khác nhau). Thực tế lịch sử cho thấy giai cấp vô sản
không phải là một giai cấp thuần nhất về tư tưởng, không phải là một
khối thống nhất về ý chí và hành động, có kỷ luật tựa như kỷ luật trong
các công xưởng. Nếu để cho họ tự do suy nghĩ và hành động, tự do lựa
chọn con đường phải theo, họ sẽ chấp nhận nhiều trào lưu tư tưởng khác
nhau, đi theo nhiều tổ chức công đoàn, đảng phái chính trị khác nhau,
thậm chí đối lập nhau. Vậy thì trong số những tổ chức, những trào lưu tư
tưởng ấy, ai là người xứng đáng nhất đại diện cho giai cấp vô sản?
Một
câu hỏi khác: lấy gì bảo đảm nền chuyên chính vô sản là chuyên chính
của toàn thể một giai cấp? Vì quyền lực chính trị không phải là cái có
thể phân chia đồng đều một cách tuyệt đối, vì xã hội còn có nhà nước bao
giờ cũng có sự phân chia giữa kẻ bị trị và người cai trị, vì mọi chính quyền (dù là chính quyền được gán cho cái mỹ từ nhân dân)
đều phải có cấp trên cấp dưới, cho nên làm thế nào ngăn ngừa được tình
trạng quyền lực chính trị rơi vào tay một thiểu số hay một cá nhân?
Trong Nội chiến ở Pháp và trong nhiều tác phẩm khác, Marx bác bỏ những nguyên tắc của chế độ đại nghị [3]
. Đó là những nguyên tắc được các nhà tư tưởng của thế kỷ XVIII nêu ra
nhằm mục đích khống chế, ngăn ngừa nạn lạm quyền. Xoá bỏ những nguyên
tắc đó tất yếu sẽ mở đường cho việc lạm dụng quyền lực, do đó quan niệm
chuyên chính vô sản có thể trở thành một chiêu bài để một thiểu số hay
một cá nhân nhân danh giai cấp vô sản thâu tóm quyền lực chính trị vào
tay mình. Lý thuyết mác-xít mà mục tiêu chủ yếu là xoá bỏ sự tha hoá của
người lao động trong lĩnh vực kinh tế cuối cùng lại trở thành một mớ lý
luận nguỵ biện để che đậy cho một tình trạng tha hoá không kém nặng nề
của người dân trong lĩnh vực tư tưởng và chính trị. Đó là chưa nói đến
một sự tha hoá khác của những người lao động trong một nền kinh tế chỉ
huy mà kẻ làm chủ thật sự là những quan chức Nhà nước mang danh nghĩa đầy tớ của nhân dân. Điều
mỉa mai nhất là sự bóc lột này lại được che đậy dưới lớp vỏ của một
cuộc cách mạng nhằm “giải phóng người lao động” khỏi mọi ách áp bức, bóc
lột.
3. Nghịch lý thứ ba nằm trong mối quan hệ giữa giai cấp vô sản và toàn thể nhân dân.
Trước
hết, trong quan niệm của Marx, nhân dân không bao gồm giai cấp tư sản.
Giai cấp tư sản bị coi là kẻ thù giai cấp, không được xếp chung với nhân
dân, và là đối tượng trấn áp của chuyên chính vô sản.
Nhưng giai cấp tư sản
là ai? Vấn đề không đơn giản chút nào khi áp dụng chuyên chính vô sản
vào thực tế. Bởi vì ngoài bản thân những nhà tư sản và của cải của họ
còn có con cái, thậm chí dòng họ của họ nữa. Điều đáng nói là cả hai nhà
sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đều không xuất thân từ
giai cấp vô sản mà lại có liên quan đến giai cấp tư sản thù địch: Marx
là một trí thức tiểu tư sản, cha ông là một luật sư thành đạt ở nước
Phổ, vợ ông xuất thân từ một gia đình quý tộc (bà có người anh cùng cha
khác mẹ về sau làm đến chức bộ trưởng nội vụ nước Phổ); còn Engels là
con một nhà tư bản trong ngành công nghiệp dệt. Thế nhưng cả hai ông đều
không bàn luận thấu đáo về vấn đề này. Chính lỗ hổng về lý luận đó đã
tạo điều kiện cho sự ra đời của chủ nghĩa lý lịch, một quan niệm
cực kỳ bảo thủ, phản động làm nền tảng cho chính sách sử dụng nhân lực
và cả chính sách giáo dục, đào tạo nhân tài trong các nước xã hội chủ
nghĩa rập theo mô hình xô-viết.
Nhưng dù sao khái niệm giai cấp tư sản (kể cả gia đình họ, con cháu họ) cũng chỉ bao gồm một số người nhất định, trong khi tay sai của giai cấp tư sản là
một khái niệm có thể áp dụng cho bất cứ ai, kể cả những nhà hoạt động
cách mạng có tư tưởng, quan điểm khác với quan điểm chính thống.
Chính điều đó giải thích lý do tại sao trong phong trào mác-xít, sự sửa
sai về mặt lý luận là cực kỳ khó khăn. Ngay cả những người muốn đổi mới,
sửa sai chủ nghĩa Marx vẫn phải dựa vào Marx và Engels để tìm cách giải
thích lại lý thuyết của hai ông, chứ không bao giờ dám phê phán hai ông
một cách triệt để. Và trong lịch sử của các đảng cộng sản cầm quyền,
cách tốt nhất để trấn áp những người không cùng quan điểm vẫn là gán cho
họ cái mũ tay sai của giai cấp phản động.
Marx đã từng viết trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản:
Tất cả
những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực
hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào
độc lập của tuyệt đại đa số,mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số. (Marx,
Engels, Sđd, T. I, tr. 555)
Do tin vào sứ mệnh mang tính chất thiêng liêng của giai cấp vô sản, do tin vào bản chất thánh thiện của giai cấp vô sản, Marx
luôn luôn cho rằng chỉ có giai cấp vô sản là đại diện được cho quyền
lợi của toàn thể nhân dân (tức là tất cả những người lao động). Nhưng
giai cấp vô sản làm sao có thể đại diện được cho các giai cấp khác, như
nông dân, tiểu tư sản thành thị, và nhất là tầng lớp trí thức, nếu như
giai cấp ấy thực hiện một nền chuyên chính thay vì thông qua một nền dân
chủ? Thực tế cho thấy giữa giai cấp công nhân và các giai cấp khác
trong xã hội, nhất là nông dân và trí thức, luôn luôn có sự khác biệt về
quyền lợi, về nguyện vọng, về tư tưởng. Chỉ có một chế độ dân chủ -
trong đó mọi giai cấp đều được chia sẻ quyền lực, mỗi giai cấp đều có
đại biểu chính trị của mình, có tiếng nói của mình, mới bảo đảm được các
điều kiện để giải quyết những mâu thuẫn phát sinh hàng ngày, hàng giờ
trong cuộc sống. Nhưng Marx lại không tán thành một chế độ dân chủ tương tự như chế độ đại nghị mà lại đề ra khái niệm chuyên chính vô sản thủ tiêu chế độ đại nghị. Cái thể chế đó đem áp dụng vào thực tế tất yếu chỉ có thể đem lại những hậu quả xấu, mà công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp bằng con đường bạo lực và chính sách đàn áp tự do tư tưởng đối với giới trí thức chỉ là những ví dụ điển hình.
Đoạn
văn của Marx được nêu trên đây, suy cho cùng, chỉ là một ước vọng của
Marx, một ước vọng mang tính chất ảo tưởng hơn là một chân lý khách
quan. Nó không hơn gì cái hình ảnh đẹp đẽ của Khổng Phu Tử và các nho
gia về một đấng minh quân, một thánh vương yêu dân như yêu
con đẻ, mà nhân dân các nước Á Đông đã ôm ấp trong hàng ngàn năm như
một thứ thuốc phiện để giải toả cho những ẩn ức, bất mãn về mặt chính
trị.
4. Nghịch lý cuối cùng, và cũng là nghịch lý cơ bản nhất, là mâu thuẫn giữa dân chủ và chuyên chính.
Dân
chủ và chuyên chính vốn là hai khái niệm đối nghịch nhau như nước với
lửa. Nhưng bằng thứ logic biện chứng độc đáo của mình, Marx lại muốn kết
hợp hai khái niệm ấy với nhau. Do chỗ cho rằng chế độ dân chủ từ trước
tới nay suy cho cùng cũng chỉ là dân chủ dành cho một thiểu số bóc lột,
chế độ dân chủ đại nghị cũng chỉ là một hình thức Nhà nước với những hạn
chế của nó, ông muốn đạt tới một chế độ dân chủ tuyệt đối, không có nhà nước, dựa trên sự bình đẳng tuyệt đối về kinh tế. Điều kỳ lạ là việc ông chấp nhận một nền độc tài tạm thời
để đạt tới nền dân chủ tuyệt đối ấy. Đó là chỗ khác biệt căn bản giữa
ông và nhà vô chính phủ nổi tiếng Proudhon. Cả hai đều là những nhà cách
mạng hiến cả cuộc đời cho giai cấp công nhân. Cả hai đều là những nhà
triết học mơ mộng, không tưởng, ước mơ một xã hội không còn có nhà nước,
trong đó con người được tự do một cách tuyệt đối. Nhưng trong khi
Proudhon từ khước bạo lực, từ khước mọi biện pháp cưỡng bức, mọi hình
thức chuyên chế thì Marx lại chấp nhận bạo động và chọn một giải pháp
phi dân chủ (dù xét về mặt lý thuyết, chỉ là tạm thời).
Sự
phát triển của lịch sử loài người đã cho thấy nền dân chủ của xã hội
hiện đại là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài. Lúc đầu nó chỉ
là nền dân chủ của một thiểu số người trong xã hội. Những nhà tư sản ở
Tây Âu và Bắc Mỹ thiết lập nó dựa vào kinh nghiệm của chế độ dân chủ của
giai cấp chủ nô Hy Lạp – La Mã. Nhưng khác với nền dân chủ cổ đại, nền
dân chủ hiện đại ngay từ đầu đã tuyên bố quyền bình đẳng về chính trị
của mọi công dân trong xã hội. Tất nhiên lúc đầu nó chỉ mới là sự bình
đẳng trên giấy tờ, bình đẳng về mặt pháp lý, chưa được thực hiện đầy đủ,
trọn vẹn trong thực tế. Nhưng một khi quyền bình đẳng ấy được tuyên bố
thì mọi cá nhân, mọi tập thể, mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội đều có
thể đấu tranh để thực hiện quyền bình đẳng ấy. Do đó, theo thời gian,
cùng với sự trưởng thành của mỗi xã hội, mỗi dân tộc, nền dân chủ ấy sẽ
ngày càng mở rộng cho mọi cá nhân, mọi tầng lớp, mọi giai cấp trong xã
hội. So với thời của Marx và Engels, giai cấp công nhân ở các nước phát
triển ngày nay được hưởng đầy đủ hơn các quyền công dân và quyền con
người, chính là nhờ quá trình phát triển ấy của nền dân chủ hiện đại.
Ngược lại, nếu người ta tuyên bố một nền độc tài (dù là một nền độc tài tập thể hay một nền độc tài giai cấp) thì
việc mở rộng dân chủ đương nhiên trở thành đặc quyền của một thiểu số
nắm quyền lực chính trị. Khi nào mở rộng, mở rộng đến mức nào, hoàn toàn
phụ thuộc vào ý muốn của kẻ cầm quyền, mà thói thường thì kẻ cầm quyền
đều không thiết tha mở rộng dân chủ, vì lo sợ mất địa vị thống trị của
mình, mất đặc quyền, đặc lợi của gia đình mình, phe nhóm mình. Bất cứ
một nền chuyên chính nào cũng đẻ ra một đẳng cấp cầm quyền với những đặc
quyền, đặc lợi dành riêng cho những thành viên của nó. Nếu không có
những cuộc đấu tranh đòi dân chủ, không bao giờ đẳng cấp cầm quyền lại
tự ý mở rộng dân chủ, tự ý ban phát quyền lợi chính trị cho mọi người
dân. Đó là lý do giải thích tại sao ở tất cả các nước áp dụng chuyên
chính vô sản, lại không có được sự tiến bộ về mặt dân chủ.
Sự
gán ghép một cách khiên cưỡng hai khái niệm dân chủ và chuyên chính làm
cho chủ nghĩa Marx trở thành một học thuyết hai mặt: một mặt là đấu
tranh ôn hoà, chấp nhận những giá trị dân chủ; mặt thứ hai là dựa vào bạo lực vũ trang, ngả theo xu hướng chuyên chính.
Tình hình đó tất yếu dẫn đến một cuộc đấu tranh nội bộ, làm phát sinh
ra hai xu hướng: cải cách và cách mạng. Nhìn bên ngoài, cuộc đấu tranh
giữa hai trường phái này bắt nguồn từ những vấn đề mang tính chiến
thuật, sách lược như vấn đề phương pháp cách mạng chẳng hạn. Nhưng trong
thực chất, đó là sự xung đột giữa hai cách nhìn khác nhau xung quanh
vấn đề nhà nước và dân chủ. Phái cách mạng muốn xoá bỏ, đập tan nhà nước cũ để thực hiện chuyên chính vô sản trong khi phái cải cách
từ bỏ quan niệm chuyên chính vô sản hay làm thay đổi nội dung của nó
theo hướng tiếp thu những giá trị của nền dân chủ hiện đại.
Chương VI
Cuộc đấu tranh giữa hai phái - cải cách và cách mạng
Engels
mất vào năm 1895. Vài năm sau, trong lòng Đảng dân chủ - xã hội Đức,
chính đảng mạnh nhất của phong trào công nhân lúc đó, những người
mác-xít bắt đầu chia thành hai trường phái tư tưởng khác nhau: phái cải
cách và phái cách mạng.
Sự hình thành của phái cải cách trong phong trào mác-xít bắt đầu trước hết từ Eduard Bernstein (1850-1932), người thường được coi là cha đẻ của chủ nghĩa xét lại (revisionism).
Trong những năm sống lưu vong ở nước Anh, Bernstein đã gần gũi với
những người thuộc phái Fabian (Fabianism) và chịu ảnh hưởng những tư
tưởng cải cách của phái này. Cuối những năm 1890, ông công bố những quan
điểm của mình qua một loạt các bài báo đăng trên tạp chí Neue Zeit,
gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi trong nội bộ Đảng dân chủ - xã hội
Đức. Sau đó, ông gửi một lá thư cho hội nghị của đảng họp tại Stuttgart
vào tháng 10 năm 1898, và vài tháng sau, cho xuất bản tác phẩm Những tiền đề của chủ nghĩa xã hội và những nhiệm vụ của Đảng dân chủ - xã hội (bản dịch tiếng Anh có nhan đề là Evolutionary Socialism - Chủ nghĩa xã hội Tiến hoá).
Theo
Bernstein, chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang một giai đoạn mới với
những đặc điểm mới vượt ra ngoài dự kiến của Marx và Engels như: hệ
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa có khả năng tự-điều chỉnh tránh được
khủng hoảng, chế độ dân chủ đại nghị tạo điều kiện cho giai cấp công
nhân có thể đấu tranh một cách hoà bình trong khuôn khổ của nhà nước
hiện hành; sự phát triển của hệ thống ngân hàng, các tổ chức độc quyền
và các phương tiện giao thông, sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ cũng như các nhóm xã hội trung gian song song với xu hướng tập
trung sản xuất, v.v… Căn cứ vào tình hình mới đó, ông đã trình bày một
loạt luận điểm nhằm xét lại, điều chỉnh chủ nghĩa Marx.
Sự
thách thức quan trọng nhất của Bernstein đối với chủ nghĩa Marx chính
thống nhằm vào mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Đối với những
người mác-xít chính thống, chính mục đích sau cùng của chủ nghĩa xã hội
xác định những nguyên tắc của hoạt động thực tiễn trước mắt chứ không
phải ngược lại. Bernstein đã tìm cách cắt đứt sự ràng buộc đó giữa mục
đích cuối cùng và hoạt động thực tiễn hàng ngày. Đối với ông, chủ nghĩa
xã hội không phải là một mục đích mà là một quá trình tiếp diễn không ngừng:
Tôi thành
thật thừa nhận rằng tôi đặc biệt ít nghĩ đến, hoặc quan tâm đến, cái
thường được gọi là “mục đích cuối cùng của chủ nghĩa xã hội”. Mục đích
ấy, dù như thế nào, cũng không là gì đối với tôi, phong trào là tất cả.
Và nói đến phong trào, tôi hiểu đó vừa là phong trào chung của xã hội,
nghĩa là tiến bộ xã hội, vừa là những hoạt động và tổ chức về chính trị
và kinh tế dẫn đến sự tiến bộ đó. (Trích theo: Donald Sassoon, One Hundred Years of Socialism, Fontana Press, Harper Collins Publishers, London, 1997, tr. 17-18)
Về vấn đề nhà nước và dân chủ,
Bernstein tin vào những phương pháp của chế độ dân chủ hơn là chuyên
chính vô sản, nhằm đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội. Ông tin vào các phong
trào công đoàn và hợp tác xã như những phương tiện để đạt được tiến bộ.
Ông định nghĩa dân chủ như một sự vắng mặt của chính quyền mang tính
giai cấp, mặc dù nó chưa bao hàm sự xoá bỏ tuyệt đối các giai cấp. Ông
coi quyền đầu phiếu phổ thông như “sự thay thế cho một cuộc cách mạng
bằng bạo lực”:
Với một
giai cấp công nhân kém phát triển về số lượng và văn hoá, quyền bầu cử
phổ thông có thể được coi như quyền lựa chọn “đao phủ”. Tuy nhiên, với
sự phát triển về số lượng và kiến thức của giai cấp công nhân, nó trở
thành phương tiện để biến những đại biểu của nhân dân từ chỗ là những
người chủ của nhân dân thành những người đầy tớ thật sự của nhân dân.
(Trích theo: Harry W. Laidler, History of Socialism, Thomas Y. Crowell Company, New York, 1968, tr. 251)
Bernstein
đánh giá chuyên chính vô sản là một thuật ngữ lỗi thời, nếu muốn sử
dụng nó thì phải tước bỏ ý nghĩa hiện hành và gán cho nó một cách giải
thích khác nhằm làm giảm nhẹ ý nghĩa đó. Ông viết:
Chuyên
chính của các giai cấp thuộc về một nền văn minh thấp hơn, và tạm gác
qua một bên tính thiết thực và tính khả thi của nó, thuật ngữ đó chỉ có
thể được coi là một sự thụt lùi, một di chứng của tổ tiên trong lĩnh vực
chính trị (political atavism [4] ) (Trích theo: Harry W. Laidler, Sđd, tr. 252)
Coi
chủ nghĩa xã hội là người thừa kế đích thực của chủ nghĩa tự do
(liberalism), ông tin tưởng rằng sự phát triển của chủ nghĩa tự do sẽ
tạo ra khả năng một sự quá độ hoà bình lên chủ nghĩa xã hội – một khả
năng trước kia chưa hề có:
Chế độ
phong kiến, với những tổ chức và hội đoàn (corporations) cứng nhắc của
nó, cần phải bị phá huỷ ở hầu khắp mọi nơi bằng bạo lực. Những tổ chức
tự do của xã hội hiện đại khác hẳn với những tổ chức nói trên chính ở
chỗ chúng mềm dẻo và có khả năng thay đổi, phát triển. Không cần phải
phá huỷ chúng, mà chỉ cần phát triển thêm một bước nữa. Để đạt được điều
đó, chúng ta cần có tổ chức và hành động mạnh mẽ, nhưng không cần đến
một nền chuyên chính cách mạng. (Trích theo: Harry W. Laidler, Sđd, tr. 253)
Trước
mắt, theo Bernstein, Đảng dân chủ - xã hội phải trở thành một đảng mang
tính chất cải cách, một đảng đấu tranh cho sự biến đổi xã hội bằng
những phương tiện của một cuộc cải cách về dân chủ và kinh tế.
Mặc
dù bị chính thức phê phán, ảnh hưởng của Bernstein ngày càng mở rộng,
nhất là trong hàng ngũ những lãnh tụ công đoàn và trong giới trẻ.
Người đại diện cho phái mác-xít chính thống lúc đó là Karl Kautsky (1854-1938)
đã kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Marx, phê phán kịch liệt những quan điểm
của Bernstein. Nhưng Kautsky đã phê phán chủ nghĩa xét lại như thế nào?
Mặc dù nhấn mạnh rằng chủ nghĩa xã hội
chỉ có thể đạt được bằng một cuộc cách mạng chứ không phải bằng một
chuỗi các biện pháp cải cách như Berstein đã nghĩ, nhưng Kautsky lại
quan niệm cách mạng không nhất thiết phải là một cuộc biến động bằng bạo
lực, mà là một hình thức biến đổi nào đó nhằm đưa giai cấp bị áp bức
kiểm soát được chính quyền. Trong thực tế, Kautsky cho rằng đối với giai
cấp công nhân, bạo lực là một vũ khí yếu ớt, không hiệu quả bằng những phương pháp hoà bình
như: quyền tự do tổ chức, tự do báo chí và quyền phổ thông đầu phiếu.
Những phương pháp hoà bình, bao gồm chế độ nghị viện, đình công, và
tuyên truyền báo chí, bảo đảm được một cơ hội thành công lớn hơn trong
những nước có trình độ dân chủ cao hơn, trong những tập thể có lòng tin
vững chắc vào chính mình và vào lý tưởng của mình. Ông cũng thừa nhận
tác dụng của những biện pháp cải cách như: công đoàn, hợp tác xã, pháp
chế lao động, quốc hữu hoá một số ngành phục vụ công cộng. Ông viết:
Dân chủ
đối với giai cấp vô sản cũng như ánh sáng và không khí đối với cơ thể;
thiếu chúng giai cấp vô sản không thể phát triển quyền lực được. (Trích
theo: Harry W. Laidler, Sđd, tr. 266)
Trong tác phẩm Cách mạng xã hội (Social Revolution),
Kautsky mô tả một cách khái quát về viễn cảnh một nhà nước vô sản “một
ngày sau thắng lợi của cách mạng”, đúng ra là một hay hai thập niên sau
khi giai cấp vô sản nắm chính quyền. Ông đặt ưu tiên hàng đầu cho việc
xoá bỏ mọi tàn dư của chế độ phong kiến: mở rộng quyền đầu phiếu phổ
thông đến mọi cá nhân và thiết lập quyền tự do báo chí, tự do hội họp,
nhà nước độc lập hoàn toàn đối với giáo hội, bãi bỏ quyền thừa kế, thiết
lập quyền tự trị hoàn toàn đối với mọi cộng đồng cá nhân và bãi bỏ chủ
nghĩa quân phiệt. Ngoài ra, ông còn nêu các giải pháp như: giải tán quân
đội thường trực để thay bằng nhân dân tự vũ trang, cải cách chế độ thuế
bằng cách đánh thuế thu nhập luỹ tiến và thuế tài sản, tăng thêm và cải
thiện các trường học, nâng lương cho nhà giáo, mọi trẻ em đều được nuôi
duỡng, ăn mặc tốt như nhau và được hưởng các phương tiện học tập như
nhau nhưng giáo dục phải phù hợp với tâm tính đa dạng của trẻ,... (Harry
W. Laidler, Sđd., tr. 269)
Điều
đáng nói nhất là do ảnh hưởng mạnh mẽ của những quan điểm xét lại đối
với phong trào đương thời, cho nên trước năm 1914, những nhà dân chủ -
xã hội lỗi lạc nhất – kể cả Kautsky, mặc dù về mặt chính thức vẫn còn
đặt lòng tin vào chủ nghĩa Marx, nhưng trong hoạt động thực tiễn hàng
ngày đã áp dụng những biện pháp cải cách xã hội mang tính chất thực
tiễn, hoà bình như thể họ chấp nhận về bản chất những bài học của trường
phái xét lại (Harry W. Laidler, Sđd., tr. 256).
Việc
các nhà mác-xít chính thống ở Đức ngả dần sang lập trường của phái cải
cách đã dẫn đến sự đoạn tuyệt về mặt lý luận giữa Rosa Luxemburg - đại
biểu của cánh tả trong Đảng dân chủ - xã hội Đức, với Kautsky vào năm
1910 [5] .
Riêng
V. I. Lenin thì trước năm 1914 chưa có mâu thuẫn quan trọng nào với
Kautsky về mặt lý luận. Vốn là một người hâm mộ Karl Kautsky, Lenin chỉ
bắt đầu mâu thuẫn với nhà lý luận mác-xít này trong thời gian chiến
tranh thế giới lần I. Cuộc xung đột về lý luận này bộc lộ một cách đầy
đủ nhất trong tác phẩm hàng đầu của Lenin là cuốn Nhà nước và cách mạng,
được viết ngay trước cuộc Cách mạng tháng Mười Nga và được xuất bản vào
năm 1918, sau khi cuộc cách mạng thành công. Mặc dù còn dở dang (chưa
hoàn thành phần hai, nói về kinh nghiệm của những cuộc cách mạng ở Nga),
nhưng tác phẩm này đã trình bày khá đầy đủ quan niệm của Lenin về vấn
đề nhà nước.
Xét về thực chất, phần lớn những luận điểm Lenin trình bày trong tác phẩm chỉ là giải thích lại những quan điểm của Marx và Engels. Như ông đã viết ở đầu tác phẩm, mục đích của tác phẩm là “khôi phục
học thuyết chân chính của Marx về nhà nước” nhằm chống lại sự xuyên
tạc, “cải biến” chủ nghĩa Marx của các nhà tư tưởng tư sản, tiểu tư sản
và nhất là chống lại ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội hiện đại trong phong
trào công nhân thế giới (mà tiêu biểu là Karl Kautsky, lãnh tụ của Đảng
dân chủ – xã hội Đức).
Trong tác phẩm này, Lenin coi tư tuởng cách mạng bạo lực là “nền móng của toàn bộ học thuyết của Mác và Ăng-ghen” (Nhà nước và cách mạng, sđd, tr.
35). Ông phê phán quan điểm của chủ nghĩa cơ hội, tức là “cái quan niệm
mơ hồ về một sự thay đổi chậm chạp, đều đều, tuần tự, không có đột
biến, không có bão táp, không có cách mạng” (Sđd, tr. 28).
Về chuyên chính vô sản, Lenin coi đây là tiêu chuẩn phân biệt những người cơ hội chủ nghĩa với những người mác-xít chân chính, vì những người cơ hội chỉ thừa nhận đấu tranh giai cấp mà thôi:
Kẻ nào chỉ
thừa nhận có đấu tranh giai cấp không thôi, thì kẻ đó vẫn chưa phải là
một người mác-xít, kẻ ấy có thể vẫn chưa thoát khỏi khuôn khổ tư tưởng
tư sản và chính trị tư sản. Đóng khung chủ nghĩa Mác trong thuyết đấu
tranh giai cấp là cắt xén, xuyên tạc chủ nghĩa Mác, thu nó lại thành cái
mà giai cấp tư sản có thể tiếp nhận được. Chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì
mới là người mác-xít. Đó là điều khác nhau sâu sắc nhất giữa người
mác-xít và người tiểu tư sản (và cả tư sản lớn) tầm thường. Chính phải
dùng viên đá thử vàng ấy mà thử thách sự hiểu biết thực sự và sự thừa nhận thực sự chủ nghĩa Mác. (Sđd., tr. 55)
Về thái độ đối với bộ máy nhà nước cũ, như ta đã biết, sau Cách mạng 1848, Marx đã đặt vấn đề phải đập tan bộ máy nhà nước cũ của giai cấp tư sản. Nhưng trong “Thư gửi Ludwig Kugelman ngày 12.4.1871” (Tuyển tập, T.
IV, tr. 547), Marx lại nói: “đó là điều kiện tiên quyết của mọi cuộc
cách mạng nhân dân thật sự ở lục địa”. Điều đó có nghĩa là ngoài phạm vi
của lục địa châu Âu, vẫn còn có những trường hợp ngoại lệ (như Anh,
Mỹ). Giải thích lại đoạn văn đó, Lenin viết:
Vào năm
1871 điều ấy rất dễ hiểu, vì hồi bấy giờ nước Anh còn là kiểu mẫu của
nước thuần tuý tư bản chủ nghĩa, nhưng không có chế độ quân phiệt và,
trong một mức độ lớn, không có chế độ quan liêu. Vì vậy, Mác trừ nước
Anh ra, ở đó cách mạng và ngay cả cách mạng nhân dân xem chừng thực hiện
được và đã có thể thực hiện được, mà không cần có điều kiện tiên quyết là phá huỷ “bộ máy nhà nước sẵn có”.
Giờ
đây, trong năm 1917, trong thời kỳ đại chiến đế quốc chủ nghĩa lần thứ
nhất, sự giới hạn đó của Mác không còn tác dụng nữa. Lúc này nước Anh
cũng như nước Mỹ (…) đã hoàn toàn rơi tuột vào cái vũng đầy bùn đẫm máu
của toàn châu Âu với những cơ quan quân sự – quan liêu, những cơ quan
này bắt tất thảy phải lệ thuộc vào nó và trấn áp hết thảy. Giờ đây ở Anh
cũng như ở Mỹ, “điều kiện tiên quyết cho bất cứ cuộc cách mạng thật sự
nhân dân nào” là đập tan, là phá huỷ “bộ máy nhà nước sẵn có”… (Sđd., tr.62)
Như vậy, việc đập tan, phá huỷ bộ máy nhà nước cũ trở thành quy luật chung cho tất cả các cuộc cách mạng vô sản trong thời đại mà Lenin gọi là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, hay còn gọi là chủ nghĩa đế quốc (imperialism, impérialisme).
Về
nội dung của chuyên chính vô sản, Lenin dựa vào những bài học mà Marx
rút ra từ thực tiễn của Công xã Paris, và coi đó là những kinh nghiệm
hoàn toàn có thể áp dụng được vào các cuộc cách mạng đương thời, nhất là
vào trường hợp của nước Nga. Đó là những biện pháp như: xoá bỏ quân đội
thường trực, xoá bỏ bộ máy công chức, thực hành chế độ tuyển cử và bãi
miễn đối với mọi viên chức nhà nước kể cả hành pháp, lập pháp và tư
pháp, trả lương cho viên chức nhà nước ngang với lương công nhân, v.v…
Nhìn chung, Lenin muốn xoá bỏ chế độ đại nghị để thay bằng một nền dân
chủ trực tiếp tương tự như chế độ dân chủ thời nguyên thuỷ. Ông đã dành
nhiều trang để biện luận, mô tả tỉ mỉ những biện pháp đó, với hy vọng là
đem áp dụng chúng vào trường hợp của nước Nga. Hình thức chính quyền vô
sản tương tự như Công xã Paris, theo Lenin, chính là các Xô-viết (Soviets) đại biểu cho công nhân và binh sĩ, được hình thành trong cuộc cách mạng tháng Hai năm 1917, nghĩa là lúc lật đổ Nga hoàng. [6]
Cuộc
xung đột về mặt lý luận, tư tưởng giữa Lenin, đại diện cho phái cách
mạng và Kautsky, đại diện cho phái cải cách, đã là tiền đề cho sự phân
hoá của phong trào mác-xít nói riêng và phong trào xã hội chủ nghĩa nói
chung: phái cách mạng trở thành những người cộng sản (Quốc tế III), tách khỏi phái cải cách tức những người dân chủ - xã hội (Quốc tế II). Sự
phân hoá này có nguồn gốc sâu xa từ chính chủ nghĩa Marx. Trong một số
vấn đề, đặc biệt là vấn đề nhà nước, hai ông đã tạo ra những khái niệm
hết sức hàm hồ, không rõ nghĩa, có thể giải thích theo nhiều hướng khác
nhau.
Như chuyên chính vô sản chẳng hạn.
Chuyên chính vô sản là chuyên chính của một giai cấp mang một sứ mệnh
lịch sử, và theo dự kiến, giai cấp đó sẽ ngày càng chiếm đa số trong xã
hội. Nhưng những nghịch lý chứa đựng trong bản thân khái niệm chuyên chính vô sản đã
làm cho khái niệm trở nên hàm hồ, không rõ nghĩa. Vì vậy, Lenin và
những người cộng sản hiểu chuyên chính vô sản nghiêng về phía chuyên
chính, còn các nhà dân chủ - xã hội thì tuyên bố khái niệm đó đã lỗi
thời hoặc tìm cách giải thích nó nghiêng về phía dân chủ.
Hoặc
như vấn đề phương pháp cách mạng chẳng hạn. Lúc sinh thời, mặc dù tán
dương con đường cách mạng bằng bạo lực, cả Marx và Engels luôn luôn dành
ngoại lệ cho một số nước (nhất là các nước Anh, Mỹ,..), mà hai ông hy
vọng là cách mạng vô sản có thể diễn ra bằng con đường hoà bình. Năm
1872, Marx đã phát biểu tại Hà Lan như sau:
Chúng tôi
biết rằng cần phải chú ý đến những chế độ, phong tục và truyền thống của
các nước khác nhau, và chúng tôi không phủ nhận rằng hiện có những nước
như Mỹ, Anh - và nếu tôi hiểu biết rõ hơn những chế độ của các bạn thì
có thể thêm vào đó cả Hà-lan nữa, - ở đây, công nhân có thể đạt tới mục
đích của mình bằng phương pháp hoà bình. Nhưng nếu đúng là như thế đi
nữa thì chúng ta cũng phải thừa nhận rằng trong đại đa số các nước trên
lục địa, bạo lực vẫn phải là cái đòn bẩy của cuộc cách mạng của chúng
ta; và có lúc sẽ phải dùng đến bạo lực để thiết lập một cách triệt để sự
thống trị của lao động. (“Về Đại hội La Haye”; Tuyển tập, T. IV, tr. 210-211)
Sau
khi Marx mất, Engels vẫn còn lặp lại quan điểm này. Năm 1891, khi phê
phán cương lĩnh Erfurt của Đảng dân chủ - xã hội Đức, Engels đã viết:
Ta có thể
quan niệm được rằng xã hội cũ có thể tiến lên xã hội mới một cách hoà
bình, trong những nước ở đó cơ quan đại diện nhân dân tập trung tất cả
quyền hành trong tay; ở đó Hiến pháp cho phép người ta muốn làm gì thì
làm khi người ta được đa số nhân dân làm hậu thuẫn; trong những nước
cộng hoà dân chủ như Pháp và Mỹ, trong những nước quân chủ như Anh, là
những nước, ở đó ngày nào việc sắp chuộc lại triều vua cũng được đưa ra
bàn cãi trên báo chí, ở đó triều đại ấy bất lực không chống lại được ý
chí của nhân dân. (“Góp phần phê phán dự thảo cương lĩnh của Đảng dân
chủ - xã hội 1891”, Tuyển tập, T. VI, tr. 497)
Cũng
trong đoạn văn vừa trích, Engels không tán thành việc công bố quan điểm
này ở Đức, là “nơi mà chính phủ hầu như nắm toàn bộ quyền lực, nơi mà
Quốc hội cùng các cơ quan đại diện khác đều không có thực quyền” vì điều
đó không cần thiết, và làm như thế là “lột chiếc lá nho che cho chế độ
chuyên chế và đem thân thể của chính mình để che sự trần truồng của chế
độ chuyên chế”. (Sđd, T. VI, tr. 497-498)
Nhưng
thái độ của Engels đối với phong trào ở Đức đã thay đổi trong vài năm
sau đó, do việc Đảng dân chủ - xã hội Đức nhờ vào quyền đầu phiếu phổ
thông mà giành được số phiếu rất lớn trong các cuộc bầu cử. Phấn khởi
trước thành quả của cuộc đấu tranh hợp pháp của đảng này, ông đã viết
vào năm 1895 như sau:
Ngay từ
bây giờ, chúng ta đã có thể trông cậy vào 2 triệu 25 vạn cử tri. Nếu
tình hình đó cứ tiếp diễn như vậy thì từ nay cho đến cuối thế kỷ, chúng
ta sẽ tranh thủ được bộ phận lớn nhất trong các tầng lớp trung gian
trong xã hội, tức là những người tiểu tư sản và những người tiểu nông,
và chúng ta sẽ lớn lên cho đến khi trở thành lực lượng quyết định ở
trong nước, trước nó tất cả những lực lượng khác, dù muốn hay không,
cũng đều phải chịu khuất phục. (…)
Lịch
sử thế giới trớ trêu đã làm đảo lộn tất cả. Chúng ta, những “người cách
mạng”, những “người lật đổ”, chúng ta phát triển bằng những biện pháp
hợp pháp thì tốt hơn rất nhiều là bằng những thủ đoạn bất hợp pháp và sự
lật đổ. (“Lời mở đầu cho tác phẩm của Karl Marx Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848-1850”, Tuyển tập, T. VI, tr. 620)
Có
thể hiểu đó là sự khuyến khích Đảng dân chủ - xã hội Đức đi vào con
đường đấu tranh hợp pháp, sử dụng các biện pháp hoà bình.
Do chỗ Marx và Engels tự nhận lý thuyết của mình là chủ nghĩa xã hội khoa học,
cho nên phái cải cách không ngần ngại sửa chữa, xét lại lý thuyết đó
cho phù hợp với sự phát triển của tình hình. Cho nên không phải ngẫu
nhiên mà Bernstein, cha đẻ của chủ nghĩa xét lại, đã nhận xét rằng trong
các tác phẩm của Marx, ông tìm thấy tính chất nhị nguyên (dualism), do
chỗ các công trình này vừa nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, vừa nhằm
minh chứng cho một lý thuyết được xác lập từ lâu - trước cả khi tiến
hành việc nghiên cứu. Ông cho rằng trong hệ thống của Marx vẫn còn lại
cặn bã của chủ nghĩa không tưởng (utopianism) [7] .
Ngày
nay, xem xét lại các công trình của Marx và đem đối chiếu với thực tế
lịch sử, chúng ta thấy nhận xét trên của Bernstein không phải là một ý
kiến hoàn toàn thiếu căn cứ. Trong khi phê phán các nhà xã hội chủ nghĩa
không tưởng tiền bối, do định kiến, do phạm phải sai lầm nghiêm trọng
về phương pháp luận, Marx cũng trở thành một nhà không tưởng. Và vì ông
tự nhận lý thuyết của mình là “chủ nghĩa xã hội khoa học”, ông đã trở
thành nhà không tưởng gây nhiều tai ương cho nhân loại hơn bất cứ nhà
không tưởng nào khác.
[1]Donald Sassoon, One Hundred Years of Socialism, Fontana Press, Harper Collins Publishers, London, 1997, tr. 651-654.
[2]"United Kingdom Labor", Microsoft® Encarta® Encyclopedia 2001. © 1993-2000
[3]Parliamentarianism,
parlementarisme. Marx dùng danh từ này theo nghĩa rộng, nhằm để chỉ
toàn bộ nền dân chủ hiện đại, bao gồm cả hai hình thức: chế độ nghị viện
(parliamentary system, régime parlementaire) kiểu Anh và chế độ Tổng
thống (presidential system, régime présidentiel) kiểu Mỹ.
[4]Atavism,
atavisme: nguyên là một khái niệm sinh học dùng để chỉ sự xuất hiện trở
lại một vài đặc điểm của tổ tiên đã biến mất trong các thế hệ trung
gian.
[5]Rosa
Luxemburg (1871-1919) là một nhà nữ cách mạng Đức gốc Ba Lan. Là một
đại biểu của cánh tả trong Đảng dân chủ - xã hội Đức, bà bảo vệ lập
trường cách mạng, bảo vệ chủ nghĩa Marx. Mặc dù hướng về cách mạng Nga,
bà vẫn phê phán Lenin và Đảng bolshevik về một số vấn đề như: chính sách
nông nghiệp, quyền dân tộc tự quyết, và các biện pháp độc tài,…
Luxemburg mặc dù là một gương mặt tiêu biểu cho phái cách mạng nhưng vẫn
giữ vững lòng tin vào chế độ dân chủ và chống lại quan niệm tập trung
dân chủ của Lenin (Encyclopædia Britannica 2000).
[6]Các Xô-viết ở Nga xuất hiện lần đầu trong cuộc Cách mạng năm 1905, nhưng vào thời đó chỉ bao gồm đại biểu của công nhân.
[7]Harry W. Laidler, Sđd., tr. 254.
No comments:
Post a Comment