HẠ KINH
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
» Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45
46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64
44. 天 風 姤 Thiên Phong Cấu
Cấu Tự Quái | 姤 序 卦 |
Quải giả quyết dã. | 夬 者 決 也. |
Quyết tất hữu sở ngộ. | 決 必 有 所 遇 |
Cố thụ chi dĩ Cấu | 故 受 之 以 姤 |
Cấu giả ngộ dã. | 姤 者 遇 也. |
Cấu Tự Quái
Quải là nứt rạn, vỡ rời, tan hoang.
Chia rồi lại gặp, mới ngoan.
Cho nên Cấu mới có đàng theo ngay.
Cấu là gặp gỡ duyên may.
Cấu là một Hào Âm gặp 5 Hào Dương. Vì thế Cấu nghĩa là gặp, ngẫu nhiên mà gặp, không cầu mà gặp. Xét thể quẻ, thì Cấu là gió thổi dưới trời; gió thổi muôn phương, không có vật gì mà không gặp.
Cấu là 1 Âm thoạt sinh để bắt đầu cho chu kỳ Âm trưởng, Dương tiêu, một Âm tự động tìm gặp 5 Dương, nên gọi là Cấu. Cấu, xét về triền năm, thì là tháng 5, sau ngày hạ chí. Cấu là thời kỳ nhân loại bắt đầu bước vào con đường hướng ngoại, ngược lại với Phục là bắt đầu thời kỳ mà nhân loại bước vào con đường hướng nội, để tìm hiểu nội tâm. Thiệu Khang Tiết có 2 câu thơ, để đánh dấu hai thời kỳ quan trọng ấy:
Kiền ngộ Tốn thời, quan nguyệt quật.
Địa phùng Lôi xứ, kiến thiên căn.
Dịch:
Trời nổi gió dông, thông động nguyệt,
Địa phùng Lôi xứ, kiến thiên căn.
(Kiền ngộ Tốn là Thiên Phong Cấu. Nguyệt quật là ngoại cảnh vật chất. Địa phùng Lôi là Địa Lôi Phục. Thiên căn là Thiên lương hay Thiên tính trong con người.)
Trong quẻ Cấu sẽ đề cập đến 2 ý chính:
1. Âm Dương tương ngộ.
2. Phải đề phòng, ngăn chặn không cho tiểu nhân len lỏi vào chính quyền.
I. Thoán.
Thoán từ.
姤 . 女 壯 . 勿 用 取 女 .
Cấu. Nữ tráng. Vật dụng thú nữ.
Dịch.
Cấu là tương ngộ, tương phùng,
Gặp cô gái dữ, thì đừng kết duyên
Thoán từ: Cấu gồm có 1 Hào Âm nằm dưới 5 Hào Dương. Một người đàn bà có đủ bản lãnh đương đầu với 5 người đàn ông, một người đàn bà mà tự ý đi tìm gặp đàn ông như vậy là thứ đàn bà dữ, không nên lấy hạng người ấy làm vợ. Hào Âm đây cũng tượng trưng cho kẻ tiểu nhân muốn len lỏi vào chính quyền, người quân tử phải thận trọng, đừng nên thân cận và cộng tác với họ.
Thoán Truyện.
彖 曰 . 姤 . 遇 也 . 柔 遇 剛 也 . 勿 用 取 女 . 不 可 與 長 也 . 天 地 相 遇 . 品 物 咸 章 也 . 剛 遇 中 正 . 天 下 大 行 也 . 姤 之 時 義 大 矣 哉 .
Thoán viết:
Cấu. Ngộ dã. Nhu ngộ cương dã. Vật dụng thú nữ. Bất khả dữ trường dã. Thiên địa tương ngộ. Phẩm vật hàm chương dã. Cương ngộ trung chính. Thiên hạ đại hành dã. Cấu chi thời nghĩa đại hỹ tai.
Dịch.
Cấu là tương ngộ, tương phùng,
Cương nhu ngẫu nhĩ, duyên đằng gặp nhau.
Gái mà hung dữ, cơ cầu,
Làm sao phối hợp bền lâu cho đành.
Đất trời giải cấu liên minh,
Làm cho vạn vật trở thành tốt tươi,
Cương phùng trung chính, thời thôi,
Khắp cùng thiên hạ gặp thời vàng son,
Gặp mà nên chuyện vuông tròn,
Hợp thời đúng lúc, hỏi còn chi hơn?
Thoán Truyện: Cấu là gặp gỡ, Nhu gặp Cương, Âm gặp Dương. Trong chuyện Kiều có câu:
May thay giải cấu tương phùng,
Gặp tuần đố lá, thỏa lòng tìm hoa.
Một Âm khí thế đang lên, như gái dữ cần phải xa lánh, cần phải đề phòng, thay vì cầu thân để tính kế lâu dài (Cấu. Ngộ dã. Nhu ngộ cương dã. Vật dụng thú nữ. Bất khả dữ trường dã). Sau khi dạy ta nên đề phòng ảnh hưởng của tiểu nhân, Thoán Truyện bàn đến ảnh hưởng tốt đẹp của sự gặp gỡ giữa khí Âm và khí Dương. Trời đất có hòa hài, có gặp gỡ, có cộng tác với nhau, thì vạn vật mới có thể trở nên tốt đẹp được (Thiên địa tương ngộ. Phẩm vật hàm chương dã).
*Áp dụng vào nhân sự, thì gặp gỡ giữa người và người là một điều tối quan hệ. Người anh tài mà gặp người đức độ, thời có thể làm cho thiên hạ trở nên thịnh đạt. Hiểu được nghĩa chữ gặp gỡ, khai thác được sự gặp gỡ là một điều tối quan trọng vậy (Cương ngộ trung chính. Thiên hạ đại hành dã. Cấu chi thời nghĩa đại hỹ tai).
Thuấn gặp Nghiêu; Khương Tử Nha gặp Văn vương; Khổng Minh gặp Lưu Bị đó là những trường hợp điển hình chứng minh rằng anh tài gặp nhau có thể thay đổi được cục diện lịch sử.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 天 下 有 風 . 姤 . 后 以 施 命 誥 四 方 .
Tượng viết:
Thiên hạ hữu phong. Cấu. Hậu dĩ thi mệnh cáo tứ phương.
Dịch.
Tượng rằng:
Cấu là gió thổi dưới trời,
Quân vương truyền lệnh dạy người bốn phương.
Dưới trời có gió là Cấu. Đấng quân vương rao truyền mệnh lệnh ra khắp bốn phương. Trời cao xa không dễ gặp vạn vật, nên lấy gió để kích động vạn vật. Thế là không gặp mà gặp. Quân vương không dễ gặp chính nhân, lấy mệnh lệnh để cải hóa vạn dân. Thế là không gặp mà gặp.
Quẻ Quan thời gió thổi trên mặt đất. Đấng quân vương bắt chước để đi quan sát dân tình trong nước.
Quẻ Cấu thì gió thổi dưới gầm trời. Đấng quân vương bắt chước, làm ra mệnh lệnh để phổ cập đến chúng dân.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện.
Như trên đã nói, quẻ Cấu bao gồm hai ý nghĩa:
- Cấu là gặp gỡ. Đó là nghĩa theo Từ nguyên.
- Cấu là đề phòng, là ngăn chặn ảnh hưởng mới ló dạng của tiểu nhân, đó là nghĩa theo Hào Quái.
Thành thử khi giải thích các Hào, ta thấy có 3 đường lối.
1. Giải Cấu là chế ngự tiểu nhân, đó là theo Ngự Án.
2. Giải Cấu là gặp gỡ, đó là đường lối của Trình Tử.
3. Giải lờ mờ, đó là đường lối của các nhà bình giải.
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 系 于 金. 貞 吉 . 有 攸 往 . 見 凶 . 羸
象 曰 . 豕 孚 踟 躅 . 系 于 金 . 柔 道 牽 也 .
Sơ Lục.
Hệ vu kim nị. Trinh cát. Hữu du vãng. Kiến hung. Luy thỉ phu trịch trục.
Tượng viết:
Hệ vu kim nị, nhu đạo khiên dã.
Dịch.
Dùng cây thắng sắt hãm kìm,
Hãm kìm cho chắc, cho bền, mới hay.
Sanh ra Âm sẽ tiến ngay,
Để cho Âm tiến, có ngày họa hung.
Lợn con mà bỏ đi dông,
Rồi ra lợn sẽ lung tung chạy càn.
Tượng rằng:
Dùng cây thắng sắt hãm kìm,
Vì Âm dắt díu nhau lên dần dần.
Hào Sơ Lục: Ai cũng giải là phải kìm hãm tiểu nhân ngay từ buổi ban sơ. Kìm hãm cho chặt chẽ, phải buộc họ vào nhữmg thắng bằng kim khí (Hệ vu kim nị), như vậy mới mong được an lành (Trinh cát), bằng nếu để họ xổng ra, họ sẽ làm sằng, làm bậy, gây họa hung chẳng sai (Kiến hung). Tiểu nhân như con lợn con còn yếu ớt. Lợn tuy còn yếu thực đấy, nhưng nếu không sớm ngăn chặn đề phòng, chắc chắn nó sẽ có ngày chạy dông, phá phách (Luy thỉ phu trịch trục). Tại sao phải kìm hãm chặt chẽ như vậy? Thưa, nếu để cho Âm Nhu tự do hoạt động, nó sẽ dắt díu nhau cả bầy, cả bọn đến tác hại chẳng sai. Vì thế Tượng viết: Hệ vu kim nị. Nhu đạo khiên dã. (Khiên đây là dắt díu nhau).
Hào này không những dạy ta đề phòng tiểu nhân, mà còn dạy ta đề phòng đừng cho nhân dục manh động, nếu để nhân dục manh động; thì thiên lương kia chẳng mấy chốc là bị chúng khuất lấp.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 包 有 魚 . 無 咎 . 不 利 賓 .
象 曰 . 包 有 魚 . 義 不 及 賓 也 .
Cửu nhị.
Bao hữu ngư. Vô cữu. Bất lợi tân.
Tượng viết:
Bao hữu ngư. Nghĩa bất cập tân dã.
Dịch.
Cá nằm trong bọc, lỗi chi,
Nhưng mà có khách, đừng chìa cho xem.
Tượng rằng: Có cá trong bao,
Thôi đừng cho khách ngó vào làm chi.
a). Muốn kiềm chế tiểu nhân, không nên dùng bạo lực, mà phải kiểm soát khéo léo. Hãy giữ cho nó đừng có ảnh hưởng lan rộng tới người khác.
b). Sơ đáng lý thì ứng với Tứ, nhưng Hào Nhị đây kề cận với Sơ nên như người câu cá, nhanh chân đến trước đã lượm được cá. Nhị gặp Sơ cũng không phải là đúng lý tự nhiên, nên Nhị không cho ai khác gặp Sơ. Gặp ai khác sẽ lắm chuyện rắc rối. (Trình tử) . Tượng viết: Bao hữu ngư. Nghĩa bất cập tân dã.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 臀 無 膚 . 其 行 次 且 . 厲 . 無 大 咎 .
象 曰 . 其 行 次 且 . 行 未 牽 也 .
Cửu tam:
Đồn vô phu. Kỳ hành thứ thư. Lệ. Vô đại cữu.
Tượng viết:
Kỳ hành thứ thư. Hành vị khiên dã.
Dịch.
Mông mà đét thịt toàn da,
Thời âu đi lại vật vờ, lết lê,
Nếu mà biết được cơ nguy,
Làm sai, âu cũng bớt đi nhiều phần.
Tượng rằng: Đi lại lết lê,
Là vì chẳng được mọi bề thảnh thơi.
Hào Cửu Tam: muốn kiềm chế tiểu nhân (Hào Sơ), nhưng không có địa vị và nhiệm vụ để kiềm chế, vì thế nên ở trong một tình thế nguy hiểm (Lệ). Tuy nhiên xét theo nghĩa lý thì không có gì đáng trách (Vô đại cữu).
Không đúng ngôi vị, nên đứng ngồi không yên, như mông không thịt, đi đứng lết lê (Đồn vô phu. Kỳ hành thứ thư (Ngự Án).
*Tam muốn cầu gặp Sơ, nhưng lại bị Nhị ngăn cách, nên đứng ngồi không yên (Đồn vô phu. Kỳ hành thứ thư). Tuy nhiên sau này, Tam biết chuyện đó là chuyện chẳng hay, nên đâm sợ hãi, không dám làm càn, nên không vấp phải lỗi lớn (Lệ. Vô đại cữu. Trinh cát).
Tượng viết: Bao hữu ngư. Nghĩa bất cập tân dã
Ngự Án giải rằng: đứng ngồi không yên, đi lại khó khăn, vì chưa chế ngự được Sơ Lục.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 包 無 魚 . 起 凶 .
象 曰 . 無 魚 之 凶 . 遠 民 也 .
Cửu tứ.
Bao vô ngư. Khởi hung.
Tượng viết:
Vô ngư chi hung. Viễn dân dã.
Dịch.
Có bao, mà cá thời không,
Rồi ra phát khởi họa hung có ngày.
Tượng rằng: Không cá mà hung,
Nghĩa là đã ở xa dân mất rồi.
a). Ngự Án giải rằng: Cửu tứ muốn kiềm chế tiểu nhân, mà không có dạ bao dung, lại không biết phương pháp kiềm chế, thì nhẽ nào mà không gặp họa hung được.
b). Trình tử cho Cửu tứ ở ngôi trên, không có đức (Bất trung, bất chính), nên mất lòng kẻ dưới. Người trên mất dân, như bao không cá (Có 1 con cá, Cửu nhị đã chiếm mất rồi). Đã mất dân, tức sẽ gặp họa hung.
Tượng Truyện bình rằng: Cái nguy cơ sở dĩ có, là vì mình đã xa dân vậy (Vô ngư chi hung. Viễn dân dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 以 杞 包 瓜 . 含 章 . 有 隕 自 天 .
象 曰 . 九 五 含 章 . 中 正 也 . 有 隕 自 天 . 志 不 舍 命 也 .
Cửu ngũ.
Dĩ kỷ bao qua. Hàm chương. Hữu vẫn tự thiên.
Tượng viết:
Cửu ngũ hàm chương. Trung chính dã. Hữu vẫn tự thiên. Chí bất xả mệnh dã.
Dịch.
Cây kỷ bao bọc cây dưa,
Đẹp mà kín đáo, có cơ tốt lành,
Y như rơi tự trời xanh.
Tượng rằng:
Hào năm có đức chẳng phô,
Thiệt là trung chính, đúng như lẽ đời.
Gặp may, âu cũng nhờ trời,
Mệnh trời, lòng há dám rời hôm mai.
a). Hào Cửu ngũ có đia vị lại có trách nhiệm chế ngự tiểu nhân. Vả Cửu ngũ có đức độ, cho nên tiểu nhân tự nhiên qui phục (Ngự Án, Wilhelm, R. G. H. Siu).
b). Người trên như cây kỷ, người dưới như cây dưa. Bậc quân vương biết khuất kỷ, hạ hiền, thì hiền tài tự nhiên sẽ quay về giúp mình; Hữu vẫn tự thiên: Y như tự trời rơi xuống. Ý nói cầu hiền, tất sẽ gặp hiền tài. (Trình tử).
Tượng Truyện cho rằng: Cửu ngũ hàm xúc vẻ đẹp đẽ, là vì đã theo được con đường trung chính (Cửu ngũ hàm chương. Trung chính dã). Mọi sự hay, sẽ như tự trời rơi xuống, là vì Cửu ngũ đã theo đúng thiên lý. (Hữu vẫn tự thiên. Chí bất xả mệnh dã.)
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 姤 其 角 . 吝 . 無 咎 .
象 曰. 姤 其 角 . 上 窮 吝 也 .
Thượng Cửu.
Cấu kỳ giác. Lận. Vô cữu.
Tượng viết:
Cấu kỳ giác. Thượng cùng lận dã.
Dịch.
Gặp mà vênh vác cái sừng,
Sẽ bề hối hận, đừng hòng trách ai.
Tượng rằng: Gặp vểnh cái sừng,
Cao kiêu cùng cực, liệu chừng ăn năn.
a). Thượng Cửu như 1 ẩn sĩ, xa vời với tiểu nhân, vì thế nên không kiềm chế được tiểu nhân, như vậy cũng đáng xấu hổ. Tuy nhiên, vì họ đã không còn dính líu chuyện đời, nên họ cũng chẳng có lỗi gì (Ngự Án).
b). Người trên mà cao ngạo, thì làm sao mà gặp được người cộng tác. Mình như vậy mà người ta xa mình, thì cái đó là lỗi tại mình, đừng nên trách cứ ai. Sừng đây chỉ sự kiêu kỳ, cứng rắn. Tượng Truyện bình rằng: Cư xử cao ngạo như vậy, thì đáng trách thật (Cấu kỳ giác. Thượng cùng lận dã).
- Giải thích Cấu là kiềm chế cũng có nghĩa của nó, vì nếu không ngăn chặn tiểu nhân, để họ len lỏi vào chính quyền, thì họ sẽ lũng loạn chính quyền.
- Giải thích Cấu là gặp gỡ, cũng có nghĩa là người trên gặp gỡ hạ dân, quân vương gặp gỡ hiền tài.
ÁP DỤNG QUẺ CẤU VÀO THỜI ĐẠI
Cấu là một quẻ quan trọng trong Kinh Dịch, vì nó là đầu đường đi vào chiều Âm, đi ra ngoại cảnh. Thiệu Khang Tiết cho rằng: Cấu là thời kỳ mà ta bị đẩy đưa vào chốn trần ai, cát lầm. Đó là thời kỳ mà chúng ta bị thử thách.
Cuộc đời con người, thường bị chi phối bởi 3 vấn đề: đó là Tình, Tiền, Danh vọng. Cho nên, khi ta còn nhỏ, ta chỉ nhìn thấy vật chất, tiền tài, ta chỉ bị cám dỗ bởi xác thịt, bởi ngoại cảnh. Ta sẽ thấy ta có nhiều môn học như: hát, vẽ, chạy, bơi lội, tập võ nghệ, thể thao, điền kinh, học chữ nghĩa, nghề nghiệp. Thật là thiên thu bất tận. Nghề nào cũng có thể chiếm gần hết đời ta. Càng đi sâu vào một nghề gì, hay vấn đề gì, ta càng thấy nó cao siêu, và dẫu ta dùng cả đời ta vào vấn đề đó, ta vẫn thấy không thỏa mãn, không vừa lòng.
Hơn nữa, nghề nghiệp ta học đều được định giá bằng tiền, và chúng ta thường hỏi nhau là có kiếm được nhiều tiền hay không? Như vậy có phải là đời ta đã bị chi phối bởi Tình, Tiền và Danh vọng hay không? Nhiều người đã vì 3 vấn đề trên, mà bán cả sinh mạng mình. Nhưng có nhiều người không may, làm ăn thất bại, chán nản rồi đâm ra xì ke, ma túy, nghiện ngập, rất là đáng thương hại.
Đi sâu vào cuộc đời, chúng ta phải hết sức thận trọng. Làm cái gì cũng phải tự lượng sức mình, đừng phao phí sức lực. Ta có mạnh khỏe, thì tinh thần ta mới được sung mãn. Phải tránh xa những con đường rượu chè, cờ bạc, sì ke, ma túy. Chúng sẽ dẫn ta vào cửa tử, vào vực thẳm.
Nếu sinh ra đời, mà ta làm được gì ích quốc, lợi dân, thì hay biết bao nhiêu. Đừng nói rằng chúng ta thua kém người, hoặc vô tài, bất tướng. Thực ra người ta thành công hơn ta, chỉ vì họ đã biết cố gắng, chịu thương, chịu khó hơn ta mà thôi. Do đó, chúng ta đừng bao giờ chán nản, khi đứng trước một sự việc gì khó khăn. Phải cố gắng tiến lên, đừng bao giờ lùi bước. Nhớ rằng: Trời hại ta, thì còn cứu được, nếu ta tự hại ta thì không ai có thể cứu ta được.
Tóm lại, quẻ Thiên Phong Cấu dạy ta: Đừng để cho Vật Dục chi phối cuộc đời mình, đến nỗi tán tận lương tâm; và cần phải xa lánh những bè bạn xấu.
» Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45
46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64
45. 澤 地 萃 TRẠCH ĐỊA TỤY
Tụy Tự Quái | 萃 序 卦 |
Cấu giả ngộ dã | 姤 者 遇 也 |
Vật tương ngộ nhi hậu tụ | 物 相 遇 而 後 聚 |
Cố thụ chi dĩ Tụy | 故 受 之 以 萃 |
Tụy giả tụ dã. | 萃 者 聚 也. |
Tụy Tự Quái
Cấu là gặp gỡ duyên may,
Gặp rồi vạn vật có ngày kết duyên.
Cho nên Tụy tiếp theo liền,
Tụy là tụ tập, tương liên kim bằng.
Tụy nghĩa là tụ hợp. Tụ hợp nhỏ thì thành gia đình, đoàn thể; lớn thì thành quốc gia, xã hội. Có tụ hợp thì mới đi đến chỗ hanh thông, vì con người không thể như Robinson Crusoe cô thân, chích ảnh nơi hoang đảo, mà phải có bạn bè thân thích để giải quyết mọi chuyện đời.
I. Thoán.
萃 . 亨 . 王 假 有 廟 . 利 見 大 人 . 亨 . 利 貞 . 用 大 牲 吉 . 利 有 攸 往.
Thoán từ.
Tụy. Hanh. Vương cách hữu miếu. Lợi kiến đại mhân. Hanh.
Lợi trinh. Dụng đại sinh cát. Lợi hữu du vãng.
Dịch.
Tụy là tụ chúng hợp quần,
Rồi ra thế sự được phần hanh thông.
Vua ra tế tự miếu tông,
U minh nối kết giải đồng gần xa.
Gặp người đức độ, tài hoa,
Thời hay, thời lợi, biết là mấy mươi.
Lấy trung, lấy chính hợp người,
Mới mong sẽ được vẹn mười lợi hanh.
Chững chàng sửa lễ tam sanh,
Linh đình, trang trọng tốt lành mấy mươi.
Hãy nên tính chuyện ngược xuôi,
Công trình âu sẽ chẩy trôi, vẹn toàn.
Tụ hợp, hợp quần là điều hay, điều tốt (Tụy hanh).
Nhưng tụ hợp phải tuân theo những qui luật, những đường lối nhất định.
1. Trước tiên, phải có tín ngưỡng, có chủ thuyết để nối kết lòng người. Vì thế vua phải ra nơi miếu tông làm việc tế tự (Vương cách hữu miếu). Tức là phải dùng tín ngưỡng làm chiêu bài qui dân, tụ chúng.
2. Muốn qui dân, tụ chúng, phải có người lãnh đạo cho hay, cho giỏi. Gặp được người lãnh đạo hay, dân nước sẽ bước vào con đường hanh thông, thái thịnh (Lợi kiến đại nhân. Hanh).
3. Phải có chính nghĩa, chính đạo, mới hay, mới lợi (Lợi trinh). Gian manh cũng có thể vì lợi lộc mà kết thành bầy bọn, nhưng họ sẽ làm hại thiên hạ. Anh hùng, Hào kiệt trên đời chiêu dân, lập quốc, ví dụ như Moise, vì có chính nghĩa, nên mới lưu danh muôn thuở.
4. Phải tổ chức những cuộc tế lễ linh đình (Dụng đại sinh cát). Đó là một cách xử thế để chinh phục lòng dân.
Những cuộc hội hè, rước sách lớn, những cuộc biểu tình lớn, đều có mục đích là gây một ảnh hưởng tâm lý mạnh mẽ nơi dân con, cho họ trông thấy mà tin.
5. Lại phải thi hành một công chuyện gì ích quốc, lợi dân, cho dân mục kích nhãn tiền, như vậy mới hay, mới lợi (Lợi hữu du vãng).
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰 . 萃 . 聚 也 . 順 以 說 . 剛 中 而 應 . 故 聚 也 . 王 假 有 廟 . 致 孝 享 也 . 利 見 大 人 亨 . 聚 以 正 也 . 用 大 牲 吉 . 利 有 攸 往 . 順 天 命 也 . 觀 其 所 聚 . 而 天 地 萬 物 之 情 可 見 矣 .
Tụy. Tụ dã. Thuận dĩ duyệt. Cương trung nhi ứng. Cố tụ dã. Vương cách hữu miếu. Trí hiếu hưởng dã. Lợi kiến đại nhân hanh. Tụ dĩ chính dã. Dụng đại sinh cát. Lợi hữu du vãng. Thuận thiên mệnh dã. Quan kỳ sở tụ. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hỹ.
Dịch. Thoán rằng:
Tụ là tụ chúng hợp quần,
Rồi ra thế sự được phần hanh thông.
Vua ra tế tự miếu tông,
U minh nối kết giải đồng gần xa.
Gặp người đức độ, tài hoa,
Thời hay, thời lợi, biết là mấy mươi.
Lấy trung, lấy chính họp người,
Mới mong sẽ được vẹn mười lợi hanh.
Chững chàng sửa lễ tam sanh,
Linh đình, trang trọng, tốt lành mấy mươi,
Hãy nên tính chuyện ngược xuôi,
Công trình âu sẽ chẩy trôi, vẹn toàn.
Thoán Truyện trước tiên định nghĩa Tụy là Tụ họp. (Tụy tụ dã). Muốn qui dân, tụ chúng, người dưới phải thuận phục người trên, người trên phải sung sướng khi được dắt dìu kẻ dưới. Người trên thì giỏi giang minh chính, kẻ dưới thì hỗ trợ, tuân phục hết lòng. Có như vậy mới qui dân, tụ chúng được (Thuận dĩ duyệt. Cương trung nhi ứng cố tụ dã.)
Muốn qui tụ dân chúng, người lãnh đạo phải lấy tín ngưỡng làm keo sơn gắn bó lòng người. Phải đích thân đứng ra tế lễ, để dạy dân kính trời, và hiếu với tổ tiên (Vương cách hữu miếu. Trí hiếu hưởng dã).
Lại cũng phải khéo biết dùng những lễ nghi, hình thức bên ngoài, những công trình cụ thể, nhãn tiền để cho dân thấy mà tin phục (Dụng đại sinh cát. Lợi hữu du vãng. Thuận thiên mệnh dã). Làm như vậy tức là thuận theo những định luật tự nhiên vậy. Ngoài ra, Tụy còn cho ta thấy rõ tình đời. Chữ rằng: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Có giống nhau mới tụ họp cùng nhau.
Cho nên cứ nhìn xem cách tụ hợp của muôn vật, chúng ta sẽ biết được tình ý chúng. Nơi con người, cứ xem họ hợp đoàn với ai, sẽ biết được tình ý họ. Nhà thơ tìm bạn họa thơ; người ăn chơi đánh bạn với kẻ ăn chơi; người đạo đức giao du với người đạo đức... Thế là xem cách hội họp, mà hiểu được tình người (Quan kỳ sở tụ. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hỹ).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 澤 上 於 地 . 萃 . 君 子 以 除 戎 器 . 戒 不 虞 .
Tượng viết:
Trạch thượng ư địa. Tụy. Quân tử dĩ trừ nhung khí. Giới bất ngu.
Dịch. Tượng rằng:
Tụy là trên đất có hồ,
Nên người quân tử phải lo đề phòng.
Sẵn sàng khí giới binh nhung.
Ngăn ngừa bất trắc, đề phòng rủi ro.
Hồ ở trên đất là Tụy. Người quân tử nhân đó sửa soạn khí giới, để đề phòng mọi bất trắc. Nước hồ mà dâng quá mặt đất sẽ tràn. Phải phòng bị sự tràn ngập ấy.
Người mà tụ tập đông đảo, cũng có thể nổi dậy gây phiến loạn, trộm cắp cũng thường xẩy ra nơi đám đông. Vì thế khi tụ tập đông đảo, cần phải sẵn sàng võ khí để đề phòng mọi bất trắc. Có vậy mới tránh mọi tai họa.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 有 孚 不 終 . 乃 亂 乃 萃 . 若 號 . 一 握 為 笑 . 勿 恤 . 往 無 咎 .
象 曰 . 乃 亂 乃 萃 . 其 志 亂 也 .
Sơ Lục.
Hữu phu bất chung. Nãi loạn nãi tụy. Nhược Hào. Nhất ác vi tiếu.
Vật tuất. Vãng vô cữu.
Tượng viết:
Nãi loạn nãi tụy. Kỳ chí loạn dã.
Dịch.
Thành tâm muốn họp cùng người,
Nhưng mà chưa được xong xuôi chu toàn,
Cho nên tụ bậy, họp càn,
Hô Hào chính ứng, cả đoàn cười chê.
Đừng lo, cứ tiến lên đi,
Một lòng qui chính, lỗi gì nữa đâu.
Tượng rằng: Tụ bậy, họp càn,
Là vì chí loạn, thần hôn mất rồi.
Hào Sơ mô tả những người có lòng thành khẩn, muốn tìm người hay mà liên kết (Hữu phu), nhưng vì ý chí không bền vững (bất chung), nên có thể tụ họp sằng bậy với những người không xứng đáng (Nãi loạn nãi tụy). Nhưng khi đã nhận xét biết lỗi lầm mình, họ nhất định tìm về với những bậc chính nhân quân tử (Nhược Hào). Khi ấy, dĩ nhiên bị bầy bọn chê cười, chế riễu (nhất ác vi tiếu). Nếu họ can đảm, đừng có lo ngại, và cứ nhất quyết thi hành ý chí của mình (Vật tuất vãng), thời sẽ không có lỗi chi cả (Vô cữu).
Tượng Truyện cho rằng: Sở dĩ có chuyện họp xằng, họp bậy, chính là vì ý chí đã rối loạn (Nãi loạn nãi tụy. Kỳ chí loạn dã). Trên đời không thiếu gì những trường hợp này. Xưa kia, biết bao người trung lương mà vì hoàn cảnh bắt buộc, phải sống nghề lục lâm, lạc thảo cho qua ngày, đợi thời kỳ sẽ được chiêu an. Hoặc biết bao kẻ lòng ngay, mà bị quyến rũ, nên đã đi vào những con đường tà ngụy, họp bầy cùng những kẻ bất chính, bất lương. Tuy nhiên, nếu họ nhận được lỗi lầm mình, bỏ tối tìm sáng thì nào có lỗi chi đâu.
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 引 吉 . 無 咎 . 孚 乃 利 用.
象 曰. 引 吉 無 咎 . 中 未 變 也 .
Lục nhị.
Dẫn cát. Vô cữu. Phu nãi lợi dụng thược.
Tượng viết:
Dẫn cát vô cữu. Trung vị biến dã.
Dịch.
Dắt nhau qui chính, thời hay,
Dắt nhau qui chính, cả bày lỗi chi.
Lòng thành đã quyết vẹn nghì,
Thành tâm là trọng, xá gì lễ dâng.
Tượng rằng: Dắt nhau qui chính, thời hay,
Dắt nhau qui chính, cả bầy lỗi chi.
Lòng trung chưa chút suy vi,
Lòng trung chưa có Hào ly biến rời.
Hào Lục nhị là những người có quyền hành, thế lực. Đã vậy mà còn biết minh chúa mà phù, đem cả bầy bọn, tùy tùng về theo cùng những người minh chính, thời rất hay, rất tốt, không có gì đáng chê trách (Dẫn cát. Vô cữu). Khi đã có lòng thành khẩn, thì không cần những lễ nghi, hình thức bên ngoài cho trang trọng làm chi, hiểu lòng nhau là đủ (Phu nãi lợi dụng thược). Phu là lòng thành khẩn, Thược là tế lễ mùa Xuân, tương đối nhỏ. Trở về cùng minh chúa, đem cả bầy bọn trở về cùng minh chúa, trỏ về mà lòng trung nghĩa vẫn chu toàn, như vậy mới hay.
Trần Hi Trân, một Hào kiệt thời Tống, lúc lâm nạn, bất đắc dĩ phải nhập lõa với bọn thảo khấu ở Viên Thúy trại. Nhưng khi có dịp thuận tiện, liền trở về qui phục triều đình. Lòng trung nghĩa trước sau chẳng hề rời đổi. Thực đúng với trường hợp Hào Lục nhị này. (Xem Thủy Hử) (Dẫn cát vô cữu. Trung vị biến dã).
3. Hào Lục tam.
六 三 . 萃 如 嗟 如 . 無 攸 利 . 往 無 咎 . 小 吝 .
象 曰 . 往 無 咎 . 上 巽 也 .
Lục tam.
Tụy như ta như. Vô du lợi. Vãng vô cữu. Tiểu lận.
Tượng viết:
Vãng vô cữu. Thượng tốn dã.
Dịch.
Lòng riêng muốn họp với người.
Mà người chẳng họp, vắn dài thở than.
Mặc dầu đôi chút quải gàng,
Hãy tìm đến kẻ tâm xoang như mình.
Lỗi chi mà lỗi cho đành...
Hào Lục tam ứng vào những hạng người bất trung, bất chính, địa vị dở dang, tài đức thấp thỏi, nên muốn liên kết với người, mà người chẳng chịu, tứ cố vô thân, trên dưới không ai hưởng ứng với mình, vì thế nên xót xa than thở (Tụy như ta như). Lúc ấy chẳng có thể làm gì cho hay (Vô du lợi). Thôi thì tìm nơi nào tá túc, để mà chờ thời. Như vậy chẳng danh giá gì, nhưng cũng không có lỗi (Vãng vô cữu. Tiểu lận). Vãng là tiến lên, cầu hợp với Thượng Lục. Thượng Lục đây chính là một người bè bạn, nhưng không thân thiết lắm. Cầu hợp với Thượng, không có lỗi, vì Thượng cũng vui lòng chấp nhận. Tượng viết: Vãng vô cữu. Thượng tốn dã.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 大 吉 . 無 咎 .
象 曰 . 大 吉 無 咎 . 位 不 當 也 .
Cửu tứ.
Đại cát. Vô cữu.
Tượng viết:
Đại cát vô cữu. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Qui mô cho rộng, cho to,
Hành vi tốt đẹp, hết lo lỗi lầm.
Tượng rằng: Qui mô cho rộng, cho to.
Hành vi tốt đẹp, hết lo lỗi lầm.
Tượng rằng: Qui mô cho rộng, cho to,
Hành vi tốt đẹp, hết lo lỗi lầm.
Tốt lành, rồi sẽ êm dầm,
Là vì ngôi vị có phần dở dang.
Hào Cửu tứ chính là một đại công thần, dưới thì được dân thuận theo, trên thì được vua tin cậy. Ngồi ngôi vị trọng thần, thật hết sức khó xử. Phải ăn ở sao cho vẹn chữ trung, thì mới được hay lành. Vì thế mới nói: Đại cát. Vô cữu. Phải Đại cát rồi mới Vô cữu. Cái khó xử của vị đại thần này là tuy tài đức siêu việt, nhưng địa vị lại dưới vị quân vương. Thế là có tài lãnh đạo lại không ở ngôi lãnh đạo. Vì thế Tượng viết: Đại cát vô cữu. Vị bất đáng dã.
Hào Cửu tứ quẻ Tụy cũng tương tự như Hào Cửu tứ quẻ Tùy, Dịch kinh luôn khuyên những trọng thần phải bắt chước Châu Công, Y Doãn, chứ đừng theo thói Đổng Trác, Tào Tháo.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五. 萃 有 位 . 無 咎 . 匪 孚 . 元 永 貞 . 悔 亡 .
象 曰 . 萃 有 位 . 志 未 光 也 .
Cửu ngũ.
Tụy hữu vị. Vô cữu. Phỉ phu. Nguyên vĩnh trinh. Hối vong.
Tượng viết:
Tụy hữu vị. Chí vị quang dã.
Dịch.
Tụ dân mà có vị ngôi,
Mới mong tránh được đơn sai, lỗi lầm.
Ví như dân chửa tin lòng,
Thì mình càng phải ra công tu trì,
Sao cho đáng mặt trị vì,
Tấc lòng minh chính, chẳng hề đơn sai.
Hay sao hay mãi mới hay,
Rồi ra sẽ chẳng còn ai phàn nàn.
Tượng rằng: Tụ dân đã có vị ngôi,
Thế mà còn có những người chửa tin.
Nếu người tin chẳng trọn niềm,
Chí mình chưa được vẹn tuyền quang minh.
Hào Cửu ngũ là bậc quân vương, ở ngôi vị lãnh đạo. Đức thịnh, Vị tôn, tất nhiên mọi người sẽ qui phục (Tụy hữu vị. Vô cữu). Nếu còn có người chưa phục, thì mình hãy chau dồi đức độ của đấng quân vương, hãy theo đúng đường lối của đấng quân vương, hãy thực thi ba tôn chỉ: Nguyên, Vĩnh, Trinh
- Nguyên là vị quân chủ có đức độ, tài ba
- Vĩnh là phải mưu đồ những công trình trường cửu cho dân.
- Trinh là thực thi chánh đạo.
Được như vậy, khỏi cần hối hận, phàn nàn (Nguyên vĩnh trinh. Hối vong). Tượng Truyện bình rằng: Tuy mình có ngôi vị, nhưng ý chí, đức độ mình chưa lan tỏa khắp nơi, nên người chưa tin.
Tượng viết: Tụy hữu vị. Chí vị quang dã. Đời vua Thuấn, có giặc Miêu không chịu thần phục, vua bèn truyền quảng thi văn đức, lại cho múa ca vũ hai bên sân rồng. Bảy tuần sau rợ Miêu qui phục. (Kinh Thư, Đại Vũ)
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 齍 咨 涕 洟,無 咎 .
象 曰 . 齍 咨 涕 洟 . 未 安 上 也 .
Thượng Lục.
Tế tư thế di. Vô cữu.
Tượng viết:
Tế tư thế di. Vị an thượng dã.
Dịch.
Thở than xùi xụt, vắn dài,
Thôi đừng tính chuyện trách người làm chi.
Tượng rằng: Xùi xụt, thở than,
Vì sao mà chẳng được an, được lành.
Hào Thượng Lục: Người trên mà không có tư cách, sẽ không qui tụ được người. Vì thế nên mới phải khóc lóc, than van. Sở dĩ Thượng Cửu phải than khóc như vậy là vì ở ngôi trên, mà chẳng được yên. Tượng viết: Tế tư thế di. Vị an thượng dã. Đầu đời nhà Đông Hán, giặc Xích Mi tôn Bồn Tử lên làm vua. Bồn Tử tuy là giòng tôn thất, nhưng mới 15 tuổi, lại đang đi chăn dê, nên chẳng hiểu gì quốc chính, được bá quan mang về tung hô vạn tuế, nhưng cũng chẳng biết cai trị ra sao. Làm vua chưa được 1 năm, thiên hạ càng ngày càng loạn, trong cung cấm cũng đói khát thiếu thốn. Bồn Tử ngày đêm khóc lóc, sau lại đem ngọc ấn trao trả các quan, để xin về làng lánh nạn. Các quan không chịu, ép phải tiếp tục làm vua. Sau này, vua Quang Võ đem quân về đánh dẹp, Bồn Tử và các quan thấy thế đánh không lại bèn xin hàng. Quang Võ thuận cho, và cũng không nỡ giết, lại còn phong vương tước cho Bồn Tử. Thật đúng là có vị ngôi, mà chẳng có tài đức, thời cũng chẳng nên cơm cháo gì.
ÁP DỤNG QUẺ TỤY VÀO THỜI ĐẠI
Muốn lập nước, lập đảng, ta phải có chủ thuyết chính đáng, phải có tài ba, đức độ, đường lối rõ rệt, và biết mưu đồ lợi ích trường cửu cho dân.
*Muốn tụ hợp một số người, để phản đối chính quyền hay chủ nhân, hoặc cấp lãnh đạo của họ, mà nay ta gọi là biểu tình, thì ta phải có lý do chính đáng; người cầm đầu phải là người có uy tín, có nhiệt tâm, và là người được nhiều người tin cậy. Hành động luôn phải ôn hoà, thì sự thành công có phần dễ dàng hơn.
*Thấp hơn nữa là muốn gây dựng một xí nghiệp, chẳng những ta phải thành thạo về ngành chuyên môn của xí nghiệp, mà còn phải rành về cách quản trị xí nghiệp nữa.
*Phải là người trọng tín nghĩa, có thành tín, chứ không thể gặp ai cũng hứa hẹn đủ điều, rồi sau lại phủi tay rũ sạch. Có tín nghĩa, thành tín thì thiên hạ mới có thể tin cậy mình mà góp công, góp của, hợp tác với mình được.
*Phải biết xã giao giỏi, biết nhún nhường, tuy biết mình giỏi nhưng không kiêu ngạo, để đối nội thì thu phục được nhân tâm, khiến nhân viên dưới quyền mình sẽ hết lòng tận tụy hy sinh, chuyên cần trong mọi công việc với mình; như vậy sẽ có nhiều nhân tài đến giúp mình. Khi đã phát đạt, thì phải biết trọng thưởng, hậu đãi cho những người đã có công, đã góp sức và cộng tác với mình, chứ không nên vắt chanh bỏ vỏ, họ chưa già đã bắt về hưu non, để tuyển người mới, giá lương sẽ thấp hơn. Như vậy, không hợp thiên lý, khó vững bền.
Đối ngoại, giỏi mà nhún nhường, không kiêu ngạo, sẽ nhiều bạn, ít thù, và khi cần khuếch trương lớn, sự mời mọc người góp công, góp của, sẽ thành công dễ dàng hơn nhiều. Do vậy mà người Trung Hoa, một dân tộc nổi tiếng về thương mại, thường khi người cha là chủ 1 xí nghiệp lớn, nếu muốn truyền lại cho con, thường bắt người con phải chịu cực khổ, làm công việc từ dưới đi lên, để mai sau người con sẽ thành thạo mọi công chuyện, và để giảm bớt tính kiêu ngạo của loài người; và thành tín là bài học đầu của họ.
» Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45
46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64
46. 地 風 升 ĐỊA Phong Thăng
Thăng Tự Quái | 升 序 卦 |
Tụy giả tụ dã. | 萃 者 聚 也 |
Tụ nhi thượng giả vị chi thăng. | 聚 而 上 者 謂 之 升 |
Cố thụ chi dĩ thăng. | 故 受 之 以 升 |
Thăng Tự Quái
Tụy là tụ tập tương liên kim bằng,
Tụ mà thượng tiến là Thăng,
Cho nên Thăng mới theo chân tiếp vào.
Sau quẻ Tụy là quẻ Thăng. Sao gọi là Thăng? Tự quái cho rằng: Cái gì mà chồng chất sẽ hóa nên cao dần. Vì thế sau quẻ Tụy là quẻ Thăng. Xét theo thế quẻ, thì quẻ Thăng, trên có quẻ Khôn là Đất, dưới có quẻ Tốn là cây. Cây mọc từ đất vươn dần lên cao, vì thế nên gọi là Thăng. Toàn quẻ Thăng bàn về sự tiến bước của một hiền thần, leo dần các cấp bậc công danh, để mà tiến mãi lên ngôi cao. Thăng hàm ngụ ý nghĩa cố gắng vươn lên.
I. Thoán.
Thoán từ.
升 . 元 亨 . 用 見 大 人 . 勿 恤 . 南 征 吉 .
Thoán từ:
Thăng. Nguyên hanh. Dụng kiến đại nhân. Vật tuất. Nam chinh cát.
Dịch.
Thăng là tiến mãi, tiến lên.
Tiến trình thanh thản, chu tuyền hanh thông.
Được người tài đức giúp công,
Thời thôi khỏi phải nhọc lòng âu lo.
Tiến lên, đừng có chần chờ,
Rồi ra mọi sự êm ru, tốt lành.
Thoán từ: Thăng là thăng tiến, mà đã thăng tiến tất nhiên sẽ hanh thông (Thăng. Nguyên hanh). Muốn tiến lên cần có người trên phù trợ. Được như vậy, sẽ không còn phải lo lắng (Dụng kiến đại nhân. Vật tuất). Cố gắng tiến về phía quang minh, tiến tới một tiền trình cao đại, thời hay, thời tốt biết mấy mươi.
Nam là phía của ánh sáng, của văn minh, nên người Trung Hoa vốn trọng phía Nam. Vua chúa xưa thường quay về phía nam mà trị dân, ý muốn nói trị dân để đưa dân tới quang minh, thịnh trị (Nam chinh cát).
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰 . 柔 以 時 升 . 巽 而 順 . 剛 中 而 應 . 是 以 大 亨 . 用 見 大 人 . 勿 恤 . 有 慶 也 . 南 征 吉 . 志 行 也 .
Nhu dĩ thời thăng. Tốn nhi thuận. Cương trung nhi ứng. Thị dĩ đại hanh. Dụng kiến đại nhân. Vật tuất. Hữu khánh dã. Nam chinh cát. Chí hành dã.
Dịch.
Thoán rằng: Nhu tiến theo thời,
Khiêm cung, thuận thảo, thêm tài, thêm hay.
Dưới hay, trên lại liên tài,
Cho nên mọi sự êm xuôi, vẹn toàn.
Dùng người tài đức, mới ngoan,
Rồi ra phúc khánh, muôn vàn khỏi lo.
Tiến lên, đừng có chần chờ,
Đổi điều nguyện ước cho ra thành toàn.
Thoán Truyện: Người dưới muốn tiến lên, cần phải có thời cơ thuận tiện (Nhu dĩ thời thăng). Ví như có gặp loạn lạc, giặc giã, thì anh hùng, Hào kiệt mới có cơ tiến thân. Có gặp khoa thi, thì các anh tài, dân giả mới có cơ nhìn thấy bệ rồng. Muốn tiến lên, cần phải khiêm tốn, quyền biến (Tốn nhi thuận), phải có chân tài, chân đức, lại phải có người trên cố cập (Cương trung nhi ứng), có được như vậy thì đường công danh mới thanh thản, dễ dàng (thị dĩ đại hanh). Trên con đường tiến thân, mà được cấp trên hỗ trợ, thì khỏi còn lo khó khăn, trở ngại và sẽ được phúc khánh (Dụng kiến đại nhân. Vật tuất hữu khánh dã).
Như vậy sẽ thỏa chí tang bồng, vì đường mây đã rộng mở, công danh kia như đã đón chờ ai (Nam chinh cát. Chí hành dã). Mới hay ở đời hữu chí cánh thành, và miếng đỉnh chung trời chẳng riêng ai.
Đọc lịch sử, ta thấy biết bao hàn sĩ trở thành danh nhân, biết bao anh hùng đã xuất thân từ hang cùng, ngõ hẻm.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 地 中 生 木 . 升 . 君 子 以 順 德 . 積 小 以 高 大 .
Tượng viết:
Địa trung sinh mộc. Thăng. Quân tử dĩ thuận đức. Tích tiểu dĩ cao đại.
Dịch. Tượng rằng:
Cây từ lòng đất vươn lên,
Hiền nhân, quântử hãy nên theo đòi.
Theo đường nhân đức hôm mai,
Điều lành tuy nhỏ, tích hoài hóa to.
Chắt chiu kẽ tóc, chân tơ,
Vinh quang cao đại, đón chờ tương lai.
Cây mọc từ đất vươn mãi lên cao, chứng tỏ muôn vật đều hàm tàng khả năng tiến triển. Người quân tử cũng phải tuân theo định luật ấy của trời đất (Quân tử dĩ thuận đức), sẽ cố đi từ chỗ nhỏ, đến lớn, súc tích điều nhỏ nhặt để dần dần đi đến chỗ cao đại (Tích tiểu dĩ cao đại). Đó là một định luật nhân sinh phổ quát, mà Nho, Phật, Lão luôn luôn đề cao.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 允 升 . 大 吉 .
象 曰 . 允 升 大 吉 . 上 合 志 也 .
Sơ Lục.
Doãn thăng. Đại cát.
Tượng viết:
Doãn thăng đại cát. Thượng hợp chí dã.
Dịch.
Tiến lên mà được người tin,
Thế thời tốt đẹp, chu tuyền biết bao.
Tượng rằng: Tiến lên mà được người tin,
Thế thời tốt đẹp, chu tuyền biết bao.
Tiến mà được vậy, hay sao.
Thế là ý hiệp, tâm đầu dưới trên.
Hào Sơ Lục. Trình tử giải chữ Doãn là tin theo
Ngự Án (Vua Khang Hi) giải chữ Doãn là được người trên tin mình. Tin theo người trên mà tiến lên, chưa hẳn là đại cát.
Lưu Cẩn và Đại Dụng, muốn tâng công với vua Chánh Đức, để được vua tin dùng, bèn đi thuê một người nhà quê là Trình Bảo đem vào huê viên của vua, để giả làm thích khách. Lưu Cẩn và Đại Dụng nói đó là một màn kịch, nếu Trình Bảo đóng xong sẽ trọng thưởng. Trình Bảo tin thật. Sáng sớm giả làm thích khách, cầm gươm xông vào giết vua. Cốc Đại Dụng và Lưu Cẩn xông vào cứu giá. Trình Bảo trá bại, Lưu Cẩn dượt theo. Trình Bảo hỏi: Trốn đâu? Lưu Cẩn bảo: Xuống giếng. Trình Bảo trốn xuống giếng, bị Lưu Cẩn chém bay đầu... Như vậy tin người trên, chưa hẳn là Đại cát. Cho nên, nơi đây tôi (tác giả) giải theo Ngự Án, là trên con đường tiến thủ, mà được người trên tin yêu mình, sẽ được đại cát. Khảo lịch sử các triều đại, ta thấy có nhiều người vì được cấp trên tin dùng mà đã chóng được cất nhắc. Tượng Truyện giải: Doãn thăng là dưới trên ý hợp tâm đầu.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 孚 乃 利 用 . 無 咎 .
象 曰 . 九 二 之 孚 . 有 喜 也 .
Cửu nhị.
Phu nãi lợi dụng thược. Vô cữu.
Tượng viết:
Cửu nhị chi phu. Hữu hĩ dã.
Dịch.
Một lòng thành khẩn, chí trung,
Dầu cho lễ bạc, cũng không quản gì.
Lòng thành, lễ bạc, lỗi chi.
Tượng rằng: Cửu nhị chí trung,
Đó là một sự đáng mừng, đáng vui.
Hào Cửu nhị: đây tượng trưng cho một vị công thần. Công thần cốt có lòng trung thành với quân vương (Phu) còn những hình thức bên ngoài có đơn sơ, cũng không lỗi gì (Lợi dụng thược. Vô cữu).
Tống Thái Tổ xưa, phàm trào chính có việc chi quan hệ, lúc đương triều chưa quyết định được, thì ban đêm bất luận khuya sớm, thường mặc đồ tiểu phục , đến dinh các vị công thần mà đàm luận. Một ngày kia, nhằm ngày mồng một tháng giêng năm Cần Đức nguyên niên, Vua đội sương tuyết đến nhà Triệu Phổ, lúc canh ba. Triệu Phổ rước vào, sai gia nhân luộc thịt, rồi đem rượu bạch cúc ra hâm, dọn ra rất đơn sơ, rồi lại xin phép cho vợ ra rót rượu. Vua nói cùng Triệu Phổ rằng: Chỗ này chẳng nên kể việc quân thần, phải đãi nhau như tình huynh đệ mà thôi (Phi Long, trang 639). Đó là Phu nãi lợi dụng thược. Vô cữu.
Tiểu Tượng bình rằng: Công thần mà trung nghĩa là điều đáng mừng vậy. Tượng viết: Cửu nhị chi phu. Hữu hỉ dã. Khâu Kiến An bình rằng: Tuy Hào Cửu nhị không nói đến chuyện Thăng , nhưng khi mà trên dưới đã tin lòng nhau, thì chẳng những là không lỗi gì, mà ắt còn có cái mừng vinh thăng nữa.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 升 虛 邑 .
象 曰 . 升 虛 邑 . 無 所 疑 也 .
Cửu tam.
Thăng hư ấp.
Tượng viết:
Thăng hư ấp. Vô sở nghi dã.
Dịch.
Tiến lên thanh thả, dễ dàng,
Y như vào ấp, vào làng bỏ không.
Hào Cửu tam: Đối với một người tài trí thông minh thao lược (Cửu tam là Dương Hào), chính đính (Dương Hào cư Dương vị), từ tốn (Cửu tam thuộc quẻ Tốn), vừa lòng cấp trên (ba Hào trên thuộc Khôn là thuận), được cấp trên nâng đỡ (ứng với Thượng Lục)., thời sự thăng tiến cũng dễ dàng như đi vào làng trống vậy (thăng hư ấp). Sở dĩ như vậy, là vì người trên không nghi kỵ mình. Tượng viết: Thăng hư ấp. Vô sở nghi dã.
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 王 用 亨 于 岐 山 . 吉 . 無 咎 .
象 曰 . 王 用 亨 于 岐 山 . 順 事 也 .
Lục tứ.
Vương dụng hanh vu Kỳ Sơn. Cát. Vô cữu.
Tượng viết:
Vương dụng hanh vu kỳ Sơn. Thuận sự dã.
Dịch.
Khéo khuôn, khéo xử ở đời,
Văn vương hưng vượng ở nơi núi Kỳ.
Đã hay, còn khỏi tiếng chê.
Tượng rằng: Khéo khuôn, khéo xử ở đời,
Văn vương hưng vượng ở nơi núi Kỳ,
Thế là thuận sự, thuận thì.
Hào Lục tứ: Các nhà bình giải cắt nghĩa Hào này mỗi người một lối, duyên do là tại chữ hanh
- Trình tử đọc hanh là hanh, và giải là hanh thông.
- Chu Hi đọc hanh là hưởng, và giải là tế tự thần minh, phải dùng tâm thành, phải tập trung tinh thần mới cảm thông với thần minh được.
Trình tử giải Hào này đại khái như sau: Lục tứ là một trọng thần kế cận quân vương, chỉ nên giúp cho Vua, một ngày một trở nên tài đức, giúp cho hiền sĩ ở dưới được thăng tiến, còn mình đừng có mong tiến chức nữa. Bởi mong tiến nữa, sẽ bị nghi là bức tiếm quyền của quân vương. Văn Vương đã theo đường lối này khi ở Kỳ Sơn, và nhờ đường lối này mà đã làm mọi sự trở nên thông suốt, đẹp đẽ, tốt lành (Vương dụng hanh vu Kỳ Sơn. Cát. Vô cữu).
Trình tử giải Dụng hanh là Dụng thử nhi hanh. Như vậy trọng thần giúp cho vua tiến lên, cho người hiền sĩ ở dưới tiến lên về chức vị, còn mình tuy không tiến thêm về chức, nhưng tiến thêm về đạo đức. Trình tử sở dĩ giải Hào này như vậy, chắc là vì thấy trong lịch sử có nhiều trọng thần đã lăng bức quyền vua.
Đọc Tam Quốc, ta thấy Tư Mã Sư mỗi khi vào triều đều đeo gươm lên điện, và vua Ngụy là Tào Phương mỗi khi thấy Tư Mã Sư vào triều thì run bần bật như người bị kim châm sau lưng, có khi còn bước xuống khỏi ngai rồng đón tiếp. Khi các quan tâu trình mọi việc, Tư Mã Sư tự ý quyết đoán không hỏi qua ý vua một câu. Xong rồi Sư ra về, ngang nhiên bước xuống thềm điện, lên xe ra khỏi nội cung, tiền hô hậu ủng có tới vài ngàn người ngựa... (Tam Quốc Chí Tử Vi Lang dịch trang 1921).
-Wilhelm giải đại khái rằng: vua Văn Vương đã giới thiệu những công thần của vua với thần núi Kỳ Sơn, và đã cho họ được dự khói hương nơi Thái Miếu, bên cạnh vua. Như vậy là công thần thăng tiến, đến mức độ cao nhất rồi, tiếng tăm lẫy lừng trước mặt cả thần minh, lẫn người, và đã lưu danh hậu thế. Giải như Wilhelm cũng có cái hay, vì thực ra các vua chúa xưa cũng thường hay vẽ hình các công thần để lưu lại hậu thế.
-Quang Võ nhà Hán, cho vẽ hình 28 tướng tá đã giúp vua hưng nghiệp, ở cung Vân Đài.
-Càn Đức nhà Đường, cho vẽ hình các công thần treo ở Lăng Yên Các.
-Triết Tông nhà Tống, vẽ hình 39 tướng tài có công dẹp Anh Hùng Lương Sơn Bạc, và treo ở Lầu Huy An.v.v...
. Tượng viết: Vương dụng hanh vu Kỳ Sơn. Thuận sự dã. Trình tử giải rằng: Đường lối mà vua Văn Vương đã áp dụng khi ở Kỳ Sơn đó là thuận thời, thuận đức mà cư xử vậy.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 貞 吉 . 升 階 .
象 曰 . 貞 吉 升 階 . 大 得 志 也 .
Lục ngũ.
Trinh cát. Thăng giai.
Tượng viết:
Trinh cát thăng giai. Đại đắc chí dã.
Dịch.
Bền lòng, vững chí, mới hay,
Thềm đời nhẹ bước, một ngày một lên.
Tượng rằng:
Bền lòng, vững chí mới hay,
Thềm đời nhẹ bước, niềm tây phỉ nguyền.
Hào Lục ngũ: Trình tử giải rằng: Quân vương mà biết bền lòng tín dụng hiền tài, thời sẽ tốt đẹp, sẽ có cơ tiến phát mãi, như người có bậc, có thềm đá bước lên.
Tượng viết: Trinh cát thăng giai. Đại đắc chí dã. Trình tử giải rằng: Nếu biết bền lòng, vững chí ủy nhiệm hiền tài, để tuần tự tiến lên, thì có thể đi đến chỗ thiên hạ đại trị. Thế là đại đắc chí vậy.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 冥 升 . 利 于 不 息 之 貞 .
象 曰 . 冥 升 在 上 . 消 不 富 也 .
Thượng Lục.
Minh thăng. Lợi vu bất tức chi trinh.
Tượng viết:
Minh thăng tại thượng. Tiêu bất phú dã.
Dịch:
Cực cao, nhắm mắt tiến bừa,
Ám hôn, chẳng có tri cơ chút nào.
Tượng rằng:
Tiến nhân, tiến đức, chẳng sao,
Chính, minh, thượng tiến, thì nào hại chi.
Hào Thượng Lục: Đã tiến đến cùng, mà còn muốn tiến nữa, tức là tiến mù quáng (Minh thăng). Vậy nên đổi cái lòng vụ lợi, tham cầu không ngơi ấy ra lòng ưa chuộng tiến đức, tiến đạo thì mới hay (Lợi vu bất tức chi trinh).
Tiểu Tượng cho rằng: Thượng Lục sở dĩ tiến một cách mù quáng, vì không biết lẽ tiêu tức của trời đất. Tiến cực dĩ nhiên sẽ tiêu, mà đã tiêu thì làm sao mà giầu có được. Tượng viết: Minh thăng tại thượng. Tiêu bất phú dã.
ÁP DỤNG QUẺ THĂNG VÀO THỜI ĐẠI
Sống trên đời, luôn phải cố gắng vươn lên. Khi còn trẻ, phải vươn lên về phía công danh, lợi lộc. Lúc ấy, nên có người trên phù trợ. Nhưng tất cả phải chính đáng, ngay thẳng. Khi tóc đã hoa râm, thì phải dùng nửa đời sau, để tiến về tinh hoa, đạo đức. Làm sao để được như 2 câu thơ sau:
Khi sinh bạn khóc, người cười,
Sống sao khi chết bạn vui, người sầu.
-Về công danh, ta phải kiên trì. Người thông minh học 5 năm, ta kém thông minh ta học 10 năm, miễn sao ta có chí ta sẽ bằng người, và ta luôn luôn tự hào về ý chí của ta.
-Về lợi lộc, ý nói về thương mại, ta phải chịu khó, thật thà, ngay thẳng và thành tín, và luôn phải học hỏi kinh nghiệm của người đã làm cùng nghề như mình lâu năm. Chớ tự phụ , kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi, là không cần ai chỉ dẫn, thì mới thành công được.
-Về đạo đức, điều này nếu có thể được, cha mẹ nên trau giồi cho con từ khi còn nhỏ, làm lành, nghĩ lành, và xa lánh làm xấu, nghĩ xấu, dù việc đó là điều nhỏ nhặt, như nói dối, tham lam của người.v.v...Vì quen làm điều lành, nghĩ lành, sau đọc sách Thánh hiền, thì sẽ trở thành người đạo đức.
Còn quen làm ác, và gian tham ngay từ nhỏ, mà cha mẹ lại quá nuông chiều con, lại hay viện cớ con còn nhỏ dại nên chưa cần răn dạy ngay, đợi lúc trẻ khôn lớn thì đã quá muộn, chúng không còn nghe lời người trên nữa. Do đó, chúng dễ dàng bị xa ngã, nếu lại giao du với bạn bè xấu thì hậu quả chúng là những tai hoạ cho xã hội, nếu chúng may mắn mà có công danh chăng nữa, thì chúng cũng chỉ là những viên chức tham ô, hại dân, hại nước mà thôi. Cổ nhân đã có câu:
Dạy con từ thuở còn thơ,
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Ngày nay, vì quá bận rộn vì công ăn, việc làm, vì sinh kế, nên không còn thời giờ để săn sóc, dạy dỗ con cái cẩn thận, nên biết bao bậc cha mẹ đã quá đau lòng vì con mình hư hỏng đến không thể ngờ, lúc đó đành đổ tại số phận, đành sống trong tủi nhục cho qua ngày.
47. 澤 水 困 TRẠCH THỦY KHỐN
Khốn Tự Quái | 困 序 卦 |
Thăng nhi bất dĩ tất Khốn. | 升 而 不 以 必 困 |
Cố thụ chi dĩ Khốn. | 故 受 之 以 困. |
Khốn Tự Quái
Lên cao cao mãi, đành rằng tai ương,
Cho nên Khốn tả nhiễu nhương...
Tiếp sau quẻ Thăng, là quẻ Khốn. Tại sao gọi bằng Khốn? Theo Tự Quái thì Thăng quá sẽ bị khốn. Chữ Khốn có chữ Mộc nằm trong bộ Vi. Đó là 1 cây bị tù túng không vươn lên được.
Quẻ Khốn trên có Đoài, dưới có Khảm. Nơi quẻ Đoài, thì 1 Hào Âm khuất lấp 2 Hào Dương, nơi quẻ Khảm thì hai Hào Âm chèn ép một Hào Dương ở giữa. Vì thế nên gọi bằng Khốn. Khốn tức là Quân tử bị tiểu nhân đè nén, khuất lấp.
I. Thoán.
Thoán từ.
困 . 亨 . 貞 . 大 人 吉 . 無 咎 . 有 言 不 信 .
Khốn. Hanh. Trinh. Đại nhân cát. Vô cữu. Hữu ngôn bất tín.
Dịch.
Khốn cùng, nhưng vẫn hanh thông,
Trung trinh, quân tử khốn cùng vẫn hay.
Khốn cùng, mà vẫn thẳng ngay,
Tuyệt nhiên không có đơn sai, lỗi lầm.
Gặp thời điên đảo phong trần.
Hãy nên kín miệng, nói năng ích gì.
Thoán từ: Khốn là khốn đốn. Khốn đốn trước mắt phàm phu, thời là cùng cực lao lung, nhưng trước mắt Thánh hiền, thì khốn vẫn mang lại sự hanh thông. Thật vậy, thân tuy khốn, nhưng phẩm giá vẫn vẹn toàn. Đạo vẫn cao, đức vẫn trọng, vẫn để được tiếng thơm muôn thuở, đó là trường hợp Nguyễn Tri Phương, Võ Tánh vv...
Khốn mà vẫn Hanh, vì sự khốn khổ là một phương tiện để đào luyện tâm thần một cách hữu hiệu. Mạnh Tử viết: Hễ trời định phó thác trách nhiệm lớn lao cho người nào, trước hết làm cho người ấy phải khổ não tâm trí, lao nhọc gân cốt, đói khát, cầu bơ cầu bất, nghèo nàn, thiếu hụt trước sau, và làm cho rối loạn điên đảo các cuộc hành vi của người ấy. Như vậy đặng phát động lương tâm của người, kiên nhẫn tính tình của người, và gia tăng tài đức còn khiếm khuyết của người.
Thế thường, người ta trước có lầm lỗi, rồi sau mới có thể sửa đổi. Trước có khốn đốn, nơi tâm tư hoạnh nghịch mới mưu lự, rồi sau mới hưng thịnh...(Mạnh Tử Cáo Tử Chương cú hạ, 15). Tuy nhiên, chỉ có người quân tử khi gặp lúc cùng khốn, mới giữ được tròn khí tiết, mới xử sự đường hoàng, không ai chê trách được, còn tiểu nhân ắt là không như vậy. Thoán Từ nói: Trinh. Đại nhân cát. Cũng y như Luận ngữ nói: Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ (Luận Ngữ XV, 1). Lúc cùng khốn, lúc thất thế, mình có nói gì cũng chẳng ai tin mình (Hữu ngôn bất tín). Như vậy, thà kín tiếng, xẻn lời thì hơn.
Thoán Truyện.
Thoán viết:
彖 曰 . 困 . 剛 掩 也 . 險 以 說 . 困 而 不 失 其 所 . 亨 . 其 唯 君 子 乎 ? 貞 大 人 吉 . 以 剛 中 也 . 有 言 不 信 . 尚 口 乃 窮 也 .
Khốn. Cương yểm dã. Hiểm nhi duyệt. Khốn nhi bất thất kỳ sở hanh.
Kỳ duy quân tử hồ. Trinh đại nhân cát. Dĩ cương trung dã.
Hữu ngôn bất tín. Thượng khẩu nãi cùng dã.
Dịch.
Khốn là cứng bị mềm che,
Tuy trong gian hiểm, thỏa thuê khác nào.
Khốn cùng, mà vẫn thanh tao,
Trừ phi quân tử, nhẽ nào hanh thông.
Khốn cùng, mà vẫn trinh trung,
Phải là quân tử, mới mong tốt lành.
Gặp thời cùng khốn, điêu linh,
Sắt son, trung chính, thế tình mấy ai?
Chẳng nên cả tiếng, lắm lời,
Bạ mồm, có thể họa tai khôn cùng.
Thoán Truyện trước hết giải thích chữ Khốn, và cho rằng khốn là Dương cương bị khuất lấp. Dương cương là ánh sáng, là người quân tử, cũng y như nói ánh sáng bị che khuất, quân tử bị tiểu nhân đàn áp, bưng bít. (Khốn cương yểm dã). Gặp hiểm nguy, mà vẫn yên vui, vẫn giữ lòng an bình, thanh thản, thì chỉ có người quân tử mới làm được như vậy (Hiểm nhi duyệt. Khốn nhi bất thất kỳ sở hanh. Kỳ duy quân tử hồ). Đó là trường hợp đức Khổng bị vây 5,7 ngày ở Trần, Thái mà vẫn đàn ca, (Sử ký Tư Mã Thiên, Khổng tử thế gia), hoặc Nhan Hồi sống trong ngõ hẹp với 1 giỏ cơm, 1 bầu nước mà vẫn lấy làm ung dung, sung sướng (Luận Ngữ, VI, 9).
Người quân tử, gặp cảnh khốn cùng, vẫn giữ được lòng minh chính, vẫn giữ được lòng sắt son, như vậy mới hay (Trinh. Đại nhân cát). Họ tuy gặp cảnh khốn cùng, vẫn là đại nhân. Diogène, sống trong ống cống, với chiếc bát để ăn uống; được vua Alexandre đến thăm, ông xin vua một ân huệ là đứng lui ra, đừng lấp ánh mặt trời của ông.
Gặp nguy hiểm, khốn cùng, có nói cũng chẳng ai tin, nên dẫu có khua múa cũng chỉ chuốc lấy hoạ hại. Tiết Nhân Quí bị Lý Đạo Tông, là em vua Đường Thái Tôn bày mưu hại. Lý Đạo Tông giả chiếu chỉ triệu Tiết Nhân Quí về trào, mời về dinh dự tiệc, chuốc rượu mê cho say, và vu cho rằng định hãm hiếp và cố sát Quận Chúa. Đường Thái Tông nổi giận đòi chém, mà có đợi cho Tiết Nhân Quí biện bạch được lời nào đâu.
II. Đại Tượng Truyện
象 曰 . 澤 無 水 . 困 . 君 子 以 致 命 遂 志 .
Tượng viết:
Trạch vô thủy. Khốn. Quân tử dĩ trí mệnh toại chí.
Dịch. Tượng viết:
Khốn là nước rút khỏi chầm,
Khốn cùng, quân tử xả thân vẹn nghì.
Hồ mà không có nước, thì cá lấy đâu mà sống, người lấy nước đâu mà dùng nên ắt khốn. Người quân tử suy ra rằng, lúc cùng khốn phải biết coi thường sinh mạng, để bảo tồn đạo nghĩa (Quân tử dĩ trí mệnh toại chí). Trình tử cho rằng: Gặp nguy mà biết đó là Mệnh Trời, thời sẽ bình tĩnh tự thủ, không đến nỗi xao xuyến tâm thần, còn không thời sẽ mất tinh thần, và sẽ mắc kẹt trong tai ách. Giải như vậy cũng hay.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 臀 困 于 株木 . 入 于幽 谷 . 三 歲 不 .
象 曰 . 入 于 幽 谷 . 幽 不 明 也 .
Sơ Lục.
Đồn khốn vu chu mộc. Nhập vu u cốc. Tam tuế bất địch.
Tượng viết:
Nhập vu u cốc. U bất minh dã.
Dịch.
Mông trần, gốc trụi ngồi nhằm,
Vào trong hang tối ba năm thấy gì?
Tượng rằng: Hang tối đi vào,
Thế là dốt nát, chứ nào thông minh.
Hào Sơ Lục tượng trưng một người mắc khốn, mới đầu không hiểu vì đâu mà có tai bay, vạ gió như vậy, thực là như ngồi phải chông, phải cọc (Đồn khốn vu chu mộc), như lạc vào hang sâu (Nhập vu u cốc), đến 3 năm, mà cũng chẳng thấy được nẻo ra, chẳng thấy được người cứu (Tam tuế bất địch). Đó là trường hợp Tiết Nhân Quí bị Lý đạo Tông hãm hại như đã nói trên, và phải giam cầm nơi thiên lao 3 năm tròn. (Nhập vu u cốc). Nhiều khi mình mắc hoạ hoạn, chính là vì mình không sáng suốt (U bất minh dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 困 于 酒 食 . 朱 紱 方 來 . 利 用 亨 祀 . 征 凶 . 無 咎 .
象 曰 . 困 于 酒 食 . 中 有 慶 也
Cửu nhị:
Khốn vu tửu thực. Chu phất phương lai. Lợi dụng hưởng tự. Chinh hung. Vô cữu.
Tượng viết:
Khốn vu tửu thực. Trung hữu khánh dã.
Dịch.
Ngoài tuy ăn uống, rượu chè,
Nhưng mà lòng vẫn ủ ê, buồn phiền.
Rồi ra vua sẽ lưu liên,
Rồi ra tất đỏ có phen gặp mình,
Lòng thành cảm động thần minh,
Nhưng đừng vội vã tiến hành việc chi.
Vội làm hung họa có khi,
Mình làm, mình chịu, kêu gì được ai.
Tượng rằng:
Rượu chè, mà vẫn khốn nàn,
Một lòng trung liệt, chứa chan phước lành.
Hào Cửu nhị tượng trưng là 1 bậc công thần, tuy bên ngoài vẫn sống trong nhung lụa, vẫn ăn sung, mặc sướng, nhưng không vì thế mà vui được, trái lại nhiều khi vẫn buồn khổ (Khốn vu tửu thực). Buồn khổ, có khi vì vận nước điêu linh, nhân dân đồ thán, có khi vì thù nhà chưa báo. Những người như vậy, rồi ra sẽ được quân vương cố cập (Chu phất phương lai). (Chu phất là mảnh vải điều bao đầu gối của vua chúa). Trong khi chờ đợi, hãy tâm thành van vái thần minh (Lợi dụng hưởng tự). Nếu vội vàng hành động, sẽ mang họa và không đổ lỗi cho ai được (Chinh hung vô cữu). Ví như Ngũ Tử Tư dẫu là mưu thần của Hạp Lư, nhưng bao lâu chưa đem quân về phá Sở được, để báo thù cho cha là Ngũ Xa, thì lòng vẫn rầu rĩ, khôn khuây. Thế là Khốn vu tửu thực. Sau này, Hạp Lư cũng phải chiều ý, mà cất quân đánh Sở, giúp cho Ngũ Tử Tư báo thù. Thế là Chu phất phương lai. Tuy nhiên, từ lúc lập chí báo thù, cho đến khi thực hiện được chí hướng ấy, cần 1 thời gian dài, nếu làm vội vã sẽ thất bại. Thế là Vãng hung vô cữu.
Tượng Truyện bình rằng: Cơm rượu ê hề, mà vẫn thấy lòng đau đớn, những người có lòng thành như vậy sẽ cảm động được đất trời, nên rồi ra cũng sẽ được phúc khánh (Khốn vu tửu thực. Trung hữu khánh dã).
3. Hào Lục tam.
六 三 . 困 于 石 . 據 于 蒺 藜 . 入 于 其 宮 . 不 見 其 妻 . 凶 .
象 曰 . 據 于 蒺 藜 . 乘 剛 也 . 入 于 其 宮 . 不 見 其 妻 . 不 祥 也 .
Lục tam.
Khốn vu thạch. Cứ vu tật lê. Nhập vu kỳ cung. Bất kiến kỳ thê. Hung.
Tượng viết:
Cứ vu tật lê. Thừa cương dã. Nhập vu kỳ cung. Bất kiến kỳ thê.
Bất tường dã.
Dịch.
Những là vấp đá, chạm gai,
Khốn sao khốn khổ, tơi bời tấm thân.
Về nhà thời vợ biệt tăm,
Tứ bề quạnh quẽ, thập phần hung tai.
Tượng rằng: Dựa phải bụi gai,
Mình nhu, mà dám cưỡi chòi trên cương,
Về nhà vợ biệt hà phương,
Thế là gặp chuyện bất tường còn chi.
Hào Lục tam tượng trưng một người Âm nhu chi tài, lại bất trung, bất chính. Gặp lúc cùng khốn, đã không có tài, mà lại làm liều, thì làm sao thoát nạn. Muốn tiến lên, thì Cửu tứ, Cửu ngũ như đá ngăn trước mặt (Khốn vu thạch). Muốn lùi, mà sau có Cửu nhị, như gai đâm sau lưng (Cứ vu tật lê), lại trên không ứng với Thượng Lục, có khác nào người gặp nguy khốn đã tiến thoái, lưỡng nan; mà tìm về nhà thì vợ đã biệt tăm tích (Nhập vu kỳ cung. Bất kiến kỳ thê), như vậy thì dĩ nhiên là hung hoạ rồi. Tượng Truyện bình rằng: Phàm Nhu mà cưỡi lên Cương, phàm những người bất tài, bất tướng mà chèo đèo, đòi ăn trên, ngồi chốc người anh tài, thế là dựa vào gai, đạp vào gai vậy (Cứ vu tật lê. Thừa cương dã). Thân đã bất an, mà còn đạp gai, đạp góc, thế là bất tường vậy, y như về nhà mà không thấy vợ (Nhập vu kỳ cung. bất kiến kỳ thê. Bất tường dã).
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 來 徐 徐 . 困 于 金 車 . 吝 . 有 終 .
象 曰 . 來 徐 徐 . 志 在 下 也 . 雖 不 當 位 . 有 與 也 .
Cửu tứ.
Lai từ từ. Khốn vu kim xa. Lận. Hữu chung.
Tượng viết:
Lai từ từ. Chí tại hạ dã. Tuy bất đáng vị. Hữu dữ dã.
Dịch.
Tới nhưng chậm chạp, dùng dằng.
Muốn đi, khốn nổi xe ngăn mất đường.
Tuy là đáng phải phàn nàn,
Cuối cùng âu cũng sẽ làm nên công.
Tượng rằng:
Tới nhưng chậm chạp, dùng dằng,
Xót tình kẻ dưới, dạ hằng vấn vương.
Tuy là ngôi vị dở dang,
Nhưng mà vẫn kẻ lo toan cùng mình.
Hào Cửu tứ: Nhiều khi thấy những người chân tay mình mắc nàn, mà muốn giúp cũng khó lòng, phải tuần tự nhi tiến (Lai từ từ), phải tránh né cho khỏi vấp váp sự chống đối của đối phương (Khốn vu kim xa), tuy làm vậy cũng đáng hổ ngươi, nhưng không đáng trách (Lận. Hữu chung). Cửu tứ muốn cứu Sơ Lục, mà phải đi chầm chậm (Lai từ từ). Khốn vu kim xa là bị Cửu nhị như chiếc xe sắt cản trở.
Y như bè bạn Tiết Nhân Quý, có Trình Giảo Kim, Uất Trì Cung, Từ Mậu Công từng làm quan lớn trong triều, mà muốn cứu Tiết Nhân Quí khỏi tội, khỏi bị hại cũng mất mấy năm trời.
Tượng Truyện bình rằng: Tuy là hoạt động chậm chạp, nhưng mà ý chí vẫn gởi gấm nơi người dưới (Lai từ từ. Chí tại hạ dã). Tuy rằng ngôi vị không được chính đáng, nhưng sau cùng cũng vẫn tới được mà cứu vớt được Sơ (Tuy bất đáng vị. Hữu dữ dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 劓 刖 . 困 于 赤 紱 . 乃 徐 有 說 . 利 用 祭 祀 .
象 曰 . 劓 刖 . 志 未 得 也 . 乃 徐 有 說 . 以 中 直 也 .
利 用 祭 祀 . 受 福 也 .
Cửu ngũ.
Tị nguyệt. Khốn vu xích phất. Nãi từ hữu duyệt. Lợi dụng tế tự.
Tượng viết:
Tị nguyệt. Chí vị đắc dã. Nãi từ hữu duyệt. Dĩ trung trực dã.
Lợi dụng tế tự. Thụ phúc dã.
Dịch.
Ra uy cắt mũi, chặt chân.
Quân thần xui khiến, ra thân khốn nàn.
Từ từ, lòng sẽ rảnh rang,
Hãy nên tế lễ, vái van ơn trời.
Tượng rằng:
Ra uy cắt mũi, chặt chân.
Ý nguyền chưa được thập phần thỏa thuê.
Từ từ âu sẽ đẹp bề,
Một niềm trung trực, lo gì chẳng hay.
Tế thần sẽ được phúc dầy,
Chân thành cầu đảo, tràn đầy ơn trên.
Hào Cửu ngũ: có nhiều cách bình giải:
Trình tử giải đại khái rằng: Bậc quân vương mà bị khốn, là vì trên, dưới đều bỏ mình (Tị nguyệt: Tị là bị thương ở mũi, ở trên: Nguyệt là bị thương ở chân, ở dưới; trên dưới đều bị thương. Bậc quân vương mà bị khốn là vì thiên hạ bỏ mình (Khốn vu xích phất). Tuy nhiên Cửu ngũ đồng đức với cửu nhị, rồi ra sẽ được Cửu nhị cứu khốn phò nguy. Phàm Quân vương bị khốn, phải lo cầu hiền tài, với tất cả lòng thành như là tế tự thần minh vậy, âu sẽ gặp may lành (Nãi từ hữu duyệt. Lợi dụng tế tự)
Lai Trí Đức giải đại khái như sau:
Tị nguyệt là vua bị khốn.
Khốn vu xích phất là tôi bị khốn.
Nãi từ hữu duyệt là rồi ra cũng sẽ thoát nạn.
Lợi dụng tế tự là thành khẩn cầu xin sẽ được phúc.
Dưới đây xin dẫn sự tích lịch sử, để giúp ta hiểu rõ Hào này: Vua Tống Thái Tổ đi chinh phạt Nam Đường, bị yêu đạo Dư Hồng vây khốn tại thành Thọ Châu, bị bắt mất 12 tướng, lại gần hết lương thực. Vua rưng rưng nước mắt mà than rằng: Binh tướng bị vây, vua rầu, tôi nhục, uổng công xây dựng 18 năm trời, lại nỗi mẹ già buồn bực đêm ngày, 80 tuổi trông con dựa cửa. Nói tới đó, cầm lòng không đậu, lụy ngọc chan hòa. Miêu Quang Vũ và bá quan xúm nhau lại khuyên giải. Miêu Quang Vũ khuyên vua nên đặt hương án, cầu trời, khấn phật, họa may trời phật sai thần tiên xuống trừ nó mới xong. Đêm ấy vua tôi ăn chay, tắm gội, mặc đồ mới, đồng quì trước hương án mà cầu trời...Hứa nếu thoát nạn, khi về nước rồi, sẽ giảm thuế, tha tù, làm phúc mà chuộc tội. Rạng sáng, trời sai Phi thử đem tha vào kho cho vua ba mươi vạn hộc lúa, và mấy ngày sau Hoàng Thạch Công sai Trịnh Ân xuống phá vòng vây để đi cầu viện cho vua.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 困 于 葛 . 于 . 曰 動 悔 . 有 悔 . 征 吉 .
象 曰. 困 于 葛. 未 當 也 . 動 悔 . 有 悔 . 吉 行 也 .
Thượng Lục.
Khốn vu cát lũy. Vu nghiệt ngột. Viết động hối. Hữu hối . Chinh cát.
Tượng viết:
Khốn vu cát lũy. Vị đáng dã. Động hối hữu hối. Cát hành dã.
Dịch.
Sắn bìm quấn quít, nhiễu nhương,
Khó bề dở dói, nên vương khốn nàn.
Khốn nàn mà biết lo toan,
Lỗi lầm mà biết phàn nàn thời hay.
Tượng rằng:
Sắn bìm quấn quít, vấn vương,
Hãy còn khốn đốn, chưa đường thoát ra.
Tránh điều ân hận, phiền hà.
Liệu cơ thoát khốn, mới là mắn may.
Hào Thượng Lục: Lúc này, là thời khốn đã tới cùng, cùng tất biến. Tuy nhiên Thượng Lục còn bị khốn khó như dây dợ sắn bìm, vướng mắc chưa thoát được (Khốn vu cát lũy), hoạt động còn có mòi nguy hiểm lắm (Vu nghiệt ngột). Nhưng nếu biết tự nhủ rằng: Hoạt động sẽ gặp điều đáng phàn nàn (Viết động hối). Nếu làm sai, mà biết phàn nàn, sang sửa (Hữu hối), được như vậy mà tiến hành công chuyện, sẽ thoát khốn (Chinh cát).
Tượng viết: Khốn vu cát lũy. Vị đáng dã. Động hối. Hữu hối. Cát hành dã. Bị khốn khó buộc ràng, chưa biến đổi hoàn cảnh, thế là chưa biết xử sự cho hay, hành động cho khéo (Khốn vu cát lũy. Vị đáng dã). Biết lo trước những trắc trở khi hoạt động, làm sai biết hối quá, như vậy có thể thoát khốn, thế là tiến hành sẽ gặp may (Động hối. Hữu hối. Cát hành dã).
ÁP DỤNG QUẺ KHỐN VÀO THỜI ĐẠI
Nhìn vào đời sống xã hội, nhân quần, ta thấy xưa nay không biết là bao người đã bị giông tố xã hội, gia đình, thời gian, hoàn cảnh cuốn lôi, đã lâm vào những cảnh cùng khốn hết sức.
Cách đây 50 năm, ở Đức, Hitler đã ra lệnh thiêu sống 6 triệu người Do Thái, mà Thế giới chịu không can thiệp nổi.
Lại gần đây, ở Việt Nam, biết bao người đi vượt biên đã bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp, giết chóc khiến gia đình ly tán, người còn, người chết, tình cảnh thật thê lương.
Xưa kia, biết bao công thần đã bị nhà vua cố tình giết chết, hoặc bị đồng liêu giá họa và đã đi đến chỗ tử vong. Họ tỏ ra ung dung, thư thái trước cái chết, như Nhạc Phi,vv...
Dịch kinh, khuyên ta nếu gặp hoàn cảnh trên, phải bình tĩnh mà tìm cách thoát khỏi cảnh nguy khốn đó.
Theo tôi (tác giả viết bài này), nếu dân Do Thái lúc ấy cùng đoàn kết nổi lên chống lại, thì làm sao Đức quốc xã thiêu sống nổi 6 triệu người. Nếu trước khi vượt biên, mà ta hoạch định sẵn chương trình, tất cả đều mang gậy gộc, hoặc dấu vài khẩu súng theo. Khi trông thấy thuyền cướp Thái Lan từ xa tiến lại, ta nhất tề đứng lên, với tư thế sẵn sàng ứng chiến, thì tôi nghĩ với vài tên cướp biển chắc chắn không dám xâm phạm ta. Nhà tôi có người bạn, cũng ở trong trường hợp này, ông ta cùng với những người nam trong thuyền, mang theo gậy gộc và khi trông thấy bọn cướp có vài ba đứa tiến đến, là nhất tề cầm gậy ứng chiến. Bọn cướp thấy khó ăn, nên đã không dám làm gì.
Còn trường hợp Nhạc Phi, hồi nhỏ lúc đọc Truyện, tôi đã không tán thành hành động của Người, vì theo tôi đó là Ngu trung, thật vậy Người đã không đặt Quốc Gia, Dân tộc trên hết, mà đã vì chữ trung, sẳn sàng chịu chết bởi tay gian thần Tần Cối, và một vị vua hôn ám. Thật là một cái chết không đáng vậy. Tóm lại, Học Dịch cốt để phòng những tai họa, khó khăn có thể xẩy ra, ta sẽ giải quyết được nó dễ dàng hơn, và xa hơn nữa ta sẽ bớt đi được nhiều lỗi lầm trong đời ta.
48. 水 風 井 ThỦy Phong TỈnh
Tỉnh Tự Quái | 井 序 卦 |
Khốn hồ thượng giả | 困 乎 上 者 |
Tất phản hạ. | 必 反 下 |
Cố thụ chi dĩ Tỉnh. | 故 受 之 以 井 |
Tỉnh Tự Quái
Cao mà khốn nạn, sẽ thường xuống sâu.
Cho nên Tỉnh tiếp theo sau.
Khi người bị khốn ở bên trên, sẽ quay xuống phía dưới, cho nên, sau quẻ Khốn là quẻ Tỉnh. Tỉnh là giếng. Nói đến giếng nước, tức là nói đến cung cấp nước uống cho dân chúng từ ngàn xưa tới nay.
Thường làng nào cũng có giếng. Giếng đào sâu xuống cho tới các mạch nước ngầm, nên có thể cung cấp nước ăn uống cho cả dân làng.
Quẻ Tỉnh, trên là quẻ Khảm là nước, dưới là quẻ Tốn là gỗ. Xưa người ta dùng gầu tre, gỗ hoặc những cần cây để múc nước giếng lên. Lại cũng dùng giây thòng gầu xuống để múc nước lên. Ca dao ta có câu: Tưởng giếng sâu, em nối sợi dây dài, ngờ đâu giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây.
I. Thoán.
Thoán từ.
井 . 改 邑 不 改 井 . 無 喪 無 得 . 往 來 井 井 . 汔 至 . 亦 未 繘 井 . 羸 其 瓶 . 凶 .
Tỉnh. Cải ấp bất cải tỉnh. Vô táng vô đắc. Vãng lai tỉnh tỉnh.
Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Luy kỳ bình. Hung.
Dịch.
Tỉnh là nước giếng nuôi người,
Rời làng, rời ấp, chẳng rời giếng đi.
Dùng nhiều, nước chẳng suy vi,
Không dùng, nước vẫn cứ y chẳng tràn.
Người qua, kẻ lại rộn ràng,
Tha hồ đến giếng, kín mang nước về.
Thòng dây chưa tới, ích chi?
Giây chưa tới nước, cách gì múc lên.
Dùng gầu nứt rạn, chẳng bền,
Dùng gầu nứt rạn, thảo hèn nào hung.
Thoán từ: Giếng là 1 cơ cấu cần thiết nhất trong làng mạc. Xưa, ông Công Lưu, tổ phụ nhà Chu, muốn lập cơ ngơi ở đất Bân, cũng đã đến nghiên cứu phương hướng, chỗ nắng, chỗ râm, cùng là nơi có mạch nước chẩy, thế là đào giếng, rồi mới lập ấp. Vì vậy, sau này dẫu hình dạng làng mạc có đổi thay, kiến trúc nhà cửa có biến đổi, thời cái giếng vẫn y nguyên cùng tuế nguyệt (Tỉnh. Cải ấp bất cải Tỉnh). Đã có giếng tốt, thời dầu nhiều người ăn nước, giếng cũng không hao kiệt, mà thảng hoặc giếng không có ai dùng, thời giếng cũng không tràn đầy (Vô táng vô đắc)
Giếng chỉ làm việc của giếng là cung cấp nước ăn, còn ai đến cũng không mời, ai đi cũng không giữ (Vãng lai tỉnh tỉnh). Nhưng muốn kín nước giếng, phải có dây đủ dài, có gầu lành lặn mới được. Nếu chưa tới mực nước, mà dây đã hết, hoặc gầu múc nuớc mà vỡ chẩy, thì cũng chẳng được ích lợi gì (Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Luy kỳ bình. Hung).
Ngật chí là chưa tới nơi. Duật là giây để kéo nước.
Luy kỳ bình là gầu vỡ, gầu chẩy.
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰: 巽 乎 水 而 上 水,井﹔井 養 而 不 窮 也。改 邑 不 改 井,乃 以 剛 中 也。汔 至 亦 未 繘 井,未 有 功 也。羸 其 瓶,是 以 凶 也。
Tồn hồ thủy nhi thượng thủy. Tỉnh. Tỉnh dưỡng nhi bất cùng dã. Cải ấp bất cải tỉnh. Nãi dĩ cương trung dã. Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Vị hữu công dã. Luy kỳ bình. Thị dĩ hung dã.
Dịch.
Ném gầu vào múc nước lên,
Tỉnh là Tồn dưới, thủy trên rõ rành.
Giếng là nguồn mạch dưỡng sinh,
Dưỡng nuôi mãi mãi, công trình dài lâu.
Rời làng, giếng chẳng rời đâu,
Cương cường, trung chính, trước sau vững bền.
Hụt dây, nên nước không lên,
Nghĩa là dang dở, không nên công trình,
Dùng gầu rạn nứt, chẳng lành.
Không lành, không lặn, đã đành là hung.
Thoán Truyện giải thích Tỉnh là ném gầu vào nước để múc nước lên. Thoán viết: Tồn hồ thủy nhi thượng thủy. Tỉnh. Thoán Truyện cũng cho biết đặc tính của giếng là cung cấp nước nuôi dân mãi mãi chẳng cùng (Tỉnh dưỡng nhi bất cùng dã). Kế đó Thoán Truyện giải thích Thoán từ: Cải ấp bất cải tỉnh. Nãi dĩ cương trung dã là thay đổi ấp, mà không thay đổi giếng, vì giếng là cái gì thiên nhiên, còn làng mạc là cái gì nhân tạo. Cương trung tức là cái gì lý tưởng, thiên nhiên. Muốn kín nước, phải giòng dây xuống cho tới mực nước, chưa tới nước thì chưa đi tới đâu (Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Vị hữu công dã). Muốn kín nước, mà gầu lại thủng, lại vỡ, thì thật là hỏng chuyện (Luy kỳ bình. thị dĩ hung dã).
- Giếng tượng trưng cho cái gì hằng cửu, còn các tổ chức xã hội khác như làng mạc, thôn xóm, tượng trưng cho cái gì biến thiên. Nơi xã hội, giếng cũng tượng trưng cho nhân luân. Dẫu hình thức chính trị đổi thay, dẫu triều đại luân chuyển, nhưng nhân luân sau trước vẫn y nguyên.
-Giếng cũng tượng trưng cho nguồn sống, cho thiên tính nơi con người. Đó là tầng lớp sâu xa nhất trong con người. Nếu một tổ chức xã hội nào, một nền văn minh, giáo dục nào mà sao lãng nguồn sống ấy, thiên tính ấy, thì chỉ là cơ cấu nhân tạo tạm bợ, không có ích lợi gì lâu dài; y như đi múc nước giếng, mà dây không đủ dài, gầu không đủ kín, thời sao múc được nước ăn.
Nói cách khác, trong cuộc tu thân của chúng ta, điều cốt yếu là phải đạt tới nguồn mạch siêu nhiên, sống động trong con người. Nếu trạng thái siêu nhiên ấy chưa đạt được, thời con người chỉ sống trong tình trạng giả tạo, y thức như người muốn uống nước giếng trong mát, mà dây không đủ dài, gầu không đủ kín, nên đành phải chịu khát.
Tào Thăng giải Tỉnh là cái gì bất biến tượng trưng cho Đạo. Tỉnh cũng tượng trưng cho đời sống chính trị, cũng y như giếng cần phải có nước luôn luôn, để cung cấp nhu cầu cho nhân loại.
Vương đạo hay một nền hành chánh hoàn hảo, cũng là nguồn mạch sống động của đời sống quốc gia. Không gian, thời gian có thể đổi thay, nhưng một nền cai trị hoàn hảo bao giờ cũng là lý tưởng của nhân loại.
Tóm lại, Thoán của quẻ Tỉnh dạy ta hai bài học chính yếu:
1- Phải cố gắng đạt tới nguồn mạch sống động, siêu nhiên nơi con người, phải đạt tới Trời, tới Đạo, nơi tầng sâu con người, để thoả mãn nguyện vọng sâu xa, huyền bí nơi con người.
2- Phải có 1 nền hành chánh hoàn hảo, để thoả mãn nhu cầu muôn dân.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 木 上 有 水 . 井 . 君 子 以 勞 民 勸 相 .
Tượng viết:
Mộc thượng hữu thủy. Tỉnh. Quân tử dĩ lao dân khuyến tướng.
Dịch. Tượng rằng:
Tỉnh là nước có trên cây,
Khuyên dân lao tác, dở hay đỡ đần.
Mới hay quân tử thương dân,
Nuôi dân, lại dạy tương thân, tương phù.
Giải là : Trên gỗ, trên cây có nước là giếng. Người quân tử nhân đó khuyến khích dân lao tác, và giúp đỡ lẫn nhau. Nói là nước trên gỗ, trên cây, vì xưa dùng cần cây, dùng gầu mà múc nước lên. Vua chúa xưa đã tổ chức phương pháp Tỉnh Điền để chúng đân đồng lao, cộng tác với nhau. Phép Tỉnh Điền được gói ghém trong chữ Tỉnh. Chữ Tỉnh gồm có 9 ô:
-Tám ô chung quanh là ruộng đất chia cho 8 gia đình, gọi là tư điền. Ô thứ 9, ở giữa có cái giếng, gọi là công điền. 8 gia đình chung quanh, cùng ăn nước ở cái giếng chung ấy, lại cùng khai thác thửa ruộng công điền ấy để nộp lợi tức cho triều đình. Còn phần tư điền bên ngoài, làm được bao nhiêu thời giữ lấy mà ăn.
Thế là nhờ phép Tỉnh điền, vua chúa vừa khiến dân lao tác, vừa khuyến khích họ tương trợ lẫn nhau.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Hào từ & Tiểu Tượng Truyện, nói lên các điều kiện mà một giếng nước cần phải có.
-Nước giếng không được dơ bẩn (Hào Sơ).
-Giếng không được nứt rạn, có hang hốc chung quanh (Hào nhị).
-Giếng tốt, nhưng cần phải được người dùng (Hào 3)
-Giếng cũng có khi cần sang sửa lại (Hào 4).
-Khi giếng có nước ngon, cần phải để cho mọi người dùng (Hào 5, 6).
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 井 泥 不 食 . 舊 井 無 禽 .
象 曰 . 井 泥 不 食 . 下 也 . 舊 井 無 禽 . 時 舍 也 .
Sơ Lục.
Tỉnh nê bất thực. Cựu tỉnh vô cầm.
Tượng Truyện.
Tỉnh nê bất thực. Hạ dã. Cựu tỉnh vô cầm. Thời xả dã.
Dịch.
Giếng bùn, chẳng thể uống ăn,
Giếng xưa quạnh quẽ, biệt tăm chim trời.
Tượng rằng:
Giếng bùn, chẳng thể uống ăn.
Nghĩa là đáy đục, chỉ thuần bùn dơ.
Giếng xưa chim chóc hững hờ,
Người đời ruồng rẫy, nên ra hoang tàn.
Giếng cần phải tinh khiết. Nước giếng mà bùn, đục, thời sẽ chẳng ai ăn (Tỉnh nê bất thực). Chẳng những thế chim muông cũng bỏ rơi, không thèm lai vãng nữa, (Cựu tỉnh vô cầm).
Tiểu Tượng giải rằng: Giếng bùn đục không ai ăn, là vì giếng cạn quá (Tỉnh nê bất thực hạ đã). Giếng xưa hoang phế, chim muông không còn lai vãng tới nữa, là vì giếng đã bị người đời bỏ không dùng (Cựu tỉnh vô cầm. thời xã dã). Cũng một lẽ, những người hạ tiện, dơ bẩn, hèn hạ trong xã hội, cũng sẽ bị đời ruồng bỏ không dùng.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 井 谷 射 鮒 . 瓮 敝 漏 .
象 曰 . 井 谷 射 鮒 . 無 與 也 .
Cửu nhị.
Tỉnh cốc xạ phụ. Ửng tệ lậu.
Tượng viết:
Tỉnh cốc xạ phụ. Vô dữ dã.
Dịch.
Giếng mà có ngách rỉ xuôi,
Nước rò rỉ xuống, nuôi loài ốc sên.
Giếng mà gáo lại chẳng bền,
Giếng mà gáo thủng, nước lên cách nào?
Tượng rằng:
Nước mà có ngách rỉ xuôi,
Nước rò rỉ xuống, nuôi loài ốc sên.
Giếng mà chẳng có nước lên,
Tại vì chẳng được bên trên khuông phò.
Hào Cửu nhị: Một cái giếng, mà có hang, có hốc chung quanh (Tỉnh cốc), thời nước giếng sẽ rò rỉ ra bên ngoài (Xạ), bất quá là nuôi được các loài sên, loài ốc (Phụ), chứ còn nước đâu nữa mà cung cấp cho người. Hoặc đi kín nước, lại dùng gầu rách, gầu thủng thì làm sao mà có nước? (Ửng tệ lậu).
Đó là trường hợp những người có tài, mà vì không có lý tưởng cao đại, chí hướng vững chắc, nên đã để cho tài năng mình phao phí, mai một. Chẳng những thế, lại hạ mình theo vật dục, bầu bạn với tiểu nhân, hạ cấp, thì làm sao có thể làm ích cho đời?. Tiểu tượng bình rằng: Giếng có hang hốc, nước rò rĩ ra ngoài để nuôi sên ốc, là có ý nói rằng: Không còn được cấp trên đoái tưởng nữa.
Tượng viết: Tỉnh cốc xạ phụ. Vô dữ dã. Một người thiếu tư cách, không còn được cấp trên ngó ngàng tới, thì cũng vô dụng như cái giếng, mà nước rò rỉ hết ra ngoài, hay cái gầu múc nước bể, thủng không còn kín nước được nữa.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 井 渫 不 食 . 為 我 民 惻 . 可 用 汲 . 王 明 . 并 受 其 福 .
象 曰 . 井 渫 不 食 . 行 惻 也 . 求 王 明 . 受 福 也 .
Cửu tam.
Tỉnh tiết bất thực. Vi ngã tâm trắc. Khả dụng cấp.
Vương minh. Tỉnh thụ kỳ phúc.
Tượng viết:
Tỉnh tiết bất thực. Hành trắc dã. Cầu vương minh. Thụ phúc dã.
Dịch.
Giếng trong, mà chẳng ai ăn,
Làm ta luống những băn khoăn tấc lòng.
Băn khoăn vì nước giếng trong,
Thời nên kín nước mà dùng, mà ăn.
Nếu như có được minh quân,
Toàn dân phúc trạch, hồng ân tràn đầy.
Tượng rằng:
Giếng trong mà chẳng ai ăn,
Bộ hành luống những băn khoăn tấc lòng.
Cầu cho có đấng minh quân,
Toàn dân phúc trạch, hồng ân tràn đầy.
Hào Cửu tam: Khi đã có nước giếng tốt, nước đã lắng trong (Tỉnh tiết), mà vẫn bị người đời quên không dùng (Bất thực); thấy tình cảnh ấy, ai cũng phải bùi ngùi tấc dạ (Dĩ ngã tâm trắc). Đây là một thứ nước giếng có thể cung cấp nước ngon (Khả dụng cấp). Nếu gặp được minh quân dùng, thời cả đôi bên đều được phúc khánh (Vương minh tịnh thụ kỳ phúc).
Tượng Truyện bàn thêm rằng: Nước giếng trong mát mà không được ăn, nên người bộ hành thấy bùi ngùi tấc dạ, ước mong gặp được đấng minh quân, có gặp thì cả hai đàng đều được phúc khánh.
Tượng viết: Tỉnh tiết bất thực. Hành trắc dã. Cầu vương minh thụ phúc dã. (Tiết là trong; hành là người đi đường) Dương Mưu Trai bình rằng: Nước ngon có thể ăn là phần của giếng, không ăn nước giếng là quyền của người. Không được ăn, giếng không than thở, nhưng người đi đường phải than thở. Đây không phải than thở cho giếng, mà than thở cho người quân tử có tài, có đức mà không được trọng dụng. Giếng một khi được dùng , thời cả thôn ấp được phúc. Có giếng ngon mà không được dùng, thời cũng như không có giếng. Có hiền nhân mà không có minh vương, thời cũng như không có hiền nhân. Đức Khổng nói: Không có minh vương ra đời, thời thiên hạ ai là người biết trọng dụng ta (Lễ ký) (Minh vương bất hưng. Thiên hạ thục năng tông dư).
Hào Cửu tam tuy nói về giếng, mà thực ra nói về người quân tử. Nếu không có bậc minh quân như vua Nghiêu, thời vua Thuấn âu chỉ là một ngư phủ nơi điền trạch. Nếu không có một minh vương như Cao Tông, thời Phó Duyệt chỉ là một dung phu nơi núi rừng...
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 井無 咎 .
象 曰 . 井無 咎 . 修 井 也 .
Lục tứ.
Tỉnh trứu vô cữu.
Tượng viết:
Tỉnh trứu vô cữu. Tu tỉnh dã.
Dịch.
Giếng xây, sửa lại lỗi chi
Tượng rằng:
Giếng xây, sửa lại lỗi chi.
Sửa sang cho giếng có bề khang trang.
Hào Lục tứ: (Trứu là lát gạch, sang sửa lại phía bên trong giếng). Giếng đôi khi cần ngưng cung cấp nước, để sửa chữa lại phía bên trong cho hẳn hoi. Như vậy có gì là đáng trách đâu.
Tượng Truyện giải: Tỉnh trứu là chữa giếng.
Tượng viết: Tỉnh trứu vô cữu. Tu tỉnh dã. Các công bộc quốc gia, nhiều khi cũng phải có thời gian để tu bổ lại:
-Tu bổ lại nghề nghiệp
-Chấn chỉnh lại lề lối làm việc.
-Tu sửa lại đức hạnh.
Như vậy, tuy mất ít ngày không làm ích cho đời, như giếng đang sửa phải ngưng cung cấp nước, nhưng sau đó sẽ trở nên mới, nên hay, và sẽ giúp ích nhiều hơn.
Sửa giếng cho giếng trở nên tốt, tức là Nhật tân kỳ đức. Xây giếng cho hết mọi lỗ hổng tức là Nhàn tà, Tồn thành, là ngăn chặn mọi điều tà ác, để giữ gìn lấy cái tinh thành. Hào 4 này dạy ta những bài học tu thân chí lý vậy.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 井 冽 . 寒 泉 食.
象 曰 . 寒 泉 之 食 . 中 正 也 .
Cửu ngũ.
Tỉnh liệt. Hàn tuyền thực.
Tượng viết:
Hàn tuyền chi thực. Trung chính dã.
Dịch.
Giếng mà trong vắt, trong veo,
Nước tuôn mát lạnh cho nhiều người ăn.
Tượng rằng:
Nước tuôn mát lạnh, người ăn,
Là đem trung chính trị dân, trị đời.
Hào Cửu ngũ đây vì Dương cương trung chính, lại ở ngôi trên, nên tài đức đều tận thiện, tận mỹ. Đối với giếng, thì đó là một giếng nước trong (Tỉnh liệt), do 1 mạch nước mát mẻ cung cấp (Hàn tuyền), như vậy có thể dùng để ăn được (Thực). Tượng Truyện bình rằng: Nước giếng trong mát, có thể ăn được, là chí thiện, là hoàn hảo vậy.
Một giếng nước chỉ trở nên hữu ích, khi nào được uống, được ăn. Một nhà lãnh đạo hoàn hảo, chỉ trở nên hữu ích thực sự, khi làm cho dân được theo phương châm mình, tôn chỉ mình mà hành động. Như vậy, ích lợi mới trở nên vô tận (Hàn tuyền chi thực. Trung chính dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 井 收 勿 幕 . 有 孚 無 吉 .
象 曰 . 元 吉 在 上 . 大 成 也 .
Thượng Lục.
Tỉnh thu vật mạc. Hữu phu nguyên cát.
Tượng viết:
Nguyên cát tại thượng. Đại thành dã.
Dịch.
Giếng ngon, người múc tha hồ,
Chẳng nên đậy điệm, để cho người dùng.
Nước tuôn mãi mãi chẳng cùng,
Thế là mỹ mãn, thành công tốt lành.
Hào Thượng Lục: Giếng nước ngon, đã được mọi người đến múc (Tỉnh thu) thời hãy để mặc tình cho đời dùng, chẳng nên đậy nó làm chi (Vật mạc). Nếu cứ được như vậy mãi, (Hữu phu), sẽ được muôn phần tốt đẹp (Nguyên cát).
Các quẻ khác, thì khi nói đến Hào 6, là nói đến biến, đến cực, đến bất dụng. Riêng quẻ Tỉnh, quẻ Đỉnh thời cung cấp vật thực, nên cái hay nhất là nước được đem ra dùng, đồ ăn được đem ra ăn. Vì thế Tượng Truyện mới bình rằng: Quẻ Tỉnh này, Hào trên hết mới thật là hay (Nguyên cát tại thượng), vì lúc này nói là lúc thành công mỹ mãn.(Đại thành dã). Xét về phương diện nhân sự, thì người quân tử ở cao ngôi, làm ích cho đời càng nhiều, càng hay, càng lâu, càng tốt, như vậy mới là thành công mỹ mãn, như vậy mới là đại thành.
ÁP DỤNG QUẺ TỈNH VÀO THỜI ĐẠI
Ta phải biết khai thác những khả năng còn tiềm ẩn trong ta, từ lúc còn ở học đường, nếu có thể, để giáo sư chú ý đến ta, mà tiến dẫn ta mai sau.
Khi làm việc trong một hãng xưởng nào, nếu ta thấy ta có tài gì đặc biệt, mà chưa được cấp trên biết tới, thì ta phải tìm cách thi thố tài năng đó, bằng cách nhờ người đề bạt, hay tự mình đề bạt lên cấp trên. Không nên ù lì, nhút nhát, chịu yên phận một chỗ, để mai một tài năng mình. Một khi đã lên cao rồi, thì phải hết sức mang tài ra, mà làm những công việc ích nước, lợi dân. Phải luôn luôn học hỏi nghiên cứu, để tiến thêm, chớ đừng tự mãn, cho thế là đủ, rồi đâm ra lười biếng, quay ra hưởng lạc, thì uổng phí tài năng. Và như vậy, thì cũng như giếng tốt mà không có người dùng.
49. 澤 火 革 TRẠCH HỎA CÁCH
Cách Tự Quái | 革 序 卦 |
Tỉnh đạo bất khả bất cách | 井 道 不 可 不 革 |
Cố thụ chi dĩ Cách. | 故 受 之 以 革 |
Cách Tự Quái
Giếng thời chẳng thể gót đầu chẳng thay.
Cho nên Cách tiếp theo ngay.
Giếng đã để lâu ngày, bùn đất sẽ ứ đọng, nên cần phải vét, phải khơi cho sạch. Chính quyền lâu ngày cũng có lắm điều hủ hoại, cần đổi thay. Vì thế sau quẻ Tỉnh là quẻ Cách.
Cách là cách mạng, là đổi thay những gì cũ kỹ, hủ bại. Chữ Cách theo nguyên nghĩa là da, là thay da, lột xác. Loài vật còn có lúc thay da, lột xác, thì chính quyền, thì xã hội loài người cũng có lúc phải thay da, lột xác, phải đổi mới hoàn toàn. Đổi mới để cho hết ù lì, để trở nên sống động, đổi mới để tiến tới một đời sống hoàn hảo hơn.
Quẻ Cách, trên là Đoài, là hồ, là nước; dưới là Ly là lửa. Nước đổ xuống, lửa bốc lên, thời sự xung đột, khủng hoảng đã đến tột độ, thế là đôi bên đã ở vào thế một mất, một còn. Đã khủng hoảng tột độ, ắt phải có sự đổi thay.
Quẻ Cách, trên là Đoài, là thiếu nữ, dưới là Ly là trung nữ. Hai chị em gái ở chung nhau một nhà, đã lắm chuyện xích mích rồi, nay em nhỏ chơi chèo lấn át chị, thời làm sao tránh khỏi sự xung đột. Vì thế nên sẽ có cuộc cách mạng.
I. Thoán.
Thoán từ.
革 . 己 日 乃 孚 . 元 亨 利 貞 . 悔 亡 .
Cách. Dĩ nhật nãi phu. Nguyên hanh lợi trinh. Hối vong.
Dịch.
Cách là đổi lốt, đổi đời,
Đổi thay xong xả, rồi đời mới tin.
Đổi thay tốt đẹp mới nên,
Hợp thời, hợp lý, chu tuyền hanh thông.
Hợp tình, hợp lý nên công,
Mới không hối hận, mới không phàn nàn.
Thoán từ: Cách là đả phá những gì lạc hậu, lỗi thời, hủ hoá, để thay đổi những gì thích hợp hơn, hữu ích hơn. Tuy nhiên, làm cách mạng bất kỳ ở trong lãnh vực nào, cũng không được dân tin ngay, vì con người thường ù lì, không muốn thay đổi lề lối sống đã quen, lại không muốn phiêu lưu. Cho nên, cuộc cách mạng nào cũng đòi hỏi một thời gian, mới được dân chúng tin (Cách dĩ nhật nãi phu). Dĩ nhật là trải nhiều ngày; nãi phu là mới được tin cậy. Cuộc Cách mạng nào cũng đưa đến binh cách, đến đổ máu không ít, thì nhiều. Lịch sử đã chứng minh điều đó. Ví dụ: Cuộc Cách mạng Pháp năm 1879 lật đổ chế độ quân chủ, thiết lập chế độ dân chủ. Cuộc Cách mạng Nga năm 1917, lật đổ Nga Hoàng, thiết lập chế độ Cộng sản. Ở nước ta, thì những cuộc Cách mạng 1945 (Việt Minh cướp chính quyền), 1955 Ngô Đình Diệm lật đổ Bảo Đại, 1963 Dương Văn Minh lật đổ Ngô Đình Diệm.v.v... Cho nên làm cách mạng, muốn cho khỏi hối hận, phàn nàn về sau, thời phải thực hiện được những tôn chỉ sau:
Cách mạng phải đưa đến một chế độ đẹp đẽ hơn (Nguyên). Cách mạng phải làm cho đời sống dân chúng sung sướng hơn (Hanh). Cách mạng phải mang lại lợi ích thực sự (Lợi). Cách mạng phải có chính nghĩa (Trinh).
Vì thế Thoán từ nói: Nguyên hanh lợi trinh. Hối vong.
Thoán Truyện.
Thoán viết:
彖 曰 . 革 . 水 火 相 息 . 二 女 同 居 . 其 志 不 相 得 . 曰 革 . 己 日 乃 孚 . 革 而 信 之 . 文 明 以 說 . 大 亨 以 正 . 革 而 當 . 其 悔 乃 亡 . 天 地 革 而 四 時 成 . 湯 武 革 命 . 順 乎 天 而 應 乎 人 . 革 之 時 大 矣 哉 .
Cách. Thủy hoả tương tức. Nhị nữ đồng cư. Kỳ chí bất tương đắc. Viết cách. Dĩ nhật nãi phu. Cách nhi tín chi. Văn minh dĩ duyệt. Đại hanh dĩ chính. Cách nhi đáng. Kỳ hối nãi vong. Thiên địa cách nhi tứ thời thành. Thang Võ cách mạng. Thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân. Cách chi thời đại hỹ tai.
Dịch.
Cách là nước lửa đương đầu,
Là hai cô gái chung nhau một nhà.
Đôi bên chí hướng khác xa,
Nên là chống đối, nên là đổi thay.
Đổi thay ròng rã nhiều ngày,
Rồi ra mới được đó đây tin lòng.
Trong thời sáng láng, tinh thông,
Ngoài thời vui vẻ, bao dong mọi người.
Y theo trung chính, đạo trời,
Thế nên mọi sự xong xuôi thành toàn,
Cách mà chính đáng, mới ngoan,
Cách mà chính đáng, phàn nàn nỗi chi.
Đất trời thay đổi suy di,
Bốn mùa nhờ thế đúng kỳ luân lưu.
Vua Thang, vua Vũ thay triều,
Thuận trời, vả cũng ứng theo lòng người,
Đổi thay, mà lại hợp thời,
Thật là vĩ đạị, trên đời chi hơn.
Thoán Truyện: Cách sở dĩ sinh ra là vì có một sự xung khắc, mâu thuẫn, một cuộc khủng hoảng giữa hai phe đối lập, mâu thuẫn nhau như nước với lửa, như hai chị em gái ở chung một nhà, và bất đồng chí hướng với nhau (Cách. Thủy hỏa tương tức. Nhị nữ đồng cư. Kỳ chí bất tương đắc).
Tiếp theo Thoán Truyện giải những câu của Thoán từ. Thoán từ nói: Dĩ nhật nãi phu, nghĩa là làm sao? Thưa đó là làm cách mạng, rồi sẽ được người ta tin theo.
Dĩ nhật nãi phu. Cách nhi tín chi. Tại làm sao làm cách mạng mà không phải phàn nàn? Thưa vì người làm cách mạng, có một khối óc sáng suốt, nhìn xa, trông rộng, thấu hiểu được sự thể, quán triệt được tình hình, khéo lấy lòng người, lại hoạch định được một chương trình có thể khai thông được mọi bế tắc, hứa hẹn một ngày mai tươi sáng. Tóm lại, làm cách mạng một cách xứng đáng, sẽ không phải phàn nàn hối hận về sau (Văn minh dĩ duyệt. Đại hạnh dĩ chính. Cách nhi đáng. Kỳ hối nãi vong).
Vả lại sự canh cải trong trời đất, cũng như cuộc cách mạng trong lịch sử không thể không có. Trời đất nhờ canh cải, nên có bốn mùa. Vua Thành Thang, vua Vũ đã làm được những cuộc cách mạng, trên thuận lẽ trời, dưới hợp ý dân. Canh cải mà hợp thời, cách mạng mà đúng lúc, thực là cao cả vậy (Thiên địa cách nhi tứ thời thành. Thang Vũ cách mạng. Thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân. Cách chi thời đại hỹ tai).
Ta có thể trích một đoạn trong sách Mạnh Tử, mà giải Thoán từ, Thoán Truyện quẻ Cách như sau: Trong Kinh Thư có chép rằng: Vua Thành Thang (chết năm 1753 trước Dương Lịch), khi khởi cuộc chinh phục, trước hết đánh lấy nước Cát. Thiên hạ đều tin tưởng ngài. Ngài đương chinh phục miền Đông, thì những đoàn rợ Di miền Tây phiền trách, tới chừng ngài chinh phục miền Nam, thì những đoàn rợ Địch miền Bắc phiền trách. Họ trách rằng: Sao ngài chẳng sớm đến nước ta? Dân chúng khắp thiên hạ mong chờ ngài đến, như lúc trời hạn hán, người ta trông thấy mây và mống trời. Đến chừng ngài kéo binh vào xứ họ, họ vẫn tự nhiên chẳng sợ sệt gì cả. Người đi chợ vẫn đi, người đương cầy vẫn cầy. Ngài giết những vì vua hung bạo mà giải cứu cho nhân dân. Bá tánh đều mừng rỡ, dường như được mưa tuôn phải lúc. Kinh Thư chép: Chúng ta trông vua, ngài đến, chúng ta như sống lại. (Kinh Thư, Trọng Hủy chi cáo, tiết 6).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 澤 中 有 火 . 革 . 君 子 以 治 歷 明 時 .
Tượng viết:
Trạch trung hữu hỏa. Cách. Quân tử dĩ trị lịch minh thời.
Dịch. Tượng rằng:
Cách là lửa ở trong hồ,
Hiền nhân làm lịch để cho biết thời.
Trong hồ có lửa là Cách, quân tử nhân đó làm lịch để biết rõ thời tiết. Lửa ở dưới, hồ ở trên, kình địch lẫn nhau, nên sinh biến hóa. Trong một năm, khí Âm, khí Dương kình địch lẫn nhau, nên sinh biến hóa. Con người có thể hiểu được sự biến hóa của trời đất ấy, vì thấy nó có tiết tấu, thứ tự, nên đã làm ra được lịch. Làm được lịch, tức là trông rõ được sự biến hoá của trời đất, tiên đoán được nó, để chuẩn bị trước được, mà sống theo đúng nhu cầu của mỗi thời tiết.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 鞏 用 黃 牛 之 革 .
象 曰 . 鞏 用 黃 牛 . 不 可 以 有 為 也 .
Sơ Cửu.
Củng dụng hoàng ngưu chi cách.
Tượng viết:
Củng dụng hoàng ngưu. Bất khả dĩ hữu vi dã.
Dịch.
Bò vàng mà lột lấy da,
Mà thắt, mà bó chắc là mấy mươi.
Tượng rằng:
Bò vàng da lấy thắt bao,
Nghĩa là đừng vội tầm phào ra tay.
Hào Sơ Cửu: Muốn làm cách mạng, không phải ai cũng làm được. Phải có tài, có vị, có thời, có thế, mới làm cách mạng được. Sơ Cửu đây tuy là người có tài, nhưng chưa có địa vị, lại ở buổi sơ khai của thời Cách, nên thời cơ chưa được thuận tiện, trên lại không có người giúp đỡ, như vậy dĩ nhiên Sơ không nên vọng động. Lúc ấy chỉ nên kiềm chế mình bằng đường lối trung thuận. Trung thuận tức là cư xử cho hợp lý, cho mềm dẻo.
Củng là ràng buộc. Hoàng là vàng, là Trung; Ngưu là trâu là Thuận. Tượng Truyện bình rằng: Lúc này là lúc chưa nên hành động, dở dói gì hết (Củng dụng hoàng ngưu. Bất khả dĩ hữu vi dã).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 己 日 乃 革 之 . 征 吉 . 無 咎 .
象 曰 . 己 日 革 之 . 行 有 嘉 也 .
Lục nhị.
Dĩ nhật nãi cách chi. Chinh cát. Vô cữu.
Tượng viết:
Dĩ nhật cách chi. Hành hữu gia dã.
Dịch.
Sửa sang, chuẩn bị nhiều ngày,
Bây giờ là lúc ra tay đổi đời.
Tiến hành sẽ tốt, sẽ xuôi,
Hết còn lo chuyện đơn sai, lỗi lầm.
Tượng rằng:
Sửa sang, chuẩn bị nhiều ngày,
Rồi ra mới dám ra tay đổi đời.
Tiến hành chuyện sẽ êm xuôi,
Thế thời là tốt, thế thời đáng khen.
Hào Lục nhị ám chỉ một người hội đủ điều kiện để làm cách mạng.
1. Có địa vị (Lục nhị là Hào của đại thần).
2. Nhu thuận, trung chính (Hào Lục nhị).
3. Sáng suốt, thông minh (Hào giữa quẻ Ly).
4. Trên có minh quân ủng hộ (Hào Cửu ngũ).
Tuy nhiên, muốn làm cách mạng, phải sửa soạn nhiều tháng, nhiều ngày, rồi mới có thể ra tay hành động (Dĩ nhật nãi cách chi).
Khi đã hội đủ các điều kiện rồi, mà hành động, thời chắc chắn kết quả sẽ đẹp đẽ, tốt lành. (Chinh cát. Vô cữu).
Tượng Truyện bình rằng: Chuẩn bị chày tháng, chày ngày, đợi đúng thời cơ mới ra tay cách mạng, thì chắc sẽ được như nguyện, chắc là đáng được khen lao vậy (Dĩ nhật cách chi. Hành hữu gia dã).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 征 凶 . 貞 厲 . 革 言 三 就 . 有 孚 .
象 曰 . 革 言 三 就 . 又 何 之 矣 .
Cửu tam.
Chinh hung. Trinh lệ. Cách ngôn tam tựu. Hữu phu.
Tượng viết:
Cách ngôn tam tựu. Hựu hà chi hỹ.
Dịch.
Tiến lên sẽ chẳng có hay,
Phải theo chính đạo, phải dày đắn đo.
Bao nhiêu kế hoạch, mưu cơ,
Phải cân, phải nhắc, ít là ba phen.
Mưu cơ, kế hoạch chu tuyền,
Thế thời chắc chắn sẽ nên công trình.
Tượng rằng:
Ba phen kế hoạch đắn đo,
Thời thôi thêm thắt vòng vo làm gì ?
Hào Cửu tam là một người cương trực, nên muốn tiến hành gấp công chuyện cách mạng. Tuy nhiên Dịch cho rằng: Làm gấp, làm vội, sẽ gặp tai ương (Cửu tam. Chinh hung). Muốn làm cách mạng, phải luôn theo chính nghĩa, phải biết lo lắng đề phòng.(Trinh lệ). Phàm là cơ mưu của mình, cũng như dư luận quần chúng, cần được duyệt, được khảo cho tường tận, kỹ càng (Cách ngôn tam tựu). Tức là phải duyệt xét ba lần. Có cẩn trọng như vậy, mới chắc chắn nên công (Hữu phu). Nhưng cẩn trọng, không phải là do dự. Một khi kế hoạch đã được thảo luận kỹ càng rồi, phải được đem ra thi hành, chứ đừng nên do dự, tìm đường lối khác mà chi. Vì thế Tượng Truyện mới nói: Cách ngôn tam tựu. Hựu hà chi hỹ. Hựu hà chi hỹ là: còn đi đâu nữa, còn thêm gì nữa.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 悔 亡 . 有 孚 . 改 命 . 吉 .
象 曰 . 改 命 之 吉 . 信 志 也 .
Cửu tứ.
Hối vong. Hữu phu. Cải mệnh. Cát.
Tượng viết:
Cải mệnh chi cát. Tín chí dã.
Dịch.
Hết điều hối hận, phàn nàn,
Mọi người tin tưởng hoàn toàn từ nay.
Cho nên cứ việc đổi thay,
Công trình Cách mệnh hẳn hay, hẳn lành.
Tượng rằng: Cách mệnh là hay,
Là vì trên dưới, đó đây tin lòng.
Hào Cửu tứ ám chỉ một người:
1. Có tài làm cách mạng (Hào Dương).
2. Gặp thời cơ thuận tiện (vượt Hạ quái, lên Thượng quái)
3. Có thế (Ở giữa Thủy và Hỏa, Đoài và Ly).
4. Được tín nhiệm (Kề Hào Cửu ngũ là Quân vương).
5. Có chí lớn, không bị ràng buộc (Hào Cửu tứ không ứng với Sơ).
6. Mình lại thành khẩn, được mọi người tin cậy. (Hữu phu). Như vậy mà ra tay làm cách mạng, chắc là được mọi sự may mắn, tốt lành (Cải mệnh. Cát).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 大 人 虎 變 . 未 占 有 孚 .
象 曰 . 大 人 虎 變 . 其 文 炳 也 .
Cửu ngũ.
Đại nhân hổ biến. Vị chiếm hữu phu.
Tượng viết:
Đại nhân hổ biến. Kỳ văn bính dã.
Dịch.
Đại nhân như hổ thay lông,
Không cần bói toán, muôn lòng đều tin.
Tượng rằng:
Đại nhân như hổ thay lông,
Là vì sự nghiệp thành công rỡ ràng.
Hào Cừu ngũ: Đại nhân như hổ thay lông, thực thi được những công trình cải cách vĩ đại nhãn tiền (Đại nhân hổ biến). Vì thế, ảnh hưởng của vị quân vương, sau khi đã hoàn thành được công cuộc cách mạng, thật là lớn lao.
Để bình giải Hào này, Nho gia thường trích dẫn lời sách của Mạnh Tử: Người quân tử đi đến đâu, thì ở đó được cải hoá. Người ở đâu, thì ảnh hưởng như thần. Ảnh hưởng người phổ cập khắp nơi, từ trên chí dưới, lưu thông dung hiệp với trời đất... Như vậy sao có thể nói được rằng: Người chỉ làm lợi ích nhỏ cho xã hội? (Mạnh Tử, Tận Tâm thượng tiết 13). Đại nhân mà cách mạng bản thân thiệt tình, mà gây được một ảnh hưởng mạnh mẽ đối với dân, thì chẳng cần bói toán, cũng biết rằng người ta vẫn tin mình (Vị chiếm hữu phu). Tượng Truyện cho rằng: Công trình và ảnh hưởng của bậc quân vương như hổ thay lông, rỡ ràng, hiển hiện.(Đại nhân hổ biến. Kỳ văn bính dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 君 子 豹 變 . 小 人 革 面 . 征 凶 . 居 貞 吉 .
象 曰 . 君 子 豹 變 . 其 文 蔚 也 . 小 人 革 面 . 順 以 從 君 也 .
Thượng Lục.
Quân tử báo biến. Tiểu nhân cách diện. Chinh hung. Cư chinh cát.
Tượng viết:
Quân tử báo biến. Kỳ văn úy dã. Tiểu nhân cách diện.
Thuận dĩ tòng quân dã.
Dịch.
Quân tử như báo thay da,
Tiểu nhân sắc diện, nay đà khác xưa.
Đừng nên dở dói quá đa,
Miễn sao minh chính, thế là đã hay.
Tượng rằng:
Quân tử như báo thay da,
Phong quang văn vẻ, mặn mà dễ ưa.
Tiểu nhân sắc diện khác xưa,
Thuận tình vâng lệnh nhà vua từ rầy.
Hào Thượng Lục: Khi cuộc Cách mạng đã thành rồi, thì người quân tử cũng thành khẩn mà thay đổi lề lối sống, như báo thay lông. Còn tiểu nhân thì chỉ thay đổi phía bên ngoài (Quân tử báo biến. Tiểu nhân cách diện). Lúc ấy làm gì thêm nữa cũng chẳng hay, cứ giữ được đường lối cách mạng đã hoạch định là tốt (Chinh hung. Cư trinh cát). Tào Tham được cử làm Thừa tướng thay Tiêu Hà, thời cứ tuân theo pháp độ của Tiêu Hà mà trị, không nhiều chuyện bày vẽ thêm. Vua Huệ Đế hỏi: Khanh làm thừa tướng, là chỗ đại nhiệm trong thiên hạ, sao cả ngày ngồi không, lẳng lặng chẳng thấy trị việc chi hết vậy? Tào Tham tâu rằng: Bệ hạ xét mình thánh minh thần võ, sánh với Cao Đế ai hơn? Vua nói: Trẫm đâu dám sánh với tiên đế. Tào Tham lại hỏi: Bệ hạ xem tài năng tôi và Tiêu Hà ai hơn? Vua nói: Tài khanh có khi chẳng bằng Tiêu Hà. Tào Tham nói: Bệ hạ thánh minh đã chẳng bằng Cao đế, còn tôi cũng chẳng bằng Tiêu Hà. Cao Đế đã định pháp, thì Bệ hạ phải tuân giữ, còn Tiêu Hà đã lập thiện chánh, thì tôi phải vâng theo mà làm. Chúa tôi đồng lòng noi theo mà trị, thì bốn biển thanh bình, muôn dân an nghiệp, thiên hạ thái bình, có phải là bệ hạ đặng ngồi an, chẳng tốt hơn sao, lựa phải canh cải cho sanh ra nhiều việc làm chi ! Vua khen phải (Tây Hán diễn nghĩa, 615). Thế đúng là Chinh hung. Cư trinh cát vậy.
Tượng viết: Quân tử báo biến. Kỳ văn úy dã. Tiểu nhân cách diện. Thuận dĩ tòng quân dã. Người quân tử, lúc này đã biến đổi lề lối cũ, sống theo đường lối mới như báo thay da, chững chàng rực rỡ (Quân tử báo biến. Kỳ văn uý dã). Còn tiểu nhân thì mới có sự thay đổi ngoài mặt, để thuận theo nhà vua. Như vậy cũng không nên đòi hỏi hơn nữa (Tiểu nhân cách diện. Thuận dĩ tòng quân dã).
ÁP DỤNG QUẺ CÁCH VÀO THỜI ĐẠI
Ngày nay, thế giới đã Cách mạng hoá, nên đã thay đổi tất cả, từ quốc gia, xã hội, văn hóa, gia đình v.v.. Sự thay đổi, dĩ nhiên là mang lại sự tốt đẹp hơn, nhưng đôi lúc đã đi quá trớn, nên đã mang lại nhiều lỗi lầm tai hại. Ví dụ: Cách mạng đã mang lại chế độ Cộng Sản, tuy đã lật đổ được nền quân chủ độc tài, phong kiến, nhưng vì những người cầm đầu đã đi quá trớn, nên khiến cho dân chúng lầm than, kinh tế kiệt quệ.v.v.
*Ngoài xã hội, người phụ nữ được bình đẳng, bình quyền, nên từ công sở đến học đường, người phụ nữ cũng tham gia đông đảo. Trong gia đình, người vợ có nghề hoặc có công ăn việc làm, thì người chồng cũng bớt được gánh nặng, và đời sống gia đình sẽ thoải mái, vững vàng hơn. Nhưng cũng có những trường hợp, vì có nghề và có thể tự túc được, nhiều khi còn có tài năng, hoặc làm ra nhiều tiền hơn chồng, mà người vợ đâm ra tự kiêu, coi thường chồng, hoặc không còn chịu nhịn nhục như xưa, nên gia đình trở thành địa ngục, rồi mạnh ai nấy tìm người thích hợp với mình hơn, và dễ dàng chia tay nhau, mặc dù lũ con còn nhỏ dại.
Tóm lại, ta thấy Cách mạng chưa hẳn là hay hoàn toàn, mà là phải tùy ta có biết xử dụng nó hay không? Muốn được như ý, ta phải có một nền giáo dục, một nền đạo đức vững chắc làm căn bản. Những người cầm đầu nước phải biết thương dân, lo lợi ích trường cửu cho dân. Trong gia đình, vợ chồng phải biết lo lắng, cộng tác với nhau, phải có trách nhiệm bảo vệ gia đình, và giáo dục con cái. Vả tự ngàn xưa, ai cũng biết: Gia đình có vững, thì dân mới giầu. Dân có giầu, thì nước mới mạnh vậy.
50. 火 風 鼎 HỎa Phong ĐỈnh
Đỉnh Tự Quái | 鼎 序 卦 |
Cách vật giả mạc nhược Đỉnh. | 革 物 者 莫 茹 鼎 |
Cố thụ chi dĩ Đỉnh. | 故 受 之 以 |
Đỉnh Tự Quái
Đổi thay mọi vật, Đỉnh nay nhất rồi.
Cho nên, Đỉnh mới tiếp ngôi.
Sau quẻ Cách, tiếp đến quẻ Đỉnh. Cách là thay đổi cái cũ, Đỉnh là gây dựng cái mới. Từ thời Đại Võ, Đỉnh là tượng trưng cho sự bền vững của quốc gia. Vì thế Đại Võ đã đúc chín đỉnh. Đến đời Thành Vương nhà Chu, để cửu đỉnh ở Giáp Nhạc. Bói thấy nhà Chu làm vua được 30 đời, và làm 700 năm. Đến năm 23 đời Chu Liệt Vương, Cửu đỉnh tự nhiên giao động, đó là điềm nhà Chu bất an vậy. Đến sau, quả nhiên Tần Thủy Hoàng diệt nhà Chu và đoạt cửu đỉnh.
Quẻ Đỉnh gợi hình ảnh cái Đỉnh.
- Hào Sơ là chân đỉnh
- Hào 2, 3, 4, là lòng đỉnh (để đựng đồ ăn).
- Hào 5 là tai đỉnh.
- Hào 6 là khoen đỉnh
Đỉnh dùng để đựng đồ ăn, trong những dịp tế lễ, yến ẩm, vì thế đỉnh còn gợi lên ý nghĩa dưỡng hiền. Với tất cả ý nghĩa và hình ảnh trên, quẻ Đỉnh bàn về mấy vấn đề chính yếu sau đây:
1. Sau cuộc Cách mạng, cần phải kiến thiết quốc gia, xây dựng một đời sống mới cho dân.
2. Muốn xây dựng một đời sống mới cho dân, nhà vua cần phải anh minh, phải biết trọng dụng nhân tài.
I. Thoán.
Thoán từ.
鼎 . 元 吉 . 亨
Đỉnh. Nguyên cát. Hanh.
Dịch.
Đỉnh dùng nấu nướng, dưỡng nuôi,
Thành toàn tốt đẹp, êm xuôi mọi bề.
Sau cuộc cách mạng, nếu an định được quốc gia, kiến thiết được quốc gia, mới thực là tốt lành. (Đỉnh. Nguyên cát). Như vậy, đời sống quốc gia sẽ được thông suốt (Hanh).
Thoán Truyện.
Thoán viết:
彖 曰 . 鼎 . 象 也 . 以 木 巽 火 . 亨 飪 也 . 聖 人 亨 以 享 上 帝 . 而 大 亨 以 養 聖 賢 . 巽 而 耳 目 聰 明 . 柔 進 而 上 行 . 得 中 而 應 乎 剛 . 是 以 元 亨 .
Đỉnh. Tượng dã. Dĩ mộc tốn hỏa. Phanh nhậm dã. Thánh nhân phanh dĩ hưởng Thượng Đế. Nhi đại phanh dĩ dưỡng Thánh hiền. Tốn nhi nhĩ mục thông minh. Nhu tiến nhi thượng hành. Đắc trung nhi ứng hồ cương. Thị dĩ nguyên hanh.
Dịch. Thoán rằng:
Đỉnh dùng nấu nướng nuôi thân.
Củi đun, lửa nấu, đồ ăn chín mùi.
Thánh nhân dùng vạc tế trời,
Cỗ bàn, yến ẩm dưỡng nuôi Thánh hiền.
Khiêm cung, tai mắt sáng thêm,
Nhu từ phía dưới, tiến lên trên dần.
Xứng ngôi, lại được hiền thần,
Cho nên mới được mọi phần hanh thông.
Thoán Truyện cho rằng: Đỉnh chính là hình ảnh cái đỉnh, cái vạc (Đỉnh tượng dã). Quẻ Đỉnh, trên là Ly, là Hỏa; dưới là Tốn, là gỗ, là cho vào. Vì thế quẻ Đỉnh gợi lên ý nghĩa chụm củi để đốt lửa, để nấu nướng (Dĩ mộc tốn hỏa phanh nhậm dã). Thánh nhân dùng vạc nấu đồ ăn để:
1. Tế lễ Thượng Đế.
2. Khoản đãi Thánh hiền. (Thánh nhân phanh dĩ hưởng Thượng Đế. Nhi đại phanh dĩ dưỡng Thánh hiền.) Thượng Đế cần lòng, không cần của lễ, nên dùng chữ Phanh, Hiền Thánh cần được thù tiếp, nuôi dưỡng cho trịnh trọng, nên dùng chữ Đại phanh.
Muốn cho nước nhà hưng vượng, công trình kiến thiết được hanh thông, nhà vua cần phải minh mẫn, thông tuệ, từ tốn (Tốn nhi nhĩ mục thông minh), mềm dẻo mà tiến bước, ăn ở cho phải đạo, lại được hiền thần giúp đỡ (Nhu tiến nhi thượng hành. Đắc trung nhi ứng hồ cương. Thị dĩ nguyên hanh).
Xưa nay, biết bao nhiêu người có thể lật đổ một chế độ, nhưng đến lúc lên cầm vận mệnh quốc gia, thời không biết lèo lái con thuyền quốc gia ra sao, không biết phải làm gì nữa. Thế là chỉ biết Cách cố, mà không biết Đỉnh tân. Như vậy chỉ tổ làm loạn dân, loạn nước mà thôi. Cái bí quyết thành công trong chương trình kiến thiết quốc gia là nhà vua phải là vị anh quân, hơn nữa là phải biết dùng hiền tài phụ bật.
III. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 木 上 有 火 . 鼎 . 君 子 以 正 位 凝 命 .
Tượng viết:
Mộc thượng hữu hỏa. Đỉnh. Quân tử dĩ chính vị ngưng mệnh.
Dịch. Tượng rằng:
Đỉnh là gỗ có lửa trên,
Hiền nhân chính vị làm nên cuộc đời.
Vị cho cao trọng, mới thôi,
Hoàng trung chính vị, mệnh trời mới ngưng.
Các lời giải thích về Đại Tượng quẻ Đỉnh này rất khác nhau. Người thì giải Mệnh là Mệnh lệnh, người thì giải Mệnh là Mệnh Trời (Chu Hi). Ta chỉ chọn hai cách Dịch, và hai cách Bình.
A. Dịch.
1. Theo Nho: Trên gỗ có lửa là Đỉnh, quân tử phải xếp đặt vị thứ cho hẳn hoi, xác định luật lệ cho nghiêm chỉnh. (Tống Bản Thập Tam Kinh).
2. Theo Lão: Trên gỗ có lửa là Đỉnh, quân tử phải tìm ra địa vị chính đáng của mình, thực hiện cho được định mạng của mình.
B. Bình
1. Bình theo Nho: Khi cuộc Cách mạng đã xong, một cục diện mới đã sinh, thời phải lo chính vị an mệnh. Chính vị là phân tôn ti, cho xã hội có trên, có dưới, phân minh. Ngưng mệnh là xác định luật lệ cho nghiêm chỉnh, xác định đường lối cho rõ ràng, để mọi người cứ đấy mà theo (Tống Bản Thập Tam Kinh). Ví dụ như khi Nasser đã lật đổ Farouk, và lên làm Tổng Thống Ai Cập, liền vạch ra 6 mục tiêu:
1. Phản đế.
2. Đả phong.
3. Bãi bỏ các độc quyền.
4. Thành lập một quân đội mạnh mẽ.
5. Thành lập một chế độ xã hội công bằng.
6. Thành lập một thể chế dân chủ lành mạnh.
Hoặc Tôn Dật Tiên, sau khi lật đổ nhà Mãn Thanh năm 1911, đã lập nên Trung Hoa Dân Quốc với:
*Chủ nghĩa tam dân:
- Dân tộc. Dân sinh. Dân quyền.
* Ngũ Quyền:
- Lập pháp. Hành chánh. Tư pháp. Khảo thí. Giám sát vv...
2. Bình theo Lão. Hiền nhân, quân tử, phải biết lấy cái hữu hình là hoàn cảnh xác thân, tâm tình để dưỡng nuôi cái vô hình là tâm linh. Biến cái hữu thể thành vô thể, vượt tầm kích con người lên tới địa vị thần minh, đó mới là chính vị, là ngôi vị chính đáng của mình, mới là thực hiện được định mệnh cao sang của mình. (Lưu nhất Minh, Chu Dịch Xiển Chân)
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 鼎 顛 趾 . 利 出 否 . 得 妾 以 其 子 . 無 咎 .
象 曰 . 鼎 顛 趾 . 未 悖 也 . 利 出 否 . 以 從 貴 也 .
Sơ Lục.
Đỉnh điên chỉ. Lợi xuất bĩ. Đắc thiếp dĩ kỳ tử. Vô cữu.
Tượng viết:
Đỉnh điên chỉ. Vị bội dã. Lợi xuất bĩ. Dĩ tòng qui dã.
Dịch.
Đỉnh mà chân chổng lên trời,
Lợi là bụi bậm sẽ rơi ra ngoài.
Cát đằng chút phận nhỏ nhoi,
Nếu mà sinh được mụn trai, lỗi gì.
Tượng rằng:
Đỉnh tuy chân chổng lên trời,
Cũng chưa đến nỗi là sai, là lầm.
Lợi là bụi bậm sạch không,
Rồi ra có thể theo dòng thanh tao.
Hào Sơ Lục: Như ta đã thấy, quẻ Đỉnh nói về trọng dụng hiền tài, để kiến thiết quốc gia. Hào Sơ này đại ý nói: Dụng nhân như dụng mộc. Người dở mà biết dùng cũng hóa hay, chẳng khác nào Đỉnh chổng chân, giúp ta vét được bụi bậm bám trong lòng đỉnh (Đỉnh điên chỉ. Lợi xuất bĩ), hoặc như có vợ lẽ cũng có thể sinh quí tử cho chồng (Đắc thiếp dĩ kỳ tử). Tóm lại, biết dùng thời dở cũng hóa hay, cho nên không gì đáng trách (Vô cữu).
Nên, thấy người dùng kẻ dở, vị tất đã là người quấy, cũng như thấy Đỉnh chổng chân lên trời, vị tất đã là điều nghịch lý (Đỉnh điên chỉ. Vị bội dã). Điều phải xét, là người được dùng có làm nên việc hay chăng, cũng như xét xem Đỉnh chổng chân, có phải là để vét bụi ra không? Cái quí là ở chỗ hợp thời, hợp cảnh.(Lợi xuất bĩ. Dĩ tòng quí dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 鼎 有 實 . 我 仇 有 疾 . 不 我 能 即 . 吉 .
象 曰 . 鼎 有 實 . 慎 所 之 也 . 我 仇 有 疾 . 終 無 尤 也 .
Cửu nhị.
Đỉnh hữu thực. Ngã cừu hữu tật. Bất ngã năng tức. Cát.
Tượng viết:
Đỉnh hữu thực. Thận sở chi dã. Ngã cừu hữu tật. Chung vô vưu dã.
Dịch.
Vạc đầy ăm ắp thức ăn,
Ta đây có kẻ để tâm giận hờn.
Giận ta, nhưng chẳng dám nhờn,
Chẳng điều gần gũi, bờm sơm tốt rồi.
Tượng rằng: Vạc có thức ăn,
Đường đi nước bước, để tâm lo lường,
Với ta có kẻ chẳng thương,
Nhưng mà họ chẳng có đường trách ta.
Hào Cửu nhị: Quân tử ra giúp đời, gánh vác trách nhiệm xây dựng đất nước, cũng như cái Đỉnh có nhiều đồ ăn (Đỉnh hữu thực). Khi Đỉnh có chức, có quyền, thường bị tiểu nhân ghen ghét, tật đố (Ngã cừu hữu tật). Ngã cừu nghĩa là thù oán với ta, Hữu tật nghĩa là có lòng ghen ghét. Trong trường hợp này, ta phải lập nghiêm, đừng cho họ bén mảng đến gần (Bất ngã năng tức), được vậy sẽ tốt lành (Cát). Tức đây nghĩa là đến gần. Mới hay, những người có tài, có đức, y như Đỉnh đầy đồ ăn (Đỉnh hữu thực), có lo chi không được đời trọng dụng. Tuy nhiên, cũng phải cẩn trọng trong đường đi, nước bước của mình (Thận sở chi dã). Như vậy, nếu thù địch mình có ghen ghét mình (Ngã cừu hữu tật), cuối cùng cũng chẳng làm gì được mình (Chung vô vưu dã).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 鼎 耳 革 . 其 行 塞 . 雉 膏 不 食 . 方 雨 虧 悔 . 終 吉 .
象 曰 . 鼎 耳 革 . 失 其 義 也 .
Củu tam.
Đỉnh nhĩ cách. Kỳ hành tắc. Trĩ cao bất thực.
Phương vũ khuy hối. Chung cát.
Tượng viết:
Đỉnh nhĩ cách. Thất kỳ nghĩa dã.
Dịch.
Vạc mà đang đổi thay tai,
Thế là bế tắc, khó rời chân đi.
Quí như mỡ trĩ còn chê,
Mưa rơi, mới hết ủ ê, phàn nàn.
Cuối cùng, cũng sẽ chu toàn,
Rồi ra cũng sẽ được an, được lành.
Tượng rằng: Vạc đổi thay tai,
Thế là nghĩa lý, mất rồi còn đâu.
Cửu tam tượng trưng một người anh hùng hữu tài, hữu đức, mà chưa đạt thời, đạt vận, chưa được bậc quân vương biết đến, như vậy có khác nào một chiếc đỉnh đựng đầy của ngon, vật lạ như mỡ trĩ, mà vì đỉnh đang thay tai, không thể khiêng đi được, nên chẳng được ai ăn (Đỉnh nhĩ cách. Kỳ hành tắc. Trĩ cao bất thực). Nhưng chẳng lẽ Tử Nha cứ ngồi câu nơi sông Vị mãi, chẳng sớm chày âu cũng gặp Văn Vương, và chung cuộc sẽ tốt lành (Phương vũ khuy hối. Chung cát).
Tượng viết: Đỉnh nhĩ cách. Thất kỳ nghĩa dã. Cho nên, nếu ta có tài, thì phải tin rằng:
Thân hệ bang gia chung hữu dụng.
Thiên sinh hào kiệt mạc ưng hư
(Cao Bá Quát, Cuộc Phong trần)
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 鼎 折 足 . 覆 公 餗 . 其 形 渥 . 凶.
象 曰 . 覆 公 餗 . 信 如 何 也 .
Cửu tứ.
Đỉnh triết túc. Phúc công tốc. Kỳ hình ốc. Hung.
Tượng viết:
Phúc công tốc. Tín như hà dã.
Dịch.
Đỉnh mà gẫy rụi cả chân,
Lung tung, đổ hết thức ăn ông Hoàng.
Tía tai, đỏ mặt, bẽ bàng.
Rồi ra âu sẽ nhỡ nhàng, rủi ro.
Tượng rằng:
Đổ đồ ăn uống ông Hoàng,
Thế thời tin cậy được làm sao đây.
Cửu tứ tượng trưng một người không đủ tài đức, mà phải gánh một trách nhiệm quá sức mình, nên làm hỏng hết công việc đã được giao phó. Y như cái đỉnh đã bị gẫy chân (Đỉnh triết túc), làm đổ hết thức ăn của vua chúa ra ngoài (Phúc công tốc). Như vậy đáng thẹn thay (Kỳ hình ốc. Hung). Tượng viết: Phúc công tốc. Tín như hà dã. Đã đánh đổ thức ăn của vua chúa, thì làm sao còn tin được nữa.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 鼎 黃 耳 . 金 鉉 . 利 貞 .
象 曰 . 鼎 黃 耳 . 中 以 為 實 也 .
Lục ngũ.
Đỉnh hoàng nhĩ. Kim huyền . Lợi trinh.
Tượng viết:
Đỉnh hoàng nhĩ. Trung dĩ vi thực dã.
Dịch.
Quai vàng, khoen cũng bằng vàng,
Sao cho minh chính, vững vàng, thời hay.
Tượng rằng: Đỉnh có quai vàng,
Chính trung, lòng vẫn tiềm tàng, chắt chiu.
Lục ngũ tượng trưng cho quai đỉnh. Đỉnh không quai, thời không di chuyển được, thành thử có thức ăn, cũng chẳng được dùng, như ta đã thấy trong Hào Ba. Như vậy, đỉnh nhờ có quai mới trở nên linh động. (Đỉnh hoàng nhĩ. Kim huyền. Lợi trinh). Cũng một lẽ, đấng quân vương mà biết cầu hiền, sẽ làm cho đời sống chính trị trong nước trở nên linh động. Vua thời như quai đỉnh (Hoàng nhĩ), hiền thần thời như khoen đỉnh (Kim huyền), đôi đàng hợp tác với nhau, để mưu đại công, đại sự. Đỉnh có tai vàng (Đỉnh hoàng nhĩ), cũng như nước có vua tốt. Vua tốt chính vì đã biết xử theo lẽ phải (Trung dĩ vi thực dã).
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 鼎 玉 鉉 . 大 吉 . 無 不 利 .
象 曰 . 玉 鉉 在 上 . 剛 柔 節 也 .
Thượng Cửu.
Đỉnh ngọc huyền. Đại cát. Vô bất lợi.
Tượng viết:
Ngọc huyền tại thượng. Cương nhu tiết dã.
Dịch.
Đỉnh đồng, khoen ngọc quá xinh,
Bề nào cũng tốt, cũng lành, cũng hay.
Tượng rằng: Khoen ngọc bên trên,
Cương nhu tiết tấu, ấm êm, hiệp hòa.
Thượng Cửu: Hiền tài trong nước ví như khoen đỉnh (Đỉnh ngọc huyền). Đỉnh có tai, nhưng phải có khoen nữa, mới có thể di chuyển được. Nước có minh quân, nhưng phải có hiền thần phụ bật, thời mới làm nên công chuyện, thời mới hay, mới tốt (Đại cát. Vô bất lợi). Tượng viết: Ngọc huyền tại thượng. Cương nhu tiết dã. Hiền tài như là khoen ngọc bổ túc cho đỉnh trở nên hoàn mỹ. Khoen ngọc thì vừa cương, vừa nhu, trúng tiết. Hiền tài cũng quí ở chỗ biết dung hoà cả cương lẫn nhu.
ÁP DỤNG QUẺ ĐỈNH VÀO THỜI ĐẠI
Quẻ Đỉnh tiếp sau quẻ Cách. Người xưa nói: Cách cố, đỉnh tân. Nghĩa là thay cũ, đổi mới. Ta lấy ví dụ những việc chính quyền Cộng Sản đã làm từ năm 1946 trở đi.
Trước hết là Cách cố là Thay cũ. Họ đã thay những cái gì mà họ cho là hủ bại, thối nát. Khẩu hiệu đưa ra là Bài phong, đả thực (Bài trừ phong kiến, đả đảo thực dân), mà bài trừ phong kiến là đánh phá các giai cấp Trí, Phú, Địa, Hào (Đánh trí thức, người giầu, điền chủ, cường Hào, ác bá). Còn Đỉnh Tân là xây dựng chủ nghĩa Cộng Sản. Đó là truất bỏ tư điền, tư hữu, nhân dân sẽ lao tác (lao động là vinh quang), không được sống xa xỉ, hưởng thụ, còn Đảng sẽ nắm mọi quyền hành như buôn bán, kinh doanh, nắm trọn quyền chính trị vv...
Đảng Cộng Sản được xây dựng lên từ học thuyết Mác Lê (Karl Mark và Lénine). Và Cộng Sản đã tung hoành từ 1917 cho đến 1989 mới xụp đổ. Hiện nay chỉ còn 4 nước theo Cộng Sản. Đó là Cuba, Trung Hoa, Việt nam, và Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên ở những nước này Cộng Sản đã biến dạng, không còn cứng rắn như xưa.
Quẻ Đỉnh còn dạy người cầm quyền phải biết Dụng nhân như dụng mộc, nghĩa là phải biết dùng người. Ai ai cũng có cái hay, cái dở. Cái khéo là biết dùng họ cho đúng chỗ, đúng lúc, đúng nơi. Sinh ra đời, ta không nên cố chấp. Chế độ nào cũng có cái hay, cái dở. Cái dở là những gì hủ lậu, lỗi thời, làm cho con người khổ sở và không thể tiến lên được. Chúng ta cần phải biết gạn đục, khơi trong, giữ cái hay, bỏ cái dở, chính là vì vậy. Những người cầm quyền còn phải biết nhìn xa, trông rộng, để theo kịp đà tiến hóa của thế giới. Phải biết nhận những lỗi lầm của mình, phải biết sửa sai, chớ đừng thần thánh hóa mình và coi dân như cỏ rác, mới mong dân cộng tác với mình. Phải thương dân, lo cho dân được no ấm, và dạy dân tiến hóa về mọi mặt : Tinh thần, Vật chất, và đạo đức, như vậy mới mong sự nghiệp được vững vàng.
Nước Pháp năm 1789 đã lật chế độ Quân chủ độc tài, đã đề cao Tự Do, Bình quyền và Huynh đệ. Abraham Lincoln (1861-1864), đã hủy bỏ chế độ nô lệ tại Mỹ. Đó là những bước tiến khả quan của nhân loại. Nhờ vậy, mà nay người ta không còn đánh giá con người theo mầu da, sắc áo, mà bằng phẩm giá con người.
Càng đi sâu vào lẽ Dịch, ta càng thấy mọi sự đều biến thiên, tiến hóa để đi dần đến những gì là tốt lành, đẹp đẽ. Trong đời ta, ta đã chứng kiến máy bay, tầu hỏa, tầu thủy, điện khí, xe hơi, ta đã thấy những nhà chọc trời, những đường hầm đáy biển, tất cả đều nói lên rằng chúng ta sinh ra đời này cốt là để biến thiên, tiến hóa, để càng ngày càng đi vào chỗ hoàn mỹ, thành toàn.51. 震 為 雷 CHẤN VI LÔI
BÁT THUẦN CHẤN
Chấn Tự Quái | 震 序 卦 |
Chủ khí giả mạc nhược trưởng tử. | 主 器 者 莫 若 長 子 |
Cố thụ chi dĩ Chấn. | 故 受 之 以 震 |
Chấn giả động dã. | 震 者 動 也. |
Chấn Tự Quái
Giữ gìn chủ khí, duy người trưởng nam.
Cho nên Chấn tiếp mối giường,
Chấn là chấn động, cương cường vần xoay.
Chấn có nhiều nghĩa: Chấn là sấm, oai trời, trưởng nam, Đông cung Thái tử, là chấn động, phấn động, kinh sợ. Tất cả nghĩa này, đều được dùng trong quẻ Chấn.
Quẻ Chấn tiếp theo quẻ Đỉnh do một sự liên tưởng. Đỉnh là một dụng cu khi tế tự. Chấn là trưởng nam, có thể thay mặt cha tế tự. Vì thế sau quẻ Đỉnh là quẻ Chấn.
I. Thoán.
Thoán từ.
震 . 亨 . 震 來 . 笑 言 啞 啞 . 震 驚 百 里 . 不 喪 匕 鬯 .
Chấn. Hanh. Chấn lai khích khích. Tiếu ngôn hách hách.
Chấn kinh bách lý. Bất táng chủy sưởng.
Dịch.
Chấn là chấn động lôi đình,
Làm cho vạn vật phỉ tình hanh xương.
Sấm vang sợ hãi, lo lường,
Rồi ra khúc khích, rộn ràng cười vui.
Sấm vang, trăm dặm sợ oai,
Vẫn thường bình tĩnh, chẳng rơi chén thìa.
Sấm trời cốt là để kích thích vạn vật, cho nên theo Trung Hoa, thì ngày xuân phân thường có sấm, để đánh thức côn trùng tỉnh giấc đông miên, để giáo đầu cho ngày Xuân mới tưng bừng trong hoa lá. Vì thế nói: Chấn hanh. Đối với con người, thì những sự kinh mang, chấn động trên đời đều có mục đích thức tỉnh con người biết đề phòng, úy cụ, biết trở lại đường ngay, nẻo chính. Biết sợ oai trời, biết hồi tâm, thuận phục những định luật của đất trời, sẽ đem lại hạnh phúc cho con người. Vì thế Thoán nói: Chấn lai khích khích. Tiếu ngôn hách hách. Đại khái rằng có biết úy cụ, đề phòng, thời sau mới được hanh thông hoan lạc. Thánh Kinh Công giáo cũng viết: Kính sợ Trời là khởi điểm của sự khôn ngoan (Ps. 110, 10.)
Nhưng sợ để biết đề phòng, để biết tu tỉnh, chứ không phải sợ để tiêu hồn, lạc phách. Cho nên Thoán lại dạy tiếp: Cần phải bình tĩnh. Những người bình tĩnh khi gặp biến cố, mới đáng mặt trị dân. Ví dụ như: Khi tiếng sấm lớn, vang động, kinh chuyển đến 100 dặm, mà mình vẫn trấn tĩnh được tinh thần, vẫn tiếp tục hành lễ, không bị kinh tâm, đến nỗi đánh rơi mất đồ tế khí (Chấn kinh bách lý. Bất táng chủy sưởng).
Thoán Truyện.
彖 曰 . 震 . 亨 . 震 來 虩 虩 . 恐 致 福 也 .笑 言 啞 啞 . 後 有 則 也 . 震 驚 百 里 . 驚 遠 而 懼 邇 也 . 出 可 以 守 宗 廟 社 稷 . 以 為 祭 主 也 .
Chấn hanh. Chấn lai khích khích. Khủng trí phúc dã. Tiếu ngôn hách hách. Hậu hữu tắc dã. Chấn kinh bách lý. Kinh viễn nhi cụ nhĩ dã. Bất táng chủy sưởng. Xuất khả dĩ thủ tông miếu xã tắc dĩ vi tế chủ dã.
Dịch. Thoán rằng:
Chấn là chấn động lôi đình,
Khai thông tắc uất, phỉ tình hanh xương.
Sấm vang, sợ hãi, lo lường,
Biết lo, phúc mới có đường sinh sôi.
Rộn ràng, khúc khích, nói cười,
Rồi ra phép tắc, cơ ngơi đàng hoàng.
Lôi đình, trăm dặm kinh mang,
Xa kinh, gần sợ, bàng hoàng đôi nơi.
Ung dung, thìa chén chẳng rơi.
Miếu tông, xã tắc âu tài đảm đang.
Đáng tài gìn giữ miếu đường,
Đáng ngôi chủ tể, chững chàng, uy nghi.
Thoán Truyện bình rằng: Trời làm sấm động ra oai, là cốt để cho con người biết khủng cụ, tu tỉnh, sau mới được hạnh phúc (Chấn hanh khủng trí phúc dã). Con người sau sẽ cười vui, vì hành động đúng theo qui tắc, định luật của trời đất (Tiếu ngôn hách hách. Hậu hữu tắc dã). Câu này thoạt xem ngỡ tầm thường, nhưng thực ra hàm chứa một ý nghĩa hết sức sâu xa, có hiệu quả vô cùng trọng đại. Thật vậy, vũ trụ này được chi phối bằng những định luật nhất định. Có tìm ra được những định luật thiên nhiên, có theo đúng được những định luật thiên nhiên, nhiên hậu mới giải quyết được mọi căn do làm phiền sầu, khổ não con người, mới đem lại được cho con người một đời sống thực sự. Tiếp đến Thoán Truyện bình rằng: Gặp lúc kinh mang, mọi người đều hoảng hốt, riêng Đông cung Thái tử hành lễ thay vua, nếu vẫn giữ được bình tĩnh, thời đáng mặt giữ gìn tôn miếu, xã tắc (Chấn kinh bách lý. Kinh viễn nhi cụ nhĩ dã. Bất táng chủy sưởng. Xuất khả dĩ thủ tông miếu xã tắc dĩ vi tế chủ dã). Người lãnh đạo cần phải bình tĩnh, mới giải quyết công việc quốc gia được.
Một hôm, vua Đại Võ qua sông Giang, bị con rồng vàng đội thuyền lên, cả thuyền đều sợ. Nhà vua không thay đổi thần sắc, nói: Ta chịu mệnh Trời, một niềm tận tụy vì dân, sống chết của ta là do ý Trời, rồng này làm gì được ta. Thoát thôi, rồng cúi đầu, cúp đuôi lặn đi mất. (Wieger, Textes Historiques, tome 1, pp.38- 40)
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 洊 雷 . 震 . 君 子 以 恐 懼 修 省 .
Tượng viết:
Tấn Lôi. Chấn. Quân tử dĩ khủng cụ tu tỉnh.
Dịch. Tượng rằng:
Chấn là sấm động liên hồi,
Lo lường quân tử chau dồi tấm thân.
Người quân tử phải biết sợ oai trời, mỗi khi thấy sấm động, sét vang, phải biết sợ hãi và tu tỉnh. Tứ thư, Ngũ kinh chuyên dạy người:
1. Kính sợ trời.
2. Tu tỉnh.
Đức Khổng cũng đã làm gương sự úy cụ oai trời. Khi có sấm dậy, gió to thì mặt ngài biến sắc (Tấn lôi. Phong liệt. Tất biến (Hương đảng X, câu 16). Kính sợ là cốt để tu sửa tâm hồn, tâm hồn được tu sửa sẽ trở nên quang minh chính đại.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Sáu Hào bàn về ý nghĩa của sự kinh cụ, và thái độ nên có, khi gặp trường hợp kinh mang. Đại khái:
1. Sự kinh cụ có mục đích chuyển hóa con người (Hào Sơ).
2. Lúc gặp kinh mang, phải biết thủ thân vi đại (Hào nhị).
3. Lúc gặp kinh mang, nên lo cải tà qui chánh (Hào tam)
4 . Lúc gặp kinh mang, phải chấn tĩnh tinh thần, chứ đừng để tiêu ma hào khí (Hào 4).
5. Gặp lúc kinh mang, phải hành xử cho phải, cho khéo (Hào 5).
6. Lâm nguy, phải biết đề phòng, phải biết cải thiện đường lối (Hào 6)
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 震 來 虩 虩. 後 笑 言 啞 啞 . 吉 .
象 曰 . 震 來 虩 虩. 恐 致 福 也 . 笑 言 啞 啞 . 後 有 則 也 .
Sơ Cửu.
Chấn lai khích khích. Hậu tiếu ngôn hách hách. Cát.
Tượng viết:
Chấn lai khích khích. Khủng trí phúc dã.
Tiếu ngôn hách hách. Hậu hữu tắc dã.
Dịch. Sơ Cửu.
Sấm vang, sợ hãi, lo lường,
Rồi ra khúc khích, rộn ràng cười vui.
Khúc kha, khúc khích, nói cười,
Rồi ra, mọi sự xong xuôi, tốt lành.
Tượng rằng:
Sấm vang, sợ hãi, lo lường,
Biết lo, phúc mới có đường sinh sôi.
Rộn ràng, khúc khích, nói cười.
Rồi ra, phép tắc, cơ ngơi đàng hoàng.
Hào Sơ này hoàn toàn nhắc lại lời của Thoán từ. Để nhấn mạnh lại một lần nữa ý nghiã của sự sợ hãi:
1. Có biết sợ hãi, mới biết đề phòng, mới biết ăn ở cho phải đạo
2. Ăn ở phải đạo, xử sự hợp lý sẽ được hạnh phúc.
3. Như vậy, sự sợ hãi, sự kinh mang trên đời là cái hay, chứ không phải cái dở. Con người, nếu cứ sống mãi trong hoan lạc, sẽ trở nên ù lì, ủy mị, cho nên thỉnh thoảng cũng phải cho họ kinh mang, như vậy họ mới biết lo lắng đề phòng, mới biết phấn tâm cầu tiến.
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 震 來 厲 . 億 喪 貝 . 躋 于 九 陵 . 勿 逐 . 七 日 得 .
象 曰 . 震 來 厲 . 乘 剛 也 .
Lục nhị.
Chấn lai lệ. Ức táng bối. Tê vu cửu lăng. Vật trục. Thất nhật đắc.
Tượng viết:
Chấn lai lệ. Thừa cương dã.
Dịch.
Sấm vang nguy hiểm mấy mươi,
Bao đồ tế nhuyễn, đi đời nhà ma.
Gò cao trốn chạy cho xa,
Chẳng tìm của mất, rồi ra cũng về.
Bảy ngày, của lại được y.
Tượng rằng:
Sấm vang, nguy hiểm mấy mươi.
Nguy vì đã cưỡi lên người Dương cương.
Hào Lục nhị đặt câu hỏi: Gặp lúc kinh mang, nên giữ của hay nên giữ mạng sống? Trả lời: tất nhiên sẽ phải bỏ của cải (Ức táng bối), để mà cao chạy xa bay (Tê vu cửu lăng), thủ thân vi đại. Người mà còn, thì của cũng sẽ còn, vì người làm ra của, chứ của chẳng làm ra người.(Vật trục. Thất nhật đắc).
Tượng viết: Chấn lai lệ. Thừa cương dã. Theo Tượng Truyện, thì sự kinh mang xẩy ra thường là vì mình vô tài, mà lại ăn trên, ngồi chốc người có tài. Theo Dịch, thì Thừa cương chẳng có bao giờ hay. Xin xem các quẻ, các Hào sau đây để so sánh: Truân Lục nhị, Dự Lục ngũ, Phệ hạp Lục nhị, Khốn Lục tam.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 震 蘇 蘇 . 震 行 無 眚 .
象 曰 . 震 蘇 蘇 . 位 不 當 也 .
Lục tam.
Chấn tô tô. Chấn hành vô sảnh.
Tượng viết:
Chấn tô tô. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Sấm vang, ngơ ngác, ngác ngơ,
Sợ run, bỏ ác quay ra làm lành.
Làm lành, tai hại hết sinh.
Tượng rằng:
Sấm vang, ngơ ngác, ngác ngơ,
Bởi vì ngôi vị đang là dở dang.
Hào Lục tam mô tả hạng người gặp nguy cơ, thời thất thần, hốt hoa hốt hoảng (Chấn tô tô). Thất thần, hốt hoảng dĩ nhiên là không hay. Nhưng nếu biết nhân dịp này mà cải tà qui chính, thì chẳng có gì đáng trách (Chấn hành vô sảnh). Tượng viết: Chấn tô tô vị bất đáng dã. Không có tài đức xứng ngôi vị, gặp lúc kinh mang, sẽ hốt hoảng không biết lui tới ra sao.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 震 遂 泥 .
象 曰 . 震 遂 泥 . 未 光 也 .
Cửu tứ.
Chấn toại nê.
Tượng viết:
Chấn toại nê. Vị quang dã.
Dịch.
Chấn không động, lại đắm chìm,
Tượng rằng:
Chấn không động, lại đắm chìm,
Chưa thông sáng đủ, cho nên sa lầy.
Hào Cửu tứ. Có những người gặp lúc kinh mang, muốn phấn động để làm chủ tình thế, nhưng vì tinh thần chưa đủ mạnh, nên không sao thoát khỏi thế kẹt, y như người chìm đắm giữa gian nguy, chưa có kế thoát thân. Tượng Truyện bình rằng: Bê bết, mắc kẹt, là vì chưa đủ sáng suốt (Chấn toại nê. Vị quang dã).
5. Hào Lục ngũ:
六 五 . 震 往 來 厲 . 億 無 喪 . 有 事 .
象 曰 . 震 往 來 厲 . 危 行 也 . 其 事 在 中 . 大 無 喪 也 .
Lục ngũ.
Chấn vãng lai lệ. Ức vô táng hữu sự.
Tượng viết:
Chấn vãng lai lệ. Nguy hành dã. Kỳ hung vô cữu. Úy lân giới dã.
Dịch.
Sấm vang, đi lại hiểm nghèo,
Nhưng không mất mát, vẫn điều nên công.
Tượng rằng:
Sấm vang, đi lại hiểm nghèo,
Nghĩa là đi đứng cheo leo, nguy nàn.
Chữ trung, ghi tạc tâm xoang,
Sẽ không mất mát, chu toàn trước sau.
Hào Lục ngũ. Gặp lúc kinh mang, tiến lui đều nguy hiểm, nếu biết xử sự cho hay, cho khéo, thời cũng chẳng mất mát gì, mà còn có thể nên công. Tượng viết: Chấn vãng lai lệ. Nguy hành dã. Kỳ sự tại trung. Đại vô táng dã. Lục ngũ tuy gặp nguy, nhưng vì đắc trung, tức là biết xử cho hay, cho phải, cho nên chẳng mất mát, thiệt hại gì.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 震 索 索 . 視 矍 矍 . 征 凶 . 震 不 于 其 躬 .
于 其 鄰 . 無 咎 . 婚 媾 有 言 .
象 曰 . 震 索 索 . 未 得 中 也 . 雖 凶 無 咎 . 畏 鄰 戒 也 .
Thượng Lục.
Chấn tác tác. Thị quắc quắc. Chinh hung. Chấn bất vu kỳ cung. Vu kỳ lân. Vô cữu. Hôn cấu hữu ngôn.
Tượng viết:
Chấn tác tác. Trung vị đắc dã. Tuy hung vô cữu. Úy lân giới dã.
Dịch.
Sấm vang từng trận ầm ầm,
Nhớn nha nhớn nhác, thất thần nhìn quanh.
Ra đi, âu sẽ chẳng lành,
Mình đâu bị sấm, sấm hành lân bang.
Phòng xa, âu sẽ chu toàn,
Mặc lời đàm tiếu, họ hàng nhỏ to.
Tượng rằng: Sấm động ầm ầm,
Sợ vì xử sự chưa nhằm, chưa hay,
Tuy rằng: Chẳng được mắn may,
Nhưng mà cũng chẳng đơn sai, lỗi lầm.
Gương người, nên lấy làm răn.
Hào Thượng Lục. Gặp lúc kinh mang đến cực độ, tinh thần có thể bị thất tán, dung mạo có thể bị phờ phạc, lúc ấy làm gì cũng dở (Chấn tác tác. Thị quắc quắc. Chinh hung). Hay hơn hết là phải biết liệu lý, khi họa chưa cập thân, thấy người mắc nạn, phải lấy đó làm bài học, sửa sang lề lối cho kịp thời, tránh họa hoạn cho đúng lúc, mới là biết xử, còn chuyện người ta phê bình chỉ trích, chẳng nên quan tâm (Chấn bất vu kỳ cung. Vu kỳ lân. Vô cữu. Hôn cấu hữu ngôn).
Tượng viết: Chấn tác tác. Trung vị đắc dã. Tuy hung vô cữu. Úy lân giới dã. Lúc gặp kinh mang, mà mất tinh thần, thời dĩ nhiên là chưa có một thái độ lý tưởng. Nhưng nếu biết trông gương người mà tự răn, tự nhủ, thì cũng chẳng có gì là đáng trách.
ÁP DỤNG QUẺ CHẤN VÀO THỜI ĐẠI
Phải biết kính sợ trời. Mỗi lần nghe thấy sấm sét, thì là Trời muốn thức tỉnh vạn vật nói chung, và loài người nói riêng, để họ phải tự xét mình mà sửa đổi những lỗi lầm đang mắc.
Nói gần hơn, là dạy ta phải biết kính trọng cha mẹ, và phải biết nghe lời cha mẹ. Trên đời này, chỉ có tình của cha mẹ đối với con cái là chân thật hơn cả. Vợ, chồng, anh, em, con, cháu, bè bạn, kẻ ăn người ở trong nhà, đều có thể phản ta, lừa gạt ta; chỉ có cha mẹ ta là không bao giờ lừa gạt ta, hại ta. Khi ta lầm lỗi, cha mẹ trách mắng ta, đó là chỉ muốn cho ta hay, và khi đó cha mẹ rất đau lòng vì những lỗi lầm của ta. Cha mẹ phải vất vả, bôn ba trong cuộc sống, phần lớn là lo cho con có một đời sống đầy đủ và vững chắc hơn. Nhưng phận làm con đã lo được gì cho cha mẹ? Chẳng những thế có nhiều người con đã chẳng kể gì những lời khuyên răn của cha mẹ, mà còn coi những lời dạy bảo đó là lỗi thời, lạc hậu, mà chỉ nghe những lời của bè bạn xấu xúi bẩy, để rồi đưa cuộc đời mình vào chỗ không lối thoát.
Tóm lại, như khi Trời nổi sấm là có ý cảnh tỉnh ta. Vậy khi cha mẹ dạy bảo ta, là cảnh tỉnh ta, do đó có la mắng ta, thì ta đừng cãi lại, làm cho cha mẹ đau lòng. Có đôi lúc lời răn dạy đó cũng nóng nẩy, vội vã, nhưng dù sao cũng phát ra tự lòng thương con, sợ con bị nguy hại, nên phải cản ngăn con đó thôi. Vậy bổn phận làm con, mỗi khi bị cha mẹ rầy la, phải bình tâm xem lời răn dạy đó có đúng không? Bậc cha mẹ là những người từng trải hơn ta, lẽ dĩ nhiên có kinh nghiệm trong cuộc sống hơn ta, nên những lời dạy dỗ đó không nhiều thì ít cũng có lợi ích cho ta. Vì vậy, ta phải kịp thời sửa đổi những lỗi lầm của ta nếu có, để cho cha mẹ vui lòng, và để ta khỏi hối hận, phàn nàn về sau.
» Dịch Kinh Đại Toàn | Quẻ 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45
46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64
No comments:
Post a Comment