Nguyễn Kiến Giang
Suy nghĩ về công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay
1.
“Công bằng là đạo người ta ở đời”
Có lẽ không cần phải chứng minh dài dòng rằng công bằng từ ngàn xưa đã là một trong những khát vọng lớn nhất, một trong những lý tưởng xã hội cao nhất của mọi con người. (Trong tiểu luận “Công bằng xã hội và kinh tế”, tôi đã trình bày khái quát về vấn đề này, xin được khỏi nhắc lại). Ðối với người Việt Nam, công bằng bao giờ cũng được coi là một thứ đạo lý sống của cộng đồng cũng như của mỗi cá nhân. “Công bằng là đạo người ta ở đời...”, nhiều người đã thuộc lòng câu này từ thời nhỏ tuổi.
Thật ra, chưa có một tác giả nào nói một cách kỹ lưỡng và có hệ thống về đạo lý này của người Việt cả. Nhưng qua những lẽ sống và những hiện thực sống của người Việt xưa nay, có thể hiểu được những nội dung cơ bản của nó. Và cũng như ở các nước khác, khái niệm “công bằng” được hiểu, được xác định từ những cái ngược lại với nó, mà theo ngôn ngữ khoa học, đó là sự xác định theo lối tiêu cực: công bằng được hiểu từ những bất công.
Người Việt cảm nhận rất sâu sắc những nỗi bất công lớn qua cuộc đời của mình cũng như qua những quá trình lịch sử của dân tộc mình: những bất công mà cộng đồng mình gánh chịu đối với những thế lực bên ngoài cộng đồng, những bất công trong nội bộ cộng đồng về địa vị, tài sản, công tội, trí tuệ v.v...
Khi sự độc lập tự chủ của đất nước bị xâm phạm và tước đoạt thì nỗi bất công lớn nhất chiếm lĩnh tim óc mọi người Việt là thân phận nô lệ của mình đối với những thế lực xâm lược bên ngoài. Mà trong lịch sử Việt Nam không ít lần cả dân tộc rơi vào cảnh nô lệ ấy. Vì thế, công bằng trước hết được cảm nhận như sự thoát khỏi thân phận nô lệ cho nước ngoài. Bằng cảm nhận ấy - và nó đã trở thành một tâm thức chủ đạo của người Việt - không ít lần người Việt đứng lên chiến đấu một mất một còn giành lại độc lập tự chủ của đất nước. Ðạo lý công bằng này được nói rõ trong những “tuyên ngôn” lớn, chỉ tính một ngàn năm trở lại đây, nó thể hiện nổi bật từ “Nam quốc sơn hà nam đế cư” đến “Không có gì quý hơn độc lập tự do”...
Trong nội bộ cộng đồng dân tộc, sự cảm nhận về bất công cũng được thể hiện rất rõ trong các quan hệ xã hội khác nhau: thống trị - bị trị; giàu - nghèo; sang - hèn... Xin nói ngay, các quan hệ này không được coi là bất công tự bản thân chúng. Ðạo lý Nho giáo, Phật giáo và cả Ðạo giáo nữa ăn rất sâu vào tâm thức người Việt, khiến người ta coi những quan hệ thứ bậc (hierarchique) như một cái gì tự nhiên, do Trời định đoạt, do phúc đức cha ông, do đức độ cá nhân tạo nên. Ở người Việt ngày trước, không hề có khái niệm “giai cấp” (do đó, cũng không có khái niệm “đấu tranh giai cấp”) mà khái niệm chiếm ưu thế trong các quan hệ xã hội là “hòa”, là “nhường”, là “nhẫn”. Thỉnh thoảng có nổi lên những cuộc đấu tranh xã hội quyết liệt nhưng không phải là để xóa bỏ hệ thứ bậc xã hội cũ mà là xóa bỏ những hiện tượng loạn cương, như xã hội học gọi tên.
- Có vua là tự nhiên, người ta chỉ chống lại hôn quân (bạo chúa) và ủng hộ minh quân (minh chúa). Có quan cai trị cũng là tự nhiên, người ta chỉ chống tham quan ô lại và ưa thích những liêm quan, những vị quan trung nghĩa. Giàu nghèo cũng là tự nhiên, người ta chỉ bài bác những ác bá, trọc phú và tán dương những người giàu ân đức. Trong quan hệ gia đình cũng vậy, người ta không chống lại quyền uy gia trưởng mà chỉ bài bác những người bố ác nghiệt với con cái, những anh em bất nghĩa với nhau.
Người ta tin vào “mệnh trời”, vào sự sáng suốt của trời (“Trời có mắt”), vào “ác giả ác báo”, vào “luân hồi” như một sự điều chỉnh tự nhiên... Một xã hội công bằng đối với người Việt xưa là vậy. Công bằng về đạo lý hơn là về xã hội, về tính chính đáng (legitimité) hơn là về quyền lợi kinh tế. Nó hướng tới một trạng thái “đại đồng” nhưng “tiểu dị”, tới một trật tự được coi là tự nhiên, mà thật ra, đó là một trật tự noi theo những khuôn mẫu (stéréotyes) lâu đời. Nói như thế, không phải là tuyệt đối không có xu hướng bình quân trong ý thức xã hội. Những vết tích thị tộc nguyên thủy, những tác động dòng họ thường là chỗ dựa khá bền vững cho xu hướng bình quân, nhất là ở các làng xã. Nhưng xu hướng này chưa bao giờ là xu hướng chủ đạo và cũng chưa bao giờ được “lý luận hóa”.
Người Việt đấu tranh cho đạo lý công bằng một cách bền bỉ và đôi khi cũng khá quyết liệt, nhất là vào những thời kỳ suy tàn của các triều đại (Lý, Trần, Lê, Nguyễn), bằng những cuộc nổi dậy mà một số nhà sử học gọi chưa thật chính xác lắm là các cuộc “khởi nghĩa nông dân” hay “cách mạng nông dân” (mô phỏng theo những cách gọi cuộc “chiến tranh nông dân” ở châu Âu thời Trung đại và Cận đại). Trên thực tế, đó là những cuộc nổi dậy nhằm thay đổi triều đại hơn là những cuộc khởi nghĩa mang những lý tưởng công bằng xã hội của nông dân (như các cuộc nổi dậy Hoàng Cân hay Thái Bình thiên quốc ở Trung Quốc ngày xưa, dù rằng những cuộc nổi dậy này vẫn chưa thoát khỏi hệ tư tưởng quân chủ cổ truyền). Song nhìn chung, các cuộc đấu tranh cho công bằng chủ yếu vẫn diễn ra một cách “hòa bình”, bằng những hình thức bài bác, chế giễu và kiện tụng.
Từ cuối thế kỷ thứ XIX - đầu thế kỷ thứ XX, các quá trình xã hội mới được mở đầu ở Việt Nam. Một mặt, sự thống trị của thực dân Pháp được thiết lập; đất nước mất độc lập tự chủ; dân Việt Nam trở thành nô lệ cho nước ngoài; nỗi bất công lớn nhất đối với dân Việt Nam xuất hiện và đây không chỉ là bất công về chính trị. Những sự bóc lột của thực dân Pháp (chiếm đất đai làm đồn điền, độc quyền mua bán, khai thác hầm mỏ, v.v...) dẫn tới chỗ của cải đất nước phần lớn lọt vào tay những “ông chủ” nước ngoài, gây ra cùng khổ, đói nghèo của số đông dân chúng. Mặt khác, các quan hệ kinh tế và xã hội mới đã hình thành theo hướng phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt, những bất công và giàu nghèo tăng lên. Ngoài những bất công về đạo lý, về chính trị, còn chồng chất thêm những bất công mới gắn liền với đời sống vật chất - kinh tế hàng ngày của người dân. Ý thức về những bất công ấy ngày càng lan rộng và ăn sâu trong xã hội.
Lúc đầu, ý thức này nảy sinh dưới ảnh hưởng của thuyết tiến hóa (Darwin, Spencer...), lý giải những bất công đối với dân tộc theo lối “mạnh được yếu thua”. Về sau, từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin du nhập vào Việt Nam thì những bất công trong các quan hệ giữa dân tộc và chủ nghĩa thực dân và giữa các giai cấp xã hội khác nhau được giải thích theo thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Khái niệm “công bằng xã hội” không phải được hiểu từ những kiểu bất công “đối ngoại” và “nội bộ” ấy mà chủ yếu là từ kiểu bất công thứ nhất, vì không một người Việt Nam nào, dù thuộc giai cấp nào, lại không cảm thấy nỗi nhục mất nước để nuôi khát vọng độc lập và tự do của dân tộc. Không những thế, các cuộc đấu tranh chống ách áp bức nước ngoài được tiến hành chủ yếu bằng sức mạnh bạo lực. Những bất công trong nội bộ cộng đồng tạm thời được đặt xuống dưới và được giải quyết bằng những biện pháp ôn hoà, trừ một số trường hợp cực đoan (như thời kỳ xô viết Nghệ An, với khẩu hiệu “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ!”).
Song không phải vì thế mà ý thức về công bằng xã hội bị lu mờ. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nào, ngoài mục tiêu giành độc lập dân tộc ra, cũng noi theo những lý tưởng xã hội nào đó. Ở Việt Nam, sự du nhập và truyền bá chủ nghĩa cộng sản đã mang lại cho những bộ phận quần chúng nhất định, nhất là trong các tầng lớp nghèo khổ, một ý thức công bằng xã hội mạnh mẽ. Ðằng sau sự vẫy gọi của lòng yêu nước, ở chân trời xa còn hiện lên hình ảnh mờ ảo nhưng tha thiết của một xã hội công bằng, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn.
Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và những năm đầu kháng chiến chống Pháp, lòng yêu nước quật khởi và ý thức công bằng xã hội trở thành những động lực tinh thần mạnh mẽ của người Việt Nam. Phải nói rằng đó là những năm đẹp nhất, hào hùng nhất trong lịch sử dân tộc hàng nghìn năm. Công bằng xã hội lúc đó thể hiện ở tinh thần cùng nhau hy sinh cho đất nước, ở những sự điều hòa quyền lợi giữa các tầng lớp xã hội khác nhau (vận động giảm tô, hiến điền, “thóc gạo khao quân”...).
Nhưng chẳng bao lâu, với sự du nhập chủ nghĩa Mao từ Trung Quốc đầu những năm 50, vấn đề công bằng xã hội được đặt ra theo tinh thần “đấu tranh giai cấp”, mô phỏng những kinh nghiệm “đấu tố” của Trung Quốc trong các phong trào cải cách ruộng đất, “tam phản”, “ngũ phản”, v.v..., mà về thực chất, đó là quan niệm về công bằng xã hội theo chủ nghĩa bình quân của nông dân nghèo khổ.
Hậu quả của các cuộc vận động “giảm tô” và “cải cách ruộng đất” thật ghê gớm. Chưa bao giờ xã hội Việt Nam bị chia cắt thô bạo đến thế, chưa bao giờ công bằng xã hội vốn là đạo lý của người Việt lại được thực hiện một cách vô đạo lý đến thế. Việc sửa sai đã giúp giảm bớt những hậu quả tai hại ấy nhưng những cuộc “đấu tố” dã man trong cải cách ruộng đất vẫn là một ký ức nặng nề của toàn xã hội. Ngày nay nhìn lại, nhiều người cho rằng hoàn toàn có thể tiến hành cải cách ruộng đất theo lối ôn hòa hơn nhiều và có hiệu quả hơn nhiều (như kinh nghiệm Ðài Loan cho thấy).
Nhưng chưa học xong bài học đau xót của cải cách ruộng đất, thì cuối những năm 50 - đầu những năm 60 (tức là ngay sau cải cách ruộng đất), người ta lại giải quyết vấn đề công bằng xã hội theo lối “xóa bỏ các giai cấp bóc lột” dưới hình thức “cải tạo xã hội chủ nghĩa” mà về thực chất, đó là những sự tước đoạt. Không những các “giai cấp bóc lột” (như tư sản, phú nông, tiểu chủ...) bị tước đoạt, mà cả những người lao động có sở hữu tư nhân (nông dân, tiểu thương, thợ thủ công, v.v...) cũng bị tước đoạt. Những cấu trúc kinh tế và xã hội “mới”, hoàn toàn giả tạo, được thiết lập cho phù hợp với “chủ nghĩa xã hội”. Cấu trúc kinh tế chỉ gồm hai thành phần: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Tương ứng với cấu trúc kinh tế đó là cấu trúc xã hội gồm hai giai cấp chính: giai cấp công nhân và giai cấp nông dân tập thể. Cộng thêm vào đó là “tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa” mà trên thực tế, mang tính chất viên chức hơn là tính chất trí thức.
Cách giải quyết vấn đề công bằng xã hội theo lối đó đã dẫn tới những hậu quả tai hại như thế nào cho sự tồn tại và phát triển bình thường của xã hội Việt Nam, tưởng không cần phải chứng minh nữa. Một quan niệm thô sơ về công bằng xã hội như vậy, sau khi giải phóng miền Nam, còn được áp dụng trong cả nước, cũng với những cuộc “cải tạo xã hội chủ nghĩa” như đã được làm ở miền Bắc trước đó. Toàn xã hội lâm vào ngõ cụt, cho tới khi bắt đầu công cuộc “đổi mới” từ năm 1986. Có thể nói một cách tổng quát rằng: việc giải quyết vấn đề công bằng xã hội theo lối “xã hội chủ nghĩa” ấy đã thất bại.
2.
Thực trạng bất công trong xã hội Việt Nam hiện nay
Sự thất bại về công bằng xã hội, như kinh nghiệm các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cho thấy, không những biểu hiện ở sự bất lực trong việc giải quyết những bất công, mà còn biểu hiện ở sự xuất hiện những bất công mới.
Lúc đầu, đúng là có những đảo lộn xã hội thật lớn lao trước sự vui mừng của một số người và sự tuyệt vọng của một số người khác. Và đây không phải là điều gì mới. Ngay sau Cách mạng tháng Mười Nga, Pierre Pascal, một trí thức Pháp hưởng ứng cuộc cách mạng này sớm nhất, đã mô tả không khí xã hội Nga hồi đó: “Một cảnh tượng độc nhất làm say lòng người: sự sụp đổ của một xã hội. Bây giờ chính là lúc thực hiện thánh thi thứ tư trong những lời kinh chủ nhật và Magnificat (Văn chầu Thánh Mẫu): Những kẻ cường quyền bị hạ bệ và kẻ nghèo khổ đứng lên khỏi bùn đen.
Những ông chủ nhà bị dồn vào một gian phòng, và ở mỗi gian phòng khác có một gia đình đến ở. Không còn người giàu nữa: chỉ có những người nghèo và những người nghèo hơn. Trí thức không được coi là đặc quyền và không còn được tôn trọng nữa. Người thợ trước đây được đề bạt lên làm giám đốc, chỉ huy các kỹ sư. Tiền lương từ trên xuống dưới gần ngang nhau. Quyền sở hữu chỉ còn lại những bộ áo quần người ta mặc hàng ngày. Quan tòa không còn phải áp dụng luật pháp. Hôn nhân chỉ còn là một sự đăng ký giá thú và ly hôn có thể được báo bằng tấm danh thiếp. Con cái được ăn học để giám sát bố mẹ.
Những tình cảm hào hiệp bị sự khốn khó xua đuổi: trong gia đình người ta tính từng mẩu bánh hay vài gam đường. Vẻ dịu dàng bị coi là tội lỗi. Sự hiếu thảo bị giết bởi cái chết hiện ra khắp nơi. Tình bạn chỉ còn như là tình đồng chí”. (Pierre Pascal, Journal, t.2, trích theo R. Furet, Le passé d’une illusion, Robert Laffont, Paris, 1995, tr. 131). Không phải cảnh tượng này diễn ra ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đúng hệt như vậy, nhưng những đảo lộn xã hội ở mức độ khác nhau đã xảy ra khắp nơi. Và những thể chế về công bằng xã hội sau khi thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa thì gần như giống nhau.
Ðại đa số dân chúng biến thành những người làm công cho Nhà nước hoặc trực tiếp (công nhân, viên chức), hoặc gián tiếp (nông dân tập thể, xã viên hợp tác xã). Tất cả đều do một bộ máy toàn năng điều khiển. Sự phân phối bình quân, hay gần như bình quân, được thiết lập về tư liệu sinh hoạt. (“Một yêu anh có may-ô, Hai yêu anh có cá khô ăn dần...” là một hiện thực cách đây chưa xa ở nước ta). Và hẳn người ta còn nhớ cảnh gắp thăm mua phụ tùng xe đạp, mua quần đen... Những cảnh đó đã chấm dứt với “đổi mới”, với “kinh tế thị trường”, được nhiều người cảm nhận như một biến đổi xã hội quan trọng.
Có người nói rất đúng rằng, trong một nền kinh tế “thiếu hụt” (économie de deficit) thì đó là sự phân phối nạn nghèo khổ cho mọi người. Chế độ bao cấp quả tình cũng thật chu đáo: từ chiếc tã cho trẻ sơ sinh đến tấm vải liệm cho người chết. Không ai chết đói cả, hoặc nếu có thì, như người ta nói, chỉ là “có nơi có lúc” nhưng hầu hết không đủ no và thiếu dinh dưỡng. Ðứng về một mặt nào đó, một xã hội “đại đồng” (hiểu theo nghĩa “rất giống nhau”) đã hiện lên trước mắt chúng ta. Và bây giờ, sau khi xóa bỏ chế độ bao cấp, không phải không có người còn luyến tiếc!
Nhưng đó chỉ làm một mặt của tấm huân chương. Còn mặt khác của nó (thật khó phân định đây là mặt phải hay mặt trái) là sự hình thành một xã hội thứ bậc (societé hiérarchique) với những đặc quyền lớn và nhỏ. Ở đô thị, xã hội phân chia thành hai hạng người: người của Nhà nước được hưởng các loại tem phiếu do cơ quan, xí nghiệp phát và người không phải của Nhà nước chỉ có phiếu N (nhân dân) do các phường, các khu phố phát. Và ngay trong “những người của Nhà nước”, sự chênh lệch về mức cung cấp rất lớn, nếu tính từ phiếu E đến bìa A (chưa nói tới một số ít người được cung cấp “theo nhu cầu”). Chưa nói tới rất nhiều bất công khác làm người ta công phẫn: từ trường học cho con em đến những khả năng tiến thân khác nhau, từ nhà nghỉ đến chỗ chữa bệnh, từ vé đi xem các cuộc trình diễn đến vé nghỉ mát, v.v... Cũng chưa nói đến những cơ hội đi nước ngoài học hành và công tác... Và cũng chưa nói tới những bất công về mặt chính trị theo sự phân chia lý lịch: “trong sạch” và “có liên quan” (với chế độ cũ, với gia đình bóc lột ngày xưa, với đủ mọi thứ đáng nghi ngờ). Bất công hiện lên khắp nơi và khắp các lĩnh vực. Xin nhấn mạnh: đó là những bất công được chính thức thừa nhận, không cần che đậy, nhân danh “cách mạng”, “chủ nghĩa xã hội”, “thời kỳ quá độ”... Có những bất công có thể hiểu được, nhưng có những bất công không thể hiểu được vì những chế độ xã hội “lạc hậu” trước đây cũng không thấy có.
Những bất công thời “quan liêu bao cấp” này đã làm triệt tiêu những động lực lành mạnh của con người và ở một mức độ nào đó, làm “lưu manh hóa” con người. Chúng phỉ báng nhân cách tốt đẹp của con người, đưa con người vào trạng thái bệnh hoạn. Bởi vì để tồn tại và nhất là để tiến thân, người ta buộc phải đi theo những tính toán nhỏ nhen: dìm dập nhau, xu nịnh, giả dối, v.v... Ðạo đức suy đồi vì thế, guồng máy hỗn loạn vì thế và cả nền kinh tế nữa, cũng mất hiệu năng vì thế.
Có người nói: nhắc lại cái “thời đã qua” ấy làm gì? Tôi nghĩ khác: phải nhắc lại và nhắc lại nhiều hơn, không chỉ vì để tránh cho xã hội ngày mai lại đi vào “vết xe đổ” ấy (ngày nay, không phải không có người muốn trở lại), mà còn vì những hệ quả của những bất công này vẫn còn rất nặng nề, gây khó khăn rất lớn cho việc tạo ra một không khí xã hội bình thường và lành mạnh, do đó, cả cho sự phát triển xã hội hiện nay và sau này.
Không có gì bí mật khi nói rằng một bộ phận khá lớn những người giàu có hôm nay chính là những quan chức chiếm giữ những đặc quyền đặc lợi hôm qua và bây giờ đang dựa vào những quyền lực sẵn có trong tay để làm giàu. Ðúng là ta đang khuyến khích “dân giàu” (để cho “nước mạnh”). Nhưng sự giàu có cần khuyến khích là sự giàu có do năng lực (trí tuệ, kinh doanh) tạo ra, chứ không phải là bất cứ sự giàu có nào, nhất là sự giàu có do tham nhũng, ăn cướp của dân, đầu cơ, buôn lậu...
Một hiện tượng khá phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa trước khi chuyển sang kinh tế thị trường là chủ nghĩa tư bản quan chức (capitalism nomenclatura): những quan chức có thế lực đang dùng tài sản đục khoét bằng mọi kiểu (từ đặc quyền đặc lợi đến tham nhũng), cũng dùng quyền lực hiện có để làm giàu vô cùng nhanh chóng kiểu mafia. Họ thông đồng với những thế lực buôn bán phi pháp để trục lợi. Pháp luật không đụng tới họ (một bộ phận trong bộ máy giám sát và xử lý về luật pháp cũng dựa vào quyền lực của mình để làm giàu).
Và không ít trường hợp, họ và con cái họ đang trở thành những “bà chủ”, “ông chủ” của những đơn vị kinh doanh mới, trở thành những “nhân vật mới” có thế lực trong nền kinh tế thị trường hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm. Chưa nói tới việc họ dùng những đồng tiền ăn cắp hoặc ăn cướp để xây dựng nhà cửa nguy nga, mua sắm những thiết bị sang trọng, sống phè phỡn như đế vương. Chỉ cần nhìn hàng loạt ngôi nhà đồ sộ mọc lên gần đây ở các thành phố và thị xã, cũng đủ nhận diện thứ “chủ nghĩa tư bản quan chức” này không khó khăn gì. Rồi nhà cửa, đất đai (nhất là đất đai) họ được Nhà nước giao cho sử dụng theo lối đặc quyền đặc lợi trước đây cũng đang dần dần biến thành tài sản “hợp pháp” của họ.
Một số người đưa ra ý kiến đáng chú ý: “Thôi thế cũng được, miễn là những tài sản họ nắm trong tay được họ đưa ra kinh doanh một cách hợp pháp, coi như thứ “tiền chuộc” (rachat) đối với họ, như vậy cũng tốt cho sự phát triển kinh tế của đất nước”. Tôi tán thành ý kiến này về nguyên tắc nhưng trong thực tế, rất khó xảy ra điều đó. Bởi vì nói chung, chủ nghĩa tư bản quan chức là thứ chủ nghĩa tư bản ăn bám tuyệt đối, chỉ làm cho nền kinh tế đất nước hỗn loạn thêm và èo uột đi. Chừng nào nó còn tồn tại, chừng đó không thể nói tới một sự phát triển kinh tế lành mạnh được. Chủ nghĩa tư bản quan chức là tác nhân ung thư đối với xã hội hiện nay. Nó là sự kết hợp những đặc quyền đặc lợi kiểu phong kiến thời quan liêu bao cấp với những hoạt động làm giàu kiểu mafia thời kinh tế thị trường. Quyền lực chính trị đẻ ra quyền lực kinh tế, trước đây đã như vậy, ngày nay lại càng như vậy. Chủ nghĩa tư bản quan chức là sự thách thức nghiêm trọng nhất đối với sự phát triển của đất nước; nó tạo ra những bất công lớn nhất, nhức nhối nhất trong xã hội hiện nay.
Chính nó, chứ không phải là sự phân hóa giàu nghèo của kinh tế thị trường, đang đặt đất nước trước những triển vọng nguy hiểm về kinh tế về xã hội. Một số người lên tiếng báo động về tình trạng phân hóa giàu nghèo hiện nay ở nước ta, coi đó như nguồn gốc của mọi bất công xã hội hiện nay. Ý kiến này, theo tôi, có mặt đúng và có mặt chưa đúng.
Phân hóa giàu nghèo đang là một hiện tượng đập vào mắt mọi người. Chấp nhận kinh tế thị trường có hiệu quả cao nhất thì không thể không chấp nhận sự phân hóa giàu nghèo. Nếu coi đó là một sự bất công xã hội thì đó là một sự bất công xã hội cần thiết. Kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước trên thế giới cho thấy sự phân hóa giàu nghèo là điều tự nhiên, kinh tế càng phát triển thì, một mặt, khoảng cách giàu nghèo dần dần thu hẹp lại và, mặt khác, ngay cả những tầng lớp nghèo cũng có mức sống ngày càng tăng lên.
Như vậy còn tốt hơn là sự chia đều nhau một chiếc bánh ngày càng nhỏ lại vì kinh tế không có hiệu quả (vả lại, khi chiếc bánh nhỏ dần đi thì không thể chia đều được, một số người có thế lực sẽ chiếm lấy phần lớn hơn và một số người “hẩm hiu” sẽ chỉ được hưởng “bụi bánh”). Công bằng xã hội, hiểu theo nghĩa mọi người đều giàu có ngang nhau, là một ảo tưởng. Tất cả vấn đề là sự phân hóa giàu nghèo phải mang tính chất lành mạnh, phần hưởng thụ tương xứng với hiệu quả hoạt động kinh tế, không giới hạn hiệu quả đó cũng như phần hưởng thụ tương xứng với nó. Ði đôi với những cạnh tranh chính đáng, hợp pháp trong kinh tế thị trường, xã hội phải tính đến việc bảo đảm một mức sống cần thiết tối thiểu cho những thành viên mất khả năng hoạt động, gặp khó khăn lớn hoặc gặp rủi ro, ngoài ý muốn của họ.
Ðiều đặc biệt quan trọng là xã hội tạo ra những cơ may ngang nhau cho mọi người khi bước vào những hoạt động độc lập bằng cách bảo đảm cho mỗi người có trình độ học vấn tối thiểu ngang nhau, có khả năng thể lực tối thiểu ngang nhau... Tất cả cùng đứng ngang nhau ở “vạch xuất phát”, sau đó, ai đạt được hiệu quả cao hay thấp là tùy theo năng lực của mỗi người.
Ở nước ta, sự phân hóa giàu nghèo hiện nay về cơ bản là kết quả của những bất công lưu cữu ngày càng được khoét rộng ra. Số người giàu lên bằng cách làm ăn chính đáng, hợp pháp không nhiều, trong khi những kẻ giàu lên bằng chụp giật, tham nhũng, buôn lậu, chiếm đoạt... lại quá nhiều. Ngày xưa, để giàu có, phải mất cả một đời, còn bây giờ thì chỉ trong một thời gian rất ngắn, có khi chỉ mấy tháng, mấy ngày là có thể trở thành người giàu có. Cả một lớp người giàu có hãnh tiến đang đè nặng lên toàn xã hội, không chỉ về đời sống kinh tế mà cả về đời sống văn hóa, đạo đức.
Bên cạnh đó, nhiều người “không may” gần như không hề nhận được một sự giúp đỡ và bảo đảm nào của xã hội từ ăn ở, học hành, chữa bệnh,... trở đi. Và trong những người “không may” này, chua xót nhất là những người đã hi sinh cả một phần thân thể mình, hy sinh con cái mình, nhà cửa, tài sản của mình trong các cuộc chiến đấu giải phóng toàn vẹn đất nước.
Một bên là chủ nghĩa tư bản quan chức, các tầng lớp giàu có hãnh tiến, bất hợp pháp và một bên là những tầng lớp, những người nghèo khổ làm không đủ ăn và “không may” - đó là nét nổi bật nhất trong bức tranh về công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra, còn phải kể tới nhiều bất công khác:
* giữa những vùng có nhiều thuận lợi kinh tế hơn và những vùng hẻo lánh, nghèo nàn, thiếu những điều kiện kinh tế cần thiết;
* giữa những công dân “đặc quyền” và những công dân không có khả năng thực hiện các quyền của mình;
* giữa thành thị và nông thôn;
* giữa những trẻ em có “cơ may” không ngang nhau...
Ở đây, tôi không có ý định làm một bản liệt kê đầy đủ và có hệ thống mà chỉ muốn nêu lên một số hiện tượng bất công dễ nhìn thấy khi bàn tới bức tranh chung về thực trạng bất công ở nước ta hiện nay.
(3)
Ði tới công bằng xã hội như thế nào?
Trước hết, xin nói ngay rằng không bao giờ có thể đạt tới công bằng xã hội tuyệt đối, lý tưởng cả. Công bằng xã hội là một giá trị định hướng để con người sống ngày càng tốt hơn trong các quan hệ giữa các thành viên của cộng đồng, về mặt vật chất cũng như về mặt tinh thần. Vì thế, không thể bàn về công bằng xã hội theo lối trừu tượng, ngoài không gian và thời gian.
Ở đây, xin bàn về công bằng xã hội trong những điều kiện xã hội cụ thể của nước ta hiện nay. Chúng ta đã từ bỏ quan niệm công bằng xã hội vừa có tính chất bình quân, vừa chứa đựng đặc quyền đặc lợi của chế độ quan liêu bao cấp trước đây. Chúng ta đang đương đầu với những bất công cũ và mới, có hại cho sự phát triển của đất nước, trong một xã hội đang chuyển biến mạnh mẽ.
Ðịnh hướng của sự phát triển đã được nêu ra: đi tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Ðịnh hướng này đang được sự hưởng ứng rộng rãi trong dân chúng. Nhưng khi đi sâu vào những mục tiêu ấy, có nhiều điều cần phải làm rõ hơn. Chẳng hạn, về mục tiêu xã hội công bằng là mục tiêu có liên quan trực tiếp với những điều chúng ta đang bàn. Những câu hỏi trực tiếp đặt ra là thế nào là công bằng xã hội trong hoàn cảnh hiện nay? Mối quan hệ của nó với sự phát triển xã hội là như thế nào? Làm thế nào để đạt tới công bằng xã hội khi nó đã được quan niệm một cách tương đối thống nhất? Xin lần lượt trình bày ý kiến của tôi để trả lời những câu hỏi đó. Và vì ở đây, tôi không có tham vọng đưa ra một chương trình cụ thể về công bằng xã hội nên chỉ dừng lại ở những quan niệm và định hướng giải pháp chung.
3.1. Công bằng xã hội trong những điều kiện cụ thể hiện nay là thế nào?
Tuy chưa định hình rõ ràng, xã hội Việt Nam hiện nay đang mở ra khả năng ngày càng rộng lớn cho các cá nhân, các tầng lớp xã hội khác nhau phát huy những năng lực và những nguồn lực vốn có và có thể có để vừa mưu cầu lợi ích của mình, vừa tạo nên sức mạnh chung của cộng đồng (“dân giàu, nước mạnh”), đưa đất nước từng bước tiến tới trình độ hiện đại (“văn minh”). Như vậy, công bằng xã hộ cần được hiểu theo những yêu cầu ấy. Quan niệm công bằng xã hội theo chủ nghĩa bình quân đi ngược lại những yêu cầu ấy đã đành, mà cả quan niệm “mạnh được yếu thua”, “may nhờ rủi chịu”, để mặc cho mọi thứ bất công hoành hành, có hại cho lợi ích của đại đa số dân chúng, cũng không thể chấp nhận được. Có người nói: đã là kinh tế thị trường thì phải chấp nhận mọi thứ bất công.
Một nền kinh tế thị trường “dã man”, vô chính phủ, để mặc cho các thế lực mafia chi phối thì đúng là thế thật. Và như kinh nghiệm một số nước cho thấy, một nền kinh tế thị trường như vậy không giúp gì cho sự phát triển của đất nước, ngay cả trong lĩnh vực kinh tế, sớm muộn gì cũng sẽ dẫn đất nước tới hỗn loạn, nghèo khổ và ngày càng lạc hậu. Nền kinh tế thị trường mà chúng ta muốn có là một nền kinh tế thị trường “văn minh”, có luật pháp, có điều tiết theo những lợi ích chung của sự phát triển đất nước và bảo đảm cho mọi người sống ngày càng ổn định và khá lên thì không thể chấp nhận tất cả mọi bất công đang có và có thể có.
Một quan niệm thích hợp về công bằng xã hội hiện nay đòi hỏi phải phân biệt giữa những loại bất công khác nhau:
* loại bất công tự nhiên: tính từ “tự nhiên” ở đây bao hàm cả những khả năng, những năng lực khác nhau về mặt tự nhiên (chẳng hạn, về nguồn gốc sinh học) cũng như những khác biệt về trình độ phát triển do lịch sử lâu đời để lại như thành thị và nông thôn, miền núi..., và trước mắt, cố gắng đến mức tối đa để bù đắp những thiệt thòi do những bất công này gây ra, không để trở thành những căng thẳng và xung đột có hại cho sự phát triển nói chung.
* loại bất công “hợp lý”: tính từ “hợp lý” ở đây cũng được hiểu rất tương đối, theo nghĩa không thể tránh khỏi nếu muốn đưa đất nước lên con đường “dân giàu, nước mạnh”. Ai cũng biết rằng, nói “dân giàu” nhưng không phải ai cũng giàu ngang nhau và cũng không thể loại bỏ tình trạng nghèo khổ tương đối.
Sự phân hóa giàu nghèo là không thể tránh khỏi nhưng không thể để xẩy ra tình trạng “làm giàu vô tội vạ” trên lưng đại đa số dân chúng, cũng như không thể để xảy ra tình trạng người nghèo “vô phương làm ăn”, không có một sự giúp đỡ có hiệu quả nào của cộng đồng. Nói cách khác, chúng ta chấp nhận sự làm giàu chính đáng, hợp pháp, có lợi cho sự phát triển của đất nước khi đó là sự làm giàu dựa vào những năng lực và cả những nguồn lực chính đáng. Sự làm giàu này không vấp phải một hạn chế nào. Tài kinh doanh, óc tổ chức, sáng kiến và cả chỗ dựa chính đáng về nguồn lực nữa, đều có đất phát huy đến mức cao nhất (qua cạnh tranh lành mạnh).
* loại bất công “phi lý” - và cũng là phi pháp: đó là tất cả những bất công nào hoàn toàn đi ngược lại lợi ích của sự phát triển xã hội, làm cho đời sống xã hội biến dạng và đạo đức xã hội suy đồi như đã phân tích về những cách làm giàu phi pháp (tham nhũng, buôn lậu, chiếm đoạt, đầu cơ) của “chủ nghĩa tư bản quan chức’’ trên đây. Ðó cũng là những bất công hoàn toàn giả tạo dựa trên những sự phân biệt về các quyền công dân, về nguồn gốc xã hội v.v... Những bất công này phải bị xóa bỏ càng sớm càng tốt, càng triệt để càng tốt.
Xóa bỏ những bất công “phi lý”, điều tiết những bất công “tự nhiên” và “hợp lý” dù sao cũng chỉ là mặt tiêu cực của việc thực hiện công bằng xã hội. Mặt quan trọng không kém - nếu không nói là quan trọng hơn - là mặt tích cực: xã hội phải dần dần tạo ra được những điều kiện thuận lợi cho những cơ may ngang nhau giữa các thành viên của xã hội. Vì chỉ riêng việc xóa bỏ và điều tiết những bất công không đủ để thực hiện công bằng xã hội: xử lý và tước đoạt những tài sản do tham nhũng và những hoạt động phi pháp cũng chưa có nghĩa là tạo ra những cơ may ngang nhau về học tập, sức khỏe và tiến thân.
Ðể làm công việc này, cần có những chính sách và những đầu tư xã hội lớn. Khi nhà trường phổ thông và các bệnh viện phổ thông còn đòi người ta phải trả tiền thì không thể nói tới những cơ may ngang nhau. Ngày nay, ở nhiều nước đang phát triển, cũng đã thực hiện việc Nhà nước chi ngân sách cho giáo dục phổ thông và bảo hiểm y tế ở mức tối thiểu ngang nhau. Còn ở nước ta lại đang thực hiện một cách phổ biến chế độ nộp học phí và viện phí ở những cấp cơ sở, làm sao có thể hiểu được?
Trong những lĩnh vực phúc lợi xã hội cần thiết tối thiểu này, cần thực hiện ngay lập tức công bằng xã hội, không thể viện lý do “cơ chế thị trường” như người ta vẫn làm hiện nay. Ðặc biệt, tất cả những người có công với công cuộc giải phóng dân tộc, cũng phải được hưởng những trợ cấp thường xuyên đủ duy trì mức sống tối thiểu mà không phải là những chiếu cố “tình nghĩa” hay “nhân đạo” theo lối ban phát. Thực hiện những cơ may ngang nhau không dễ nhưng phải làm từng bước để đi tới chỗ đó.
Có ý kiến nói rằng: khi chưa thực hiện được công bằng xã hội theo chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, thì phải thực hiện công bằng xã hội theo “pháp quyền tư sản” như Marx từng nói (xem Phê phán cương lĩnh Gôta). Thật ra, đó là cách đặt vấn đề trên cơ sở hệ tư tưởng (vô sản/tư sản) hơn là trên cơ sở sự phát triển kinh tế xã hội một cách bình thường theo hướng đi tới một xã hội công bằng và văn minh. Lúc này, có lẽ không nên để mất quá nhiều thì giờ và công sức để tranh cãi nhau về hệ tư tưởng. Chỉ nên giới hạn vấn đề này trong khuôn khổ những mục tiêu đã đưa ra: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
3.2. Công bằng xã hội và sự phát triển đất nước
Như vậy, tiêu chí hàng đầu của công bằng xã hội ở nước ta hiện nay là có lợi hay có hại cho sự phát triển đất nước. Ðây là bài toán cực khó, mà loài người, ít ra trong cả một thế kỷ vừa qua, đang cố đi tìm những lời giải tối ưu nhưng chưa tìm thấy. Kinh nghiệm cho thấy rõ: đặt công bằng xã hội lên trên hết (theo lối “chủ nghĩa xã hội hiện thực” hay “Nhà nước phúc lợi”) sẽ dẫn tới chỗ triệt tiêu những yếu tố phát triển kinh tế nhưng đặt hiệu quả kinh tế lên hàng đầu lại dẫn tới chỗ khoét sâu những ngăn cách xã hội và nhất là dồn một số người không nhỏ vào tình trạng nghèo khổ và bế tắc, cuối cùng cũng tạo ra những trở ngại lớn cho hiệu quả và phát triển kinh tế, những nguy cơ bùng nổ xã hội.
Phải đi tìm một công thức mới, trong đó, không để hai mặt công bằng xã hội và phát triển kinh tế đối kháng nhau, loại bỏ nhau (còn sự đối lập của hai mặt đó là không thể tránh), mà cần phải làm sao để cho hai mặt đó trở thành tiền đề của nhau, hơn nữa, để cho mặt này bao hàm cả mặt kia ở một mức độ hợp lý nhất. Ðiều đó càng cần thiết vì ngày nay, mọi lý luận về sự phát triển đều bác bỏ cách hiểu phát triển đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế và đều nhấn mạnh nội dung cơ bản và mục tiêu cao nhất của sự phát triển là phát triển con người với tư cách cá nhân trong một cộng đồng đầy nhân tính. Sự kết hợp, sự giao nhau của hai mặt đó phải được tính toán theo những điều kiện cụ thể của mỗi nước, chủ yếu là theo trình độ phát triển kinh tế và theo những truyền thống, theo tâm lý dân tộc. Ở đây, không có và cũng không thể có đơn thuốc pha chế sẵn nào cả.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, sự kết hợp hai mặt đó vấp phải những khó khăn không dễ vượt qua được. Một mặt, chủ nghĩa bao cấp vừa bình quân vừa đặc quyền còn để lại rất nhiều di sản nặng nề không những trong đời sống vật chất mà cả trong ý thức con người. Mặt khác, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường chứa đầy những yếu tố độc quyền, lũng đoạn và vô chính phủ, tự phát làm cho kinh tế thị trường mang trạng thái dã man, tuy có kích thích những hoạt động kinh tế nào đó nhưng đưa con người vào những “mê cung” đầy bất trắc và nhất là, tạo nên một sức ép tâm lý và xã hội của lối sống hãnh tiến, chạy theo đồng tiền một cách trơ tráo (cynique).
Không thể phủ nhận rằng kinh tế thị trường đã giúp cho đời sống kinh tế đất nước rời khỏi “điểm chết” và phục hồi lại sức sống kinh tế của xã hội. Ðó là một trong những thành quả lớn nhất của “đổi mới” và, xét về triển vọng rất có lợi cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng kinh tế thị trường dã man này đã tạo ra những bất công xã hội mới, ghê gớm và, xét về triển vọng, sẽ ngăn cản sự phát triển xã hội nói chung. Tội lỗi không phải thuộc về bản thân kinh tế thị trường mà ở những tác nhân phá hoại của nó, biến nó thành dã man. Chúng ta cần có kinh tế thị trường như một môi trường thuận lợi nhất cho các hoạt động kinh tế nhưng đó phải là một nền kinh tế thị trường văn minh, với những hoạt động sinh lợi thật sự và được luật pháp kiểm soát chặt chẽ có lợi cho quốc kế dân sinh.
Hơn nữa, bản thân kinh tế thị trường không tự động bảo đảm cho công bằng xã hội. Phải có những điều tiết của xã hội (thông qua nhà nước) để phân phối lại những kết quả hoạt động kinh tế theo hướng đảm bảo công bằng xã hội ở mức cần thiết tối thiểu. Ðó là cái mà các nhà kinh tế học gọi là “kinh tế thị trường xã hội” đã và đang được thực hiện ở một số nước phát triển. Tiếc thay, ở nước ta, chưa có những sự điều tiết như vậy.
Những bất công phi lý, phi pháp đang biến thành những trở lực lớn đối với sự phát triển kinh tế. Khi nói rằng phát triển kinh tế là tiêu chí hàng đầu của công bằng xã hội, thì đồng thời, ngay trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, cũng phải nói rằng công bằng xã hội (ở mức độ như đã quan niệm trên đây) là một điều kiện của sự phát triển kinh tế, không có cái này mà không có cái kia. Mọi thái độ coi nhẹ công bằng xã hội rốt cuộc dẫn tới chỗ làm cho phát triển kinh tế bị hạn chế và què quặt.
Không thể đồng ý với quan niệm cho rằng nếu coi trọng công bằng xã hội thì khó lòng tập trung các nguồn lực (bên trong và bên ngoài) để phát triển kinh tế. Ðứng về ngắn hạn mà xét, có thể là như vậy, nhưng nếu xét theo triển vọng lâu dài thì quan niệm này rất có hại. Xin lấy một ví dụ: đầu tư. Tất nhiên, trước mắt cần tập trung đại bộ phận các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế (nhất là vào các cấu trúc hạ tầng và vào những lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lợi nhanh), để từ đó có thêm những nguồn lực ném vào giáo dục, y tế, trợ cấp xã hội...
Nhưng nếu ngày nay, không đầu tư thích đáng cho những lĩnh vực này thì liệu trong mười - mười lăm năm nữa, chúng ta có thể bảo đảm nguồn nhân lực có chất lượng cho sự phát triển kinh tế không? Hay lúc đó, nhân lực dồi dào của nước ta sẽ trở thành một gánh nặng vì thiếu học vấn, thiếu trình độ nghề nghiệp và không đủ sức khỏe? Theo tư duy kinh tế mới, đầu tư cho các lĩnh vực xã hội cũng là trực tiếp đầu tư cho kinh tế, nhất là xét theo triển vọng dài hạn. Ðầu tư cho cấu trúc hạ tầng, chẳng hạn, không chỉ bó hẹp vào những cấu trúc hạ tầng kinh tế mà phải mở rộng ra những cấu trúc hạ tầng xã hội (con người). Do đó, phải tính những đầu tư này như những đầu tư kinh tế. Ở đây, chúng ta lại có thêm một luận cứ nữa để đặt công bằng xã hội và phát triển kinh tế trong sự thống nhất của chúng.
3.3. Gợi ý một số giải pháp về công bằng xã hội
Công bằng xã hội đụng tới tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa, xã hội. Không thể giải quyết vấn đề công bằng xã hội bằng cách khuôn nó vào cái thường được gọi là “chính sách xã hội” một cách tách bạch. Công bằng xã hội phải được giải quyết - và chỉ có thể được giải quyết - gắn liền với xã hội công dân, nhà nước pháp quyền, chế độ dân chủ, kinh tế và văn hóa ngày càng phát triển.
1. Nó phải được giải quyết trên cơ sở xác lập các quyền công dân và quyền con người một cách thật sự bình đẳng. Bất cứ sự phân biệt nào về các quyền công dân và quyền con người đều ngăn cản thực hiện công bằng xã hội. Nói cách khác, vạch xuất phát của mỗi người về quyền công dân và quyền con người phải ngang nhau. Xóa bỏ những đặc quyền về kinh tế, chính trị và tư tưởng là nội dung đầu tiên của việc thực hiện công bằng xã hội.
2. Mỗi công dân, trước hết, phải được bảo đảm sự tự chủ về đời sống kinh tế của mình, từ sở hữu đến nghề nghiệp. Vấn đề sở hữu (tài sản, trí tuệ, lao động) phải được xác định rõ ràng để cho mỗi người có sở hữu riêng và dùng sở hữu ấy theo khả năng và sở thích của mình, được luật pháp bảo vệ vững chắc.
3. Mọi công dân đều ngang nhau trước luật pháp - điều này không những phải được khẳng định mà còn phải trở thành hiện thực. Một nhà nước pháp quyền chịu trách nhiệm trước công dân (kể cả các cá nhân công dân) là một điều kiện không thể thiếu được để có công bằng xã hội.
4. Công bằng xã hội đòi hỏi một chế độ dân chủ thực sự. Không thể có một nhóm người hay một tổ chức nào - dưới bất cứ danh nghĩa gì - tự coi mình đứng lên trên xã hội và luật pháp để áp đặt ý chí của mình cho những người khác và có thái độ đối địch với những người có những tín niệm khác. Sự lựa chọn tự do của các công dân phải được tôn trọng đầy đủ.
5. Trong các hoạt động kinh tế, phải loại bỏ những thế lực và những phương thức độc quyền, lũng đoạn, bảo đảm cho mọi người bình đẳng về quyền kinh doanh và nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với xã hội. Nhất thiết tách Nhà nước và các cơ quan hành chính ra khỏi kinh doanh. Thực hiện chế độ khai báo tài sản minh bạch của mọi nhân viên Nhà nước từ trên xuống dưới. Bảo đảm cho viên chức Nhà nước có mức lương xứng đáng với trách nhiệm của mình, và cấm nhân viên Nhà nước hoạt động kinh doanh dưới mọi hình thức, trực tiếp hoặc gián tiếp. Coi những tội phạm kinh tế (phá hoại, tham nhũng, đầu cơ, buôn lậu, chiếm đoạt...) nghiêm trọng như tội phạm quốc gia và khi xử lý về pháp luật, phải tịch thu toàn bộ tài sản do những tội phạm ấy mà có.
6. Trong thời hạn ngắn nhất, thực hiện chế độ giáo dục phổ thông và chữa bệnh phổ thông không mất tiền. Ngân sách phải được đầu tư đầy đủ cho các cấu trúc hạ tầng xã hội, bằng cách giảm bớt những đầu tư kinh tế tốn kém quá mức và kém sinh lợi cũng như những đầu tư phô trương (nhất là xây các trụ sở, các nhà khách...). Trường học và bệnh viện phải được coi là những ưu tiên về xây dựng cơ bản.
7. Ban hành những chế độ trợ cấp xã hội ổn định và thường xuyên cho những người có công và những nạn nhân chiến tranh hay những nạn nhân khác mất khả năng kiếm sống. Trợ cấp và giúp đỡ cho những người tàn phế.
8. Thực hiện chế độ đảm phụ ở những thành thị và những vùng có lợi thế kinh tế để tài trợ cho những vùng bị chiến tranh tàn phá và những vùng bất lợi về phát triển kinh tế (vùng núi, vùng hẻo lánh...)
9. Sử dụng có hiệu quả những viện trợ nhân đạo và phát triển của các nước và các tổ chức quốc tế, nghiêm khắc loại bỏ tình trạng “ăn chặn” và sử dụng sai mục đích.
10. Giúp đỡ các tổ chức từ thiện hoạt động có hiệu quả và khuyến khích mọi hoạt động từ thiện, đồng thời chống lại việc lợi dụng hoạt động “từ thiện” để mưu cầu lợi riêng.
11. Vấn đề công bằng xã hội cũng được đặt ra trong các quan hệ đối ngoại, đặc biệt về mặt kinh tế. Những ưu đãi cần thiết đối với các nhà kinh doanh nước ngoài phải đi đôi với sự kiểm tra chặt chẽ những hoạt động của họ, tránh những tổn thất đáng tiếc cho đất nước (nhất là về môi trường tự nhiên và môi trường xã hội).
Vấn đề phân phối lại thu nhập của người làm ăn với nước ngoài để tránh sự hình thành một tầng lớp “mại bản” mới, cũng như để tránh những bất công quá phi lý. Ðặc biệt, đối với những người làm thuê cho các doanh nghiệp nước ngoài, cần có luật pháp bảo hộ nhân phẩm và quyền lợi của họ một cách chặt chẽ, không thể để cho một số nhà kinh doanh nước ngoài nào đó chà đạp lên nhân phẩm và những quyền lợi chính đáng của họ
Những gợi ý trên đây chắc chắn chưa đầy đủ và chưa thật sát hợp. Ðiều cốt yếu là, theo chúng tôi, đã đến lúc phải có những công trình nghiên cứu có hệ thống về công bằng xã hội để sớm đưa ra những giải pháp cụ thể, thích hợp với sự phát triển của đất nước.
Tháng ba 1995
No comments:
Post a Comment