Saturday, July 16, 2011

VII . THỪA NHÀN 2

KIM CỔ KỲ QUAN QUYỂN VII
THỪA NHÀN TẬP 2
tr.153-162; cột 23-44
Tài liệu tham khảo: AudioTexas và Ấn bản 1964




21

Thương cảnh Phật thánh hội ân
920. Cõi trung Phật Thánh quan dân bịt đường.

Hạ giái Diêm chúa khán tường
Hậu qui nhứt thống thái bường một ngôi
Không thẳng (1) làm độ dân ôi!
Đời nầy tích của để thôi làm gì
925. Tích đức phùng thiện Hương kỳ
Tích tài để oán biên thuỳ người ôi!
Đời nầy cổ thiệt tanh hôi
Hậu lai đệ tử chúa tôi nan tầm
Bửu-sơn thế yếu âm thầm
930.Kỳ-hương đơn quế tốc tầm quảng thinh

Bao giờ Phật thức tánh linh
Trời cho phép lạ âm binh hộ tùng
Tưởng ơn sư phụ tạm dùng
Quán trung rước khách chiêu hùng võ văn
935.Vô tài hữu thực chuyên năng
Hữu sư hữu đệ lạc căn nan tầm
Làm tôi phò chúa sợ lầm
Có đâu ngang dọc không nhằm phép khuôn
Hậu vô đệ tử lụy tuôn,
940. Nhứt sư an trị tròn vuông gia tề
Ở đây eo xách nhiều bề
Mai dời chỗ khác hội thề bá gia


Thân con nghĩ lại thân cha
Cuộc thời khác cuộc nghĩ ra một bề
945. Tàu Tây Lộ Lỡ dựa kề
Chiều qua cha sở mai về con Tiên
Thuở xưa Đường-Tống hoà Phiên
Lời ghi hai nước Thánh Tiên trị vì
Cận đại viễn tiểu nương tùy
950. Xôi kinh nấu sử trị vì mới an.


Chùa hư miễu nát tan hoang
Huỳnh Thanh a ý Tàu man khuấy đời
Con nhà Ngũ-đế của Trời
Huỳnh Thanh Hắc bạch tùng thời Châu-vương
955. Khúc tùng tác loạn đao thương
Hai người trung trực oan ương lỡ thời
Bất tùng Thánh đạo Phật Trời
Mưu gian hại ngã giữa vời chẳng an
Tới nơi Lộ Lỡ (2) sửa sang
960. Qui lai lục tỉnh dạy an đạo mầu
Lòng ai sớm đánh tối đầu
Âm thinh ba tiếng mất hầu Phật Vương
Cận Phật xa chí vùa hương
Cận hầu xa chí Phật vương bất hòa
965. Bất an tâm tánh trẻ già
Qui châu phế Trụ xử mà mạt Thương
Tiêu mất hồn xác thịt xương
Đừng chê Tiên Thánh Phật-Vương mà lầm
Ngoài nghe súng nổ ầm ầm
970. Long-Châu ẩn tích ăn nằm thảnh thơi
Thấy người khi Phật nói chơi
Chừng nào thấy họa mệt hơi cho người
Rẻ ăn rẻ nói rẻ cười
Mắc trong tâm phúc đố người thấy đâu
975.Thả chà nhử cá bực sâu
Còn đua mặt biển thấy đâu đóng chà
Kình nghê giỡn lội là đà
Sao chưa dựa bực ẩn chà bao đăng
Không mồi chê chỗ không ăn
980. Còn đương kiếm chác dỡn trăng vui cười
Sơn đông ỷ giỏi chi người
Sơn Tây có phép chín mười xem coi
Sơn Tây có phép kiếng soi
Có tài trì huệ xem coi Phật trời
985. Ngó thấy động tịnh trong đời
Thấy ngoài càn điện thấy thời Thánh Tiên
Thương đời Trời Phật chẳng yên
Nhơn dân gọi hiển nước Phiên cơ cầu


Nghe thôi nghẹt mũi nhức đầu
990.Năm canh thổn thức dạ sầu lụy tuôn.

Trời tròn chỉ thị đất vuông
Biển tròn như nhựt nước tuôn không chừng
Cho nên thiên địa bất thuần
Chuyển luân vạn lý không chừng mới sai
995.Thiên viên địa phúc bất khai
Nhựt trầm nhựt tuyệt nguyệt khai nguyệt lì
Âm dương giao hội ngoại lìa
Dư ngoài bốn gốc bốn bìa bốn ngôi
Qui tà cải chánh thế thôi
1000 . Hạ-ngươn đem dạ bạc vôi bất tùng.

Hậu lai tà quỉ xưng hùng
Bàng môn bá đạo bất tùng Thánh Tiên
E người độ giải chẳng yên
Phật Trời phế thế xưng tiên dối phàm
1005.Cõi trần cũng phải lo làm
Đừng tham ít tội thân phàm để chi
Cư an tâm tất lự nguy
Bất an gia trạch tất tri vận thời
Long đong nay đổi mai dời
1010.Khó theo việc khó cãi Trời dễ chi.

Thường hành chiêm ngưỡng xét suy
Việc nào tội phước thức tri tâm tà
Chẳng xét Thánh đạo rừng già
Trung thiên khổ hạ quỉ tà rừng thông
1015. Trung niên tý mẹo hiệp công
Đáo đầu niệm Phật tỏ trong chánh tà
Xét theo tâm chánh Di Đà
Tỵ trần lánh ngữ xác mà kể chi
Bại thành thiên lý chiếu tri
1020. Vị nhiên thiên tất ngôn khi nan hoà
Đâu đâu vi phú cửa nhà
Vi nhơn ít kẻ sau mà còn chi
Minh tâm thích chí trí tri
Phật trời soi xét kể chi mắt phàm
1025. Từ ngôi Thánh chúa ra làm
Một muôn năm chẳng ngoài phàm nhị thiên
Phân chư lịch sách Đại-miêng (Minh)
Bất tùng Thánh giáo nhị thiên tiêu điều
Văn chương kim-cổ thiệt nhiều
1030. Bất tùng Thánh đạo tiêu điều lòng khi

Tầm sư học đạo để chi
Việc nào bất chánh bất tri hỏi Thầy
Hoang mang dạ bạc nương ngày
Cải tâm vong tớ phụ Thầy rằng ma
1035. Về nhà tự ý xướng ca
Độ phù thuốc núi thiệt ta giỏi rày
Vong ngôn phản đạo phụ Thầy
Giỏi mà không giỏi có ngày lâm nguy
Hết lợi tới hại một khi
1040. Hết vinh tới nhục lâm nguy tiêu điều
Việc nào dục lợi cho nhiều
Thủy . . . thủy . . . tiêu điều lợi đa
Lòng dân tâm quỉ tánh ma
Mười người xuống chốn Diêm la chín người
1045. Vui chi hớn hở vui cười
Phước đâu không thấy họa người tới đây
Phước thời gặp phước mới hay
Họa thời gặp họa thương thay nhiều người
Bạc chì mong sánh vàng mười
1050.Vui đâu chúc đó thương người vô tâm.

Thương người vào quán thi ngâm
Khác nào Bùi-kiệm Trịnh-Hâm (3) mưu thầm
Xưa sao nay vậy chẳng lầm
E tài cùng sách mưu thầm giết nhau
1055.Thấy đời không bịnh phải đau
Thiệt vàng thì ít giả thau thì nhiều
Cám thương trần hạ chín chiều
Lâm nguy niệm Phật thấy nhiều người thôi


Dục tốc bất đạt người ôi!
1060. Đắng cay phải chịu làm tôi phải cần
Tố vi quân tố vi thần
Quấc loạn thức tướng gia bần thức thân
Gia bần cậy họ làm ân
Quốc nguy phải cậy quan dân tâm tình
1065. Lịnh trên há muốn một mình
Muốn cho tứ hải hiệp tình lo âu
Thái-Công xưa một cần câu
Nương theo sông vịnh biết đâu trí tài
E người lầm quán bất tài
1070. Thuốc tiêu thuốc dán thương ngài trí tri

Sự đời dỉ thiệt cáo chi
Khuyên lòng nam nữ xét suy tốc trì
Nhẹ phấn nặng nữa thì chì
Lao xao lời nói có gì không chi
1075. Đời này nhiều kẻ ngu si
Xưng rằng quân tử thị phi lạ đời
Nói năng khác thế khác thời
Nói ra sợ lỗi Phật Trời mặc ai
Thấy đời hồ giả hổ oai
1080. Đầu heo gộc chuối trái tai đem kề

Nhiều người ăn nói vụng về
Ra thân làm tớ muốn bề hòa hai
Dặn trước tích thiện huờn lai
Nghĩ đi xét lại chẳng ai tích lành
1085. Xác mê mé biển đầu gành
Hồn mê âm phủ chẳng đành Tây-phương
Nước nhà như ngựa buông cương
Chừng nào Phật định tứ phương phục tùng
Khiến nên hội hữu anh hùng
1090. Sao người không dạ lo dùng Tây-phương,

Chẳng đền thủy thổ quốc vương
Lo tu thành Phật tây-phương mong về.
Ngọn rau tấc đất phân lìa
Ẩn vương nương Phật khó về Tây-phương

1095.Chẳng biết kẻ ghét người thương
Lòng người như thể rương không bản lề
Dở ra trống lỏng bốn bề
Riêng ngăn riêng nắp vụng về cái rương
Lỡ chìa lỡ khóa oan ương
1100. Không ngăn không nắp lỡ rương để đồ.

Biết đâu cao nấm ấm mồ
Giữ thân cho vẹn giữ đồ thiệt ngu
Trai năm bảy thiếp vi phu
Gái thời tiết hạnh chí tu một chồng
1105. Gái mà ăn ở hai lòng
Lưỡng phu thậm tội sát chồng hại tai
Nam trung thờ chúa chí trai
Nữ trinh tiết hạnh gái mai thờ chồng
Gọi rằng thảo thuận một lòng
1110. Chữ tình trung hiếu đạo đồng quấc-vương.

Làm sao cho khóa lìa rương
Làm sao lìa chúa Đại-vương lìa thần
Hữu tâm bất luận phú bần
Gia nguy quốc loạn ân cần mới thương
1115. Đạo lý tối đại quấc vương
Sách còn chữ đó cám thương tu hành
Tu tâm tích đạo làm lành
Tiên đường nội ngoại lập thành bàn linh
Mới rằng minh ý quảng thinh
1120. Lộng ngôn cuồng ngữ u minh bất tường
Nên thời gánh đất đấp đường
Chẳng nên dùng cuốc tâm cường tay bươi
Thẹn thùa lưỡng dạ hổ ngươi
Nhứt tâm mài sắt tốt tươi kim vàng
1125.Thời hưng xa mấy băng ngàn
Vận suy lấp ngõ làm đàng mây mưa
Cơn vinh tay xá miệng thưa
Cơn nghèo kéo cặc tay đưa tỏ tường
Đi đâu năm bảy chục đường
1130. Mà phân tiếng đó cang cường lộng thinh

Có ai ép dạ niệm kinh
Chê bề đạo đức bất linh khi rày
Công lao tiêu tứ vài ngày
Càng cao danh vọng càng dày gian nan
1135. Anh hùng tận ý trung cang
Ưu quân ái quốc lo toan hội nầy


Mới rằng giữ dạ theo Thầy
Già bần hiếu tử tỏ bày hậu lai
Ít người tỏ đặng chiều mai
1140. Mà vong Trời Phật hỏi ai phụ Thầy
Lời xưa dạy việc cấy cày
Ý ăn ý ở việc rày ngày sau
Tiện tặn con cá lá rau
Làm dâu kỹ lưỡng ngày sau nên người
1145.Yếu thời dùng chước người cười
Ở cho có trí hơn người trèo cao
Lưu lạc biết việc khổ lao
Trải mùi dương thế thấp cao biết người
Phải ăn phải nói phải cười
1150. Làm ăn sạch sẽ nên người kim lai.

Lá rụng về cội chẳng sai
Cây nào lá nấy không lai lá nào
Trái e lộn ruột như đào
Trái ngọt trái đắng lộn vào lộn ra
1155. Người ta ba thứ người ta
Khôn thời làm quỉ dại ma báo đời
Chánh minh làm Phật làm Trời
Nhứt ngôn trúng lý muôn lời chẳng sai
Tầm phào khó định chiều mai
1160. Lòng sao làm vậy kim lai bất hồi
Linh đinh sóng dập gió dồi
Như ghe chở khẳm đứng ngồi chẳng an



Tấn nan thối diệc giả nan
Lỡ bề ăn ở chưa an chỗ nào
1165.Làm ngơ giả dại ra vào
Không ham tiền bạc chỗ nào lự nguy
Nỗi sầu một ở chín đi
Đa ma thiểu Phật sầu bi trong đời
Gian nan thân chịu giữa vời
1170.Thấy người ăn ở nhiều lời chẳng an
Chừng nào cho hết tham gian
Không người lua láo mới an Phật Trời
Hoảng hốt đa dạ đa lời
Xem trong sự thế cuộc đời cheo leo
1175.Phục đường cúng biết mấy heo
Khẩn nguyền chư vị giúp theo Phật trời
Ngủ quên thức dậy tới đời
Tứ phương xao xác như lời chẳng sai
Ai tường Tý hợi chiều mai
1180. Âm dương tý ngọ song khai giữa trời

Theo cha đói khát than đời
Theo Cậu cơm nước nhiều lời giết nhau
Ăn no mổ mắt mới sâu
Hại Trời hại Phật sống lâu làm gì
1185. Lộ Lỡ người ở lạ kỳ
Tham gian thậm ngặt bất tùy giáo răn
Mong lòng tham của tham ăn
Bất ưu hậu nhựt búa trăng chẳng vì
Gẫm tôi nói chuyện dị kỳ
1190. Không hạp ý tứ biên thùy cười chê
Tới đây lập cảnh trồng huê
Nào hay nhiều kẻ cười chê chẳng vừa
Kiếm nơi lập tự phụng thừa
Hội đồng sắc tứ có vừa hay không
1195. Nhứt tánh mới đặng hiệp công
Đa sư đa sĩ người không nhứt tình
Sống thác xem thấy một mình
Lo xuôi lo ngược khô hình còn chê
Thấy người tu niệm thiệt quê
1200. Tu trong không giữ tu lê ra ngoài.

Tu giỏi lên chức mới tài
Trong lòng không Phật tu ngoài tụng kinh
Tu chê Trời Phật bất minh
Tụng kinh giả ngộ lộng thinh cho người
1205. Nói vậy sao khỏi tiếng cười
Tu nhiều nặng tội hơn người không tu.

Thương bề sãi vãi công phu
Có câu thân thể phát phu giữ minh (4)
Loạn sao thiểu số bất bình
1210.Ba xuân giữ trọn thời mình mới an.
Vợ chồng là nghĩa tào khang (5)
Biết đâu mà gởi cho an thân hình
Linh đinh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước gởi mình vào đâu
1215. Gởi thân cho Phật thời lâu
Gởi tình cho chúa mới âu đạo lành
Bến đục nhiều kẻ bộ hành
Bến trong vắng kẻ làm lành hỏi thăm
Nhứt giáp thập nhị ca ngâm
1220.Từ tý chí hợi sự thâm sự tình
Thấy những tu dạng tu hình
Xét ra thánh đạo giật mình việc tu


THỪA NHÀN

(tiếp theo)

audio 7B Texas

1223.Than rằng biển thánh nở lu
Muối dưa hẩm hút công phu sách đèn
1225. Xưa nay mang chữ khó hèn
Bao giờ tỏ đặng ngọn đèn chí tu
Bàng môn bá đạo lâm thu
Rừng nhu biển Thánh dễ tu khó dò


Thấy nhiều tiền bạc làm trò
1230. Gia đường Tiên Tổ không phò quảy đơm
Chàng ràng úp chạ hư nơm
Chừng nào tỏ chánh không cơm no lòng
Bấy lâu tà mị vẽ vòng
Vui say hớn hở không lòng lo xa
1235. Chê rằng dụ giảng nôm na
Huê tình đối đáp lý ca lành nghề
Chẳng lo xét phải ra hề
Cam tâm việc bấy bất tề khoe khoang

Chà và góp chợ dọc ngang
1240. Annam hiệp ý mưu toan khôn phò
Nạn dân mắc bạc con cò
Bạc hình phản đạo khó dò lý minh
Việc vậy mà gọi rằng vinh
Thiên hạ xài xí chánh minh chỗ nào
1245.Thị phi tranh đấu anh hào
Hiệu vua xài xí việc nào tinh minh
Ba chìm ba nổi linh đinh
Ba lo bảy liệu việc binh việc quyền
Ba ngôi khác thể đồng tiền
1250.Biết làm sao đặng xỏ liền một giây.

Gió đưa hồn xác lên mây
Người nào dạ ở tà tây không chừng
Tối tăm như tấm vách vừng
Trời Phật còn để ớt gừng từ đây

1255.Cha mẹ khỏi đọa qui Tây
Cõi trần nặng tội việc nay khán tường
Khổ lai thậm khổ đoạn trường
Chấp tay vái Phật tầm đường châu minh
Lo bề đa sử đa kinh
1260.Lòng người chẳng xét chánh minh tội nhiều
Nghêu ngao rừng biển Ngư Tiều
Lòng ngay không tội vinh nhiều nhục đa
Làm người thờ mẹ kỉnh cha
Hữu tâm hoài vọng tiên gia từ đường
1265.Thủ tâm trung hiếu thường thường
Thích-Ca Phật hiện gia đường độ thân
Bây giờ phải tưởng nghĩa nhân
Lâm cơ hoạn họa e thân bất tồn
Dương gian sống chẳng tu hồn
1270.Thác về âm phủ tội tồn vấn tra
Chầu nhưng bảy tội kể ra
Nay tôi xét tội quốc gia trăm ngàn
Xử thế húng hiếp quan làng
Thậm oan dân chúng tội toàn muôn xe


1275. Anh em lớn nhỏ đều nghe
Tội trần ước chất muôn xe dư ngoài
Ỷ thân vinh hiển tích tài
Hai đường tội phước gởi-ngoài hậu lâm
Chớ chê sách vở minh tâm
1280.Thánh xưa để dấu soi âm cho đời
Hạ-nguơn tận thế biến dời
Hậu nhơn phế Phật vong Trời đa mang
Thánh tri hậu nhứt bất an
Người người đều ở dọc ngang thêm hoài
1285. Làm vua bất chánh tội dài
Làm quan bất chánh ỷ tài tội đa
Phật cho suy lý nghiệm ra
Tổng làng bất chánh tội sa diêm đình
Đắc thế ỷ tận nan tình
1290.Bất trí hậu nhựt bất bình nhơn thân
Dụng tài tác sự phi ân
Việc quấy làm phải hậu thân bất tồn
Việc phải làm quấy tiêu hồn
Lao xao sóng bổ đầu cồn phi liêm (6)
1295. Chữ rằng nhơn nghĩa thiên kim
Tiền tài phấn thổ phi liêm bất cầu
Vì ai lan huệ ưu sầu
Huê sen phùng thủy phượng lầu thanh nghiêm
Bất tri thượng cổ hạ kim
1300. Thời người gặp gió phi liêm mãn phần.

Trung quân thác đặng thành Thần
Nịnh dầu có sống cõi trần khổ thân
Thượng nhi bất chánh nan phân
Hạ tùng tắc loạn vạn dân bất hòa
1305. Mặc ai tâm loạn ngôn xà
Thọ câu Tiên thánh nghĩa mà ký tâm


Vi nhơn độ lượng bất lâm
Hậu lai phùng ác họa thâm đồ xà
Thượng nhi minh chánh cải tà
1310.Hạ nhi cải chánh bất hòa đặng đâu
Tội thượng dỉ hạ một câu
Trào nào chánh lý dân đâu qui tà
Đánh chó phải kiêng chủ nhà
Cám thương đạo nghĩa ông bà hậu lai
1315. Than rằng lời để chiều mai
Bao giờ gà chạy chó lai an nhà
Tráo trong tiểu nhi chê già
Đạo nào khuất lấp ông bà sao nên
Kỉnh lão trường thọ bề trên
1320. Tổ tiên tạo lập mới nên gia đường
Nghiêng vai gánh đạo đường trường
Quạnh hiu uốn khúc nẻo đường cay co
Éo le nhiều chỗ khổ go
Thủ trung thất hiếu biết lo sao toàn
1325. Hiếu trung gánh nặng hai đàng
Lỡ bề báo hiếu lỡ tràng lập thân
Cơ hàn thất hiếu lỗi ân
Nguyện cùng tiên tổ lập thân minh tường


Tử tôn kế hậu gia thường
1330. Nhơn từ đức hạnh lập tường quốc gia
Hữu Phật diệc tất hữu ma
Hữu tà hữu chánh thiết tha tạ tình
Phật tâm tâm Phật cho mình
Lòng ma dạ quỉ đọa hình Diêm la
1335. Tưởng ơn Trời Phật mẹ cha
Làm con hiếu đạo quốc gia yêu dùng
Thương người trung nghĩa khôn cùng
Thuyền quyên sánh với anh hùng kém chi
Đào-lư Công chúa phương phi
1340. Hồng-mao Công-chúa kém chi sắc tài
Nhựt bổn Công-chúa hớn hài
Xiêm-vương công-chúa sắc tài phương phi
Bắc-kinh công-chúa hậu ly
Đuổi về trấn quốc tiền khi bất hòa
1345. Ngũ-long giao chiến nước nhà
Nhứt nương bất hiệp giao hòa tứ nương
Vạn niên khắc cốt ghi xương
Vạn niên tích đức vì lương tùng quyền
Khán tường trở hậu lập tiền
1350. Trở tiền lập hậu nhơn hiền an khương.

Nước nhà như ngựa buông cương
Xem trong lê thứ chẳng thương nước nhà
Chẳng tu hết trẻ thấy già
Người tu đắc chí hết già huờn trai
1355.Cõi trần nhiều nỗi chông gai
Nhiều lời ăn nói điếc tai hít hà
Xét xem những trẻ tới già
Không ai lo đạo nước nhà vận suy
Giữ lòng đinh sắt nhớ ghi
1360. Trung quân ái quốc bất tri sự bần
Sanh vi tướng tử đắc Thần
Nhơn sanh ư quỉ tử trần vi ma
Dương gian mặt thiệt người ta
Tại lòng cầm thú tùng ma báo đời
1365.Cho nên ăn nói khác lời
Bất tri hậu bỉ bất thời thạnh suy

Ngay vua lòng sắt tri tri
Chúa Trời giữ đạo từ bi đức Thầy
Bấy lâu như bát nước đầy
1370. Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong
Bây giờ nói việc Gia-Công
Bị vây tại chốn Ấp-Long bấy chầy
Cám thương danh vọng tràng Thầy
Quần yêu trổ mặt hại rày tiêu tan
1375. Nỗi nào mà kể gian nan
Thiệt người tiếm nước mưu gian lâu ngày
Gian nan luống chịu bấy chầy
Nhờ ơn Trời Phật độ rày khùng điên
Vận nghèo giữ đạo sầu riêng
1380. Hội nầy Phật định hòa Phiên thuận lời
Ai ai cũng ở trong trời
Cơn nghèo lời dễ cạn lời thời thôi
Chỗ nầy điêu hảo người ôi!
Hai nơi cận Phật gẫm thôi không còn
1385. Thương người xa xứ Saigon
Ngày sau đem lại dạ còn chúa tôi
Giữ lòng chớ trở bạc vôi
Mắt phàm biết Phật chúa tôi tỏ lời
Dụ gian giáo thiện nhiều đời
1390. Xem trong lê thứ nhiều lời cường hung

Lửa hồng Phật tấm lòng trung
Thủy lưu Phật rửa dạ hung cho người
Sông mê trước mắt vui cười
Viễn thiên cận địa thương người vô tâm
1395. Âu lo tích oán thù thâm
Trẻ già gặp hội binh âm rã rời
Có ai thấu đặng lòng trời
Thượng thiên có một dưới đời không hai
Trở gái rồi lại trở trai
1400. Đôi ba lần trở con ai nấy nhìn.

Tận thế chớ trách thiên đình
Tại mình mà hại cho mình đa hung

Căm hờn sự thế si lung
Cho nên Trời khiến đa hung bỏ liều
1405. Tu ma tu quỉ thời nhiều
Tu Trời tu Phật mai chiều không ai
Đường trống cổ vãng kim lai
Người chê Trung-giái không ai giỏi gì
Trung bình chánh trực bất tùy
1410. Nương tùng ma quỉ biên thùy loạn hung
Nói trung e hậu bất trung
Chánh mà bất chánh sự hung tồn tài
Giỏi chi khoe giác nói hoài
Ỉa cứt thúi hoắc phép tài giỏi chi
1415. Cứt thúi người bỏ lời ghi
Cứt thơm người mới tất tri học rày

Lời xưa trời Phật tỏ bày
Có non có nước đố mầy thầy tao
Sông sâu đất nổi cù-lao
1420. Đạo nào ngủ gục không sao chiếu hình.

Năng bồi năng lở giật mình
Nhứt thinh sụp hết hải tình minh mông
Phật bà hiện phép vá sông
Khai kinh thành lộ ra công lập đời
1425. Phá non lập vững ngôi trời
Nơi nơi hiện núi lập đời trường sanh
Cấm trong lục-tỉnh oai danh
Ai mà phạm luật bất sanh linh hồn
Thân dầu xiêu lạc bãi cồn
1430. Nguyện trời đổi xác giữ hồn chánh minh
Đừng khi Trời Phật chẳng linh
Loạn ly mới biết chánh minh lòng nầy
An-giang sát Phật oán Thầy
Cổ-kim loạn chí lời bày chẳng nghe
1435. Dạy thương quân tử trồng tre
Tiển nhơn bất dụng chẳng nghe hại hoài
Mấy khi hội đủ phép tài
Tràng an Phật lập lâu dài xuân thu
Hội nầy sao chẳng lo tu
1440. Mấy khi gặp hội xuân thu Phật Trời
Nói thôi tận lý cạn lời
Xem trong thế giái chê Trời không linh
Chỗ này như thể Láng Linh
Thấy người ăn ở bất minh ngán ngầm
1445. Làng xóm sanh dạ mưu thầm
Hại người trung trực sợ lầm đao binh
Vọng cầu quốc thới dân ninh
Mới rằng quân tử chánh minh đạo mầu
Chờ cho thất Phật mới cầu
1450. Làm sao rạng tiết chư hầu tôi trung.

Thương đời bất thiện vi hung
Tri ân thức nghĩa người trung nan tầm
Đứt giây nên gỗ mới trầm
Vì ai ở bạc đây tầm nơi xa
1455. Mặc tình niệm Phật niệm ma
Một hai chỗ niệm năm ba chỗ tà
Tu sao ở chẳng thiệt thà
Tu yêu tu quỉ hay là tu ma
E là tu xuống Diêm-la
1460. Tu thì qui chánh Thích-Ca Phật tìm
Cớ sao thiện đạo im lìm
Làm sao cho đặng trọn niềm hiếu trung
Than rằng thương đúng cội thung
Lâm cơ nguy biến si lung phải tù
1465.Ông xưa thất thủ Hạ-bì
Tâm ưu Hớn thất tùy Tào-gia
Lỡ thời ai lớn làm cha
Chừng nào gặp hội Tiên nga tri thì
Tràng phan bửu cái khó bì
1470.Tòa sen Đế-Thuấn biên thùy lại chê
Niệm Phật thiệt nhiều người quê
Miệng thì niệm Phật lòng chê mới kỳ
Người sao tâm cốt lưỡng bì
Lời ăn tiếng nói dị kỳ khó nghe
1475. Người dữ nhiều kẻ sợ e
Người lành ít kẻ sợ nghe tiếng gì
Xưa nay mấy đứa vô nghì
Dầu cho có sống làm gì nên thân
Tiền tài phá tuyệt nghĩa nhân
1480. Dụng tình trung trực tỏ phân chánh tà
Đa ngân đa oán hại nhà
Bất như tích đức hậu hoà nhơn ân
Phật Trời nào ghét nhơn dân
Nhơn dân ghét Phật ra thân thể nầy
1485. Việc lành dạy cũng bấy chầy
Việc dữ không dạy càng ngày càng thêm
Một mình đánh đuốc đi đêm
Soi đời trần hạ không êm chỗ nào
Thương thôi ruột thắt gan bào
1490.Càng đa ngôn ngữ càng vào chông gai
Một người hai mắt hai tai
Bất văn thiện đạo họa lai hội nầy
Chẳng phen vua Thuấn đi cày
Đi theo Lữ-vọng có ngày buông câu
1495. Than thầm tự ái giếng sâu
Không trầm thì nổi khó âu việc đời
Thở than hai chữ vận thời
Cầu cho bá tánh thuận đời an bang
Sầu đời khô héo lá gan
1500. Ai làm hư vậy mình mang tiếng đời

Ngưỡng than trên có Phật Trời
Người ngay mắc nạn lỡ thời về đâu
Việc người thì mặc người âu
Lấp tai giả điếc biết đâu việc người
1505. Việc ai đừng có chê cười
Nên hư cũng mặc ý người liệu toan
Đừng chê kẻ khó người sang
Đời còn mạt hạ liệu toan việc mình
Chừng nào dương thế xử bình
1510. Nhứt tâm nhứt tánh nhứt tình lo toan
Bình thời dương thế đắc an
Của tiền chẳng thiếu giàu sang trên đời
Kỉnh Nam có Phật không Trời
Chầu nhưng không Phật niệm Trời A-men
1515. Bầy trâu con trắng con đen
Nhiều người cười nói ít khen trâu cò
Bầy trâu chẳng lộn con bò
Thiệt đà khó chịu lần dò ăn riêng
Chánh xuân Trời Phật Thánh Tiên
1520. Nước dưng giẩy bực bình yên con Trời
Năm nay sắp tới thấy đời
Dữ lành lành dữ mặc lời chê khen
Qua Nam dạy đạo hai phen
Gẫm người Nam-Việt bạc đen tấm lòng

1525. Phật Trời như vợ với chồng
Dám chia hai đạo trở lòng rẽ đôi
Ngư phùng độc thủy dưỡng khôi
Xà lâm trận hỏa thương ôi dân Trời
Thủy lưu thủy phá giữa vời
1530.Ngư trầm hải để (7) ven Trời nhạn bay
Bao giờ thơ nhạn cầm tay
Lý ngư hóa đặng rồng bay (8) lên Trời
Đố ai biết đặng vận thời
Năm nào Phật định tới đời biết không?
1535.Tuy là lừng lựng minh mông
Một giờ thấy phép đức Ông ra tài
An nam hung dữ hoài hoài
Phật Trời nhồi nhả thây hài chưa thôi
Phật Trời đồng đẳng nhứt ngôi
1540. Càn khôn đại đạo chúa tôi một quần
Thanh minh tảo mộ thì đừng
Noi Kiều Vô tích ớt gừng rất chê

Khát thời uống nước Tào-Khê
Đói ăn ma phạn con tê chẳng lành
1545. Mê chi việc đọa tranh hành
Ba ngôi đồng chí làm lành lại chê
Cầu hồn linh hiển xác quê
Trăm năm giữ mộ rất chê vô toàn
E người phế sở vong làng
1550. Sớm thăm tối viếng vẹn toàn cũng nên.

Vong tồn giữ dạ chớ quên
Sống sao thác vậy cũng nên làm người
Nay khóc mai mốt vui cười
Quên trung quên hiếu thiệt người dối ma
1555. Lưỡng nghi tứ tượng cao xa
Xét soi cứu độ quốc gia Hớn-trào
Đêm thanh nguyệt chiếu chỗ nào
Nhựt minh soi tỏ anh hào thiết tha
Khôn thời trong bụng khôn ra
1560. Hiếu trung chí hiếu lòng ta ai tường
Dốc ra sức mạnh cang cường
Nào hay gánh nặng giữa đường ngẩn ngơ
Không cha con cũng bơ vơ
Không mẹ con cũng ngẩn ngơ dạ sầu
1565. Mấy khi Trời Phật vọng cầu
Phàm phu đem dạ chẳng sầu chẳng lo
Biết sao làm giỏi thì no
Làm dở thì đói nằm co thì tường
Đừng lòng che thế phi thường
1570. Hậu lai thậm tội nan tường thượng thiên
Dạ buồn thì dạ sầu riêng
Nỗi lo sông rạch chưa yên nỗi rừng

Trải xem võ thủy bất thuần
Phong vân bất nhuận lẫy lừng bịnh nhân
1575. Như cây dưới đất không phân
Nắng thì mặc nắng nhơn dân tươi hoài
Âu lo chơn hớn chơn hài
Bịnh nhơn đại bịnh nằm dài chẳng khuyên
Nạn dân ách nước đảo điên
1580.Khen người đem dạ chê Tiên rằng khùng
Lầu cao mấy cái không dùng
Dụng nhân dụng nghĩa chẳng dùng phi ân
Bạc vàng sao xứng đòn cân
Tiểu nhơn quân tử khó phân anh hùng


1585. Chê điên người lại chê khùng
Trong nhà cũng vậy chẳng cùng là ai
Đường bịt sợ nỗi chông gai
Đường trống ít kẻ vãng lai cho thường
Nhu nhược tắc thắng cang cường (9)
1590.Gia bần mới biết đặng đường thảo con (10)
Bấy lâu đất khách thon don
Một Thầy một tớ nước non trọn niềm
Trăng sao trăng khuyết lưỡi liềm
Tròn chi một buổi tan kìm đứt giây
1595. Ca ngâm đương lúc còn hay
Giỏi chi một phút đứt giây giữa đường
Niệm Phật chẳng phải ăn lường
Âu lo quốc sự minh tường nạn vua
Thấy đời cay đắng chát chua
1600. Việc phải chẳng dụng quấy mua vào lòng.

Vè kia lý nọ đèo bòng
Vãng sanh cứu tử không lòng lo âu
Xa đường kéo nước nhờ trâu
Bắc cầu chuột lội mèo đâu ngồi rình
1605. Khác nhau một dạ hai hình
Hai hình một dạ âm tình hơn thua
Huê tàn mặc ý tranh đua
Phước dư khánh hỉ chẳng mua vào lòng
Lưới mê nhiều lớp chập chồng
1610.Hạ-ngươn nhẫn nhục đèo bòng muôn dân

Nghĩa mà thuyết tự khó phân
Tự mà thuyết nghĩa vạn dân đạo đồng
Nghĩa mà thuyết lý hao đồng
Tầm khùng giác thế mích lòng anh em
1615.Sao bằng sách thiệt chữ xem
Nôm na lộn lạo anh em chê cười
Gẫm tôi thì cũng làm người
Có chứng nói bậy nhiều cười nhiều chê
Ăn chua thấy ngọt mà ê
1620.Tu văn tu võ tu tê không màng
Tu sao lên chốn thượng đàng
Tu noi quỉ cốc họ hàng hườn dân
Tu sao bố đức thi ân
Tu sao cứu đặng vạn dân thanh nhàn
1625,Tu sao có nhịp có nhàng
Tụng kinh đánh mõ la làng vang rân
Tu sao giật của hương lân
Tu sao tội phước không cân chỗ nào
Sớ lên sớ xuống ào ào
1630.Phật Trời dốt nát mắt nào thấy đâu
40
Có trống có đẩu chấm câu
Tu sao không biết tội đâu trong mình
Gọi rằng tu dạng tu hình
Phật Trời ở chốn Thiên-đình như gương
1635.Tu lo thủy thổ quốc-vương
Ngọn rau tấc đất an lương nuôi mình
Dưỡng tâm dưởng thực dưỡng bình
Đến cơn quốc loạn bất bình chẳng lo.
Vô vương chịu chốn khổ go
1640.Há rằng ngon ngủ ăn no sao đành
Cây khô trổ lá héo nhành
Cầu sao cho có nước lành tưới cây
Tu sao mà dụng ăn chay
Thượng thanh hạ trược gốc cây hôi rình
1645.Chay là chánh trực tâm tình
Vật nào thuộc thổ bất bình thượng thanh
Làm sao rạng tiết thơm danh
Thượng đường chói chói quản thanh phước lành
Hạ-ngươn đáo thủ Phật hành
1650.Người lành hành trước chẳng lành hành sau
Hành còn hành mất biết đâu
Thiên cơ Phật định xét sâu thì tường
Than than trách trách thế thường
Thương thương tiếc tiếc tâm cường bất trung
1655.E khi mắc đảng hành hung
Uổng trang phú quới bất trung điêu tàng
Gió day bốn hướng mịt đàng
Thương người nhân nghĩa thọ tàn lao đao
Bây giờ như thể chiêm bao
1660.Tam thinh thấy biển Vàm-nao rộng thình
Hiền lương binh Phật độ mình
Bạo tàn mất hết thả hình trôi sông
Âm binh rao khắp thinh không
Ba đêm việc trước minh mông cứu người
1665.Núi tan đất sụp bớ người
Vi sơn đảo hải thương ngưỡi không tin
Tới đời tam giái hội binh
Thời người khủng cụ thất khinh thất cuồng
Thấy việc kẻ khóc người buồn
1670.Bây giờ mới biết ở truồng là đây
Bấy lâu chê Phật không hay
41

Bây giờ mới biết bỏ thây hội nầy
Chưa tường đáy biển trâu cày
Ngư phùng đại lộ khó rày người ôi!
1675.Giáp thìn điềm ứng rồi thôi
Đinh mùi phản thủy có ngôi Thủy-hoàng
Giáp dần gởi họa xa đàng
Đinh mẹo hội thí viễn tràng Nam-bang
Ứng tình quảng lượng nói khan
1680.Qua tới Dần Mẹo thì an nước nhà
Biết sao hiệp ý trẻ già
Nói trước người lại chê là có đâu
Đố ai bắt đặng con trâu
Con rồng thì thiệt phải đâu con rồng
1685.Ất Sửu nước dậy ngập đồng
Nội tuần một tháng đất giồng khô khan
Biết rằng xưng Phật dị đoan
Ôn hoàng đại loạn chẳng an dân Trời
Phật Trời xuất thế độ đời
1690.Bính Dần lập lại cõi Trời hai ngôi
Đinh-Tỵ lạc chúa lạc tôi
Ai mà tầm đặng hiệp ngôi Phật Trời
Qua năm kỷ tỵ lập đời
Ba ngôi đồng đẳng Phật Trời vua quan
1695.Đâu đâu lạc nghiệp thuận an
Lập mười tám nước hiển vang quới quyền
Từ đây còn thẳm còn phiền
Còn hao còn tốn lương tiền trải gan
Của trần nhiều tiếng chẳng an
1700. Trải đời phải chịu ép gan đau lòng
Dại sao trăm khúc dại lòng
Khổ sao trăm khổ cái lòng minh mông
Đờn bà chí những đờn ông
Phật ra dạy đạo sao không độ tình
1705.Ai thời ý nấy ỷ mình
Cơn nghèo chẳng dụng việc bình a dua
Tính hơn rồi lại tính thua
Đi chùa thì lỗ bán mua có lời
Lợi hại ngó thấy tức thời
1710.Nam mô thiện đạo lọc Trời chẳng ưa
Ham rẻ lội tẻ dầm mưa
Chừng nào đói lạnh lòng ưa thì rồi
42
Líu lo chim chẳng nhánh chồi
Éo le danh lợi phủi rồi giàu sang
1715.Ngồi buồn luận trí Nam-bang
Dắt đường chỉ ngõ Tây-an cao kỳ
Đế cung lập lại bất tùy
Nhà cơ hội thí Hương-kỳ hậu lai
Đây trai đó cũng là trai
1720.Mặc tình chúng bạn vừa ai thì vừa
Đạo nào bất chánh thì chừa
Đạo nào nói thiếu nói thừa đừng mê
Giữ đạo thấy đạo mà ê
Đạo nào bằng đạo phu thê chữ tình
1725.Đó đăng đăng đó giữ gìn
Không con nối hậu thì mình tuyệt căn.
Có phần theo dõi cung trăng
Không phần dương thế ở ăn hiền hoà
Phải tri việc chánh việc tà
1730.Đừng theo ma quỉ bất hoà Tây-phương
Tam cang đạo trọng khá thương
Một tình ngặt dạ oan ương quỉ tà
Phi quân kẻ chẳng thiệt hà
Phi thần phi phụ tử mà việc phi
1735.Khiến nên gia quốc loạn ly
Tà ma ám sát vận suy Phật Trời
Khó phân chữ vận, chữ thời
Trư trư trần thế hẹp lời thốt ra.
Chua lòng xót ruột cho ta
1740.Người Phật không thấy người ma thì nhiều
Thương ôi thân Phật chín chiều
Tà ma lấn lướt cũng nhiều nỗi cay
Chẳng nghe chim đậu rồi bay
E là không phải cội cây chẳng sầu
1745.Lời rao nào Phật có cầu
Nào ai có để mối sầu cho ai
Có lòng cầu Phật Như-lai
Phật nào có ép gái trai mà phiền
Cơ mưu dỉ lậu như tiền
1750.Hắc diện phản đạo lập hiền tàm tu.
Cá bị lửa nước bị lu
Làm sao tỏ rạng công phu sách đèn
Nước sao chua chát như phèn
Vùa hương bể đó dầu hèn vùa hương
43
1755.Thử lòng thử sức người thương
Biết người hào kiệt biết trương anh hùng
Nước rộng mặc sức vẫy vùng
E khi nước hẹp sợ cùng đường đi
Thời Trời vận khiến nước suy
1760. Thấy người đem dạ hồ nghi điếm đàng
Dạ sao dạ ở lăng loàn
Chỉ đường nhân nghĩa dạ còn nghi nan
E người lầm kế mưu gian
Ra lời nói trước nghi nan lạ lùng
1765. Việc người nói chẳng hay cùng
Trách là trách phận nằm mùng đảo điên
Việc đời nói trước huyên thiên
Người còn nghi dạ khùng điên dực đồ
Tôi nay không phải Nhẫn-Hồ
1770.Thọ tài oán trái làm đồ phi ân
Dụng là dụng nghĩa dụng nhân
Bởi đời dụng bạc phải phân của tiền
Dụng là dụng đức dụng hiền
Dụng ân dụng đạo về miền thượng thiên
1775.Của trần nhiều tiếng đảo điên
Đời nào tiền của thành Tiên bao giờ
Dụng lòng lòng chớ dại khờ
Tử sanh hữu mạng bàn thờ chí tâm
Niệm Phật là việc niệm năm
1780.Niệm ngày niệm tháng khổ thâm cho mình
Anh em cô bác văn tình
Chừng nào ngó thấy việc bình biết tôi
Đường dài ngựa chạy quên thôi
Sông sâu cầu khỉ chúa tôi lên cầu
1785.Đời khổ chẳng thấy ai sầu
Sợ đường hậu nhựt gãy cầu khổ go
Thân mình mình chẳng âu lo
Sưu cao thuế nặng đói no chẳng thuần
Huê thơm bán ế nữa chừng
1790.Ngồi buồn nhớ tới đất rừng lụy tuôn
Ra sông thấy việc bán buôn
Ở rừng cay đắng đường truông không chừng
Ở đâu thấy ớt với gừng
Ngọt ngon dấu mất lỡ chừng chua the
1795.Nào khi năn nỉ không nghe
Bây giờ xách nón chèo ghe đi tìm
44
Anh em ở chẳng trọn niềm
Gặp cơn vinh hiển khó tìm anh em
Chê khi đói rách tèm hem
1800.No cơm ấm áo anh em khen dồi
Vong ngôn việc trước bỏ rồi
Việc sau tưởng lại trao dồi sợ phai
Mặc tình ai có ép ai
Phải chiều cũng phải quấy mai không sờn
1805.Tiểu nhơn đem dạ oán hờn
Lòng người quân tử như đờn lên giây
Việc người quấy phải nói ngay
Phật Trời nẻ thẳng như giây mực tàu
Lòng tôi cũng muốn làm giàu
1810.Ngặt tình hàng hóa bên Tàu chưa qua
Bạc hình Tây cất phương xa
Vàng còn ẩn núi tôi ma hội nầy
Muốn ra làm ruộng cấy cày
Trong mình làm biếng ăn mày khó xin
1815.Muốn ra giữ đạo đọc kinh
Miệng tụng không đặng làm thinh kêu Trời
Kêu Phật cho thấu việc đời
Tụng kinh không đặng niệm Trời Phật linh
Lỡ bề chịu lỗi hai kinh
1820. Mắt lờ đục tiếng làm thing mà nằm
Anh em chưa rõ cơ cầm
Cớ sao đem thói mưu thầm hại tôi
Tôi người vô cớ người ôi
Cũng không tranh đấu hại tôi nỗi gì
1825.Nực cười người ở lạ kỳ
Người lành mà ghét nỗi gì không thông
Xa thời xa núi xa sông
Nghĩa nhân thăm thẳm sao không lo dùng
Ghét chi những đứa tầm khùng
1830.Người khôn mưu trí lo dùng quốc-vương
Nước nhà như ngựa buông cương
Mình thời mất của lại thương điếm đàng
Cha ruột ở chưa vẹn toàn
Cha ghẻ con ghẻ nhiều đàng đắng cay
1835. An nam nhiều kẻ không ngay
Người Tây cũng vậy khó thay ở đời
Nói đây lời nói giữa vời
1838. Trước đời không biết sau đời không hay
___

CHÚ THÍCH
(1). Thằng: sợi dây , dây để đo. Thợ mộc thường lấy dây để nẻ đường thẳng mà cưa, hay dùng đo chiều cao. Làm độ làm chừng mực, đo lường. Tục ngữ: "Thẳng mực tàu đau lòng gỗ." Ý nói thời thế loạn ly, không ció luân lý, pháp luật.
(2). Doi Lộ Lở: làng Kiến-An, tổng Định Hòa, Long Xuyên). Tháng bảy năm Giáp-Dần (1914) ông Ba dời nhà về doi Lộ-Lở (giả dạng người thường, ruộng rẫy làm ăn cho qua ngày.
(3). Bùi-Kiệm, Trịnh-Hâm: hai kẻ ác trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
(4). Thân thể phát phu 身體髮膚: Thân thể phát phu là thân thể, tóc và da của con người. Mạnh Tử viết: "Thân thể phát phu thọ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thủy dã." Nghĩa là: Thân thể tóc da thọ lãnh nơi cha mẹ, chẳng dám hủy hoại, là hiếu trước tiên đó vậy. Đây là nói về việc gìn giữ thân của cha mẹ sinh ra, không phải là không cạo râu cắt tóc là hiếu như một số người hiểu sai hoặc xuyên tạc.
(5). Tào khang: do thành ngữ Tào khang chi thê 糟糠之妻.Tao khang hay Tào khang nghĩa đen là bã rượu và cám, đó là hai thức ăn dùng để nuôi heo, nhưng đối với người quá nghèo khổ thì họ dùng hai thức nầy ăn để sống. Do đó hai chữ Tào khang là để chỉ lúc nghèo khổ. Tao khang chi thê hay Tào khang chi thê là người vợ lúc còn nghèo khổ, tức là người vợ tình nghĩa thuở ban đầu còn sống nghèo khổ với nhau. Câu nói của ông Tống Hoằng 宋弘: Tào khang chi thê bất khả hạ đường. 糟糠之妻不下堂Nghĩa là: Người vợ lúc còn nghèo khổ không thể để ở nhà sau, ý nói: không thể bỏ người vợ tình nghĩa thuở ban đầu nghèo khổ để cưới người vợ mới trẻ đẹp lúc giàu sang.
(6).Phi liêm: loài chim có thể gọi gió đến, nghĩa bóng là tai họa đến nhanh, bất thình lình.
(7).Ngư trầm hải để: cá lặn đáy biển.
(8).Lý ngư: cá gáy. Người ta cho rằng cá gáy hóa rồng. Ý nói sự biến hóa từ nghèo hèn trở nên cao sang, hiển hách, từ phàm phu thành bậc thánh.
(9). Nhu nhược tắc thắng cang cường: yếu thắng mạnh.
(10). Gia bần tri hiếu tử quốc loạn thức trung thần: nhà nghèo mới biết (ai là ) con hiếu), nước loạn mới hay ( ai là ) trung thần.




No comments: