Nguyễn Kiến Giang
Thử nhận diện bức tranh thế giới hôm nay
1 2 3 4
6. Cách nhìn của Samuel Huntington
Một số người nghiên cứu cho rằng cách tiếp cận của A. Tofler là “cách tiếp cận theo cận văn minh”, dùng sự phát triển từ văn minh này sang văn minh khác để lý giải các quá trình diễn ra trên thế giới. Nhưng cách tiếp cận theo văn minh không chỉ có ở riêng Tofler, nó còn có ở những tác giả khác. Có điều là nếu ở A. Tofler, khái niệm văn minh chủ yếu dựa vào trình độ kỹ thuật và công nghệ, thì ở một số tác giả khác, khái niệm đó dựa vào những nền tảng khác. Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu “cách tiếp cận theo văn minh” của Samuel Huntington, giáo sư và giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược Olin thuộc trường Đại học Harvard, với cách nhìn độc đáo của ông. Ông trình bày quan niệm của mình trong một bài viết đăng trên tạp chí Foreign Affairs (Mỹ), số mùa hè năm 1993, dưới nhan đề “Sự xung đột tương lai của các nền văn minh”, một bài viết gây tiếng vang mạnh mẽ ở phương Tây, Huntington lấy các tôn giáo làm nền tảng cho các nền văn minh khác nhau. Theo ông, chính trị thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới, trong đó nguyên nhân căn bản của các cuộc xung đột sẽ không còn là hệ tư tưởng hay kinh tế nữa, mà là do những văn minh khác nhau. Tất nhiên, những nền văn minh này không đứng nguyên, chúng phát triển và thoái hóa, chia và hợp, và có những nền văn minh đang biến mất. Ông nói, người phương Tây thường có xu hướng cho rằng các quốc gia - dân tộc là những diễn viên chính trên vũ đài thế giới. Thật ra, điều đó chỉ có trong vài thập kỷ gần đây. Những không gian rộng lớn nhất của lịch sử là lịch sử của các nền văn minh, và thế giới đang quay về với mô hình đó. Bản sắc của các nền văn minh sẽ ngày càng quan trọng hơn, và thế giới ở một mức độ lớn sẽ bị chi phối bởi những tác động qua lại giữa bảy hay tám nền văn minh chính: phương Tây, Khổng giáo, Nhật Bản, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Chính thống giáo Slave, Mỹ Latin và có thể là châu Phi nữa. Ranh giới phân chia giữa những nền văn minh đó sẽ là tiền tuyến trong tương lai.
Tại sao như vậy? Ông trả lời: “Những khác biệt giữa các nền văn minh là những khác biệt cốt yếu và đụng tới lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, truyền thống và nhất là tôn giáo. Các nền văn minh khác nhau có những quan điểm khác nhau về những liên hệ giữa con người và Thượng đế, giữa công dân và nhà nước, bố mẹ và con cái, tự do và uy quyền, bình đẳng và thứ bậc. Những khác biệt ấy là sản phẩm của một lịch sử lâu đời. Chúng sẽ không sớm biến mất đâu” (Liberation, 25.9.1993). Ý thức về nền văn minh tăng lên; do những tiếp xúc giữa các dân tộc thuộc những nền văn minh khác nhau đang tăng lên, và do những thay đổi xã hội và kinh tế làm mất đi những bản sắc địa phương lâu đời, khiến cho con người càng cố bám giữ những bản sắc đó. Chẳng hạn, người Mỹ phản ứng một cách tiêu cực đối với đầu tư của Nhật hơn là đối với đầu tư của Canada và các nước châu Âu vào nước mình.
Thêm vào đó, ở phần lớn các vùng trên thế giới, thay thế cho những hệ tư tưởng cũ đã phá sản là các tôn giáo, thường là dưới hình thức những phong trào bảo vệ toàn vẹn tính chính thống của chúng (trên báo chí thường gọi là các phong trào “toàn thống”), như trong Kitô giáo phương Tây, đạo Do Thái, đạo Phật, Ấn Độ giáo và nhất là Hồi giáo. “Phi thế tục hóa” (desecularisation) là một nét trong đời sống cuối thế kỷ XX.
Ý thức về văn minh riêng còn tăng lên vì vào lúc phương Tây đang ở đỉnh cao của sự hùng cường, thì các nền văn minh không phải phương Tây bắt đầu trở lại cội nguồn: “châu Á hóa” ở Nhật, “ấn Độ giáo hóa” ở Ấn Độ, “tái Hồi giáo hóa” Trung Đông và “Tây hóa” ở Nga... Phương Tây càng muốn áp đặt những giá trị của mình về dân chủ và chủ nghĩa tự do như những giá trị phổ biến, càng muốn duy trì ưu thế quân sự và những lợi ích kinh tế của mình, thì sự phản ứng của các nền văn minh khác càng tăng lên.
S. Huntingon cho rằng các trục chính của chính trị thế giới sẽ là sự xung đột giữa “phương Tây và phần thế giới còn lại” và những sự chống trả của những nền văn minh không phải phương Tây đối với sức mạnh và những giá trị của phương Tây. Ví dụ nổi bật nhất của sự hợp tác chống phương Tây là mối liên hệ đang được thiết lập giữa các quốc gia Khổng giáo và Hồi giáo để thách thức lại sức mạnh và những giá trị của phương Tây.
Những đặc trưng và những khác biệt về văn hóa thường ít bị thay đổi hơn và, do đó, việc loại bỏ và giải quyết chúng thường khó khăn hơn những đặc trưng và những khác biệt về chính trị và kinh tế. Ở Liên Xô cũ, chẳng hạn, người cộng sản có thể trở thành người dân chủ, người giàu thành người nghèo và ngược lại, nhưng người Nga theo Chính thống giáo không thể trở thành người Estonia theo Gia tô giáo. Một người Pháp có thể là nửa Pháp nửa Ảrập, hoặc là công dân của hai nước, nhưng rất khó trở thành nửa Gia tô giáo nửa Hồi giáo.
Cuối cùng, chủ nghĩa khu vực kinh tế tăng lên cũng làm cho ý thức về văn minh riêng cũng tăng lên. Vả chăng, chủ nghĩa kinh tế khu vực chỉ có thể thành công khi nó bám rễ vào nền văn minh chung của khu vực. Cộng đồng châu Âu dễ hình thành hơn vì nó dựa vào văn hóa phương Tây và Kitô giáo phương Tây, nhưng ở Đông Á một cộng đồng kinh tế như vậy khó hình thành hơn vì ở đây có những nền văn minh khác nhau.
Xuất phát từ cách nhìn thế giới theo “văn minh - tôn giáo” ấy, S. Huntington cắt nghĩa những xung đột đang diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới: giữa Hồi giáo và phương Tây, giữa các dân cư Hồi giáo và Chính thống giáo ở Nam Tư cũ, giữa người Azerbaijan và Armenia, v.v... Theo ông, những xung đột giữa các nền văn minh đã có từ lâu đời. Giữa phương Tây và Hồi giáo, sự xung đột đã kéo dài 1300 năm và chắc chắn không kết thúc sớm. “Một cuộc chiến tranh thế giới tới đây, nếu nổ ra, sẽ là một cuộc chiến tranh giữa các nền văn minh”, ông nhấn mạnh.
Từ những nhận định trên đây, S. Huntington đi tới những khuyến cáo về chính trị đối với phương Tây: cần đi tới một sự hợp tác lớn hơn và một sự thống nhất cao hơn bên trong nền văn minh của mình, đặc biệt giữa châu Âu và Bắc Mỹ; đưa các xã hội Đông Âu và Mỹ Latin có văn hóa gần gũi với phương Tây hội nhập với mình; duy trì các quan hệ chặt chẽ với Nga và Nhật; ủng hộ các nhóm tán thành những giá trị và lợi ích phương Tây trong các nền văn minh khác; ủng hộ tổ chức quốc tế nào bảo vệ những giá trị và lợi ích đó. Đặc biệt, ông khuyến cáo phải hạn chế sự gia tăng sức mạnh quân sự của những nền văn minh nào có tiềm năng đối địch với phương Tây, nhất là văn minh Khổng giáo và văn minh Hồi giáo. Đó là về ngắn hạn. Còn về lâu dài, phương Tây cần tìm ra những phạm vi thỏa thuận rộng lớn hơn với những nền văn minh khác có những sức mạnh gần ngang mình nhưng lại có những giá trị và lợi ích rất khác mình. Điều đó đòi hỏi phương Tây phải hiểu sâu sắc hơn những nền tảng tôn giáo và triết học của những nền văn minh khác, tìm ra những yếu tố giống nhau giữa phương Tây và những nền văn minh ấy. Kết luận của S. Huntington là: “Trong một tương lai có thể nhìn thấy, sẽ không có một nền văn minh toàn thế giới, mà là một thế giới trong đó những nền văn minh khác nhau phải học cách sống chung với nhau” (Libération, 23-9-1993).
Cách nhìn độc đáo của S. Huntington thật đáng suy nghĩ, vì nó đụng tới những chiều sâu không thể bỏ qua của sự phát triển trên thế giới hiện nay và sau này. Nhưng rõ ràng ở đây có một sự cường điệu nào đó, thể hiện một tâm lý bi quan nào đó của người đề xướng ra nó. Chỉ ít lâu sau khi Huntington công bố những quan điểm ấy, đã có những phản ứng tiêu cực. Josef Joffe, một nhà bác học nổi tiếng, lập tức lên tiếng trên tờ Südddeusche Zeitung (CHLB Đức) để phản bác lại. Đúng là đang có một bóng ma bay lượn trên bầu trời phương Tây, bóng ma chiến tranh giữa các nền văn hóa, buộc mỗi người phải đặt ra câu hỏi: “Anh đứng về phía nào?” và “Anh là ai?”, dựa vào sự tự ý thức của con người, vào văn hóa, mà không phải vào hộ chiếu và thẻ đảng nữa. Thế nhưng, đây là sự xung đột giữa những nền văn hóa nào? Thoạt nhìn, cách trình bày của S. Huntington có vẻ là đúng, nhưng theo J. Joffe trên thực tế không phải như vậy. Một bức tranh phức tạp hơn hiện lên. Một mặt, sự xung đột giữa các nền văn minh có từ lâu đời rồi, sự xung đột giữa Đông và Tây cũng đã có từ 1300 năm nay, những điều đó không có gì mới. Mặt khác, nhìn kỹ các cuộc xung đột, thì đó không phải là giữa các nền văn minh. Giữa Trung Quốc và Nhật Bản, chẳng hạn, đó không phải là xung đột về Khổng Tử, mà là về những tham vọng Thái Bình Dương. Ngay bên trong mỗi nền văn minh, có những lợi ích xung đột nhau. Điều đó rất đúng cả với trường hợp Hồi giáo. Giữa các nước thuộc văn minh Hồi giáo, có những chia rẽ và xung đột sâu sắc giữa các quốc gia Hồi giáo và bên trong các quốc gia đó: những cuộc đảo chính liên tiếp xảy ra, những cuộc xung đột kéo dài của “tất cả chống lại tất cả” ở Libya, và giữa các quốc gia Hồi giáo (Ai Cập chống Jemen, Syria chống Jordan, Iraq chống Kuwait, chiến tranh giữa Iraq và Iran). Theo J. Joffe, không có một thứ “Hồi giáo” nói chung. Thực chất của vấn đề không phải là ở cuộc chiến tranh giữa các nền văn hóa, mà là ở cuộc đấu tranh để phân bố lại phạm vi ảnh hưởng, cuộc đấu tranh giành quyền lực. (Xem bài “Sẽ không có những xung đột giữa các nền văn hóa, mà là...”, Za rubezhom số 36, 1993, tr. 11). Nhưng với những sự phân tích khác nhau, J. Joffe và S. Huntington cùng có chung một cách nhìn bi quan gần giống nhau về tương lai gần của thế giới. Chúng ta đã biết điều đó ở S. Huntington, còn ở J. Ioffe thì đây là kết luận: “Không ai có thể biết chắc chắn rằng mình có một phương thuốc chữa bách bệnh đối với tất cả những tai họa đó cả” (như trên).
7. Cách nhìn của phái xã hội - dân chủ
Từ đầu thế kỷ XX, như đã biết, phong trào công nhân thế giới - trước hết ở châu Âu - chia thành hai trào lưu lớn: cộng sản và xã hội - dân chủ. Trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, khi trào lưu cộng sản lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc, thì trào lưu xã hội - dân chủ vẫn tiếp tục tồn tại với những ảnh hưởng lớn mạnh, tuy có giảm đi phần nào ở một số nước (Pháp, Thuỵ Điển, ý, v.v...). Những biến đổi trên thế giới đặt ra cho các đảng xã hội - dân chủ tập hợp với nhau trong Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa những thách đố lớn về tư tưởng và chính trị. Tháng chín 1992, Đại hội XIX Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa đã thảo luận và thông qua một loạt văn bản quan trọng nhằm trả lời những thách đố ấy.
Đại hội họp ở thành phố Berlin, “tượng trưng cho những biến đổi mà những người xã hội chủ nghĩa dân chủ trên toàn thế giới đấu tranh để đạt tới: quá độ hòa bình từ chế độ độc tài sang chế độ dân chủ và gạt bỏ những chướng ngại đối với sự thống nhất nhân dân vì một sự nghiệp chung”. Phái xã hội - dân chủ đánh giá rất tích cực những biến đổi đang diễn ra và họ coi sự thách đố hiện nay là ở chỗ “bảo vệ những gì đã đạt được và bảo đảm cho tự do cũng như hứa hẹn một đời sống tốt hơn trở thành hiện thực đối với tất cả các dân tộc trên thế giới” (Social Democracy in a Changing World, Văn kiện Đại hội XIX Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa).
Trong hoàn cảnh thế giới biến đổi ghê gớm hiện nay, Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa tuyên bố “những giá trị căn bản của chúng tôi không thay đổi”, và những nguyên tắc chỉ đạo của họ vẫn là tự do, đoàn kết và dân chủ với công bằng xã hội. Họ tỏ ra hân hoan trước những thành tựu của dân chủ ở Mỹ Latin, Trung và Đông Âu và những nơi khác. Đồng thời họ lo ngại trước những “bước thụt lùi” như cuộc đàn áp ở Thiên An Môn, cuộc đảo chính ở Moskva (tháng tám 1991), sự đàn áp ở Miến Điện..., cũng như trước những vi phạm quyền con người ở nhiều nước. Trong con mắt họ, các chế độ dân chủ trẻ tuổi ở các nước đang phát triển vẫn bị đe dọa bởi các giới có thế lực quân sự và kinh tế trước đây, bởi nạn tham nhũng và tình trạng mong manh của các thể chế dân chủ. ở Đông Âu cũng vậy, các chế độ dân chủ mới đang phải đối phó với những thách đố rất lớn. Và ở tất cả những nơi mới chuyển sang chế độ dân chủ, việc xây dựng văn hóa dân chủ là vô cùng khó khăn. Vì hiện nay ở đó đang nảy nở rất nhiều đảng với ngôn ngữ chính trị mơ hồ (những người cộng sản tự coi mình là dân chủ hay xã hội chủ nghĩa), đang lan rộng thái độ hoài nghi đối với chính trị nói chung. Mối đe dọa nguy hiểm nhất là từ giới cầm quyền trước đây, mhữmg kẻ đang lợi dụng những sự bấp bênh trong quá trình biến đổi và sử dụng những ngôn từ mị dân và dân tộc chủ nghĩa không thể dung thứ được.
Phái xã hội - dân chủ đặc biệt chú trọng vấn đề công bằng xã hội. Theo họ, tình trang không điều tiết được thị trường khi chuyển sang kinh tế thị trường đang dẫn tới sự phân phối thu nhập và việc làm bất công hơn, cũng như tập trung của cải lớn hơn. Công bằng xã hội đòi hỏi tăng thêm dân chủ kinh tế trong tất cả các khu vực sản xuất và dịch vụ, từ cửa hàng, xí nghiệp tới từng vùng và cả nước. Đối với họ, cả công bằng xã hội lẫn hiệu quả kinh tế đều phải được quan tâm. Các nước cần có một sự đồng thuận xã hội về mức tiền công và điều kiện lao động, về phân phối của cải và thu nhập.
Phái xã hội - dân chủ nhấn mạnh sự hợp tác và đoàn kết quốc tế của một thế giới đang biến đổi. Vì từng nước chỉ có một lề hành động chật hẹp trong thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, nên sự hợp tác vùng và quốc tế là cực kỳ quan trọng để đạt tới hòa bình, phát triển và bảo vệ môi trường. An ninh quốc gia phải dựa vào những cố gắng vì an ninh chung. Sự kết thúc “chiến tranh lạnh” đã mở ra những cơ hội to lớn và những mục tiêu mới cho sự hợp tác vùng và quốc tế. Ngày nay khi sự đối đầu về hệ tư tưởng và quân sự đã bị vượt qua, các chính phủ, giới kinh doanh, các công đoàn và các tổ chức tình nguyện phải tập trung khắc phục những phân chia Nam - Bắc và Đông - Tây. Các nước phát triển có những cơ hội tốt nhất và trách nhiệm lớn nhất về mặt này. Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới trở thành những tổ chức thật sự toàn cầu phải được cải cách để phản ánh tốt hơn những nguyên tắc dân chủ và sự cân bằng lợi ích đúng hơn giữa nước giàu và những nước nghèo. Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa toàn thống là rất tai hại cho sự hợp tác hòa bình, phải được ngăn chặn. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay càng phải được chú trọng hơn.
Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa đưa ra những phân tích và những quan điểm về nền kinh tế thế giới nhằm thiết lập một sự “đối tác toàn cầu vì sự phát triển vững chắc”. Với việc xóa bỏ sự phân chia Đông - Tây, đã xuất hiện một thế giới nhiều cực về chính trị và kinh tế. Việc xây dựng trật tự toàn cầu mới phải dựa vào tính nhiều cực ấy, đặc biệt phải tính đến sự phân chia ngày càng tăng giữa những nước đang hưởng lợi về tiến bộ kinh tế và những nước đang bị đe dọa đẩy ra ngoài lề ngày càng tăng. Một sự phát triển không đều sẽ đặt dân chủ vào sự hiểm nghèo, dẫn tới chủ nghĩa dân tộc chính trị và tạo ra những cơ sở của nạn nghèo khổ và suy thoái môi trường. Cần bảo đảm một sự điều chỉnh theo hướng nhân đạo. Các nước đang cải cách phải đạt tới mức tăng trưởng vững bền và thực hiện các chương trình chống nghèo khổ. Phái xã hội dân chủ nhấn mạnh lại truyền thống của chế độ dân chủ - xã hội dựa vào kinh tế hỗn hợp, nhà nước phúc lợi và hợp tác quốc tế vững chắc. Kinh tế thị trường sử dụng các nguồn lực có hiệu quả hơn, cũng như thuận lợi hơn cho sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Nhưng nhà nước phải điều chỉnh những nhược điểm của nó, thiết lập một hệ thống thuế và điều tiết có hiệu quả và bình đẳng, chú trọng cơ cấu hạ tầng công cộng, khởi xướng sự phát triển nhân đạo và hoàn thiện công bằng xã hội.
Một thách đố lớn của thời đại, theo những người xã hội - dân chủ, là bảo vệ môi trường. Ngày nay không thể nói tới phát triển mà không đụng tới vấn đề môi trường. Về mặt này các nước công nghiệp phải chịu trách nhiệm đặc biệt vì gây ô nhiễm nhiều nhất: một phần năm dân số thế giới gây ra tới 4/5 tổn hại cho môi trường. Sự kết thúc của chiến tranh lạnh tạo ra khả năng chuyển những nguồn lực trước đây giành cho vũ trang sang cho phát triển.
Trong hàng ngũ Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa, đang có thêm những bộ phận mới: những người chuyển từ lập trường cộng sản sang lập trường xã hội - dân chủ (đảng Dân chủ cánh tả Italia, đảng Dân chủ cánh tả Ba Lan, v.v...). Trong số đó có cả Gorbachev cựu tống bí thư ĐCSLX. Những người này không những đã chia sẻ các quan điểm xã hội - dân chủ, mà từ kinh nghiệm bản thân, còn phát biểu về những giá trị của chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh thế giới mới. Tại đại hội XIX Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa, M. Gorbachev phát biểu một bài nhan đề Thế giới trong bước ngoặt, thể hiện tư tưởng đó. Bên cạnh những vấn đề của thế giới nói chung (khủng hoảng toàn diện của nền văn minh hiện nay và sự mở đầu một nền văn minh mới, vấn đề sống còn của loài người trước những nguy cơ lớn như thảm họa hạt nhân, bùng nổ dân số, môi trường sinh thái, vấn đề toàn cầu hóa các quá trình thế giới, chủ nghĩa dân tộc hiếu chiến và những vấn đề khác), ông đặc biệt phân tích những lý do khiến cho chủ nghĩa công sản bị phá sản, đồng thời cũng bảo vệ những giá trị xã hội chủ nghĩa trong thế giới hiện nay. Theo chính lời ông, hiện đang có những người lên án ông phản bội chủ nghĩa xã hội, song cũng có những người phê phán ông vì ông trung thành với tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Câu trả lời của ông là: “Nhà nước dựa vào hệ tư tưởng cộng sản lúc đầu đã được sử dụng có hiệu quả trong một thời kỳ lịch sử nào đó để hiện đại hóa đất nước. Nhưng cuối cùng nó bộc lộ là không có sức sống về mặt lịch sử. Sự tan rã bên trong của hệ thống được đẩy nhanh hơn do tác động của sự cô lập và tự cô lập bên ngoài không thể tránh khỏi đối với nó”. Cải tổ chính là sự lựa chọn cần thiết và đúng đắn để tránh khỏi một sự phá sản chắc chắn. Sự sụp đổ của các chế độ toàn trị ở Liên Xô và nhiều nước khác đã làm nổi rõ nhiều điều trước đây bị che đậy. Nó chứng tỏ toàn thế giới đang trải qua một thời kỳ chuyển tiếp sang một nền văn minh mới bắt đầu hình thành. Do đó quan niệm của ông về chủ nghĩa xã hội khác với sơ đồ quyết định luận của chủ nghĩa Mác. Cần quan niệm chủ nghĩa xã hội như một giá trị hợp nhất tất cả những gì tiến bộ và dân chủ. Ông nói: “Kinh nghiệm của thế kỷ XX cũng cho thấy những ý định coi chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản như một hình thái trong sự phát triển theo giai đoạn của xã hội là không đúng ngay từ đầu. Điều đó hiện nay càng thấy rõ hơn khi những mối liên hệ và phụ thuộc qua lại của sự phát triển ấy là điều kiện không thể thiếu của sự tiến bộ mà của cả sự sống còn của cộng đồng thế giới. Sự đối chiếu những định hướng giá trị, sự thi đua của các trào lưu chính trị khác nhau, đối thoại, kiểm soát lẫn nhau - tất cả những điều đó là cần thiết cho xã hội bình thường”.
M. Gorbachev cũng bác bỏ quan đểm của những người cho rằng những sự kiện đầy kịch tính cuối những năm 80 đầu những năm 90 là “chiến thắng” của tự do kinh tế và là “sự kết thúc của lịch sử”. Theo ông, trong cuộc đấu tranh giữa hai nguyên lý - tính hiệu quả và công bằng xã hội - chủ nghĩa tự do đã buộc phải vay mượn cái gì đó ở các học thuyết xã hội chủ nghĩa. Về phần mình, những người xã hội chủ nghĩa phải áp dụng những phương pháp do các nhà lý luận và chính trị của chủ nghĩa tự do tạo nên, nếu không thì khi cầm quyền họ sẽ mất năng lực hoạt động và bỏ mất chính quyền.
Ông khẳng định rằng những giá trị thường được đưa vào tư tưởng xã hội chủ nghĩa không mất đi thực chất của chúng, chừng nào vẫn còn phản ảnh những hiện thực tồn tại của con người trong thế giới này. Sự phá sản của chế độ toàn trị ở Liên Xô là sự phá sản của một chế độ được gọi là chủ nghĩa xã hội nhưng thật ra không phải thế.
Nhìn tới triển vọng của thế giới, ông vẫn tỏ ra lạc quan về một nền văn minh toàn cầu, trong đó con người là mục tiêu và ý nghĩa của tiến bộ, mà không phải là công cụ của nó. nghĩa là một nền văn minh dựa vào chủ nghĩa văn minh toàn cầu. Trong nền văn minh này, tư tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn có và phải có vị trí của nó, miễn là nó phải được suy nghĩ lại. Bởi vì như ông quan niệm, định hướng theo những giá trị xã hội chủ nghĩa sẽ giúp hiểu đúng hơn những thực tế kinh tế và chính trị xã hội.
8. Cách nhìn của những người cộng sản
Sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, cho đến nay (ít ra là trong tay chúng tôi) chưa có một cuốn sách hay một bài nghiên cứu lớn nào của người cộng sản trình bày có hệ thống cách nhìn của mình về thế giới hôm nay và ngày mai. Đó đây, có những nhận định lẻ tẻ của người này người khác khi bàn tới những vấn đề này khác. Và những nhận định ấy thật ra cũng không thống nhất, vì khác với trước đây, khi những người cộng sản có tổ chức quốc tế của mình hay có những diễn đàn chung của mình để đi tới những nhận định thống nhất như kiểu Hội nghị các đảng Cộng sản và Công nhân ở Mascva năm 1957 và 1960), hiện nay không có những tổ chức và những diễn đàn như vậy.
Tuy nhiên, theo dõi những phát biểu gần đây ở nơi này hay nơi khác, có thể thấy một số điểm giống nhau trong cách nhìn của những người cộng sản. Trước hết, mặc dù không nhắc lại luận điểm cơ bản về thời đại hiện nay như thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, những người cộng sản vẫn tin rằng chủ nghĩa xã hội vẫn là tương lai của loài người. Chủ nghĩa xã hội chỉ lâm vào tình trạng khủng hoảng tạm thời mà thôi. Có tác giả (bài “Chủ nghĩa xã hội - xu hướng phát triển của xã hội loài người”, Tạp chí Triết học, Hà Nội số 2.1993) khẳng định: “Vì chủ nghĩa xã hội gắn liền với xu hướng xã hội hóa (“... chỉ số phát triển của xã hội loài người được thể hiện ở trình độ xã hội hóa cao của nó”), nên tương lai của xã hội loài người là chủ nghĩa cộng sản” như học thuyết về xã hội của Mác đã tiên đoán. Tác giả chứng minh cho điều đó bằng những quá trình xã hội hóa đang diễn ra “ngay trong lòng các nước công nghiệp phát triển”: xã hội hóa các quan hệ quốc tế, xã hội hóa về sở hữu, xã hội hóa về chính trị, v.v...
Sự thất bại của chủ nghĩa xã hội được tác giả giải thích bằng việc “tuyệt đối hóa nhảy vọt”, do đó đã “tuyệt đối hóa tính quyết định của cách mạng xã hội”, “đặt xã hội vào chỗ nó chưa phải là nó, đề ra những bước đi quá sức nội tại của nó”, và đó là “một trong những nguyên nhân căn bản làm nên thất bại tạm thời của hơn bảy mươi năm xây dựng ‘chủ nghĩa xã hội hiện thực’ thời gian qua” (tạp chí đã dẫn, tr. 26).
Còn những nguyên nhân căn bản khác? Có người nói tới sự “phản bội” của những nhà lãnh đạo nào đó. Có người nói tới những âm mưu và hoạt động phá hoại của chủ nghĩa đế quốc. Cũng có người nói tới cả tình trạng thoái hóa về đạo đức của những đảng viên cộng sản khi cầm quyền...
Nếu về sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội còn có những lời bàn luận theo kiểu trên, hoặc gần giống như thế, thì về tương lai gần của thế giới hầu như không thấy một sự phân tích cụ thể nào.
Có lẽ trong các nhà lý luận cộng sản, Lucien Sève là người để nhiều công sức hơn cả vào việc xem xét lại lý luận về chủ nghĩa cộng sản. Năm 1990, ông công bố cuốn Chủ nghĩa cộng sản - hơi thở thứ hai nào? (Communisme - quel second soufle?, Editions sociales, 1990, Paris), với tham vọng đem lại sức sống mới cho chủ nghĩa cộng sản trong một thế giới như chính ông nói, đang diễn ra “một sự đụng đầu quyết liệt trên toàn hành tinh của tương lai và hiện tại chính trị” (tr. 21). Một mặt, “trong thế giới xã hội chủ nghĩa, một cái gì rất căn bản đã bùng nổ”, còn trong thế giới tư bản chủ nghĩa, vào giai đoạn bấp bênh này của lịch sử, cách suy nghĩ và hành động cộng sản rõ ràng không mấy nặng cân trong các lực lượng chính trị và văn hóa, và “tương lai đang bị mắc bẫy” (tr. 21). Không đi sâu vào những phân tích thuần túy lý thuyết của ông (ông muốn “phát hiện lại chủ nghĩa cộng sản”), ở đây chỉ nói tới những ý kiến của ông về thế giới hiện nay và trong tương lai gần gũi. Giống như một số nhà lý luận cộng sản khác, ông cho rằng sự thất bại của chủ nghĩa xã hội chính là ở chỗ: trên đường đi của nó đã “đánh mất ý nghĩa của nó” (tr. 79). Vì thế trong bản thân nó nảy sinh những đối kháng mà cần phải có “một cuộc cách mạng trong cách mạng” (tr. 81). Xuất phát từ đó, ông tán thành cải tổ ở Liên Xô với tinh thần: không thể cải tổ chủ nghĩa xã hội nếu không khôi phục lại “chân trời của nó” (tr. 83). Nói cách khác, phải trở về nguồn để làm cho chủ nghĩa xã hội mang bộ mặt dân chủ và nhân đạo. Bằng cách đó, chủ nghĩa cộng sản sẽ tìm thấy “hơi thở thứ hai” trong các nước xã hội chủ nghĩa. Ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, trong con mắt ông, những dự kiến của Mác từ giữa thế kỷ XIX đang trở thành hiện thực hơn bao giờ hết. Đó là những xu hướng “cách tân nhất của thời đại chúng ta”: lực lượng sản xuất triển khai rộng khắp, những điều tiết bằng tiền - tư bản đã bị vượt qua, những người sản xuất liên kết với nhau bằng những sức mạnh xã hội khách quan của mình và họ đã có sự chiếm hữu thật sự, những đối kháng giai cấp bị loại bỏ, sự phát triển toàn bộ của các cá nhân, sự tiêu vong của nhà nước, sự đối địch giữa các quốc gia bị loại bỏ, việc chuyển từ ngẫu nhiên sang tự do hiện thực, v.v... Ông nói: “... nếu như từ giữa thế kỷ trước, Mác đã có thể nhìn thấy trong những đảo lộn lịch sử ấy cái hướng tất yếu của thời kỳ sau chủ nghĩa tư bản, thì những đảo lộn chẳng phải đang làm nổi rõ hơn triển vọng hiện nay của chúng ta, khi biết bao nhiêu giả định về một nền văn minh mới đang xuất hiện với một nhịp độ gia tốc đó sao? Tương lai của chúng ta chẳng phải được gọi bằng chủ nghĩa cộng sản hơn bao giờ hết đó sao?” (tr. 86). Nói cách khác, L. Sève coi nền văn minh mới đang xuất hiện sẽ dẫn tới và chắc chắn dẫn tới chủ nghĩa cộng sản. Tương lai đó, theo ông, không phải là chủ nghĩa tư bản tự do, cũng không phải là chủ nghĩa xã hội quan liêu, mà là một thứ “chủ nghĩa xã hội ngang tầm” (socialisme à la hauteur) với những điều kiện lịch sử mới. Bằng cách lập luận khá độc đáo, ông cho rằng những nét chủ yếu của tương lai duy nhất có thể có “không phải xuất phát từ những đối kháng của một phương thức sản xuất trong đó vấn đề quan hệ xã hội đóng vai trò quyết định nữa, mà là từ những giới hạn tăng trưởng của một kiểu lực lượng sản xuất nào đó trước hết được nhìn theo các quan hệ với tự nhiên” (tr. 94). Và “Phạm trù trung tâm không còn là tha hóa nữa, mà là ô nhiễm” (tr. 94).
Theo hướng đó, L. Sève suy nghĩ lại hàng loạt vấn đề, từ những vấn đề có liên quan với “cách mạng” trong thời đại hiện nay, đến những vấn đề về “Đảng cộng sản” trong hoàn cảnh thế giới mới. Với “hơi thở thứ hai” của chủ nghĩa cộng sản, hay nói cách khác, với chủ nghĩa cộng sản được suy nghĩ lại theo lối của ông, ông khẳng định chủ nghĩa cộng sản hơn bao giờ hết. Đây là những kết luận của ông (được nêu rõ cuối mỗi phần cuốn sách):
1. Một đảng cộng sản không có lý do gì để sợ công khai tự tuyên bố mình theo chủ nghĩa cộng sản (xem tr. 104).
2. Những người cộng sản không có gì phải sợ khi đẩy tới cùng cuộc cách mạng của cách mạng (xem tr. 181)
3. Một đảng cộng sản không có gì phải sợ những quyền lực toàn vẹn của dân chúng cộng sản (peuple communiste) đối với chính mình: phải đẩy dân chủ tới cùng theo con đường chủ nghĩa cộng sản (xem tr. 257).
Và như vậy, lúc này người cộng sản vẫn cứ là người cộng sản, hơn nữa, phải là người cộng sản hơn (tr. 264).
Điều đáng tiếc là những suy nghĩ mới của L. Sève về chủ nghĩa cộng sản đã không được chính những người cộng sản trao đổi và thảo luận sôi nổi như về những vấn đề nảy sinh trước đây trong phong trào cộng sản quốc tế. Vì thế, xin nhắc lại rằng ở đây chỉ giới thiệu những ý kiến khác nhau mà chưa phải những quan điểm thống nhất của những người cộng sản trên thế giới trong hoàn cảnh hiện nay. Lịch sử chưa cho phép đi tới những quan điểm thống nhất như vậy chăng?
9. Cách nhìn của Edgar Morin
Trong những năm gần đây, E. Morin nổi lên như một nhà tư tưởng có ảnh hưởng ở Pháp và phương Tây. Những tìm tòi của ông về phương pháp ở một mức độ nào đó được nhiều người ví với Bàn về phương pháp của Descartes, cha đẻ của chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVII. Nhưng ở đây chúng tôi chỉ chú trọng tới những quan điểm của ông về thế giới hôm nay, thể hiện khá đầy đủ trong cuốn Để từ giã thế kỷ XX và một số bài viết gần đây của ông.
Có thể nói ông là người theo thuyết bất định (theorie d’incertitude), không thừa nhận sự tiến hóa của loài người theo một phương hướng hay mỗi định luật nào cả. Thế giới và loài người luôn luôn sống trong tính phức hợp (la complexite), trong cái bấp bênh (l’incertain), cái bất định (l’indetermine). Như lời ông nói: “Thế giới của chúng ta là một thế giới của một cái không thể đoán trước và của sự hỗn độn, tức là cái bấp bênh. Không những bấp bênh về kinh nghiệm, mà bấp bênh cả về nhận thức, vì những phạm trù tinh thần của chúng ta không thể nắm bắt được những hiện thực không thể nào hiểu được như nguồn gốc của thế giới” (Edgar Morin, Philosophe de l’incertain, Magasine litteraire, No. 312, Juillet-Aout 1993, Paris, p.18). Theo ông, ý thức con người đang ở trong “đêm tối và sương mù”, tương lai thế giới không thể tiên đoán được. Nhưng không phải vì thế mà ông rơi vào một thứ chủ nghĩa hoài nghi hay chủ nghĩa hư vô, mà vấn đề là phải đi tới một chiến lược nhận thức (stratégie de connaissance) phù hợp với cái bấp bênh và bất định ấy (xem Pour sortir du XX e siècle, tr. 24).
E. Morin nhìn thế giới của thế kỷ XX như một thế giới khủng hoảng với ý nghĩa là “tính bấp bênh xuất hiện ở nơi mà mọi cái có vẻ chắc chắn, được điều khiển, do đó có thể đoán trước”. Nhìn bằng con mắt của “tính liên tục”, thế giới có vẻ như tiến dần lên, theo tuyến tính, qua những sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, kinh tế, công nghiệp, tiêu dùng, văn minh (đó là cách nhìn chi phối các quan niệm xã hội học hiện nay). Nhưng nếu nhìn bằng con mắt của “tính đứt đoạn”, thì đó là “một thế kỷ bùng cháy như núi lửa qua hai cuộc chiến tranh lớn nhất, qua những cuộc khủng hoảng ghê gớm của các xã hội”, “những quá trình giải phóng sẩy hụt và trệch đường” (như trên, tr. 327-328). Với cách nhìn ấy, các xã hội phương Tây đầy ắp những khủng hoảng: khủng hoảng văn minh, khủng hoảng văn hóa, khủng hoảng giá trị, khủng hoảng gia đình, khủng hoảng nhà nước, khủng hoảng đô thị, khủng hoảng nông thôn...và “các xã hội này vừa bị các cuộc khủng hoảng ấy đe dọa, vừa sống bằng những cuộc khủng hoảng ấy” (như trên, tr. 331). Còn các xã hội kiểu Stalin thì dường như không có khủng hoảng vì tính bất động, xơ cứng và đông lạnh chính trị, vì kỷ luật nghiệt ngã của bộ máy... Nhưng dưới bề ngoài ấy, ông dự báo từ đầu những năm 81 rằng “... toàn bộ xã hội xô-viết chắc chắn sẽ bị khủng hoảng và sẽ tan vỡ” (như trên, tr. 331). Trong một thế giới bị chi phối bởi hai siêu cường - Mỹ và Liên Xô - ông nhìn thấy cả hai siêu cường đó bị xâu xé giữa những đối lập và mâu thuẫn có tính chất khủng hoảng. ở Mỹ, những đối lập và mâu thuẫn ấy dẫn tới những hỗn loạn lớn khiến đôi khi nhà nước bị rung chuyển, lung lay, thậm chí tê liệt. Nhưng chính là qua những hỗn loạn ấy mà sức sống của xã hội Mỹ biểu hiện ra. Ngược lại, ở Liên Xô, những hỗn loạn ấy bị đẩy xuống dưới mặt đất, những nhân tố khủng hoảng bị dìm xuống trước khi nổi lên mặt, nhưng vì thế mà tiềm năng khủng hoảng to lớn hơn. Mỹ và Liên Xô đều là những “sức mạnh-suy yếu”, mỗi bên vừa là một siêu cường quốc, vừa là một siêu bất lực.
Cả phương Tây lẫn phương Đông đều chịu ảnh hưởng của những chất men khủng hoảng. Thế giới thứ ba thì trải qua sự phát triển của tình trạng kém phát triển, nằm giữa sống và chết. Như vậy, “khắp nơi, trong thế giới phát triển quá mức cũng như trong thế giới đang phát triển, có một sự phát triển của những sự kém phát triển, không tách rời với chính bản thân sự phát triển” (như trên, tr. 335).
Tất cả những ý tưởng ấy đã được E. Morin đẩy tới xa hơn khi bước vào những năm 90. Trong một bài đăng trên Le Monde (tháng 11 - 1992), dưới nhan đề Trái đất - thiên thể lang thang, ông nói tới sự hấp hối của tính hiện đại vào cuối thế kỷ này. Ra đời từ cuối thế kỷ XV, tính hiện đại đồng nghĩa với những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, của lý trí, của quy luật vĩ đại về sự tiến bộ không thể đảo ngược được. Nó đã trở thành một niềm tin, hơn nữa một tôn giáo. Người ta tin chắc rằng sẽ đi tới một sự hoàn tất chiến thắng của Lịch sử, với Dân chủ, hay với chủ nghĩa xã hội, hay với xã hội công nghiệp tùy mỗi người mong muốn. Những sự khủng hoảng của tiến bộ đã bắt đầu trong những năm 20 - 40. Tính hai mặt của tiến bộ khoa học bộc lộ năm 1945, với Hiroshima. Những năm 70, sự báo động về sinh thái hành tinh làm nổi lên tính hai mặt của sự phát triển công nghiệp. Rồi với sự sụp đổ của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mác, ý nghĩa cứu thoát của cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng mất đi, không thể bù đắp được. Và bây giờ, vào cuối thế kỷ này, người ta thấy khoa học không phải chỉ làm sáng tỏ, mà còn làm mù quáng cả cuộc phiêu lưu của chính nó, vượt ra khỏi sự kiểm soát và lương tâm của chính nó. Những điều người ta từng coi là những bước tiến của ý thức con người hóa ra đã bị chi phối bởi sức mạnh vô thức khủng khiếp. Ông nói: “Chúng ta không còn ở trong giai đoạn cuối cùng đi tới “tương lai rạng rỡ” nữa. Chúng ta đang ở trong “Đêm tối và sương mù”. Chúng ta không phải ở trong thời điểm hoàn tất lịch sử loài người mà vẫn còn ở trong thời tiền sử của tinh thần con người... Tiến bộ không được tự động bảo đảm bởi một quy luật nào của lịch sử. Biến thiên không nhất thiết là phát triển. Từ nay, tương lai có tên gọi là bất định”.
Theo ông, khủng hoảng về phát triển diễn ra trên quy mô toàn hành tinh. Nó không chỉ hoành hành ở Thế giới thứ ba (thường được gọi là kém phát triển), mà cả ở thế giới phương Tây (thường được coi là thế giới phát triển), vì trong con mắt ông, đó cũng là một thế giới kém phát triển về đạo đức, trí tuệ và tình cảm trong (và do) sự phát triển công nghệ của chính nó.
Cuộc khủng hoảng của tính hiện đại, của lý trí, của chủ nghĩa duy lý có nghĩa là mất niềm tin vững chắc vào Tiến bộ, vào Tương lai. Có hai cách đáp ứng cuộc khủng hoảng này: chủ nghĩa toàn thống mới (le néo - foundamentalisme) và chủ nghĩa hậu hiện đại (le postmodernisme). Cái thứ nhất muốn bám rễ lại vào truyền thống đã bị chủ nghĩa hiện đại vất bỏ. Nó hiện ra dưới những hình thức tôn giáo hay tộc người, và trở thành quyết liệt khi gồm cả những hình thức đó. Chủ nghĩa toàn thống mới chủ trương đoạn tuyệt với cuộc phiêu lưu của sự phát triển, trở về với quá khứ. Nhưng thật ra, nó vẫn sử dụng nhà nước dân tộc, kỹ thuật, công nghiệp, vũ khí, và điều đó khiến cho nó trở thành kẻ đi tới một sự phát triển chưa hề biết.
Chủ nghĩa hậu hiện đại thì cho rằng cái mới không nhất thiết cao hơn cái cũ, và sự tiến bộ không được bảo đảm về mặt lịch sử. Nó trở thành mù quáng khi tin rằng mọi cái đều đã được nói lên, mọi cái đều chỉ là lặp lại, chẳng có lịch sử mà cũng chẳng có phát triển. Nó đứng ra ngoài những biến cố đang diễn ra vì mọi cái đều không có gì chắc chắn cả.
Khác với những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại, E. Morin không đứng ra ngoài các biến cố, ông không quan niệm rằng mọi cái đều lặp lại, mọi cái đều đã được nói lên, ông quan niệm lịch sử là bất định, không ngưng trệ, nhưng cũng không đường bệ tiến tới tương lai rạng rỡ. Lịch sử được phóng vào một cuộc phiêu lưu không thể biết rõ.
Thế giới của thế kỷ XX mù quáng lạc vào những ảo tưởng tệ hại nhất. Bằng những kinh nghiệm này, E. Morin cho rằng những ảo tưởng ấy đã tiêu tan hoàn toàn vào cuối năm 1989.
Ông nhìn thấy niềm hy vọng dâng lên khắp nới ở những dân tộc khát khao dân chủ. Nhưng, theo ông, niềm hy vọng về dân chủ thật mong manh. Không có cái gì giành được xong xuôi cả. Không ai biết được những gì sẽ xảy tới với châu Âu đang tan rã và đang tập hợp lại. Nhất là không ai biết những gì xảy tới từ “đế chế cũ” (tức là Liên Xô) đang vận động hỗn loạn vừa trở về quá khức vừa đi tới tương lai. Những gì sẽ xảy tới với Trung Quốc, với Đông Nam Á, với vùng đảo Caraip, với các nước châu Mỹ, với châu Phi, với cả hành tinh này - chưa ai biết cả. “Ngọn gió Lịch sử vừa dâng lên đang cuốn chúng ta vào một cuộc phiêu lưu bí ẩn mới, ngoài những sơ đồ quen thuộc. Trái đất chúng ta, theo định nghĩa cũ về từ hành tinh, đúng là một thiên thể lang thang”.
E. Morin cho rằng chúng ta không những ở trong cái chưa biết, mà còn trong cái chưa có tên gọi. Hiểu biết của chúng ta về thời đại chỉ thể hiện ở tiếp đầu ngữ “hậu” (post): hậu công nghiệp, hậu hiện đại, hậu chức năng chủ nghĩa... hoặc ở tiếp đầu ngữ tiêu cực “chống” (chống toàn trị). Chúng ta đang ở trong một sự mơ hồ sâu sắc của một kỷ nguyên hấp hối, trong đó mọi triệu chứng của cái chết cũng có thể là triệu chứng của sự sinh đẻ.
Tính phức hợp của những vấn đề thế giới đang làm chúng ta bó tay. Vì thế cần phải trang bị lại về trí tuệ và suy nghĩ về tính phức hợp.
E. Morin vẫn tin vào những giá trị lớn của thế giới loài người: dân chủ, tiến bộ. Nhưng đối với ông, dân chủ tuy là một giải pháp thật, song là một giải pháp kiểu đặc biệt: nó sống bằng các vấn đề và tạo ra các vấn đề. Tiến bộ cũng vậy, nó có thể có, nhưng không được bảo đảm và không một tiến bộ nào là hoàn tất cả, nó không ngừng tự thoái hóa. Đây là kết luận của ông: “Từ nay Tiến bộ lại càng quý giá hơn vì nó không tuân theo một tất yếu khách quan nào, nó không có một bảo đảm lịch sử nào. Đừng tin rằng tương lai đã được chương trình hóa, cũng đừng cố chương trình hóa nó, mà tự hướng mình vào vài ý tưởng chủ đạo, đặc biệt là bộ ba lý tưởng của Cách mạng Pháp: “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Chúng ta có thể nghĩ tới ý đồ lớn duy nhất: làm cho Trái đất thành văn minh.
*
Trở lên trên, chúng tôi đã giới thiệu sơ lược một số cách nhìn khác nhau của những tác giả tiêu biểu cho những xu hướng khác nhau. Tất nhiên, còn có thể tiếp tục danh mục này. Ở đây, chưa nói tới Alain Touraine với Phê phán tính hiện đại, Jacques Attali với Những đường chân trời, Michel Poniatowski với Lịch sử là tự do, và những tác giả nổi tiếng khác. Càng chưa đụng tới những phân tích và tất cả dự báo có giá trị về từng lĩnh vực của đời sống loài người hiện nay và sắp tới, như Kinh tế thế giới (1990-2000) - mệnh lệnh tăng trưởng của Trung tâm Nghiên cứu những Triển vọng và Thông tin Quốc tế, Tình trạng hành tinh của hai nhà nghiên cứu Mỹ R. Brown và E. Young, v.v... Lại càng chưa đụng tới vô số những sách báo viết về từng vùng, từng khối, từng nước, nhất là những nước đang đóng vai trò quan trọng trên vũ đài chính trị, kinh tế và cả văn hóa trên thế giới. Và những gì có trong tay chúng tôi là rất ít ỏi so với những gì hiện có trong các thư viện, các ngân hàng dữ kiện...
Chỉ mới đụng tới một mảng trong dãy núi khổng lồ kia cũng có thể đem lại một suy nghĩ cần thiết: cái thế giới mà chúng ta đang sống quả là một thế giới vô cùng phong phú, vô cùng phức tạp, nó vận động theo những cái chúng ta đã biết và theo vô số những cái mà chúng ta chưa biết. Không thể nhìn thế giới bằng một cách tiếp cận giản đơn, dựa vào những chân lý có sẵn. Sự tìm hiểu thế giới hôm nay và ngày mai chỉ mới bắt đầu...
Những cách nhìn được giới thiệu trên đây thật khác nhau và trái ngược nhau. Cái nào đúng và cái nào sai, thật khó kết luận. Theo chúng tôi, mỗi cách nhìn đều phản ánh một hiện thực nào đó của thế giới mà chúng ta không thể bỏ qua.
Mỗi sự phân loại sơ lược có thể cho chúng ta thấy có những “trục” sau đây:
* Cách nhìn tuyến tính - cách nhìn phi tuyến tính (thậm chí là cách nhìn theo vòng tròn, chu kỳ);
* Cách nhìn theo những quy luật lịch sử khách quan và tất yếu - cách nhìn bất định;
* Cách nhìn dựa vào sự phát triển của nền văn minh, văn hóa - cách nhìn theo các hình thái xã hội-kinh tế;
* Cách nhìn bi quan - cách nhìn lạc quan...
Chưa bao giờ lại có nhiều, rất nhiều cách nhìn thế giới khác nhau như bây giờ. Một dấu hiệu của trí tuệ thời đại, khi loài người đang chuyển từ kỷ nguyên này sang kỷ nguyên khác chăng?
Dù sao, cũng cần đi tới một cách nhìn nào đó về thế giới hôm nay và ngày mai gần gũi, một cách nhìn có thể chấp nhận được ở những người muốn sống và hành động trong thế giới đó mà không muốn trở thành lạc lõng. Đó là công việc mà chúng tôi sẽ cố thử làm trong phần sau.
Nguồn: Những bài viết của Nguyễn Kiến Giang trong thập niên 90 được đăng rải rác trên báo chí trong ngoài nước, được chuyền tay hoặc chưa công bố, nay được tập hợp thành loạt bài “Suy tư 90” cho bản đăng chính thức trên talawas, với sự hiệu đính cuối cùng của tác giả.
No comments:
Post a Comment