KIM CỔ KỲ QUAN
quyển III
quyển III
CÁO THỊ
Ấn bản 1964
từ trang 41-89
từ trang 41-89
mỗi trang 2 cột, chia thành 5 tập, mỗi tập 10 tr.
ấn bản 1964 đầy đủ còn bản Hòa Hảo Cali thiếu 500 câu đầu
CÁO THỊ 1
tr. 41-50
tr. 41-50
1
1. NẦY LỜI CÁO THỊ GIA-NGHỊ (1) LỜI RAO
Để ý thấp cao lời rao Gia-Nghị
Khuyên tình quê thị anh chị xem chơi
Tôi cũng nương hơi lập nơi cáo thị
5.Việc chưa bình trị anh chị chẳng tu
Hậu nhựt giơ khu (2) thấy tu người lấy
Tôi mà nói bậy nói vậy chẳng nghe
Sống gió bể ghe đẩy te vô cỏ
Ma ngồi cho tỏ , Phật bỏ chẳng dùng
10.Cơn đó chạy cùng không mùng mà ngủ
Ngồi khoanh tu rũ phản chủ phản quân
Phật chẳng lòng ưng xây lưng lấp mặt
Nghĩ nhiểu việc ngặt lũ giặc hãm dâm
Thấy việc cơ thâm bị đâm bị chém
15.Sức tôi nay kém việc ém để dành
Dở ra việc lành tanh bành việc dữ
Để mà coi thử ngôn ngữ người sao?
Ý thấp ý cao ở sao cho biết
Bất kỳ ngôn thuyết Phật biết dạng hình
20.Kiến thể kiến tình loạn bình đồng kiến
Trước thời nghe tiếng vận biếng nghe tai
Nghe chất lỗ tai chiều mai nghe nữa
Nước sôi nhờ lửa con giữa nhờ Trời
Tôi thiệt đôi lời Phật Trời một dạ
25.Thỉnh đồng hiệp tọa bá dạ là tôi
Ngôi nào một ngôi lòng tôi trăm tiếng
Vậy mà nguy biến Trời khiến lẽ nào
Nói trước lao xao sợ lao sợ khổ
Quốc-vương thủy thổ (3) báo bổ khôn cùng
30.Việc nay phải tùng là tùng theo buổi
Giặc đà gần đuổi giặc đuổi bên tây
Lãnh bức tờ mây trừ Tây trực khứ
Lập lời ý tứ hoặc khứ hoặc không
Nói việc minh mông dư công nói rán
35.Nói năm nói tháng hoặc tán ra ngày
Nói tớ nói thầy nói thầy nói tớ
Nói mà không nhớ thầy tớ phân ly
Nhiều việc khinh khi phân ly Thầy tớ
2
Nói mà người nhớ việc tớ như Thầy
40.Các việc tỏ bày việc thầy như tớ
Phải thời cũng nhớ quấy tớ lòng quên
Để đẹp hai bên hư nên coi thử
Của tiền tích trữ kinh sử không coi
Nghĩa lý không soi lâu coi quên hết
45.Lập đời coi kết ăn Tết coi chơi
Khi nào thành thơi khỏe hơi sẽ đọc
Sĩ thời ăn học ngang dọc sĩ ai
Đánh lộn lỗ tai hai trai một gái
Thuận tình ân ái sự trái ái ân
50.Chẳng biết cũng phân không phân chẳng biết.
Khi buồn thới thiết dạ tiếc thời thương
Bắt ngựa gò cương kéo rương mở khóa
Phật Trời nhiều giá sợ quá buổi trưa
Phải giá cũng đưa ngồi trưa nóng nực
55. Tiểu nhơn tranh thực trung trực cố vinh
Cố sách cố kinh bất minh cố oán
Nhiều lời ngao ngán phá tán gia tài
Nhơn nghĩa lâu dài của sài mấy tháng
Của tiền lai láng ở tháng ở ngày
60. Nhơn nghĩa lâu dài ở rày trong bụng
Việc nào mình dụng trong bụng phải ghi
Việc nào bất tri dầu ghi không nhớ
Lóng tai nghe bớ nghe bớ lỗ tai
Con mình nghe ai con ai không biết
65. Dầu lăm tử tiết cho biết con mình
Ăn ở khác tình bất bình hai ngã
Cơn buồn thông thả lập quả chí tu
Biết thuở ngao du không tu biển Thánh
tánh xưa Thánh mới tu
70.Nay việc thôn phu rừng mưu chí Thánh
Tu như ăn bánh xưa chí
Dạ minh tâm trí xuất ý quan phòng
cho thân làm trâu mà chịu
3
Việc nhà toan liệu làm chi
75. Nhiều việc khinh khi sầu bi tưởng
trăm con gái dạ trái không dùng
Người phàm tòng Thánh ngu tánh thiếu gì
Ở phải phân bì nương tùy đức Phật
80.Bằng không của ma bất bụng
Thiết tâm khẩu tụng dỉ phụng thừa ơn
Đãi sắc lịnh tân hoàng ân đạt chí
Thiên đình hội thí, Tứ hải ngao du công phu luyện tập
Nhơn tình cửa Phật dỉ lập dị đoan
85.Chư quốc bất cang dỉ sang thính bạo dĩ tạo đạo mầu
Tâm thiết vọng cầu lập lầu Nam-Diện
Hội ân thỉnh tọa phi họa Hớn đường
90.Văn võ muôn tâu một câu thọ thọ
Nhiều kẻ bạc vôi thương ôi chí thiết chúc ông
Cám tưởng minh mông lòng không xao lãng
95.Chẳng lo kiếm bản thàn nảng miệng cười
Chẳng muốn xúm nhau nói bậy nói vậy thời hơn
Thiết kẻ phi ơn Thất sơn khó tới
Cất lầu cất quán cho tháng cho ngày
100. Chẳng nhớ lời Thầy đố mầy nên đặng
Thầy xưa lội lặn đã nặng công lao
Sự thế lao xao nay tao lập lại
Chẳng nghe lời dạy tồi bại có khi
4
Tự ý thị phi
105.Nay tôi lội lặn cũng nặng cái lòng
Nói việc bao đồng dự phòng ông tới
Phật dạy làm lành chưa đành không
Việc đời thậm tốc dị bốc Tiên tri
Đời ăn cháo lú miệng bú sửa ma
Ăn nói ào áo như Tào dấy loạn
Ví như Kim-Đạn vây Trạng đầu sơn
Phật Trời vong phế thiễu tế tử thi
Hết kẻ dọc ngang hiển vang phước thọ
Tiểu thơ mặt lọ hai họ hòa duyên
Việc nói tỏ bày chê rày bất lực
Nói ngay chẳng kể Phật để chỗ nào
Ăn nói hỗn hào ra vào Trời phế chẳng cầu
Nói việc ưu sầu vô đầu vô vị
5
130. Tôi cho người thấy việc máy thiên cơ
Người cũng ngó lơ tôi ngơ ngẩn dạ
Chê tôi nói lạ Chẳng cầu ai khen bạc đen lời nói
Giúp nhau cơn đói bằng gói khi no
135.Một lũ ăn mày không bày một đạo
Nhiều bề cay đắng phải cắn cái răng
140.Chẵng bày bia vị bi lụy tâm ai
Thấy người án nói bụng đói biết no
Thân chết chưa chôn nói khôn hơn Phật
Chẳng ai tu tỷ xét nghỉ thân sau
Chẳng xét cạn sâu biết đâu mà thấy
Dạ lo sút sĩa nhân nghĩa không tường
6
chẳng biết chí sống đi đâu mất
Người nam nói xấc khó cất cái thây
155.Tôi nói việc hay ở lặng chịu nặng cái lời
Chắt lưỡi kêu trời ở đời thậm khổ
Trời mang bụng chữa sấm sửa sổ lòng
Tiêu nghệ dự phòng đạo đồng dường cử
160. Cho người xương Tới đời khó thương cái rương không khóa
Hôi cơm tanh cá vàng đá bấy chầy
Chẳng tưởng đạo
Nhiều người thông thuộc là cuộc ở đâu
Chẳng tới bực sâu cầm câu nhớ cá
165. Ngọc còn ẩn đá rồng hóa lên tới đây thời biết
Sau đừng có tiếc hung kiết tại Trời
Ăn nói nhiều lời cãi Trời châu ổi
Ra tay cầm chổi gió thổi phương đông
Lập chí giao phong quan ông xuất trận
170. Nghe nhiều người giận thế cận
Đời nầy thiệt dại hết đậy phải bày
Cám tưởng ơn Thầy vào rày lạy Phật
Niệm Trời niệm Phật mỗi tật mỗi lành
Hung dữ Phật hành chành bành thây thúi
175. Đừng mang áo túi lúi búi trong mình
Mắc áo bó hình thiên đình xử hết
Người lầm mà chết Phật hết dạy răn
Nhiều việc lăng xăng không ăn thời chết
Việc đời cận tết thấy chết mới hay
180. Tuy sống ngày nay thương thay mai thác
Việc tôi nói khác cô bác chẳng dùng
Chê nói tầm khùng dở mùng thấy chúa
Mặc tình tay múa đựng lúa hay lu
Mới hản sự tu công phu mài sắt
185. Phân nhau Nam bắc kẻ tắt người quanh
Ngó thấy thượng thanh rạng danh tổ đức
Việc này chẳng tức ở bức tại người
Nhiều việc vui cười thương người Phật khóc
7
Cao mên đánh bóc trọc lóc nhiều ngay
190. Nam việt chê tây thương thay mình vạy
Việc làm tồi bại mình hại lấy mình
Chớ trách thiên đình nhơn tình bất phách
Nói hơi kêu cách nói sách nói kinh
Mười chuyện bất minh làm thinh chịu dại
195. Nói đi nói lại thì ngại lòng người
Ngoài miệng nói cười thương người trí huệ
E sau tình tệ U, Lệ (4) đa đoan
Khiến việc nghinh ngang tang hoang nhà cửa
Người khôn khó sửa như lửa cháy đồng
200. Dứt mối tơ hòng sợ lòng nhúm lửa
Không ai dám chửa nhiều bữa loạn tâm
Biển Thánh rừng nhu (5) chỗ lu chỗ tỏ
205. Ngãi điên chửa giỏi lấy chổi, đánh đầu
Hậu nhựt chư hầu vọng cầu Phật tổ
Mới rằng tỏ dạ việc họa việc linh
210. E kẻ ăn làm tiếng đàm cuồng ngữ
Thân ai nấy xử sự thủ nan tình Chẳng chắc việc hỏa
Phật còn nhồi nhã các ngả ứng thinh
Việc ở cao minh trung tinh rằng phải
215.Việc đời đa lý ngụ trí bình phân
Nhiều người nói láo cơm áo chẳng đền
Thiệt khó vào ra người ta chẳng có
8
220. Phải như không thấy chầy bấy thì thôi
nói dại khờ bây giờ khoan chấp
Ý chẳng lo toan thế sang gánh khác
225. Ai đặng lòng Thánh lập tánh làm nhưng
Tôi thiết rất quâ chỉnh ê lỗ miệng
Lật tình minh truyện đi kiện cho hà
Tới chốn phổ đà minh đế dạ phế Di-Đà
230.Mậu ngũ bất hòa nước nhà mất hết
Cầu Trời Phật tấm tay nắm làm sao
Người dễ chẳng thương oan ương một thuở
Nước nào có trạng trách bạn không phân
Để loạn khổ dân phi ân người Trạng
Lập đời tiền ngữ không chữ vi ngôn
240.Người thác khôn chôn nhứt môn bá quốc
Lập đời tùng thiệt dỉ tuyệt sự nan
Không kẻ ngu si dĩ tri phụ mẫu
9
Việc làm nhiều dại mình lại hại mình
Các nước bất bình xác hình mới thấy
tiếng công thâu đâu đâu cũng ngủ hết
Ba năm quên thở niệm đỡ nam mô
Gập thuở loạn ly Phật tri lại độ
255. Miệng kêu Tiên Tổ nguyện bổ tông thân
Xét việc phi ân hậu thân ngậm ngặt
Vi nhơn trí sửu linh cửu đỡ tình
Làm việc bất bình xà kình giảo nhục Mê dục đa đoan
260.Nhiều việc chẳng an than thở chí khổ
Nhập lâm kiến hổ móc cổ phân thây
Cũng mặc ý ai chiều mai không dể
265.Nhiều người tội nặng đều lặn sách trơn
Cây mục thoa sơn nhiều cơn phải tróc
Đồng tuân nhứt lịnh Gia định cựu tồn
270. Quân tử vận suy đều khi hết trọi
Trời cao vọi vọi người gọi bất
10
người khi chẳng biết
Tâm hoài thiết thiết hung kiết dị nan
Tiểu nhơn bất an dọc ngang chẳng dễ
Nhơn cư ơn Chẳng những người thân chẳng phân tà chánh
275.Thấy người bạo tánh phải tranh cho xa
Bất Phật bất ma Nhiều người mọi rợ chẳng sợ Phật ta
Lòng Phật Phật a lòng ma ma buộc
Đương làm sơ xảy phúc gãy phúc chưng
Gia bần tri đoản đồng quãng thới
Phật nói bất tùy còn gì nhơn nghĩa
Rủi tay bể dĩa nhơn nghĩa lâu dài
Lòng kẻ giàu sang nghinh ngang thời khó
290.Muốn cho bá tánh hiểu Thánh mới mầu
Ý sao chẳng cầu để sầu tôi chịu. Không ai bất thường
Chẳng nguyện Hớn trường can cường diện mạo
Chẳng lo lập đạo hung bạo làm chi
Vận còn suy vi phải đi cầu Phật
295. Nói chi súc vật để Phật khi Trời
Dạ chẳng lo đời theo thời chiến thắng
Chẳng e con rắn nó cắn nhức mình
11
Một mình hai gối ai thối mặc ai
Nhớ thuở rau trai chông gai cá nướng
300.Mặc người sung sướng làm tướng trào Tây
Tôi nói vạy ngay phương Tây chiếu cố
E khi hoảng hốt ta cốt mình mang
Lúc hiếp lúc tan hỏi han chẳng tỏ
305. Tiếng la con thỏ Phật rõ con trâu
Thương thuở con trâu lo âu con chuột
Ba con một cuộc chưa thuộc đuôi đầu
Lòng có vọng cầu dạ sầu khúc giữa
Khó chi một bữa người sữa lòng tôi
310.Nhiều chuyện tha ôi! Mồ côi thiết yếu
Nói thời líu tíu kẻ níu người trì
Chẳng kỉnh trước vì Sau quì bái quỵ
Tận tình cáo thị bi lụy cá tôm
Cách trở sao hôm dạ ôm sao mọc
315. Khóe tra thuốc độc chẳng học Thánh hiền
Nhiều việc cảm phiền vong tiền phế hậu
Đều kêu bằng cậu cơ hậu không lo
Đánh lớn thua to chẳng lo cơm gạo
Tầm sư học đạo dỉ dạo giáo sư
320.Nhiều dạ cẩu trư hỏa lư phạt chí
Nhiều người vo ý miệng lý lu là
Lầm thuở rừng già bất hòa đạt vận
Yếm mang quần vận hầu cận Đế-Vương
Đơn ông càng cương khó thương văn tự
325. Lòng còn dụ dự đa sự nghi nan
Người nghỉ việc sang dạ toan bất phục
Dạ nguyền lánh đục phèn thục thời trong
Dở ổ chóm ong cuồng phong đại bại
330. Đánh trống liền hoài chẳng tài chi trống
Lo bề anh chị Gia Nghị đừng lo
Dầu thác tiêu tro thác no sống đói
12
335. Tại nhơn sanh sự hà sử hữu sanh
Nhiều việc khôn lanh đua tranh chầy bấy
Phật ra khó dối thầm tối bày ngay
340. Đường mực phương Tây nẻ ngay mất vạy
Từ ấu chí lảo Phật khảo phải khai
Tới cửa tam quang dọc ngang chẳng phải
345. Việc nầy thừa tải quấy phải giao tôi
Nước mắt tay lau tay lau nước mắt
Mình làm tá họa vu vạ cho ai
Giả điếc làm câm mấy năm khô héo
Nói tròn lời Khéo việc méo tại ai
Lời nôi dọc ngang khó toan cứu cấp
Tránh đường Tây tặc thậm ngặt anh hùng
mắt biết đâu tai trâu còn mỏng
360.Nhứt thâm lập khoản dạ quản
13
Thấy việc người khôn chư thôn e sợ
Thương nỗi anh hào ra vào vắng mặt
365. Người tu cất cốc chẳng bốc quẻ chi
Bạch Phật cung ly thức tri cho biết
Phải lo cơm gạo giữ đạo lương điềm
370.Cho biết thiện vương hay là ác đế
Chẵng dụng lập kế say thế làm sao
Cẳng thấp cẳng cao nhảy
Không ăn mắc bẩy hết thảy mắc vòng
Chẳng biết đặng lòng bánh phòng hay trở
Tôi làm có giấy chẳng thấy thời thôi
Sao chẳng lo đời thương thời con dại
Trách kẻ vô tình giữ mình an ổn
Thế suy vận bỉ năn nĩ một mình
385. Đi tới vừng trăng không săn nai gạc
Cây khô chưa tưới héo dưới ngọn tươi
Hổ thẹn cho ngươi dám đươi lần nữa
390. Dạ lo ngày tháng ngao ngán năm dài
14
Dầu gặp họa tai Phật khai chịu
phàm chẳng thấy chầy bấy Phật hay
395.Dạ lo thủ thỉ tịnh dỉ quan phòng
Phật chữa định phân việc ân việc oán
Một lũ ngu si Phật chi chi bậu
400.Quản Cơ lòng đậy quở vậy biết sao
Nhiều việc phi ân dễ phân khó tỏ
Đất thời sanh cỏ cặc lỏ sanh con
405. Mười việc mười tham tôi đam để đó
Thấy tường Phật địa Tây rịa một bên
Phải chửa thần thừ giả từ bệnh ngặt
410.Miệng niệm nam mô Gia tô phải bỏ
Lời hay không tỏ ngọn cỏ phơi thay
Nghe sấm cung ly các chi kỳ phận
415.Người đừng câu kết mà chết không ngăn
15
Mới biết lòng khôn đừng tôn trẻ dại
Phải lo phước họa đẳng tọa phi thường
420.Nói việc đưa đường ai tường trong bụng
Nhớ ngồi chiếu lác xưng bác xưng cô
Học hành mới thuộc bạch tuộc sao
Dầu đánh mấy roi không coi không biết
Dầu mà mắc nhiếc tai điếc trơ trơ
Chẳng phải minh mông nhà không cha mẹ
Tận tình ngôn hạ dỉ tạ thượng thân
Vi nhựt tế tân nhơn dân mỷ diệm
vi nhân minh chánh Lập nhơn tâm Thánh
lưởng lánh thuận hòa.Hiệp dạ trẻ già
thượng hòa hạ lục Phong đồng tâm
Tam giác hội thân quan dân việc nước
440. Vi quân tử trước vi phước vi lương
Tích thiện quốc vương
Nhứt đoan Gia-Nghị lưỡng thị châu trần
16
Hữu phước hữu phần vô phần vô phước
445. Trước thời nam bắc nay chắc Hớn bang
hiển vang vạn tuế tâm phế thiện vương
Vô quốc thâm cương dân nương dạ bạo
450. Thiên cơ tri lậu tử hậu loạn tâm
Chẳng mấy trăm năm cơ thâm xử thất
Vô tà vô vật nhơn Phật tịnh tình
455. Một cõi thượng thiên hòa viên tâm thống
Bắt còn nào sống chất đống lại nhà
Lòng dạ thuận hòa
Con nào thác yểu, Phật biểu bỏ ra
Co Phật Phật la con ma ma dắc
Người dắt Phật đi từ bi để Phật
Xúm nhau mắng dại nghĩ lại chẳng khôn
465. Thiệt chẳng biết chi khinh khi một lũ
Thiệt đồ phản chủ chỗ cũ không quen
Bay hơi thúi khét lại ghét chỗ ăn
Cả lũ không căn xích xăn không đặng
17
470. Thiệt loài phản chủ ai rủ muốn theo
Cây héo mà tươi thấy tươi mà héo
Thấy hư thời sửa dơ rửa cho rồi
Ai biết lòng ta con ma lòng Phật
Đừng noi thú vật cãi Phật chẳng nên
Ăn nói đứng đàng đầu hàng cuối xóm
Về nhà đàm tiếu tối níu chị nầy
Thấy vậy nhiều người chê cười sanh chuyện
Kẻ thưa người kiện sanh chuyện chối đôi
Nói chuyện sau hè không dè trước cửa
Sanh tâm ăn vụng trong bụng ngu si
Chẳng biết việc chi mà suy mà nghĩ
490. Nói bát kim Thiệt khó lập nghiêm sự kim đa cải
Muốn làm cho phải đa cãi khổ
Nói thời nghe nặng lắng lặng còn nghe
18
495. Lo việc chưa rối ăn ngồi lặng
Soi lòng bá tánh vi cánh sum vầy
Trước bước lại Thầy còn nhớ lời nghi
Đừng dạ ngu si bất tri Tiên Thánh
500. Cầu cho bá tánh tâm Thánh tri tường
Nhứt lễ cúng dường
Vạn gia bỉ dạ đáo tọa chúa công
Lễ bái vọng đông thinh không thấu bái
505. Cầu cho hai họ thượng thọ qui căn
Mê Thánh mê Thần mê trần trời bỏ
Nhớ ơn một hội tấm gội chúng sanh
Cứu thuở oan ương Tây-phương chí nguyện
Chừng nào quá lão hết bảo minh mông
515. Cho biết ở đời phải thời hay phải
Quấy thời biết cãi nói phải biết nghe
Phò chúa qua đèo vận nghèo Ngũ-Thiệu
520. Nói ra gây gắt nước mắt gập ghình
19
Việc Phật người bôi thương ôi khó lắm
525. Chú bảy phân dư an cư Gò-sặt
Nói chuyện phi ơn bất nhơn thất đức
Nói nhiều chuyện tức cách bức lòng Trời
530. Nghiệp tôi theo không kịp tội nghiệp đời nầy
Sống ở chờ ngày thác rầy không bữa
Nhà không đóng cửa
Ngó núi ngùi ngùi sụt sùi biển ngọt
535. Người nào gian nịnh họ Trịnh siêu thoàn
Ngư Tiều chín chiều ruột thắt
Kẻ Nam người bắc nói mắc khó nghe
540. Khó đứng khó ngồi bồi hồi việc hậu
Vận tề bất đạt xiêu lạc hai phương
Đặt để hai bên ở trên có chúa
545. Ăn cơm phải múa việc chúa cho dàng
20
Nhiều lòng phản bội lập hội lương điền
Kết sửa bạc tiền cảm phiền làng tổng
550. Bụng người khổng không dò
Dạ muốn làm trò dặn dò lòng tớ
Việc nào cũng nhớ thớ thớ ngoài môi
Trong bụng tích vôi
Thân tôi xiêu lạc hai hạt đều cười
555. Chẳng biết vàng mười thương người mắt bịt
560.Làm tớ nghe Thầy chịu rầy lúc đọa
Phật Trời phép lạ trần hạ khó hay
Thúi hơi ngầy ngật lột trật còn non
Lòng sắt dạ son nước non vòi vọi
565. Tôi nam chúa bắc gay gắt nhiều phen
Một mình bơ vơ ngẩn ngơ non núi
Hổ trang thơ ấu miệng tấu cửu trùng
570. Nước chảy đúng đùng anh hùng thất vận
Phật Trời ngó thấy phải quấy chăng không
_____
(1). Gia nghị: Quản Cơ Trần Văn Thành tổ chức quân đội chống Pháp, lực lượng khoảng 1200, binh sĩ , đa số là Phật tử Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông lập khánh chiến khu ở Láng Linh-Bảy Thưa
(3). Quốc-vương thủy thổ: Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương là Phật giáo nhập thế, chủ trương báo đền Tứ Ân: Ân cha mẹ, ân thầy , ân quốc gia xã hội, ân Tam Bảo. Quốc vương thủy thổ là lo việc báo quốc, giữ đạo trung. Sau này, Ngô Lợi phát huy thành đạo Lành hay Hiếu Nghĩa..Ngô Lợi (thường được tín đồ gọi là Đức Bổn Sư) sáng lập vào năm 1867 tại Ba Chúc, huyện Tri Tôn , tỉnh An Giang.
(4). U, Lệ: hai vua hoang dâm tàn ác của Trung Quốc. U Vương, vị vua thứ 12 của nhà Châu, lên ngôi năm 781 trước TL. Lệ: Lệ Vương, vị vua thứ 10 của nhà Châu, năm 878 trước TL. Đây là hai vị vua tối tăm, độc ác, bạo ngược của nhà Châu, giống như vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương.
Thời bấy giờ, Lánh Linh - Bảy Thưa là một cánh đồng trũng phèn rộng bao la, không có kênh, rạch lớn ra vào, suốt năm chỉ gieo gặt một mùa lúa sạ. Phía Bắc giáp vùng biên giới núi Sam, Tây dựa Thất Sơn, Đông cặp sông Hậu giang, Nam giáp núi Ba Thê và Long Xuyên. Mật khu này xưng danh hiệu là “ Thiên sơn Trung tự”, kiểu chùa chiền; quân đội thì lấy tên Gia Nghị cơ hoặc Giang Nghị cơ, khiến ta liên tưởng đến những đồn điền tổ chức thời Nguyễn Tri Phương, vùng biên giới. Còn gọi là dinh Sơn Trung hay Sơn Trung doanh.Trong Kim Cổ Kỳ Quan, tác giả nhắc nhiều lần các chữ Gia Nghị, Cơ Gia, Cơ Gia Nghị, có lẽ ông cũng tham gia lực lượng kháng chiến chống Pháp.
(2). Khu: cái mông, cái đít. Giơ khu: bày mông ra. lộ mông ra cho người ta thấy.(3). Quốc-vương thủy thổ: Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương là Phật giáo nhập thế, chủ trương báo đền Tứ Ân: Ân cha mẹ, ân thầy , ân quốc gia xã hội, ân Tam Bảo. Quốc vương thủy thổ là lo việc báo quốc, giữ đạo trung. Sau này, Ngô Lợi phát huy thành đạo Lành hay Hiếu Nghĩa..Ngô Lợi (thường được tín đồ gọi là Đức Bổn Sư) sáng lập vào năm 1867 tại Ba Chúc, huyện Tri Tôn , tỉnh An Giang.
(4). U, Lệ: hai vua hoang dâm tàn ác của Trung Quốc. U Vương, vị vua thứ 12 của nhà Châu, lên ngôi năm 781 trước TL. Lệ: Lệ Vương, vị vua thứ 10 của nhà Châu, năm 878 trước TL. Đây là hai vị vua tối tăm, độc ác, bạo ngược của nhà Châu, giống như vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương.
Theo sử ký Trung quốc, vào thời thượng cổ nước Tàu, vua Di Vương nhà Châu truyền ngôi lại cho Lệ Vương. Lệ Vương hôn ám, bạo ngược, dùng kẻ tiểu nhân làm cận thần, hễ ai làm không vừa lòng thì bắt giết ngay. Dân chúng oán giận, nổi lên đánh đuổi, Lệ Vương chạy trốn vào đất Phệ huyện Hoắc tỉnh Sơn Đông và chết ở nơi đó.
Con của Lệ Vương là thái tử Tỉnh được lên nối ngôi, ấy là vua Tuyên Vương. Vua Tuyên Vương tu sửa đức hạnh, chỉnh đốn việc chánh trị, nên nước nhà trung hưng, dân chúng trở lại cảnh thái bình. Tuyên Vương ở ngôi được 46 năm, truyền ngôi lại cho con là Cung Niết, ấy là U Vương.
U Vương say mê tửu sắc, bỏ việc triều chánh, truất phế Hoàng Hậu họ Khương, đưa nàng Bao Tự lên làm Chánh cung, bị Thân hầu (vua nước Thân) là cha của Khương Hoàng Hậu, mượn quân Khuyển Nhung đánh giết được U Vương......
Trong thời cai trị của hai vua vô đạo: Lệ Vương và U Vương, dân chúng vô cùng nghèo khổ, lầm than, giặc cướp nổi lên khắp nơi. Đó là hai vua xấu xa tội lỗi nhứt của nhà Châu.
Cho nên, khi nói hôn quân vô đạo thì lấy hai vua U Vương và Lệ Vương làm điển hình; còn khi nói vua anh minh, dân chúng thái bình thạnh trị thì nói vua Nghiêu và vua Thuấn.
Đạo phục hưng là vì lòng bác ái từ bi của Đức Chí Tôn, thấy cuộc tuần hoàn hầu mãn, cơ dĩ định cận kề, không lẽ để đám con thảy phải chung chịu trong cuộc tang điền thương hải, mà bị chôn lấp cả xác hồn, nên mới giáng thế phục hưng chơn truyền, để chỉnh đốn đời U Lệ trở lại đời Nghiêu Thuấn, cho người rõ đạo đức tu hành, hầu thuận theo Thiên lý mà bỏ dữ làm lành, kềm nhơn dục để xa đường tội lỗi.
(5). Nhu: đạo nho, nho giáo
No comments:
Post a Comment