Saturday, July 16, 2011

VIII. TIỀN GIANG 1




KIM CỔ KỲ QUAN QUYỂN IX
TIỀN GIANG
Từ trang 195-268;cột 1-148
Tiền GiaNG tập I
tr. 195-202; cột 1-16



tr.195- cột 1

1.Phật ra xem thế Tiền giang
Sông mê biển khổ chẳng an lòng nào.
Ngược xuôi khôn quỷ hỗn hào
Cao bay xa chạy đầu vào trôn ra.
5.Khéo đem buồng chuối khuấy ta,
Nửa đường lấp ngõ nhát ma ý hà.
Ở chi nửa chính, nửa tà,
Xét lòng không chắc thiệt thà đừng tin.
Thấy người dạ ở bất minh,
10.Như vầy chẳng uổng công linh (1) sách đèn.
Tỏ thời cũng tiếng là đèn,
Dầu có hèn hèn cũng tiếng là trăng.
Tuy tôi nói láo có căn,
Khó nghèo thèm khát giàu ăn ngon gì.
15.Lòng tôi đem bạc đổi chì,
Mang ơn dạ muốn tức thì đền ơn.
Thương người bạc nghĩa phi nhơn,
Làm ơn người muốn kể ơn tức thì.
Chẳng thương chữ Bủu Sơn Kỳ,
20.Chữ Hương ngó thấy vị vì chữ vi.
Sợ e mắc chữ tiền khi ,
Sá bao đồng bạc bạc chi bất bình.
Tới đây thay dạng đổi hình,
Dầu khôn giả dại thử tình quý nhơn.
25.Giốc lòng bổ đức thi ơn,
Không ai gắn dạ keo sơn với mình.
Tâm thơ gửi trước ký tình,
Lâm nguy tị nạn đam ( đem) hình lại sau.
Nhiều người dạ oán con trâu,
30.Thơ tiền bất tính biết đâu con mèo.
Lắt léo lởi nói hiểm nghèo,
Dần mẹo như thể qua đèo người ôí.
Nghĩ rồi tôi lại thương tôi,
Oán tôi tôi oán thời thôi phận mình.
35. Như vầy uổng trí xuất tình,
Nào ai có ép nghe mình tại đâu.
Mượn gươm thần huệ cao sâu,
Vô tình cho đó thương đâu nói dài.
195- 2
Thầy ra hai chữ văn tài,
40. Chữ mắc thì biết, rẻ ngoài thì không.
Giốc lòng niệm Phật chí công,
Chữ rẻ còn nhớ mắc không biết rày.
Chữ rẻ còn nhớ đề bài,
Chữ mắc thời giấu thương thầy thì công.
45. Ngồi buồn lời nói minh mông,
Xui thầy thương tớ trò đông cạn tình.
Phi lang phản dạ chê hình,
Lâm nguy Lục thị thương tình Nguyệt Nga.
Kim Ngọc mê Xương Tử Ca,
50. Đời này vay trả xét ra sợ thầm,
Không biết thời nói người lầm,
Người mà biết đạo lỗi lầm về đâu.
Nay đà trời Phật tóm thâu
Nói cho các nước lo âu việc đời.
55.Luận sao đặt để thuận lời,
Bình phân ý tứ người đời ghét thương
Trực lòng công chúa Thị Hương,
Mặc trăm hàng chữ cúi vương tiếc chồng
Phụ nhơn nan hóa lạc lòng
60. Thương ai phản dạ giết chồng như chơi.
Xem rồi khắp hết nơi nơi,
Luận đời chẳng phải nói chơi bớ ngưòi.
Sánh theo bạc bảy vàng muời,
Khó nghèo nhân nghĩa chê ngưòi bần nhơn.
65.Bất kỳ phi nghĩa phi nhơn,
Nhiều tiền nhiều bạc hòa thân vợ chồng.
Lao ngao như cá ròng ròng,
Quý quyền xin tốt đẹp lòng, đẹp duyên.
Bút thần ký tự sách nghiên
70.Kể từ trường ốc khùng điên ra đời
Khác nhau có một chữ thời
Thiếu chi kỳ ngộ trong đời hiển vang
Chưa phải mưu vệ bình an
Hởi còn khổ não đa đoan vận thời
75. Chẳng than việc khó ở đời
Than chi tiền bạc nhiều lời đắng cay.

196- 3
Chẳng ưa lời chánh chê ngay
Nhiều người ít kẻ thương đây chút nào
Thuyền quyên sách với anh hào
80. Vợ chồng y phục mặc vào cởi ra
Mát thời mặc ấm lòng ta
Nực thời bực bội cởi ra xa mình
Phu thê thời dụng chữ tình
Khó thời theo khó nương mình với ta
85. Thác nguyền cho hiệp đôi ma
Sống ngồi dương thế đôi ta thanh nhàn
ở sao nghe xóm nghe làng
Trong nhà nói phải lấp đàng chẳng nghe
Phe nào riêng nấy từ phe
90. Một lòng một dạ thời nghe thời vừa
Lòng một không có lòng thừa
Cãi đâu không lỗi lời vừa lời không
Lòng người ở chẳng chí công
Khó phe quân tử khó trong nên người
95. Đỏ da thấm thịt nực cười
Trách ai ăn mắm dạ người khát khô
Bữa niệm bữa chẳng nam mô
Bạc tiền có lợi nam mô lợi gì
Thời nên kẻ lạy người quì
100. Thời hư vàng cũng như chì bỏ rơi.

Không ai mắc ngó cầm chơi
Lụa là cất để có nơi làm gì
Niệm Phật ít kẻ phân bì
Phân bì tiền bạc tưởng gì tới tôi
105.Quyền hành chẳng đặng than ôi
Trong nhà nói chẳng nghe tôi lời nào
Huống chi là kẻ ra vào
Mặc tính ăn nói hỗn hào với ai
Trong nhà có gái có trai
110.Dạy thôi tận ý không ai nghe lời
Như lươn chẳng luận thẹn đời
Tôi như cá cạn lỡ vời trong ao
Nặng nề tiếng nói khổ lao
Ngủ lâu như thể chiêm bao quên lời
115.Thức dậy tỏ rõ mặt trời
Suy đi nghiệm lại tỏ lời chiêm bao
Sáng rồi sao hỡi còn sao
Người còn ý muốn nói cao hơn Trời
197- 4
Độ ai Phật độ tới đời
120.Nỡ trao gánh nặng cãi lời để đây
Thầy xưa nghĩ cũng chẳng hay
Hạ ngươn để lại tôi đây giỏi gì
Sao bằng cô cậu biên thùy
Chùa thiền ( chiền) có Phật giỏi gì tu gia
125.Bắt chước niệm Phật theo ta
Bắt chước niệm quỉ niệm ma vẽ vời
Tu thời niệm Phật trọn đời
Người đừng tu hối nữa vời mà thôi
Sợ trời Phật ghét lòng ta
130.Hạ trần người ghét thiệt tôi không sờn
Nói ngay quỉ giận ma hờn
Tôi như ống nhổ chẳng sờn sạch dơ
Còn đường bối rối như tơ
Muốn giành phần sạch để dơ ai ngồi
135.Thấy đời trong dạ ngậm ngùi
Tôi dơ ai rửa súc chùi thân tôi
Thân chịu ống nhổ than ôi
Nhổ đâu nhổ đó nhổ tôi lấm đầu
Nhớ ơn kết thảm vọng cầu
140.Làm đủ chín bổn gởi sầu cho ông
Gắng lòng niệm Phật chí công
Dầu chưa gặp Phật qua sông gặp Trời
Ai mà xét đủ việc đời
Đây tôi làm tớ theo thầy đội rương (2)
145.Ở sao bữa ghét bữa thương
Như vầy nói chuyện vị lương làm gì
Để ra giựt cửa biên thùy
Hay hơn nói đạo tai gì chẳng nghe
Nói đạo bổn đạo chẳng nghe
150. Mua vườn mua đất trồng tre ở đời.

Ở đậu mang nặng nhiều lời
Việc đời chẳng có thôi thời đừng tu
Phải lo làm mắm nhận lu
Làm sưu đóng thuế công phu làm gì
155.Dần mẹo thấy việc dị kỳ
Đóng trăng cái lưỡi bó bì cái thây
Nam Việt ờ đời với tây
Nam Kỳ thôi hết ai hay trị đời
Tôi mà thấy dặn nhắc lời
160. Ý hà người sợ cạn đời thấy ta
197- 5
Xuất tình luận trị đặt ra
Giỏi chi sách của người ta mình dò
Nói vầy tức ý học trò
Sợ e sách cũ người dò không ra
165.Nào khi chen chúc người ta
Bây giờ rừng vắng quỉ ma ở nhờ
Tiên sanh quỉ cốc tôi thờ
E khi rừng vắng quỉ ma ở nhờ
Tôi người quí phụ nha nha
170.Lại thêm quí tử tôi ma có thầy
Công lao tiêu tứ bấy chầy
Lần hồi an ẩn chữ thầy làm nên
Hạm nơi tiền bạc thời quên
Thầy dạy thập sĩ muốn nên vừa người
175.Ngày xuân chim khách reo cười
Đại bàng bầu cậu thị người chim sâu
Việc lời có lợi ở đâu
Khai kho lấy bạc lo âu việc đời
Đến nay cạn lẽ cạn đời
180. Giữ sao cho trọn tiếng đời danh thơm
Ra trước hết nước hết cơm
Hết đường danh lợi hết thơm tiếng đời
Không ai chánh trị ngôi Trời
Quán trung có kẻ nối đời hậu lai
185.Láng – linh an tự phi – lai
Tây – An chữ đặt đố ai tri tình
Long – châu tích túc miễu đình
Đố ai có biết việc mình Thánh Tiên
Hội này Phật khiến hòa Phiên
190. Đạo Trời đạo Phật Thánh Tiên giao hòa
Gió đưa mai trước ( trúc ) là đà
Tay bưng chậu cúc kỷ trà chưng hương
Vận nghèo như thể con lươn
Lưỡi vô sinh trấp oan ương lắm đầu
195.Hết vấy kết thảm gây sầu
Mình mà còn vấy lắm đầu quản bao
Dỡn đời như cá dỡn sao
Mình còn dơ dáy xiết sao nhọc nhằn
Biết sông nước chảy không ngăn
200. Mặc ai kêu mợ bàng thằng cũng ưng.

Bao giờ lâp lại chợ xuân
Ngày đêm thường nhóm chen chưn hớn hài
197- 6
Chợ xuân nhóm đủ thường hoài
Giá nào một giá chẳng nài thấp cao
205.Chợ nay góp xách lao xao
Chiều tan mai hiệp chiêm bao bất điều
Nhóm thời bữa ít bữa nhiều
Giá cao giá thấp chín chiều lòng ngay
Đời loạn ai cũng xưng hay
210.Mai chiều mới biết dở hay mới tường
E bay mỏi cánh giữa đường
Lỡ cây lỡ cội lỡ vườn lỡ non
Lỡ mực sợ lỡ chữ son
Lở Thầy lỡ tớ lỡ con của Trời
215.Lỡ ăn lỡ nói lỡ thời
Lỡ ra đầu chúa ỡ đời làm quân
Nay đà như kẻ lỡ chân
Mai chiều cũng có lập xuân để đời
Nói ra mở miệng kêu Trời
220. Tôi xin việc đó tội thời thậm đa
Chửi thề đéo mẹ đéo cha
Niệm Phật không dám tội sa diêm-đình
Xin hai tội đó giữ mình
Các việc tội phước mặc tình nhơn gian
225. Cải tà qui chánh thời an
Không cãi thời tội chớ than Phật Trời
Người nào ham chửi nhiều lời
Ý sao niệm Phật niệm Trời không ham
Chửi lớn mệt mỏi người tham
230.Niệm Phật nho nhỏ không đem vào lòng
Chửi lộn nhớ lớp bao đồng
Niệm Phật ít tiếng trong lòng lại quên
Việc Phật chửi lộn không nên
Chỉ đường tội phước muốn nên nhớ lời
235.Chừng nào Nam-Việt thạnh thời
Hết lo hết sợ hết lời sầu riêng
Để lòng tưởng Thánh tưởng Tiên
Tưởng ơn cao rộng bình yên việc đời
Mặc ai theo thuở theo thời
240.Tôi nay theo Phật theo Trời cãi đây
Tới đời người lại không bay
Từ năm Kỷ-Dậu khó thay tới rày
Phật chưa có mãn việc đày
Từ nay sấp tới khó bày khó phân
198- 7
245. Khuyên người khá tưởng chữ ân
Khổ đa chi khổ nhơn dân năng cần
Ti độ ngu phú ngộ bần
Khuyên lòng dân chúng phải cần Thánh Tiên
Nhiều người ngôn ngữ chê điên
250. Người phàm mắt bịt viễn Tiên làm phàm.

Nhơn lương thiểu lực bất đàm
Khổ đa nhơn thế lầm phàm mới khi
Phật Trời minh lý trí tri
Vợ con chẳng ép huống chi người ngoài
255.Văn hay chẳng luận đọc dài
Phật Trời sở dịch như tài Hứa-Gia
Nói lại còn dại nói qua
Nói qua nói lại con ma biết gì
Ham nói như lửa đốt chì
260.Chải chải từ lớp chung thì dưới tro
Chẳng nghe dạ chẳng có lo
Không khó chờ của đem cho thiếu gì
Lời ghi mối nước Giao Quì
Ghe không bánh lái khó kỳ nổi đi
265.Trào này gần lục thập suy
Phật Trời ngồi chốn cung ly tức cười
Thương dân soi xét từ người
Vô quân vô tướng cười người truân chuyên
Không binh người gọi rằng yên
270. Người vong Trời Phật Thánh Tiên không cầu
Trí huệ thông minh thọ bần
Si lung ám á gia cần phú dư
Do thiên đại phú an cư (3)
Do cần tiểu phú gia tư cơ bần
275.Thủy minh thổ phú trợ bần
Bất tri nhân nghĩa Thánh Thần bất chiêm (4)
Khôn thời suy cổ nghiệm kim
Uồng phong đại bại phi-liêm tẩy trần
Ai ai tâm chánh hưởng phần
280. Lòng ma dạ quỉ rữa trần xử tiêu
Quân tử thời nhi bất kiêu
Kiêu nhi bất thới quyền yêu xưng hùng
Thiên tử tứ hải phục tùng
Lâm cơ nguy biến bất phùng trí mưu
285. Trung thần quốc loạn tâm ưu
Gian nhơn hại ngã dụng mưu tranh quyền
198- 8
Nói ra nhiều nỗi thảm phiền
Cơm vua ăn mặc xác hiền loạn bang
Hưởng Tề sanh dạ dọc ngang
290. Cơ đồ đam lại mới an anh hùng
Tâm tánh trời Phật vô cùng
Việc nào nói đặng chẳng dùng việc nay
Phong-thần gian đạo cũng hay
Vi sơn đảo hải phép nay dị thường
295. Phép Phật hậu đắc thọ trường
Phép nào điệu thuật nửa đường tiêu tan
Một dạo người đặng bình an
Đời mà nhiều đạo gian nan nhiều đàng
Quân sư văn võ liêm tàng
300. Như người khôn trưởng nhất tràng chăn dân.

Người tà việc chánh khó phân
Không đem vào dạ khổ thân cho người
Nói ra như lẽ chê cười
Lòng ham trung hiếu vàng mười không ham
305. Chừng nào Phật trị hết tham
Của rơi chẳng đụng mới ham việc lành
Tích thiện phùng thiện để dành
Tùng ác nhi khứ nan hành cung ly
Đời này nhiều kẻ để khi
310. Phật ngồi trước mặt bất tri ngó ngàng
Phật sống trước mắt chẳng màng
Đi tầm Phật chết xa ngàn ước mơ
Dạ sao dạ rối như tơ
Người nào biết đặng hậu sơ (5) chẳng màng
315. Bất tính lời nói đưa đàng
Dạ sao dạ ở trăm ngàn việc khôn
Bất tính bất thính vi ngôn
Bất tùng giáo đạo tận khôn tận càn
Tận quân tận tướng viễn trang
320. Tận Thần tận thứ tận đàng nghĩa nhân
Dạ sao mà dạ chẳng cân
Như vầy chẳng uổng công phân mọi đàng
Kể thôi thủ vỉ muôn ngàn
Ỷ chi tiền bạc sanh đàng phụ tôi
325. Trách phiền rồi lại thương ôi
Trách người chẳng nghĩ nỗi tôi phũ phàng
Ăn muốn ngon hơn ăn vàng
Thấy đời trăm dạ trăm đàng khó âu
199- 9
Chẳng thà dưa muối cháo rau
330. Ba trường Phật lập biết đâu vẹn đền
Ba lo xao xuyến ba nền
Lòng đinh dạ sắt vững bền hậu lai
Nhứt tình tiết gái rạng trai
Lưỡng tâm lưỡng dạng ai ai chẳng còn
335.Mấy bôn chỉ nẻo coi mòn
Sa về địa-ngục người còn lòng nghi
Phật sống dạ đời sầu bi
Phật chết bất thực rũ đi cùng chùa
Quỉ tăng phất diều bốn mùa
340. Chuối xôi ăn hết Thầy chùa trơ trơ
Bất tri hậu nhựt hồi sơ
Ba đường tội phước thiên cơ bất tường
Phật đâu Thầy chẳng chỉ đường
Thọ tài hưởng phước cúng dường làm chi
345.Thấy đời tiền trọng hậu khi
Thon von đạo Phật sầu bi trong lòng
Ma ha Phật Phật chập chồng
Người người quỉ quỉ khác lòng người ôi
Tà tà chánh chánh khát ngôi
350.Khôn khôn dại dại khác thôi tấm lòng.

Khó lòng lòng khó cho lòng
Mua tôm bán tép đổi lòng xa tôi
Dưõng hổ vi họa ( 6) người ơi
Dưỡng nhơn bất chánh hại thôi tới mình
355. Nhơn lưỡng tâm thú phản mình
Dưỡng hà đắt dưỡng khổ tình hại thâm
Nhơn sanh tử bất sanh tâm
Tử thân phản nghịch cơ thâm đoạn tình
Phụ mẫu tử tôn kế hình
360.Xuất ngôn bất hiệp cách tinh thiên sang
Hữu thể tám sự đa đoan
Chánh tà tà chánh thế nan đa tình
Nhơn đa luật nhơn khổ binh
Hà như thiểu luật minh tinh hữu phần
365.Vi kỳ đạo dụng kỳ nhân
Bất dỉ kỳ đạo phi nhân bất cầu
Ngôn tận tâm bất tận hầu
Qui nhơn tám tận ngôn cầu nan tri
Thiểu thiện đa ác thế suy
370.Thiện nhơn thiện tận thiên tri địa hòa
199- 10
Nhơn ác ác tận đồng tà
Nhứt tâm đại tiểu thuận hòa việc an
Thiên địa bất sát nhơn gian
Cõi nào riêng nấy an không tại mình
375.Thánh Tiên hai cõi dụng tình
Dương gian bất mục dụng hình thương ôi
Ít ai hiệp dạ chúa tôi
Sớm đầu tối đánh nghĩ thôi nhiều người
Gập cơn vàng chín vàng mười
380. Ơn cha trả đặng ơn người đền xong
Lo bề đức chánh long đong
Nguyện cùng Trời Phật hóa long cho rồi
Chinh Đông phật Bắc mấy hồi
Giặc nầy đánh miệng thôi rồi dầm lăng
385. Đạo binh chứng có búa trăng
Mượn gươm thần huệ dứt căng phản thần
Âm binh lửa dậy rần rần
Vững cao nhật nguyệt chiếu phần mới xong
Chừng nào tỏ đặng đạo long
390. Rồng đoanh phụ thể đức ông ra đời
Mặt hồng đổi dạng con Trời
Đôi mươi nhỏ lại trên đời khôn ngoan
Hào quang chiếu sáng Nam-bang
Đuổi trâu ngó thấy tan hoang xóm làng
395. Làm người ăn nói dịu dàng
Gái trai cũng vậy la làng ai khen
Nặng nề hai chữ bạc đen
Không lòng trung hiếu làm quen chỗ nào
Nhiều lời ăn nói ngán ngao
400. Vốn không ép vợ lẽ nào ép con.

Không ngon thuở sốt (7) cũng ngon
Không tốt thưở mới như son đỏ điều
Của túi dầu có cho nhiều
Vật cũ dầu tốt đỏ điều làm chi
405. Biết thời mới biết người khi
Không thời nào biết người đi ngoài đường
Có nên cay đắng mới tường
Không ăn sao biết mật đường ngọt ngon
Niệm Phật giữ dạ sắt son
410. Mà còn chưa chắc thon von ( 8) trách phiền
Song thiên nhựt nguyệt hiệp tiền
Châu-Thiên Gia-Nghiệp kết nguyền nhơn dươn.

200- 11
Vợ chồng giữ vẹn nghĩa nhân
Sanh lòng thù oán keo sơn rã rời
415.Lương duyên túc đế tại Trời
Tình phu nghĩa phụ đổi dời sao nên
Nghe lời chữ ( giữ) dạ đừng quên
Nghe mà không nhớ sao nên làm người
Khôn ăn bớt nói nhịn cười
420. Lần qua đường tối thương người lụy tuôn
Đánh trống sợ nổi động chuông
Bứt mây sao khỏi động truông động rừng (9)
Thời suy người ở không chừng
Độc tâm phá núi phá rừng tan hoang
425. Người ngay dám sánh người gian
Thời hư quỉ lộng dạ ngang nhiều đường
Người trung mưu trí thường thường
Mặc ai dạ bao tâm cường mặc ai
Bánh phồng nhiều hột thì chai
430.Xôi vò nếp lộn ( 10) đố ai xôi mềm
Một vai cắt nghĩa hết thềm
Nghĩa vai hai nghĩa êm đềm hòa hai
Nữ sanh ngoại tộc con trai
Nam sanh bất thuận con trai con mình
435. Hạ-ngươn sanh dạ bất bình
Khiến xui dâu rể khác tình con ta
Biết kêu bằng mẹ bằng cha
Kêu mà chánh lý lòng ma hai bề
Nàng dâu chàng rể hai bề
440.Cha mẹ chẳng nghĩ thương bề hai thân
Ngày sau nhơn nghĩa toàn ân
Con kêu cha mẹ chánh thân thuận hòa
Cha mẹ dâu rể một nhà
Tương tề nội ngoại thuận hòa phụng long
445. Phật đem lưỡng tánh đồng tông
Sanh tưởng con phụng cháu long nối đời
Bá nhơn ăn nói một lời
Thiệt thà thấy thiệt ở đời thủy chung
Con theo họ mẹ sử trung
450. Hoài thai thập ngoại tùng dung nhị thần.

Giáp niên mang nặng ớt gừng
Khai huê biết nói lòng mừng biết đi
Dạy lời niệm Phật lòng ghi
Đừng đem dạ bạc khinh khi Phật Trời
200- 12
455. Quan Thiên mắt ngọc xem đời
Một chưng răng trắng dấu rời từ răng
Tuy là lơi nói lăng xăng
Suy đi xét lại có căn chánh tà
Biết ơn cha mẹ ông bà
460. Con trai con gái cũng là một con
Đời này dâu rể thon von
Cha chồng mẹ vợ khác con thương ngoài
Mẹ ruột lòng chẳng thương hoài
Mắc thương bắc chước mẹ ngoài người dưng
465. Một thời hối vội bợ nưng
Củ rồi con mẹ xây lưng chẳng nhìn
Suôi gia ở chẳng thiệt tình
Giàu sang là trọng nghèo hình muốn vong
Đôi bên suy của tưởng công
470. Không ai xét nghĩa khó trong thuận hòa
Sanh ra con quỉ cháu tà
Chưởi cha mắng mẹ ông bà chửi con
Thấy đời dạ héo thon von
Làm sao chồng vợ cha con thuận hòa
475. Ở sau ít kẻ thiệt thà
Ngay gian lành dữ một nhà sao an
Người ngay tám chín người gian
Cho nên Trời khiến tan hoang cửa nhà
Việc nói chưa thảy tỏ tà
480.Phải đúng nói trước cho ma lo sau
Việc đời khiến biến chẳng lâu
Không tu mà muốn khó âu bây giờ
Nhị thiên biến kẻ dại khờ
Một muốn biết trước một giờ phân nguôi
485. Tận thế đa khổ người ơi
Lòng trong đã đợi bạc vôi để dành
Không có một việc làm lành
Trông đời mau tới tan tành cái thân
Trí mưu đối nghĩa đáp nhân
490. Thời người mới đặng cầm cân song bằng
E lời ăn nói không ngăn
Lòng không độ lượng cằn nhằn khó nghe
Đời này rách thiệt rách te
Rách mà khóe vá lành nghe lành hoài
495. Tình chung lập hậu lâu dài
Nhà thờ an tự phước tài lầu chuông
201- 13
Niệm Phật cay đắng lụy tuôn
Lần hồi đường tối qua truông nhớ người
Bớt chê bớt nói bớt cười
500. Chỗ nào bất chánh khuyên người hỏi tôi
Phật trời chia để mấy ngôi
Không biết là chánh làm tôi sao đời
Con Trời giúp sức cho Trời
Nào đời chẳng có nhiều lời đắng cay
505. Nhiều lần cay đắng từ đây
Nhờ ơn cha mẹ độ nay nước nhà
Khuyên lòng trai gái trẻ già
Bất tính Trời Phật nước nhà nan phân
Bần cư náo thị vô phân (11)
510.Phú cư lâm đảng hữu nhơn tri tầm
Cuồng nhơn tùng tánh thú cầm
Bất tùng nhơn phú tri tầm nghĩa nhơn (12)
Dụng nghĩa đắc chí dụng thần
Lưỡng nhơn tâm chánh bất phân phú bần
515. Tấn bộ nam thối bộ phần
Phú đa nhơn hội gia bần vô thân (13)
Chí đức hiệp thửa chi ân
Thiên kim bất chánh sự thân bất tầm
Đường nghĩa đi trước thai nhầm
520. Hậu lai bá tánh đều lầm đường nhân
Bất kiến thiên địa vi ân
Chê Trời chê Phật vong thân bất tồn
Thân tôi như giặc đánh đồn
Đắng cay tiếng nói mượn hồn chịu nhơ
525. Mượn xác lập tánh hồi sơ
Chịu lời cay đắng tiếng nhơ nặng nề
Nhiều người ăn ở vụng về
Đem lời dạy lại nặng lời nam mô
Phật cho hai chữ ô hô
530.Phàm trần mà dạy nam mô mới kỳ
Người khôn dò đạo tâm tùy
Khôn mà dạy Phật thiệt kỳ người khôn
Khôn trần khôn thác chưa chôn
Đại Phật gẪm lại cả môn không bằng
535. Thảm buồn nên phải nói rằng
Vận suy người thấy cầm bằng tiểu nhi
Phú quới đa nhơn hội tri
Bần cùng thân thích phân ly bất hòa
201- 14
Bất luận sự chánh sự tà
540. Bất trì đạo nghĩa phú hòa bần ly
Bần cùng chánh lý nhơn khi
Phú nhi bất chánh nhơn tri kim bằng
Lại trách trời ở không ngăn
Bần ly ngọc hữu phú rằng tương tri
545.Thương thời Trời Phật lưu ly
Đêm nằm cay đắng sầu bi một mình
Thở than than thở chữ tình
Khéo vô dươn bấy là mình với ta
Thương đời tưởng Phật rằng ma
550. Tưởng ma rằng Phật mới ra hội này.

Dạy thời dạy tớ dạy đày
Cớ sao đem dạ dạy Thầy dạy Tiên
Dạy mà có trí nghĩ riêng
Khôn mà không biết như điên bỏ quần
555. Vận nghèo mắc nợ nói chừng
Phải chi có của phá rừng mấy hơi
Vận nghèo nói thiệt nói chơi
Kên kên ăn tạp con vơi ăn buồi
Nghĩ sao dạ chẳng sụt sùi
560. Tay dơ thì rửa ngọt bùi tại tâm
Niệm Phật bất cấm dục dâm
Việc nào tà chánh tại tâm chánh tà
Trăm việc cho thuận cho hòa
Đừng lòng hãm hiếp việc tà tội phi
565. Luật điều vỉ thiệt tiên tri
Phật cho nghiệm nghĩ xét suy dụng mình
Người phàm mắt bịt vô tình
Ham an ham nói ỷ mình rằng hơn
Đắng cay tiếng nói phi ơn
570. Nặng nề lòng Phật thiệt hơn lòng nào
Lòng tà dạ quỉ hỗn hào
Lòng trời dạ phật chỗ nào tranh đua
Người phàm tranh đấu hơn thua
Sanh bề dục lợi tranh đua từ lời
575. Cha mẹ cho xuống xét đời
Tôi nay con Phật con Trời lại đây
Thấy đời nhiều vạy ít ngay
Phật cho giáo đạo lập ngay cải đời
Ai ai chữ dạ ngheo lời
580. Cải tà qui chánh theo Trời dân ôi
202- 15
Nực cười đứa dại chê tôi
Rẻ mà không biết nghĩ thôi tức cười
Thiệt là vàng chin vàng mười
Càng sang Tây-Hớn vàng người không phai
585. Đố ai biết mỗ là ai
Người trong Trung-Quốc hay hai cõi trời
Sông mê thân trải sạch đời
Hiếu trung giữ vẹn một đời chẳng sai
Đây trai đó cũng là trai
590.Hổ trang thơ ấu hậu lai cũng hòa
Tôi tu dám sợ áo dà
Hại nhơn hư cửa hết nhà không hay
Kiêng tu nhiều việc khó thay
Tu đừng ai biết mới hay việc đời
595. Minh mẫn sáng láng nhiều lời
Tu gia tích đạo con Trời Phật sanh
Tu đừng tưởng chữ công danh
Bất ưu bần tiện bất tranh quí quyền
Thu thời thanh việc làm hiền
600. Đừng tranh làm dữ Phật phiền người tu.

Tu đừng khẩu xuất thuyết du
Cẩn ngôn cẩn hạnh sự tu thủ tình
Lao xao kiểng vật bất bình
Thân ai có độ cho tình nấy phân
605. Đừng lời lăng liu phi ân
Xuất ngôn vô độ sự thân bất bình
Hai người là việc hại mình
Nhiều lời thậm ngặt hại mình rất vơ
Việc lành ngậm miệng ngó ngơ
610. Việc dữ làm bậy bá quơ bá hào
Líu lo nói chuyện Xiêm Lào
An-Nam đem dạ nghe Tàu bại gia
Giữa đường kẻ lại người qua
Nhà thời thờ Phật tưởng ma không vào
615. Cớ sao dạ bạc theo Tàu
Minh sư bất chánh đạo nào mà ngay
Chẳng ai ép chí theo đây
Ăn mặn thời dụng ăn chay không dùng
Thiệt dơ là đất là bùn
620. Để trên bàn Phật tạm dùng thờ thân
Nước thời rửa sạch muôn dân
Lòng tôi vọng tưởng mang ơn phượng thờ
202- 16
Nghĩ thương ba đạo cậy nhờ
Ba đường tội phước vật vờ ba căn
625. Một đường sáu ngã quỉ tăng
Chùa Thàng ( Thiền, chiền) lục tỉnh tu ăn đất nào
Tu không tưởng Phật ma vào
Đất ai người ở cơm nào người ăn
Không thời khiến dạ lấp ngăn
630. Hữu công tắc thưởng lo căn chói ngời
Nam mô tưởng Phật tưởng Trời
Nhớ khi phú quới tưởng đời lâm nguy
Thương vì lúc thạnh lúc suy
Cơn vinh sum hiệp cơn nguy rã rời
635. Biết sao trái phải theo đời
Bập bều theo nước nương lời quanh co
Không vày đám tiếu chẳng lo
Giả đò làm biếng ăn no ngủ ngày
Thở than Thầy hỡi là Thầy
640. Tớ ba nhiêu khổ mãn đày hay chưa
Các nơi đâu đó chẳng ưa
Cầu cho bá tánh giây dưa đạo lành
Cầu Phật nhựt dạ thường hành
Cứu kỳ bá tánh làm lành nhứt tâm
645. Thầy xưa tạm quán chê hâm
Tôi nay tạm thất bán tâm trải đời
Nửa lòng để tưởng Phật trời
Nửa lòng dung trải nương đời quỉ ma
Thứ ba chưa thiệt người ta
650. Thứ tư thiệt Phật không ma lời nào
651. Nước lộn xõ rế Tây Tàu
Đố ai biết đặng chỗ nào nước trong
Cầu Phật xuất chưởng thần nông
Cầu tiên hườn hậu nước trong thường hoài
655. Thần nông chưởng thực lâu dài
Gạo châu củi quế thường hoài trường sanh
Cầu cho bá tánh tân thanh
Nơi nơi hòa thuận rạng danh đời đời
Việc trước biết mấy chục đời
660. Ngày sau lập lại ba đời qui Tây
Ai giữ thảo thuận trọn ngay
Thời người trường thọ qui Tây một đời
Biết đặng ba khoản lập đời
664. Mới rằng con Phật con Trời tái sanh
____
(1).Công linh: cũng viết là công lênh là công trình, công phu.
(2). Rương: dụng cụ bằng gỗ để đựng quần áo hay dụng cụ. Tráp thì nhỏ hơn rương. Ngày xưa đầy tớ thường mang tráp, mang rương đi theo chủ khi chủ (thầy) đi xa.
(3). Do thiên đại phú an cư/ Do cần tiểu phú gia tư cơ bần: lấy ý ở câu đại phú do thiên, tiểu phú do cần. Giàu sụ là do trời, giàu nhỏ là do cần cù làm việc.
(4).Thủy minh thổ phú trợ bần Bất tri nhân nghĩa Thánh Thần bất chiêm : (Trời ban cho ) nước trong sạch, đất màu mỡ là để giúp dân nghèo. Ai mà không biết nhân nghĩa thì thánh thần không quan tâm.
(5). Hậu sơ: Hậu là sau, sơ là trước, là buổi đầu, nghĩa là trước sau.
(6).Dưỡng hoổ vi họa: nuôi cọp thì sẽ gây tai họa.
(7).Sốt: nóng. Thuở sốt là lúc còn nóng
(8). Thon von: nguy hiểm
(9). Bứt mây: mây là loại dây leo rất dài có thể chạy dài từ nơi này qua nơi khác. Mây dùng làm dây cột, hoặc làm bàn, ghế. Cắt ( bứt) một sợi dây mây thì làm động cả núi rừng. Tục ngữ: Dứt mây ( Bứt mây) hoặc dứt dây động rừng.
(10). nếp lộn : nếp lộn tẻ. Gạo tẻ thì cứng. Nếp lộn tẻ thì nấu xôi, làm bánh không mềm.
(11). Bần cư náo thị vô phân Phú cư lâm đảng hữu nhơn tri tầm ;Lấy ý từ câu: Bần cư náo thị vô nhân vấn/ Phú ẩn sơn lâm hữu khách tầm ( Nghèo ở nơi đô thị chẳng ai hỏi/ Giàu ở núi sâu lắm kẻ tìm)
(12).Bất tùng nhơn phú tri tầm nghĩa nhơn : không tìm người giàu, tìm người nhân nghĩa.
(13). Cuồng nhơn tùng tánh thú cầm/ Bất tùng nhơn phú tri tầm nghĩa nhơn: Ngưởi điên thì theo bản tính cầm thú, Người không theo cầm thú thì tìm người nhân nghĩa.
(14). Phú đa nhơn hội gia bần vô thân: giàu thì nhiều người tư họp, nghgèo thì không ai gần gũi.



No comments: