601.Lụy sầu Trời Phật xét soi
Kìa ai vạch lá móc moi nhà mình
Linh đinh sáu bảy thoàn ( thuyền) tình
Mười hai bến nước sửa mình đặng không
605. Mắt ngó trông phép Ông Tây trả
Cám thương vì hai ngả hiệp tâm
Thương thầm một đạo mười lăm
Phật Trời thường dụng chánh tâm nghi hoàng ?
HỰU VIẾT:
Xưa dại dột họ Hàn (?)
610.Nay nằm đàng họ Nguyễn
Vái nước nhà miên viễn (1)
Cầu bốn biển vầy nên
Trước an phận bề trên
Sau đặng nên bề dưới
615. Cây khô héo nhờ trời Phật tưới
Vậy mới rằng bề dưới tưởng bề trên
(Người ôi !)
Nỡ lòng nào sớm vội tối quên ?
Sao kiếm đặng việc nên sang cả
VÃN VIẾT: Sang cả,
Trách ai làm rời cả hai phương
620. Căm hờn người ở bất lương
Chúa còn ngồi đó dạ trương anh hùng
Trách ai mở tượng treo cùng
Chơn dung thờ đó bất dùng tâm can
Trách hờn mấy đảng tà gian
625. Ngày nào khôi phục mổ gan mới đành
HỰU VIẾT:
Chim léo luống trên nhành
Ăn trái lành mà chết
Nhọc nói ra câu kết
Việc sống chết không hay
630. Học ít chữ cầm tay
Bằng không ngay mất vốn
Việc học hành chẳng tốn
Của cúng chùa một vốn mười lời
Ít có kẻ xét đời
635. Nhưng ham lời trước mắt
Khéo khéo đua chen trào Tây tặc
Đừng đừng sanh giặc đấu tranh
Trào gia nghị xưng danh
Nguyễn Thới Khanh Thiên Đức
640.Sắc lịnh Thánh hoàng phong chức
Thọ ơn Thiên Đức Thừa Luông
(Như nay tôi)
Cám Võ hoàng lụy nhỏ uông uông
Hờn lý luật đường truông vong phế, nọ,
LOẠN VIẾT:
Phụng lịnh Hoàng gia tra xét thế
645. Thừa hành Phiên đế kế Khổng Minh
Dĩ lực âm binh chinh pháp diệu
(Tôi nguyện cùng Trời Phật phen nay là)
Hộ tùng vạn triệu điệu binh thần
Tận ý ân cần Thần trợ lực
(Thầy ôi ! như tôi nay là)
650. Cơ đồ trí trực lực tồn năng
VÃN VIẾT:
Nỗi khó khăn không ăn có chịu
(Thầy ôi !)
Người ở đời lo liệu nhục vinh
Vận còn nghèo chin lỡ chiến chinh
Thầy lâm tai họa tớ vinh chi rày
655. Nỗi tử sanh việc tớ như Thầy
Tu trì giữ đạo chờ ngày khương ninh (Thầy ôi !)
Bất xuất chinh hao binh tổn tướng
Phép Phật Trời sung sướng lo chi
Niệm từ bi giặc chi cũng sợ
660. Vái cầu Thầy tư trợ chúng sanh
HỰU VIẾT: (Như tôi) Cá mắc lưới lội quanh
Người khôn lanh nhảy ngược
(Thời) Giỏi chi bấy kình nghê sủ vược (2)
Dạ ham ăn mê trược đọa thân
665. Trải thịt khắp thôn lân
Thị thiềng đều phân thực
Phú quới chưa từng chịu cực
Thường hành ẩm thực no say
Gặp việc khó khoanh tay
670. Mới biết nay việc khó
Xưa chưa từng việc đó
Nay mới tường việc khó là đây
Phế gia thất chạy ngay
Đoạn phân tay giai ngẫu, nọ !
LOẠN VIẾT:
675. Hưu khứ hưu hành hưu bôn tẩu (Chạy bớ các người chạy)
Mạt căn mạt kiếp cẩu ngưu tiêu
Ngộ trận hỏa thiêu tiêu táng địa
Niệm lia niệm lịa địa bất tri
Tận tử ngu si phi thất phách
680. U mê bất trách phách tận thân
Biệt liễu hương lâu phân phân bại
Ta hồ ngộ hại dại bất tài
VÃN VIẾT:
Đố ai biết mổ nằm dài ?
Người trong Trung quốc hay ngoài càn khôn
685. Căm hờn trợ ngữ trá ngôn
Mấy khi tầm đặng người khôn tri đời
Đố ai biết khắp trong trời
Thượng thiên có một dưới đời không hai
Ít ai trí mỏng tai
690. Nghe lời chiều tối rạng mai nên người
HỰU VIẾT:
Bớt bớt nói vui cười
Chưa phải người thong thả
Trời gió vật bèo trôi ba ngã
Sóng chập chồng rời rã từ tai
695.Chỗ mất còn họa phước về ai
Sao người chẳng trông mai nhớ tối
VÃN VIẾT: Nhớ tối
Dạ thối thầm ôm gối tay không
Sang giàu bọt nước mùa đông
Phù dung sớm nở tối không trông còn
700. Mai huê rớt nhị hao mòn.
Cửa thiền cúc trước xem còn xêu xang
Chốn vương quan giàu sang rực rỡ
Kẻ nịnh thần mắc cỡ cúi qua
Phước lành nhờ đức Tiên gia
705. Đến nay thấy áo mặc qua khỏi đầu
HỰU VIẾT:
Kiến nhơn loạn ưu sầu
Người chẳng phải bí bầu
Dộp nụ đầu còn hầu trái khác
Chẳng phải loài cỏ rác
710.Mà hồn xác bỏ rơi (Xinh a !)
Xinh xinh bấy thảnh thơi
Rồi mệt hơi rút cổ
Tiền bất hạnh Nhan-Hồi nước Lỗ
Hậu Nam-kỳ nước trổ Thần-Đồng (Ấy làm sao)
715. Mà chẳng suy lòng
Để bịt bòng trong dạ (Thời)
Nam-kỳ địa hàm oan chịu đọa
Bắc kinh vương gây họa từ đây
Phật trời chỉ sửa người Tây
720. Qua trấn quốc tới nay chưa bản
Chớ chớ gây thù lập đảng
Đừng đừng trương bản đăng khọa
Việc nước nầy vọng lịnh Hoàng gia
Độ sanh tử trào ca tồn thất
725. VÃN VIẾT: Tồn thất. (Phụ hoàng ôi !)
Dạ bao đành gia thất sửa sang
Nỗi gian nan héo gan teo ruột (Thầy ôi !)
Dây xích nầy thầy buộc khóa đôi
Rủi thôi thôi làm tôi khó mở
730. Cúi lạy Thầy giúp thuở rối tơ (Thầy ôi ! phải chi tôi)
Dạ lẳng lơ buộc sơ sợi luộc
Xuất thơ bài chưa thuộc Thầy ôi (Thầy ôi ! là Thầy tôi)
Đạo chúa tôi dễ thôi lòng tớ
Dấu tích Thầy dạ chớ quên đâu (Thầy ôi ! Như tôi nay là)
735. Mãng lo âu sông sâu nước yếu
Đạo tớ Thầy toàn hiếu vẹn trung (Thầy ôi ! như bổn phận tôi nay là)
Dạ cúc cung thủ trung thất hiếu
Bốn lạy Thầy nước yếu xin thương (Thầy ôi !)
Nỗi oan ương tào khương lướt mạnh
740. Mối đạo lành hiếu hạnh ít ai
BÀI VIẾT:
Nhựt nguyệt song khai (3) hề mai phục
Hề mai phục
Kỳ Hương ý dục tị tục trần
Kỳ Hương ý dục tị tục trần
745. Cầu được linh đơn hề thần sái. Hề thần sái
Trùng chiêm bát quái ai lưỡng nghi
Trùng chiêm bát quái ai lưỡng nghi
Cầu Phật thức tri hề bi lụy
Bất bình cầu trị thị linh thông
750. Bất bình cầu trị thị linh thông
VÃN VIẾT:
Thương rằng Thầy Nghĩa cho Ông
Cậu An ra dấu tớ trông nghĩa Thầy
(Đứt ruột đứt gan tôi đi mà thôi)
Chốn Kim Cang Thầy an giấc điêp
(Còn thân tôi rày)
755. Bỉ Thới nầy cơ nghiệp lao xao
Muốn lên cao nước ao cạn rạch
Thịnh thời nầy nhẹ tách đường mây
Dặm hòe thơ thớ muôn cây
Kìa hương Hưng-Thới Mỹ Tây điện đền
760. Dân an vua trị cho bền
Nơi nơi lạc nghiệp điện đền sung vinh
HỰU VIẾT:
Trời Phật giúp pháp linh
Quan trị ninh cọng lạc (Như tôi nay)
Sầu tâm nội quân thần bất đạt
765. Dạ thở than xiêu lạc Hớn Hồ.(Thầy ôi!)
Nghị cơ đồ Tần cũng cơ đồ.(Thầy ôi !)
Nghị vong quốc Tần bang Hồ thất.(Thầy ôi !)
Đường sanh tử Phật đành giấu cất.(Thầy ôi !)
Nẻo nhục vinh gia thất bất tường.(Thầy ôi !)
770. Mắt mỏ thay nước ngược vị thường (Trời Phật ôi ! đến ngày nay mà)
Trời Phật khiến bất tường thiên lý
Nỡ nào để tớ tu ngu ý
Đau lòng sầu thiên lý vị nhiên vị nhiên.(Thầy ôi)
Hư nên bất điểm cùng khuyên
775. Kẻo mà lòng tớ sầu riêng mỏi mệt
VÃN VIẾT: Mỏi mệt (Thầy ôi !)
Gẫm nhiểu nầy Thầy dệt Long Lân
Phụng hoàng trình tố ân thân
Kìa nơi Hớn hải nọ ân lâm Tần
780. Kiến bò quanh miệng chậu xây vần
Thân tôi như nhộng đương lần mối tơ
Dạ ngẩn ngơ guồng tơ thắt gút
Cửa ngô thiền chen chúc người ta
Chợ Ma ba bước ra ngó thấy
785. Chữ mực đề giấy trắng Bắc kinh
Chữ trung trinh nam linh nữ thính (4)
Sự dị thường bất tín bất minh
Khuyên đệ huynh sử kinh đặt để
Nghĩa lý ngoài khó dễ bất thông
790. Cam hờn chế lễ Văn Công (5)
Thọ mai chế lại lỗi trong lục hình
HỰU VIẾT:
Cam hờn việc lộng tình.(Ấy làm vậy)
Mình hại mình khúc túc
Thế cậy đa văn đao bút
795. Giết nhau cả lúc khúc tùng
Cứ kinh sử tạm dùng (Ấy vậy)
Mà hại anh hùng khúc túc (cho chớ)
Thêm sách xem nhiều lúc
Ngày hung kiết túc đa
800. Chuốc việc quỉ việc ma (Ấy làm vậy).
Mà hại hại người ta tùng lý
Thế việc đa nhơn mưu trí
Noi theo kinh lý làm đầu
Hậu hiền chế bất cầu
805. Thị ưu sầu kinh sử
VÃN VIẾT: (Thầy ôi ! như tôi nay là)
Bất tham sanh hề vô úy tử
Đứng anh hùng phải giữ niềm ngay
(Thầy ôi ! như tôi nay là)
810. Muốn xây vạy lập ngay đam lại
Bỏ dại khờ trở lại người khôn
Cảnh quyền môn thế Tôn lập đạo
Dạo non Thần Thánh tạo tinh minh
Phế sử kinh tâm linh thơ biện
815. Trước xem đèn Tây truyện soi gương
Vùng vằng nửa ghét nữa thương
Nỗi sầu nhứt nhựt vô vương đảo huyền
Cám thương trên nghĩa dưới Hiền
Cây tươi lá héo đeo phiền từ cơn
LOẠN VIẾT:
820. Viễn bộ làm sơn chơn bộ bộ
Ta hồ nhi ngộ lộ phùng tiên
Thiên tứ kỳ duyên khuyên điểm lực
Anh hùng tam bực diệu thuật nan
Châu-đốc, An-giang mang nạn cả
825. Luân hồi báo quả giả bất tri
VÃN VIẾT:
Nỗi sầu bi Phật ghi thảm thiết
Con một nhà bao nỡ giết nhau
Dạ đành phú quốc ngày sau
Bây giờ bịnh hoạn ốm đau thương người
830. Khóc than nước mắt miệng cười
Nồi da xào thịt thương người trơ trơ
Than thầm quí tại hồi sơ
Phật ngồi xem thế trơ trơ một mình
Cháo chè nhơn bất hữu tình
835. Khéo vô duyên bấy phận mình làm tôi
HỰU VIẾT: (như tôi nay)
Tần hữu Phật Bướm Vôi (6)
Hớn đa ngôi Tiên Thánh
Trời lập lại hội đồng lưỡng tánh
Vạn nhơn tri đạo Thánh Hiền
840.Bất mục thị phản tiền
Vô tâm hiền vong hậu
Bất lễ nghĩa dám xưng rằng Cậu
Vô tri thiên tiền hậu cơ hà
Xuất lý độ thị tà
845. Bất tri hà lý chánh
Hồ dị tai bá tánh
Khó lấp cánh lên mây
Khó giấu thây dưới đất
Hậu nhựt nhơn nhơn phế thất
850. Tiền tài dạ bất tùng thiên.
Ỷ lực thế bất kiêng
Nhựt nhựt nhiên hung bạo
XƯỚNG VIẾT:
Lộng lạc Càn khôn môn đại đạo
Ô hô hung bạo đạo tà tinh
855. Quỉ cụ thần kinh linh giáo thế
Nhơn nhơn vong phế tuế viễn thiên
Thánh đạo tà tiên khuyên nhứt lệ
Tiền sư tam đệ đệ giáo truyền
HỰU VIẾT:
Xưa nhiều kẻ làm hiền
860. Nay dám phiền đa bạo
Thậm thậm khổ sư tiền giáo đạo
Nạn ngôn hậu bạo bất văn
Bất ưu kỳ nhựt nguyệt hiệp căn
Hằng bất kiếm song đăng Thìn-Tỵ (Thời)
865.Điểm ứng hữu lưỡng hình loạn trị
Quả điềm nầy Thìn-Tỵ loạn thâm
Diêm chúa khởi binh âm
Hoàng thiên lâm Thìn Tỵ xong !
VẢN VIẾT: Thìn Tỵ
Thế xây vần loạn trị một ngôi
870.Than đời chắt lưỡi thương ôi !
Việc lành người nỡ phụ sao tôi đành
Tỵ Thìn, Thìn Tỵ tranh hành
Hai ngôi như một người lành tốt tươi
Bạo tàn hổ thẹn cho ngươi
875. Tu hành thêm phước tốt tươi mới mầu
Loạn ly dư chín mười sầu
Trước người chẳng dạ vọng cầu quốc vương
Xét đời thương cũng lỡ thương
Ghét thôi lỡ ghét oan ương tấm lòng
880. Chừng nào trở lại đất đồng
Trồng khoai tỉa bắp đỡ lòng nhân dân
Bao giờ về chốn cựu lân
Ngỏ cho thấy mặt từ thân tỏ tường
Trung thu mua đậu bán đường
885. E người vào quán bất tường sử kinh
HỰU VIẾT:
Xưa quán thị bất linh
Tâm sử kinh trì thế
Kim diệc hữu nhơn mưu kế
Minh tường Thánh Đế thừa ân
890. Chúc chúc thọ nhơn dân
Nhơn dân giai bất thọ (Thương hại ấy)
Thương hại thay trăm họ
Đường thượng thọ đều chê
Xóm xào nấu rất quê
895. Đều bê bê theo đó
Chẳng xét trong việc khó
Thêm mắt ngó tâm lầu
Sung sướng ấy bất sầu
Lạc tâm lầu xem đủ
900. Đền rũ nhau cả lũ.
Dùng nha phiến tửu tình
Bằng hữu thuận chí bình
Ở khác tình bất cố (Thầy ôi ! như tôi nay đây)
Thấy trái đạo lòng phiền ái ố
905. Hỉ nộ tình nan tố hiền lương (Thầy ôi ! như tôi là)
Ai lạc tâm giả dại nhà Thương (Thầy ôi !tôi e là)
Cang cường chí vương mang lưới thỏ
VẢN VIẾT: Lưới thỏ (Thầy ôi ! như tớ nguyện phen này là)
Bước khỏi vòng ngọn cỏ mới ngoan
910.Chốn ải quan giàu sang trối kẻ
Người trung thần không lẽ trời chôn
Dại cả môn thua khôn một gã
Kẻ suy thời nhồi nhã tã tơi
Ở đời như chỉ se lơi
915. Mới săn sớm sợi cũ rơi tơi mành
Chớ chê lũng liễu tầm lành
Rách mà khéo vá hơn lành vụng may
Gậy Kim Cang sư trưởng cầm tay
Bao giờ trở lại nơi đây trao lời
920. Nạn dân ách nước tận đời
Rồng bay đám lá tối trời buông câu
HỰU VIẾT: (Như tôi nay) Tâm phiền não bấy lâu
Lầu son đâu chưa thấy
Hồ Việt trước phân nhau chầy bấy
925. Tam thu dư chẳng thấy tin hồi
Thân tôi làm sao sóng dập gió dồi
Thất hạ đọa chưa rồi quả báo. (Như đời nay)
Người chê Phật rằng lời nói láo
E nỗi nay quần áo không lành. (Chứng mà người tưởng lại)
930. Nhắc nhở việc tu hành
Thân đã đành chí tử, ma !
(Như tôi nay)Nhớ tưỡng cựu tình ơn trí ngữ
Ai hoài thiên sử vỉ tử-quy, hà!
THÁN VIẾT:
Ta hồ nhựt nguyệt vỉ biệt ly
935.Hạn bán tam niên bi lụy ngọc
Trình tường lưỡng tộc ngọc tinh tri
Tỷ ngọ bất di điềm qui hiện
Phương viên ngũ diện ứng hiện tiền
Đáo tuế tân thiên huyền cơ hậu
940. Hà sầu chủng đậu đắc hậu ân
Vãng cựu lai tân thiên phân đoạn
Ta hồ sử loạn đoạn phân ly
HỰU VIẾT:
Thấy sự thế ai bi
Nhơn bất tri quá thảm
945. (Chư nhơn ôi !) Khổ thêm tới xem không chốn giảm
Bịnh mười phần thương thảm bảy phần
Chẳng ai lo thân nải lập thân
Chẳng ai tưởng nghĩa nhân rẳng trượng
Thấy chẳng kẻ thương ôi cung thượng
950. Thiệt ít người độ lượng nghĩa nhơn.
(Ý làm sao mà người) Chẳng lo bề phụng hiến kỳ thân
Ngõ lập hậu vi ân trở lại
VÃN VIẾT: (Thầy ôi ! như tôi là) Nhớ bắc nam dưỡng ơn tứ đại
Việc tu hành nào nại thủy chung
955. Thương thầy dạ nhớ lời trung
(Thầy ôi !) Tôi nào biết mặt tiên cung về rồi
No nao đức Phật phản hồi
(Phụ-hoàng ôi !) Bưng khuâng nhớ chúa dạng ngồi thuở xưa
Nỗi gió mưa nhớ xưa thắt thẻo
960. Vái Phật Trời độ nẽo đường truông
Lụy sầu nước mắt nhỏ tuôn
Biết là có đặng tròn vuông như lời
(Chư nhơn ôi !)Cách nhau có một chữ thời
Sang giàu trân trọng nghèo lời gay go (Huynh đệ ôi !)
965. Giàu nghèo chưa chắc đừng lo
Chí tâm niệm Phật Trời cho duyên lành
Chí dốc tu thời phải học hành
Cớ sao người bỏ việc lành chẳng lo
(Huynh đệ ôi !) Nỗi đói no khó lo rách rưới
970. Nắng lâu ngày mưa tưới mấy chung
Thương vì tuổi hạc huyên thung (7)
Làm trai thủ hiếu thất trung lỗi nghì
Chữ hiếu trung chẳng phải vị vì
Thiệt tình, tình thiệt bái quỳ cúc cung
HỰU VIẾT: (Như việc làm người ỡ đời nay)
975. Phải xét đến việc nịnh trung!
Giặc tứ tung mặc giặc, ma (Như tôi mà ở đời nay)
Gió phưởng phất non nam ủ mặt
Còn mưa lâm râm thắt ngặt nắng nồng
(Ai đi)Đạo vợ chồng lòng chẳng thuận lòng
980. (Ai đi) Niềm phụ tử đèo bòng nghịch nhỉ
VÃN VIẾT: Nghịch nhĩ (Như tôi nay là)
Cám thương đời ma quỷ đa đoan
Gió dào kẻ khóc người than
Tiểu khê kỷ dậu đại giang tới rồi
985. Vỉ xà thủ mả Tây hồi
Dê đi dưới đất khỉ ngồi trên non
Thứ nầy giấy mực chờ son
Còn hai thứ nửa trên non dưới đồng
(Huynh đệ ôi !)Khá rèn đinh sắt tấm lòng
990. Chờ cơn có chúa lên vồng ( giồng) ấm no
HỰU VIẾT: (Huynh đệ ôi!)
Sung sướng chi quốc loạn chẳng lo ?
(Huynh đệ ôi !) Mà hằng gọi ấm no lành quần áo
(Trong sách có chữ rằng) Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
(Ý làm sao mà người chẳng xem trong kinh sử, Thánh nhơn xưa ngài có để chữ)
995. Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì
Họa phước nhơn do cánh vấn thùy (Mà người)
Hằng dụng bạc chì tì đúc Phật
Trời Phật trước sở sanh nhơn vật (Ý làm sao)
Hà nhơn sanh Phật di kỳ !
1000. Cám thương kẻ biên thùy.
Bất tri kỳ sự chánh, ma (Như tôi mà lòng sầu nay là)
Từ lịnh phụ xe loan trở bánh
Khiến loạn ly bá tánh đảo quyền
Trâu thả lan nhiều kẻ trách Phiền
1005. Ngưu phùng hổ đáo miền lao lý, xong
VÃN VIẾT: Lao lý
Chí mẹo dần phật ký Hiền ra
Thân nầy người thị quỉ ma
Ví như bèo tấp mé nga bập bều
Thân nầy người thị rác rều
1010. Chẳng ai cám tưởng cái lều tranh hư
Dạ sầu phiền não ưu tư
Khi nầy bất túc hữu dư nhờ trời
Nói ra người chẳng nghe lời
Người thêm khiến lại chịu đời cắn răng
1015. Nỗi khó khăn cắn răng mà chịu
Dạ lo đời toan liệu thiên cơ
Gẫm mình tất bất tơ bơ
(Trời Phật ôi ! có hay đến nỗi nầy chăng ?)
Đạo lành nằm giữ ngẩn ngơ lòng người
1020. Khéo líu lo vượn hú thú cười.
Thon von đạo Phật nhiều người không tu
Thân nầy người thị rằng ngu
Lòng ai nấy biết khó tu đỡ chàng
Mây giăng khói tỏa mịt đàng
1025. Thương người tôi nói tỏ tàng chẳng nghe
Lưỡi câu liêm ruồng váng nhện tre
Thương người chỉ ngõ chẳng nghe tự tình
HỰU VIẾT: (Tôi nói thiệt mà)
Ai ai khá giữ mình
1030.Việc thình lình sấm dậy (Huynh đệ ôi !)
Việc tội nghiệp khó toan che đậy. (Còn như)
Việc phước tài ai nấy giành đâu ?
Họa phước nầy trời khiến cạn sâu.(Huynh đệ ôi !)
Nam mô Phật tới đâu hay đó
1035. VÃN VIẾT: Hay đó
Nước Ó-Rằn người có qua đây
Thương người nhiều thịt bỏ thây
Lòng không niệm Phật hỏi đây mấy lời
Ở đâu chẳng vái Phật Trời
1040. Bây giờ nói thiệt việc đời khổ đa
Trách mẹ cha ai la hồi đó ?
Đến bây giờ thấy khó kêu cha
Bậu đừng nhí nhảnh lảnh la
E sau để lỗ (8) đôi ba năm trường
HỰU VIẾT: (Cơn vắng vẻ nay)
1045. Mà người chẳng hỏi thăm đường
E hậu nhựt khó tường nẻo bước
(Cơn bịt bòng này) Thấy hiền ngõ a dua lấn lướt
Chẳng lo sau xét trước mà nhờ.(Người thấy tôi)
Hình dạng dại khờ (Người e)
1050. Hậu nhựt khó nhờ
Cho nên người chẳng tưởng (đó ma !)
Cao vọi vọi kìa ơn sư trưởng (Còn)
Rộng thinh thinh cám tưởng càn khôn
Hội tề tiên đồng đẳng nhứt môn (Thầy ôi !)
1055. Đạo vi tử vi tôn tận ý
VÃN VIẾT: Tận ý
Cám thương trường khảo trí thức tâm
Học hành tính đã bảy năm
Trường an vô tự giáo tâm thi tài
Đố ai lập đặng sách ngoài ?
1060. Văn thơ trí tuệ phép tài đậu câu
Xem rồi mắt thấy đâu đâu
Thiên cơ liễu đắc cạn sâu mới rằng
Cuộc nào mặt đất trải bằng
Nước còn xao xiếng người rằng tôi ngây.(Huynh đệ ôi ! như tôi)
1065.Hình dạng đây mắt ngó bên Tây
Liếc xem Tào Tháo bị vây lâu ngày (Huynh đệ ôi !)
Rồi đây ngó thấy Ông Thầy
Ra nơi chiến địa xữ rày muôn binh
HỰU VIẾT: (Như tôi nay)
Chơn bước ván hầm hinh
1070.Miệng niệm kinh trừ quỉ
Nam mô Phật thường hành tịnh thủy
Úm ma hà khử quỉ tiêu tà
Cầu sanh lai phước thọ nhà nhà
Đồng minh tánh thượng hòa hạ lục
1075. Chớ mê muội noi theo ngu ngục
Nương tràng phang tị tục bớ người
Bửu Cái đây hớn hở vui cười
Qui cõi thọ số mười đề hiệu
Tội chư quốc dấy loàn vạn triệu
1080. Thị sát nhơn nan liệu tội thâm
Phạm luật hình nhơn bất tu tâm.(Tôi nói thiệt)
Sát nhơn thị ngàn năm tu không hết tội
Đường oan trái trả ba bảy bội.(Người)
Mê tục trần bất thức tội nan. (Cho nên)
1085. Chẳng thấy người lòng thở dạ than. (Há rằng dể a !)
Nói ngang lòng toan nói dọc
Chớ chớ âm thầm tra mưu độc
Đừng đừng toan ngang dọc học rằng ngoan.(Như tôi nay là)
Tâm tích hiền tầm chốn hiển vang
1090.Đường danh lợi dọc ngang trối kẻ (Cha chả !)
Sức bấy giỏi cho bằng Tào phạt Hớn
(Còn như người chưng mặt lớn nay)
Lớn cho bằng nhà Ngô cầu hôn sát Hớn
(Á, lớn làm chi kìa).Huynh đệ đoạn phân lìa
1095. Chỉ thị ngu si chưởng khoái
Thủ túc đoạn tình bất ái.(Mã người)
Người chẳng e sự quấy chê rằng
Dạ quyết đoạn xích thằng giấu mối, xong
VÃN VIẾT: Giấu mối
Tấm lòng người bối rối như tơ
1100.Của tiền bất phải vất vơ
Chẳng dùng nhơn nghĩa như tơ lộn guồng
Lao xao dưới biển trên nguồn
Cù lao sụp hết ghe xuồng vắng sông
Saigon trở lại lập công
1105.Đất đồng còn đặc hóa sông bây giờ.(Huynh đệ ôi !)
Mãn tứ nên Trời Phật thượng cờ
Thanh Long Mỹ diệu tới bờ bước lên
HỰU VIẾT
Chẳng xét việc hư nên
Khó ngồi trên thiên hạ
1110. Từ thuở Láng Linh khởi họa
(Mới) Khiến nên tấc dạ hao mòn
VÃN VIẾT
Dân xưa như thể gỗ tròn
Dân nay bát giác dạ còn lục lăng
Khó xít-xăng trông ăn phần thịt
1115. Nhảy tưng bừng đấm đít xây lưng
Sự đời thấy dửng dừng dưng
Chẳng thương trước mặt sau lưng kể gì !
Hổ long quì bất tùy bay bổng
Cửa Thiên đường trống lỏng khó vô
1120. Tử từ lỗ miệng nam mô
Phật Trời ngồi đó phơi khô mấy ngày
Khổ hội nầy vái Thầy cứu độ
Trái cái lòng trước ngộ sau ly
HỰU VIẾT: (Như tôi nay)
Mới biết rằng tiền vị hậu khi
1125. Thời vận khiến bất tôn ti thương hạ
Bải hoải ngậm ngùi trong dạ
Ngã vu nga mục đọa Hạ Bì (9)
Nhơn lưỡng tâm nay nghịch mai tùy
Người lưỡng cốt nay bì mai nhục
1130.Chớ bán lụa đầu hồi bất phục
Chế đồng vàng tứ lục còn cao
Nhận thủy xoàng hai mắt như sao
Ngồi hai nạng thấp cao xem thấy hà
OÁN VIẾT:
Dạ sầu vì giấy bán mấy đồng
1135. Thắt thẻo năm canh lạnh tấm lòng.(Thầy ôi !)
Thọ nạn non đống lòng thọ nạn
Trong đồng khởi loạn nhạn kêu sương.(Thầy ôi !)
Thảm thảm thương thương đương dương đạo.(Vậy chớ)
Hàm oan oán bạo cạo đầu sài
1140. Tôi tớ ăn mày đều cạo trọc
Nhị triêu ngang dọc độc tâm nan
HỰU VIẾT:
Bất dụ tất tà gian
Lòng thở than đời cạn
Đoái nhìn thấy nhơn dân đại nạn
1145. Phong trần đà khởi loạn tứ phương.(Nhơn dân ôi !)
Dân lỡ bề thọ hại tử ương
Đường oan trái mạt Thương mới biết (Chư nhơn ôi !)
Nước bối rối giả câm làm điếc
Dầu tài năng chẳng biết dể hơn(Huynh đệ ôi !)
1150. Chưa phải thời ra mặt cao sơn (Mà)
Người làm cúng tiếu vô ơn thọ tử
Trên Trời Phật chưa tờ chỉ sử
Dưới chúng dân tích cử xuất binh
Mặc thế tình vinh nhục loạn ninh
1155. Nào nào biết Trần binh hà đạo ?
Tôi tưởng chúa lo đền cơm gạo (Chư huynh ôi !)
Tớ tưởng Thầy giữ đạo trọn ân (Chư nhơn ôi !)
Chư nhơn đừng ngỗ nghịch vu thân(Chư nhơn ôi !)
Vậy mới gọi lập thân hành đạo
VÃN VIẾT: hành đạo
1160. Cám thương người nghịch bạo mạng vong
Tới đời vỡ ổ chòm ong
Khi không mình lại mang rong lao tù
Kẻ hiển vinh lên võng xuống dù
Nhện giăng trước mặt mịt mù thấy đâu
1165. Phước bao sâu họa cũng bao sâu
Làm người sao chẳng lo âu nước nghèo
Chúa lỡ cơ lên đèo quá hải
Nước nghiêng nghèo người phải lo âu
Thương thầm cá ẩn bực sâu
1170. Chim bay ngàn dậm thấy đâu chùa chiền.
Chốn võ môn tam cấp chiêu hiền
Long Cu (10) cỡi đặng gởi phiền non sông
Lẽ nào biệt tích biệt tông
Mà người chẳng vái bà ông cứu đời
1175. Dạ thở than vái Phật cầu Trời
Dân như cá cạn khó đời dân ôi !
Nực cười ai chẳng thương tôi
Thân nầy khác thể bí bôi xấu màu
HỰU VIẾT:
Cách địa tịch ưu sầu
1180. Xem bất cầu hiền sĩ
Thấy ít kẻ bồi thiềng (thành) đắp lũy
Nhìn không ai lập kỷ Trần Cang
Cám thương đời nay hiệp mai tan
Đò tạo hóa thở than đà chích bánh
VÃN VIẾT: Chích bánh
1185. Xem ít người vi cánh Đường bang (Thầy ôi)
Kẻ giàu sang khó than đạo lý
Xem ít người hiệp ý đồng tâm
Bảy ngày sau hiệp mười lăm
Đạo làm tôi tớ thiển thâm nhờ Thầy
1190. Nỗi tớ nay như kẻ ăn mày
Nay tan mai hiệp nhờ Thầy khiến xui. (Thầy ôi !)
Dạ Thầy vui đệ tử cũng vui
Thầy buồn tệ tử cũng xuôi lòng buồn
Nổi xuân ai nam bắc thơ tuồng
1195.Thầy vui dầu tớ lòng buồn cũng vui. (Thầy ôi !)
Kẻ săn chồn dặm tới bước lui. (Huynh đệ ôi !)
Chó vầy sủa bóng nai xuôi vào rừng. (Chư huynh ôi !)
Chắt lưỡi ôi ! đôi mắt ngó chừng
Kìa kìa mé biển chưn rừng lao xao
HỰU VIẾT:
1200.Kiểng buồn vui bích lịch nghêu ngao
Nay thoại chí thấp cao vui vẽ
Lần lần kể từ năm chẳng lẽ
Ai ngay gian có Thẻ ngăn đường.(Như tôi nay)
Vái Nam bang vỉnh viển miên trường
1205. Cầu Hớn thất Minh đường kiến thọ
Trai thơ thớ ứng tường Tý Ngọ
Gái đường đường hai họ hòa duyên (ấy làm vậy)
Mặc tình ta hòa ý Tây phiên. (còn như bổn phận người)
Khá giữ chí căn duyên phiền túc. (Huynh đệ ôi !)
1210.Máy tan hiệp hư nên có lúc
Đến ngày nay Trời Phật khiến
Lòng ta hạ bút đề thơ.(Chị em ôi !)
Khá rèn lòng đừng dạ lẳng lơ
Nhỉ văn đọc tri cơ trào chánh. (Chị em ôi ! như tôi)
1215. Từ ngó chiếu kiến tường Phật Thánh
Phật hiện tâm minh tánh nan cầu.(Chị em ôi !)
Vui nỗi chi mà trong dạ không sầu?(Huynh đệ ôi !)
Trời Phật nỡ cầu người chẳng tưởng
LOẠN VIẾT:
Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn. (11) (Chị em ôi !)
1220. Thân khá thủ thân ân oán ác (12)
(Tôi dám khuyên cùng anh em, chị em khá niệm Phật)
Nam mô Bồ Tát ác chi tiêu
Khổ khổ tiêu tiêu phiêu phiêu tận
Bất lưu oán hận tận tình hung.(Huynh đệ ôi !)
1225. Thủ hiếu thủ trung hung bất nhập
Côn đồ cổn ( hỗn ?) chiến bất cập vong
VẢN VIẾT:
Dạ nguyền khẩn bái thầy Ông
Bao giờ cá đặng hóa long an hòa
Rán lòng tin tưởng Ông Bà
1230. Lều tranh có đạo hơn tòa ngói tô
Miệng niệm nam mô nuốt vô có Phật
Nhổ ra rồi chư tật còn y
Muốn quy y nài chi gai gốc
Muốn học hành dục tốc bất thông
1235. Kẻ có công gai chông lần bước
Mai sau dầu gặp phước làm nên
Của tiền chất để đôi bên
Một lòng thờ Chúa dưới trên có phần
Trách ai dạ chẳng ân cần
1240. Vùa hương bát nước ân cần báu châu
HỰU VIẾT:
(Như tôi nay) Cá mắc cạn ẩn hang sâu
Người ở đâu mà ngó thấy
Từ thuở phụ tồn thiểu giấy
Trời khiến nên ngó thấy đường dài
1245. Thậm trách bấy hớn hài
Sau ở ngoài gay gắt
VẢN VIẾT:
Nẻo sanh tử mau dường nháy mắt
Câu bại thành gẫm ắt nào xa
Phật bước ra tà ma áp bắt.(Huynh đệ ôi)
1250. Gẫm sự đời gay gắt nhiều phen.
Kẻ ghét ghen đua chen khôn dại
Việc tu hành nói lại đôi co
Dạ sầu lụng đói phát no
Thương trần dạ chẳng âu lo thân hình
1255. Vui chi ca miểu hát đình ?
Trời ra tiếng sấm giựt mình quên tên
Phật Trời phưởng phất một bên.(Chị em ôi !)
Vái van khẫn nguyện gặp nên mà nhờ
HỰU VIẾT:
(Như tôi nay)Tai hằng nghe chư quốc sanh cờ
1260. Tài phép lạ một giờ thâu hết
Tử vô số hồn oan theo kết
Nay anh hùng sau hết tài năng. (Huynh đệ ôi !)
Hai đoạn nầy day trở khó khăn.(Thầy ôi)
Biết bao thuở tài năng trợ thế
1265. VÃN VIẾT: Trợ thế, (Thầy ôi !)
Cám thương vì phế đế cùng tu (Trung tình ôi)
Bốn mùa xuân hạ thu đông
Nguyện cầu biển Thánh rừng nhu đỏ đèn(Thầy ôi !)
Nổi gian nan tớ chịu khó hèn
1270. Phật trời chứng chiếu ngọn đèn tinh minh
(Trung tinh ôi !)Việc sử kinh tâm linh ký tự
Hạ bút thấn ghi sự cổ kim
Dậm hòe dầu thỏ đường chim
Ai tường sự cổ sự kim đổi dời
1275. Ngặt tình kêu Phật kêu Trời
Thương thương xót xót nạn đời mới kêu
Ở đời nhiều kẻ trớ trêu
Phật Trời chẳng dễ người kêu liền hoài
Biết sao có phép có tài ?
1280. Ra nơi quan ải hỏi vài tội tham
HỰU VIẾT:
(Ý làm sao)Kẻ không tội bắt giam ?
Còn người gian tham khỏi hại ?
Người khiến nhiều lẽ Nam kỳ tồn bại (Ý người muốn)
Tuyệt kỳ hang sát hại quân thần(Tôi nói thiệt)
1285. Đường tử sanh tôi nguyện có Thánh Thần
Nẻo vinh nhục cơ bần tại lịnh
Kế Gia-cát để dành Gia định
Mưu Tử Trình hiệp lịnh tân quân(Như tôi nay là)
Đải hậu nhựt huờn xuân
1290. Nhơn bất tuân bất dục
LOẠN VIẾT:
Yếu lộ mưu thâm ân binh phục
Cổ thiền sỉ nhục phục trào tân
Kim cổ xử phân bân mãn đọa
Hai ngôi thọ họa hạ Tây trào
VẢN VIẾT:
1295.Lều tranh chẳng kẻ ra vào
Tai nghe phường phố ào ào như giông
Thứ nầy hành đắc hóa long
Ngộ kỳ ngư thủy vi phong hội nầy
Gió day bát hướng lâu ngày
1300.Bâng khuâng tưởng Phật nhớ Thầy đòi cơn.
Vận nghèo ai chẳng phi ơn
Của Trời Phật để Thất sơn thiếu gì
Gian nan ít kẻ bù chì
Mũ ni áo bả nương tùy nhà Thương
1305.Rày mừng quốc thới dân khương
Trên quan sửa trị dưới lương dân tùng
Trải gan vàng ngọc anh hùng
Trên Vua nhơn đức dưới dùng lâm tôi
Ngai vàng vững đạt báu ngôi
1310. Trên Vua khai rạng dưới tôi trung thần.
CHUNG
Nam mô A Di Đà Phật
Chép rồi ngày : 19 - 3 – Đinh Hợi
____
CHÚ THÍCH
(1). miên viễn: dài lâu.
(2). kình, nghê, sủ, vược: tên các loại cá biển.
(3). Nhựt nguyệt song khai : mặt trăng, mặt trời đều mọc, đều tỏa sáng
(4). Nam linh nữ thính: Ngày xưa khi người nhà nằm xuống, người ta đề vào minh tinh tên họ, hiệu người chết, trong đó nam thì ghi là linh, còn nữ ghi là thính. Nguyễn Đình Chiểu khóc Phan Thanh Giản có câu:
Kìa ai vạch lá móc moi nhà mình
Linh đinh sáu bảy thoàn ( thuyền) tình
Mười hai bến nước sửa mình đặng không
605. Mắt ngó trông phép Ông Tây trả
Cám thương vì hai ngả hiệp tâm
Thương thầm một đạo mười lăm
Phật Trời thường dụng chánh tâm nghi hoàng ?
HỰU VIẾT:
Xưa dại dột họ Hàn (?)
610.Nay nằm đàng họ Nguyễn
Vái nước nhà miên viễn (1)
Cầu bốn biển vầy nên
Trước an phận bề trên
Sau đặng nên bề dưới
615. Cây khô héo nhờ trời Phật tưới
Vậy mới rằng bề dưới tưởng bề trên
(Người ôi !)
Nỡ lòng nào sớm vội tối quên ?
Sao kiếm đặng việc nên sang cả
VÃN VIẾT: Sang cả,
Trách ai làm rời cả hai phương
620. Căm hờn người ở bất lương
Chúa còn ngồi đó dạ trương anh hùng
Trách ai mở tượng treo cùng
Chơn dung thờ đó bất dùng tâm can
Trách hờn mấy đảng tà gian
625. Ngày nào khôi phục mổ gan mới đành
HỰU VIẾT:
Chim léo luống trên nhành
Ăn trái lành mà chết
Nhọc nói ra câu kết
Việc sống chết không hay
630. Học ít chữ cầm tay
Bằng không ngay mất vốn
Việc học hành chẳng tốn
Của cúng chùa một vốn mười lời
Ít có kẻ xét đời
635. Nhưng ham lời trước mắt
Khéo khéo đua chen trào Tây tặc
Đừng đừng sanh giặc đấu tranh
Trào gia nghị xưng danh
Nguyễn Thới Khanh Thiên Đức
640.Sắc lịnh Thánh hoàng phong chức
Thọ ơn Thiên Đức Thừa Luông
(Như nay tôi)
Cám Võ hoàng lụy nhỏ uông uông
Hờn lý luật đường truông vong phế, nọ,
LOẠN VIẾT:
Phụng lịnh Hoàng gia tra xét thế
645. Thừa hành Phiên đế kế Khổng Minh
Dĩ lực âm binh chinh pháp diệu
(Tôi nguyện cùng Trời Phật phen nay là)
Hộ tùng vạn triệu điệu binh thần
Tận ý ân cần Thần trợ lực
(Thầy ôi ! như tôi nay là)
650. Cơ đồ trí trực lực tồn năng
VÃN VIẾT:
Nỗi khó khăn không ăn có chịu
(Thầy ôi !)
Người ở đời lo liệu nhục vinh
Vận còn nghèo chin lỡ chiến chinh
Thầy lâm tai họa tớ vinh chi rày
655. Nỗi tử sanh việc tớ như Thầy
Tu trì giữ đạo chờ ngày khương ninh (Thầy ôi !)
Bất xuất chinh hao binh tổn tướng
Phép Phật Trời sung sướng lo chi
Niệm từ bi giặc chi cũng sợ
660. Vái cầu Thầy tư trợ chúng sanh
HỰU VIẾT: (Như tôi) Cá mắc lưới lội quanh
Người khôn lanh nhảy ngược
(Thời) Giỏi chi bấy kình nghê sủ vược (2)
Dạ ham ăn mê trược đọa thân
665. Trải thịt khắp thôn lân
Thị thiềng đều phân thực
Phú quới chưa từng chịu cực
Thường hành ẩm thực no say
Gặp việc khó khoanh tay
670. Mới biết nay việc khó
Xưa chưa từng việc đó
Nay mới tường việc khó là đây
Phế gia thất chạy ngay
Đoạn phân tay giai ngẫu, nọ !
LOẠN VIẾT:
675. Hưu khứ hưu hành hưu bôn tẩu (Chạy bớ các người chạy)
Mạt căn mạt kiếp cẩu ngưu tiêu
Ngộ trận hỏa thiêu tiêu táng địa
Niệm lia niệm lịa địa bất tri
Tận tử ngu si phi thất phách
680. U mê bất trách phách tận thân
Biệt liễu hương lâu phân phân bại
Ta hồ ngộ hại dại bất tài
VÃN VIẾT:
Đố ai biết mổ nằm dài ?
Người trong Trung quốc hay ngoài càn khôn
685. Căm hờn trợ ngữ trá ngôn
Mấy khi tầm đặng người khôn tri đời
Đố ai biết khắp trong trời
Thượng thiên có một dưới đời không hai
Ít ai trí mỏng tai
690. Nghe lời chiều tối rạng mai nên người
HỰU VIẾT:
Bớt bớt nói vui cười
Chưa phải người thong thả
Trời gió vật bèo trôi ba ngã
Sóng chập chồng rời rã từ tai
695.Chỗ mất còn họa phước về ai
Sao người chẳng trông mai nhớ tối
VÃN VIẾT: Nhớ tối
Dạ thối thầm ôm gối tay không
Sang giàu bọt nước mùa đông
Phù dung sớm nở tối không trông còn
700. Mai huê rớt nhị hao mòn.
Cửa thiền cúc trước xem còn xêu xang
Chốn vương quan giàu sang rực rỡ
Kẻ nịnh thần mắc cỡ cúi qua
Phước lành nhờ đức Tiên gia
705. Đến nay thấy áo mặc qua khỏi đầu
HỰU VIẾT:
Kiến nhơn loạn ưu sầu
Người chẳng phải bí bầu
Dộp nụ đầu còn hầu trái khác
Chẳng phải loài cỏ rác
710.Mà hồn xác bỏ rơi (Xinh a !)
Xinh xinh bấy thảnh thơi
Rồi mệt hơi rút cổ
Tiền bất hạnh Nhan-Hồi nước Lỗ
Hậu Nam-kỳ nước trổ Thần-Đồng (Ấy làm sao)
715. Mà chẳng suy lòng
Để bịt bòng trong dạ (Thời)
Nam-kỳ địa hàm oan chịu đọa
Bắc kinh vương gây họa từ đây
Phật trời chỉ sửa người Tây
720. Qua trấn quốc tới nay chưa bản
Chớ chớ gây thù lập đảng
Đừng đừng trương bản đăng khọa
Việc nước nầy vọng lịnh Hoàng gia
Độ sanh tử trào ca tồn thất
725. VÃN VIẾT: Tồn thất. (Phụ hoàng ôi !)
Dạ bao đành gia thất sửa sang
Nỗi gian nan héo gan teo ruột (Thầy ôi !)
Dây xích nầy thầy buộc khóa đôi
Rủi thôi thôi làm tôi khó mở
730. Cúi lạy Thầy giúp thuở rối tơ (Thầy ôi ! phải chi tôi)
Dạ lẳng lơ buộc sơ sợi luộc
Xuất thơ bài chưa thuộc Thầy ôi (Thầy ôi ! là Thầy tôi)
Đạo chúa tôi dễ thôi lòng tớ
Dấu tích Thầy dạ chớ quên đâu (Thầy ôi ! Như tôi nay là)
735. Mãng lo âu sông sâu nước yếu
Đạo tớ Thầy toàn hiếu vẹn trung (Thầy ôi ! như bổn phận tôi nay là)
Dạ cúc cung thủ trung thất hiếu
Bốn lạy Thầy nước yếu xin thương (Thầy ôi !)
Nỗi oan ương tào khương lướt mạnh
740. Mối đạo lành hiếu hạnh ít ai
BÀI VIẾT:
Nhựt nguyệt song khai (3) hề mai phục
Hề mai phục
Kỳ Hương ý dục tị tục trần
Kỳ Hương ý dục tị tục trần
745. Cầu được linh đơn hề thần sái. Hề thần sái
Trùng chiêm bát quái ai lưỡng nghi
Trùng chiêm bát quái ai lưỡng nghi
Cầu Phật thức tri hề bi lụy
Bất bình cầu trị thị linh thông
750. Bất bình cầu trị thị linh thông
VÃN VIẾT:
Thương rằng Thầy Nghĩa cho Ông
Cậu An ra dấu tớ trông nghĩa Thầy
(Đứt ruột đứt gan tôi đi mà thôi)
Chốn Kim Cang Thầy an giấc điêp
(Còn thân tôi rày)
755. Bỉ Thới nầy cơ nghiệp lao xao
Muốn lên cao nước ao cạn rạch
Thịnh thời nầy nhẹ tách đường mây
Dặm hòe thơ thớ muôn cây
Kìa hương Hưng-Thới Mỹ Tây điện đền
760. Dân an vua trị cho bền
Nơi nơi lạc nghiệp điện đền sung vinh
HỰU VIẾT:
Trời Phật giúp pháp linh
Quan trị ninh cọng lạc (Như tôi nay)
Sầu tâm nội quân thần bất đạt
765. Dạ thở than xiêu lạc Hớn Hồ.(Thầy ôi!)
Nghị cơ đồ Tần cũng cơ đồ.(Thầy ôi !)
Nghị vong quốc Tần bang Hồ thất.(Thầy ôi !)
Đường sanh tử Phật đành giấu cất.(Thầy ôi !)
Nẻo nhục vinh gia thất bất tường.(Thầy ôi !)
770. Mắt mỏ thay nước ngược vị thường (Trời Phật ôi ! đến ngày nay mà)
Trời Phật khiến bất tường thiên lý
Nỡ nào để tớ tu ngu ý
Đau lòng sầu thiên lý vị nhiên vị nhiên.(Thầy ôi)
Hư nên bất điểm cùng khuyên
775. Kẻo mà lòng tớ sầu riêng mỏi mệt
VÃN VIẾT: Mỏi mệt (Thầy ôi !)
Gẫm nhiểu nầy Thầy dệt Long Lân
Phụng hoàng trình tố ân thân
Kìa nơi Hớn hải nọ ân lâm Tần
780. Kiến bò quanh miệng chậu xây vần
Thân tôi như nhộng đương lần mối tơ
Dạ ngẩn ngơ guồng tơ thắt gút
Cửa ngô thiền chen chúc người ta
Chợ Ma ba bước ra ngó thấy
785. Chữ mực đề giấy trắng Bắc kinh
Chữ trung trinh nam linh nữ thính (4)
Sự dị thường bất tín bất minh
Khuyên đệ huynh sử kinh đặt để
Nghĩa lý ngoài khó dễ bất thông
790. Cam hờn chế lễ Văn Công (5)
Thọ mai chế lại lỗi trong lục hình
HỰU VIẾT:
Cam hờn việc lộng tình.(Ấy làm vậy)
Mình hại mình khúc túc
Thế cậy đa văn đao bút
795. Giết nhau cả lúc khúc tùng
Cứ kinh sử tạm dùng (Ấy vậy)
Mà hại anh hùng khúc túc (cho chớ)
Thêm sách xem nhiều lúc
Ngày hung kiết túc đa
800. Chuốc việc quỉ việc ma (Ấy làm vậy).
Mà hại hại người ta tùng lý
Thế việc đa nhơn mưu trí
Noi theo kinh lý làm đầu
Hậu hiền chế bất cầu
805. Thị ưu sầu kinh sử
VÃN VIẾT: (Thầy ôi ! như tôi nay là)
Bất tham sanh hề vô úy tử
Đứng anh hùng phải giữ niềm ngay
(Thầy ôi ! như tôi nay là)
810. Muốn xây vạy lập ngay đam lại
Bỏ dại khờ trở lại người khôn
Cảnh quyền môn thế Tôn lập đạo
Dạo non Thần Thánh tạo tinh minh
Phế sử kinh tâm linh thơ biện
815. Trước xem đèn Tây truyện soi gương
Vùng vằng nửa ghét nữa thương
Nỗi sầu nhứt nhựt vô vương đảo huyền
Cám thương trên nghĩa dưới Hiền
Cây tươi lá héo đeo phiền từ cơn
LOẠN VIẾT:
820. Viễn bộ làm sơn chơn bộ bộ
Ta hồ nhi ngộ lộ phùng tiên
Thiên tứ kỳ duyên khuyên điểm lực
Anh hùng tam bực diệu thuật nan
Châu-đốc, An-giang mang nạn cả
825. Luân hồi báo quả giả bất tri
VÃN VIẾT:
Nỗi sầu bi Phật ghi thảm thiết
Con một nhà bao nỡ giết nhau
Dạ đành phú quốc ngày sau
Bây giờ bịnh hoạn ốm đau thương người
830. Khóc than nước mắt miệng cười
Nồi da xào thịt thương người trơ trơ
Than thầm quí tại hồi sơ
Phật ngồi xem thế trơ trơ một mình
Cháo chè nhơn bất hữu tình
835. Khéo vô duyên bấy phận mình làm tôi
HỰU VIẾT: (như tôi nay)
Tần hữu Phật Bướm Vôi (6)
Hớn đa ngôi Tiên Thánh
Trời lập lại hội đồng lưỡng tánh
Vạn nhơn tri đạo Thánh Hiền
840.Bất mục thị phản tiền
Vô tâm hiền vong hậu
Bất lễ nghĩa dám xưng rằng Cậu
Vô tri thiên tiền hậu cơ hà
Xuất lý độ thị tà
845. Bất tri hà lý chánh
Hồ dị tai bá tánh
Khó lấp cánh lên mây
Khó giấu thây dưới đất
Hậu nhựt nhơn nhơn phế thất
850. Tiền tài dạ bất tùng thiên.
Ỷ lực thế bất kiêng
Nhựt nhựt nhiên hung bạo
XƯỚNG VIẾT:
Lộng lạc Càn khôn môn đại đạo
Ô hô hung bạo đạo tà tinh
855. Quỉ cụ thần kinh linh giáo thế
Nhơn nhơn vong phế tuế viễn thiên
Thánh đạo tà tiên khuyên nhứt lệ
Tiền sư tam đệ đệ giáo truyền
HỰU VIẾT:
Xưa nhiều kẻ làm hiền
860. Nay dám phiền đa bạo
Thậm thậm khổ sư tiền giáo đạo
Nạn ngôn hậu bạo bất văn
Bất ưu kỳ nhựt nguyệt hiệp căn
Hằng bất kiếm song đăng Thìn-Tỵ (Thời)
865.Điểm ứng hữu lưỡng hình loạn trị
Quả điềm nầy Thìn-Tỵ loạn thâm
Diêm chúa khởi binh âm
Hoàng thiên lâm Thìn Tỵ xong !
VẢN VIẾT: Thìn Tỵ
Thế xây vần loạn trị một ngôi
870.Than đời chắt lưỡi thương ôi !
Việc lành người nỡ phụ sao tôi đành
Tỵ Thìn, Thìn Tỵ tranh hành
Hai ngôi như một người lành tốt tươi
Bạo tàn hổ thẹn cho ngươi
875. Tu hành thêm phước tốt tươi mới mầu
Loạn ly dư chín mười sầu
Trước người chẳng dạ vọng cầu quốc vương
Xét đời thương cũng lỡ thương
Ghét thôi lỡ ghét oan ương tấm lòng
880. Chừng nào trở lại đất đồng
Trồng khoai tỉa bắp đỡ lòng nhân dân
Bao giờ về chốn cựu lân
Ngỏ cho thấy mặt từ thân tỏ tường
Trung thu mua đậu bán đường
885. E người vào quán bất tường sử kinh
HỰU VIẾT:
Xưa quán thị bất linh
Tâm sử kinh trì thế
Kim diệc hữu nhơn mưu kế
Minh tường Thánh Đế thừa ân
890. Chúc chúc thọ nhơn dân
Nhơn dân giai bất thọ (Thương hại ấy)
Thương hại thay trăm họ
Đường thượng thọ đều chê
Xóm xào nấu rất quê
895. Đều bê bê theo đó
Chẳng xét trong việc khó
Thêm mắt ngó tâm lầu
Sung sướng ấy bất sầu
Lạc tâm lầu xem đủ
900. Đền rũ nhau cả lũ.
Dùng nha phiến tửu tình
Bằng hữu thuận chí bình
Ở khác tình bất cố (Thầy ôi ! như tôi nay đây)
Thấy trái đạo lòng phiền ái ố
905. Hỉ nộ tình nan tố hiền lương (Thầy ôi ! như tôi là)
Ai lạc tâm giả dại nhà Thương (Thầy ôi !tôi e là)
Cang cường chí vương mang lưới thỏ
VẢN VIẾT: Lưới thỏ (Thầy ôi ! như tớ nguyện phen này là)
Bước khỏi vòng ngọn cỏ mới ngoan
910.Chốn ải quan giàu sang trối kẻ
Người trung thần không lẽ trời chôn
Dại cả môn thua khôn một gã
Kẻ suy thời nhồi nhã tã tơi
Ở đời như chỉ se lơi
915. Mới săn sớm sợi cũ rơi tơi mành
Chớ chê lũng liễu tầm lành
Rách mà khéo vá hơn lành vụng may
Gậy Kim Cang sư trưởng cầm tay
Bao giờ trở lại nơi đây trao lời
920. Nạn dân ách nước tận đời
Rồng bay đám lá tối trời buông câu
HỰU VIẾT: (Như tôi nay) Tâm phiền não bấy lâu
Lầu son đâu chưa thấy
Hồ Việt trước phân nhau chầy bấy
925. Tam thu dư chẳng thấy tin hồi
Thân tôi làm sao sóng dập gió dồi
Thất hạ đọa chưa rồi quả báo. (Như đời nay)
Người chê Phật rằng lời nói láo
E nỗi nay quần áo không lành. (Chứng mà người tưởng lại)
930. Nhắc nhở việc tu hành
Thân đã đành chí tử, ma !
(Như tôi nay)Nhớ tưỡng cựu tình ơn trí ngữ
Ai hoài thiên sử vỉ tử-quy, hà!
THÁN VIẾT:
Ta hồ nhựt nguyệt vỉ biệt ly
935.Hạn bán tam niên bi lụy ngọc
Trình tường lưỡng tộc ngọc tinh tri
Tỷ ngọ bất di điềm qui hiện
Phương viên ngũ diện ứng hiện tiền
Đáo tuế tân thiên huyền cơ hậu
940. Hà sầu chủng đậu đắc hậu ân
Vãng cựu lai tân thiên phân đoạn
Ta hồ sử loạn đoạn phân ly
HỰU VIẾT:
Thấy sự thế ai bi
Nhơn bất tri quá thảm
945. (Chư nhơn ôi !) Khổ thêm tới xem không chốn giảm
Bịnh mười phần thương thảm bảy phần
Chẳng ai lo thân nải lập thân
Chẳng ai tưởng nghĩa nhân rẳng trượng
Thấy chẳng kẻ thương ôi cung thượng
950. Thiệt ít người độ lượng nghĩa nhơn.
(Ý làm sao mà người) Chẳng lo bề phụng hiến kỳ thân
Ngõ lập hậu vi ân trở lại
VÃN VIẾT: (Thầy ôi ! như tôi là) Nhớ bắc nam dưỡng ơn tứ đại
Việc tu hành nào nại thủy chung
955. Thương thầy dạ nhớ lời trung
(Thầy ôi !) Tôi nào biết mặt tiên cung về rồi
No nao đức Phật phản hồi
(Phụ-hoàng ôi !) Bưng khuâng nhớ chúa dạng ngồi thuở xưa
Nỗi gió mưa nhớ xưa thắt thẻo
960. Vái Phật Trời độ nẽo đường truông
Lụy sầu nước mắt nhỏ tuôn
Biết là có đặng tròn vuông như lời
(Chư nhơn ôi !)Cách nhau có một chữ thời
Sang giàu trân trọng nghèo lời gay go (Huynh đệ ôi !)
965. Giàu nghèo chưa chắc đừng lo
Chí tâm niệm Phật Trời cho duyên lành
Chí dốc tu thời phải học hành
Cớ sao người bỏ việc lành chẳng lo
(Huynh đệ ôi !) Nỗi đói no khó lo rách rưới
970. Nắng lâu ngày mưa tưới mấy chung
Thương vì tuổi hạc huyên thung (7)
Làm trai thủ hiếu thất trung lỗi nghì
Chữ hiếu trung chẳng phải vị vì
Thiệt tình, tình thiệt bái quỳ cúc cung
HỰU VIẾT: (Như việc làm người ỡ đời nay)
975. Phải xét đến việc nịnh trung!
Giặc tứ tung mặc giặc, ma (Như tôi mà ở đời nay)
Gió phưởng phất non nam ủ mặt
Còn mưa lâm râm thắt ngặt nắng nồng
(Ai đi)Đạo vợ chồng lòng chẳng thuận lòng
980. (Ai đi) Niềm phụ tử đèo bòng nghịch nhỉ
VÃN VIẾT: Nghịch nhĩ (Như tôi nay là)
Cám thương đời ma quỷ đa đoan
Gió dào kẻ khóc người than
Tiểu khê kỷ dậu đại giang tới rồi
985. Vỉ xà thủ mả Tây hồi
Dê đi dưới đất khỉ ngồi trên non
Thứ nầy giấy mực chờ son
Còn hai thứ nửa trên non dưới đồng
(Huynh đệ ôi !)Khá rèn đinh sắt tấm lòng
990. Chờ cơn có chúa lên vồng ( giồng) ấm no
HỰU VIẾT: (Huynh đệ ôi!)
Sung sướng chi quốc loạn chẳng lo ?
(Huynh đệ ôi !) Mà hằng gọi ấm no lành quần áo
(Trong sách có chữ rằng) Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
(Ý làm sao mà người chẳng xem trong kinh sử, Thánh nhơn xưa ngài có để chữ)
995. Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì
Họa phước nhơn do cánh vấn thùy (Mà người)
Hằng dụng bạc chì tì đúc Phật
Trời Phật trước sở sanh nhơn vật (Ý làm sao)
Hà nhơn sanh Phật di kỳ !
1000. Cám thương kẻ biên thùy.
Bất tri kỳ sự chánh, ma (Như tôi mà lòng sầu nay là)
Từ lịnh phụ xe loan trở bánh
Khiến loạn ly bá tánh đảo quyền
Trâu thả lan nhiều kẻ trách Phiền
1005. Ngưu phùng hổ đáo miền lao lý, xong
VÃN VIẾT: Lao lý
Chí mẹo dần phật ký Hiền ra
Thân nầy người thị quỉ ma
Ví như bèo tấp mé nga bập bều
Thân nầy người thị rác rều
1010. Chẳng ai cám tưởng cái lều tranh hư
Dạ sầu phiền não ưu tư
Khi nầy bất túc hữu dư nhờ trời
Nói ra người chẳng nghe lời
Người thêm khiến lại chịu đời cắn răng
1015. Nỗi khó khăn cắn răng mà chịu
Dạ lo đời toan liệu thiên cơ
Gẫm mình tất bất tơ bơ
(Trời Phật ôi ! có hay đến nỗi nầy chăng ?)
Đạo lành nằm giữ ngẩn ngơ lòng người
1020. Khéo líu lo vượn hú thú cười.
Thon von đạo Phật nhiều người không tu
Thân nầy người thị rằng ngu
Lòng ai nấy biết khó tu đỡ chàng
Mây giăng khói tỏa mịt đàng
1025. Thương người tôi nói tỏ tàng chẳng nghe
Lưỡi câu liêm ruồng váng nhện tre
Thương người chỉ ngõ chẳng nghe tự tình
HỰU VIẾT: (Tôi nói thiệt mà)
Ai ai khá giữ mình
1030.Việc thình lình sấm dậy (Huynh đệ ôi !)
Việc tội nghiệp khó toan che đậy. (Còn như)
Việc phước tài ai nấy giành đâu ?
Họa phước nầy trời khiến cạn sâu.(Huynh đệ ôi !)
Nam mô Phật tới đâu hay đó
1035. VÃN VIẾT: Hay đó
Nước Ó-Rằn người có qua đây
Thương người nhiều thịt bỏ thây
Lòng không niệm Phật hỏi đây mấy lời
Ở đâu chẳng vái Phật Trời
1040. Bây giờ nói thiệt việc đời khổ đa
Trách mẹ cha ai la hồi đó ?
Đến bây giờ thấy khó kêu cha
Bậu đừng nhí nhảnh lảnh la
E sau để lỗ (8) đôi ba năm trường
HỰU VIẾT: (Cơn vắng vẻ nay)
1045. Mà người chẳng hỏi thăm đường
E hậu nhựt khó tường nẻo bước
(Cơn bịt bòng này) Thấy hiền ngõ a dua lấn lướt
Chẳng lo sau xét trước mà nhờ.(Người thấy tôi)
Hình dạng dại khờ (Người e)
1050. Hậu nhựt khó nhờ
Cho nên người chẳng tưởng (đó ma !)
Cao vọi vọi kìa ơn sư trưởng (Còn)
Rộng thinh thinh cám tưởng càn khôn
Hội tề tiên đồng đẳng nhứt môn (Thầy ôi !)
1055. Đạo vi tử vi tôn tận ý
VÃN VIẾT: Tận ý
Cám thương trường khảo trí thức tâm
Học hành tính đã bảy năm
Trường an vô tự giáo tâm thi tài
Đố ai lập đặng sách ngoài ?
1060. Văn thơ trí tuệ phép tài đậu câu
Xem rồi mắt thấy đâu đâu
Thiên cơ liễu đắc cạn sâu mới rằng
Cuộc nào mặt đất trải bằng
Nước còn xao xiếng người rằng tôi ngây.(Huynh đệ ôi ! như tôi)
1065.Hình dạng đây mắt ngó bên Tây
Liếc xem Tào Tháo bị vây lâu ngày (Huynh đệ ôi !)
Rồi đây ngó thấy Ông Thầy
Ra nơi chiến địa xữ rày muôn binh
HỰU VIẾT: (Như tôi nay)
Chơn bước ván hầm hinh
1070.Miệng niệm kinh trừ quỉ
Nam mô Phật thường hành tịnh thủy
Úm ma hà khử quỉ tiêu tà
Cầu sanh lai phước thọ nhà nhà
Đồng minh tánh thượng hòa hạ lục
1075. Chớ mê muội noi theo ngu ngục
Nương tràng phang tị tục bớ người
Bửu Cái đây hớn hở vui cười
Qui cõi thọ số mười đề hiệu
Tội chư quốc dấy loàn vạn triệu
1080. Thị sát nhơn nan liệu tội thâm
Phạm luật hình nhơn bất tu tâm.(Tôi nói thiệt)
Sát nhơn thị ngàn năm tu không hết tội
Đường oan trái trả ba bảy bội.(Người)
Mê tục trần bất thức tội nan. (Cho nên)
1085. Chẳng thấy người lòng thở dạ than. (Há rằng dể a !)
Nói ngang lòng toan nói dọc
Chớ chớ âm thầm tra mưu độc
Đừng đừng toan ngang dọc học rằng ngoan.(Như tôi nay là)
Tâm tích hiền tầm chốn hiển vang
1090.Đường danh lợi dọc ngang trối kẻ (Cha chả !)
Sức bấy giỏi cho bằng Tào phạt Hớn
(Còn như người chưng mặt lớn nay)
Lớn cho bằng nhà Ngô cầu hôn sát Hớn
(Á, lớn làm chi kìa).Huynh đệ đoạn phân lìa
1095. Chỉ thị ngu si chưởng khoái
Thủ túc đoạn tình bất ái.(Mã người)
Người chẳng e sự quấy chê rằng
Dạ quyết đoạn xích thằng giấu mối, xong
VÃN VIẾT: Giấu mối
Tấm lòng người bối rối như tơ
1100.Của tiền bất phải vất vơ
Chẳng dùng nhơn nghĩa như tơ lộn guồng
Lao xao dưới biển trên nguồn
Cù lao sụp hết ghe xuồng vắng sông
Saigon trở lại lập công
1105.Đất đồng còn đặc hóa sông bây giờ.(Huynh đệ ôi !)
Mãn tứ nên Trời Phật thượng cờ
Thanh Long Mỹ diệu tới bờ bước lên
HỰU VIẾT
Chẳng xét việc hư nên
Khó ngồi trên thiên hạ
1110. Từ thuở Láng Linh khởi họa
(Mới) Khiến nên tấc dạ hao mòn
VÃN VIẾT
Dân xưa như thể gỗ tròn
Dân nay bát giác dạ còn lục lăng
Khó xít-xăng trông ăn phần thịt
1115. Nhảy tưng bừng đấm đít xây lưng
Sự đời thấy dửng dừng dưng
Chẳng thương trước mặt sau lưng kể gì !
Hổ long quì bất tùy bay bổng
Cửa Thiên đường trống lỏng khó vô
1120. Tử từ lỗ miệng nam mô
Phật Trời ngồi đó phơi khô mấy ngày
Khổ hội nầy vái Thầy cứu độ
Trái cái lòng trước ngộ sau ly
HỰU VIẾT: (Như tôi nay)
Mới biết rằng tiền vị hậu khi
1125. Thời vận khiến bất tôn ti thương hạ
Bải hoải ngậm ngùi trong dạ
Ngã vu nga mục đọa Hạ Bì (9)
Nhơn lưỡng tâm nay nghịch mai tùy
Người lưỡng cốt nay bì mai nhục
1130.Chớ bán lụa đầu hồi bất phục
Chế đồng vàng tứ lục còn cao
Nhận thủy xoàng hai mắt như sao
Ngồi hai nạng thấp cao xem thấy hà
OÁN VIẾT:
Dạ sầu vì giấy bán mấy đồng
1135. Thắt thẻo năm canh lạnh tấm lòng.(Thầy ôi !)
Thọ nạn non đống lòng thọ nạn
Trong đồng khởi loạn nhạn kêu sương.(Thầy ôi !)
Thảm thảm thương thương đương dương đạo.(Vậy chớ)
Hàm oan oán bạo cạo đầu sài
1140. Tôi tớ ăn mày đều cạo trọc
Nhị triêu ngang dọc độc tâm nan
HỰU VIẾT:
Bất dụ tất tà gian
Lòng thở than đời cạn
Đoái nhìn thấy nhơn dân đại nạn
1145. Phong trần đà khởi loạn tứ phương.(Nhơn dân ôi !)
Dân lỡ bề thọ hại tử ương
Đường oan trái mạt Thương mới biết (Chư nhơn ôi !)
Nước bối rối giả câm làm điếc
Dầu tài năng chẳng biết dể hơn(Huynh đệ ôi !)
1150. Chưa phải thời ra mặt cao sơn (Mà)
Người làm cúng tiếu vô ơn thọ tử
Trên Trời Phật chưa tờ chỉ sử
Dưới chúng dân tích cử xuất binh
Mặc thế tình vinh nhục loạn ninh
1155. Nào nào biết Trần binh hà đạo ?
Tôi tưởng chúa lo đền cơm gạo (Chư huynh ôi !)
Tớ tưởng Thầy giữ đạo trọn ân (Chư nhơn ôi !)
Chư nhơn đừng ngỗ nghịch vu thân(Chư nhơn ôi !)
Vậy mới gọi lập thân hành đạo
VÃN VIẾT: hành đạo
1160. Cám thương người nghịch bạo mạng vong
Tới đời vỡ ổ chòm ong
Khi không mình lại mang rong lao tù
Kẻ hiển vinh lên võng xuống dù
Nhện giăng trước mặt mịt mù thấy đâu
1165. Phước bao sâu họa cũng bao sâu
Làm người sao chẳng lo âu nước nghèo
Chúa lỡ cơ lên đèo quá hải
Nước nghiêng nghèo người phải lo âu
Thương thầm cá ẩn bực sâu
1170. Chim bay ngàn dậm thấy đâu chùa chiền.
Chốn võ môn tam cấp chiêu hiền
Long Cu (10) cỡi đặng gởi phiền non sông
Lẽ nào biệt tích biệt tông
Mà người chẳng vái bà ông cứu đời
1175. Dạ thở than vái Phật cầu Trời
Dân như cá cạn khó đời dân ôi !
Nực cười ai chẳng thương tôi
Thân nầy khác thể bí bôi xấu màu
HỰU VIẾT:
Cách địa tịch ưu sầu
1180. Xem bất cầu hiền sĩ
Thấy ít kẻ bồi thiềng (thành) đắp lũy
Nhìn không ai lập kỷ Trần Cang
Cám thương đời nay hiệp mai tan
Đò tạo hóa thở than đà chích bánh
VÃN VIẾT: Chích bánh
1185. Xem ít người vi cánh Đường bang (Thầy ôi)
Kẻ giàu sang khó than đạo lý
Xem ít người hiệp ý đồng tâm
Bảy ngày sau hiệp mười lăm
Đạo làm tôi tớ thiển thâm nhờ Thầy
1190. Nỗi tớ nay như kẻ ăn mày
Nay tan mai hiệp nhờ Thầy khiến xui. (Thầy ôi !)
Dạ Thầy vui đệ tử cũng vui
Thầy buồn tệ tử cũng xuôi lòng buồn
Nổi xuân ai nam bắc thơ tuồng
1195.Thầy vui dầu tớ lòng buồn cũng vui. (Thầy ôi !)
Kẻ săn chồn dặm tới bước lui. (Huynh đệ ôi !)
Chó vầy sủa bóng nai xuôi vào rừng. (Chư huynh ôi !)
Chắt lưỡi ôi ! đôi mắt ngó chừng
Kìa kìa mé biển chưn rừng lao xao
HỰU VIẾT:
1200.Kiểng buồn vui bích lịch nghêu ngao
Nay thoại chí thấp cao vui vẽ
Lần lần kể từ năm chẳng lẽ
Ai ngay gian có Thẻ ngăn đường.(Như tôi nay)
Vái Nam bang vỉnh viển miên trường
1205. Cầu Hớn thất Minh đường kiến thọ
Trai thơ thớ ứng tường Tý Ngọ
Gái đường đường hai họ hòa duyên (ấy làm vậy)
Mặc tình ta hòa ý Tây phiên. (còn như bổn phận người)
Khá giữ chí căn duyên phiền túc. (Huynh đệ ôi !)
1210.Máy tan hiệp hư nên có lúc
Đến ngày nay Trời Phật khiến
Lòng ta hạ bút đề thơ.(Chị em ôi !)
Khá rèn lòng đừng dạ lẳng lơ
Nhỉ văn đọc tri cơ trào chánh. (Chị em ôi ! như tôi)
1215. Từ ngó chiếu kiến tường Phật Thánh
Phật hiện tâm minh tánh nan cầu.(Chị em ôi !)
Vui nỗi chi mà trong dạ không sầu?(Huynh đệ ôi !)
Trời Phật nỡ cầu người chẳng tưởng
LOẠN VIẾT:
Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn. (11) (Chị em ôi !)
1220. Thân khá thủ thân ân oán ác (12)
(Tôi dám khuyên cùng anh em, chị em khá niệm Phật)
Nam mô Bồ Tát ác chi tiêu
Khổ khổ tiêu tiêu phiêu phiêu tận
Bất lưu oán hận tận tình hung.(Huynh đệ ôi !)
1225. Thủ hiếu thủ trung hung bất nhập
Côn đồ cổn ( hỗn ?) chiến bất cập vong
VẢN VIẾT:
Dạ nguyền khẩn bái thầy Ông
Bao giờ cá đặng hóa long an hòa
Rán lòng tin tưởng Ông Bà
1230. Lều tranh có đạo hơn tòa ngói tô
Miệng niệm nam mô nuốt vô có Phật
Nhổ ra rồi chư tật còn y
Muốn quy y nài chi gai gốc
Muốn học hành dục tốc bất thông
1235. Kẻ có công gai chông lần bước
Mai sau dầu gặp phước làm nên
Của tiền chất để đôi bên
Một lòng thờ Chúa dưới trên có phần
Trách ai dạ chẳng ân cần
1240. Vùa hương bát nước ân cần báu châu
HỰU VIẾT:
(Như tôi nay) Cá mắc cạn ẩn hang sâu
Người ở đâu mà ngó thấy
Từ thuở phụ tồn thiểu giấy
Trời khiến nên ngó thấy đường dài
1245. Thậm trách bấy hớn hài
Sau ở ngoài gay gắt
VẢN VIẾT:
Nẻo sanh tử mau dường nháy mắt
Câu bại thành gẫm ắt nào xa
Phật bước ra tà ma áp bắt.(Huynh đệ ôi)
1250. Gẫm sự đời gay gắt nhiều phen.
Kẻ ghét ghen đua chen khôn dại
Việc tu hành nói lại đôi co
Dạ sầu lụng đói phát no
Thương trần dạ chẳng âu lo thân hình
1255. Vui chi ca miểu hát đình ?
Trời ra tiếng sấm giựt mình quên tên
Phật Trời phưởng phất một bên.(Chị em ôi !)
Vái van khẫn nguyện gặp nên mà nhờ
HỰU VIẾT:
(Như tôi nay)Tai hằng nghe chư quốc sanh cờ
1260. Tài phép lạ một giờ thâu hết
Tử vô số hồn oan theo kết
Nay anh hùng sau hết tài năng. (Huynh đệ ôi !)
Hai đoạn nầy day trở khó khăn.(Thầy ôi)
Biết bao thuở tài năng trợ thế
1265. VÃN VIẾT: Trợ thế, (Thầy ôi !)
Cám thương vì phế đế cùng tu (Trung tình ôi)
Bốn mùa xuân hạ thu đông
Nguyện cầu biển Thánh rừng nhu đỏ đèn(Thầy ôi !)
Nổi gian nan tớ chịu khó hèn
1270. Phật trời chứng chiếu ngọn đèn tinh minh
(Trung tinh ôi !)Việc sử kinh tâm linh ký tự
Hạ bút thấn ghi sự cổ kim
Dậm hòe dầu thỏ đường chim
Ai tường sự cổ sự kim đổi dời
1275. Ngặt tình kêu Phật kêu Trời
Thương thương xót xót nạn đời mới kêu
Ở đời nhiều kẻ trớ trêu
Phật Trời chẳng dễ người kêu liền hoài
Biết sao có phép có tài ?
1280. Ra nơi quan ải hỏi vài tội tham
HỰU VIẾT:
(Ý làm sao)Kẻ không tội bắt giam ?
Còn người gian tham khỏi hại ?
Người khiến nhiều lẽ Nam kỳ tồn bại (Ý người muốn)
Tuyệt kỳ hang sát hại quân thần(Tôi nói thiệt)
1285. Đường tử sanh tôi nguyện có Thánh Thần
Nẻo vinh nhục cơ bần tại lịnh
Kế Gia-cát để dành Gia định
Mưu Tử Trình hiệp lịnh tân quân(Như tôi nay là)
Đải hậu nhựt huờn xuân
1290. Nhơn bất tuân bất dục
LOẠN VIẾT:
Yếu lộ mưu thâm ân binh phục
Cổ thiền sỉ nhục phục trào tân
Kim cổ xử phân bân mãn đọa
Hai ngôi thọ họa hạ Tây trào
VẢN VIẾT:
1295.Lều tranh chẳng kẻ ra vào
Tai nghe phường phố ào ào như giông
Thứ nầy hành đắc hóa long
Ngộ kỳ ngư thủy vi phong hội nầy
Gió day bát hướng lâu ngày
1300.Bâng khuâng tưởng Phật nhớ Thầy đòi cơn.
Vận nghèo ai chẳng phi ơn
Của Trời Phật để Thất sơn thiếu gì
Gian nan ít kẻ bù chì
Mũ ni áo bả nương tùy nhà Thương
1305.Rày mừng quốc thới dân khương
Trên quan sửa trị dưới lương dân tùng
Trải gan vàng ngọc anh hùng
Trên Vua nhơn đức dưới dùng lâm tôi
Ngai vàng vững đạt báu ngôi
1310. Trên Vua khai rạng dưới tôi trung thần.
CHUNG
Nam mô A Di Đà Phật
Chép rồi ngày : 19 - 3 – Đinh Hợi
____
CHÚ THÍCH
(1). miên viễn: dài lâu.
(2). kình, nghê, sủ, vược: tên các loại cá biển.
(3). Nhựt nguyệt song khai : mặt trăng, mặt trời đều mọc, đều tỏa sáng
(4). Nam linh nữ thính: Ngày xưa khi người nhà nằm xuống, người ta đề vào minh tinh tên họ, hiệu người chết, trong đó nam thì ghi là linh, còn nữ ghi là thính. Nguyễn Đình Chiểu khóc Phan Thanh Giản có câu:
- Minh tinh chín chữ lòng son tạc,
- Trời đất từ rày mặc gió thu.
(5).Văn Công: sách Văn Công Gia Lễ là sách quy định về tang chế,lễ lạc trong gia đình.
(6). Ông Bướm và Ông Vôi người Khmer tu tại núi Cấm.
(6). Ông Bướm và Ông Vôi người Khmer tu tại núi Cấm.
(7). Thung huyên 椿 萱:Thung: cây thung, đúng ra phải đọc là Xuân: cây xuân, nhưng thường đọc lầm là Thung nên quen. Cây Thung hay cây Xuân là loại cây to sống lâu năm, nên được ví với người cha vì con cái muốn cho cha sống lâu. Huyên là cỏ huyên, chỉ người mẹ. (Xem: Huyên đường) Thung đường là nhà thung, chỉ người cha. Huyên đường là nhà huyên, chỉ người mẹ. Thung huyên là chỉ cha mẹ.
No comments:
Post a Comment