Thursday, February 24, 2011

THƯỢNG KINH I

DỊCH KINH ĐẠI TOÀN

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê

» DỊCH KINH YẾU CHỈ

» THƯỢNG KINH

» HẠ KINH

» Hệ Từ Thượng » Hệ Từ Hạ » Thuyết Quái » Tự Quái » Tạp Quái » Phụ lục

Click vào từng quẻ để xem

1

Kiền Vi

Thiên

2

Khôn Vi

Địa

3

Thủy Lôi Truân

4

Sơn Thủy Mông

5

Thủy Thiên Nhu

6

Sơn Thủy Tụng

7

Địa Thủy Sư

8

Thủy Địa Tỷ

9

PhongThiên Tiểu Súc

10

Thiên Trạch Lý

11

Địa Thiên Thái

12

Thiên Địa Bĩ

13

Thiên Hỏa Đồng Nhân

14

Hỏa Thiên Đại Hữu

15

Địa Sơn Khiêm

16

Lôi Địa Dự

17

Trạch Lôi Tùy

18

Sơn Phong Cổ

19

Địa Trạch Lâm

20

Phong Địa Quan

21

Hỏa Lôi
Phệ Hạp

22

Sơn Hỏa Bí

23

Sơn Địa Bác

24

Địa Lôi Phục

25

Thiên Lôi Vô Vọng

26

Sơn Thiên Đại Súc

27

Sơn Lôi Di

28

Trạch Phong Đại Quá

29

Khảm Vi

Thủy

30

Ly

Vi Hỏa

31

Trạch Sơn Hàm

32

Lôi Phong Hằng

33

Thiên Sơn Độn

34

Lôi Thiên Đại Tráng

35

Hỏa Địa Tấn

36

Địa Hỏa Minh Di

37

PhongHỏa Gia Nhân

38

Hỏa Trạch Khuê

39

Thủy Sơn Kiển

40

Lôi Thủy Giải

41

Sơn Trạch Tổn

42

Phong Lôi Ích

43

Trạch Thiên Quải

44

Thiên Phong Cấu

45

Trạch Địa Tụy

46

Địa Phong Thăng

47

Trạch Thủy Khốn

48

Thủy Phong Tỉnh

49

Trạch Hỏa Cách

50

Hỏa Phong Đỉnh

51

Chấn

Vi Lôi

52

Cấn

Vi Sơn

53

Phong Sơn Tiệm

54

Lôi Trạch Quy Muội

55

Lôi Hỏa Phong

56

Hỏa Sơn

Lữ

57

Tốn Vi

Phong

58

Đoài Vi

Trạch

59

Phong Thủy Hoán

60

Thủy Trạch Tiết

61

Phong Trạch Trung Phu

62

Lôi Sơn Tiểu Quá

63

Thủy Hỏa Ký Tế

64

Hỏa Thủy Vị Tế

Thượng Kinh: quẻ 130 ; Hạ Kinh: quẻ 3164


THƯỢNG KINH Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê » Dịch Kinh Đại Toàn |


Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản Lược | Quẻ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 LỜI NÓI ĐẦU

Trước khi vào các quẻ Dịch, tôi có mấy lời trình bầy cùng quí vị độc giả. Tôi đã dùng nhiều năm để nghiên cứu về Dịch, và thấy nó mang lại cho tôi một đời sống tâm linh phong phú . Tôi nghĩ rằng: Dịch là biến thiên, linh động, tùy thời xử thế. Dịch là đi theo đúng đường lối, đúng chiều hướng của Trời đất, nên tôi đã cố tìm hiểu mạch lạc các quẻ Dịch, đã cố dịch các quẻ chính kinh chữ Hán ra chữ Việt bằng văn vần (thơ), và bình giảng các quẻ bằng văn xuôi.


Tôi đã nghiên cứu Dịch, viết Dịch, giảng dạy Kinh Dịch nhiều năm ở Đại Học Minh Đức, và đã mở nhiều khóa dạy Dịch cho nhiều lứa tuổi, ở trong nước, cũng như ở ngoại quốc (Hoa Kỳ). Tôi năm nay đã 76 tuổi, chẳng may bị tê bại từ tháng 9 năm 1989, nhưng nhờ Trời óc chất hãy còn sáng suốt, tinh thần hãy còn minh mẫn. Tôi nhận thấy Kinh Dịch rất hữu ích cho nhân loại: Nó có thể mở mang khối óc ta về nhiều vấn đề: Khoa học, Đạo Đức, Chính trị, Âm nhạc, Thiên văn, Y học, Bói toán v v ... và nhiều vấn đề liên quan đến đời sống hiện tại của ta, mà xưa nay các nhà bình giải Dịch kinh từ Á sang Âu không hề nói tới. Nhà tôi, sau khi đọc các quẻ, đã khám phá ra chỗ diệu dụng của nó. Nên nhất định khai thác nó, theo khả năng của nhà tôi, và nhất định xem xét, nghiên cứu, và tự mình đánh lại nó bằng computer. Tuy sức khoẻ không khả quan (vì bị bệnh mục xương sống), và đã 63 tuổi, nhưng nhà tôi nhất định làm, vì nghĩ rằng nếu biết Áp dụng Kinh Dịch vào Thời đại, thì sẽ có nhiều ích lợi cho thế hệ sau, và hy vọng nhiều người sau này, sẽ tiếp tục nghiên cứu nó. Và một ngày nào đó biết đâu, nó chẳng mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia, dân tộc nói riêng, và nhân loại nói chung, vì theo đà tiến hóa, những người nghiên cứu nó sau này, sẽ thông minh hơn chúng ta gấp bội, nhà tôi nói. Nên dù gặp khó khăn về sức khỏe, khó khăn về vật chất, để hoàn thành nó, nhà tôi cũng phải cố gắng cho nó ra đời. Nếu có ích cho thế hệ sau, thì sự hy sinh nhỏ nhoi của nhà tôi, nào có đáng gì? Cho nên, bộ Kinh Dịch này ra đời hoàn toàn theo ý nhà tôi, (tôi chỉ góp ý phụ). Nhà tôi bỏ bớt những gì không cần thiết, và giản dị hóa lời giảng (mà theo ý nhà tôi nó quá cao, sợ nhiều người không hiểu). Nhà tôi muốn phổ biến cho quần chúng, và nghĩ rằng chỉ cần trên 18 tuổi, đọc và hiểu tiếng Việt, là hiểu được phần Bình giảng, và phần Áp dụng vào Thời đại.

Nhà tôi đã cho vài em nhỏ khoảng 18, 20 tuổi và ít sinh viên Đại học đọc, họ đọc xong mục Áp dụng vào Thời đại, họ rất hiểu, và rất thích thú, và họ ước ao nhà tôi đủ sức khoẻ, để cùng tôi hoàn tất xong bộ Dịch này. Các bạn hữu của chúng tôi cũng khuyến khích nhà tôi rất nhiều. Sau nhiều ngày suy nghĩ, chúng tôi nhất định trình bầy Bộ Dịch như sau: I. Quyển I bàn về các vấn đề liên quan đến Dịch Lý, đến Vô Cực, Thái Cực, Hà Đồ, Lạc Thư, Âm Dương, Tứ Tượng, Ngũ Hành. Phần này rất cao siêu, nên tôi đã giảng giải bằng nhiều chú thích của những nhà bình giải danh tiếng, lại viện dẫn nhiều sách tham khảo, để tiện cho quí vị tìm ra những điều vi diệu của Dịch . II. Quyển II nói về Thượng kinh (có phần Dịch Kinh Giản Lược ở trên, xin quí vị đọc kỹ phần này, để có những ý niệm, và hiểu từ ngữ để đi vào Hào, Quải cho dễ). Thượng Kinh: Dưới phần Hán Văn là phần dịch đoạn Hán văn đó bằng văn vần, tiếp đến là Bình giảng đoạn đó bằng văn xuôi.

Cuối mỗi quẻ là phần áp dụng quẻ đó vào Thời đại. III. Quyển III là Hạ kinh. Hạ kinh trình bầy như Thượng kinh. Trong phần Bình giảng, thường hay dùng điển tích chứng minh để độc giả dễ hiểu, và sẽ ngạc nhiên thấy khi đọc Dịch mà thích thú, dễ hiểu như khi đọc truyện Tầu, và cuối mỗi quẻ, đều có phần Áp dụng vào Thời đại của quẻ đó. Tôi và nhà tôi cố gắng soạn bộ Dịch này một cách công phu, dễ hiểu, để đi sâu vào quần chúng. Theo chúng tôi nó rất có ích cho nhân loại,. Và sau khi đã hiểu Dịch, biết áp dụng Dịch, ta thấy ta trở nên thông thái, khôn ngoan hơn trước nhiều. Phần Hệ Từ. Phần này có Hệ Từ Thượng, Hạ, Thuyết Quái, Tự Quái, Tạp Quái cùng Phụ Lục I, II, III gồm khoảng 200 trang, với những lời bình giảng, chú thích rành rẽ. Chúng tôi cố gắng làm cho đầy đủ, để quí vị tiện tra cứu mai sau.

Bộ sách tưởng dày (khoảng 1500 trang), nhưng quyển I có 9 Chương, mỗi Chương dạy một đề tài khác nhau: dạy ta Hướng đi của Thánh Hiền, dạy Đông Y, Bói toán vv..., và quyển II, III là 64 quẻ, với 64 hoàn cảnh khác nhau, dạy về cách giải quyết những khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, không liên lạc với nhau, do đó muốn xem trước, sau, đoạn nào cũng được, nên dễ như đọc tờ báo hàng ngày mà thôi. Ước mong sao, bộ Dịch này đến tay không những quí vị thích đọc sách, mà còn làm cho quí vị nào xưa nay không thích đọc sách, cũng cảm thấy thích thú khi đọc nó. Mong nó sẽ mang lại nhiều điều lợi ích cho quí vị. Nhân tử Nguyễn văn Thọ & phu nhân H. L.Yến Lê cẩn chí. VÀI LỜI TÂM THÀNH CỦA BÀ HUYỀN LINH YẾN LÊ Trước khi vào mục Áp dụng Kinh Dịch vào Thời đại, tôi có mấy lời tâm thành ngỏ cùng quí vị độc giả.

Xin quí vị hãy coi tôi như người bạn thân của quí vị, và mấy lời tôi nói sau, là những lời thành khẩn, bộc lộ tất cả những suy tư, hiểu biết nhỏ nhoi của tôi, gửi đến quí vị - những người bạn thân ở khắp bốn phương trời. Tôi, Huyền Linh, sinh năm 1934, quê quán Hà nội (Bắc Việt), là một phụ nữ Việt Nam bình thường, xuất thân trong một gia đình công chức trung lưu, (nhờ có bà mẹ đảm đang, đức hạnh, nên cuộc sống của anh em chúng tôi lúc nào cũng có người giúp việc săn sóc chu đáo), có một nền học lực trung bình (học Đại học, mà chưa có một mảnh bằng nào của Đại học, vì nếu hỏng thi, là tôi ngưng ngay), biết làm thương mại qua loa (chủ cơ sở thầu thực phẩm & chủ tiệm bán về thực phẩm), biết nấu ăn, may vá, thêu thùa qua loa (Hiệu trưởng & giảng dạy & Chủ nhân trường Nữ công gia chánh Việt Tiến). Nghề tay trái, là buôn đá quí (hạt soàn). Năm 17 tuổi kết hôn với người mình yêu, đó là chồng tôi hiện tại (Bác sĩ Nguyễn văn Thọ).

Sau khi lập gia đình, và sinh đủ số con như ý muốn, tôi lại tiếp tục học thêm. Sở dĩ tôi viết qua về tiểu sử của tôi, là cốt để cho quí vị rõ, là tôi cũng như phần đông quí vị, không được hưởng một ân sủng nào hơn cả, mà trái lại phải phấn đấu rất nhiều (vì làm thương mại, là phải lo về quản trị sao cho tốt). Tôi, thuở nhỏ thích xem truyện Tàu, nhất là những chuyện viết về Lịch sử.

Về già, thì lại ham mê nghiên cứu về các đạo (tôi theo đạo thờ ông bà). Sau khi hiểu ít nhiều về các đạo (chỗ nào không hiểu thì tôi đàm luận với chồng tôi), tôi nhận thấy cuộc đời này chỉ là một sân khấu, trò đời là màn kịch, mà tôi cũng như mọi người chỉ là những diễn viên, nên khi đã đóng xong vai trò của mình, thì hãy trở về với con người thực của mình, chứ còn cứ mơ tưởng đến vai trò của mình trên sân khấu đời, rồi kiêu ngạo, hống hách, hoặc buồn khổ, thì sai lầm lắm vậy.

Hôm nay, tôi mạo muội viết ít lời ở nơi đây về Kinh Dịch, và tôi đọc, học, và hiểu Kinh Dịch như thế nào, để quí vị thưởng lãm. I. Trước tiên, khi đọc 1 quẻ Dịch, thì ta hãy tìm hiểu đại ý của nó ở phần Thoán, và chớ suy tư quá nhiều về một vài câu khó hiểu trong quẻ, mình không hiểu mà cho là Thánh nhân nói sai, hoặc tìm được một vài ý kiến hay của người ở thời đại ngày nay, thì cho rằng Dịch ngày xưa không bằng. Ta hãy trông trái bắp (ngô), nó có rất nhiều hạt, mỗi hạt là một công dụng của nó, râu có thể nấu nước uống lợi tiểu, lõi có thể thay củi đốt lửa, hạt có thể luộc, xay thành bột để làm biết bao thứ bánh, tùy theo người biết xử dụng nó, nhưng cuối cùng mục đích của nó, là góp phần vào việc nuôi nhân loại mà thôi.

Xưa, Thánh nhân tổn biết bao tâm cơ, suy tư biết bao năm tháng, mới viết ra bộ Kinh Dịch, (Dịch là biến dịch, bất biến, giản dị), để lại cho chúng ta. Nhưng các vị đó luôn luôn nói những câu khó hiểu, cốt ý là chỉ để cho những người nào có Tuệ căn mới lĩnh hội được mà thôi. Vì tâm trí ta còn kém cỏi, vật dục làm ta u mê., nên làm sao ta hiểu được những vi ý của cổ nhân. Khi đã hiểu nó, ta có thể khai triển nó theo muôn mặt, cũng như chồng tôi khai triển nó về phương diện đạo đức, tu thân, hoặc đạo lý, tâm linh, tôi thì khai triển nó về phương diện xã hội theo hiện đại, còn như 2 nhà Khoa học Trung Hoa (1957) Dương Chấn Ninh & Lý Chính Đạo đã dựa vào tỷ lệ Âm Dương (Tam thiên, Lưỡng địa) của Dịch mà làm một cuộc thí nghiệm tại Trung tâm thí nghiệm nguyên tử (National Bureau of Standards) ở Columbia, Hoa Kỳ, và đã được Ủy Ban Quốc Tế tặng giải Nobel năm 1957, và bây giờ Khoa Học, trong các công cuộc truyền tín hiệu, truyền hình ảnh từ vệ tinh xuống mặt đất, có thể nói là đã gián tiếp dùng 64 quẻ Dịch.


Tôi hy vọng sau này sẽ còn nhiều người nữa sẽ theo sau mà nghiên cứu những chỗ vi diệu của Dịch, mục đích là đóng góp phần nào trong muôn một, vào công cuộc tiến hóa của nhân loại về mọi mặt, đừng thấy người này áp dụng Dịch, không giống mình mà cho là sai, người kia giống mình thì cho là đúng, và nhất là đừng bao giờ coi mình hơn cổ nhân, vì như vậy, nếu giỏi hơn thì là kiêu ngạo, mà nếu là người chưa làm được gì cho xã hội, nhân loại, thì chỉ là hạng ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung mà thôi. II -Ngoài ra, Dịch kinh còn muốn đề cập đến các định luật biến dịch của vũ trụ, cũng như của quần sinh.

Dịch sở dĩ có, là cốt để mở mang trí tuệ cho con người, tác thành muôn việc cho con người, bao trùm tất cả đạo lý trong thiên hạ (Hệ Từ Thượng, Chương XI, tiết I). III - Dịch dạy chúng ta xu cát, tị hung (theo hay, tránh dở), bằng sự hiểu biết, sự khéo léo, sự cố gắng của mình. Dịch Kinh nhận định rằng ta lệ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh, cho nên biết hoàn cảnh là biết một phần lớn số phận cá nhân. Nhận định được chân giá trị của Dịch, lại biết áp dụng thực thi được Dịch lý vào công cuộc tu luyện bản thân, nên Đức Khổng tha thiết khảo cứu Kinh Dịch. Ngài nói: Nếu Trời cho ta sống thêm ít tuổi nữa, để học Dịch, ta có thể không phạm lỗi lầm lớn nữa (LN VII, 16). Còn tôi, sự nghiên cứu, học hỏi về Dịch này là một công việc thích thú nhất trong đời tôi, nên tôi muốn san sẻ những thích thú đó với quí vị - những người bạn thân của tôi ở khắp bốn phương trời- cùng thưởng lãm. Mong rằng sự hiểu biết nhỏ bé của tôi, mang lại lợi ích cho quý vị.

Mong thay. Trước khi dứt lời, tôi xin nhắc nhở quí vị 1 lần nữa: * Đọc Dịch: Xin đọc phần Áp dụng vào thời đại trước. * Muốn hiểu Dịch & Các từ ngữ của Dịch: Xin đọc phần Dịch Kinh Giản Lược ngay đầu tập II. * Muốn hiểu quẻ muốn nói gì: Xin đọc kỹ Thoán. Trân trọng kính chào quí vị Huyền Linh Yến Lê cẩn chí » Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu | Dịch Kinh Giản Lược | Quẻ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

DỊCH KINH YẾU CHỈ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU PHẦN 1. DỊCH HỌC NHẬP MÔN Chương 1: Dẫn nhập: Dịch kinh là cuốn sách Triết mục đích tìm hiểu về nguồn gốc vũ trụ và con người, chứ không phải là một sách bói toán Chương 2: Đại chỉ của Kinh Dịch Tiết I. Dịch kinh với Triết học A. Dịch kinh với khoa Siêu hình học a). Quan niệm nhất thể vạn thù b). Quan niệm tuần hoàn chung nhi phục thủy của Dịch Kinh c). Hai áp dụng quan trọng của Dịch lý nói trên B. Dịch Kinh với khoa Luận Lý Học 1). Dịch kinh với Khoa Luận Lý Học Âu Châu 2). Ít nhiều định luật quan trọng của Dịch Tiết II. Dịch kinh với khoa Luân Lý Tiết III. Dịch kinh với Đạo giáo - Dịch dạy phải chuyển hóa nội tâm, tu luyện để trở thành Thánh Hiền. - Dịch cũng dạy làm người, làm quân tử.

Tiết IV. Dịch với những nguyên tắc khả dĩ đem lại một đời sống lý tưởng. PHẦN 2. DỊCH LUẬN THIÊN Chương 1. Chữ Dịch theo Từ nguyên Chương 2. Dịch là biến thiên Chương 3. Dịch là bất biến, bất Dịch Chương 4. Dịch là giản dị Chương 5. Dịch là nghịch số (đi ngược dòng đời để trở về với Trời) Chương 6. Dịch là Tượng PHẦN 3. VÔ CỰC LUẬN Chương 1. Phi Lộ: Vô cực là Bản thể uyên nguyên nơi con người Chương 2. Đại cương: Vô cực tương ứng với Thần, hoặc với Vô hay Không của Đạo Gia, hay Hư Vô của Phật. Chương 3. Tính danh và Hình dung Vô Cực A. Tính danh Vô Cực: Vô Cực là Thượng Đế trong con người, là Thượng Đế còn ẩn tàng hay chưa hiển dương. B. Nhân cách hóa Vô Cực C. Tượng hình Vô Cực D. Phân loại tính danh Vô Cực Chương 4. Những hậu quả của quan niệm Vô Cực: Hiểu Vô Cực là hiểu căn nguyên vũ trụ và con người.

Phụ Lục I Phụ Lục II Các Sách tham khảo PHẦN 4. THÁI CỰC LUẬN Chương 1. Đại cương Chương 2. Tính danh Thái Cực Chương 3. Tượng hình Thái Cực Chương 4. Thái Cực và đồ bản Dịch Kinh Chương 5. Tương quan giữa Thái Cực và Vô Cực, Thái Cực và Vạn Hữu Chương 6. Quan niệm Thái Cực ở Trung Quốc đối chiếu với quan niệm Atman ở Ấn Độ và quan niệm Logos ở Âu Châu. A. Thái cực với Atman B. Thái Cực với Logos Chương 7. Những hậu quả của quan niệm Thái Cực A. Hậu quả Triết lý 1). Quan niệm Thái Cực và quan niệm nguyên thể vũ trụ của các triết gia Hi Lạp 2). Quan niệm Thái Cực với quan niệm của các nhà Huyền Học Âu Châu B. Hậu quả Luân lý C. Hậu quả Đạo giáo Chương 8. Tổng luận Phụ Lục 1

Phụ Lục 2 Các Sách tham khảo PHẦN 5. HÀ ĐỒ Chương 1. Xuất xứ Chương 2. Cấu tạo Chương 3. Đại cương Chương 4. Hà Đồ với Khoa Số học Chương 5. Liên lạc giữa Hà Đồ, Bát quái &Lạc Thư Chương 6. Những vấn đề Siêu Hình tàng ẩn trong Hà Đồ: 1. Trung cung,Trung điểm hay Bản Thể vũ trụ. 2. Chu vi Hà Đồ hay Vạn hữu với nguyên lý diễn dịch, tuần hoàn 3. Quan niệm Thái Cực, Âm Dương hay Nhất thể, Lưỡng diện 4. Hà Đồ với lẽ sinh thành 5. Các hình thái, các tầng lớp con người theo Hà Đồ 6. Quan niệm Thiên Nhân Tương Dữ theo Hà Đồ 7. Tạo Hóa qui trung chi diệu Bạt PHẦN 6. LẠC THƯ Chương 1. Xuất xứ Chương 2. Cấu tạo Chương 3. Đại Cương Chương 4. Ảnh hưởng Lạc Thư đối với các vấn đề Quốc Gia, Xã Hội, Học Thuật Trung Quốc Người xưa dùng Lạc Thư để: *Chia Trời thành 9 cung. *Chia Trung Hoa thành 9 châu.

*Chia kinh đô thành 9 vùng. *Chia Thái miếu thành 9 phòng. *Chia đất cho dân thành 9 khoảnh (Tỉnh Điền) *Chia đầu con người thành 9 cung. *Chia phép trị dân thành 9 trù (chín điều) Chương 5. Lạc Thư & Toán Học Chương 6. Lạc Thư & Chính trị Chương 7. Lạc Thư & Phương pháp khắc kỷ, tu thân, Quy Nguyên Phản Bản của các Đạo gia Chương 8. Ảnh hưởng Lạc Thư trong ít nhiều nước Á Âu Chương 9. Hà Đồ, Lạc Thư & Hai chiều xuôi ngược tiến hóa của vũ trụ & của Nhân Loại Chương 10. Tổng luận Các Sách tham khảo PHẦN 7. ÂM DƯƠNG Chương 1. Lai lịch Chương 2. Âm Dương và Vô Cực, Thái Cực Chương 3. Quan niệm Âm Dương 1) Hai chiều, hai mặt của một bản thể duy nhất 2) Âm Dương 2 thực thể riêng rẽ 3) Âm Dương trên phương diện Tiên Thiên 4) Âm Dương trên phương diện Hậu Thiên Chương 4. Quan niệm Âm Dương với đời sống Chương 5. Âm Dương với Y học Trung Hoa Chương 6. Âm Dương với thuật tu tiên, luyện đơn Chương 7. Âm Dương với Khoa Siêu Hình Học Âu Châu 1) Âm Dương với Nguyên Lý đồng nhất 2) Âm Dương với quan niệm Thần, Hồn 3) Âm Dương với quan niệm Thiện Ác

Chương 8. Âm Dương với Triết Học và Khoa Học Âu Châu PHẦN 8. TỨ TƯỢNG Chương 1. Nhận định tổng quát Chương 2. Huyền nghĩa của Tứ Tượng Chương 3. Tứ Tượng với nền Học thuật & Tư tưởng TrungHoa Chương 4. Tứ Tượng và Học thuật Âu Châu Chương 5. Tứ Tượng với chữ Thập, chữ Vạn Chương 6. Tứ Tượng và Khoa học hiện đại Chương 7. Chu kỳ hoạt động của Tứ Tượng Chương 8. Kết Luận PHẦN 9. NGŨ HÀNH Chương 1. Nhận định tổng quát: Thổ là Trung Cung Thái Cực; 4 Hành bên ngoài là Tứ Tượng. Chương 2. Ngũ Hành tương sinh, tương khắc Chương 3. Ngũ Hành với Vũ trụ Quan Trung Hoa Chương 4. Ngũ Hành với Sử Quan Trung Hoa Chương 5. Âm Dương, Ngũ Hành với Đạo Giáo Trung Hoa Chương 6. Âm Dương, Ngũ Hành với học thuật Trung Hoa Chương 7. Âm Dương, Ngũ Hành với nghệ thuật Trung Hoa


No comments: