TIỀN GIANG 8
tr.256- cột 123
5113. Nam-bang tứ hướng đánh dồn
Phật Trời soi xét sự tồn sự vong
5115. Tuy là nói chuyện vân phong
Cãi Trời cải Phật không xong người nào
Ham chi ăn nói hùng hào
Những lời phải quấy không vào lỗ tai
Phật Trời nào có ép ai
5120.Ngặt mình muốn chết không tay ớt gừng
Người không biết khó vô chừng
Nói phải người cãi nói rừng điếc tai
Không nghe ai cũng như ai
Nói một người muốn nói hai cho nhiều
5125.Việc đời xem lỡ mai chiều
Ở đây ngồi chịu nói nhiều mệt thân
Nghĩ đời khó nỗi làm ân
Nói phải không dụng biết phân chỗ nào
Biết nghe lời phải đem vào
5130.Vô mưu vô trí ào ào gọi vinh
Coi tôi như quỉ như tinh
Dầu cho nói việc chánh minh cũng đừa (thừa?)
Nói phải người cũng không vừa
Người dùng việc quấy người đùa việc ngay
5135.Tôi khó tôi ngó phương tây
Thương người việc khó cãi đây khó ngồi
Quấy phải tôi cũng biết rồi
Lựa là Trời Phật phản hồi xử phân
Nhơn tùng Phật thị nhơn ân
5140.Hà nhơn xử Phật khó thân từ ngày.
Nhơn gian ai biết việc nầy
Phận đời điều đủ kinh rày tiên sanh
Tôi e lòng dạ hôi tanh
Anh em hữu trí khôn lanh nói nhầm
5145.Dầu xa vạn lý tôi tầm
Tôi xem như ngọc dạ cầm vàng thoi
Trầm tóc để đó mà coi
Mắt ôi là mắt hay thoi chiếu đời
Nghĩ thôi mắc cỡ cho lời
5150..Nói ra người trí cải lời từ đây.
Cuộc đời người dở mà hay
Người hay mà dở thương nay cho đời
Người ham nói đặng nhiều lời
Có mắt không thấy Phật Trời ở đâu
tr.256- cột 124
5155. Không thấy bất ý dò sâu
Nói ra người phủi biết đâu mà tường
Người nghe dắt nẻo chỉ đường
Chẳng nghe để kẻ ở vườn làm ăn
Nói chi mỏi miệng động răng
5160.Phật Trời không hiểm tại căn người phàm
Giác thế thiệt mỏi hai hàm
Giác hoài e thế nghe nhàm lỗ tai
Khổ tai cải sự lỗ tai
Thị phi bất quí kim lai vị hà
5165. Lập chánh tri chánh cải tà
Qui tà phế chánh nhơn hà phi nhơn
Phế tà lập chánh lập ân
Lập tà khỏi lượng khỏi phân chi vầy
Nói cạn từ đêm từ ngày
5170. Mà người chẳng tỏ việc nầy khó chua
Vật ngon bán rẻ không mua
Của hôi bán mắt người chua xót lòng
Người trở sao quá bánh phòng
Biết sao tôi ở cho vừa lòng ai
5175. Ghe bể nhờ có dầu chai
Người bể thấy việc hại tay trét người
Nỗi nầy lỡ khóc lỡ cười
Lỡ ma lỡ Phật lỡ người thế gian
Lỡ xuôi lòng cũng lỡ ngang
5180. Lỡ mừng lỡ giận lỡ than cuộc đời
Vi nhơn bất quí vận thời
Ngó trước người nói không lời sau lưng
Ở đời ai khỏi lỡ chưn
E khi lỡ bước sau lưng sợ khờ
5185. Con nên cha mẹ đặng nhờ
Con hư e hậu bàn thờ vắng hoe
Nói sách thời sách muốn nghe,
Sách nghe nghe sách trong que trong lòng
Lập kinh kinh lập bao đồng
5190. Nghe kinh ngoài miệng trong lòng không kinh
Phật minh người ở bất minh
Làm sao Phật độ tâm linh cho mình
Thiên minh nhơn thế bất tình
Làm sao Trời độ lòng mình thông minh
5195. Nhơn minh Trời Phật hứa linh
Hứa tình trị huệ thông minh soi đời
tr. 257- cột 125
Người dữ bất độ sửa lời
Người hiền phải lánh ở đời trí mưu
Tị hung tị bạo bất ưu
5200. Quí xà quí yết quí mưu vận thời.
Thiện tâm niệm Phật vái Trời
Thiên tai vạn họa nhứt thời vi tiêu
Kiến hiền như kiến Thuấn Nghiêu
Kiến ác như kiến dữ yêu sát hình
5205. Kiến hiền như tựa Thiên đình
Kiến ác như tựa Diêm đình xử tra
Kiến hiền như tựa cung nga
Kiến ác như tựa Diêm-la hành hình
Có phân mới biết loạn bình
5210.Phân ra nhiều kẻ ghét mình chẳng thương
Nhiều trao loạn trí mạt vương
Tôi nay trí hậu mạt thương phản thần
Ác vương ác sự ác trần
Thiện vương thiện sự thiện thần thiện dân
5215.Tam ngu sự thế nan phân
Thiền hiền tấn tước trị dân an hòa
Lập đời hậu thế an nhà
Nước ai nấy ở bất hòa lập gia
Phật cho buôn bán trải qua
5220. Chung cùng lập thất lập gia bất hòa
Loạn cư loạn chí nước nhà
Loạn dâm loạn dục bất hòa nhơn dân
Vị tình vị sự qui tân
Khuyên tình cựu thế vị phân tâm phiền
5225.Hạ ngươn bất thọ giáo truyền
Thơ qua giản lại người phiền nói ngây
Văn chương thượng trí người hay
Nôm na dốt nát dạy ngây khó rày
Ai từng hay dạy dở bày
5230.Văn chương thượng đặt rày hay hơn
Việc khó thấy cũng có cơn,
Việc dễ thấy cũng dễ hơn bây giờ
Hai đạo lập lại một thờ
Cũng như một đạo bây giờ hai căn
5235.Nhơn lập đạo luật tài năng
Có ai biết việc khó khăn nước nhà
Đời nầy chánh cũng như tà
Tà thời như chánh khó hòa khó an
257- 126
Quốc vi nan dân bất an
5240.Xét ra nhiều lẽ loạn bang bất hòa
Tôn sư bàn luận việc nhà
Còn lo một nỗi trẻ già chưa an
Thầy xem sự thế đa đoan
Nhìn tường tống thất kỳ an hầu gần
5245.Giúp cho một đạo phù thần
Uống vào khỏe mạnh Hớn-Tần nhứt thân
Lâm đền đại đạo quân ân
Chí lâm bắn nhạn lập thân công hầu
Lòng nghe trống giục nam lầu
5550.Đêm khuya chúc thánh vọng cầu quốc gia.
Chữ thời khác nước nhờ cha
Khô môi rát cổ nhờ xa độ gần
Đội ơn thánh chúa chư thần
Giúp cơn nguy biến cơ bần quốc gia
5555.Ba cõi ăn nói vừa ba
Cõi trần mắc đọa ngâm nga thơ bài
Phật chưa cho việc phép tài
Phật còn hành quả nằm dài thở ra
Chúc Thánh chúc thọ trào ca
5560.Thái-bình Thiên-tử quốc gia thạnh thời
Chúc an dân thứ thuận thời
Nơi nơi lạc nghiệp thạnh thời quốc gia
Nam thanh nữ tú vào ra
Nhứt tâm cầu Phật quốc gia lâu dài
5565. Giao Quì phục nghiệp đại tài
Phụng-Kiều Lý-Đán hớn hài vạn niên
Đặt cầu các bổn hội Tiên
5568. Chúc lai hoàng-tử thọ niên đời đời
oOo
Trải gan son nói chẳng tuân lời
5570.Dồi dạ ngọc xem đời ngơ ngẩn
Lập ngoại ý chơn thơ phong cẩn
Chi bất vi lẫn hồi sơ
Giải tám sầu hạ bút đề thơ
Trình bá đạo thiên cơ vị liễu
5575.Khuyên bá đạo minh tinh lập biểu
Cho nhơn dân vị liểu tường tri
Chí bần nhơn tồn tích ngu si
Khuyên thượng trí tâm tri giáo hửu
258- 127
Tuy thọ giáo tu trì linh bửu
5580. Chí cuồng phu ăn ngủ bất tường
Tôi e là lạc đạo vị thường
Tâm nan biện bất tường đạo lý
Tâm dục đắt bá nhơn hiệp ý
Nghị cổ kim minh lý đạo mầu
5585.Người nở vui mà để tôi sầu
Biển Thánh đạo dạ cầu lâm sỉ
Tôi e thuở bất tề vận bỉ
Tác loan tâm chẳng nghĩ buổi đầu
Lo là lo cận địa chư hầu
5590.Trách là trách vô đầu vô vị
Lòng thảm thiết tưởng niềm anh chị
Thuở an gia bình trị tới lui
Nào hay đâu nhơn đạo tối đui
Nghĩ mắc cở người lui kẻ tới
5595.Ơn báo oán nhiều người chưởi bới
Oán báo ơn Hưng-Thới tề bang
Mèo trong nhà bươi bếp tan hoang
Trâu ngoài ngỏ quật tan rừng cỏ
Tối đốt đèn nhà ai nấy tỏ
5600. Vách không tai nghe rõ nhiều khi
Thuở bình thời ai rủ người đi
Cơn hoạn họa dể khi thậm ngặt
Con một nhà lòng nào sanh giặc
Con mắt tinh thậm ngặt nam mô
5605. Có đời nào niệm Phật Gia-tô
Tâm bất tính nam mô hại Phật
Sợ là sợ nhiều loài súc vật
E là e niệm Phật phản tâm
Giái cuồn tình loạn cú ca ngâm
5610.Khuyên anh chị thiệt tâm chớ chấp
Làm sao mất tiếng đời Long-ấp
Việc chánh tà chớ chấp cuồng nhơn
Mặc thế tình ai biết thời phân
Tôi há dễ vong ân bất biện
5615. Sự hư thiệt tận tình sử truyện
Người ở đời dục biện nan tai
Phải dung tình quốc truyện thơ lai
Trời Phật tấm hườn trai tráng kiện
Khuyên nam nữ gắng lòng tích thiện
5620. Việc có không hậu biện bất tri
258- 128
Chớ đem lòng thấy dễ mà khi
Tôi thiệt đứa ngu si cơn loạn
Đêm thảm thiết đoạn trường trường đoạn
Ngày xốn xang ngủ tạng đê mê
5625. Lụy đầm đầm mối đạo người chê
Thảm mịch mịch phu thê bất thuận
Cám là cám Phật cho nghị luận
Lo là lo thiên địa tuần hườn
Lụy nhỏ tuôn hờn chửa trả hờn
5630. Ủ mặt ngọc giây đờn giữa đứt
Sự bất chánh tức ôm lòng tức
Nghĩa hồi sanh thậm ức chưa đền
Trung quân vương nhơn nghĩa cho bền
Hiếu phụ mẫu lâm đền Dưỡng dục
5635.Cõi trần thế dạ mông lánh tục
Nước chưa trong còn đục ngán ngầm
Thấy nịnh thần bụng giận gan bầm
Thương trung hiếu đêm nằm không ngủ
Trách Hồ nhung đem lòng phản chủ
5640. Hưởng lộc vua tụ ngũ tùng tam
Xẻ phản thần sanh dạ gian tham
Loài phản quốc dạ đam khuấy rối
Dận thần thông trừ loài phản bối
Khuyên chúng dân thần tối thiện gia
5645. Kẻo mắc đường ác thú loạn ra
Thời thậm khổ vạn gia nan biện
Chùa Công phủ Long Châu đại điện
Cho nhơn dân phương tiện tu trì
Chỗ đó sau hữu Phật chứng vì
5650. Chùa Phật lập biên thùy đóa (đáo?) tọa
Tồn Long-ấp lập tiền vỉ hạ
Ngoài lẻ dân tai họa xiết bao
Đêm nguyệt thanh bắt mạch xem sao
Thời Hưng-Thới tận lao chí mỹ
5655. Thuyết mấy khoản khuyên người suy nghĩ
Dạ chí tâm lập kỷ trần cang
Vận bất tề bị đảng hung hoang
Thời bất đạt còn mang nạn cả
Chốn dương thế Phật còn hành quả
5660.Nợ tiền căn nay trả gần rồi
Tâm bất an Phật chửa định hồi
Đường sanh tử chưa rồi hai lẽ
259- 129
Ngăn tiền lộ mộc bài ông Thẻ
Trấn tứ phương đủ lẽ muôn binh
5665. Trời giúp đường hai cử khương ninh
Phật độ chí muôn binh trợ lực
Vọng Tiền giảng độ người trung thực
Hậu-giảng binh trợ lực trào ca
Chúc Nam-kỳ hưởng thọ quốc gia
5670. Nguyện Thiên tử trào ca vững đặt
oOo
Đồng nai xứ quảng nam phát khách
Tuy tân hinh ký Đức chúa Trời
Tha tội chúng tôi Nam-mô A di-đà Phật
Nam mô Phật
5675. Nam mô Quan-thế-âm bồ-tát ma ha tát
Quan âm kinh táng …….
(đọc12 câu nguyện Phật bà)
Trong kinh phổ môn
oOo
do người chú giải đánh số thứ tự cho dễ sưu tầm.
tr.259-269
Bài 1
Thậm trách thi
Trách lòng bá tánh trẻ cùng già
Vui say theo thuở bỏ đạo nhà
Đất Nam-kỳ không tưởng ông bà
Tây phiên quốc dục hoà mưu trí
Chức hội đồng lập túng a ỷ
Viển trường an ứng thí vô nhân
Nghĩa quân thần hà hữu phi ân
Trách bá tánh vô phân tà chánh
oOo
Bài 2
Mỹ-trà Cao-lảnh thi
Mỹ-trà đương Cao lãnh thị thiền
Phi lai tự vong tiền phế hậu
Trường thứ nhứt thiên cơ bất lậu
Hội nhị chung kế hậu vị phùng
Nương An-lương thọ giáo tam tùng
Ngụ Thạnh-mỹ khương hùng tứ đức
130
oOo
Bài 3
Đổng lộ ngỗ nghịch thi
Đông lộ tân trào lòng bát cải
Tây-phương yểm cựu đậy mà bày
Ông cha xưa thọ giáo với thầy
Con cháu nay học rày các chú
Đoái thấy búa tay vầy cả lũ
Trực nhìn dao bảy đủ mặt rày
Đông-lộ kim trào mầy quen thú
Tây-phương cổ tự tứ phùng xuân
oOo
Bài 4
Cảng - lộ - thi
Đường kinh nầy bạc tiền bá tánh
Khai Đông-dương qui chánh Tây-phương
Thạnh-mỹ-tây hương chức lòng thương
Làm đơn bẩm Tây dương tỏ cáo
Bổn đạo cựu tưởng niềm cơm áo
Xây rọ mành đốn gáo lấp đường
Cửa mộc bài ngăn kẻ viễn phương
Thâu đường nước trợ đương thậm khổ
Người vi thiện lo đền thuỷ thổ
Phải đi buôn lo việc lỗ lời
Nhẫn nhẫn tâm niệm Phật vái Trời
Đống ít cắt mua lời nặng nhẹ
oOo
Bài 5
Đất khẩn-Bạc đạp thi
Đất Láng-linh thấy kẻ vô tình
Rừng bốn phía rộng thìn nào thiếu
Khẩn mười mẫu lập chùa thủ hiếu
Lúc Trần-trào đàm tiếu khó lòng
Dối nông phu câu lọp ở đồng
Phát linh Bửu độ lòng bá tánh
Bổn đạo cựu như hùm thêm cánh
Xưng chủ điền bánh tánh đều hay
Đất giữa đồng Phật chửa phân giây
Đòi bạc lớn hai cây bán đứt
tr.260- 131
oOo
Bài 6
Hương-chức Nhản-nhục thi
Thạnh-mỹ tây hương nhơn khác lạ
Cựu trào quan vỉ tọa vi hương
Như chức nầy cám tổng An-lương
Bưồm gặp gió phải nương theo buổi
Lòng niệm Phật đêm nằm nghĩ tủi
Bắc-kinh dương lụy thảm chuỗi sầu
Tại vì ai sớm dứt Nam-lầu
Tình cựu nghĩa vọng cầu Đại-Đế
oOo
Bài 7
Long châu ấp Ngỗ nghịch thi
Long-châu-ấp phản ngôn nghịch nhĩ
Miểu bà xưa lập Kỷ-trần-cang
Phế cựu hương đi học làm làng
Chùa ẩn tích lập trường công sỡ
oOo
Bài 8
Vô nghì thi
Tai nghe lóng đào hồ lấy cá
Khen cho người vác đá lấp hang
Đồn Bảy Thưa tiền định hậu an
Đất Tây thục hiển vạng bá tánh
oOo
Bài 9
Bát cú thi
Phật Tây-phương viễn trường đông chấn
Thiên nan ly bắc khảm cấn dần
Cựu trào đô tiền phế quân thần
Tần-Hớn bảo hậu Trần – gia – Nghị
Án tòa trung châu đương Bửu vị
Kế thiên đường Sơn – trị bình an
Phước nghĩa nhân tam thế hiển vang
Hưởng thánh thọ gia quan tấn tước
132
Bài 10
Bát cú thi
Đất tịnh - độ Cô - thiềng vạn vọng
Đải chiếu truyền qua giáp động binh
Quân xử thần tri thức trung tinh
Phụ xử tử nhục vinh phải chịu
Ngô chánh thị đầu tàu đề hiệu
Tàu phản ngô tội mấy triệu rày
Có lời ghi Nam-Việt mắc đày
Tội phản chúa tội nầy phải xử
oOo
Bài 11
Phân biệt Thạnh-mỷ-tây thi
Tiền Mỹ-tây sình trấp thảm sầu
Hậu Hưng - Thới qua cầu đông độ
Long – châu ấp nhiều người theo mộ
Lục tỉnh hiền Phật độ qui lai
Đất Thuấn xuân hưởng đặng lâu dài
Trời Nghiêu lập trong ngoài tam tế
oOo
Bài 12
Bát cú thi
Bà con mặt tấm lòng sau lạ
Mặt người dưng sau dạ bà con
Hay là thề biển cạn non mòn
Cho nên mới mỏi lòng son sắt
Thời bất đạt tôi Nam chúa Bắc
Nghĩa cựu ơn đi tắc vìa quanh
Tôi trung thần bền chí rạng danh
Thời mới thấy đông tranh tây tịnh
oOo
Bài 13
Thập cú thi
Ổi non chát chín thơm sao dại
Thơm non chưa chín lại không thơm
Đất trong doi ít kẻ quảy đơm
Ngoài sông rạch nhiều người đơm cúng
Mùa năm tới đâu đâu cũng trúng
Người người đều ai cũng túng xây
Trâu không chuồng thả lội một giây
Nhà thời có không ngay người ở
Chó nhịn đói nằm co quên thở
Heo ngoài chuồng bao nở ăn no
Mặt thế tình sợ đói đi lo
Lắm thế sự hết no rồi đói
oOo
Bài 14
Lục cú thi
Trâu ruộng mãn đời người trâu ruộng
Gian tham hết kiếp kẻ gian tham
Kinh sử đỏ lời không đem dạ
Của tiền khó giữ người lạ ăn
Bất như tích đức qui căn bổn
Trí huệ thông minh bổn độn sơ
oOo
Bài 15
Bát cú thi
Phật ở bên Tàu Trời ở bên Tây
Để cho tôi nằm ở đây mà chịu
Phật ở xa ma quỉ ở gần
Trời đâu có cõi trần mà thấy
Tàu sao biết tới ngày gởi giấy
Tân Hớn – Trào chầy bấy ra oai
Tích thiện tâm thiện tứ hậu lai
Nương đức Phật kim giai trường thọ
oOo
Bài 16
Nhứt sỉ anh hùng tận
Song thiên nhựt nguyệt khai
Phá điền thiên tử xuất
Trên cha giốc tóm thâu nam bắc
Dưới con nguyền xã tác bảo yên
Trời hỡi còn gởi họa cho Phiên
Phật lại độ phải yên mới đặng
oOo
261- 134
Bài 17
Bác cú thi
Án châu-đốc tiền thù gởi đó
Đồn Hưng-trung công khó chẳng lâu
Cuộc Trời xui cha bắc mẹ sầu
Đất khiến nổi Nam lầu Tây tự
Trước mắt ngọc mặt tình thế sự
Tại ý người tư tự mặc ai
Lời Phật Trời để lại chiều mai
Mà không biết hay mai hay mốt
oOo
Bài 18
Bát cú thi
Chí tâm mài sắt đắc thành kim
Cám kiểng phàn thiền trận phi liệm
Nam quốc cựu thù kim vi cổ
Tây-phiên khởi loạn cổ vi kim
Thiên-địa tuần hườn Nghiêm Khương tử
Châu nhi phục thủy Hứa-sử nhơn
Phật ở Nam-bang tiền nhơn nghĩa
oOo
Bài 19
Bất tùng sư giáo thi
Bá đạo bất tùng sư cổ giáo
Thế kim xưng phép cáo hoàng thiên
Huỳnh chỉ bút châu phù Tiên tự
Qui y thế độ ấn sự phi
Tạm sắc Ngọc-hoàng tiền khi hậu
Thiên cơ trần thế bất lậu tinh
Nhựt vỉ trầm tây hình địa ngục
Minh lai sơn thượng tuỵ tục trần
Đất tịnh độ sống nguyền gởi nạc
Cảnh Láng-linh thác cũng gởi xương
Nghĩa cao dày cám kiểng lòng thương
Miền sơn lãnh tầm phương ẩn tích
Nốt gia đạo ăn nằm vô ích
Nghĩ phận tôi thích thẹn non
Nhà cơ hàng mới biết thảo con
262- 135
Nước an trị ai còn như nấy
Tàu sao biết dụng rơm làm giấy
Đất Nam-kỳ cày cấy chai lưng
Đoạ mấy đời mấy kiếp cũng ưng
Khi phép giáo tấn hưng hương Bửu
Tích thiện gia bảo an linh cửu
Vi nhơn nan tri sửu hưởng vinh
Vọng Đường trào hai chữ khương ninh
oOo
Chúa bắc sầu nam mới giỏi
Tôi đông tưởng Phật cõi tây hay
Than thở nỗi đời lời ngay ít
Buồn cho sự thế tích gian nhiều
Trung nịnh chánh tà Trời chiều biết
Ngay gian trực tiếc Phật mới hay
Khôn quỉ vui cười thay ngơ ngẩn
Điên khùng ta phải cẩn thận san
oOo
Bài 20
Bát cú thi
Trào Tây tặc xe hơi xa kiếng
Cũng nhiều người quyền biến trí mưu
Nghĩa quân thần hà hữu vô ưu
An-giang tỉnh thiên vu táng ngã
Án Sa-đéc Phật còn hành quả
Trách Hồ nhung mấy gả khi ta
Thương cho đời thiểu Phật đa ma
Điên tà quỉ cơm ta ta độ
oOo
Bài 21
Bát cú thi
Ở bên đường kẻ qua người lại
Xem ý người nhiều dại ít khôn
Noi Tân trào cà khất một môn
Niềm cựu nghĩa ít người ôn cố
Xe bò trâu như hơi túng vố
Nói om đường thách đố la vang
262- 136
Dân không làng lời nói dân oan
Làng không dân dọc ngang ai trị
oOo
Bài 22
LƯỠNG – BÀN – MINH
Đầu quăng môi trớt người cười dại
Răng ke miệng thúi gẫm lại khôn
Chết để ba năm không chôn cất
Chờ ngày ngũ ngoạt tế thất chung
Hội đủ anh hùng trong cung các
Rao ngoài bá tánh bát ngoạt rồi
( Tần Hớn nhứt hổ)
Ai mà chê đất thời cất phần ăn
Nước Tần lăng xăng là căn của Phật
Chuột lội một bầy hang nước ngập
Gió tây thổi mạnh sống dập thoàn
Điềm ứng trung thiên tiền hữu tự
Thế gian bất thức hậu sự phi
Nhà thờ đức chúa Trời cha mẹ
Linh tự đức Thầy Phật mẹ cha
Nhị quốc giao hòa nhơn dân thuận
Châu phi phục thuỷ tuần hườn hương
Đệ tử tầm sư vị
Sư tấm đệ tử nan
Quân vỉ thần trung cang
Thần vỉ quan nghĩa khí
Minh vương đường mưu trí
Tam tinh bảo ký vi
Cha mẹ lòng chẳng nghĩ
Cô bác lòng chẳng thương
Anh em lòng chẳng tưởng
Vợ con lòng vỉ dưỡng
Đêm nằm tưởng Phật Trời
Chẳng than Trời trách Phật
oOo
Bài 23
Bát cú thi
Trời còn ở không vừa lòng thiên hạ
263- 137
Thế phi quân vỉ đọa thiếu thừa
Nắng biểu mưa nắng cũng không vừa
Mưa biểu nắng mưa thừa chẳng phải
Đi lộn xuống gió lên sao cải
Đi lộn lên gió xuống sao vừa
Lời thị phi ngang dọc chẳng chừa
Phật còn ở không vừa thiên hạ
Đuốc soi hang tối người mới giỏi
Đường bịt đi nhằm kẻ khỏi lo
Biển rộng mặc tài ăn no lội
oOo
Bài 24
Tứ cú
Đất Nam-Việt tiền Tần hậu Hớn
Cuộc trời xuôi hậu Hớn tiền Tần
Tâm bất trung Phật chẳng định phần
oOo
Bài 25
Bát cú thi
Chổi tiên linh quét sạch nhà thờ
Hương đăng tam một giờ tão mộ
Cám nguyên thất tiền ly hậu ngộ
Tưởng thiên đường viễn bộ tầm lai
Tre lỡ mùa măng mọc có ai
Tiền căn quả chông gai phải chịu
Thầy tớ biết tớ thầy lo liệu
Cha con vầy chọn điệu cha con
oOo
Bài 26
Lục cú
Phỏng phảnh cuộc đời Trời xế xệ
Ở chi nhiều nỗi quá tệ vầy
Con có cha tội tớ có Thầy
Làm sao nổi đời nầy làm vậy
Cha nói bậy dạy con nói bậy
Thầy dạy vầy tớ vậy chớ sao
263- 138
oOo
Bài 27
Bát cú thi
Trải lót gạch tàu giàu mới đặng
Đá xây mấy chặng nặng tiền vôi
Gạch thức nặng nề bề tôi tớ
Câm xe nhồi thớ chớ bằng tre
Quân tử trước nghe che lều mọn
Ba căn sửa dọn gọn bề đi
Nói vậy hồ nghi khi vị phú
Đời nầy vị phú tú bất vinh
Đáo xứ tùy dươn nhập gia tùy phúc
Lâm cơ nguy biến hạ bút đề thơ
Đến nỗi sầu nầy trong dạ ngẩn ngơ
Sĩ là nan sĩ cù bơ cù bất
Thảm là chí thảm sầu trong gia thất
Sầu là chi sầu ngoại bất tùng ngôn
Trời Phật nỡ nào phụ chí càng khôn
Địa là địa mẫu nở chôn hào kiệt
Tây buồn cởi ngựa chạy về Tây
Tòa án mất rồi chẳng ai hay
Nam-Việt đổi dời nay chí thế
Khổng-Minh lập trân phế giả thiền
Cơm chúa ai ăn tiền bỏ mất
Bạc tân trắng nỏn cất để dành
Chốn cũ lòng lo lành trở lại
Cơn nghèo làm dại phải lạy Tây
Buồn bực thay Lữ-vọng Thái-công
Láo thiệt láo Bao-Công chiếm mộng
Tra khảo sách ngoài lòng phối động
Sầu riêng kinh nội lộng ngôn từ
Một giòng nói láo trừ hung bạo
Thiệt mà không thiệt gạo không còn
Đinh sắt sắt đinh e mòn mỏi
Lòng vàng dạ ngọc khó hỏi han
Ngọc ẩn đá nhiều phen không sợ
Vàng dấu non để trợ người hiền
264- 139
Đạo nam mô nhiều bạc ít tiền
Bửu hương tự gởi phiền trở lại
Dao mất cán mười phần chịu dại
Rắng không đầu khó chạy lại cây
Kế Khổng-Minh xưa gọi không hay
Mưu Đỗng-Trác thiệt nay rằng giỏi
Gánh thơm bán rẻ người không dụng
Việc mắc âu lo tụng kinh tâm
Đắng cay nỗi dạ thâm chí thiển
Cá cạn ao hồ biển rộng thinh
Trung tâm tích đạo tinh minh chí
Hạ bút đề thơ tận ý Nam
Đuốc soi hang tối người mới giỏi
Đường tróng để đi khó khỏi chông
Quê cũ mắt nhìn Long-châu-tự
Tây sơn bắc ngụy sự đa đoan
Đại hải tế tân trang hào kiệt
Thánh nhơn xuất thế thiệt tùng lâm
oOo
Bài 28
Thập nhị cú thi
Tam thinh thay đổi người vô số
Tận thế đại điềm đức cổ lai
Bắt tính ngôn phân chiều mai biết
Công minh chánh lý Phật thiết lai
Con sao chẳng biết lòng cha mẹ
Tranh đấu làm chi nặng nhẹ lời
Hai hồn nhập lại Trời xét dạ
Thiện ác bất suy họa hậu lai
Mặc kẻ lòng nghi phùng tai biết
Trí huệ thông minh kiết dị đoan
Mèo ngồi sợ rắng toa làm dữ
Nhựt nguyệt ly căn ngữ bất đa
Con dữ sao tường Diêm-la tấn
Con lành đẹp mắt phần dồi da
Than phận mình nói chẳng ai nghe
Người mắt bịt như ghe chở khẳm
264- 140
Bịnh người lớn khó bồng khó ẳm
Nói lao xao ẩm nhẩm khó lòng
Liếc mắt ngó Vàm-Nao Lộ-lở
Sầu lê mê trong dạ thở than
Xưa Láng-linh dạ bất tùng quan
Nay người ở dọc ngang bất phục
Chê thây thúi xác phàm trần tục
Vậy mới rằng biết đục biết trong
Cãi Phật Trời cãi vỏ cãi phong
Tôi dầu đục người trong đặng phước
Dạ tôi giốc cầu quân tử trước
Cầu trở về giúp nước bình an
Không cầu người ở dọc nói ngang
Cơn nguy biến lầm gian phải chịu
Việc đời nầy mặc ai toan liệu
Của phàm trần mấy chịu không mang
Tưởng quốc vương giữ dạ vẹn toàn
Dầu sanh tử lòng vàng khẳng khắng
Một năm chẳng thấy lời nói đạo
Hỏi thăm trong bếp gạo hết còn
Tôi ví như Hàn – Tín chiều lòn
Vừa bụng hết người còn ghen ghét
Ngheo nói đạo lòng người mở bét
Phật Trời còn kẻ ghét người thương
Người lỡ bề mười chuyện phải nương
Dân là dân nhà thương ở vậy
Ăn no bụng kiếm lời nói bậy
Ta sao mình vậy vậy làm sao?
Đất lở thấy bồi ngồi mừng rỡ
Nào hay đất lở lại lở luôn
Đường đấp cao nước lớn phải tuôn
Biển lấp cạn tròn vuông mới phải
Lời nói chánh khôn hơn thời cải
Tôi lầm nay người phải thời nhờ
Khó mấy năm lời nói dại khờ
Anh em phải sau nhờ phước hậu
Nghe ngoài miệng dữ lòng sợ lậu
Hề ở sao bụng cậu cũng vầy
Tớ chữ tâm tớ đặng theo Thầy
Người nghịch dạ có ngày lâm hại
265- 141
Thầy xử tớ tớ thời phải dại
Tớ xử Thầy tồi bại có khi
Ba mươi lời cãi phải khó lòng
Đường sanh tử chập chồng trước mắt
Tôi nói nam người thời nói bắc
Lắm ở đời gay gắt nhiều phen
Trải non sông quen mặt mặt quen
Lòng dạ lạ kẻ đen người trắng
Sao chẳng sợ lúc cơn mưa nắng
Mà đem lòng nhiếc mắng chẳng ưa
Lòng không cần ai dạ ai thưa
Tôi nói bậy không ưa không ép
Lòng muốn chết chết thời chưa đặng
Sống làm chi mang tiếng nặng nề
Ngó thấy đâu nhiều việc bất tề
Tiêu tỏi ớt dưa kề con mắt
Chịu tiếng nói nhiều lời gay gắt
Thà chết đi khuất mắt cho rồi
Cõi dương gian vinh hiển thời ngồi
Sống nhơ nhuốc thác rồi khoẻ dạ
Thấy con vợ ở lòng khác lạ
Nỗi sầu bi trong dạ bồi hồi
Lòng muốn đi dạ chẳng phản hồi
Thương thằng nhỏ chưa rồi dứt dạ
Trời Phật khiến còn mang quả đọa
Chưa cho tôi dức dạ ra đi
Cám Tiên hoàng nhiều nỗi sầu bi
Vọng linh cửu lâm ly luỵ ngọc
Tôi chí dốc tầm sư học đạo
Quyết lập thân trả nợ gạo cơm
Công vợ chồng sớm quảy tối đơm
Trả đặng nợ áo cơm thong thả
Nào hay nổi Phật còn hành quả
Nghĩa Cao-minh ơn trả chưa rồi
Lỡ bề đi lỡ đứng lỡ ngồi
Nghĩ mười việc chưa rồi một việc
Tôi cũng biết ăn cơm nói thiệt
Chẳng phải người yêu nhiệc ngu si
Lâm buổi nghèo nhiều kẻ dễ khi
Đọa chịu đọa từ bi tưởng Phật
265- 142
Mười việc nay lòng tôi vong phế
Lo là lo kế thế hậu lai
Việc chánh minh nào có ép ai
Khổ là khổ chịu hai lòng dạ
Chê việc quen e quen mắc đọa
Dụng việc lạ e lạ thảnh thơi
Chẳng ép người việc vậy nói chơi
Nói tận ý mệt hơi phải nghỉ
Sự bất tùng lòng nào năn nỉ
Phật dạy mình mình ỷ dạy ma
Đời Hạ-ngươn ngày lụng tháng qua
Nực cười lén con ma dạy Phật
Tôi lo bề thẳng thối phận tôi
Đường thiềng bại than ôi ai biết
Người khác lòng lo âu muốn giết
Lời vẻ viên tôi điếc lỗ tai
Tại trong nhà sanh dạ chông gai
Ngoài thiên hạ mặc ai biến cải
Người khác lòng nhiều đường đi lải
Tôi biết sao cho phải phận tôi
Người một lòng ôi cũng thương ôi!
Kẻ khác dạ thế thôi thôi thế
Đặt củi mục người coi như quế
Dầu tóc trầm bán ế không xem
Cảm phiền cùng anh chị chị em
Khoe tốt lắm không xem mắc cỡ
Tức tối việc đời người không nghe rõ
Đừng trách xuồng cũng chớ trách ghe
Răng xỉa thuốc sạch ke nói bậy
Có một câu ta sao mình vậy
Ba đời nói bậy nói bậy hoài
Chẳng ghét trong cũng chẳng ghét ngoài
Sự tự ý trí tài hậu nghệ
Làm người biết nói đói không la
Phật thiệt nói ma ta dám sợ
Thương tình con vợ sợ người ta
Nhớ thuở Diêm-la cha hành tội
Mấy người vong bội hội Diêm-vương
Chỉnh sợ nhà Thương vươn lưới bèn
Việc nầy nói lén kén sanh sâu
Ai biết chỗ đâu câu có cá
Ngồi trên bàn đá quá ông tiên
Nực cười đến Bắc gắt không vua
Nam-Việt hơn thua mua bán dạ
Con chung rừng chạ lạ không quen
Người ở bạc đen không khen phải
Bạc tình tứ hải ải quan nào
Mấy thuở hỗn hào vào lạy Phật
Bay hơi ngầy ngật vật nào tanh
Chen chúc đua tranh anh hay chị
Huế hương trầm thị vị nào ngon
Chữ mực chữ son con hay vợ
Tôi nay ở đợ trợ lòng ai
Lắt lẻo đẽo mòn cây chuối thúi
Thương người tu núi túi rễ cây
Vạn phép tài hay Tây để đó
Ngồi buồn mắt ngó có rễ cây
Mình ở vạy ngay Tây không xui
Đẽo mòn chuối thúi đuối còn Tây
Người có con trai hay việc khổ
Thẹn cùng tiên tổ hổ mẹ cha
Vật thực đem ra ta cùng kiếng
Vận mình nguy biến khiến không xuôi
Giấy vẽ thẳng đui sui ăn đỡ
Ngồi đây mắc cỡ thở ngang hông
Phần rể cố công không đặng đó
Thấy nhiều việc khó ngó đứt đuôi
Nghĩ phận không xuôi luôi xuôi bạn
Ăn nhiều uống cạn loạn nghĩa nhân
Một gốc chẻ hai tay phải chịu
Dạ còn bận bịu liệu làm sao
Hiệp lại một cây cao lao khổ
Nhờ ơn Tiên-Tổ đỗ trạng ngươn
Cám tưởng nghỉa nhơn ơn cao rộng
Người không nói lộng động lòng Tiên
Chớ trách Tây-Phiên niên vị cập
Dầu bài nhứt thập lập thượng kim
144
Người ở trào Tây ngay hay vạy
Việc làm tầm bậy đậy hay bày
Lo quốc-vương nầy Thầy hay tớ
Lời ghi thớ nhớ hay quên
Lấm việc làm nên tên mấy tuổi
Nhiều người đeo đuổi rủi rủi hay may
Cám tưởng thương thay mây vừng bạc
Vận nghèo xiêu lạc đạt hay không
Việc hãy minh mông ông hay cháu
Mấy người lý láu báo vật chi
Chẵng phải ngu si khi nói bậy
Đời nầy nhiều vạy đậy chớ bày
Chú chệt bên Tàu giàu không ở
Qua Nam gặp thuở ở lầu cao
Buôn bán lao xao sao chẳng nghĩ
Chưng giày thế ỷ dỉ tận thân
Nhiều việc phi ân phân kèo huổi
Dại ra tu chuổi buổi Minh-sư
Bán Phật tiền tư dư mấy chục
Hại người phàm tục dục tà ma
Nước ngược được lòng đồng tưởng Phật
Nước xuôi ngầy ngật vật phá cơm
Chẳng kẻ quảy đơm thơm lòng Thánh
Ít người vi cánh tánh lung lăng
Tới bữa lăng xăng ăn đầy bụng
Ít người lòng dụng tụng kinh tâm
Chẳng kẻ hỏi thăm mười lăm tới
Nhiều người ố Thới mới rã thây
Mười sáu tới đây hay việc mới
Ba mươi chẳng tới mới hay lâu
Mùng một biết đâu âu cúng kiếng
Việc nầy quyền biến tiếng để sau
Thính nhỉ tùng ngôn khôn hay dại
Nghe đi nghe lại dại hay khôn
Tà chánh xuất ngôn tôn hay tỷ
Năng suy năng nghỉ bỉ hay vinh
Xét sách xét kinh minh hay ám
Tri tà tri chánh cám hay phiền
Tri hậu tri tiền hiền hay dữ
Tri ngôn tri ngữ thử tri tâm
145
Tri thiển tri thâm âm hay trí
Tri tình tri lý ý hay ngu
Tri sự phàm phu tu hay mạo
Tri tình bá đạo bạo hay hiền
Cho biết việc thiền phiền việc đọa
Cho hay việc lạ dạ phân minh
Con có cha nhà ta có chủ
Lo bề ăn ngủ rủ không xong
Đeo đuổi ma giông ông không độ
Cầu Trời viễn bộ hộ tri tân
Tôi chúa vi ân phân việc phải
Nhơn cư tứ hải cải mặc ai
Chẳng biết việc may tai không lổ
Người do thủy thổ khổ nhiều phen
Đạo nầy nhiều mối tối không trăng
Tu việc không căn lăng xăng đạo
Thiệt người lo gạo tạo mối nào
Cắc cớ xưng hào bào ruột thúi
Khéo làm túi búi núi hết cây
Chẳng biết việc nay hay chi đó
Thấy đời mắt ngó có biết đâu
Đánh lộn chưởi nhau âu thời giỏi
Tri người thượng cõi hỏi không ai
Người ta Phật tôi giậc ra ma
Người ta ma tôi ta rằng Phật
Hai hơi ngầy ngật Phật khắc ma
Hưng thời người dạy ta a buồi
Thân tôi còn rủi xỏ mũi rồi
Dắt tới bồi hồi ngồi không vững
Dắt lui lửng đửng chửng nửa thôi
Nghĩ phận thân tôi hôi ôi vậy
Nói thời nói bậy vậy thời thôi
Không phải trâu lôi ôi dắt mũi
Đêm nằm nghĩ tủi rủi phận tôi
Chẳng phải thiên lôi đôi búa sắt
Thương người dắt mũi tủi thân tôi
Bổn đạo muốn thôi bôi chữ mực
Nhiều bề có cực dực (giật) mũi ta
Trời Phật không la ma nói hiếp
Nhiều người húng hiếp kiếp con ma
146
Bỏ Phật Thích – Ca ra ngoài bụi
Thương người lặn lội tội không quần
Chê ké lừng xừng chừng nên thuở
Lo người hớn hở mắc cỡ lâu
Bá tánh lập tiền phiền tiếng nói
Ngồi trần không đói ói ra cơm
Chí giốc gánh thơm đơm cúng Phật
Nào hay lột trật vật mù u
Khó cúng trung thu tu không mắt
Bánh mì Tây bắt cắt làm hai
Khó nổi hai tay chay lấp lỗ
Đông – Nam thậm khổ hổ ngài ra
Con Phật lòng ma ta không dắt
Con ma lòng Phật dắt về ta
Nói Phật la ma ta đẳng thổ
Biết sao xấu hổ cổ còn dơ
Chí giốc rối tơ thơ gở rối
Nhiều người dạ tối thối thân nan
Phật dụng giàu sang mang tiếng Phật
Thương người tàn tật Phật mới ngoan
Ghét kẻ giọc ngan toan không dụng
Thương người miệng tụng bụng tưởng xa
Bốn chữ tưởng ma ta tưởng Phật
Lòng không tưởng Phật Phật cũng ma
Lòng kẻ tưởng ma a ma ý
Lòng người mưu trí lý nào hư
E dạ cẩu trư dư việc đọa
Người quen lòng chạ lạ lòng quen
Mười việc bạc đen khen sao đặng
Thế nầy coi nặng dặn không nghe
Đánh trống chẻ tre e không có
Tưng bừng quỉ ó ngó không ta
Chê chó sủa ma la không Phật
Xem rồi đa vật mật vu thơ
Phật nói không nghe e khó dạy
Phật mà nói bậy dạy ai nghe
Miệng sạch không ke e miệng thúi
Đời nầy bể núi túi còn mang
Thiệt kẻ giàu sang ngang quá hạng
147
Sâu thời làm bạn cạn phải xa
Phật tới cung nga ma ra cỏ
Lời ghi quên bỏ tỏ mắt yêu
Tôi nói bao nhiêu tiêu không nhớ
Muốn tôi làm tớ nhớ dạy tôi
Mối đạo thảm phiền tiền vắng mặt
Nhiều người sanh giặc ngặt lòng tôi
Nhiều kẻ quyền ngôi ôi nước tiếm
Không lo việc trước muốn bước cao
Mười chuyện lao xao sao không biết
Việc sao hung kiết chẳng biết đâu
Đáng lẽ chăn trâu âu mới phải
Chưng chi độ vãi cãi Phật Trời
Độ chẳng biết đời lời quấy phải
Tu chi cải phải nảy hà tu
Chẳng phải tu ngu tu cuồng chí
Làm người vô trí ý vô minh
Nói ít biết nhiều tiều gánh củi
Sang giàu chờ buổi đuổi vu lâm
Dầu chí niệm tâm âm kẻ khó
Lũ bây lũ chó ó om nhà
148
Không chỗ thiệt thà mà hòa dạ
Dám đâu hỉ hạ họa bên chung
Biết việc si lung trung tránh nịnh
Thương bề Gia-định tịnh bất an
Tôi nói thời ngang khoan lòng giận
Để coi bạc phận vận về ai
Họa phước đáo lai mười hai tuổi
Một may một rủi một buổi nầy
Chư sự tổng lời Trời Phật định
Tùng ngôn nhứt lịnh bịnh tôi mang
Người ở dọc ngang tan thời chịu
Quả không để chịu liệu ma phân
Biết sợ cho thân cân tội phước
Biết lo việc trước phước một bên
Nước hẹp hòi thấy quấy người hay
Bỏ vạy tùng ngay Tây vìa hết
Người lành không chết hết người hung
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
12 CÂU NGUYỆN
Quan âm kinh tán
Phổ môn thị hiện
Cứu khổ tầm thinh
Tư bi thuyết pháp độ mê tân,
Phú cảm ứng tùy hình tứ hải...
HẾT quyển 8
No comments:
Post a Comment