=
44. Tú Mỡ
Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Có nhiều người bảo rằng chính trị làm khô khan con người cho nên thơ kháng chiến thiếu tính chất lãng mạn là hồn của thơ. Tập thơ Việt Bắc đã chứng tỏ rất hùng hồn rằng tưởng như vậy là sai, và thơ Tố Hữu là tiêu biểu nhất về lãng mạn Cách mạng, lãng mạn của thơ kháng chiến. Một đặc điểm của thơ Tố Hữu là rất giàu tình cảm và một đặc điểm nữa là tình cảm ấy chính là tình cảm của nhân dân. Người kháng chiến mừng gì hơn mừng chiến thắng. Tố Hữu đã tả cái mừng đó một cách hồn nhiên: Trận chợ Ðồn, chợ Rã Ta đánh giặc chạy re Hai đứa cười ha hả và rất tưng bừng: Tin về về nửa đêm Hỏa tốc, hỏa tốc Ngựa bay lên dốc Ðuốc cháy sáng rừng Chuông reo tin mừng Loa kêu từng cửa Làng bản đỏ đèn đỏ lửa. Tố Hữu thực đã thông cảm với nhân dân khi tả cái mừng của một “Bà mẹ Việt Bắc” gặp con bộ đội về thăm nhà, vui sướng rất chất phác khi trông thấy con đã lớn lên trong kháng chiến cả về thân thể, cả về tinh thần: Thoạt trông thấy nó Tôi chẳng biết ai Nó cao hơn bố Tôi chỉ bằng vai ... Bộ nó rõ oai.... ... Trước nó lam lũ Bây giờ thấy sang... Và bài “Ta đi tới” đã nói lên tất cả nguồn phấn khởi của quần chúng nhân dân sau khi hòa bình đã được lập lại, được "đi giữa ban ngày" bước "ung dung trên đường cái". Thật là tả đúng sự vui sướng thông thường của nhân dân. Ðiểm vào đó sự rung cảm của nhà thơ nhìn theo: Mây nhở nhơ bay, Hôm nay trời đẹp lắm Mây của ta, thắm của ta... [1] Người cách mạng giận ghét gì hơn giận ghét địch. Tố Hữu đã tả cái căm thù anh dũng của một người "lính Cụ Hồ" khi nghe bà Mé kể lại tội ác của quân cướp nước. Mắt nó đỏ nọc Nó cầm tay tôi. Mẹ ơi đừng khóc Nước độc lập rồi. Cái căm thù ấy nổi bật trong lời của chiến sĩ Ðiện Biên Phủ quyết tâm tiêu diệt giặc, không để chúng chạy thoát. Chúng bay chui xuống đất, Chúng bay chạy đằng trời Trời không của chúng bay Ðạn ta rào lưới sắt Ðất không của chúng bay Ðai thép ta thắt chặt Lời thơ thật là mạnh và rất "bộ đội".
Tố Hữu đã nói lên tất cả lòng khinh bỉ của nhân dân căm ghét lũ tay sai của địch, chỉ trong bốn câu thơ tứ tự: Thằng châu con chó Cúp đuôi chạy dài Mả bố nhà nó Nịnh Tây hết thời Ở đây ta thấy Tố Hữu, nhà thơ trữ tình lại kiêm cả trào phúng rất chua cay. Một nhược điểm của thơ Tố Hữu mà nhiều bạn phê bình đã nói tới, là cái rây rớt của lãng mạn tiểu tư sản còn toát ra một thứ buồn rười rượi trong một vài bài thơ. Như bài “Giữa thành phố trụi” với những câu: Ðông lạnh ghê người Chiếc lá vèo rơi xuống cỏ Tường xiêu loét đỏ Mái gẫy sườn đen Mảng buồng son kính vỡ rêu lên cho ta thấy Tố Hữu còn để tâm hồn vương víu cái cảm sầu của những nhà "thơ thẩn" lối cũ, nhưng chỉ là thoảng qua chốc lát, ta lại thấy nhà thơ cách mạng nổi dậy ngay trong câu: Bàn tay đã nắm lời thề Ra đi quyết phá, ngày về quyết xây Từ trong đổ nát hôm nay Ngày mai đã đến từng giây từng giờ. Nhà thơ cách mạng của chúng ta khác nhà thơ thường ở chỗ đó. Trong bài “Lên Tây Bắc”, ta thấy Tố Hữu có cái xúc cảm như Bà huyện Thanh Quan với những câu: Cỏ ngập đồng khô mờ lối cũ Tan hoang làng cháy khói căm thù trong đó ta thấy cái căm thù không được hừng hực, và có cái cảm xúc như Chinh phụ ngâm với những câu: Lại những ngày đi vắt với sương Ngô bung, xôi nhạt nước lưng bương Ðêm mưa rình giặc tai thao thức Mùa lại mùa qua rét nhức xương Tôi chắc người chiến sĩ đi lên Tây Bắc đánh giặc chả ai có những xúc cảm như vậy. Ðến bài “Bao giờ hết giặc” thì ta thấy Tố Hữu tả thực chứ không phải hiện thực. Tố Hữu đã nói đúng tâm lý một Bà Bủ tầm thường nằm ổ chuối khô, nhớ con đi bộ đội, thương con gian khổ, khiến người đọc chỉ thấy cái khổ. Tuy trong bài thơ ấy có câu: Càng lo, càng nghĩ, càng căm, càng thù nhưng câu ấy không đủ vớt vát lại những cái bi đát, và cái mà ý kiến riêng tôi cho là nguy hiểm nhất là không rõ rệt Bà Bủ căm thù gì, căm thù ai. Tình thương yêu của thơ Tố Hữu đất dào dạt. [2] Tố Hữu yêu anh bộ đội. Trong bài “Cá nước”, có người thấy tả những cử chỉ thường thường, gặp nhau chỉ trong chốc lát "chia nhau điếu thuốc lào" thì cho là hời hợt, nhưng tôi thấy cử chỉ thường thường ấy ngụ một tình thân mật rất thắm thiết. Thơ Tố Hữu tài tình và lý thú cũng ở chỗ đó. Tố Hữu yêu chú bé liên lạc, điển hình của những cháu trung dũng của Bác Hồ. Ngay trong những nét phác tả chú bé ấy ta đã thấy yêu rồi. Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhẩy trên đường vàng. Tấm lòng tôn kính lãnh tụ đã được tả trong bài “Sáng tháng Năm”. Tác phong giản dị của Hồ Chủ tịch chỉ tóm tắt trong ba câu thơ: Bác ngồi Bác viết, nhà sàn đơn sơ. Con bồ câu trắng ngây thơ Nó đi tìm thóc nhở nhơ quanh nhà. Câu cuối này hình như trước là "Nó đi tìm thóc trên bồ công văn", sau mới đổi lại, nhưng tôi cho rằng cứ để như cũ lại hay hơn. Và chỉ một câu này: Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh. Môi ta thầm kêu: "Bác Hồ Chí Minh!" đủ tả lòng nhân dân luôn luôn hướng về Hồ Chủ tịch, tin tưởng vững chắc vào sự lãnh đạo sáng suốt của Người. Lòng bộ đội yêu quý vũ khí đã được tả rất vui nhộn và hóm hỉnh trong bài “Voi”, khiến ta thấy khẩu đại bác thực như một người bạn chiến đấu của các chiến sĩ pháo binh. Tình quyến luyến của những người kháng chiến đối với núi rừng Việt Bắc đã được nói lên trong bài thơ từ biệt. Tuy có vẻ ngậm ngùi như tình của đôi người yêu trước khi chia tay, nhưng rất đằm thắm, trung hậu trong những lời gắn bó, hẹn hò. Tình quốc tế đã được nói lên trong bài “Em bé Triều Tiên” với câu: Em bé ơi giữa súng rền Ngày mai tươi mát hát trên đất Triều và trong bài “Ðời đời nhớ ông” với câu: Yêu con, yêu nước, yêu nòi, Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu. thực là những lời thơ nồng nhiệt, tả được tình quốc tế của đại chúng. Thơ Tố Hữu rất nhiều hình ảnh đẹp. Tuy công việc bề bộn, nhưng nhà thơ trong Tố Hữu cũng cố tranh thủ được những phút rung cảm với thiên nhiên, nên mới nẩy ra những câu tuyệt đẹp như: Trên đồi quê trăng non mới hé Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo Lá ngụy trang reo với gió đèo Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương Nhớ sao tiếng sáo rừng chiều Chầy đêm nện cối đều đều suối xa Do đó, thơ Tố Hữu tươi sáng, lai láng hồn thơ dân tộc. Lời thơ của Tố Hữu rất trau chuốt, nôm na như ca dao, vần phong phú, âm điệu êm dịu. Mọi tầng lớp nhân dân, quân đội, cán bộ, tuy sở thích khác nhau nhưng mỗi người đều thấy trong tập thơ Việt Bắc những bài vừa ý riêng mình để ngâm nga, học thuộc, nhớ lâu. Riêng tôi, tôi thấy Tố Hữu đã thành công nhất trong những bài viết theo thể thơ vốn cũ, quen thuộc với đại chúng. Những bài ấy được phổ biến và truyền tụng sâu rộng hơn cả. Trong những cuộc phê bình trước đây, các bạn đã phân tích khá nhiều về vấn đề hiện thực trong thơ Tố Hữu. Tôi cũng đồng ý là một tập thơ Việt Bắc chưa phản ảnh đầy đủ tất cả mọi mặt của cuộc kháng chiến anh dũng của quân dân ta, lý do tại Tố Hữu vì hoàn cảnh công tác chưa được sống thực sát với quần chúng công nông binh. Nhưng tôi thấy tập thơ Việt Bắc đã nói lên được những nét điển hình và những khía cạnh tiêu biểu tình cảm của những người kháng chiến, và trong số nhà thơ cách mạng của chúng ta - thực ra còn hiếm hoi quá - Tố Hữu là người tiêu biểu nhất, và có thể coi là một nhà thơ lãng mạn cách mạng của thời đại. 24-5-1955 Văn nghệ, số 75 (20.6.1955) 45. Nguyễn Ðình Thi
Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng Mở cuốn sách nhỏ in những bài thơ của Tố Hữu, mắt tôi đọc, nhưng lòng tôi đã như động tới những ngày không thể quên, từ những năm mới kháng chiến. Tôi nhớ lại những ngày lo âu hồi cuối năm 1947, khi quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn và ào ạt tiến lên Việt Bắc. Tố Hữu vừa ở khu Bốn ra, một lần anh đi với tôi từ Thái Nguyên xuống Bắc Giang. Tôi vẫn nhớ tiếng cười, tiếng huýt sáo và giọng nói chuyện vui của anh, trên dọc đường, gặp mỗi đoàn bộ đội, mỗi bóng áo chàm, mỗi sườn đồi trồng sắn, mỗi ngã ba, tôi luôn luôn có cảm tưởng như anh sắp cất tiếng hát. Rồi những ngày quân Pháp từ trên đổ về, từ dưới tràn lên, những đêm mưa rét, súng nổ, lửa cháy, chúng tôi sống giữa những gia đình gồng gánh chạy tơi tả, và những anh bộ đội, du kích bắn nhau với giặc, bám lấy từng bờ đá, gốc tre. Sau trận Sông Lô, đi qua những làng cháy trụi bên ven con sông im lặng, chúng tôi gặp những mái lá còn xanh của đồng bào mới trở về. Quân giặc cuối cùng đã phải tháo chạy. Khắp Việt Bắc, cuộc sống lại nhóm lên. Một đêm, trong một xóm nhỏ vùng núi Phú Thọ, Tố Hữu thức suốt sáng, làm bài thơ ca ngợi chiến thắng và những người làm nên chiến thắng ấy: đó là bài “Cá nước”. Chiến thắng Việt Bắc của bộ đội và nhân dân ta đã làm cho Tố Hữu tạo nên được một chiến thắng Việt Bắc trong thơ. Anh viết liền một hơi những bài “Bà mẹ Việt Bắc”, “Lượm”, “Bao giờ hết giặc”, rồi đến “Bầm ơi”, “Voi”, “Giữa thành phố trụi”, “Phá đường”. Tôi cùng đi với anh theo các đồng chí pháo binh, ban ngày hành quân, đến tối, anh trung đội trưởng chạy tìm cho chúng tôi một ống dầu dọc, và Tố Hữu đã viết ngay bài hành khúc “Voi ơi”, để sáng hôm sau, bộ đội có thơ hát cho nhẹ vai gánh đại bác.
Anh nói chuyện với bà cụ chủ nhà chúng tôi ở, và anh ngồi bên bếp viết ngay “Bà bủ không ngủ, bà lo bời bời”. Những con người thực, những sự việc thực của đời sống hàng ngày lúc đó như một luồng sống ào ạt thổi vào tâm hồn anh, làm nảy lên những bài thơ như "măng mọc sau mưa xuân", như những đóa hoa đồng tươi thắm. Thơ Tố Hữu trước cách mạng là ngọn lửa cháy trong tâm hồn một người tuổi trẻ yêu nước, yêu đời, yêu những người cực khổ, được Ðảng chỉ cho thấy con đường cách mạng, nhưng chưa kịp biết cuộc sống thực, cuộc sống cơm áo, mồ hôi nước mắt của quần chúng lao động. Trong nhà ngục, chí bất khuất của người thanh niên vẫn gầm lên hoặc hát lên tha thiết, anh quyết vì Ðảng chiến đấu đến cùng, ngọn lửa của anh luôn luôn cháy bỏng, - nhưng khi lắng nghe tiếng đập của cuộc sống bên ngoài, anh mới nghe thấy tiếng chim kêu, gió thổi, tiếng dơi chiều, tiếng ngựa hí. Khi anh nói dưới đường xa, nghe tiếng guốc đi về, mà bỗng làm ta lay động cả tâm hồn, là vì anh vừa nói đến một cái gì rất thực trong cuộc sống hàng ngày của những con người thực. Tiếng hát của Tố Hữu lúc ấy sôi nổi và cảm động, nhưng còn thiếu gốc rễ trong những cái rất thực ấy của đời sống quần chúng. Vì vậy tiếng hát của anh chưa thoát ra được ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn bấy giờ. Ta nghe trong “Ðá” uy nghiêm trầm mặc dưới trời tro còn hơi thở của Ðiêu tàn, hoặc trong “Bạn đời ơi”, vui chút với trời hồng còn phảng phất câu thơ Xuân Diệu. Ngay lúc đó, có những bài thơ của Tố Hữu đã bắt được rễ chắc hơn trong đời sống thực của nhà tù và những con người thực anh gặp lúc đó, trong cuộc đấu tranh hàng ngày của những chiến sĩ cách mạng, như bài “Nghĩa đời trong ba tiếng”, “Châu Ro”, hoặc đoạn thơ thất ngôn “Than ôi, xưa cũng chốn này đây” trong bài “Tiếng hát đi đầy”. Những khi ấy, hơi thơ hiện thực đã chớm lên. Những bài ca dao tiền khởi nghĩa, nói lên lời của nông dân chống đi phu, chống thóc tạ, trồng đay, cũng mở ra một hướng mới. Nhưng nhìn về căn bản, cho đến sau cách mạng, khi Tố Hữu nói lên niềm vui giải phóng, khi anh ca ngợi “Tình khoai sắn”, khi anh muốn bay múa trong Ðêm hoa đăng kỷ niệm cách mạng, thơ của anh vẫn là tự biểu hiện của anh, và tâm hồn tự ca hát ấy vẫn còn chưa bắt liền được mạch sống với những vất vả, lo lắng, vui buồn của quần chúng. Kháng chiến nhào nặn lại xã hội Việt Nam, như trong một trận động đất. Quần chúng đông đảo vào trong lửa cháy, thành những người anh hùng mới, đổ máu giành sống còn cho Tổ quốc, đổ mồ hôi làm thay đổi cuộc đời. Bước chuyển biến trong thơ Tố Hữu phản ảnh sự thay đổi lớn lao ấy của thực tế Việt Nam, mà con mắt đảng viên của anh đã nhận ra. Nhà thơ không đặt vấn đề tự nói mình nữa mà muốn nói anh bộ đội, bà cụ áo chàm, em bé giao thông, những con người thực hàng ngày sống chung quanh, những con người bình thường mà vĩ đại. Thơ Tố Hữu chuyển mạnh, đi hẳn vào thực tế của quần chúng cách mạng. Bước chuyển ấy trước hết là chuyển đề tài. Nhưng chỉ chuyển đề tài mà thôi chưa đủ. Có nhà thơ mượn đề tài công nông binh để tự biểu hiện mình, có người muốn nói công nông binh nhưng đi vào quần chúng như "chắt chắt vào rừng xanh". - Muốn biểu hiện quần chúng một cách trung thành, nhà thơ phải hiểu quần chúng, thuộc quần chúng, tự hòa vào quần chúng, đến trình độ nghe được bằng tai của quần chúng, nhìn được bằng mắt của quần chúng, nói được bằng tiếng nói của quần chúng. Bước chuyển của Tố Hữu sang thơ hiện thực, không những chỉ là chuyển đề tài, mà là chuyển cả hồn thơ và tiếng nói. Ðó là nhờ trong nhà tù, trong hoạt động cách mạng, anh đã thu được một cái vốn sống của quần chúng mà trước kia anh chưa biết đường nói ra rõ ràng. Thực tế quyết liệt của kháng chiến ném công việc làm thơ vào giữa cuộc hành quân vất vả của pháo binh hay nỗi lo âu thắt ruột của bà mẹ chiến sĩ, sự lay động đến gốc rễ của tâm hồn người làm thơ và cái trách nhiệm sâu xa mà người làm thơ cảm thấy trên vai, khi nhìn vào những sống chết hàng ngày của quần chúng, - tất cả những cái đó đã giúp cho Tố Hữu đập vỡ được nốt cái vỏ lãng mạn cũ còn kìm thơ anh lại. Mới cách ít lâu, anh còn viết: Nhân loại trườn lên trên biển máu. Ðang mơ xuân đến với môi cười. những câu đẹp, chữ và hình ảnh lôi cuốn người làm thơ. Ðến nay anh nói: Tôi ở Vĩnh Yên lên, Anh trên Sơn Cốt xuống, Gặp nhau lưng đèo Nhe Bóng tre trùm mát rượi Tình cảm và tiếng nói của anh trở lên mộc mạc đơn giản, - cái đơn giản thực thà của cuộc chiến đấu nghiêm khắc. Tôi còn muốn dẫn nhiều đoạn thơ của anh, đạt tới cái thật chất đơn giản của sự sống. Những “tiếng guốc đi về” ngày trước ít vang động trong thơ anh. Nay trong mỗi bài đều nghe thấy tiếng thở của đời sống, của những con người ta gặp hàng ngày. Từ cây tre, tảng đá, từ tiếng chim kêu, gà gáy đều thay đổi. Xưa, trên đường đi đày, giữa đèo cao núi thẳm anh nghe Gà đâu gáy động im lìm Mơ mơ mấy xóm tranh chìm trong mây Nay cùng anh vệ pháo, anh hát: Ta bế ta bồng Voi lên ta vác Vai ta vai sắt Chân ta chân đồng Ta đi qua rừng Lau tre san sát Voi nghe ta hát Núi dội vang lừng Ta bước lên đèo Ta leo lên dốc Voi ơi, khó nhọc Khó nhọc cũng trèo Tôi không thể không dừng lại bài “Voi” ấy của Tố Hữu, một bài thơ mà tôi nghĩ là rất quý cho thơ Việt Nam. Tôi muốn chép lại cả bài thơ ở đây. Trong tiếng hát của anh pháo binh chúng ta nghe như vang dội tiếng hò của người kéo gỗ. Bài thơ vui đùa mà chắc nịch, thật lạc quan, nó mang tính chất chiến đấu của những người lao động, thấy rằng do sức lao động của mình mà làm được tất cả. Lao động ấy xưa kia là nỗi khổ nhục, vì phải dùng để cung phụng cho bọn áp bức bóc lột, thì ngày nay trở nên vui tươi, vì nó phục vụ cho người lao động. Tôi thiết nghĩ cái điển hình nhất trong đời sống quần chúng chính là lao động, là chiến đấu. Bài “Voi” đã đem vào thơ ta tiếng hát khỏe mạnh và tự hào của quần chúng lao động và chiến đấu, Cùng một giòng ấy, bài “Phá đường” uyển chuyển hơn, nhưng theo tôi không được chắc mạnh bằng. Ðó là những bài thơ hiện thực mang nhiều cái “mới” đang sinh thành trong đời sống chúng ta. Tố Hữu đã tìm biểu hiện quần chúng trong hình thái sinh hoạt điển hình tức là lao động, mà lao động chính là chiến đấu của quần chúng. Cũng do biểu hiện được sinh hoạt lao động, những bài thơ ấy mang một tình cảm lạc quan có cơ sở vững chắc, hướng rộng về tương lai. Tố Hữu chuyển sang hiện thực và đi vào biểu hiện quần chúng không phải bài nào cũng thành công và trong một bài, không phải câu nào cũng thành công. Nhưng phương hướng chung của thơ anh đã rất rõ. Tố Hữu không biểu hiện những con người quần chúng một cách cứng nhắc, giả tạo. Mỗi nhân vật của anh đều khá rõ nét, không lẫn lộn với nhau, những trường hợp anh đưa ra khác nhau và những tình cảm của nhân vật thơ anh cũng nhiều vẻ.
Nhà thơ nhìn vào cuộc sống thực và cố trung thành với quần chúng thực chung quanh anh chứ không suy luận ra những nhân vật, tình cảm cho đúng với một kiểu "hiện thực xã hội chủ nghĩa" nào tưởng tượng ra trong óc. Một điểm chứng tỏ tính chất hiện thực ấy của thơ Tố Hữu là những con người anh mô tả đều rất rõ bản sắc dân tộc. Anh bộ đội hiền lành "tì tay trên mũi súng" ấy là anh bộ đội Việt Nam của năm 1947, còn quen tì tay trên cán cuốc, khi ngồi nghỉ ngoài đồng. Bà mẹ ấy, em bé ấy, chị nông dân đi phá đường ấy, là bà mẹ, em bé, là chị nông dân Việt Nam. Khung cảnh đất nước, ánh sáng bầu trời, bóng tre, màu lúa, hay tiếng mưa trong núi, rồi tấm áo nâu hay vạt áo chàm, nét mặt con người, giọng cười câu nói, cho đến lối nhìn, nghe, lối ví von, tất cả những cái ấy quyện vào nhau tạo cho những bài thơ Tố Hữu một "không khí" dân tộc không thể nào đem tách ra thành từng điểm "một, hai, ba" được. Tính chất dân tộc làm cho những nhân vật "sống" một cách cụ thể, in sâu vào lòng người. Và ngược trở lại, chính nhờ đi vào đời sống quần chúng, mà Tố Hữu đã hiểu được đất nước và biết yêu dân tộc một cách sâu sắc hơn trước. Lòng yêu nước của Tố Hữu trước hết là lòng yêu những người của đất nước, những người nông dân chịu thương chịu khó, làm nhiều mà nói ít, hiền lành mà anh dũng, giản dị mà trung hậu, bền gan bền chí, rất dễ vui, ngay trong kháng chiến gian khổ. Tình yêu ấy của Tố Hữu dịu dàng, đầm ấm, chan chứa kính mến và đượm cả xót thương, có đôi khi đến bùi ngùi. Mỗi khi đọc lại những câu bà ru cháu trong bài “Cá nước”, tôi không thể ngăn được mình như nghe thấy tiếng võng đưa kẽo kẹt, đầu một "xóm tre xanh" nào. Cháu ơi cháu lớn với bà Bố mày đi đánh giặc xa chưa về Cháu ngoan cháu ngủ đi nhe Mẹ mày ra chợ bán chè bán rau Bố đi đánh giặc còn lâu Mẹ mày cày cấy ruộng sâu tối ngày Khi Tố Hữu tả Bà bủ nằm ổ chuối khô nhớ con suốt đến sáng, bài thơ ngắn gọn, những câu thơ gân guốc, và như những tảng đất của một luống cày, những cảnh đất nước phác ra vừa đủ, đời sống đất nước, người của đất nước rõ mồn một. Bà bủ nằm ổ chuối khô Bà bủ không ngủ bà lo bời bời Ðêm nay tháng chạp mồng mười Vài mươi bữa nữa tết rồi hết năm. Và lòng người mẹ thương con ấy cũng là lòng thương không cùng của bà mẹ Việt Nam. Nhà còn ổ chuối lửa rơm Nó đi đánh giặc đêm hôm sưởi gì Năm xưa cơm củ ngon chi Năm nay cơm gié nhà thì vắng con Bà bủ gan ruột bồn chồn Con gà đã gáy đầu thôn sáng rồi. Diễn tả sự sống dân tộc, cũng nhờ đi vào quần chúng, cố gắng nói tiếng nói của quần chúng, Tố Hữu đã tìm được tiếng nói Việt Nam trong sáng của ca dao. Trong những bài thơ nhiều hơi lãng mạn cũ, câu thơ của Tố Hữu mới đọc thì thấy bóng bẩy chải chuốt, nhưng đem soi ra thì còn sạn vì những bởi những với, những của, những chữ trừu tượng và cầu kỳ, những cách đặt câu trúc trắc hoặc lai. Trong một câu thơ còn thấy những chữ cố gắng gắn vào nhau để tạo nên hình ảnh. Ði vào quần chúng, tìm cách diễn đạt dân tộc, câu thơ của Tố Hữu trở nên liền mạch, chữ sau theo chữ trước, câu trước nối với câu sau, tự nhiên như chân tay nối với thân thể, như những bước đi của một người sống. Và tiếng nói Việt Nam luôn luôn hát lên thành âm nhạc trong thơ Tố Hữu. Có những câu thơ trong suốt, mới nhìn không thấy gì lạ cũng như khi ta nhìn vào một giòng suối. Nhưng đọc rồi nhớ mãi, cái ngọt của nước suối ấy uống không chán. Nhà em phơi lúa chưa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng đi phá đường quan... hay là: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh... ... Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng Văn nghệ, số 77 (14.7.1955) 46. Nguyễn Ðình Thi Lập trường giai cấp và Ðảng tính, vấn đề hiện thực và lãng mạn Ðặt vấn đề giai cấp như thế nào? Trong cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc có bạn nêu lên vấn đề "giai cấp tính" và cho rằng "giai cấp tính" ấy, tức là cái "điệu tâm hồn" của nhà thơ. Theo bạn đó, "giai cấp tính" của thơ Tố Hữu là tiểu tư sản cách mạng. Chứng cớ là tập thơ Việt Bắc không có bài nào nói đến Ðảng và giai cấp công nhân, và "điệu tâm hồn" của Tố Hữu nhiều buồn rơi rớt. Tôi chưa nói "điệu tâm hồn" của Tố Hữu có buồn rơi rớt hay không. Theo tôi nghĩ, trước hết cách đặt vấn đề "giai cấp tính là điệu tâm hồn" như trên đây, đã sai từ đầu và làm nẩy ra nhiều lầm lẫn. Mỗi nhà thơ có tâm hồn riêng, cũng như mỗi con người có một nét mặt, một tính nết. Có nhà thơ là tiếng kèn trận, có nhà thơ là tiếng sáo véo von. Có nhà thơ là dòng suối trong thấm thía, có nhà thơ là dòng thác dữ xô đẩy. Nói "tính chất vô sản" là "điệu tâm hồn" này hay "điệu tâm hồn" kia, cũng khác nào nói tất cả những cán bộ là phải mặc áo nâu, ai không mặc áo nâu thì không phải là cán bộ. Sự lầm lẫn nguy hiểm đó đưa tới chỗ bắt người sáng tác phải chịu cái "khuôn chết" của một thứ "giai cấp tính" mơ hồ. Thực tế của thời đại chúng ta có cả tiếng kèn lẫn tiếng sáo, dòng suối và dòng thác, và còn "trăm hoa đua nở" nữa. Nên trong thơ ca hiện thực, chúng ta cần rất nhiều tiếng nói khác nhau của các nhà thơ. Vấn đề chủ yếu là nhà thơ mưu lợi ích cho ai? Cho một thiểu số thống trị, hay cho nhân dân cách mạng? Cho những giai cấp bóc lột áp bức hay cho quần chúng lao động? Nhà thơ nhìn nhận xã hội này là của ai? Và tương lai là của ai? Ðó là lập trường, quan điểm giai cấp của nhà thơ. Quần chúng lao động là anh hùng của thời đại: Những bài thơ của Tố Hữu không nói trực tiếp đến Ðảng và giai cấp công nhân (tất nhiên nếu nói được thì càng tốt) nhưng đều phản ảnh sự thực căn bản là quần chúng lao động làm ra lịch sử. Thơ Tố Hữu cho ta thấy những người nông dân lao động bình thường chính là những người gánh cả kháng chiến trên vai và làm cho kháng chiến thắng lợi. Chỉ có tư tưởng của giai cấp công nhân, chỉ có Ðảng mới soi được ánh sáng đó vào ý thức và tâm hồn nhà thơ. Anh bộ đội rất hiền lành, trong bài “Cá nước”, cùng với người mẹ già của anh ở "đầu xóm tre xanh", và người vợ anh "cày cấy ruộng sâu tối ngày", đấy chính là những người đã làm cho tàu giặc đắm sông Lô... máu tanh đến bây giờ..., làm cho cánh đồng quê tháng mười, sau những ngày quân giặc lồng lộn, vẫn thơm nức mùa gặt hái. Anh chiến sĩ có thể đi đánh giặc ở tiền tuyến là vì ở quê nhà mẹ anh, vợ anh, hàng ngày cặm cụi làm ruộng nuôi con anh, và ngược trở lại, cánh đồng quê nhà anh đến mùa vẫn vàng, vẫn chín, cũng là vì có anh ở tiền tuyến. Tất cả kháng chiến là công sức của quần chúng và quần chúng bao giờ cũng vẫn còn, không sức gì tiêu diệt được, vì chỉ có bàn tay quần chúng hàng ngày làm ra được tất cả sự sống của xã hội. Bỏ mất ý nghĩa đó, thì đọc bài “Cá nước” chỉ còn thấy câu chuyện tâm tình của anh bộ đội nhớ nhà, có người lại nói "tiểu tư sản", hình như các anh bộ đội không biết nhớ mẹ, nhớ con, nhớ vợ bao giờ! Những lời kể chuyện rất thực thà, đơn giản của "bà mẹ Việt Bắc" nghèo khổ cũng vậy, đó là những câu thơ anh hùng ca của thời đại chúng ta. Từ cuộc đời nô lệ, bữa đói bữa no, ngày đôi bát ngô, những thằng quan châu có quyền bắt người nghèo như bắt trâu bò, từ đêm dài tối tăm ấy, những đứa con "lành như đất" của các bà mẹ nông dân can đảm đã làm ra cách mạng. Ðến khi mẹ gặp lại con, nhà thơ viết mấy câu giản dị: Tôi ôm lấy nó Tôi kể trước sau
Nỗi nhà mất bố Nỗi anh chết tù Mắt nó đỏ nọc Nó cầm tay tôi "Mé ơi đừng khóc Nước độc lập rồi!" Tôi nghĩ không có cảnh "Nhạc Phi với mẹ" nào so sánh được với cảnh gặp gỡ giữa người mẹ và người con ấy của cách mạng chúng ta. Có những bài thơ của Tố Hữu đã truyền cho chúng ta cảm thấy cái vĩ đại trong đời sống giản dị của quần chúng. Ðó không những vì tài năng của nhà thơ, mà căn bản là vì trong thực tế, chính quần chúng vĩ đại thực, chính quần chúng thực sự làm ra lịch sử bằng lao động hàng ngày của mình. Tin vào quần chúng thực: Tố Hữu tin vào quần chúng thực, quần chúng sống hàng ngày, có vui buồn, đôi khi còn những lo lắng quanh quẩn nữa. Nếu một anh chính trị viên thấy một chiến sĩ có lúc nhớ nhà mà đến phê bình luôn là "tiểu tư sản hiu hắt", thì anh chính trị viên ấy không hiểu gì về bộ đội và cũng không thể nào được bộ đội nghe theo. Một bà mẹ nghèo, đêm mùa đông sắp đến tết, bà cụ nằm trên ổ chuối khô bồn chồn nghĩ đến đứa con đi bộ đội, quên cả mình đang rét, đang khổ, chỉ thương con vất vả ở mặt trận. Nếu một anh cán bộ thấy bà mẹ ấy mà cho là "tiểu tư sản" hoặc lạc hậu, chẳng đáng nói đến, thì anh cán bộ ấy cũng không làm cán bộ được.
Nhà thơ là người chính trị viên, người cán bộ tâm hồn của quần chúng, nếu không dám đi vào quần chúng đang sống thực, chỉ tô vẽ ra một hình ảnh giả tạo của quần chúng, cho hợp với mong muốn của mình, thì những sáng tác chỉ là những mảnh giấy, chạm phải cơn bão thực của đời sống sẽ bị thổi rách tan, bay đi đâu mất. Tố Hữu biết người chiến sĩ trên đèo Nhe nhớ nhà lắm vì gia đình anh chiến sĩ ấy còn nghèo đói, vất vả, nhưng chính vì biết yêu gia đình quê hương mà người chiến sĩ đánh cho "giặc chạy re". Tố Hữu nhìn thấy lòng yêu con của bà mẹ nông dân chất phác là một lòng yêu không cùng. Vì thương đứa con ra đi "giải phóng" bà mẹ ấy có thể làm những việc chuyển trời. Và cũng chỉ có những đứa con của những bà mẹ ấy mới có thể chân đi đất mà dẫm qua dây thép gai của đồn giặc. Tố Hữu còn nhìn thấy trong đời sống vất vả, gian nan của quần chúng, đã hé lên ánh sáng của ý thức mới, ý thức người lao động từ nay làm chủ vận mệnh của mình, và tươi vui với cuộc sống mới do mình làm ra, do mình bảo vệ. Chú bé Lượm, với tiếng nói thật thà của đứa trẻ, đã bảo chú nó Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà. Chị nông dân Bắc Giang lo việc nhà, con mọn, nhưng trong đêm rét, vẫn vui vẻ phá đường, vì chị biết chị phá đường đây là để giữ lấy ngô sắn, giữ lấy đời sống cho đứa con đang ngủ ngoan đợi mẹ về. Thơ Tố Hữu yêu đời và tin tưởng ở tương lai là do lòng tin thực sự đó vào quần chúng. Ðảng tính trong thơ Tố Hữu chính là ở chỗ luôn luôn tin quần chúng, cố gắng gần quần chúng, nói đúng đời sống của quần chúng, nói thế nào cho quần chúng hiểu, tìm ra cái mới do quần chúng sáng tạo, để đem dắt dẫn cho quần chúng tiến lên. Từ quần chúng mà ra và trở về với quần chúng. Ðó là đảng tính của người chiến sĩ văn nghệ thực sự làm nhiệm vụ văn nghệ mà Ðảng giao cho, giữa cuộc chiến đấu gay go, phức tạp hàng ngày của quần chúng. Yêu nước trên cơ sở giai cấp: Lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu gốc rễ cũng ở quần chúng. Thơ Tố Hữu tự hào, yêu từ ngọn lúa, ánh nắng của đất nước, là vì đất nước ấy ngày nay đã là của nhân dân. Ta thường nói: người cộng sản là người yêu nước nhất. Người cộng sản yêu quý đất nước vì nhìn thấy đất nước là bao nhiêu công sức mồ hôi nước mắt của những bàn tay lao động đời này qua đời khác làm ra. Người cộng sản tự hào về Ðảng vì thấy nhờ Ðảng soi đường mà quần chúng tự giải phóng được, sức lao động sáng tạo của nhân dân phát triển được đến vô cùng làm cho đất nước đẹp thêm mãi, và những con người trước kia chưa hề được sống như con người, nay mới thành con người thật. Không phải thơ Tố Hữu không còn khuyết điểm, nhưng chúng ta cần nhận rõ trong thơ Tố Hữu, những vấn đề Ðảng, giai cấp, quần chúng, dân tộc, không thể tách rời ra được. Mà sở dĩ như vậy là vì trong thực tế hàng ngày của xã hội ta, Ðảng, giai cấp, quần chúng, dân tộc không thể tách rời nhau được. Chúng ta thử nhìn chế độ thống trị của bọn địa chủ, và tư sản mại bản ở miền Nam nước ta hiện thời. Mồm chúng cũng nói dân tộc, nói quốc gia, giống nòi, nhưng quyền làm chúa đất và bóp cổ dân cày, quyền bóc lột áp bức của chúng đi ngược hẳn với nhân dân. Chúng không thể yêu nước vì chúng chỉ có bám đít đế quốc mới sống được. Nhìn thấy sông Khung hay cánh đồng Tháp Mười, nhìn thấy chú bé áo nâu nhảy nhót tự do trên đường, nhìn thấy một người trong sạch, khảng khái, chúng hằn học, muốn giết, muốn giam cầm, muốn phá hoại. Những bọn chó săn của đế quốc, địa chủ, dù có đưa ra chiêu bài nghệ thuật quốc gia dân tộc gì để lừa bịp những người ngay thật, chúng cũng không thể nào hiểu và yêu được nghệ thuật mang sức sống mạnh mẽ và trong sáng của nhân dân ta. Chúng chỉ có thể thích thú và bắt chước "lối sống" và thứ nghệ thuật vô tổ quốc kiểu Mỹ, dựa vào sự sa đọa và lưu manh hóa con người. "Nghệ thuật vị nghệ thuật" kiểu tư sản cũng vậy, có nói tìm cái mới, phá cái cũ, nhưng thực chất vẫn không thể thoát ra khỏi cái cũ được, thực chất nó cũ kỹ, lụ khụ, bế tắc và chỉ đẻ ra được những quái thai chết yểu, vì nó xa rời quần chúng, là những người đang thực sự làm đổi mới cuộc đời. Người yêu nước không thể không yêu nhân dân, và nếu đi vào nhân dân, thì không thể không thấy Ðảng sống giữa nhân dân, như ánh sáng của ban ngày.
Thơ Tố Hữu mang được hơi thở của quần chúng, và dạt dào lòng yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, chính là nhờ có ánh sáng của Ðảng từ bên trong tâm hồn chiếu ra. Ðời sống riêng của nhà thơ và quần chúng: Trên bước đường chuyển vào thực tế quần chúng, nhà thơ Tố Hữu ít nói đến mình. Nhưng trong khi tìm cách tả cho đúng thực anh bộ đội, bà mẹ chiến sĩ hoặc em bé giao thông, thì Tố Hữu đã tự tạo được cái điệu thơ riêng, cái cá tính mà trong thơ Tố Hữu trước Cách mạng, ta chưa thấy thành hình hẳn. Trong khi nhà thơ nói đến những con người khác, mà ta nghe được rõ những điều không nói ra, trong tâm hồn anh. Trong khi đi vào cuộc sống chung quanh, nhà thơ đã tự tìm thấy mình. Nhưng ngoài việc mô tả quần chúng, Tố Hữu cũng tự đem mình ra nói trong mấy bài thơ: “Giữa thành phố trụi”, “Lên Tây Bắc”, “Bắn”. Cái "tôi" mà nhà thơ nói lên trong mấy bài thơ đó không lúc nào là một cá nhân tự quay vào mình, tự đóng cửa tâm hồn để soi gương, mà trái lại đó là một tâm hồn đang muốn suy nghĩ, ca hát, căm giận cùng với những cảnh, những người của kháng chiến. Nhưng đọc ba bài thơ, tôi cảm thấy một giọng nói, những tình cảm, những cảnh vật và con người khác với trong những bài thơ mô tả quần chúng. Khi tả những cảnh đẹp những tình cảm muốn bay lên, thì những cái đẹp và bay lên ấy của nhà thơ chơi vơi, có khi cầu kỳ: Ta lại bước đi trên đường đá rát Gõ gót vui nghe tiếng hát Của mỗi hòn gạch nát mỗi cành khô (“Giữa thành phố trụi”) Cái gõ gót ấy khác hẳn với ta đi lên đèo, ta leo lên dốc của anh chiến sĩ pháo binh. Một mặt khác, khi nói đến căm thù, những cảnh chết chóc mà nhà thơ đưa ra thường như một bức ảnh tỉ mỉ nhưng ghê rợn: Thây chúng nó tung lên từng miếng đỏ Ðầu chúng nó óc phọt ra ngoài sọ Trái lại, ta hãy nghe anh vệ quốc trong “Cá nước” nói đến quân giặc chết: Rồi Bông Lau, ỷ La, Ba trăm thằng tan xác Cành cây móc thịt da, Thối inh rừng Việt Bắc, Tàu giặc đắm sông Lô Tha hồ mà uống nước Máu tanh đến bây giờ Chưa tan mùi bữa trước. Ta nghe thấy tiếng anh chiến sĩ cười thắng trận và ta cảm thấy lòng anh căm thù và khinh quân giặc chứ không phải anh thích thú cảnh máu xương. Trong bài “Bắn”, người đọc thấy nhà thơ nóng nẩy vì căm thù, nhưng anh không có việc giữa lúc chiến sĩ đang bận túi bụi và hết sức căng thẳng. Những lời giục "Sao mà lâu thế nhỉ", "Anh còn đợi chờ gì?" "Chúc đồng chí bắn thẳng vào cho đúng" "Ơi các anh xung kích dưới cỏ âm thầm", tất cả càng làm cho sự nóng nẩy, bồn chồn của nhà thơ trái ngược với người chiến sĩ mà ta cảm thấy đang lầm lì, bình tĩnh, cố gắng sửa soạn trận đánh cho thật chu đáo. Rồi khi tác giả gọi "Anh đại bác tôi chờ anh để hát", thì ta nghĩ: bao nhiêu chiến sĩ sắp lăn vào chỗ sống chết, đâu có phải chỉ để cho nhà thơ hát.
Nhìn chung, khi nhà thơ Tố Hữu tự nói đến mình (trong mấy bài thơ trên đây), tôi thấy những ý nghĩ và tình cảm của anh còn kém gắn bó với quần chúng. Do đó, sự sống trong thơ kém thực chất của lao động và chiến đấu, cảnh nhiều hơn tình, chữ nhiều hơn ý, lời nói nhiều hơn việc làm. Không phải đó là vì nhà thơ đã nói đến mình quá nhiều. Trái lại, trong ba bài thơ, ta chưa thấy rõ hình bóng cuộc đời của nhà thơ ra sao. Nhà thơ làm gì giữ thành phố trụi, hay giữa các chiến sĩ, anh ở đâu tới, đi đâu, anh có yêu ai không, tình yêu của anh có ảnh hưởng gì đến sự suy nghĩ hoặc lòng căm thù của anh không, tất cả những cái đó đều còn mờ nhạt, hoặc chưa có hình bóng. Ðời sống riêng của nhà thơ còn như bị nén lại, và hình như nhà thơ cho rằng những chuyện riêng của mình là không đáng nói giữa cuộc đấu tranh sống chết của quần chúng. Nhưng thực ra khi nhà thơ đã nói "tôi" thì chính quần chúng hỏi "đồng chí là ai, và đến có việc gì? " Cái "tôi" ấy lúc bấy giờ là của quần chúng chứ không phải của riêng nhà thơ nữa. Vì nhà thơ mới nói đến mình một cách chung chung nên những gắn bó của cuộc đời ấy với sự sống chết của quần chúng cũng mới chung chung. Có lúc tôi nghĩ trong bài “Bắn”, giả thử ý căm thù chung được gắn vào lòng căm thù riêng của thi sĩ, - ví dụ nhà thơ nhắc đến một kỷ niệm hay một người thân yêu trong đời mình, - thì có lẽ ý căm thù của bài thơ sẽ "sống" và mạnh lên rất nhiều. Và ví dụ nhà thơ nói rõ cho ta thấy vận mệnh của anh và của thơ anh gắn bó với công việc chiến đấu của các chiến sĩ như thế nào, thì có lẽ người đọc không bị cảm giác "nhà thơ không có việc" như khi nghe câu kết Anh đại bác tôi chờ anh để hát. Nhà thơ chỉ có thể lớn do thời đại phản ảnh vào bản thân mình. Tiếng sáo của nhà thơ chỉ có thể rung động và vang xa khi nào có luồng gió của thời đại, của nhân dân thổi vào. Nhưng đời sống riêng của nhà thơ mang được hơi thở của quần chúng, thì nó cũng sẽ lớn lao, sâu sắc và nhà thơ tự nói đến mình càng rõ rệt lại càng gần gụi với mọi người.
Theo tôi, những vấn đề riêng của nhà thơ mà gắn bó nhất với quần chúng là cái lao động của nhà thơ, tức là việc làm thơ, và tình yêu là một tình cảm căn bản của mọi người. Văn nghệ, số 78 (21.7.1955) 47. Nguyễn Ðình Thi Nhà thơ lớn lên với thời đại [3] Nay hòa bình, kháng chiến thắng lợi, những người kháng chiến chào Việt Bắc về xuôi. Cái ý nghĩa của tất cả lời chào ấy theo tôi cũng ở mấy câu, như một nút động thứ hai của bài thơ, khi nhìn về tương lai. Mình về thành thị xa xôi Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng Phố đông còn nhớ bản làng Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng... Hòa bình tới, chiến tranh đã chấm dứt, "từ thôn quê chuyển về thành thị" đời sống sẽ thay đổi, nhưng chúng ta không muốn để cho phai nhạt mất những cái quý báu mà Việt Bắc đã rèn luyện cho mỗi con người trong kháng chiến: cái đạo đức giản dị, trong sạch, cái tinh thần chiến đấu gian khổ, tự lực cánh sinh. Ngay từ lúc ấy nhà thơ đã nhìn thấy phải đấu tranh với cái mệt mỏi, muốn nghỉ ngơi, hưởng lạc, nó sẽ có thể nẩy ra trong lòng mỗi người, khi về giữa "nhà cao, phố đông, đèn sáng". Nhưng không, nhà cao chẳng khuất non xanh, ta về nhưng lòng ta vẫn ở với Việt Bắc.
Ta nhớ bà mẹ trên nương vẫn còn cháy lưng vì nắng, ta nhớ em gái hái măng, em phải được sống một cuộc đời mới. Chỉ có phấn đấu nữa, ra sức xây dựng đất nước mới của chúng ta, cho Việt Bắc trở nên giầu có sung sướng, ta mới làm cho lòng thương nhớ Việt Bắc thành sức mạnh. Nhận ra được phương hướng đó, bản hợp tấu khi thiết tha, khi hùng tráng, khi thánh thót, khi sôi sục, đã kết thúc bằng những âm thanh trong sáng chan hòa. Nhớ ông cụ mắt sáng ngời Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường Nhớ Người những sáng tinh sương Ung dung yên ngựa trên đường suối reo Nhớ chân Người bước lên đèo Người đi rừng núi trông theo bóng Người Hồ Chủ tịch rời Việt Bắc để đưa dân tộc ta tới những ngày mới. Tư tưởng phải bám chắc lấy thực tế: Tôi đã phải trích dẫn nhiều, và nhắc lại những câu thơ mà bạn đọc đã nghe nhiều người giải thích mỗi người một cách. Và chính tôi khi trích dẫn hoặc phân tích cũng thấy rằng được mặt này thì thiếu mặt kia. Ðó là vì trong những câu thơ ấy đã có những con người, những sự việc, những tình cảm, ý nghĩ có thực của một giai đoạn lịch sử còn đang nóng hổi trong mỗi chúng ta.
Khi có dấu vết sự sống, thì tác phẩm nghệ thuật cũng mang được cái dồi dào của sự sống, nó làm cho mọi phân tích đều vẫn cứ chưa nói hết được. Nhưng tôi đã không ngại bỏ sót nhiều điểm khác mà nhằm theo dõi những bước cố gắng của Tố Hữu để làm cho thơ anh lớn lên về tư tưởng. Vì tôi nghĩ đó là một điều còn hiếm trong văn nghệ chúng ta ngày nay. Chúng ta còn ít suy nghĩ quá trong cuộc sống và trong sáng tác. Mỗi người làm nghệ thuật còn chưa nhận hết trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu của nhân dân. Nghệ thuật mới của chúng ta phải là nghệ thuật có những suy nghĩ sâu sắc, những tình cảm lớn lao. Phục vụ đối với người nghệ sĩ nghĩa là đem hết sức suy nghĩ, và đem hết tâm hồn vào cuộc đấu tranh của quần chúng. Nhưng sự suy nghĩ và rung cảm của người nghệ sĩ phải luôn luôn bắt nguồn và nhào nặn trong thực tế quần chúng, nó đổi mới và phát triển không ngừng. Và rút lại đến cùng, quyết định cho sự sáng tác, chính là thực tế cuộc sống. Tác phẩm nghệ thuật xét đến gốc vẫn là một phản ảnh của cuộc sống. Ðiều đó không làm giảm sút giá trị suy nghĩ và rung cảm của người nghệ sĩ mà trái lại nó bảo đảm cho sự suy nghĩ và rung cảm ấy không bao giờ cạn. Nhìn lại thơ Tố Hữu trong giai đoạn về sau, bên sự trưởng thành về tư tưởng, chúng ta cũng phải nhận thấy có một thiệt thòi rất lớn nó giới hạn sự sáng tác của nhà thơ và làm cho sự sáng tác ấy chật vật thêm rất nhiều: là nhà thơ không có nhiều điều kiện (hay là anh chưa cố gắng tạo cho mình thêm điều kiện?) sống hàng ngày giữa thực tế quần chúng, ở những nơi đấu tranh điển hình nhất, - như là ngày đầu kháng chiến. Do đó, cái phần "tươi mới", cái tính chất còn ròng ròng sự sống của thơ Tố Hữu về sau này không được như trước.
Những hình ảnh đạt nhất mà anh tạo ra là những hình ảnh có tính chất so sánh và tổng quát (Ðêm lịch sử Ðiện Biên sáng rực, v.v...). ít những hình ảnh dựng ngay lên một con người, một hành động, một phong cảnh cụ thể đang sống trước mắt chúng ta. Thơ Tố Hữu về sau thiếu cái luồng rung động trong giây phút mà còn lâu mãi của bài “Cá nước”, hay “Lượm”, thiếu cái nhuần nhụy tự nhiên của những cái đang sống, của con người đi lại, nói cười, của ngọn lúa có hạt mưa phùn rơi, của cái đêm đông có gà gáy sáng. Tôi có cảm tưởng nhiều khi nói đến chiến sĩ ngoài mặt trận, hay chị dân công trên đèo, nhà thơ phải dùng sức tưởng tượng mà bồi đắp cho những hình ảnh về thực tế mà anh đã thâu lượm được từ trước. Có lúc sự bồi đắp ấy thành công vì cái vốn cũ của nhà thơ đủ dồi dào, nhưng cũng nhiều lúc, sự bồi đắp đó đuối sức, vì thực tế đã vượt lên những trình độ mới mà không sức tưởng tượng nào có thể đuổi kịp và giúp ta biểu hiện lên được. Những khi ấy, hình ảnh trong thơ trở nên chung chung, làm cho ý của câu thơ bị phơi trần ra, không sống lên linh động được. Ví dụ như những câu tả chiến sĩ Ðiện Biên: Chiến sĩ anh hùng Ðầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn, v.v... Nhưng cái ảnh hưởng rõ rệt và thiệt thòi nhất của sự thiếu thực tế đó là nhà thơ chưa sáng tác được về cải cách ruộng đất. Vì thực tế của cải cách ruộng đất là một thực tế vĩ đại và mới mẻ, nó làm cho nông thôn và người nông dân có một biến đổi về chất lượng, đang từ một thời đại lịch sử này sang một thời đại lịch sử khác, đang từ một cuộc sống kéo dài từ hàng nghìn năm sang hẳn một cuộc sống mới.
Bản thân nhà thơ vốn đã không sống cuộc đời bị địa chủ áp bức bóc lột, mà bây giờ lại không được tham gia trong một phần nào vào thực tế cuộc đấu tranh của nông dân đang lật nhào giai cấp địa chủ, thì tôi nghĩ thật khó tạo ra hình ảnh gì cho sống, cho thực về cuộc đấu tranh đó. Cái vốn cũ của nhà thơ về nông thôn và nông dân, tới cuộc cải cách ruộng đất, đã bị vượt quá xa. Và thiếu thực tế ấy, thì sự suy nghĩ, tình cảm, ý thức giai cấp của nhà thơ, cũng còn thiếu hẳn một phần căn bản, và không nẩy nở đến mức có thể của nó, cũng như mũi tên còn giương trên nỏ mà chưa có đủ sức để bắn đi và chưa thật rõ đích để bắn đúng. Con đường của thơ Tố Hữu: Thơ Tố Hữu còn đang tiến và có những thành công làm cho chúng ta thấy được rằng nó sẽ còn tiến xa. Theo tôi nghĩ, thơ Tố Hữu chưa phải đã phản ảnh được đầy đủ cuộc kháng chiến và thời đại vĩ đại của chúng ta, có thể nói nó phản ảnh còn nhiều thiếu sót lớn nữa. Nhưng điều căn bản là con đường mà thơ Tố Hữu vạch ra đã rõ, và là con đường đúng: đó là con đường phục vụ lợi ích của quần chúng, bám chắc lấy cuộc đấu tranh của quần chúng và không lúc nào rời ánh sáng chính sách của Ðảng. Ðó là con đường đi hẳn vào thực tế, và đem hết sức suy nghĩ và tình cảm để tìm hiểu và soi sáng thực tế ấy. Con đường tiến lên của thơ Tố Hữu sẽ do thực tế cuộc đấu tranh của dân tộc của giai cấp làm cho rõ nét, và nẩy nở thêm. Tôi chỉ có mấy ý kiến, cũng như những đề nghị còn chưa được chắc chắn, cần suy nghĩ và bàn thêm. Tôi cảm thấy Tố Hữu cần đi vào thực tế nhiều hơn nữa. Tôi vẫn không thể quên những ngày anh ngồi bên ổ chuối của bà bủ nghe bà kể chuyện hoặc đi theo đại đội pháo binh đầu tiên của quân đội ta. Ngày nay, thực tế quần chúng đã tới một quy mô khác, và nhà thơ cũng đã ở một trình độ khác. Nhưng dù bằng cách nào, nhà thơ vẫn cần được thấy đời sống hàng ngày và cuộc đấu tranh của quần chúng ở những nơi và những mặt điển hình. Ðó vẫn là cái nguồn căn bản của tất cả mọi sáng tác. Tôi mong nhiều sáng tác của Tố Hữu thuộc về loại kể chuyện hoặc mô tả nhân vật quần chúng, cùng một dòng với những bài thơ của anh ngày đầu kháng chiến. Vì tôi thấy những bài đó đã đánh dấu một bước chuyển căn bản trong thơ của anh. Và tôi nghĩ nhiệm vụ thứ nhất của mọi ngành nghệ thuật, kể cả thơ ca, vẫn là biểu hiện thực tế cuộc sống, biểu hiện những con người, nhất là những người lao động, là anh hùng của thời đại chúng ta. Nếu nhìn vào truyền thống thơ ca của dân tộc ta, từ những bài ca dao nói chuyện con cò đến Truyện Kiều của Nguyễn Du, tôi nghĩ truyền thống lớn ấy vẫn là mô tả và biểu hiện con người và xã hội. Trong khi biểu hiện cuộc sống, dưới ánh sáng của tư tưởng Mác Lê-nin, tôi thấy Tố Hữu cần đi sâu hơn nữa vào cái lao động sáng tạo của con người. Trong đấu tranh gay go hàng ngày của quần chúng, luôn luôn có sáng tạo của lao động, và có tất cả những quan hệ tỉ mỉ của đời sống lao động. Có tình yêu, có vợ chồng, con cái, có bè bạn, xóm giềng, có những vất vả của con người làm ra hạt gạo, miếng vải. Biểu hiện cuộc đấu tranh của quần chúng mà thiếu những cái đó là thiếu mất một phần căn bản. Có đi sâu vào đời sống và lao động hàng ngày của quần chúng mới có thể nói thẳng với lòng người và những tư tưởng mới tới được mức thật và giản đơn, tước bỏ được mọi hoa hòe hoặc khung khổ không cần thiết. Tại sao đã bao năm, chưa có một bài thơ của Tố Hữu tả tình yêu của anh chiến sĩ mà nhà thơ yêu mến hết sức? Và tại sao chưa có một bài thơ tình yêu của Tố Hữu, hoặc những bài cho ta thấy rõ đời sống riêng của nhà thơ hơn? Gần đây, bài “Quê mẹ” đã có một cái gì mới về phương diện ấy, nhà thơ đã thoải mái và chân thành mà kể chuyện mình, và câu chuyện riêng của đời anh đã gắn liền với vận mệnh của Huế và của mọi người. Vì khi nhà thơ biết nhìn sâu sắc và khách quan vào thực tế của bản thân thì có nhiều khía cạnh thấy được dấu vết của thời đại trong ấy. Cuối cùng, tôi nghĩ Tố Hữu đã trả về cho chúng ta cái nguồn dân tộc và tiếng nói dân tộc trong thơ. Câu thơ của anh trong những bài như “Việt Bắc”, hay “Quê mẹ” đã có dáng dấp câu thơ cổ điển, đồng thời nó mang sự suy nghĩ và cách nói mới của thời đại chúng ta. Nhưng câu thơ của Tố Hữu còn chưa được đều, có lẽ vì nhà thơ chưa có công phu gọt rũa hơn. Tôi mong đợi anh chú ý nâng cao tiếng nói và hình thức dân tộc hơn nữa, và làm cho hình thức ấy không đóng khung lại, mà phát triển lên. Ðến lúc thơ Việt Nam cần đón lấy những tìm tòi rất lớn hiện nay của những nhà thơ tiền tiến trên thế giới, nhất là ở các nước bạn. Và nhà thơ Việt Nam cũng đến lúc có trách nhiệm đem tiếng nói của dân tộc chúng ta góp chung vào văn nghệ quốc tế.
Văn nghệ, số 79 (28.7.1955)
[1]Chỗ này trích thơ sai chệch một vài chữ (NST).[2]Có lẽ phải là “rất dào dạt” (bản gốc in sai?) (NST).[3]Ba bài đăng báo của Nguyễn Ðình Thi về tập Việt Bắc thật ra nằm trong một bài viết chung. So với toàn văn bài viết đó (“Tập thơ Việt Bắc” trong Mấy vấn đề văn học của Nguyễn Ðình Thi; in lần 2, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1958, tr.143-177) thì các bài đăng báo bỏ một đoạn dài 8 trang, nằm giữa kỳ đăng thứ hai và thứ ba. Sưu tập này không in thêm đoạn đó (NST).
=
No comments:
Post a Comment