Wednesday, January 28, 2009

THẢO LUẬN THƠ VIỆT BẮC IV

=

8. Minh Tranh Tình yêu trong tập thơ Việt Bắc L.T.S. - Chúng tôi mời bạn đọc và các bạn văn nghệ tham gia phát biểu về bài của Hoàng Yến nói riêng “Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?” (đăng kỳ trước) và về thơ Tố Hữu nói chung, để cùng nhau thảo luận, tìm tòi, học tập, giúp nhau giải quyết một số vấn đề văn nghệ. Kỳ này, chúng tôi đăng một bài của Minh Tranh [1] . Nhân dân ta rất giàu tình cảm. Tất nhiên tình cảm ấy là tình cảm cách mạng, đẫm một lòng yêu tha thiết với tất cả những cái gì gắn với tổ quốc, với tiến bộ, với cách mạng. Tình cảm của nhân dân ta không thiếu, nó man mác, lẻ tẻ, nó tràn ra, lắng xuống, trào lên rồi lại lắng xuống trong nhiều thơ ca phong phú tám, chín năm qua. Nhưng ghi được những cái tình cảm phong phú ấy, tả ra được cho đúng, không phải bất cứ thi sĩ nào cũng làm được. Phải là một thi sĩ hiểu lòng ta nhiều lắm, gần với lòng chúng ta nhiều lắm. Tố Hữu chính là nhà thơ ấy.


Tập thơ Việt Bắc đã nói lên hộ chúng ta những cái gì chúng ta vẫn cảm vẫn rung động, nói lên lòng yêu, lòng căm hờn, lòng tin tưởng của nhân dân ta. Một số anh em chúng tôi không sành thơ hỏi nhau khi mỗi người đọc xong Việt Bắc: "Anh thấy cái gì trong thơ Tố Hữu?" Chúng tôi đồng thanh: "Lòng yêu man mác, sâu xa, đằm thắm, và trước hết là lòng yêu Tổ quốc". Tổ quốc chúng ta không phải là trừu tượng. Nó là cảnh, là người, nó đẹp vô cùng. Nó là Lưng đèo Nhe, bóng tre mát rượi; nó là cánh đồng quê tháng mười, thơm nức mùa gặt hái. Nó là: Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà rào rạt bến nước Bình Ca Tổ quốc của chúng ta là Phú Thọ, Tuy Hòa, khu Ba, khu Bốn, là thủ đô Hà Nội, là Nam Bộ, Tiền Giang và Hậu Giang, là Ðồng Tháp Mười:“Việt Bắc miền Nam, mồ ma giặc Pháp.” Là: Nam Ngãi, Bình Phú, Khánh Hoà, Phan Rang, Phan Thiết, Tây Nguyên, Công Tum, Ðắc Lắc, là “Khu Năm dằng dặc khúc ruột miền Trung.” Nhưng tổ quốc chúng ta không phải chỉ là không gian có núi cao, sông dài, có những chí lớn như biển Ðông trước mặt, tổ quốc chúng ta còn lâu dài với thời gian nữa. Nó là hàng thế kỷ, là mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây.



Tố Hữu nói với chúng ta: Của ta, trời đất, đêm ngày Núi kia, đồi nọ, sông này của ta. Tiếng của của Tố Hữu ở đây sao đáng yêu quá, vì đúng quá. Trời đất Việt Nam là của chúng ta; đêm và ngày ở Việt Nam là của người Việt Nam, không phải là của kẻ nào khác và không thể là của những kẻ nào khác. Ðọc tất cả những bài thơ Tố Hữu, chúng ta càng cảm sâu hơn lòng yêu tổ quốc, yêu núi sông của ta, yêu năm tháng đêm ngày của chúng ta. Và lòng yêu ấy càng sâu thì chúng ta càng thấy cái ta là to lớn mạnh mẽ. Lòng tất cả mọi người chung lại thành một khối: Bắc Nam liền một biển Lòng ta không giới tuyến Lòng ta chung một Cụ Hồ Lòng ta chung một thủ đô Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam Sung sướng thay những ai có một lòng ta rộng lớn mênh mông như thế. Tổ quốc chúng ta là một khối hai mươi triệu người, kết tinh lại trong một vĩ nhân: Hồ Chủ tịch. Cho nên đã yêu tổ quốc không thể không yêu Hồ Chủ tịch, và yêu Hồ Chủ tịch chính là yêu tổ quốc. Trong cơ quan chúng tôi, có một cháu nhỏ mười sáu tháng đang học nói.



Tiếng đầu tiên nó thốt ra là "Pa Hồ". Hai tiếng rời nhau nhưng nó gắn lại làm một, rồi nó nín hơi, ra sức nói lên một âm thanh đáng yêu đáo để. Rồi ngón tay xinh xinh của nó chỉ lên tấm ảnh trên tường. Người lớn chúng ta không hay hỏi nhau như thế. Nhưng giá có một người nào hỏi chúng ta: "Anh yêu ai?" thì tôi tưởng hình ảnh đầu tiên đến với chúng ta không thể nào khác hơn là "Bác Hồ". Lòng chúng ta đã ghi sâu hai tiếng “Bác Hồ” rõ ràng rành rọt hơn là các em nhỏ. Vì lòng yêu Bác của chúng ta đã từ tâm khảm biến thành lý trí. Nhưng dù đã được nâng lên lý tính, lòng yêu Bác Hồ của chúng ta vẫn không khác mấy lòng yêu của các em nhỏ. Vì Bác Hồ gần chúng ta lắm. Dù là ai đã được gặp Bác, dù là ai mới chỉ thấy Bác trong ảnh, nhưng ai cũng đều có một lòng yêu Bác như lòng yêu của thi sĩ Tố Hữu. Tố Hữu hỏi chúng ta: Các anh chị, các em ơi, có phải Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh Môi ta thầm kêu Bác "Hồ Chí Minh" Và mỗi trận, mỗi mùa vui thắng lợi Ðôi mắt Bác hiện lên cười phấn khởi Ta lớn cao lên bay bổng diệu kỳ... Chỉ riêng hình ảnh của Bác đã là một sức động viên vô tận rồi. Bác luôn luôn Với cây chì đỏ Chỉ đường đi từng bước từng giờ Tố Hữu đã nói lên ý nghĩ, tâm tình của chúng ta: Không gì vinh bằng chiến đấu dưới cờ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại Ðứng trước một cảnh đẹp, một con người vĩ đại, ta rung cảm, nhưng giá có ai hỏi: "Cảnh ấy thế nào? Người ấy thế nào?" thì nhiều anh chị em ta thường trả lời: "Tuyệt, hay lắm, vĩ đại lắm" hoặc “không thể tả được”. Hoặc đôi khi diễn tả cái đẹp, cái vĩ đại, thì thấy làm sao ấy, diễn ra không thông. Ðối với Tố Hữu, không phải như thế. Tố Hữu đã ghi lại tình cảm của mình bằng hình ảnh, bằng âm thanh mà hình ảnh, âm thanh ấy không có gì xa lạ với chúng ta, trái lại gần gũi chúng ta nhiều, khiến cho chúng ta thấy lòng Tố Hữu như lòng chúng ta vậy. Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị Màu quê hương bền bỉ đậm đà. Ðây là Bác Hồ khi còn ở Việt Bắc. Ðến nay Bác đã về thủ đô. Chúng ta thấy Bác, tuy không phải là chiếc áo nâu nữa, nhưng y phục của Bác, lời lẽ của Bác, cái nhìn của Bác vẫn đậm đà màu quê hương rất bền bỉ. Người của Bác là người của quê hương, tinh thần của Bác là tinh thần của Tổ quốc. Và có chung một Tổ quốc thì nhất định là: Lòng ta chung một Cụ Hồ Một tiêu chuẩn để đo tinh thần yêu nước, tinh thần cách mạng của mỗi người là xét xem người ấy đối với lãnh tụ của cách mạng như thế nào. Chúng ta có thể nói rằng: - Càng yêu Tổ quốc, càng yêu Hồ Chủ tịch. Ðã yêu Bác Hồ, yêu Tổ quốc thì không thể nào không yêu anh bộ đội. Anh bộ đội của chúng ta là những người bạn hiền lành “Người lính trường chinh áo mỏng manh,” những ngày đi của anh là những ngày vắt với sương, Ngô bung xôi nhạt, nước lưng bương Ðêm mưa rình giặc tai thao thức Mùa lại mùa qua rét nhức xương Nhưng khi anh bộ đội về thì: Cối lại vang rừng Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân Anh về sáo lại ái ân Ðêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca Bác Hồ, anh bộ đội, đó là những hình ảnh luôn luôn xuất hiện trong những bài thơ của Tố Hữu có khi nổi hẳn lên, có khi thấp thoáng. Và bóng của Bác, bóng của anh bộ đội không bao giờ hút cả. Trong bài “Cá nước”, “Voi”, “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên,” chúng ta thấy anh bộ đội trước mặt chúng ta; trong bài “Bầm ơi”, “Bà mẹ Việt Bắc”, Tố Hữu hướng ta theo rõi bóng anh bộ đội. Thi sĩ Tố Hữu cũng như chúng ta, hiểu cuộc đời anh bộ đội lắm, qua mấy câu thơ: Xa xôi đầu xóm tre xanh Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già Cháu ơi cháu lớn với bà Bố mày đi đánh giặc xa chưa về Cám ơn thi sĩ đã nói hộ tất cả những mối tình của chúng ta đối với những Chiến sĩ anh hùng Ðầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, Mưa dầm cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không sờn Những đồng chí thân chôn làm giá súng Ðầu bịt lỗ châu mai Băng mình qua núi thép gai Ào ào vũ bão Những đồng chí chèn lưng cứu pháo Nát thân, nhắm mắt, còn ôm Những bàn tay xẻ núi, lăn bom Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện. Trong những tình yêu thắm thiết trên đây, đã chất chứa sẵn một mối căm thù sâu sắc đối với những kẻ muốn chà đạp lên nhân dân Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục. Người Việt Nam không thể nào khoanh tay đứng nhìn những kẻ gây ra cảnh xác nằm ngổn ngang, phố đổ nhà hoang vắng, những kẻ đã làm cho Thủ đô chúng ta cay đắng tám năm ròng, năm cửa ô rào thép. Nhân dân ta căm thù bọn chúng rất sâu sắc. Cho đến tất cả những cái gì có trên đất Việt Nam cũng căm thù. Chiến lũy, sắt gỗ giăng thành... Di lăng, sấu gạo, Không tiếc lá cành xanh Vất ngang đường cản giặc Các anh nữa, những giòng chữ sắc Thân cây tảng đá góc phòng "-Phá tan tấn công mùa Ðông của Pháp" Bằng than, bằng gạch, bằng sơn Nét muôn tay hằn vạn đại căm hờn Căm hờn ấy càng ngày càng lớn lên. Từ Bông Lau, ỷ La, sông Lô năm 1947, ta tiến tới Ðiện Biên Phủ năm 1954: Nghe trưa nay, tháng 5 mồng 7 Trên đầu bay, thác lửa hờn căm! Trông, bốn mặt, lũy hầm sập đổ Tướng quân bay lố nhố cờ hàng Trông chúng ta cờ đỏ sao vàng Rực trời đất Ðiện Biên toàn thắng. Không có một thác lửa căm hờn kẻ thù của Tổ quốc thì nói làm sao được đến lòng yêu Tổ quốc. Lòng yêu và lòng căm hờn đã khiến cho "anh cuốc, em cuốc, đá lở đất nhào" để phá đường chặn giặc, biến những con đường thành những nơi cảnh cáo giặc: "Thằng Tây mà cứ vẩn vơ, có hố này chờ chôn xác mày đây". Và cũng chính lòng yêu và lòng căm hờn ấy đã khiến cho bà mẹ của anh bộ đội nói với con: "Mày đi, mày lo cho khoẻ, đừng nghĩ lo gì, ở nhà có mẹ..." [2] Lòng yêu và lòng căm thù dính liền với lòng tin tưởng tất thắng. Lòng tin của nhân dân ta từ khi có Hồ Chủ tịch, có Ðảng mỗi ngày càng vững mạnh, càng không có gì lay chuyển nổi. Ngày đầu kháng chiến, bà mẹ của anh bộ đội bảo con đi, nhìn theo con, trong lòng đã nhìn thấy ngày "nó về thắng trận". “Những thành phố trụi” của Tố Hữu cũng hát ca: Mùa đông dài lạnh sẽ qua Phố ta lại dựng, nhà ta lại về Bàn tay đã nắm lời thề Ra đi quyết phá, ngày về sẽ xây Từ trong đổ nát hôm nay Ngày mai đã đến từng giây từng giờ. Anh bộ đội nâng niu khẩu đại bác, dặn dò: "Voi hăng voi nhé, trận này lập công!" Anh chị dân công khi đưa cuốc lên đã thách nhau "nhanh tay ta cuốc chôn thây quân thù". Người chiến sĩ đi ra trận dặn bà mẹ "nhớ con bầm cũng đừng buồn, giặc tan con lại về luôn với bầm". Lòng tin tưởng ấy từ đầu 1947 đã làm cho người chiến sĩ luôn luôn đi tới và làm cho cuối 1954: Làng ta giặc chạy rồi! Tre làng ta lại mọc Chuối làng ta xanh chồi Trâu ta ra bãi ra đồi Ðồng ta lại hát hơn mười năm xưa... Người, vật, cảnh, và tình trong thơ Tố Hữu đều đầy rẫy cái lạc quan cách mạng. [3] Thơ Tố Hữu gần chúng ta, dễ cảm chúng ta, không những vì tình cảm của thi sĩ là tình cảm của chúng ta, mà còn vì thi sĩ đã nói lên những lời quen thuộc với chúng ta nhiều lắm. Chúng ta hãy đọc: Ai về ai có nhớ không Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang Nắng trưa rực rỡ sao vàng Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công Ðiều quân chiến dịch Thu Ðông Nông thôn phát động, giao thông mở đường... Và suốt cả những câu kế tiếp trong bài “Việt Bắc” hình như là những lời ca dao thân thuộc với ta, hình như là những câu Kiều lẩy, và có lẽ một đoạn nào đó trong Lục Vân Tiên? Nó là tất cả những phong vị dân tộc ấy trộn lại, toát ra và được nâng lên thành những cái gì mới mẻ mà trong đó ta vẫn thấy tiếp nối bao nhiêu cái cũ của ngàn xưa. Hay là đây nữa: Voi là voi ơi Voi là voi quý Voi nằm voi nghỉ Voi nghỉ voi chơi Voi là voi ơi Voi ta đầu thép Voi cong chân đẹp Voi nghểnh voi cười Ðọc bài này ai không nhớ lại bài "Con vỏi con voi, cái vòi đi trước". Con voi của pháo binh khác hẳn với con voi ngày xưa, nhưng nhạc điệu của bài mới phảng phất dội lại bài hát cũ của quần chúng, làm cho con voi của pháo binh càng thêm thân mật. Chúng ta dễ thuộc thơ của Tú Mỡ vì lời Tú Mỡ thân với ta, chúng ta dễ thuộc thơ Tố Hữu vì thơ Tố Hữu đậm một hình thức dân tộc. Ðã lâu lắm chúng ta không đề cập đến vấn đề chủ nghĩa nhân văn cách mạng. Thơ của Tố Hữu chính là biểu hiện chủ nghĩa nhân văn của chúng ta. Chủ nghĩa nhân văn là nêu cao cái tôi tiến bộ, cách mạng của mỗi con người trong cái ta của Tổ quốc. Chúng ta được đào tạo trong cùng một lý tưởng với thi sĩ Tố Hữu nên chúng ta yêu thơ Tố Hữu, và thấy thơ Tố Hữu là những lời hát của chúng ta. Với mắt nhìn của Tố Hữu, sức sống luôn luôn vươn lên, trong ngày hôm qua đã chớm nở buổi hôm nay; trong quá khứ đã sẵn có tương lai, giữa thành phố trụi đã có cảnh xây dựng lại nhà cửa, v.v... Tất cả những người yêu Tổ quốc, yêu tiến bộ, yêu hòa bình đều nghĩ như vậy. Hai vợ chồng Rô-xân-bơ (Rosenberg) ngay trong lúc bị kẻ thù của nhân loại giam cầm trong ngục tối vẫn nhìn thấy Mai sau đời sẽ hát ca Mai sau cây cỏ nở hoa trên mồ Ðời ta phơi phới tự do Hòa bình thân ái tắt lò chiến tranh Chủ nghĩa nhân văn không có gì khác hơn là nhằm vun trồng giá trị của con người. Giá trị của con người không phải là sự tính toán ích kỷ của mỗi cá nhân; không phải là sự quanh quẩn chật hẹp, mà chính là trong cái ta rộng rãi, to lớn. Ðã có một thời các thi sĩ khi làm thơ thì đầu đề trước nhất là "tự thuật", "tự tình", rồi tự gì gì nữa. Thời ấy đã qua rồi. Chúng ta đang cùng nhau đi tới trên con đường tự do cuồn cuộn, trên con đường mà mỗi chúng ta hòa mình với Tổ quốc, với thủ đô, với Bác Hồ, với anh bộ đội... Thơ của Tố Hữu không có những cái "tự thuật" của thời xưa. Thơ của Tố Hữu có núi sông, có đêm ngày của đất nước, có những Ngày mai xanh lại từng cây Ngày mai lại đẹp hơn rày năm xưa... Thơ của Tố Hữu là chủ nghĩa nhân văn cách mạng. Văn nghệ, s.66 (21.3.1955) 9. Nhân dân Tin ngắn văn nghệ Cuộc họp thứ nhất thảo luận về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu tại trụ sở Hội Văn nghệ Việt Nam Ðể đẩy mạnh phong trào phê bình văn nghệ, ban văn học của Hội văn nghệ Việt Nam đã tổ chức vào tối 31-3-1955 vừa qua tại trụ sở của Hội cuộc họp thứ nhất thảo luận về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Kỳ họp đầu tiên này mở trong một phạm vi hẹp, chủ yếu dành cho anh chị em hoạt động trong ngành thơ và một số các bạn yêu thơ, có tính chất mở đầu cho những cuộc họp rộng rãi hơn sau này để tiếp tục thảo luận về tập thơ của Tố Hữu. Gần 60 anh chị em đến dự cuộc thảo luận đã trao đổi ý kiến về tác phẩm của Tố Hữu. Cuộc thảo luận hướng theo ba vấn đề lớn đã được phát hiện về tập thơ Việt Bắc trong những bài phê bình đăng trên các báo văn nghệ gần đây: tính chất hiện thực, tính chất thời đại và tính chất quần chúng của thơ Tố Hữu như thế nào? Trong gần 3 tiếng đồng hồ thảo luận, các ý kiến phát biểu đã xoay quanh một vấn đề chính: chủ nghĩa hiện thực trong tập thơ Việt Bắc. Anh chị em đã sôi nổi phân tích, trình bày những điểm dẫn chứng cụ thể để tỏ rõ lập luận của mình. Cuộc thảo luận đầu tiên nhìn chung có kết quả tốt. Anh chị em đến tham dự đã tích cực góp ý kiến. Mỗi người đã cố gắng trong việc phát huy tự do tư tưởng, thành thật phát biểu ý kiến. [4] 3.4.1955 10. Vũ Ðức Phúc Tranh luận về tập thơ Việt Bắc: Hoàng Yến chưa nắm vững vấn đề hiện thực Ý chính trong bài phê bình của Hoàng Yến (đăng trong Văn nghệ số 65) là: "Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?" Vấn đề quan trọng ở điểm này. Sở dĩ tôi phải nhắc lại vấn đề và nhấn mạnh là vì theo tôi hiểu, Hoàng Yến trong khi phê bình thơ Tố Hữu, đã nhiều lần rơi vào chủ nghĩa tự nhiên hoặc chủ nghĩa lãng mạn. Ðó là việc tôi sẽ chứng minh sau. Ngay cách Hoàng Yến đặt vấn đề "Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?" cũng chưa được rõ. Bởi vì có hai thứ hiện thực: Hiện thực phê bình và hiện thực xã hội chủ nghĩa (còn gọi là hiện thực mới nữa). Trong bài này, để bạn đọc dễ liên hệ ý của tôi với ý của Hoàng Yến, tôi cũng tạm dùng hai tiếng "hiện thực" không thôi, nhưng xin hiểu là "hiện thực xã hội chủ nghĩa". Vấn đề thứ hai cần phải nêu lên khi phê bình một tác giả, không thể dựa vào một ý muốn chủ quan của mình rồi bắt buộc người được phê bình phải có thêm những cái mà họ không thể có. Mở đầu cho bài phê bình, Hoàng Yến nêu lên: "Tập thơ Việt Bắc chủ yếu là tập thơ kháng chiến. Sự sống trong thơ là sự sống nhiều mặt của cuộc kháng chiến toàn diện, toàn dân. Tình cảm trong thơ là những tình cảm lớn của con người kháng chiến đồng thời cũng là những tình cảm lớn của thời đại". Nếu sau khi đọc tập thơ mà có cảm tưởng như vậy (như anh Xuân Diệu) thì đó là quyền của người ta. Nhưng đặt một cái nhiệm vụ rất to lớn ấy cho tập thơ, trước khi đi vào phê bình, dựa vào đó mà phê bình như ta kiểm thảo việc thực hiện nghị quyết, như vậy là một phương pháp phê bình hết sức chủ quan. Ta không nên đòi hỏi một chiến binh có tài phải là một chỉ huy có tài nữa, cũng như không thể nói rằng khuyết điểm của đại tướng Võ Nguyên Giáp là không bắn được "bách phát bách trúng". Người ta hay đòi hỏi nhà văn nghệ những đức tính mà họ không thể có, những điều mà họ không thể biết, do chỗ khả năng con người nói chung và những cá nhân nói riêng, dù có phát triển tột bực và đúng hướng, cũng chỉ có hạn. Nếu theo ý muốn của mình mà phê bình thì có thể chỉ trích "bạt mạng" bất kỳ một nhà văn siêu việt nào. Riêng về Tố Hữu, mặc dầu người ta vẫn ca tụng anh như thế nào cũng chưa từng biểu lộ tham vọng gói ghém "tất cả tình cảm của thời đại" vào trong một tập thơ rất là mỏng. Ðứng về phía độc giả mà nói, thì được đọc một bài thơ hay, nói lên một tình cảm sâu sắc gì đó, ta cũng đủ cám ơn tác giả rồi. Dù Tố Hữu có là thánh đi chăng nữa, cũng không thể quan niệm đọc Tố Hữu là không cần đọc ai nữa cũng đủ cho tất cả buồng tim, thớ thịt của mình rung chuyển theo thời đại. Dựa trên hai quan niệm căn bản ấy tôi xin góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc đồng thời chống lại một vài nhận xét của Hoàng Yến mà tôi cho là không đúng. Bắt đầu ngay vào bài “Phá đường”, Hoàng Yến cũng bắt đầu phê bình với tình cảm phá đường trong bài thơ đó. Bài thơ “Phá đường” được phổ biến từ Bắc chí Nam. Riêng một điều đó cũng nói đủ rồi. Bài “Phá đường” không tả chàng thanh niên mà lại tả một phụ nữ nông dân có con mọn, việc nhà neo bấn. Từng ấy nét là những nét rất điển hình, rất dân tộc, rất hiện thực. Cũng vì vậy nên bài “Phá đường” không phải chỉ có tác dụng động viên người ta đi phá đường mà thôi; mà anh cán bộ, anh đội viên, người dân công đi phục vụ, v. v... nói tóm lại tất cả những người phải "tranh đấu tư tưởng" ít hay nhiều, để phục vụ cách mạng, để thanh toán những thắc mắc phổ biến như gia đình, vợ con, việc nhà neo bấn... những người đó cũng thấy bài thơ gần gụi với mình. Ngay bây giờ bài thơ cũng còn truyền cảm và có tác dụng. Ðó là chỗ đạt của bài thơ, không phải là khuyết điểm. Ðó là tác dụng nâng cao trình độ tư tưởng của văn nghệ hiện thực. Hoàng Yến có nói một người anh em nào đó có làm bài thơ “Ðắp đường” na ná như bài “Phá đường” rồi kết luận: "Tôi tự hỏi như thế thì tình cảm của con người "phá đường" trong kháng chiến và "đắp đường" trong hòa bình khác nhau ở chỗ nào?" Nhưng trước khi đối chiếu hai bài, Hoàng Yến quên không nghĩ tới một vấn đề căn bản là bài “Ðắp đường” nào đó là một bài thơ "tồi". Hai nữa, Tố Hữu không làm một bài “Ðắp đường”, nhưng khi hòa bình được lập lại, anh làm bài “Ta đi tới”: Ðường ta rộng thênh thang tám thước. Nếu nghiên cứu bài “Phá đường” và bài “Ta đi tới” sẽ trả lời được câu hỏi của Hoàng Yến. Một bài nói về phá đường, chờ giặc Pháp tấn công; một bài nói về những con đường rộng thênh thang mới đắp, đi đến độc lập, tự do, thống nhất. Hai bài, hai giai đoạn lịch sử, tình cảm làm sao giống nhau được? Ngay bây giờ, thí dụ Hoàng Yến cần đọc bài thơ “Phá đường” cho một người lạ nghe, tất nhiên cũng phải nói đến tới hoàn cảnh nào, thời kỳ nào mới có con người ấy, tình cảm ấy trong thơ Tố Hữu. Một bài như vậy có tác dụng trong các công tác khác như đắp đường trong thời bình chẳng hạn, thì chỗ đó chỉ chứng tỏ tính chất hiện thực của nó. Nhưng nếu theo kiểu "bài hát ta theo điệu tây" trong thời kỳ 1936-1940 rồi viết ra một bài “Ðắp đường” như người anh em nào đó thì bỗng đâm ra nhạt phèo. Lấy một tỉ dụ: trong thời kỳ hòa bình hiện nay, nếu cần phải đắp đường, cái thắc mắc về neo bấn, về vợ mọn con thơ v.v... có thể là thứ yếu và nhiều khi không thành vấn đề, mà tinh thần vui vẻ xây dựng, quyết tâm phấn khởi đi tới thống nhất, độc lập, tinh thần căm thù Mỹ có thể là tình cảm nổi bật. Thực tế trong hoàn cảnh hiện nay Chính phủ tổ chức mọi người đi công trường kiến thiết đường giao thông, nói chung là có áo rét hẳn hoi, mà nếu lại hạ câu "Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế" thì thật là lạc điệu và dớ dẩn. Cách nhằm vào một bài thơ đã được nhân dân cách mạng hưởng ứng lâu rồi mà phê phán như Hoàng Yến, không nâng cao quan niệm của anh về nghệ thuật chút nào và chỉ tỏ ra vụng về. Theo ý tôi, nếu ta hiện thực một chút, nếu ta quả là "thực sự cầu thị", thì phải nghiên cứu, phân tách một bài thơ đã trải qua thử thách như bài “Phá đường” để học lấy kinh nghiệm làm thơ thì phải hơn. Hoàng Yến lại đưa ra mấy câu thơ sau này để đề cao và đối chọi với bài “Phá đường”: Lấy búa mà bửa chân trời Lấy dao mà chặt lìa đôi nhịp cầu Thà rằng cách trở sông sâu. Ðưa ra mấy câu thơ như vậy làm tiêu chuẩn thực là nguy hiểm cho nền thơ dân tộc. Mấy câu đó có gì là hiện thực hơn bài thơ Tố Hữu. Dù gọi là một kiểu tìm "hình ảnh" theo đúng "mỹ từ pháp" [5] cũng không thể tưởng tượng, so sánh việc phá đường với lấy búa bửa chân trời, hoặc một cái cầu trên sông sâu mà có thể cầm dao chặt lìa đôi như một cây ta bắc qua lạch được. Cái kiểu nói "quá đi một tý" theo những câu trên, dù phân tách thế nào cũng không thể tìm thấy "hiện thực" ở chỗ nào được. Tình cảm giả tạo của nó biểu lộ rõ ràng. Một câu thơ nữa mà Hoàng Yến đưa ra để chọi với bài “Phá đường”: Con đường số Bảy của tao Nó đi theo giặc tao đào nó đây Ðồng chí du kích nào sáng tác ra câu đó mà hò, cũng không ai kiểm duyệt. Nhưng để đối chọi với bài “Phá đường”, chỉ tìm được những câu như thế, đề cao lên là thơ hiện thực thì không hiểu quan niệm về thơ hiện thực của Hoàng Yến như thế nào? Con đường mà ta phá đi cho giặc không lợi dụng được, không mấy người quan niệm là "nó đi theo giặc". Nói hẳn rằng quan niệm như thế sai. Ðã sai sao gọi là hiện thực? Hai câu đó chỉ là một cách ví von ấu trĩ. Nhân dân sáng tác truyền khẩu từ khi lập quốc đến nay có đến hàng triệu triệu bài như những câu thơ trên, trong đó cái số ca dao còn lại và được truyền tụng chỉ là một số ít thôi. Còn như hai câu mà Hoàng Yến ca tụng chỉ là đọc ra rồi để quên đi. Mặc dầu người đọc rộng lượng đến thế nào chăng nữa, giàu óc tưởng tượng đến đâu nữa, cũng rất ngạc nhiên khi thấy Hoàng Yến gán ghép cho hai câu trên là "thấm thía xót xa", "phản ảnh được cuộc sống sinh động muôn vẻ muôn màu". Trong vở hài kịch của Mô-li-e nhan đề là “Phụ nữ kiểu cách lố bịch” có tả một đoạn một anh đầy tớ giả làm quan lớn tên là Mát-ca-ri đến đọc thơ cho hai cô ả kiểu cách là Ca-tốt và Ma-đờ-lông nghe. Tôi xin tạm dịch đoạn văn "điển hình" đó ra đây: "Mát-ca-ri (đọc thơ): - Chao ôi, chao ôi! Tôi không chú ý đề phòng: Trong khi, không có tình ý gì, tôi nhìn cô Con mắt của cô, rình mò, chộp ngay quả tim tôi Ô kẻ trộm! ô kẻ trộm! ô lũ trộm! ô kẻ trộm! Ca-tốt. - Trời! Thật là diễn tả việc ca tụng đến tột bậc của nó. Mát-ca-ri. - Tất cả những cái tôi sáng tác đều có vẻ khoáng đạt tự do, không có gì là sách vở cả. Ma-đờ-lông. - Thật là xa sách vở đến hai nghìn dặm ấy chứ lại. Mát-ca-ri. - Các chị có chú ý đoạn ra mở đầu "Chao ôi, chao ôi!" chăng? Như thế mới là khác đời: "Chao ôi, chao ôi!" như là một người bỗng nhìn chợt nhận ra. "Chao ôi, chao ôi!" đó là cách diễn tả sự ngạc nhiên. "Chao ôi, chao ôi!". Ma-đờ-lông. - Phải, tôi nhận thấy chữ "Chao ôi, chao ôi!" đó thật đáng khen ngợi. Mát-ca-ri. - Thoạt nghe, tưởng chừng như đáng chú ý. Ca-tốt. - Trời! Sao lại nói thế?


Những câu thơ như thế thật là quý vô giá! Ma-đờ-lông. - Ðúng rồi còn gì nữa; tôi ước mong sáng tác được mấy chữ "Chao ôi! Chao ôi!" đó hơn là làm một thiên anh hùng ca..." Hai câu: Con đường số Bẩy của tao Nó đi theo giặc tao đào nó đây. mà Hoàng Yến đã tán tụng là "... phản ảnh đúng được cuộc sống sinh động muôn vẻ muôn màu: Có thế mới gợi lên được những tình cảm vĩ đại kết tinh từ trong máu lửa, nước mắt mồ hôi, rèn luyện qua bao nhiêu thử thách trong cuộc kháng chiến anh dũng trường kỳ". Hai câu trên và ý kiến của Hoàng Yến làm tôi nhớ lại đoạn văn trên của Mô-li-e và tôi có nhận định chắc chắn rằng Hoàng Yến đã rơi vào lập trường của ả Ma-đơ-lông, cách xa hiện thực xã hội chủ nghĩa đến ba thế kỷ, và có lẽ lại còn cũ kỹ hơn cả Ma-đơ-lông nữa. Nói về anh bộ đội, mặc dầu Tố Hữu đã nói tới trong nhiều bài: “Bà mẹ Việt Bắc”, “Lên Tây Bắc”, “Bao giờ hết giặc”, “Bắn”, “Voi”, “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên”, v.v... và nhiều bài thơ dịch của anh; mặc dầu là đã nói nhiều như thế, cũng chỉ nói được phần nào về anh bộ đội của ta, không thể nói hết được. Chúng ta muốn đòi hỏi phải nói hết, cũng không được. Anh em bộ đội chờ đợi, đòi hỏi Tố Hữu nói nhiều chỉ là vì thơ của Tố Hữu đã đi sâu vào lòng anh bộ đội, không phải là khuyết điểm. Tố Hữu chưa thấm thía mối tình đồng đội thì anh không thể viết ra được. Nhưng về phía khác, những bài thơ của anh tả tình cảm bà mẹ nhớ con đi bộ đội, tả bộ đội nhớ mẹ già, thật là thấm thía, chưa ai viết được như anh. Về mặt ấy, chính Hoàng Yến cũng phải công nhận là Tố Hữu đã thành công. Nhưng Hoàng Yến có nêu lên mấy câu thơ sau đây trong bài “Lên Tây Bắc” của Tố Hữu: Lại những ngày đi vắt với sương Ngô bung xôi nhạt, nước lưng bương Ðêm mưa rình giặc tai thao thức Mùa lại mùa qua, rét nhức xương Nêu lên như vậy, Hoàng Yến nhận định là mấy câu thơ đó "bàng quan và bất lực".


Cách nhặt mấy câu trong một bài thơ chủ yếu không phải là tả cảnh khổ của bộ đội, mà là tả tình cảm một người đi theo bộ đội đánh giặc, cách nhặt mấy câu như trên rồi kết luận là "bàng quan và bất lực", là chưa nắm được nội dung chính của bài thơ. Bài thơ không phải như một cuốn tiểu thuyết có thể nói lan man kỹ lưỡng về nhiều vấn đề. Nội dung chính của bài “Lên Tây Bắc” là nói lên tình cảm tin tưởng, ngưỡng mộ, phấn khởi của người đi theo bộ đội: Tôi ngồi không ngủ nghe anh thở Khe khẽ lòng ngân lên tiếng thơ Không thể đòi hỏi một bài thơ như thế đi sâu vào tả cảnh chịu đựng gian khổ của bộ đội. Ta phải đòi hỏi ở tác phẩm khác, tác giả khác, hoặc chọn lọc trong số thơ của bộ đội. Không phải cái gì cũng hỏi anh Tố Hữu. Nếu đòi hỏi đi sâu vào những ý phụ, bài thơ có thể lại mất nội dung chính của nó và như thế là hỏng. Cũng như đối với bài “Bắn”, thì phê bình của Hoàng Yến cũng không hiện thực chút nào. Tố Hữu có tả người lính khi chuẩn bị nhìn đồn địch trên khoảng đất đỏ, thèm thuồng thấy "ngon như một đĩa thịt bò tươi". Hoàng Yến căn cứ vào chỗ bộ đội ít được ăn thịt bò tươi, bảo rằng câu thơ đó xa lạ đối với chiến sĩ. Thực tế người ta thèm thuồng những cái gì ít khi được hưởng thụ. Chính vì ít khi anh bộ đội được ăn thịt bò tươi, anh thèm thịt, nên ví cái đồn địch như một đĩa thịt bò tươi là rất đúng. Cái cảm giác "thèm thuồng đồn địch" mà chiến sĩ cần phải có đó, cũng là tính chất hiện thực mới. Vì nó có tác dụng nâng cao tư tưởng người đọc ở chỗ thèm thuồng diệt địch cho nên nó mới. Anh bộ đội hay ao ước "chất" nhất, mà "chất" nếu không là thịt lợn thì thường là "thịt bò", cho nên câu thơ đó hiện thực.



Lời phê bình của Hoàng Yến làm cho người ta có cảm giác rằng chính tư tưởng Hoàng Yến mới xa lạ với tình cảm của bộ đội mặc dầu trong thực tế Hoàng Yến có thể gần anh bộ đội hơn. Cũng trong bài “Bắn” có mấy câu sau: Bao đồng chí của ta bay đã giết Chặt đầu cắm cọc phơi khô Chị em ta, bay căng thịt lõa lồ Con em ta bay quăng chân vào lửa Lúa ngô ta bay cướp về cho ngựa Xóm làng ta bay đốt cháy tan hoang! Hoàng Yến trích mấy câu đó, rồi phê phán: "tác giả đã tổng kết sự việc trên tài liệu". Nói như vậy trước hết là thiếu "thực sự cầu thị", tức là không hiện thực chút nào. Ðọc một bài “Em bé Triều Tiên” cũng hiểu tác giả có một mối căm thù rộng lớn và sâu sắc. Ngay bài “Bà mẹ Việt Bắc” cũng tả rất cụ thể tội ác của giặc. Ngay dưới mấy câu thơ trên đây, Tố Hữu còn viết một câu kết tinh lòng căm thù mà Hoàng Yến đã cắt nghĩa một cách độc đoán: Chúng bay cười? - Ðến giờ chưa đồng chí? Một người đã vào sinh ra tử trong bao nhiêu năm trời, nếm trải mọi mùi tàn ác của đế quốc, chứng kiến bao nhiêu cảnh dã man mà chúng gây ra, một người như Tố Hữu phải đâu là người không cảm thông được nỗi căm hờn giặc, dù là chỉ nghe chuyện mà hình dung ra sự việc. Một người như vậy nếu ta kết luận là "tổng kết sự việc trên tài liệu", thì cũng nên suy nghĩ một chút. Hai nữa, cũng như bài “Lên Tây Bắc”, nội dung chính trong bài “Bắn” không phải là tả lan man về mối căm thù của anh bộ đội. Nếu trong lúc bắn pháo, mà anh bộ đội lan man như thế thì anh bộ đội bắn trượt mất, mà người tả như thế là một nhà thơ mơ mộng chứ không hiện thực chút nào. Anh bộ đội sắp bắn, phải hết sức chú mục vào việc bắn. Cảm giác chính là thèm thuồng, bồn chồn, những hình ảnh căm thù chỉ thoảng qua và thúc đẩy anh nóng ruột thêm. Chúng bay cười? - Ðến giờ chưa đồng chí? Bồn chồn như vậy, căm thù như vậy mà vẫn phải cẩn thận, bình tĩnh để "còn trông còn ngắm từng ly", để "sửa lại cho ngay nòng súng". Hình ảnh bọn địch chắc chắn sẽ bị tiêu diệt làm cho anh càng sốt tiết thêm, đầu "cháy bùng lên như cục lửa". Tất cả những tình cảm đó, Tố Hữu đã nhận xét rất tinh, rất thực tế.



Ðọc xong bài thơ, chúng ta hình dung ngay được một cảnh khoái trá là một tràng đạn đại bác oàng oàng rơi vào đầu địch. Một bài thơ như vậy, không thể trích một vài câu như trên, một vài câu khía cạnh, rồi kết luận là tác giả "tổng kết sự việc trên tài liệu" được. Ðể nêu lên cái tình đồng đội, Hoàng Yến có nhắc tới mấy câu thơ sau của một chiến sĩ: Ðêm nay gió rét lạnh lùng Cắt tầu lá chuối lót lưng đỡ đầu Anh ơi! ôm lấy lưng tôi Chúng ta đùi cặp lấy đùi cho nhau. Mấy câu thơ đó có thể làm bộ đội bật cười về cái hình ảnh "đùi cặp lấy đùi". Nhưng cũng không thể đặt mấy câu đó lên trên thơ Tố Hữu và gọi nó là hiện thực mới được. Chỗ này Hoàng Yến đã lầm lẫn "chủ nghĩa tự nhiên" với "hiện thực mới". Rét quá lại thiếu chăn thì anh nào dù không có cảm tình với nhau mà chẳng phải quặp lấy nhau mà ngủ, mà chẳng phải kiếm một thứ rơm, rạ, lá lẩu gì đó mà lót lưng, cứ gì phải có "tình đồng đội", phải "gắn bó keo sơn" hơn là Lưu, Quan, Trương, mới biểu hiện ra như thế. Trong hàng vạn bài thơ, ca dao của chiến sĩ, chọn mấy câu thơ ấy đặt lên trên thơ Tố Hữu, làm cho người ta có thể hiểu nhầm thơ bộ đội toàn thế cả. Ðó là việc đuổi ruồi cho bạn ngủ ngon bằng cách ném tảng đá vào con ruồi đậu trên mũi bạn. Mấy câu thơ đó nâng cao tư tưởng ở chỗ nào mà bảo là "hiện thực mới"? Hoàng Yến còn nói: “Nội thi phẩm phản ánh được thời đại phải trào lên những giòng thơ hừng hực [6] chiến đấu, đỏ rực [7] căm thù, có mãnh lực động viên kích thích hàng triệu người ra mặt trận đấu tranh. Ðọc xong Việt Bắc, hình ảnh để lại trong lòng ta là những hình ảnh đèm đẹp, ý nhị, nhẹ nhàng, khía rung động sâu sắc nhất là khía mến thương thắm thiết, tâm tình. Phần lớn các câu thơ đều có dáng dấp hiền lành, dìu dịu. Ðối chiếu với cuộc sống mãnh liệt đi băng băng như con ngựa phi, cuồn cuộn như giòng thác đổ [8] , thơ Tố Hữu còn bước đi thong thả, giòng thơ còn trôi chảy lặng lờ. Ðôi lúc cũng có sóng xao nhưng đó chỉ là những sóng nhỏ vỡ bờ”. Ðoạn văn phê bình trên đây chứa đựng nhiều sai lầm. Hoàng Yến muốn Tố Hữu phải là một người làm những thiên anh hùng ca thật là kêu gào. Ðiều đó không phải là nên khuyến khích. Những bài kêu gào, rất nhiều hình dung từ chồng chất, vị tất đã đi sâu vào lòng con người như những bài thắm thiết, sâu sắc.



Thời đại chúng ta anh hùng thật; nhưng mà tả nó trước hết phải chống lại xu hướng lãng mạn đã hết thời (không phải là lãng mạn cách mạng không mâu thuẫn gì với hiện thực xã hội chủ nghĩa mà còn nằm trong đó) và xu hướng kêu gào, gầm thét rỗng tuếch. Thử đọc những bài thơ tuyệt tác của Si-mô-nốp, những bài Tố Hữu đã dịch cũng như bài dân ca Nam Tư, những bài đó nói tới chuyện nhớ nhung, chuyện nhớ của cha mẹ, vợ chồng, con cái, rất thắm thiết, cho nên cũng rất anh hùng. Tố Hữu, theo tôi, đã có những bước tiến bộ về mặt ấy. Ta thử đọc lại bài “Ly rượu thọ cũ” của anh (1935) sẽ thấy hình ảnh Mã Chiếm Sơn ít nhiều còn nhuốm màu anh hùng chủ nghĩa: tác giả tả Mã Chiếm Sơn như một vị thiên thần. Giai đoạn lịch sử đó thực tế có phải như chuyện "thần thoại" đó đâu? Rứt bỏ được khuyết điểm cũ đó Tố Hữu đã chắc chắn vững vàng hơn xưa nhiều. Do nhận xét đó, mấy câu thơ sau đây của Tố Hữu trong bài “Việt Bắc”, dù chưa phải là hay nhất, nhưng cũng không thể bắt tội là "khí thơ đoản, hơi thơ đuối" như Hoàng Yến hạ bút phê phán được: Những đồng Việt Bắc của ta Ðêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc những đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Tả như trên là thấm thía. Nếu theo Hoàng Yến cần phải tả: "Việt Bắc oai hùng, cái đất thần thánh thiêng liêng [9] của cách mạng" không khéo chỉ là thêm một số hình dung từ ồn ào mà thôi. Nhiều người quan niệm các vị lãnh tụ cách mạng, các anh hùng chiến sĩ của ta một cách rất "lãng mạn", đến khi gần gũi các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Thị Chiên, Ngô Gia Khảm, lại không thấy gì là giản dị hơn, thân mật hơn.



Thực tế như vậy, phải thức tỉnh các nhà văn nhà thơ lãng mạn tưởng tượng những chuyện lay trời chuyển đất như chuyện Lý Nguyên Bá tung đôi trùy nặng tám trăm cân lên đánh trời. Xuân Diệu, theo ý tôi, cũng đòi hỏi Tố Hữu những cái mà Tố Hữu không thể có, hay Tố Hữu đặt xuống hàng thứ yếu. Xuân Diệu có phê bình nhược điểm thơ Tố Hữu là nhẹ về tình cảm cá nhân mà nặng về tình cảm xã hội. Theo ý Xuân Diệu, tình cảm cá nhân (căn cứ theo bài phê bình của anh) là tình yêu và sự chết. Trước hết, quan niệm về thơ trữ tình, bó hẹp tình cảm cá nhân trong tình yêu, thiên nhiên và sự chết như kiểu Guýt-sta-vơ Lăng-xông (Gustave Lanson) đó đã cũ lắm rồi. Tình yêu Tổ quốc, yêu nhân loại, yêu giai cấp, cùng với tình yêu gia đình vợ con, bè bạn, bố mẹ v.v... theo đúng hướng của nó cũng đặt vào phạm vi thơ trữ tình.



Theo quan niệm hiện thực xã hội chủ nghĩa mà nói, rất khó phân biệt tình cảm xã hội và tình cảm cá nhân. Chỉ có tình cảm tiến bộ và tình cảm lạc hậu. Ái tình cũng có hai mặt đó. Chính Xuân Diệu cũng nhận là "tình cảm từng cá nhân khi đã đúng hướng tiến bộ của toàn xã hội, cần được diễn tả vào sâu đến khía đặc biệt, vì những tình cảm đó đều tiềm tàng một ý nghĩa xã hội". Như vậy là trong chỗ này, Xuân Diệu công nhận khó phân biệt tình cảm cá nhân và xã hội, nhưng ở trên, anh lại phân tách độc đoán ra hai loại tình cảm khác nhau và trách Tố Hữu nặng mặt nọ nhẹ mặt kia. Riêng về Tố Hữu, nhận định như Xuân Diệu cũng không đúng. Tố Hữu có tả tình cảm mẹ con một cách rất sâu sắc như bài “Bà mẹ Việt Bắc”, “Bầm ơi”, “Em bé Triều Tiên”... Về ái tình, có những nhà thơ nói sâu sắc hơn Tố Hữu, như Si-mô-nốp, thì khi anh dịch anh đã để hết cả tình cảm của mình vào đó. Ðối với một người dù đã có gia đình và là một người chồng gương mẫu (nói thí dụ) nhưng đứng trước nhiệm vụ đã tuyên bố "lòng không vướng nợ bén duyên gì", ta cũng không nên đòi hỏi đi sâu vào ái tình, vào sự chết nhiều quá. Viết đến đây, tôi đã nói hết về hiện thực mới trong thơ Tố Hữu. Tôi cũng có thể nói về những thiếu sót của thơ anh. Nhưng những thiếu sót ấy không liên quan gì đến tính chất hiện thực mới của thơ Tố Hữu. Gia Lâm, 3-1955 Văn nghệ, số 67 (1.4.1955)



[1]Ðây là lời tòa soạn báo Văn nghệ.[2]Lưu ý: các câu thơ dẫn chứng có khác biệt ít nhiều so với nguyên bản tập thơ.[3]Lưu ý: cách diễn đạt này ("đầy rẫy") của tác giả có thể gây phản cảm ở thời kỳ sau; chỗ này sưu tập giữ nguyên là do tính chất tư liệu (B.T.). [4]Tin của báo, không ký tên phóng viên.[5]“mỹ từ pháp”: cách nói cho đẹp lời (nguyên chú của VÐP).[6]Do tôi gạch dưới (in ngả) để độc giả chú ý cách dùng chữ (V.Ð.P.).[7]Do tôi gạch dưới (in ngả) để độc giả chú ý cách dùng chữ (V.Ð.P.).[8]Do tôi gạch dưới (in ngả) để độc giả chú ý cách dùng chữ (V.Ð.P.).[9]Do tôi gạch dưới (in ngả) để độc giả chú ý cách dùng chữ (V.Ð.P.).

-=

==

No comments: