Mục III (Chương 6 đến hết chương 10) 6- Chuyện tận thế. 7- Đức Mẹ đồng trinh. 8- Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. 9- Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời. 10- Chúa Giêsu lên trời. Chương 6 - Chuyện Tận Thế Chúa Giêsu và các đại tông đồ như St. Peter, St. Paul và St. John đều tin là tận thế đến nơi [Xem Phero I, I Thessalonicians, và Revelation]. Chúa nói sau khi Ngài tử nạn không bao lâu, Ngài sẽ xuống lại trong vinh quang để phán xét thiên hạ. Lúc ấy sẽ tận thế. Matthew chép:" Vì chưng Con người sẽ đến trong vinh quang của Cha Ngài, với các thiên thần của Ngài, và bấy giờ Ngài sẽ trả cho mỗi người tùy theo hành vi của họ. Quả thật ta bảo các ngươi: trong những kẻ có mặt đây, có người sẽ không nếm biết cái chết trước khi thấy con người đến trong nước của Ngài." [Mt 16:27-28]. Mark còn chép long trọng hơn gấp bội:" Trong những ngày ấy, sau cơn khốn quẫn ấy, mặt trời sẽ tối sầm, mặt trăng sẽ mất sáng, tinh tú từ trời xa xuống, và các quyền năng trên các tầng trời bị lay chuyển, và bấy giờ người ta sẽ thấy Con Người đến trong mây với quyền năng cao cả và vinh quang. Và bấy giờ, Ngài sẽ sai thiên thần họp những kẻ được chọn của Ngài từ bốn phương, từ mút cùng mặt đất, đến mút cùng chân trời...Quả thật, ta bảo các ngươi: thế hệ này sẽ không qua, cho đến khi mọi điều ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời ta nói sẽ không bao giờ qua đi. [Mark 13:24-32]. [28] Ngài còn nói: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, các ngươi sẽ không đi hết các thành của Isarael trước khi con người đến." [Mt 10, 23] Do Thái là một nước nhỏ. Muốn đi bộ qua hết các thành phố Do Thái ngày nay, ta cứ cho già là một năm. Năm Chúa đi giảng là khoảng 32, như vậy tận thế sẽ xảy ra vào khoảng năm 34, nghĩa là một năm sau khi Chúa mất. Hoặc quá lắm là tận thế vào khoảng 90 hay 100 vì lúc ấy John còn sống. Các đại đệ tử Chúa như Peter, Paul, John đều tin rằng tận thế đến nơi. Sách Peter I, 4:7 viết: "Thời cùng tận đã gần rồi cho mọi sự." Thessalonians I cũng cho rằng khi Chúa xuống phán xét, thì những giáo hữu còn sống sót khi ấy, sẽ được đưa lên mây để họp cùng các vị thánh đã sống lại, để đón mừng Chúa quang lâm. [1Th 4:13-18] và xin giáo dân giữ thần, hồn, xác cho vẹn toàn, chờ đợi ngày Chúa tới. [1Th 5:23] Sách Khải Huyền của St. John mô tả tận thế như là sự rung chuyển, sự phá tan vũ trụ bằng những lời lẽ hết sửc là văn vẻ: " Khi Ngài mở ấn thứ sáu, thì xảy có động đất lớn, và mặt trời hóa đen sẫm như vải dệt bằng tóc huyền, và mặt trăng hoàn toàn ra như máu. Tinh tú trên trời xa xuống như cây vả trút hết quả non, bị cuồng phong quày cho lăn lóc. Và trời biến mất đi như quyển sách bị cuộn lại và núi non cùng hải đảo thảy đều bị đánh bật khỏi chỗ. Và vua chúa trên đất cùng vương hầu, khanh tướng giàu sang hay quyền thế, và nô lệ hay tự do hết thảy đều chui rúc, ẩn mình nơi hang hốc và ghềnh đá, núi non, và họ nói với núi non đá tảng: Hãy sập đè trên chúng tôi và che khuất chúng tôi cho khỏi nhan thánh Đấng ngự trên ngai, cho khỏi cơn thịnh nộ của Chiên Con." [Re 6:12-17] Tôi chuyển dịch thành thơ như sau: Mặt trời đen vải tóc huyền, Trăng màu ửng máu từ viền vào trong. Sao trời rơi rụng lung tung, Như sung, như vả giữa chừng phong ba, Sơn nham, hải đảo gần xa, Xê đi, dịch lại la đà, chông chênh, Vòm trời như giấy, như tranh, Cuốn đi mất hút, lung linh, bẽ bàng. Công hầu, khanh tướng trần gian, Sang hèn, tìm hốc, tìm hang rúc càn. Âm thầm, van vái núi non, Sập đi cho khỏi thấy nhan thánh Ngài... Cuối sách Khải Huyền có ghi lời Chúa phán: "Này sự tái lâm của ta đã sắp tới nơi!" [Re 22:12] St. John cũng kết thúc sách Khải Huyền bằng mấy lời sau:"Sự tái lâm ta đã gần kề" Amen! Xin Chúa hãy đến. Lạy Chúa Giêsu! [Re 23:20] Nhưng khổ nỗi, mặc cho những lời tiên tri trang trọng nói trên, mặc cho sự nóng lòng trông chờ của quần chúng, thời gian cứ lặng lẽ trôi qua và tận thế vẫn chẳng chịu đến. Giáo dân đâm ra bất bình. Các người bảo vệ giáo lý đổi giọng. Cho nên lại có sách Peter 2, và Thessalonians 2. Sách Peter 2 cho rằng: "Ai cho rằng tận thế đến nơi là ngu muội, vì một nghìn năm trước mắt Thiên Chúa chẳng qua là một ngày. [2Peter 3:8]. Sách Thessalonians 2 đưa thêm điều kiện: Quỉ vương phải ra đời trước rồi mới tận thế. [2Th 2:3-13]. St. Matthew đưa ra thêm điều kiện Tin lành phải được giảng rao khắp thiên hạ rồi mới tận thế. [Mt . 24, 14] Mà chữ thiên hạ nói ở đây rất là mơ hồ. Thời các tông đồ thì thiên hạ là vùng Địa Trung Hải. Còn ngày nay ta mới biết thêm châu Á, châu Úc, châu Mỹ. Hơn nữa những điều kiện thêm vào đó, Chúa Giêsu lại hoàn toàn không biết. Nhờ vậy ngày nay người ta mới khám phá ra rằng sách Peter 2 và Thessalonians 2 là ngụy tạo. Vì các Ngài không thể vừa nói là tận thế sắp đến [Peter 1, Thessalonians 1] rồi lại nói là còn lâu mới tận thế [Peter 2, Thessalonians 2] [29] Như vậy, Chúa Giêsu chẳng những đã nói sai, mà còn dạy tông đồ nói sai theo. Tôi nói là Chúa nói sai, vì lịch sử đã chứng minh. Như vậy Ngài không phải là Chúa phép tắc vô cùng như ta tưởng. Ngài chỉ là một con người đã giác ngộ như trăm ngàn hiền thánh xưa nay mà thôi. Đọc các chuyện Ngài rủa cây vả [Mr 11:20-21, Mt 21:18-22], hay cho ma quỉ nhập vào đàn lợn mấy nghìn con rồi cho chúng nhảy xuống biển chết hết [Lu 8:26- 38], tôi thấy thật vô lý. Lợn kia có tội gì, chủ lợn kia có tội gì, mà lại phải dơ đầu chịu báng như vậy. Cây vả chưa đến mùa ra quả, sao Ngài lại bắt nó phải ra quả được? Tận thế là một vấn đề ám ảnh đạo Công giáo và các hệ phái trong 2000 năm nay. Thế kỷ 1, có phong trào Montanus. Thế kỷ 3, có phong trào Novattan. Thế kỷ 4 có Donatus. Thế kỷ 10, là thế kỷ tưởng sẽ tận thế, người ta gọi là Năm Kinh Hoàng 1000. Ngày nay Công giáo khôn ngoan hơn không còn dám nói năm 2000 là tận thế nữa. Nhưng có hai giáo phái còn hăng say, tin tưởng là sắp tận thế. Đó là Cơ Đốc Phục Lâm [Adventist], và Chứng Nhân Jehovah [Jehovah's Witness]. Chứng Nhân Jehovah gần đây đã tậu một căn nhà ở San Diego, mà họ gọi là Beth-Sarim [Nhà các Hoàng Tử] để đón các tiên thánh như Abel, Abraham, Noah, Samuel, David, Daniel tái lâm, nhưng sau mãi không thấy đại chiến Armageddon xảy tới, nên họ đành bán căn nhà đó. Báo Awake và Watchtower của họ thường lải nhải vế vấn đề này. Họ cho rằng sắp tận thế, vì ngày nay nhân loại ham tiền bạc [2Ti 3:2], kiêu ngạo [2Ti 3:2], không vâng lời cha mẹ [2Ti 3:2], hung bạo [2Ti 3:2], ưa thú vui hơn Thượng đế [2Ti 3:4], đạo đức giả tạo [2Ti 3:5], các nước chống đối lẫn nhau [Mt 24:7], động đất khắp nơi [Mt 24:7], có nhiều hiện tượng đáng kinh sợ [Lu 21:11], đói khát [Mt 24:7], ôn dịch [Lu 21:11], con người bất chấp luật pháp [Mt 24:12] v.v...[30] Cơ Đốc Phục Lâm , ngày 08/07/1995 vừa qua đã ra nghị quyết cấm giáo dân không được nói là bao giờ sẽ tận thế như trước nữa. Trước kia, họ tưởng là năm 1843, rồi sau lại tưởng là 1844, gần đây tưởng là năm 2000 sẽ tận thế. Hội nghị mười ngày vừa qua [29/06-08/07] ở Ultrecht, Hòa Lan, đã quyết định lại như trên, vì Chúa đã nói không ai biết là ngày nào sẽ tận thế.[31]. Báo Los Angeles Times ra ngày thứ Bảy 04/11/1995 cho thấy giáo phái Jehovah Witness đã tuyên bố sửa sai, không còn tin rằng thế hệ 1914 là thế hệ sẽ thấy ngày tận thế. Trước kia họ còn tin là trận chiến Armageddon sẽ xảy ra vào năm 1925, hay 1975. Trước kia họ thường đi giảng là trời sắp sập. [32] Thế là cả Adventists và Jehovah's Witness từ nay không còn dám tiên tri, tiên đoán gì về tận thế nữa. Thật là ngu si, và cuồng tín vô cùng. Ai hỏi tôi về vấn đề này, tôi mạnh dạn trả lời: Xin đừng lo, ta còn 5, 6 tỉ năm rồi họa ra mới tận thế được. Tại sao vậy? Vì nhân loại còn đang quá trẻ, vì còn rất ít người biết được giá trị siêu việt của con người, vì còn rất ít người biết sống huyền đồng cùng trời đất và Thượng đế. Hơn nữa, nếu phá trái đất này đi, Thượng đế sẽ làm gì hơn được? Hơn nữa, các kịch, truyện của nhân loại, đều có một kết luận tốt đẹp, đoàn tụ, hòa hài. Chẳng lẽ Chúa lại kém nhân loại về điểm này? Cách đây mấy ngày, tôi gặp cháu Nguyễn quyết Trung tám tuối, con ông Nguyễn duy Chính. ông Chính kể một hôm đi xe với cháu, thấy cháu có vẻ buồn. Hỏi tại sao? Cháu trả lời buồn vì còn 5958 tỉ năm nữa mặt trời sẽ hết sáng, như vậy cháu sẽ không còn đèn để đọc sách. Như vậy là cháu nhỏ đã có cái nhìn xa hơn chúng ta nhiều. Tôi suy nghĩ về danh từ như LM, Mục Sư, tôi thấy quá hay. LM là kẻ chăn linh hồn, Mục Sư là kẻ chăn chiên. Đôi bên đều coi giáo dân là bầy cừu ngoan ngoãn, bảo sao nghe vậy. Mà giáo dân cũng thích xưng mình là con chiên. Tôi thì trái lại tôi là con người, chứ không thể nào là con chiên mặc cho người chăn giắt. Tân Ước ngụy tạo, nhảm nhí, quàng xiên, điên rồ Trở lại Kinh Thánh mới, ta thấy Thánh Thư cho người Do Thái [Epistle to the Hebrews] cũng là ngụy tạo. Sách Khải Huyền theo tôi thật là một sách nhảm nhí. Nói toàn những chuyện ma quái, thần kỳ. Thượng đế là Thượng đế, chứ đâu phải là ác ma, ác quái. Sách này theo chân hai sách Ezechiel và Daniel, đi vào ma quái huyền hoặc. Tổng Thống Thomas Jefferson gọi sách Khải Huyền là "những lời nói quàng xiên của một kẻ điên rồ." [33] Trong bài đã trích dẫn, Stevens Morris còn cho biết bốn Tổng Thống tiên khởi Mỹ là George Washington, John Adams, Thomas Jefferson và James Madison đều là những Deists tức là những người tin rằng Thượng đế không can thiệp vào chuyện gian trần, và không tin Chúa Giêsu là Thượng đế. [34]. Benjamin Franklin cũng nghĩ như vậy. Tôi tuyệt đối không tin là St. John viết Khải Huyền, vì St. John không có giọng văn kỳ lạ này. Tổng Thống James Madison phê bình Công giáo rầt là gắt gao: "Trong vòng 15 thế kỷ vừa qua, đạo Công giáo đã được thử thách. Kết quả ra sao? Đại khái là Giáo sĩ thì kiêu căng và lười biếng, giáo hữu thì ngu dốt và hèn hạ, đôi bên đều mê tín, chấp nhất và hiếu sát." [35] Kinh Thánh tin đời sống có chu kỳ, và chu kỳ này sắp tận. [Mr 1:15] Tôi rất thương những người đã trót dại sống lại trước ngày tận thế, như đã ghi trong sách Matthew [Mt 27: 52], không biết Chúa sẽ xử trí với những hồn này ra sao. Theo đúng lý, Chúa phải cho xác họ sống lại, và cho lên trời trước mọi người khác. Và nếu Ngài làm vậy thì còn gì là công bằng? Chương 7 - Đức Mẹ đồng trinh. Trên đây, tôi đã chửng minh lời tiên tri Isaiah mà St. Matthew dựa vào [Isa 7:14] là một chuyện hoàn toàn ngụy tạo. Tôi không tin là Đức Mẹ đồng trinh, vì rõ ràng là Ngài đã bụng mang dạ chửa. Đửc Mẹ cũng không đồng trinh trọn đời vì chính St. Matthew đã viết: "Ông Joseph không đi lại với Đức Mẹ cho đến khi con trưởng ông sinh ra." [Mt 1:25]. Non cognoscebat eam donec perperit filium primogenitum suum. Sao lại gọi Chúa là con trưởng của ông Joseph? Các bản dịch bắt đầu dịch lung tung. Bible de Jerusalem dịch:" Sans qu'il eut connue, elle enfanta un fils..." và bình rằng câu nay không có nói về chuyện Đức Mẹ trọn đời đồng trinh, nhưng Giáo hội đã tin như vậy. LM Nguyển thế Thuấn dịch: Giữa ông và bà không có việc tri giao vợ chồng cả đến lúc bà sinh con. Donec nghĩa là cho đến khi, chứ không phải cả đến lúc. St. Matthew viết vậy, nghĩa là sau khi Chúa đã sinh ra, thì ông Joseph đã đi lại vợ chồng cùng Đức Mẹ. Khi Chúa về thăm Nazareth, thì xóm giềng Ngài nói: ông ấy không phải con bác thợ mộc hay sao? Mẹ ông không phải có tên là Maria, và anh em là Yacobe, Yuse, và Simon, và chị em ông há không ở giữa ta cả hay sao? [35b] Khi mà xóm giềng gọi người nọ người kia là anh em của Chúa thì họ không thể nào nói đó là "anh em họ". Tin lành nay cũng cho rằng Đức Mẹ có nhiều con với ông Joseph. Đó là một thái độ thẳng thắn, chứ có gì xấu đâu? Như vậy, tôi không tin Đức Mẹ đồng trinh, nhất là đồng trinh trọn đời. Nhiều người cho rằng chuyện Đức Mẹ đồng trinh đã được tạo nên vào khoảng năm 70. [36] Kinh Thánh chép rõ: -Ta là chồi lộc, là tông tộc David, là sao mai sáng láng.[Re 22:16] -Đấng đã xuất tự dòng giống David, theo xác phàm [Ro 1:3]. 34 -Quả đã hiển nhiên là Chúa chúng ta đã xuất từ Yuda, một dòng họ mà Moses khi bàn về tư tế đã không nói tới. [Heb 7:14] Nói vậy, thì rõ ràng ông Joseph là thân sinh ra Chúa Giêsu. Một hôm tôi nói chuyện với một LM Công giáo về chuyện Đức Mẹ trọn đời đồng trinh, ông trả lời: Có ai trông thấy gì không mà dám nói? Câu trên suy ra thì hơi tục, nhưng rất chí lý. Ý nói chúng ta toàn nghe hơi nồi chõ, chứ nào có biết gì về Đức Mẹ? Giáo hội Anh quốc cho rằng tôn sùng Đức Mẹ đồng trinh, tôn thờ các thánh, tin vào lễ Misa là những điều dị đoan. Mọi công dân Anh khi nhận một chức vụ gì trong chính quyền đều phải tuyên thệ chống lại những điều trên.[37] Như đã nói, St. Matthew chứng minh Đửc Mẹ đồng trinh bằng lời tiên tri của Isaiah [Isa 7:14]. Ngày nay, người ta đã tìm thấy ở Qumran một bản Isaiah, và thấy trong bản văn đó dùng chữ alma, là người nữ, chứ không dùng chữ parthenos, là người nữ đồng trinh. Như vậy, đã chứng minh được rằng St. Matthew đã hiểu sai bản văn trên. Chương 8 - Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Trái với các giáo phái Tin Lành, Đức Mẹ giữ một nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong Giáo hội Công giáo. Tin Lành gọi bệnh Công giáo sùng bái Đức Mẹ như vậy là Mariolatry, bệnh sùng bái Maria. Quyển Sách Bổn Công giáo hiện nay đã dành 4 trang nói về Đức Mẹ [Catechism of Catholicism, pp. 251-254]. Công giáo tuyên xưng Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội [Pius IX, Ineffabilis Deus 1854], không biết là đã dựa vào tài liệu nào. Phúc âm nói về Đức Mẹ rất ít. Phúc âm không mô tả bà đã thân thiện với ai. Khi Chúa chết rồi, bà chỉ đóng vai một giáo hữu tầm thường, không hề thấy sách Thánh Kinh nào đã ca tụng bà, và bà cũng không có một chút quyền gì trong Giáo hội sơ khai. Cũng không sách nào nói cách Chúa đã dùng gì để tẫy sạch tội tổ tông cho bà. Khi Chúa còn sinh tiền, Ngài đối với mẹ Ngài hết sức lạnh nhạt, đã không gọi bà bằng mẹ mà rằng: Hỡi đàn bà kia, này là con Bà. [Joh 19:28]. LM Turmel cho biết thánh Bernard chống lại chuyện Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội.[38] Như vậy ta dễ dàng kết luận là các nhà lãnh đạo Công giáo muốn nói gì thì nói. Theo Công giáo, thì Đức Mẹ phải là người hoàn thiện, tuyệt đối, xưa nay không ai bằng, thế mà uổng thay, các thánh sử không biết khai thác đề tài này. Bà Maria được xưng là Mẹ Thiên Chúa [Theotokos] [Công đồng Ephesus 431]. Điều này thực quá đáng, vì sách Matthew đã chép rõ, Chúa sinh ra là do quyền phép Chúa Thánh Thần. Như vậy Chúa Thánh Thần mới là bố chúa Giêsu, nhưng vì Ngài cũng là Ba Ngôi Thiên Chúa, nên cũng lại là con Đức Mẹ. Thật là khó hiểu, chỉ có Chúa thông minh vô cùng mới hiểu rõ vấn đề phức tạp này, còn nhân loại thì chỉ biết cúi đầu nghe Giáo hội dạy dỗ... Bà Maria còn được xưng là Nữ Vương Thiên Đàng, là một chức mà Chúa Yahve ghét nhất và cho đó là tà đạo. [Jer 44:1-30] Ở Việt Nam, Công giáo đã dâng cả nước Việt Nam cho bà Maria, đã tôn sùng bà ở Lavang, đã hát: Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt Nam, Trời u ám, chiến tranh điêu tàn. Mẹ hãy dơ tay ban phước bình an, Cho Việt Nam tới chốn vinh quang. Nhưng sự tôn sùng và tin tưởng tuyệt đối ấy đã không có hồi âm và rốt cuộc Việt Nam cũng đã rơi vào tay Cộng Sản. Tôi theo dõi các cuộc hành hương Lavang, tôi đã thấy có người bị chết trong khi đi hành hương, vì mưa gió dãi dầu, ăn uống thất thường v.v... Mới đây, ở quận Cam cũng vừa có năm người chết vì đi hành hương ở Carthage. Những cái chết đó khó mà giải thích thỏa đáng. LM Turmel cho biết là Thánh Bernard chống lại không cho rằng Đức Mẹ là Vô nhiễm nguyên tội. [39] Giám mục John Shelby Spong nhận định như sau: Khi tín lý Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội được tuyên bố năm 1854 bởi Pius IX, thì bà Mary được tuyên bố đã được giữ gìn vô nhiễm bởi ân sủng đặc biệt của Chúa tối cao đã ban. Và đến năm 1950, tức là 100 năm sau khi Pius XII tuyên bố Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời, thì nữ tính người đàn bà trong Giáo hội Công giáo hoàn toàn bị xóa bỏ.[40] Vì tôi không tin con người có tội tổ tông, nên tôi không tin là Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Chương 9 - Đức Mẹ linh hồn và xác lên Trời. Không ai biết Đức Mẹ chết hồi bao nhiêu tuổi, nhưng ngày 1/11/1959, Giáo Hoàng Pius XII [1939-1958] đã tuyên bố tín điều trên. Cho đến nay, không ai biết gì về ngày chết của Đức Mẹ. Á Đông không tin rằng con người có thể lên trời cả hồn lẫn xác, và khi thấy Giáo Hoàng tuyên bố như trên, thì cho rằng Ngài đã nói thuộc lòng. Trong quyển La Vergine Maria [The Virgin Lady], René Laurentin, một nhà thần học người Pháp, một người chuyên khảo về Đức Mẹ nổi tiếng nhất ngày nay, nhận định rằng trong hai thế kỷ đầu tiên, người Công giáo không hề tôn sùng Đức Mẹ, và Giáo hội cũng chưa ai đả động gì đến bài. Danh xưng Theotokos mãi thế kỷ IV mới tặng cho bà.[41] Nhà thần học Laurentin viết: Kinh Thánh chỉ nói bà đồng trinh khi sinh Chúa. Còn Kinh Thánh không chép là Ngài đồng trinh sau đó. Kinh Thánh chép là Ngài có nhiều con với ông Joseph.[Lu 1:2, Mt 13:53-56]. [42] Về vấn đề vô nhiễm nguyên tội, nhiều giáo phụ không tin. LM dòng tên John Mckenzie cho rằng không có chứng cứ Kinh Thánh.[43] Vấn đề Thăng Thiên, Laurentin cũng cho rằng không có bằng chứng Thánh Kinh.[44] Ngày nay, Đức mẹ được tặng dữ nhiều huy hiệu như Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương trên trời, Nữ Vương các Thánh tử đạo, Nữ Vương trần thế, Nữ Vương tha thứ, Nữ Vương Thiên Thần, Nữ Vương thế giới, Vô Nhiễm nữ hoàng, Đức Mẹ vô nhiễm, Công Chúa thượng đẳng, Đức Mẹ đồng trinh v.v... [45] Năm 1987 [06/06/1987 – 13/08/1988] được coi là năm dâng cả thế giới cho Đức Mẹ, và Giáo Hoàng John Paul II tỏ ra rất tôn sùng Đức Mẹ. Ngài đặt hết niềm tin vào Đức Mẹ và xưng mình là Con hoàn toàn thuộc về Mẹ. [Totus Tuus].[46] Có người cho rằng Đức Mẹ nay trở thành ngôi thứ 4 Thiên Chúa. [47] Nay người ta đọc kinh Kính Mừng 50 lần nhiều hơn kinh Lạy Cha. Chứng tỏ người ta yêu Đức Mẹ trước khi yêu Chúa Giêsu, theo lời Mẹ Teresa ở Calcutta.[48] Xưa nay, Giáo hội coi Chúa và Chúa Giêsu, chỉ ưa oán phạt, còn Đức Mẹ mới là đấng nhân từ, nên thường xin Đức Mẹ đứng ra cầu bầu, che chở cho mình. [49] Chương 10 - Đức Chúa Giêsu lên trời. Hãy nghiên cứu bốn sách phúc âm để xem Chúa lên trời ở đâu và bao giờ. 1- Sách Matthew cho rằng Chúa sống lại và hiện ra với Maria Madeleine và bà Maria khác, dạy về báo cho các tông đồ và dặn đi lên Gailée gặp Ngài [Mt 28:9-10]. Sau đó hiện ra cùng 11 tông đồ ở một núi nào đã hẹn trước ở Gailée, khuyên nhủ ít câu. Chứ St. Matthew không biết truyện Chúa lên trời. 2- Marc thì mô tả: Bà Maria Magdala, bà Maria mẹ Jacques và Salomé đem thuốc thơm đến để sức cho Chúa, và Chúa hiện ra với bà Maria Magdala, với hai môn đệ làng Emmaus, và với 11 tông đồ khi họ đang ăn. Chúa khuyên các tông đồ một hồi rồi sau đó lên trời ngay. [Mark 16, 9-19]. Tuy nhiên các nhà bình giải Kinh Thánh cho rằng các câu trên không có trong sách Marc và đã được thêm vào sau này. Trong Codex Vaticanus và trong Siniaticus không có đoạn này. 3- Lúc thì mô tả là khi các bà Maria Magdala, Jeanne và Maria đến mồ thì thấy mồ trống và đã gặp hai thiên thần. Các bà đem truyện này về nói với các tông đồ nhưng không ai tin.[Luke, 24, 1-11]. Tuy nhiên Peter có chạy lên thăm mồ và chỉ thấy mồ trống và khăn liệm. [Luke 24, 12] Cũng ngày Chủ Nhật đó có hai đệ tử đi từ làng Emmaus về đã gặp Chúa hiện ra một hồi, rồi biến đi, hai môn đệ này vội vàng về Jerusalem báo tin cho các tông đồ. Theo Luc, làng Emmaus cách Jerusalem sáu mươi dặm. Bible de Jerusalem chú là hoặc 160 dặm. Nay, người ta cũng không tìm ra được vị trí làng này. Bible de Jerusalem đoán nó ớ phía tây bắc Jerusalem. Không hiểu hai vị đó đã dùng pháp thuật nào để về Jerusalem mau như vậy? Vì lúc gặp Chúa, trời đã gần tối [Luc, 24,13-35, Luke, 24, 29]. Ngay sau đó, Chúa hiện ra cùng các tông đồ, cho các ngài sờ chân tay, và ăn cá nướng với họ. Sau đó Ngài dẫn môn đệ đến Bethanie và lên trời ở đó. Tức là Chúa lên trời một hay hai ngày sau khi sống lại. 4- John tả là bà Magdala đã đi thăm mộ khi trời còn mờ tối. Bà thấy mồ trống và về cho Peter và John hay. Sau đó, Peter và John đều đi thăm mộ. Nhưng John chạy nhanh hơn, nên vào thăm mộ trước. Khi nhòm vào mộ, John thấy những giây liệm xác vứt dưới đất. Sau đó Peter vào mộ và thấy những giây liệm xác và khăn liệm mặt Chúa ở dưới đất. Nhưng các ngài chưa hiểu là Chúa đã sống lại. Có người hỏi vớ vẩn là khi Chúa sống lại Ngài lấy quần áo đâu mà mặc? Bà Maria Magdala ở lại khóc lóc. Bà nhìn vào trong mồ thấy hai thiên thần ngồi nơi đầu và chân chỗ Chúa liệm xác. Sau đó Chúa hiện ra cùng bà, nhưng mới đầu bà lầm tưởng Ngài là một người làm vườn. Khi nhận ra Chúa rồi, bà định ôm Ngài, nhưng Ngài can, và sai bà về báo cho các tông đồ biết là Ngài sẽ lên cùng Thiên Chúa. Ngay chiều Chủ Nhật hôm đó, Chúa hiện ra cùng các tông đồ. Thổi hơi, truyền thần cho họ và ban cho quyền tha tội cho mọi người. Và cho xem chân tay người, nhất là cho Thomas xem chân tay người và cạnh sườn Người. [John, 20, 1-25]. Sau đó một tuần, Ngài lại hiện ra cùng các tông đồ ở nhà ông Thomas [John, 20, 26-29] Sau đó là chương 21. Bible de Jerusalem cho rằng chương này là của một đồ đệ John viết, chứ không phải là của John. Chương 21 mô tả Chúa hiện ra bên bờ hồ Tiberiade với Peter, Thomas, Nathanael, hai con bà Zebedee và hai môn đệ khác. Các ngài thả lưới, nhưng không bắt được gì. Sau đó Chúa hiện ra trên bờ hồ, và khuyên nên thả lưới phía hữu thuyền. Lúc ấy các tông đồ mới nhận ra Chúa và mới táp thuyền vào, kéo lưới lên được 153 con cá. Lên bờ, thấy Chúa đã đốt sẵn lửa, và đã có sẵn cá và bánh. Chúa truyền đem thêm cá lên. Chúa cũng ăn như mọi người, chứng tỏ mình là xác thịt thật chứ không phải thần thánh hay ma quái. Và trong bữa đó, Chúa mới cho Peter làm đầu Giáo hội v.v... [John, 21, 1-25] Tóm lại, trong bốn thánh sử, thì Matthew và Jean không nói tới chuyện Chúa lên trời. Marc cho rằng Chúa hiện ra cùng hai môn đệ Emmaus, và 11 tông đồ trong bữa ăn, ngay sau đó, và Ngài lên trời ngay trong bữa ăn đó. Tức là lên trời tối Chủ Nhật, hay là ngày thứ Hai, sau khi Chúa sống lại. Luke cho rằng Ngài lên trời tại Bethania, sau khi hiện ra cùng các môn đệ, nghĩa là cũng 1 hay 2 ngày sau khi Ngài sống lại. Trong Công Vụ Sứ Đồ, Luke kể tiếp Là Chúa sống lại và ở thế gian 40 ngày [Acts of Apostles 1-4], truyền các tông đồ không được rời Jerusalem, đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống [Acts, 1, 4-5] và sau đó lên trời [Luke, 1, 9-11], ở núi Olivete [Acts, 1, 12]. Núi Olivete ở phía Đông Jerusalem, và nằm giữa đường Jerusalem với Bethanie. Như vậy, theo Luke thì Chúa lên trời một hay hai ngày sau khi sống lại. Nhưng trong Acts lại quả quyết là Chúa ở thế gian 40 ngày. Như vậy là nói thế nào cũng là đúng cả. Trong Matthew, Chúa dạy các Tông đồ phải đi Gailée gặp Ngài, Mark lại không biết gì về chuyện đi Gailée. Luke cũng không biết gì về chuyện đi Gailée, chỉ nói là Chúa đã hiện ra ở vùng Jerusalem, và lên trời ở Bethania. John lại cho Chúa lên Gailée gặp các tông đồ. Trong Acts, Luke viết: Trong một bữa ăn, Chúa dạy các môn đệ phải ở lại Jerusalem chờ ngày Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Vậy lệnh nào là đúng: lên Gailée hay ở lại Jerusalem? Thật là điên cái đầu! Tôi nghĩ Chúa Giêsu không rắc rối như vậy. Xét lại, ta thấy các tông đồ mạnh ai nói nấy, muốn nói gì thì nói. Thảo nào ngày nay, nhiều người không còn tin vào những chuyện trên nữa. Nguyên tắc của tôi là cái gì quái dị là tôi không tin, cho nên những chuyện Matthew hay Luke kể là tôi đã gạt bỏ ngay. Những chuyện thai sinh kỳ bí, sống lại lên trời v. v... tôi đều loại trừ ngay. Năm 1969, khi viết quyển Khổng Học Tinh Hoa, tôi đã viết như sau, nơi tr. 85: Thế nhân thường cho rằng đã là thánh nhân, đã là giáo chủ, thì phải là thánh nhân ngay từ trong lòng mẹ, phải có những cách thai sinh kỳ bí, thoát khỏi hết các định luật và trật tự chi phối vũ trụ, nhân quần, lại thông minh tuyệt đối, sinh nhi tri chi, không cần học hỏi, suy tư gì mà đã biết mọi sự trên trời dưởi đất, quá khứ vị lai, ngay từ tấm bé. Nói thế chẳng khác nào nói rằng có những cây vừa mới mọc đã cao vút từng mây, đã sinh hoa kết quả sum sê, hay có những người vừa mới sinh ra đã trưởng thành ngay, không cần cúc dục, cù lao, không cần thời gian, tuổi tác. Thiết tưởng muốn tìm hiểu thành hiền, ta không nên bắt chước đường lối phàm tục đó, mà phải tìm cho ra những tiêu chuẩn chính xác để hướng dẫn sự suy khảo của chúng ta. Tuân tử nói :" Quân tử thời nói điều chân thường, hợp lý, tiểu nhân nói điều kỳ quái. [Trần Trọng Kim - Nho giáo, Vinh Nhục VI, tr. 308]. Sách Minh Triết Công giáo viết: Ta đây cũng phận hèn như chúng, Cũng tổ tông xác đất, vật hèn. Cũng từ bụng mẹ thai nên, Tinh cha huyết mẹ, đôi bên tạo thành. Cũng 10 tháng mới sinh, mới nở, Khi lọt lòng, cũng thở khí phàm. Như ai cũng kiếp trần gian, Mới sinh cũng khóc mà toan chào đời. Cũng tã lót cũng thời cúc dục, Cũng cù lao, cực nhọc như ai, Xưa nay, vua cũng như tôi, Tử sinh một phép, khác bài nào đâu. [Livre de la Sagesse, VII, 1-6] Cát Hồng khi viết về Lão tử đã nhận định như sau: Các học giả có óc chất hẹp hòi, đã coi Lão tử như là một người trời siêu xuất quần sinh, và khuyên các thế hệ tương lai bắt chước Ngài. Nhưng làm thế là ngăn cản không cho mọi người tin được rằng mình cũng có thể nhờ học hỏi mà tìm ra được bí quyết trường sinh bất tử. Thực vậy, nếu Lão tử chỉ là một hiền nhân đã đắc đạo thì mọi người phải hết sức noi gương, bắt chước Ngài, nhưng nếu ta nói rằng đó là một nhân vật đặc biệt, có thiên tính thì ta không thể nào bắt chước Ngài được. [50] Mạnh tử nói: Phàm những vật đồng loại, thì bản tính giống nhau. Tại sao riêng về nhân loại, người ta lại nghĩ rằng bản tính chẳng tương tự? Những vị thánh nhân và chúng ta đều là một loại... [51] Ngày nay các học giả đang soi kính hiển vi vào Kinh Thánh mới hay Tân Ước để tìm xem cái gì là thật, cái gì là giả, cái gì là thêm thắt vào đời sống Chúa Giêsu. Đã có nhiều sách viết lại đời Chúa. Ví dụ, ta đã thấy các quyển ghi dưới đây :[52] -Born from a Woman của John Shelby Spong. - Honest to God của John A.T. Robinson. v.v... Nhất là 77 học giả trong các cuộc Hội Thảo về Chúa Giêsu [Giêsu Seminar] một năm hai lần, trong vòng 10 năm nay. Các học giả trên vẫn coi mình là Công giáo có đầu óc phóng khoáng hay là những tín hữu Tin Lành.[53] Các học giả trên cho rằng chuyện Chúa sống lại không phải là chuyện thực. Họ chủ trương Chúa chết trên thánh giá rồi thì xác Ngài 39 hư nát theo. Họ cũng chủ trương không có mồ Chúa và xác Ngài bị nhà cầm quyền vứt đi, chứ không phải là giáo dân được cất giữ. [54] Có điều lạ là Chúa Yahve cũng đã chúc dữ cho những ai bị đóng đinh. De. 21: 22-23 viết: "Ngươi phải chôn nó ngay ngày hôm ấy, vì Chúa chúc dữ cho những kẻ bị đóng đinh." Trong một cuộc hội thảo 5 ngày, kết thúc ngày thứ Bảy 04/03/1995 ở Santa Rosa, California, họ cho rằng chưa đủ bằng chứng để kết luận Chúa đã sống lại. "Những gì mà giáo dân cảm nghiệm sau khi Chúa bị đóng đinh, chỉ là những cảm nghĩ trong tâm tư, chứ không phải là thực" [55] Stephen J. Paterson, Phó Giáo sư dạy Thánh Kinh ở Eden Theological Seminary phụ thuộc trường United Church of ChrIsat ở St. LouIsa cho rằng: " Chuyện Chúa Cha cho Chúa Giêsu sống lại là một niềm tin, chứ không phải là một sự kiện lịch sử." [56] Trước đây, nhiều học giả, trong đó có những giáo sư hết sức lỗi lạc về Kinh Thánh mới như John Dominic Crossan ở Đại học DePaul và Marcus Borg ở Oregon University đều kết luận rằng chuyện Đức mẹ Đồng trinh không có giá trị lịch sử, và những lời cho là Chúa nói trong Thành Kinh chỉ đúng khoảng 18%. [57] Các học giả nầy biện minh rằng họ làm vậy cốt để phân biệt đâu là thực đâu là giả và truyền lại cho thính giả những điều họ đã tìm ra. Còn những nhà bình giải Kinh Thánh theo truyền thống cho rằng họ làm thế là phá đạo. [58] Các học giả thuộc Giêsu Seminar, một hiệp hội gồm 75 học giả, thành lập từ 1985 tới nay, chỉ có một mục đích là đi tìm cho ra bộ mặt thực của Chúa Giêsu, vứt bỏ đi những lớp phấn son ngụy tạo mà các thánh sử và giáo dân đã tô điểm sau này, xem Ngài đã thực sự làm gì, nói gì. Những người theo truyền thống không chịu như vậy và đã bắt đầu phản pháo, như nay các ông Gregory Boyd, đại học Bethel, ở St Paul Minnasota, hay Michael Wilkins và J.P. Moreland đại học Biola University ở La Mirada đang làm. Báo Los Angeles Times cho rằng đó là một cuộc thánh chiến giữa hai phe bảo thủ và xét lại. [59] Briggs một giáo sư dạy về Công giáo ở Đại Học Lehigh, Bethlehem cho rằng Vatican và Giáo Hoàng đã dồn Công giáo vào thế, một là chấp nhận toàn bộ giáo lý, hai là bỏ hết. [60] Briggs cho rằng Công giáo lo ngăn chặn chứ không chịu giải quyết vấn đề. Như vậy bầu không khí không được lành mạnh. [61] A. N. Wilson trong quyển Jesus, A life [W. W. Norton] của ông, đã cho rằng 2000 năm qua là những chuyện bày đặt về đạo giáo. Những chuyện nói về Chúa Giêsu thường là sai. [62] Sách Jesus, A life có những điểm đặc biệt sau: 1- Chúa Giêsu, không lập ra phép Thánh thể như ta thấy ngày nay. Và Ngài không định lập đạo. 2- Paul mới chính là người lập ra đạo Công giáo. 3- Chuyện Chúa Giêsu sống lại là hoàn toàn do Thánh Paul bịa đặt ra . 4- Chúa Giêsu đã lấy vợ. Và phép lạ ở Cana chính là chuyện đám cưới Ngài. 5- Chuyện Đức Mẹ đồng trinh là chuyện mà Giáo hội sơ khai không biết. 6- Chúa Giêsu không biết gì về chuyện vô nhiễm nguyên tội. 7- Người mà Maria Magdala gặp khi đi thăm mộ chính là James, em Chúa Giêsu. 8- Người cùng với Judas đi bắt Chúa chính là Thánh Paul. 9- Người xử án Chúa là người La Mã chứ không phải là người Do Thái. 10- Chuyện Chúa cầu xin trong vườn Giệt Si Ma Ni là chuyện bịa, vì lúc ấy các môn đệ đều ngủ say, thì ai thức mà ghi? 11- Wilson cũng không tin Chúa lên trời v.v... [63] Wilson công nhận rằng ý muốn gạt bỏ Công giáo là một chuyện chậm chạp và đau đớn và khi làm như vậy, Wilson cảm thấy mình không thành khẩn với chính mình khi vẫn coi mình như người Công giáo, vẫn đi nhà thờ, vẫn đối thoại với Chúa như khi Ngài còn sống v.v... [64] Dĩ nhiên chuyện các học giả trên làm có người khen, có người chê. Có người cho rằng đó là phá đạo, có người cho rằng tìm ra chân lý mới là điều hay. (Xin xem tiếp Chương 11) GHI CHÚ 28- Xem thêm Lu 21:25-29, Mt 24:1-37. 29- Nguyễn văn Thọ - Thời đại Bảo Bình tận thế hay chuyển thế, Bách Khoa Huyền Bí học số 14, tr. 10-20. Và Abbé J. Turmel - Comment j'ai donné congé aux dogmes, p. 30. 30- Are these the last days? Awake, 22/04/1995, pp. 4-8. 31- Church Opposes Predicting Date of Second Coming. From Religion News Service. Los Angeles Times, hạ tuần tháng 07/1995, B11: "While anticipating Christ's return, Adventists reject any attempt to set specific dates for the event....", the church announced in a statement released by the office of its president, Robert S. Folkenberg, during the 56th world session of the Seventh day Adventist Church. Adventist are holding their 10-day meeting in Utrecht, the Netherlands. "The approaching end of the second millenium of the Christian era undoutedly is leading some misguided persons to propose date-setting schematics and events tied to the year 2000, the end of the world, and the return of Jesus," the statement said. "Adventists have no confidence in such speculative effects, for they violate Christ's explicite statements that although humans may indeed recognize when his return is near, they cannot know the exact time." The church grew out of a movement that began in the mid-1800s and believe that the resurrected Jesus would return and the world end in 1843 or 1844. Some church pioneers who were disappointed when thet they did not occur, restudied the Bible's teachings and declared that it did not set a peculiar date... 32- Los Angeles Times, Saturday, 4/11/1995, Jehovah's Witnesses abandon key tenet. Doctrine: Sect has quietly retreated from prediction that those alive in 1914 would see end of world, by John Dart, Times Staff writer: The Jehovah's witnesses have quietly abandoned a prediction that people alive in 1914 would live to see ChrIsat's kingdom on earth - a major doctrine that lent urgency to the sect's door-to-door warnings that a bloody 92 end of the world is imminent... Some ex-Witnesses predict the change will hurt the "skyis- falling preaching" of the 4.7 million-member global organization and disturb longtime members who made personal and financial decisions based on the promise that they soon be living in heaven on earth... 33- Steven Morris - America's unchristian beginnings: He [Thomas Jefferson] reffered to the Book of Revelations as "the ravings of a maniac. Los Angeles Times khoảng hạ tuần 07/1995. 34- Founding Fathers were Deists who rejected the divinity of Jesus. Los Angeles Times, hạ tuần tháng 07/1985. 35- "During almost 15 centuries has the legal established of Christianity has been on trial. What has been its fruits? More or less in all places, pride and indolence in the Clergy, ignorance and servility in the laity, in both, superstition, bigotry and persecution." Ib. 35b- Mt 13:55-57, Mr 6:3, Lu 4:22. 36- Pr. J. M. Creed and Dr H. D. A. Major who both hold that the record of a birth in full wedlock had been changed by about A. D. 70 into the record of a Virgin Birth, and that the evidence from the New Testament in Romans 1:3 earlier than any Synoptic Gospel, Hebrews 7:14, Revelation 22:16, John 1:45 and 6:42, and various Synoptic passage in which Jesus is addressed as "Son of David" and Joseph and Mary are spoken of as his parents support this belief. A. C. Bouquet - Comparative religion, p. 238. 37- By the Act of 1679, Englishmen who wished to take office under the government were called to denounce the idolatry of Rome. "I do solemnly and sincerely in the presence of God protest, testify and declare that I do believe...that the invocation or adoration of the Virgin Mary, or any other Saint and the sacrifice of the Mass in the Church of Rome are superstitious and idolatrous." Malcolm Hay - Fathers in the Far East, p. 131 38- Je fus également connaitre la lettre de Saint Bernard aux chanoines de Lyon. Naturellement, aucun des prêtres à qui je la lus n'en avait la moindre idée. Pour éclairer l'argumentation du saint docteur, j'explique que, de son temps, le péché originel était censé consister dans la concupiscence. J'eus soin d'ajouter que le dogme lui-même du péché originel n'était pas réduit à néant par la théorie en vigueur dans le moyen-âge et que le dogme de l'Immaculée Conception n'était pas renversé par l'opposition de Saint Bernard. Abbé J. Turmel - Comment j'ai pris congé aux dogmes, pp. 56-57. 39- Abbé J. Turmel, Comment j'ai donné congé aux dogmes, p. 57: Le dogme de l'Immaculée Conception n'était pas renversée par l'opposition de Saint Bernard. 93 40- John Shelby Spong, Born of a woman, pp 217-218: When the dogma of the Immaculate Conception was promulgated in 1854 by Pius IX, Mary was said to have been "preserved immaculate from all stain of original sin by the singular grace and privilege granted by Almighty God." In 1950, almost a century later, when the dogma of Mary's bodily assumption was proclaimed by Pius XII, the humanity of the central feminine figure in the Christian mythology was completely removed." 41- Awake, 08/11/1988, p. 11, Mary in the church and in the Bible. 42- Awake, 08/11/1988, p. 11, Mary in the church and in the Bible: While the Bible itself specifically states that Mary was "a virgin" before giving birth to Jesus, "virginity after child-birth Isa not indicated in the New Testament," writes Catholic theologian Laurentin. The Bible clerly indicates she had children by Joseph, [Lu 1:27, Mt 13:53-56] - The Jerusalem Bible. 43- Awake - Mary in the church and in the Bible, 08/11/1988, p. 11: As for the dogma of Immaculate Conception, Laurentin points out that in ancient time there were "numerous Church Fathers who had no difficulty in finding ...sins in the Mother of Jesus." During the 17th century, even Roman Inquisition found this doctrine suspect. "The dogma of the Immaculate conception of Mary was proclaimed without any Biblical proof" remarks Jesuit John Mckenzie. 44- Awake, Mary in the church and in the Bible, 08/11/1988, pp. 11-12: Concerning the dogma of the Assumption, Laurentin maintains that, like the preceding one, it has "no Biblical fondation". Was Mary taken up bodily into heaven? "The Scripture does not affirm the Assumption of Mary" says thev Nuevo dizionario di teologica, and neither could it do so since it categorically states that "flesh and blood cannot inherit the kingdom of God". 45- Awake, Mary in the church and in the Bible, 08/11/1988, p. 11: Mother of God, Queen of heaven, Queen of Martyrs, Queen of the world, Queen of Mercy, Queen of Angels, Queen of Paradise, Queen of the Universe, Immaculate Queen, Immaculate Mary, Sovereign Princess, Blessed Virgin, Our Blessed Lady... 46- Awake, Why proclaim a Marian year? 08/11/1988, pp. 2-3-4 47- Awake, The reason for the cult [of Mary], 08/11/1988, p. 8: ...As Panorama [an Italian periodical] stated, "The fourth person of the Holy Trinity". 48- Awake, 8/11/1988, p. 7, The Marian Year, Different Viewpoints: Catholic "people love Mary before loving Jesus" as 'Mother' Teresa of Calcutta has said. 49- Throughout history, God and Christ have often been represented as pitiless and inflexible judges. So it is not surprising, as theologian René Laurentin acknowledges, that some Catholics "have contrasted the vindictive justice of Christ with the mercy of his mother:"Jesus wants to condenm, Mary wants to save." 94 Awake, 08/11/1988, p. 8, The reason for the cult [of Mary]. Awake, 08/11/1988, p. 7, The reason for the cult [of Mary]. 50- Matgioi, La Voie rationnelle, Éditions Traditionnelles, Paris. Maxence, Jean-Luc, René Guénon, le Philosophe invisible, Presses de la Renaissance, Paris, ...p. 19, và Nguyễn văn Thọ - Lecomte du Nouy và học thuyết viễn đích, tr. 331. 51- Mạnh tử - Ly lâu chương cú hạ, tiết 12. Và Nguyễn văn Thọ - Chân dung Khổng tử, 1969, tr. 85-89. 52- John Shelby Spong - Born from a woman - John A. T. Robinson - Honest to God, The Westminster Press, Philadelphia, 1963 và - Raymond A. Brown - The Death of the messiah, Doubleday, 1995. 53- The Scholars- most of whom consider themselves within liberal Roman Catholic and Protestant traditions. [Xem bài Scholars cite lack of resurrection evidence, Los Angeles Times, 11/3/1955] 54- More likely, they decide, the story of the historical Jesus ended with his death on the cross and the decay of his body. The scholars also agreed that there probably was no tomb and that Jesus' body was disposed of by his crucifiers - not his followers. Los Angeles Times, 11/3/1995. 55- Whatever Jesus' followers experienced after the Crucifixion, it happens in their hearts and minds, not a matter of history. Xem Scholars cite lack of ressurection evidence. From Religious News Service, Los Angeles Times, 11/3/1995. 56- God raises Jesus from the dead is a statement of Faith, not historic fact, said Stephen J. Patterson, an associate professor of New Testament at the United Church of Christ - affiliated Eden Theological Seminary in St. Louis. Los Angeles Times, 11/3/1995. 57- Previously, the scholars - including such stars of New testament research as DePaul University's John Dominic Crossan and Oregon State University's Marcus Borg - concluded that the virgin birth lacks historical support and that Jesus said only about 18% of the words attributed to him in the Bible. Los Angeles Times, 11/3/1995. 58- While Jesus Seminar participants say their intent is to separate fact from faith and bring their findings to public attention, more traditional Bible scholars and theologians say the group's effect is to undermine belief. Los Angeles Times, 11/3/1995. 59- The Jesus Seminar has captured headlines for 10 years, portraying its research as the discovery of the true Jesus. The seminar contends it is peeling away layers of myth and story-telling attached to Jesus by early Christian writers who were reflecting various religious and social concerns in the early church... 95 ..."The impact of the Jesus seminar and the left-most wing of New Testament Scholars has been so pervasive, that it has to be reckoned with," said Gregory Boyd of Bethel College in St. Paul, Minnesota..."They [Jesus Seminar scholars] leave people spiritually bankrupt and hopeless" wrote Michael J. Wilkins and J. P. Moreland... ...The seminar, fonded in 1885 includes Funk and about 75 "Seminar Fellows" ranging from biblical experts to professors in other religious studies. ...Robert W. Funk, founder and full time leader of the Jesus Seminar, suggests that a "scientific minded public in the post- Christian age" will ignore as naive and obsolete any historical Jesus studies that reflect the traditional Church view. Los Angeles Times, Saturday, 28/10/1995, bài Holy war brewing over image of Jesus, tr. B12R, B13R. 60- Briggs, who teaches contemporary Catholicism at Lehigh University in Bethlehem, Pa., and who for a decade was religious editor of the New York Times, said the period [1986-1987] set the "agenda for American Catholicism." Since then, he said, Pope John Paul II and his Vatican cabinet have left Catholics with only two alternative, "Either to accept or reject" official church teachings - unconditionnally and without exception. Xem bài: 1986-87 Called Turning Point for Future of U.S. Catholics.- Books: 'Holy Siege' a work by religion specialist Kenneth A. Briggs, lists a series of Vatican actions at the time that tamed the American church. From. Associated Press, Los Angeles Times, Saturday, 6/3/1993/R. 61- At the heart of the problem, he said, is a tendency that can affect individuals as well as institutions - to repress concerns instead of confronting them . He said, "it is not a healthy climate." Los Angeles Times, Saturday, 6/3/1993/R. 62- A. N. Wilson merely growns, albeit respectfully, at what he concludes has been 2000 years of religious invention. He no longer believes - at least not in the canonically authorized version of Jesus. Xem Not the stuff of Sermons, Jesus a Life, by A. N. Wilson. Reviewed by Larry Stammer, Los Angeles Times, Sunday, 20/12/1994. 63- Among Wilson's findings - some more speculative than others - are: - Jesus did not institute the Christian Eucharist as it is known today. A devout Jew would never have envisioned founding a religion. - The Apostle Paul is the true founder of Christianity. - The resurrection is a "whopping lie". The Risen Christ, as opposed to the historical Jesus, is an invention of Paul's religious genius. - Jesus was probably married. The miracle at the wedding at Cana in which Jesus was said to change water into wine may have been an echo of Jesus’ own wedding. - The story of the virginal conception of Jesus probably was unknown to the earlian Christian Communities. - Jesus would not have understood the concept of original sin. - The man at the tomb on the first Easter whom Mary Magdalen first mistook as the gardener and moments later beleived was Jesus may actually have been Jesus' brother James. 96 - Ths "servant of the high priest" who accompanied Judas in leading authorities to arrest Jesus in the Garden of Gethsemane may have been the Apostle Paul himself before his conversion. How else, Wilson asks, can one explain Paul's "obsession" with the crucifixion if, as most scholars agree, Paul and Jesus had never met? - Jesus probably was not put on trial before the Jewish high priest and Sanhedrin. At most, he was questioned. It was the Romans, not the Jews, who were responsible for Jesus' condemnation. By unfairly blaming the Jews, the Gospeld stories precipitated 2000 years of Christian antisemetism. - Jesus' prayer in the Garden of Gethsemane, asking God to spare him from the cup of death but nonetheless bowing to God's will, is a literary creation. If Jesus prayed while his disciples slept, who jotted down a transcript of the conversation? ... - For instance, Wilson scoffs at the notion of Jesus' physical ascension into heaven. Given the state of scientific knowledge today, Wilson chortles, a literal interpretation of Scripture would have placed Jesus in Earth orbit. Los Angeles Times, Sunday, 20/12/1994. 64- "It was a slow, and in my case, as it happens, painful process, to dIsacard a belief in Christianity", Wilson writes, "and when I did so, I did not feel it was honest to continue to called myself a Christian, to attend churches which addressed Jesus as if he was alive, to recite creeds which achnowledged Jesus as Lord and Judge of the world." Los Angeles Times, Sunday, 20/12/1994. 64b- Ro 8:11, 1Th 4:14, 1Co 6:14, 1Co 4:14, Php 3:10-11.
Chương 6 - Chuyện Tận Thế Chúa Giêsu và các đại tông đồ như St. Peter, St. Paul và St. John đều tin là tận thế đến nơi [Xem Phero I, I Thessalonicians, và Revelation]. Chúa nói sau khi Ngài tử nạn không bao lâu, Ngài sẽ xuống lại trong vinh quang để phán xét thiên hạ. Lúc ấy sẽ tận thế. Matthew chép:" Vì chưng Con người sẽ đến trong vinh quang của Cha Ngài, với các thiên thần của Ngài, và bấy giờ Ngài sẽ trả cho mỗi người tùy theo hành vi của họ. Quả thật ta bảo các ngươi: trong những kẻ có mặt đây, có người sẽ không nếm biết cái chết trước khi thấy con người đến trong nước của Ngài." [Mt 16:27-28]. Mark còn chép long trọng hơn gấp bội:" Trong những ngày ấy, sau cơn khốn quẫn ấy, mặt trời sẽ tối sầm, mặt trăng sẽ mất sáng, tinh tú từ trời xa xuống, và các quyền năng trên các tầng trời bị lay chuyển, và bấy giờ người ta sẽ thấy Con Người đến trong mây với quyền năng cao cả và vinh quang. Và bấy giờ, Ngài sẽ sai thiên thần họp những kẻ được chọn của Ngài từ bốn phương, từ mút cùng mặt đất, đến mút cùng chân trời...Quả thật, ta bảo các ngươi: thế hệ này sẽ không qua, cho đến khi mọi điều ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời ta nói sẽ không bao giờ qua đi. [Mark 13:24-32]. [28] Ngài còn nói: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, các ngươi sẽ không đi hết các thành của Isarael trước khi con người đến." [Mt 10, 23] Do Thái là một nước nhỏ. Muốn đi bộ qua hết các thành phố Do Thái ngày nay, ta cứ cho già là một năm. Năm Chúa đi giảng là khoảng 32, như vậy tận thế sẽ xảy ra vào khoảng năm 34, nghĩa là một năm sau khi Chúa mất. Hoặc quá lắm là tận thế vào khoảng 90 hay 100 vì lúc ấy John còn sống. Các đại đệ tử Chúa như Peter, Paul, John đều tin rằng tận thế đến nơi. Sách Peter I, 4:7 viết: "Thời cùng tận đã gần rồi cho mọi sự." Thessalonians I cũng cho rằng khi Chúa xuống phán xét, thì những giáo hữu còn sống sót khi ấy, sẽ được đưa lên mây để họp cùng các vị thánh đã sống lại, để đón mừng Chúa quang lâm. [1Th 4:13-18] và xin giáo dân giữ thần, hồn, xác cho vẹn toàn, chờ đợi ngày Chúa tới. [1Th 5:23] Sách Khải Huyền của St. John mô tả tận thế như là sự rung chuyển, sự phá tan vũ trụ bằng những lời lẽ hết sửc là văn vẻ: " Khi Ngài mở ấn thứ sáu, thì xảy có động đất lớn, và mặt trời hóa đen sẫm như vải dệt bằng tóc huyền, và mặt trăng hoàn toàn ra như máu. Tinh tú trên trời xa xuống như cây vả trút hết quả non, bị cuồng phong quày cho lăn lóc. Và trời biến mất đi như quyển sách bị cuộn lại và núi non cùng hải đảo thảy đều bị đánh bật khỏi chỗ. Và vua chúa trên đất cùng vương hầu, khanh tướng giàu sang hay quyền thế, và nô lệ hay tự do hết thảy đều chui rúc, ẩn mình nơi hang hốc và ghềnh đá, núi non, và họ nói với núi non đá tảng: Hãy sập đè trên chúng tôi và che khuất chúng tôi cho khỏi nhan thánh Đấng ngự trên ngai, cho khỏi cơn thịnh nộ của Chiên Con." [Re 6:12-17] Tôi chuyển dịch thành thơ như sau: Mặt trời đen vải tóc huyền, Trăng màu ửng máu từ viền vào trong. Sao trời rơi rụng lung tung, Như sung, như vả giữa chừng phong ba, Sơn nham, hải đảo gần xa, Xê đi, dịch lại la đà, chông chênh, Vòm trời như giấy, như tranh, Cuốn đi mất hút, lung linh, bẽ bàng. Công hầu, khanh tướng trần gian, Sang hèn, tìm hốc, tìm hang rúc càn. Âm thầm, van vái núi non, Sập đi cho khỏi thấy nhan thánh Ngài... Cuối sách Khải Huyền có ghi lời Chúa phán: "Này sự tái lâm của ta đã sắp tới nơi!" [Re 22:12] St. John cũng kết thúc sách Khải Huyền bằng mấy lời sau:"Sự tái lâm ta đã gần kề" Amen! Xin Chúa hãy đến. Lạy Chúa Giêsu! [Re 23:20] Nhưng khổ nỗi, mặc cho những lời tiên tri trang trọng nói trên, mặc cho sự nóng lòng trông chờ của quần chúng, thời gian cứ lặng lẽ trôi qua và tận thế vẫn chẳng chịu đến. Giáo dân đâm ra bất bình. Các người bảo vệ giáo lý đổi giọng. Cho nên lại có sách Peter 2, và Thessalonians 2. Sách Peter 2 cho rằng: "Ai cho rằng tận thế đến nơi là ngu muội, vì một nghìn năm trước mắt Thiên Chúa chẳng qua là một ngày. [2Peter 3:8]. Sách Thessalonians 2 đưa thêm điều kiện: Quỉ vương phải ra đời trước rồi mới tận thế. [2Th 2:3-13]. St. Matthew đưa ra thêm điều kiện Tin lành phải được giảng rao khắp thiên hạ rồi mới tận thế. [Mt . 24, 14] Mà chữ thiên hạ nói ở đây rất là mơ hồ. Thời các tông đồ thì thiên hạ là vùng Địa Trung Hải. Còn ngày nay ta mới biết thêm châu Á, châu Úc, châu Mỹ. Hơn nữa những điều kiện thêm vào đó, Chúa Giêsu lại hoàn toàn không biết. Nhờ vậy ngày nay người ta mới khám phá ra rằng sách Peter 2 và Thessalonians 2 là ngụy tạo. Vì các Ngài không thể vừa nói là tận thế sắp đến [Peter 1, Thessalonians 1] rồi lại nói là còn lâu mới tận thế [Peter 2, Thessalonians 2] [29] Như vậy, Chúa Giêsu chẳng những đã nói sai, mà còn dạy tông đồ nói sai theo. Tôi nói là Chúa nói sai, vì lịch sử đã chứng minh. Như vậy Ngài không phải là Chúa phép tắc vô cùng như ta tưởng. Ngài chỉ là một con người đã giác ngộ như trăm ngàn hiền thánh xưa nay mà thôi. Đọc các chuyện Ngài rủa cây vả [Mr 11:20-21, Mt 21:18-22], hay cho ma quỉ nhập vào đàn lợn mấy nghìn con rồi cho chúng nhảy xuống biển chết hết [Lu 8:26- 38], tôi thấy thật vô lý. Lợn kia có tội gì, chủ lợn kia có tội gì, mà lại phải dơ đầu chịu báng như vậy. Cây vả chưa đến mùa ra quả, sao Ngài lại bắt nó phải ra quả được? Tận thế là một vấn đề ám ảnh đạo Công giáo và các hệ phái trong 2000 năm nay. Thế kỷ 1, có phong trào Montanus. Thế kỷ 3, có phong trào Novattan. Thế kỷ 4 có Donatus. Thế kỷ 10, là thế kỷ tưởng sẽ tận thế, người ta gọi là Năm Kinh Hoàng 1000. Ngày nay Công giáo khôn ngoan hơn không còn dám nói năm 2000 là tận thế nữa. Nhưng có hai giáo phái còn hăng say, tin tưởng là sắp tận thế. Đó là Cơ Đốc Phục Lâm [Adventist], và Chứng Nhân Jehovah [Jehovah's Witness]. Chứng Nhân Jehovah gần đây đã tậu một căn nhà ở San Diego, mà họ gọi là Beth-Sarim [Nhà các Hoàng Tử] để đón các tiên thánh như Abel, Abraham, Noah, Samuel, David, Daniel tái lâm, nhưng sau mãi không thấy đại chiến Armageddon xảy tới, nên họ đành bán căn nhà đó. Báo Awake và Watchtower của họ thường lải nhải vế vấn đề này. Họ cho rằng sắp tận thế, vì ngày nay nhân loại ham tiền bạc [2Ti 3:2], kiêu ngạo [2Ti 3:2], không vâng lời cha mẹ [2Ti 3:2], hung bạo [2Ti 3:2], ưa thú vui hơn Thượng đế [2Ti 3:4], đạo đức giả tạo [2Ti 3:5], các nước chống đối lẫn nhau [Mt 24:7], động đất khắp nơi [Mt 24:7], có nhiều hiện tượng đáng kinh sợ [Lu 21:11], đói khát [Mt 24:7], ôn dịch [Lu 21:11], con người bất chấp luật pháp [Mt 24:12] v.v...[30] Cơ Đốc Phục Lâm , ngày 08/07/1995 vừa qua đã ra nghị quyết cấm giáo dân không được nói là bao giờ sẽ tận thế như trước nữa. Trước kia, họ tưởng là năm 1843, rồi sau lại tưởng là 1844, gần đây tưởng là năm 2000 sẽ tận thế. Hội nghị mười ngày vừa qua [29/06-08/07] ở Ultrecht, Hòa Lan, đã quyết định lại như trên, vì Chúa đã nói không ai biết là ngày nào sẽ tận thế.[31]. Báo Los Angeles Times ra ngày thứ Bảy 04/11/1995 cho thấy giáo phái Jehovah Witness đã tuyên bố sửa sai, không còn tin rằng thế hệ 1914 là thế hệ sẽ thấy ngày tận thế. Trước kia họ còn tin là trận chiến Armageddon sẽ xảy ra vào năm 1925, hay 1975. Trước kia họ thường đi giảng là trời sắp sập. [32] Thế là cả Adventists và Jehovah's Witness từ nay không còn dám tiên tri, tiên đoán gì về tận thế nữa. Thật là ngu si, và cuồng tín vô cùng. Ai hỏi tôi về vấn đề này, tôi mạnh dạn trả lời: Xin đừng lo, ta còn 5, 6 tỉ năm rồi họa ra mới tận thế được. Tại sao vậy? Vì nhân loại còn đang quá trẻ, vì còn rất ít người biết được giá trị siêu việt của con người, vì còn rất ít người biết sống huyền đồng cùng trời đất và Thượng đế. Hơn nữa, nếu phá trái đất này đi, Thượng đế sẽ làm gì hơn được? Hơn nữa, các kịch, truyện của nhân loại, đều có một kết luận tốt đẹp, đoàn tụ, hòa hài. Chẳng lẽ Chúa lại kém nhân loại về điểm này? Cách đây mấy ngày, tôi gặp cháu Nguyễn quyết Trung tám tuối, con ông Nguyễn duy Chính. ông Chính kể một hôm đi xe với cháu, thấy cháu có vẻ buồn. Hỏi tại sao? Cháu trả lời buồn vì còn 5958 tỉ năm nữa mặt trời sẽ hết sáng, như vậy cháu sẽ không còn đèn để đọc sách. Như vậy là cháu nhỏ đã có cái nhìn xa hơn chúng ta nhiều. Tôi suy nghĩ về danh từ như LM, Mục Sư, tôi thấy quá hay. LM là kẻ chăn linh hồn, Mục Sư là kẻ chăn chiên. Đôi bên đều coi giáo dân là bầy cừu ngoan ngoãn, bảo sao nghe vậy. Mà giáo dân cũng thích xưng mình là con chiên. Tôi thì trái lại tôi là con người, chứ không thể nào là con chiên mặc cho người chăn giắt. Tân Ước ngụy tạo, nhảm nhí, quàng xiên, điên rồ Trở lại Kinh Thánh mới, ta thấy Thánh Thư cho người Do Thái [Epistle to the Hebrews] cũng là ngụy tạo. Sách Khải Huyền theo tôi thật là một sách nhảm nhí. Nói toàn những chuyện ma quái, thần kỳ. Thượng đế là Thượng đế, chứ đâu phải là ác ma, ác quái. Sách này theo chân hai sách Ezechiel và Daniel, đi vào ma quái huyền hoặc. Tổng Thống Thomas Jefferson gọi sách Khải Huyền là "những lời nói quàng xiên của một kẻ điên rồ." [33] Trong bài đã trích dẫn, Stevens Morris còn cho biết bốn Tổng Thống tiên khởi Mỹ là George Washington, John Adams, Thomas Jefferson và James Madison đều là những Deists tức là những người tin rằng Thượng đế không can thiệp vào chuyện gian trần, và không tin Chúa Giêsu là Thượng đế. [34]. Benjamin Franklin cũng nghĩ như vậy. Tôi tuyệt đối không tin là St. John viết Khải Huyền, vì St. John không có giọng văn kỳ lạ này. Tổng Thống James Madison phê bình Công giáo rầt là gắt gao: "Trong vòng 15 thế kỷ vừa qua, đạo Công giáo đã được thử thách. Kết quả ra sao? Đại khái là Giáo sĩ thì kiêu căng và lười biếng, giáo hữu thì ngu dốt và hèn hạ, đôi bên đều mê tín, chấp nhất và hiếu sát." [35] Kinh Thánh tin đời sống có chu kỳ, và chu kỳ này sắp tận. [Mr 1:15] Tôi rất thương những người đã trót dại sống lại trước ngày tận thế, như đã ghi trong sách Matthew [Mt 27: 52], không biết Chúa sẽ xử trí với những hồn này ra sao. Theo đúng lý, Chúa phải cho xác họ sống lại, và cho lên trời trước mọi người khác. Và nếu Ngài làm vậy thì còn gì là công bằng? Chương 7 - Đức Mẹ đồng trinh. Trên đây, tôi đã chửng minh lời tiên tri Isaiah mà St. Matthew dựa vào [Isa 7:14] là một chuyện hoàn toàn ngụy tạo. Tôi không tin là Đức Mẹ đồng trinh, vì rõ ràng là Ngài đã bụng mang dạ chửa. Đửc Mẹ cũng không đồng trinh trọn đời vì chính St. Matthew đã viết: "Ông Joseph không đi lại với Đức Mẹ cho đến khi con trưởng ông sinh ra." [Mt 1:25]. Non cognoscebat eam donec perperit filium primogenitum suum. Sao lại gọi Chúa là con trưởng của ông Joseph? Các bản dịch bắt đầu dịch lung tung. Bible de Jerusalem dịch:" Sans qu'il eut connue, elle enfanta un fils..." và bình rằng câu nay không có nói về chuyện Đức Mẹ trọn đời đồng trinh, nhưng Giáo hội đã tin như vậy. LM Nguyển thế Thuấn dịch: Giữa ông và bà không có việc tri giao vợ chồng cả đến lúc bà sinh con. Donec nghĩa là cho đến khi, chứ không phải cả đến lúc. St. Matthew viết vậy, nghĩa là sau khi Chúa đã sinh ra, thì ông Joseph đã đi lại vợ chồng cùng Đức Mẹ. Khi Chúa về thăm Nazareth, thì xóm giềng Ngài nói: ông ấy không phải con bác thợ mộc hay sao? Mẹ ông không phải có tên là Maria, và anh em là Yacobe, Yuse, và Simon, và chị em ông há không ở giữa ta cả hay sao? [35b] Khi mà xóm giềng gọi người nọ người kia là anh em của Chúa thì họ không thể nào nói đó là "anh em họ". Tin lành nay cũng cho rằng Đức Mẹ có nhiều con với ông Joseph. Đó là một thái độ thẳng thắn, chứ có gì xấu đâu? Như vậy, tôi không tin Đức Mẹ đồng trinh, nhất là đồng trinh trọn đời. Nhiều người cho rằng chuyện Đức Mẹ đồng trinh đã được tạo nên vào khoảng năm 70. [36] Kinh Thánh chép rõ: -Ta là chồi lộc, là tông tộc David, là sao mai sáng láng.[Re 22:16] -Đấng đã xuất tự dòng giống David, theo xác phàm [Ro 1:3]. 34 -Quả đã hiển nhiên là Chúa chúng ta đã xuất từ Yuda, một dòng họ mà Moses khi bàn về tư tế đã không nói tới. [Heb 7:14] Nói vậy, thì rõ ràng ông Joseph là thân sinh ra Chúa Giêsu. Một hôm tôi nói chuyện với một LM Công giáo về chuyện Đức Mẹ trọn đời đồng trinh, ông trả lời: Có ai trông thấy gì không mà dám nói? Câu trên suy ra thì hơi tục, nhưng rất chí lý. Ý nói chúng ta toàn nghe hơi nồi chõ, chứ nào có biết gì về Đức Mẹ? Giáo hội Anh quốc cho rằng tôn sùng Đức Mẹ đồng trinh, tôn thờ các thánh, tin vào lễ Misa là những điều dị đoan. Mọi công dân Anh khi nhận một chức vụ gì trong chính quyền đều phải tuyên thệ chống lại những điều trên.[37] Như đã nói, St. Matthew chứng minh Đửc Mẹ đồng trinh bằng lời tiên tri của Isaiah [Isa 7:14]. Ngày nay, người ta đã tìm thấy ở Qumran một bản Isaiah, và thấy trong bản văn đó dùng chữ alma, là người nữ, chứ không dùng chữ parthenos, là người nữ đồng trinh. Như vậy, đã chứng minh được rằng St. Matthew đã hiểu sai bản văn trên. Chương 8 - Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Trái với các giáo phái Tin Lành, Đức Mẹ giữ một nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong Giáo hội Công giáo. Tin Lành gọi bệnh Công giáo sùng bái Đức Mẹ như vậy là Mariolatry, bệnh sùng bái Maria. Quyển Sách Bổn Công giáo hiện nay đã dành 4 trang nói về Đức Mẹ [Catechism of Catholicism, pp. 251-254]. Công giáo tuyên xưng Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội [Pius IX, Ineffabilis Deus 1854], không biết là đã dựa vào tài liệu nào. Phúc âm nói về Đức Mẹ rất ít. Phúc âm không mô tả bà đã thân thiện với ai. Khi Chúa chết rồi, bà chỉ đóng vai một giáo hữu tầm thường, không hề thấy sách Thánh Kinh nào đã ca tụng bà, và bà cũng không có một chút quyền gì trong Giáo hội sơ khai. Cũng không sách nào nói cách Chúa đã dùng gì để tẫy sạch tội tổ tông cho bà. Khi Chúa còn sinh tiền, Ngài đối với mẹ Ngài hết sức lạnh nhạt, đã không gọi bà bằng mẹ mà rằng: Hỡi đàn bà kia, này là con Bà. [Joh 19:28]. LM Turmel cho biết thánh Bernard chống lại chuyện Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội.[38] Như vậy ta dễ dàng kết luận là các nhà lãnh đạo Công giáo muốn nói gì thì nói. Theo Công giáo, thì Đức Mẹ phải là người hoàn thiện, tuyệt đối, xưa nay không ai bằng, thế mà uổng thay, các thánh sử không biết khai thác đề tài này. Bà Maria được xưng là Mẹ Thiên Chúa [Theotokos] [Công đồng Ephesus 431]. Điều này thực quá đáng, vì sách Matthew đã chép rõ, Chúa sinh ra là do quyền phép Chúa Thánh Thần. Như vậy Chúa Thánh Thần mới là bố chúa Giêsu, nhưng vì Ngài cũng là Ba Ngôi Thiên Chúa, nên cũng lại là con Đức Mẹ. Thật là khó hiểu, chỉ có Chúa thông minh vô cùng mới hiểu rõ vấn đề phức tạp này, còn nhân loại thì chỉ biết cúi đầu nghe Giáo hội dạy dỗ... Bà Maria còn được xưng là Nữ Vương Thiên Đàng, là một chức mà Chúa Yahve ghét nhất và cho đó là tà đạo. [Jer 44:1-30] Ở Việt Nam, Công giáo đã dâng cả nước Việt Nam cho bà Maria, đã tôn sùng bà ở Lavang, đã hát: Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt Nam, Trời u ám, chiến tranh điêu tàn. Mẹ hãy dơ tay ban phước bình an, Cho Việt Nam tới chốn vinh quang. Nhưng sự tôn sùng và tin tưởng tuyệt đối ấy đã không có hồi âm và rốt cuộc Việt Nam cũng đã rơi vào tay Cộng Sản. Tôi theo dõi các cuộc hành hương Lavang, tôi đã thấy có người bị chết trong khi đi hành hương, vì mưa gió dãi dầu, ăn uống thất thường v.v... Mới đây, ở quận Cam cũng vừa có năm người chết vì đi hành hương ở Carthage. Những cái chết đó khó mà giải thích thỏa đáng. LM Turmel cho biết là Thánh Bernard chống lại không cho rằng Đức Mẹ là Vô nhiễm nguyên tội. [39] Giám mục John Shelby Spong nhận định như sau: Khi tín lý Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội được tuyên bố năm 1854 bởi Pius IX, thì bà Mary được tuyên bố đã được giữ gìn vô nhiễm bởi ân sủng đặc biệt của Chúa tối cao đã ban. Và đến năm 1950, tức là 100 năm sau khi Pius XII tuyên bố Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời, thì nữ tính người đàn bà trong Giáo hội Công giáo hoàn toàn bị xóa bỏ.[40] Vì tôi không tin con người có tội tổ tông, nên tôi không tin là Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Chương 9 - Đức Mẹ linh hồn và xác lên Trời. Không ai biết Đức Mẹ chết hồi bao nhiêu tuổi, nhưng ngày 1/11/1959, Giáo Hoàng Pius XII [1939-1958] đã tuyên bố tín điều trên. Cho đến nay, không ai biết gì về ngày chết của Đức Mẹ. Á Đông không tin rằng con người có thể lên trời cả hồn lẫn xác, và khi thấy Giáo Hoàng tuyên bố như trên, thì cho rằng Ngài đã nói thuộc lòng. Trong quyển La Vergine Maria [The Virgin Lady], René Laurentin, một nhà thần học người Pháp, một người chuyên khảo về Đức Mẹ nổi tiếng nhất ngày nay, nhận định rằng trong hai thế kỷ đầu tiên, người Công giáo không hề tôn sùng Đức Mẹ, và Giáo hội cũng chưa ai đả động gì đến bài. Danh xưng Theotokos mãi thế kỷ IV mới tặng cho bà.[41] Nhà thần học Laurentin viết: Kinh Thánh chỉ nói bà đồng trinh khi sinh Chúa. Còn Kinh Thánh không chép là Ngài đồng trinh sau đó. Kinh Thánh chép là Ngài có nhiều con với ông Joseph.[Lu 1:2, Mt 13:53-56]. [42] Về vấn đề vô nhiễm nguyên tội, nhiều giáo phụ không tin. LM dòng tên John Mckenzie cho rằng không có chứng cứ Kinh Thánh.[43] Vấn đề Thăng Thiên, Laurentin cũng cho rằng không có bằng chứng Thánh Kinh.[44] Ngày nay, Đức mẹ được tặng dữ nhiều huy hiệu như Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương trên trời, Nữ Vương các Thánh tử đạo, Nữ Vương trần thế, Nữ Vương tha thứ, Nữ Vương Thiên Thần, Nữ Vương thế giới, Vô Nhiễm nữ hoàng, Đức Mẹ vô nhiễm, Công Chúa thượng đẳng, Đức Mẹ đồng trinh v.v... [45] Năm 1987 [06/06/1987 – 13/08/1988] được coi là năm dâng cả thế giới cho Đức Mẹ, và Giáo Hoàng John Paul II tỏ ra rất tôn sùng Đức Mẹ. Ngài đặt hết niềm tin vào Đức Mẹ và xưng mình là Con hoàn toàn thuộc về Mẹ. [Totus Tuus].[46] Có người cho rằng Đức Mẹ nay trở thành ngôi thứ 4 Thiên Chúa. [47] Nay người ta đọc kinh Kính Mừng 50 lần nhiều hơn kinh Lạy Cha. Chứng tỏ người ta yêu Đức Mẹ trước khi yêu Chúa Giêsu, theo lời Mẹ Teresa ở Calcutta.[48] Xưa nay, Giáo hội coi Chúa và Chúa Giêsu, chỉ ưa oán phạt, còn Đức Mẹ mới là đấng nhân từ, nên thường xin Đức Mẹ đứng ra cầu bầu, che chở cho mình. [49] Chương 10 - Đức Chúa Giêsu lên trời. Hãy nghiên cứu bốn sách phúc âm để xem Chúa lên trời ở đâu và bao giờ. 1- Sách Matthew cho rằng Chúa sống lại và hiện ra với Maria Madeleine và bà Maria khác, dạy về báo cho các tông đồ và dặn đi lên Gailée gặp Ngài [Mt 28:9-10]. Sau đó hiện ra cùng 11 tông đồ ở một núi nào đã hẹn trước ở Gailée, khuyên nhủ ít câu. Chứ St. Matthew không biết truyện Chúa lên trời. 2- Marc thì mô tả: Bà Maria Magdala, bà Maria mẹ Jacques và Salomé đem thuốc thơm đến để sức cho Chúa, và Chúa hiện ra với bà Maria Magdala, với hai môn đệ làng Emmaus, và với 11 tông đồ khi họ đang ăn. Chúa khuyên các tông đồ một hồi rồi sau đó lên trời ngay. [Mark 16, 9-19]. Tuy nhiên các nhà bình giải Kinh Thánh cho rằng các câu trên không có trong sách Marc và đã được thêm vào sau này. Trong Codex Vaticanus và trong Siniaticus không có đoạn này. 3- Lúc thì mô tả là khi các bà Maria Magdala, Jeanne và Maria đến mồ thì thấy mồ trống và đã gặp hai thiên thần. Các bà đem truyện này về nói với các tông đồ nhưng không ai tin.[Luke, 24, 1-11]. Tuy nhiên Peter có chạy lên thăm mồ và chỉ thấy mồ trống và khăn liệm. [Luke 24, 12] Cũng ngày Chủ Nhật đó có hai đệ tử đi từ làng Emmaus về đã gặp Chúa hiện ra một hồi, rồi biến đi, hai môn đệ này vội vàng về Jerusalem báo tin cho các tông đồ. Theo Luc, làng Emmaus cách Jerusalem sáu mươi dặm. Bible de Jerusalem chú là hoặc 160 dặm. Nay, người ta cũng không tìm ra được vị trí làng này. Bible de Jerusalem đoán nó ớ phía tây bắc Jerusalem. Không hiểu hai vị đó đã dùng pháp thuật nào để về Jerusalem mau như vậy? Vì lúc gặp Chúa, trời đã gần tối [Luc, 24,13-35, Luke, 24, 29]. Ngay sau đó, Chúa hiện ra cùng các tông đồ, cho các ngài sờ chân tay, và ăn cá nướng với họ. Sau đó Ngài dẫn môn đệ đến Bethanie và lên trời ở đó. Tức là Chúa lên trời một hay hai ngày sau khi sống lại. 4- John tả là bà Magdala đã đi thăm mộ khi trời còn mờ tối. Bà thấy mồ trống và về cho Peter và John hay. Sau đó, Peter và John đều đi thăm mộ. Nhưng John chạy nhanh hơn, nên vào thăm mộ trước. Khi nhòm vào mộ, John thấy những giây liệm xác vứt dưới đất. Sau đó Peter vào mộ và thấy những giây liệm xác và khăn liệm mặt Chúa ở dưới đất. Nhưng các ngài chưa hiểu là Chúa đã sống lại. Có người hỏi vớ vẩn là khi Chúa sống lại Ngài lấy quần áo đâu mà mặc? Bà Maria Magdala ở lại khóc lóc. Bà nhìn vào trong mồ thấy hai thiên thần ngồi nơi đầu và chân chỗ Chúa liệm xác. Sau đó Chúa hiện ra cùng bà, nhưng mới đầu bà lầm tưởng Ngài là một người làm vườn. Khi nhận ra Chúa rồi, bà định ôm Ngài, nhưng Ngài can, và sai bà về báo cho các tông đồ biết là Ngài sẽ lên cùng Thiên Chúa. Ngay chiều Chủ Nhật hôm đó, Chúa hiện ra cùng các tông đồ. Thổi hơi, truyền thần cho họ và ban cho quyền tha tội cho mọi người. Và cho xem chân tay người, nhất là cho Thomas xem chân tay người và cạnh sườn Người. [John, 20, 1-25]. Sau đó một tuần, Ngài lại hiện ra cùng các tông đồ ở nhà ông Thomas [John, 20, 26-29] Sau đó là chương 21. Bible de Jerusalem cho rằng chương này là của một đồ đệ John viết, chứ không phải là của John. Chương 21 mô tả Chúa hiện ra bên bờ hồ Tiberiade với Peter, Thomas, Nathanael, hai con bà Zebedee và hai môn đệ khác. Các ngài thả lưới, nhưng không bắt được gì. Sau đó Chúa hiện ra trên bờ hồ, và khuyên nên thả lưới phía hữu thuyền. Lúc ấy các tông đồ mới nhận ra Chúa và mới táp thuyền vào, kéo lưới lên được 153 con cá. Lên bờ, thấy Chúa đã đốt sẵn lửa, và đã có sẵn cá và bánh. Chúa truyền đem thêm cá lên. Chúa cũng ăn như mọi người, chứng tỏ mình là xác thịt thật chứ không phải thần thánh hay ma quái. Và trong bữa đó, Chúa mới cho Peter làm đầu Giáo hội v.v... [John, 21, 1-25] Tóm lại, trong bốn thánh sử, thì Matthew và Jean không nói tới chuyện Chúa lên trời. Marc cho rằng Chúa hiện ra cùng hai môn đệ Emmaus, và 11 tông đồ trong bữa ăn, ngay sau đó, và Ngài lên trời ngay trong bữa ăn đó. Tức là lên trời tối Chủ Nhật, hay là ngày thứ Hai, sau khi Chúa sống lại. Luke cho rằng Ngài lên trời tại Bethania, sau khi hiện ra cùng các môn đệ, nghĩa là cũng 1 hay 2 ngày sau khi Ngài sống lại. Trong Công Vụ Sứ Đồ, Luke kể tiếp Là Chúa sống lại và ở thế gian 40 ngày [Acts of Apostles 1-4], truyền các tông đồ không được rời Jerusalem, đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống [Acts, 1, 4-5] và sau đó lên trời [Luke, 1, 9-11], ở núi Olivete [Acts, 1, 12]. Núi Olivete ở phía Đông Jerusalem, và nằm giữa đường Jerusalem với Bethanie. Như vậy, theo Luke thì Chúa lên trời một hay hai ngày sau khi sống lại. Nhưng trong Acts lại quả quyết là Chúa ở thế gian 40 ngày. Như vậy là nói thế nào cũng là đúng cả. Trong Matthew, Chúa dạy các Tông đồ phải đi Gailée gặp Ngài, Mark lại không biết gì về chuyện đi Gailée. Luke cũng không biết gì về chuyện đi Gailée, chỉ nói là Chúa đã hiện ra ở vùng Jerusalem, và lên trời ở Bethania. John lại cho Chúa lên Gailée gặp các tông đồ. Trong Acts, Luke viết: Trong một bữa ăn, Chúa dạy các môn đệ phải ở lại Jerusalem chờ ngày Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Vậy lệnh nào là đúng: lên Gailée hay ở lại Jerusalem? Thật là điên cái đầu! Tôi nghĩ Chúa Giêsu không rắc rối như vậy. Xét lại, ta thấy các tông đồ mạnh ai nói nấy, muốn nói gì thì nói. Thảo nào ngày nay, nhiều người không còn tin vào những chuyện trên nữa. Nguyên tắc của tôi là cái gì quái dị là tôi không tin, cho nên những chuyện Matthew hay Luke kể là tôi đã gạt bỏ ngay. Những chuyện thai sinh kỳ bí, sống lại lên trời v. v... tôi đều loại trừ ngay. Năm 1969, khi viết quyển Khổng Học Tinh Hoa, tôi đã viết như sau, nơi tr. 85: Thế nhân thường cho rằng đã là thánh nhân, đã là giáo chủ, thì phải là thánh nhân ngay từ trong lòng mẹ, phải có những cách thai sinh kỳ bí, thoát khỏi hết các định luật và trật tự chi phối vũ trụ, nhân quần, lại thông minh tuyệt đối, sinh nhi tri chi, không cần học hỏi, suy tư gì mà đã biết mọi sự trên trời dưởi đất, quá khứ vị lai, ngay từ tấm bé. Nói thế chẳng khác nào nói rằng có những cây vừa mới mọc đã cao vút từng mây, đã sinh hoa kết quả sum sê, hay có những người vừa mới sinh ra đã trưởng thành ngay, không cần cúc dục, cù lao, không cần thời gian, tuổi tác. Thiết tưởng muốn tìm hiểu thành hiền, ta không nên bắt chước đường lối phàm tục đó, mà phải tìm cho ra những tiêu chuẩn chính xác để hướng dẫn sự suy khảo của chúng ta. Tuân tử nói :" Quân tử thời nói điều chân thường, hợp lý, tiểu nhân nói điều kỳ quái. [Trần Trọng Kim - Nho giáo, Vinh Nhục VI, tr. 308]. Sách Minh Triết Công giáo viết: Ta đây cũng phận hèn như chúng, Cũng tổ tông xác đất, vật hèn. Cũng từ bụng mẹ thai nên, Tinh cha huyết mẹ, đôi bên tạo thành. Cũng 10 tháng mới sinh, mới nở, Khi lọt lòng, cũng thở khí phàm. Như ai cũng kiếp trần gian, Mới sinh cũng khóc mà toan chào đời. Cũng tã lót cũng thời cúc dục, Cũng cù lao, cực nhọc như ai, Xưa nay, vua cũng như tôi, Tử sinh một phép, khác bài nào đâu. [Livre de la Sagesse, VII, 1-6] Cát Hồng khi viết về Lão tử đã nhận định như sau: Các học giả có óc chất hẹp hòi, đã coi Lão tử như là một người trời siêu xuất quần sinh, và khuyên các thế hệ tương lai bắt chước Ngài. Nhưng làm thế là ngăn cản không cho mọi người tin được rằng mình cũng có thể nhờ học hỏi mà tìm ra được bí quyết trường sinh bất tử. Thực vậy, nếu Lão tử chỉ là một hiền nhân đã đắc đạo thì mọi người phải hết sức noi gương, bắt chước Ngài, nhưng nếu ta nói rằng đó là một nhân vật đặc biệt, có thiên tính thì ta không thể nào bắt chước Ngài được. [50] Mạnh tử nói: Phàm những vật đồng loại, thì bản tính giống nhau. Tại sao riêng về nhân loại, người ta lại nghĩ rằng bản tính chẳng tương tự? Những vị thánh nhân và chúng ta đều là một loại... [51] Ngày nay các học giả đang soi kính hiển vi vào Kinh Thánh mới hay Tân Ước để tìm xem cái gì là thật, cái gì là giả, cái gì là thêm thắt vào đời sống Chúa Giêsu. Đã có nhiều sách viết lại đời Chúa. Ví dụ, ta đã thấy các quyển ghi dưới đây :[52] -Born from a Woman của John Shelby Spong. - Honest to God của John A.T. Robinson. v.v... Nhất là 77 học giả trong các cuộc Hội Thảo về Chúa Giêsu [Giêsu Seminar] một năm hai lần, trong vòng 10 năm nay. Các học giả trên vẫn coi mình là Công giáo có đầu óc phóng khoáng hay là những tín hữu Tin Lành.[53] Các học giả trên cho rằng chuyện Chúa sống lại không phải là chuyện thực. Họ chủ trương Chúa chết trên thánh giá rồi thì xác Ngài 39 hư nát theo. Họ cũng chủ trương không có mồ Chúa và xác Ngài bị nhà cầm quyền vứt đi, chứ không phải là giáo dân được cất giữ. [54] Có điều lạ là Chúa Yahve cũng đã chúc dữ cho những ai bị đóng đinh. De. 21: 22-23 viết: "Ngươi phải chôn nó ngay ngày hôm ấy, vì Chúa chúc dữ cho những kẻ bị đóng đinh." Trong một cuộc hội thảo 5 ngày, kết thúc ngày thứ Bảy 04/03/1995 ở Santa Rosa, California, họ cho rằng chưa đủ bằng chứng để kết luận Chúa đã sống lại. "Những gì mà giáo dân cảm nghiệm sau khi Chúa bị đóng đinh, chỉ là những cảm nghĩ trong tâm tư, chứ không phải là thực" [55] Stephen J. Paterson, Phó Giáo sư dạy Thánh Kinh ở Eden Theological Seminary phụ thuộc trường United Church of ChrIsat ở St. LouIsa cho rằng: " Chuyện Chúa Cha cho Chúa Giêsu sống lại là một niềm tin, chứ không phải là một sự kiện lịch sử." [56] Trước đây, nhiều học giả, trong đó có những giáo sư hết sức lỗi lạc về Kinh Thánh mới như John Dominic Crossan ở Đại học DePaul và Marcus Borg ở Oregon University đều kết luận rằng chuyện Đức mẹ Đồng trinh không có giá trị lịch sử, và những lời cho là Chúa nói trong Thành Kinh chỉ đúng khoảng 18%. [57] Các học giả nầy biện minh rằng họ làm vậy cốt để phân biệt đâu là thực đâu là giả và truyền lại cho thính giả những điều họ đã tìm ra. Còn những nhà bình giải Kinh Thánh theo truyền thống cho rằng họ làm thế là phá đạo. [58] Các học giả thuộc Giêsu Seminar, một hiệp hội gồm 75 học giả, thành lập từ 1985 tới nay, chỉ có một mục đích là đi tìm cho ra bộ mặt thực của Chúa Giêsu, vứt bỏ đi những lớp phấn son ngụy tạo mà các thánh sử và giáo dân đã tô điểm sau này, xem Ngài đã thực sự làm gì, nói gì. Những người theo truyền thống không chịu như vậy và đã bắt đầu phản pháo, như nay các ông Gregory Boyd, đại học Bethel, ở St Paul Minnasota, hay Michael Wilkins và J.P. Moreland đại học Biola University ở La Mirada đang làm. Báo Los Angeles Times cho rằng đó là một cuộc thánh chiến giữa hai phe bảo thủ và xét lại. [59] Briggs một giáo sư dạy về Công giáo ở Đại Học Lehigh, Bethlehem cho rằng Vatican và Giáo Hoàng đã dồn Công giáo vào thế, một là chấp nhận toàn bộ giáo lý, hai là bỏ hết. [60] Briggs cho rằng Công giáo lo ngăn chặn chứ không chịu giải quyết vấn đề. Như vậy bầu không khí không được lành mạnh. [61] A. N. Wilson trong quyển Jesus, A life [W. W. Norton] của ông, đã cho rằng 2000 năm qua là những chuyện bày đặt về đạo giáo. Những chuyện nói về Chúa Giêsu thường là sai. [62] Sách Jesus, A life có những điểm đặc biệt sau: 1- Chúa Giêsu, không lập ra phép Thánh thể như ta thấy ngày nay. Và Ngài không định lập đạo. 2- Paul mới chính là người lập ra đạo Công giáo. 3- Chuyện Chúa Giêsu sống lại là hoàn toàn do Thánh Paul bịa đặt ra . 4- Chúa Giêsu đã lấy vợ. Và phép lạ ở Cana chính là chuyện đám cưới Ngài. 5- Chuyện Đức Mẹ đồng trinh là chuyện mà Giáo hội sơ khai không biết. 6- Chúa Giêsu không biết gì về chuyện vô nhiễm nguyên tội. 7- Người mà Maria Magdala gặp khi đi thăm mộ chính là James, em Chúa Giêsu. 8- Người cùng với Judas đi bắt Chúa chính là Thánh Paul. 9- Người xử án Chúa là người La Mã chứ không phải là người Do Thái. 10- Chuyện Chúa cầu xin trong vườn Giệt Si Ma Ni là chuyện bịa, vì lúc ấy các môn đệ đều ngủ say, thì ai thức mà ghi? 11- Wilson cũng không tin Chúa lên trời v.v... [63] Wilson công nhận rằng ý muốn gạt bỏ Công giáo là một chuyện chậm chạp và đau đớn và khi làm như vậy, Wilson cảm thấy mình không thành khẩn với chính mình khi vẫn coi mình như người Công giáo, vẫn đi nhà thờ, vẫn đối thoại với Chúa như khi Ngài còn sống v.v... [64] Dĩ nhiên chuyện các học giả trên làm có người khen, có người chê. Có người cho rằng đó là phá đạo, có người cho rằng tìm ra chân lý mới là điều hay. (Xin xem tiếp Chương 11) GHI CHÚ 28- Xem thêm Lu 21:25-29, Mt 24:1-37. 29- Nguyễn văn Thọ - Thời đại Bảo Bình tận thế hay chuyển thế, Bách Khoa Huyền Bí học số 14, tr. 10-20. Và Abbé J. Turmel - Comment j'ai donné congé aux dogmes, p. 30. 30- Are these the last days? Awake, 22/04/1995, pp. 4-8. 31- Church Opposes Predicting Date of Second Coming. From Religion News Service. Los Angeles Times, hạ tuần tháng 07/1995, B11: "While anticipating Christ's return, Adventists reject any attempt to set specific dates for the event....", the church announced in a statement released by the office of its president, Robert S. Folkenberg, during the 56th world session of the Seventh day Adventist Church. Adventist are holding their 10-day meeting in Utrecht, the Netherlands. "The approaching end of the second millenium of the Christian era undoutedly is leading some misguided persons to propose date-setting schematics and events tied to the year 2000, the end of the world, and the return of Jesus," the statement said. "Adventists have no confidence in such speculative effects, for they violate Christ's explicite statements that although humans may indeed recognize when his return is near, they cannot know the exact time." The church grew out of a movement that began in the mid-1800s and believe that the resurrected Jesus would return and the world end in 1843 or 1844. Some church pioneers who were disappointed when thet they did not occur, restudied the Bible's teachings and declared that it did not set a peculiar date... 32- Los Angeles Times, Saturday, 4/11/1995, Jehovah's Witnesses abandon key tenet. Doctrine: Sect has quietly retreated from prediction that those alive in 1914 would see end of world, by John Dart, Times Staff writer: The Jehovah's witnesses have quietly abandoned a prediction that people alive in 1914 would live to see ChrIsat's kingdom on earth - a major doctrine that lent urgency to the sect's door-to-door warnings that a bloody 92 end of the world is imminent... Some ex-Witnesses predict the change will hurt the "skyis- falling preaching" of the 4.7 million-member global organization and disturb longtime members who made personal and financial decisions based on the promise that they soon be living in heaven on earth... 33- Steven Morris - America's unchristian beginnings: He [Thomas Jefferson] reffered to the Book of Revelations as "the ravings of a maniac. Los Angeles Times khoảng hạ tuần 07/1995. 34- Founding Fathers were Deists who rejected the divinity of Jesus. Los Angeles Times, hạ tuần tháng 07/1985. 35- "During almost 15 centuries has the legal established of Christianity has been on trial. What has been its fruits? More or less in all places, pride and indolence in the Clergy, ignorance and servility in the laity, in both, superstition, bigotry and persecution." Ib. 35b- Mt 13:55-57, Mr 6:3, Lu 4:22. 36- Pr. J. M. Creed and Dr H. D. A. Major who both hold that the record of a birth in full wedlock had been changed by about A. D. 70 into the record of a Virgin Birth, and that the evidence from the New Testament in Romans 1:3 earlier than any Synoptic Gospel, Hebrews 7:14, Revelation 22:16, John 1:45 and 6:42, and various Synoptic passage in which Jesus is addressed as "Son of David" and Joseph and Mary are spoken of as his parents support this belief. A. C. Bouquet - Comparative religion, p. 238. 37- By the Act of 1679, Englishmen who wished to take office under the government were called to denounce the idolatry of Rome. "I do solemnly and sincerely in the presence of God protest, testify and declare that I do believe...that the invocation or adoration of the Virgin Mary, or any other Saint and the sacrifice of the Mass in the Church of Rome are superstitious and idolatrous." Malcolm Hay - Fathers in the Far East, p. 131 38- Je fus également connaitre la lettre de Saint Bernard aux chanoines de Lyon. Naturellement, aucun des prêtres à qui je la lus n'en avait la moindre idée. Pour éclairer l'argumentation du saint docteur, j'explique que, de son temps, le péché originel était censé consister dans la concupiscence. J'eus soin d'ajouter que le dogme lui-même du péché originel n'était pas réduit à néant par la théorie en vigueur dans le moyen-âge et que le dogme de l'Immaculée Conception n'était pas renversé par l'opposition de Saint Bernard. Abbé J. Turmel - Comment j'ai pris congé aux dogmes, pp. 56-57. 39- Abbé J. Turmel, Comment j'ai donné congé aux dogmes, p. 57: Le dogme de l'Immaculée Conception n'était pas renversée par l'opposition de Saint Bernard. 93 40- John Shelby Spong, Born of a woman, pp 217-218: When the dogma of the Immaculate Conception was promulgated in 1854 by Pius IX, Mary was said to have been "preserved immaculate from all stain of original sin by the singular grace and privilege granted by Almighty God." In 1950, almost a century later, when the dogma of Mary's bodily assumption was proclaimed by Pius XII, the humanity of the central feminine figure in the Christian mythology was completely removed." 41- Awake, 08/11/1988, p. 11, Mary in the church and in the Bible. 42- Awake, 08/11/1988, p. 11, Mary in the church and in the Bible: While the Bible itself specifically states that Mary was "a virgin" before giving birth to Jesus, "virginity after child-birth Isa not indicated in the New Testament," writes Catholic theologian Laurentin. The Bible clerly indicates she had children by Joseph, [Lu 1:27, Mt 13:53-56] - The Jerusalem Bible. 43- Awake - Mary in the church and in the Bible, 08/11/1988, p. 11: As for the dogma of Immaculate Conception, Laurentin points out that in ancient time there were "numerous Church Fathers who had no difficulty in finding ...sins in the Mother of Jesus." During the 17th century, even Roman Inquisition found this doctrine suspect. "The dogma of the Immaculate conception of Mary was proclaimed without any Biblical proof" remarks Jesuit John Mckenzie. 44- Awake, Mary in the church and in the Bible, 08/11/1988, pp. 11-12: Concerning the dogma of the Assumption, Laurentin maintains that, like the preceding one, it has "no Biblical fondation". Was Mary taken up bodily into heaven? "The Scripture does not affirm the Assumption of Mary" says thev Nuevo dizionario di teologica, and neither could it do so since it categorically states that "flesh and blood cannot inherit the kingdom of God". 45- Awake, Mary in the church and in the Bible, 08/11/1988, p. 11: Mother of God, Queen of heaven, Queen of Martyrs, Queen of the world, Queen of Mercy, Queen of Angels, Queen of Paradise, Queen of the Universe, Immaculate Queen, Immaculate Mary, Sovereign Princess, Blessed Virgin, Our Blessed Lady... 46- Awake, Why proclaim a Marian year? 08/11/1988, pp. 2-3-4 47- Awake, The reason for the cult [of Mary], 08/11/1988, p. 8: ...As Panorama [an Italian periodical] stated, "The fourth person of the Holy Trinity". 48- Awake, 8/11/1988, p. 7, The Marian Year, Different Viewpoints: Catholic "people love Mary before loving Jesus" as 'Mother' Teresa of Calcutta has said. 49- Throughout history, God and Christ have often been represented as pitiless and inflexible judges. So it is not surprising, as theologian René Laurentin acknowledges, that some Catholics "have contrasted the vindictive justice of Christ with the mercy of his mother:"Jesus wants to condenm, Mary wants to save." 94 Awake, 08/11/1988, p. 8, The reason for the cult [of Mary]. Awake, 08/11/1988, p. 7, The reason for the cult [of Mary]. 50- Matgioi, La Voie rationnelle, Éditions Traditionnelles, Paris. Maxence, Jean-Luc, René Guénon, le Philosophe invisible, Presses de la Renaissance, Paris, ...p. 19, và Nguyễn văn Thọ - Lecomte du Nouy và học thuyết viễn đích, tr. 331. 51- Mạnh tử - Ly lâu chương cú hạ, tiết 12. Và Nguyễn văn Thọ - Chân dung Khổng tử, 1969, tr. 85-89. 52- John Shelby Spong - Born from a woman - John A. T. Robinson - Honest to God, The Westminster Press, Philadelphia, 1963 và - Raymond A. Brown - The Death of the messiah, Doubleday, 1995. 53- The Scholars- most of whom consider themselves within liberal Roman Catholic and Protestant traditions. [Xem bài Scholars cite lack of resurrection evidence, Los Angeles Times, 11/3/1955] 54- More likely, they decide, the story of the historical Jesus ended with his death on the cross and the decay of his body. The scholars also agreed that there probably was no tomb and that Jesus' body was disposed of by his crucifiers - not his followers. Los Angeles Times, 11/3/1995. 55- Whatever Jesus' followers experienced after the Crucifixion, it happens in their hearts and minds, not a matter of history. Xem Scholars cite lack of ressurection evidence. From Religious News Service, Los Angeles Times, 11/3/1995. 56- God raises Jesus from the dead is a statement of Faith, not historic fact, said Stephen J. Patterson, an associate professor of New Testament at the United Church of Christ - affiliated Eden Theological Seminary in St. Louis. Los Angeles Times, 11/3/1995. 57- Previously, the scholars - including such stars of New testament research as DePaul University's John Dominic Crossan and Oregon State University's Marcus Borg - concluded that the virgin birth lacks historical support and that Jesus said only about 18% of the words attributed to him in the Bible. Los Angeles Times, 11/3/1995. 58- While Jesus Seminar participants say their intent is to separate fact from faith and bring their findings to public attention, more traditional Bible scholars and theologians say the group's effect is to undermine belief. Los Angeles Times, 11/3/1995. 59- The Jesus Seminar has captured headlines for 10 years, portraying its research as the discovery of the true Jesus. The seminar contends it is peeling away layers of myth and story-telling attached to Jesus by early Christian writers who were reflecting various religious and social concerns in the early church... 95 ..."The impact of the Jesus seminar and the left-most wing of New Testament Scholars has been so pervasive, that it has to be reckoned with," said Gregory Boyd of Bethel College in St. Paul, Minnesota..."They [Jesus Seminar scholars] leave people spiritually bankrupt and hopeless" wrote Michael J. Wilkins and J. P. Moreland... ...The seminar, fonded in 1885 includes Funk and about 75 "Seminar Fellows" ranging from biblical experts to professors in other religious studies. ...Robert W. Funk, founder and full time leader of the Jesus Seminar, suggests that a "scientific minded public in the post- Christian age" will ignore as naive and obsolete any historical Jesus studies that reflect the traditional Church view. Los Angeles Times, Saturday, 28/10/1995, bài Holy war brewing over image of Jesus, tr. B12R, B13R. 60- Briggs, who teaches contemporary Catholicism at Lehigh University in Bethlehem, Pa., and who for a decade was religious editor of the New York Times, said the period [1986-1987] set the "agenda for American Catholicism." Since then, he said, Pope John Paul II and his Vatican cabinet have left Catholics with only two alternative, "Either to accept or reject" official church teachings - unconditionnally and without exception. Xem bài: 1986-87 Called Turning Point for Future of U.S. Catholics.- Books: 'Holy Siege' a work by religion specialist Kenneth A. Briggs, lists a series of Vatican actions at the time that tamed the American church. From. Associated Press, Los Angeles Times, Saturday, 6/3/1993/R. 61- At the heart of the problem, he said, is a tendency that can affect individuals as well as institutions - to repress concerns instead of confronting them . He said, "it is not a healthy climate." Los Angeles Times, Saturday, 6/3/1993/R. 62- A. N. Wilson merely growns, albeit respectfully, at what he concludes has been 2000 years of religious invention. He no longer believes - at least not in the canonically authorized version of Jesus. Xem Not the stuff of Sermons, Jesus a Life, by A. N. Wilson. Reviewed by Larry Stammer, Los Angeles Times, Sunday, 20/12/1994. 63- Among Wilson's findings - some more speculative than others - are: - Jesus did not institute the Christian Eucharist as it is known today. A devout Jew would never have envisioned founding a religion. - The Apostle Paul is the true founder of Christianity. - The resurrection is a "whopping lie". The Risen Christ, as opposed to the historical Jesus, is an invention of Paul's religious genius. - Jesus was probably married. The miracle at the wedding at Cana in which Jesus was said to change water into wine may have been an echo of Jesus’ own wedding. - The story of the virginal conception of Jesus probably was unknown to the earlian Christian Communities. - Jesus would not have understood the concept of original sin. - The man at the tomb on the first Easter whom Mary Magdalen first mistook as the gardener and moments later beleived was Jesus may actually have been Jesus' brother James. 96 - Ths "servant of the high priest" who accompanied Judas in leading authorities to arrest Jesus in the Garden of Gethsemane may have been the Apostle Paul himself before his conversion. How else, Wilson asks, can one explain Paul's "obsession" with the crucifixion if, as most scholars agree, Paul and Jesus had never met? - Jesus probably was not put on trial before the Jewish high priest and Sanhedrin. At most, he was questioned. It was the Romans, not the Jews, who were responsible for Jesus' condemnation. By unfairly blaming the Jews, the Gospeld stories precipitated 2000 years of Christian antisemetism. - Jesus' prayer in the Garden of Gethsemane, asking God to spare him from the cup of death but nonetheless bowing to God's will, is a literary creation. If Jesus prayed while his disciples slept, who jotted down a transcript of the conversation? ... - For instance, Wilson scoffs at the notion of Jesus' physical ascension into heaven. Given the state of scientific knowledge today, Wilson chortles, a literal interpretation of Scripture would have placed Jesus in Earth orbit. Los Angeles Times, Sunday, 20/12/1994. 64- "It was a slow, and in my case, as it happens, painful process, to dIsacard a belief in Christianity", Wilson writes, "and when I did so, I did not feel it was honest to continue to called myself a Christian, to attend churches which addressed Jesus as if he was alive, to recite creeds which achnowledged Jesus as Lord and Judge of the world." Los Angeles Times, Sunday, 20/12/1994. 64b- Ro 8:11, 1Th 4:14, 1Co 6:14, 1Co 4:14, Php 3:10-11. Mục IV (Chương 11 đến hết chương 12) 11- Con người là một kẻ tội lệ. 12- Xác loài người ngày sau sống lại. Chương 11 - Con người là một kẻ tội lệ Không một đạo giáo nào mà khinh khi con người hơn, coi rẻ con người hơn là Thiên Chúa giáo. Con người, theo Thiên Chúa giáo, là cái gì xấu xa tội lỗi, là thứ gì đáng vứt đi [Massa perditionIsa], theo St. Augustine. [Xem Đối thoại với Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, tr. 178, bài của Nguyền Hoài Vân] Tôi thích nhất kinh Công giáo, là kinh: " De profundis", "Lạy Chúa tôi, tôi ở dưới vực sâu, kêu lên Chúa tôi. Nếu Chúa tôi chấp tội, thì nào ai rỗi được..." Như vậy, người Công giáo không dám đứng trên mặt đất mà cầu Chúa, nhưng lại đi tìm thung lũng, hay hố sâu để được đứng xa Chúa hơn, mà cầu nguyện. Tôi sợ nhất là kinh Miserere [Psaume 51 [50?], vì cho đến mãi gần đây, nhiều dòng như dòng Chúa Cứu Thế, cứ đến ngày thứ Sáu, là ai nấy phải đánh tội mình, để xin Chúa thứ tội cho. Kinh Miserere có 21 câu, thì người đọc kinh này phải đánh mình tất cả là 42 roi. Có nhiều người muốn đẹp lòng Chúa hơn, nên đã đánh mình đến chảy máu. Chúa đâu có ác độc như vậy. Hơn nữa, tại sao, một sáng kiến hay như vậy, nay lại đem bỏ đi. Thật là những chuyện điên khùng do con người bày đặt ra để làm khổ mình, chứ Chúa nào muốn như vậy. Và đánh tội có làm cho mình thêm nhân đức đâu. Tôi không thấy có Giáo Hoàng nào đã dại dột hành hạ mình như vậy. Ai xin thì các Ngài cho phép, còn bảo các Ngài làm như vậy thì dĩ nhiên là không. Tội có nhiều loại: tội tổ tông và tội riêng có nặng, có nhẹ. Có tội thì phải xưng. Cho nên lại sinh ra lắm chuyện thêm, nào xét mình, nào ăn năn, nào xưng tội chung, nào xưng tội riêng, nào cấm phòng v.v...thật biết bao là gông cùm đã được tạo ra quanh vấn đề này. Người Công giáo lúc nào cũng lo phạm tội trọng. Bỏ đi lễ ngày Chủ Nhật là phạm tội trọng, ăn thịt ngày thứ Sáu là phạm tội trọng, và còn biết bao là tội trọng về điều răn thứ sáu. Tôi đã dự những buổi xét mình xưng tội, và ăn năn tội của các giáo hữu vùng Phát Diệm, và tôi thấy họ khóc như di. Lúc ấy tôi không còn thấy hình ảnh Chúa nhân từ nữa, mà chỉ thấy Chúa công thẳng luôn muốn bỏ con người xuống hỏa ngục đời đời. Thấy họ khóc lóc, tôi nghĩ như vậy họ đâu phải là con Thiên Chúa? Tôi thương những ai vì bỏ lễ Chủ Nhật mà phải xuống địa ngục đời đời. LM James Kavanaugh là một LM tân tiến nhìn vào Giáo hội lạc hậu của mình. LM là tác giả quyển A Modern priest looks at hIsa Outdated Church [Pocket Books New York, 1967] Chương Confession and Mortal Sin [p. 81-99] viết rất là bi thiết và thành khẩn, xin tìm đọc. Từ khi thoát khỏi Công giáo với những vấn đề tội lỗi đè nặng trên tâm hồn, tôi thấy lòng tôi thật là an lạc, thư thái, điều mà Công giáo không hề cho tôi được. Và tôi mới hiểu sự cao cả của lời chúc nhau thân tâm an lạc của Á Đông. Tôi thấy không ai có quyền cầm buộc tôi hay tha tôi được. Lương tâm tôi mới có quyền đó. Tôi có anh bạn Công giáo 74 tuổi, mới bị bệnh tim và tiểu đường thập tử nhất sinh, may nay đã khỏi. Anh tâm sự: Chúa thấy tôi là kẻ tội lỗi, nên cho sống thêm để có dịp đền tội. Nghe anh nói, tôi rất thương hại. Đã từ 40 mươi năm nay, tôi không còn biết tội là gì, nhìn vào trong tâm linh, chỉ thấy lương tâm rạng ngời. Tới tuổi tôi, quí vị cũng phải thấy như vậy, mới phải. Chúng ta là một, không chút khác nhau. Chúng ta sinh ra ở trên đời có trẻ, có già và được trao phó cho nhiều nhiệm vụ khác nhau. Trẻ thì lo cho thân xác, cho quê hương, cho ngoại cảnh, lo kiếm tiền nong nuôi thân. Từ khoảng 36 tuổi trở đi, phải lo quay về nội tâm, và tu tâm dưỡng tính. Mỗi người một vẻ. Khi trẻ, người thì là thần đồng, người thì là ca sĩ, là văn sĩ, võ sĩ. Từ 36 tuổi trở đi, người thì là danh nhân, là bác học, là chính trị gia, là đạo gia, là thi nhân, là triết gia v.v...Mỗi người đi theo tiếng gọi nội tâm của mình, mỗi người lập chí theo ý mình. Tôi từ 36 tuổi trở đi, chỉ dốc một lòng cầu học về các đạo giáo, cầu mong tìm ra được đường lối của thánh hiền muôn thủa, chứ không chịu cho người ta tùy ý dật giây. Sau khi biết rằng Trời chẳng lìa xa con người, và con người có bản tính Trời, con người phải luôn tinh tiến, từ bỏ vọng tâm, và sống thuận theo thiên ý, tôi mới thấy rằng cái Đạo mà trời muốn ta theo đã gắn sẵn vào nơi con người từ muôn thủa. Cứ lắng nghe tiếng lòng sẽ thấy Chân Lý đã ghi tạc sẵn trong lương tâm ta, và sẽ thấy mình được tràn ngập bởi sự bình yên Thiên Quốc. Tôi viết những điều trên không vì mục đích cầu danh, tranh lợi, mà cốt gặp được những người đồng tâm, đồng chí trong tương lai. Tôi không bao giờ cho rằng thân phận mình là tội lệ, đê hèn. Tôi hãnh diện vì không thua kém ai, và không bao giờ phàn nàn vì đã được sinh ra ở cõi đời này. Tôi mong mọi người chịu khó để tâm tìm hiều về cuộc đời. Tôi thích câu của Thiên Thai Tông cho rằng chúng sinh là quả khế xanh, mà Phật là trái khế chín. Tôi rất cám ơn trời đất đã cho tôi nhìn thấy mọi sự đẹp đẽ của cõi trần này, và cho tôi thấy được giá trị con người. Tôi quí Khổng tử vì đã nói," nếu tôi phải làm một điều bất nghĩa, phải giết oan một người mà được thiên hạ thì tôi cũng không làm." [Hành nhất bất nghĩa, sát nhất bất cô nhi đắc thiên hạ, giai bất vi dã. Mạnh tử, I, Công tôn Sửu, câu 24.] Chương 12 - Xác loài người ngày sau sống lại. Công giáo cho đây là một niềm tin quan trọng của Công giáo. Sách bổn Công giáo [Xem Catechism of the Catholic Church, Libreria Editrice Vaticana, 1994, tr. 258-265] ghi chép rõ ràng rằng niềm tin xác loài người sống lại khi phán xét chung, lúc thế mạt là một niềm tin then chốt của Giáo hội từ thủa ban sơ. Con người sẽ sống lại, cũng như Chúa đã sống lại [64b] Người lành, kẻ dữ, đều sẽ sống lại [xem tr. 260]. Giáo hội viện dẫn lời Tertullien và cho rằng xác thân là trục mà sự cứu rỗi được xoay quanh hay xác thân là nòng cốt của sự cứu độ. Chúng ta tin kính Đức Chúa Cha là Đấng sáng tạo nên xác thịt. Chúng ta tin kính Ngôi Lời đã hóa thành xác thịt để cứu chuộc xác thịt: Đó là sự hoàn thành việc sáng tạo và hoàn tất việc cứu chuộc xác thịt. [65] Tôi đọc câu trên, lòng tôi hết sức là ngao ngán, và lấy làm lạ là sao Công giáo có thể viết ra một câu thấp kém như vậy, trong thời đại khoa học này? Xác người ngày sau sống lại thật là một chuyện hết sức hoang đường. Ai cũng thấy khi chết đi, là thân xác này bị thối nát. Chẳng những thế còn nhập vào cỏ cây, muông thú, như vậy thì làm sao nói thuộc về người này, người kia được nữa. Xác Adam chẳng hạn đã trở thành muôn vàn sinh linh khác, chứ đâu còn nguyên vẹn mà mong về cùng cố chủ. Khi Giáo hội hỏa thiêu L. M. Jean Huss [1369-1445], thì đã vét sạch tro cốt ông vứt xuống sống Rhine cho chảy ra bể, để ông hết còn mong sống lại ngày tận thế. Tưởng làm vậy, là sẽ tuyệt diệt được sự chống đối. [66] Giáo dân Jerome [chết 1416], phụ tá của Jean Huss cũng chịu đồng số phận như Huss. Còn Wyclif [1320-1384] là vị tiên phong của Huss, thì đến năm 1428, Công đồng Constance [1415] ra lệnh quật mồ ông và đốt xác ông. Các ông là những người thánh thiện, nhưng tội lỗi các ông là chống lại quyền uy Giáo Hoàng, và đã dám dịch Thánh Kinh ra tiếng thổ âm như Anh Ngữ v.v... Tôi cho rằng con người có thể sinh lại bằng thần, y như mặt trăng mỗi đầu tháng đều sinh lại. Con người sinh lại bằng thần, khi giữa dòng đời nhận thấy mình đã đi sai hướng . Thay vì tiến sâu vào vật chất, sẽ biết đường gỡ mình ra để tiến vế phía tinh thần. Kinh Dịch gọi thời điểm ấy là: Phục. "Phục kỳ kiến Thiên Địa chi tâm hồ." [Phục là thấy được trong mình có Tâm Trời Đất.] Sự thay đổi chiều hướng này xảy ra rất là bất ngờ, những ai chứng giám được giây phút này, là những người được đại hồng ân trời đất. Chúa Giêsu cũng đề cập đến Sự sinh lại bằng thần [John 3, 5, 1, 33]. Như vậy ta phải sinh lại bằng Thần, phải sống lại bằng Thần, ngay khi ta còn sống. Chứ không phải chết rồi mới sống lại bằng xác thịt. Nhiều giáo dân ngày nay, cũng không tin Chúa đã sống lại. Báo L'Express đã làm một cuộc phỏng vấn tại Pháp và cho biết: 25% giáo dân không tin Chúa đã sống lại. 30% nghi ngờ về các phép lạ Chúa làm, và 36% không tin Chúa Ba Ngôi. [67] Kinh Thánh cũ cho rằng con người chết đi sẽ xuống Sheol [ Num. 16, 33, De.32:22, Isa. 14, 9, I Samuel, 2, 6, Gen. 37: 35], người lành kẻ dữ sống hỗn độn [1 S. 28: 19, Ps. 89: 49, Ez 32 17-32], sống buồn bã, không còn biết gì, làm ăn được gì, không biết ngợi khen Chúa [Isa. 38:18, Job, 10: 20-22, Job, 3:17-19., Job, 30:23, 7:10, Isa. 62: 24, 14:19, 5:14, Jer. 7:31-32] v.v... Những chuyện thưởng phạt mai hậu [Ps. 16:19-11, 49:16], hay tin vào hồn thiêng bất tử, đối với dân Do Thái còn rất là mơ hồ [Sag. 3:4]. Tóm lại, khi xưa Đức Chúa Cha chưa đặt ra những vấn đề thiên đàng, địa ngục, hằng sống, sống lại v.v... Những vấn đề này này chỉ được bàn phớt qua trong Thánh Kinh [Ps. 16:10, 11, 49: 16, Sa. 3,5, 3:4.], và hầu như không đáng kể. [68] Tóm lại, vấn đề thiên đàng, địa ngục đời đời với trường sinh bất tử, và sống lại là những vấn đề mà Công giáo sau này đã nghĩ ra. Như vậy, Đức Chúa Cha trước kia, đã quên không đặt ra những vấn đề trên. (mời xem Chương 13: cho rằng con người chỉ có xác và hồn) GHI CHÚ 65- Sách Giáo lý của giáo hội Công giáo, tr. 463 số 1015. [The flesh is the hinge of salvation. Tertullian, De res, 8,12: PL 2, 852] Ib. tr. 265. 66- When the body of Huss had been wholly consumed, his ashes with the soil upon which they rest, were gather up and cast to the Rhine, and thus borne onward to the ocean... Huss was no more, but the truths for which he died, could never perish...[Ellen G. White - The great controversy between Christ and Satan, Pacific Press Publishing Association, Mountain View California, 1888, pp. 109-126]. 67- The French magazine L'Express recently conducted a survey to find out of a minority of practising Catholics believe with regard to some of the fundamental teachings of the Church. The result is revealing: 25 percent do not believe in the resurrection of Jesus Christ, 30 percent doubt the Bible record of the miracle performed by Jesus, and 38% do not believe in the Trinity. [Awake, 08/11/1992, p. 29] 68- Sheol: mot d'origine inconnue qui désigne les profondeurs de la terre, De 32:22, Isa 14:19, etc., où les morts "descendent", Ge 37:35, 1Sa 2:6 , etc., et où les bons et les méchants mêlés, 1Sa 28:19, Ps 89:49, Eze 32:17-32, ont une morne survie, Qo 9:19?, où Dieu n'est pas loué, Isa 38:18. La doctrine des récompenses et des peines d'outre-tombe et celle de la résurrection préparée par l'espérance des Psalmistes, Ps 16:10-11, 49:16, n'apparaissent clairement qu'à la fin de l'A. T. Sg 3:5? [en liaison avec la croyance à l'immortalité, voir Sa 3:4+?] Mt 13:38+. Bible de Jérusalem, l'école biblique de 97 Jérusalem, Editions du Cerf, 29 Bd Latour-Maubourg, Paris, 1955, p. Nu 16:33, notes D, p. 155. Trang BS Nguyễ Trang BS |
No comments:
Post a Comment