Saturday, July 16, 2011

VIII. TIỀN GIANG 8


KIM CỔ KỲ QUAN VIII
TIỀN GIANG 8
tr.256-268; 123-148



tr.256- cột 123

5113. Nam-bang tứ hướng đánh dồn

Phật Trời soi xét sự tồn sự vong

5115. Tuy là nói chuyện vân phong

Cãi Trời cải Phật không xong người nào

Ham chi ăn nói hùng hào

Những lời phải quấy không vào lỗ tai

Phật Trời nào có ép ai

5120.Ngặt mình muốn chết không tay ớt gừng

Người không biết khó vô chừng

Nói phải người cãi nói rừng điếc tai

Không nghe ai cũng như ai

Nói một người muốn nói hai cho nhiều

5125.Việc đời xem lỡ mai chiều

Ở đây ngồi chịu nói nhiều mệt thân

Nghĩ đời khó nỗi làm ân

Nói phải không dụng biết phân chỗ nào

Biết nghe lời phải đem vào

5130.Vô mưu vô trí ào ào gọi vinh

Coi tôi như quỉ như tinh

Dầu cho nói việc chánh minh cũng đừa (thừa?)

Nói phải người cũng không vừa

Người dùng việc quấy người đùa việc ngay

5135.Tôi khó tôi ngó phương tây

Thương người việc khó cãi đây khó ngồi

Quấy phải tôi cũng biết rồi

Lựa là Trời Phật phản hồi xử phân

Nhơn tùng Phật thị nhơn ân

5140.Hà nhơn xử Phật khó thân từ ngày.

Nhơn gian ai biết việc nầy

Phận đời điều đủ kinh rày tiên sanh

Tôi e lòng dạ hôi tanh

Anh em hữu trí khôn lanh nói nhầm

5145.Dầu xa vạn lý tôi tầm

Tôi xem như ngọc dạ cầm vàng thoi

Trầm tóc để đó mà coi

Mắt ôi là mắt hay thoi chiếu đời

Nghĩ thôi mắc cỡ cho lời

5150..Nói ra người trí cải lời từ đây.


Cuộc đời người dở mà hay

Người hay mà dở thương nay cho đời

Người ham nói đặng nhiều lời

Có mắt không thấy Phật Trời ở đâu

tr.256- cột 124

5155. Không thấy bất ý dò sâu

Nói ra người phủi biết đâu mà tường

Người nghe dắt nẻo chỉ đường

Chẳng nghe để kẻ ở vườn làm ăn

Nói chi mỏi miệng động răng

5160.Phật Trời không hiểm tại căn người phàm

Giác thế thiệt mỏi hai hàm

Giác hoài e thế nghe nhàm lỗ tai

Khổ tai cải sự lỗ tai

Thị phi bất quí kim lai vị hà

5165. Lập chánh tri chánh cải tà

Qui tà phế chánh nhơn hà phi nhơn

Phế tà lập chánh lập ân

Lập tà khỏi lượng khỏi phân chi vầy

Nói cạn từ đêm từ ngày

5170. Mà người chẳng tỏ việc nầy khó chua

Vật ngon bán rẻ không mua

Của hôi bán mắt người chua xót lòng

Người trở sao quá bánh phòng

Biết sao tôi ở cho vừa lòng ai

5175. Ghe bể nhờ có dầu chai

Người bể thấy việc hại tay trét người

Nỗi nầy lỡ khóc lỡ cười

Lỡ ma lỡ Phật lỡ người thế gian

Lỡ xuôi lòng cũng lỡ ngang

5180. Lỡ mừng lỡ giận lỡ than cuộc đời

Vi nhơn bất quí vận thời

Ngó trước người nói không lời sau lưng

Ở đời ai khỏi lỡ chưn

E khi lỡ bước sau lưng sợ khờ

5185. Con nên cha mẹ đặng nhờ

Con hư e hậu bàn thờ vắng hoe

Nói sách thời sách muốn nghe,

Sách nghe nghe sách trong que trong lòng

Lập kinh kinh lập bao đồng

5190. Nghe kinh ngoài miệng trong lòng không kinh

Phật minh người ở bất minh

Làm sao Phật độ tâm linh cho mình

Thiên minh nhơn thế bất tình

Làm sao Trời độ lòng mình thông minh

5195. Nhơn minh Trời Phật hứa linh

Hứa tình trị huệ thông minh soi đời

tr. 257- cột 125

Người dữ bất độ sửa lời

Người hiền phải lánh ở đời trí mưu

Tị hung tị bạo bất ưu

5200. Quí xà quí yết quí mưu vận thời.


Thiện tâm niệm Phật vái Trời

Thiên tai vạn họa nhứt thời vi tiêu

Kiến hiền như kiến Thuấn Nghiêu

Kiến ác như kiến dữ yêu sát hình

5205. Kiến hiền như tựa Thiên đình

Kiến ác như tựa Diêm đình xử tra

Kiến hiền như tựa cung nga

Kiến ác như tựa Diêm-la hành hình

Có phân mới biết loạn bình

5210.Phân ra nhiều kẻ ghét mình chẳng thương

Nhiều trao loạn trí mạt vương

Tôi nay trí hậu mạt thương phản thần

Ác vương ác sự ác trần

Thiện vương thiện sự thiện thần thiện dân

5215.Tam ngu sự thế nan phân

Thiền hiền tấn tước trị dân an hòa

Lập đời hậu thế an nhà

Nước ai nấy ở bất hòa lập gia

Phật cho buôn bán trải qua

5220. Chung cùng lập thất lập gia bất hòa

Loạn cư loạn chí nước nhà

Loạn dâm loạn dục bất hòa nhơn dân

Vị tình vị sự qui tân

Khuyên tình cựu thế vị phân tâm phiền

5225.Hạ ngươn bất thọ giáo truyền

Thơ qua giản lại người phiền nói ngây

Văn chương thượng trí người hay

Nôm na dốt nát dạy ngây khó rày

Ai từng hay dạy dở bày

5230.Văn chương thượng đặt rày hay hơn

Việc khó thấy cũng có cơn,

Việc dễ thấy cũng dễ hơn bây giờ

Hai đạo lập lại một thờ

Cũng như một đạo bây giờ hai căn

5235.Nhơn lập đạo luật tài năng

Có ai biết việc khó khăn nước nhà

Đời nầy chánh cũng như tà

Tà thời như chánh khó hòa khó an

257- 126

Quốc vi nan dân bất an

5240.Xét ra nhiều lẽ loạn bang bất hòa

Tôn sư bàn luận việc nhà

Còn lo một nỗi trẻ già chưa an

Thầy xem sự thế đa đoan

Nhìn tường tống thất kỳ an hầu gần

5245.Giúp cho một đạo phù thần

Uống vào khỏe mạnh Hớn-Tần nhứt thân

Lâm đền đại đạo quân ân

Chí lâm bắn nhạn lập thân công hầu

Lòng nghe trống giục nam lầu

5550.Đêm khuya chúc thánh vọng cầu quốc gia.



Chữ thời khác nước nhờ cha

Khô môi rát cổ nhờ xa độ gần

Đội ơn thánh chúa chư thần

Giúp cơn nguy biến cơ bần quốc gia

5555.Ba cõi ăn nói vừa ba

Cõi trần mắc đọa ngâm nga thơ bài

Phật chưa cho việc phép tài

Phật còn hành quả nằm dài thở ra

Chúc Thánh chúc thọ trào ca

5560.Thái-bình Thiên-tử quốc gia thạnh thời

Chúc an dân thứ thuận thời

Nơi nơi lạc nghiệp thạnh thời quốc gia

Nam thanh nữ tú vào ra

Nhứt tâm cầu Phật quốc gia lâu dài

5565. Giao Quì phục nghiệp đại tài

Phụng-Kiều Lý-Đán hớn hài vạn niên

Đặt cầu các bổn hội Tiên

5568. Chúc lai hoàng-tử thọ niên đời đời

oOo

Trải gan son nói chẳng tuân lời

5570.Dồi dạ ngọc xem đời ngơ ngẩn

Lập ngoại ý chơn thơ phong cẩn

Chi bất vi lẫn hồi sơ

Giải tám sầu hạ bút đề thơ

Trình bá đạo thiên cơ vị liễu

5575.Khuyên bá đạo minh tinh lập biểu

Cho nhơn dân vị liểu tường tri

Chí bần nhơn tồn tích ngu si

Khuyên thượng trí tâm tri giáo hửu

258- 127

Tuy thọ giáo tu trì linh bửu

5580. Chí cuồng phu ăn ngủ bất tường

Tôi e là lạc đạo vị thường

Tâm nan biện bất tường đạo lý

Tâm dục đắt bá nhơn hiệp ý

Nghị cổ kim minh lý đạo mầu

5585.Người nở vui mà để tôi sầu

Biển Thánh đạo dạ cầu lâm sỉ

Tôi e thuở bất tề vận bỉ

Tác loan tâm chẳng nghĩ buổi đầu

Lo là lo cận địa chư hầu

5590.Trách là trách vô đầu vô vị

Lòng thảm thiết tưởng niềm anh chị

Thuở an gia bình trị tới lui

Nào hay đâu nhơn đạo tối đui

Nghĩ mắc cở người lui kẻ tới

5595.Ơn báo oán nhiều người chưởi bới

Oán báo ơn Hưng-Thới tề bang

Mèo trong nhà bươi bếp tan hoang

Trâu ngoài ngỏ quật tan rừng cỏ

Tối đốt đèn nhà ai nấy tỏ

5600. Vách không tai nghe rõ nhiều khi

Thuở bình thời ai rủ người đi

Cơn hoạn họa dể khi thậm ngặt

Con một nhà lòng nào sanh giặc

Con mắt tinh thậm ngặt nam mô

5605. Có đời nào niệm Phật Gia-tô

Tâm bất tính nam mô hại Phật

Sợ là sợ nhiều loài súc vật

E là e niệm Phật phản tâm

Giái cuồn tình loạn cú ca ngâm

5610.Khuyên anh chị thiệt tâm chớ chấp

Làm sao mất tiếng đời Long-ấp

Việc chánh tà chớ chấp cuồng nhơn

Mặc thế tình ai biết thời phân

Tôi há dễ vong ân bất biện

5615. Sự hư thiệt tận tình sử truyện

Người ở đời dục biện nan tai

Phải dung tình quốc truyện thơ lai

Trời Phật tấm hườn trai tráng kiện

Khuyên nam nữ gắng lòng tích thiện

5620. Việc có không hậu biện bất tri

258- 128

Chớ đem lòng thấy dễ mà khi

Tôi thiệt đứa ngu si cơn loạn

Đêm thảm thiết đoạn trường trường đoạn

Ngày xốn xang ngủ tạng đê mê

5625. Lụy đầm đầm mối đạo người chê

Thảm mịch mịch phu thê bất thuận

Cám là cám Phật cho nghị luận

Lo là lo thiên địa tuần hườn

Lụy nhỏ tuôn hờn chửa trả hờn

5630. Ủ mặt ngọc giây đờn giữa đứt

Sự bất chánh tức ôm lòng tức

Nghĩa hồi sanh thậm ức chưa đền

Trung quân vương nhơn nghĩa cho bền

Hiếu phụ mẫu lâm đền Dưỡng dục

5635.Cõi trần thế dạ mông lánh tục

Nước chưa trong còn đục ngán ngầm

Thấy nịnh thần bụng giận gan bầm

Thương trung hiếu đêm nằm không ngủ

Trách Hồ nhung đem lòng phản chủ

5640. Hưởng lộc vua tụ ngũ tùng tam

Xẻ phản thần sanh dạ gian tham

Loài phản quốc dạ đam khuấy rối

Dận thần thông trừ loài phản bối

Khuyên chúng dân thần tối thiện gia

5645. Kẻo mắc đường ác thú loạn ra

Thời thậm khổ vạn gia nan biện

Chùa Công phủ Long Châu đại điện

Cho nhơn dân phương tiện tu trì

Chỗ đó sau hữu Phật chứng vì

5650. Chùa Phật lập biên thùy đóa (đáo?) tọa

Tồn Long-ấp lập tiền vỉ hạ

Ngoài lẻ dân tai họa xiết bao

Đêm nguyệt thanh bắt mạch xem sao

Thời Hưng-Thới tận lao chí mỹ

5655. Thuyết mấy khoản khuyên người suy nghĩ

Dạ chí tâm lập kỷ trần cang

Vận bất tề bị đảng hung hoang

Thời bất đạt còn mang nạn cả

Chốn dương thế Phật còn hành quả

5660.Nợ tiền căn nay trả gần rồi

Tâm bất an Phật chửa định hồi

Đường sanh tử chưa rồi hai lẽ

259- 129

Ngăn tiền lộ mộc bài ông Thẻ

Trấn tứ phương đủ lẽ muôn binh

5665. Trời giúp đường hai cử khương ninh

Phật độ chí muôn binh trợ lực

Vọng Tiền giảng độ người trung thực

Hậu-giảng binh trợ lực trào ca

Chúc Nam-kỳ hưởng thọ quốc gia

5670. Nguyện Thiên tử trào ca vững đặt

oOo

Đồng nai xứ quảng nam phát khách

Tuy tân hinh ký Đức chúa Trời

Tha tội chúng tôi Nam-mô A di-đà Phật

Nam mô Phật

5675. Nam mô Quan-thế-âm bồ-tát ma ha tát

Quan âm kinh táng …….

(đọc12 câu nguyện Phật bà)

Trong kinh phổ môn



oOo

Sau đây là các bài thơ của ông Nguyễn Văn Thới, in tiếp theo Tiền Giang,
do người chú giải đánh số thứ tự cho dễ sưu tầm.

tr.259-269

Bài 1

Thậm trách thi

Trách lòng bá tánh trẻ cùng già

Vui say theo thuở bỏ đạo nhà

Đất Nam-kỳ không tưởng ông bà

Tây phiên quốc dục hoà mưu trí

Chức hội đồng lập túng a ỷ

Viển trường an ứng thí vô nhân

Nghĩa quân thần hà hữu phi ân

Trách bá tánh vô phân tà chánh

oOo

Bài 2

Mỹ-trà Cao-lảnh thi

Mỹ-trà đương Cao lãnh thị thiền

Phi lai tự vong tiền phế hậu

Trường thứ nhứt thiên cơ bất lậu

Hội nhị chung kế hậu vị phùng

Nương An-lương thọ giáo tam tùng

Ngụ Thạnh-mỹ khương hùng tứ đức

130

oOo

Bài 3

Đổng lộ ngỗ nghịch thi

Đông lộ tân trào lòng bát cải

Tây-phương yểm cựu đậy mà bày

Ông cha xưa thọ giáo với thầy

Con cháu nay học rày các chú

Đoái thấy búa tay vầy cả lũ

Trực nhìn dao bảy đủ mặt rày

Đông-lộ kim trào mầy quen thú

Tây-phương cổ tự tứ phùng xuân

oOo

Bài 4

Cảng - lộ - thi

Đường kinh nầy bạc tiền bá tánh

Khai Đông-dương qui chánh Tây-phương

Thạnh-mỹ-tây hương chức lòng thương

Làm đơn bẩm Tây dương tỏ cáo

Bổn đạo cựu tưởng niềm cơm áo

Xây rọ mành đốn gáo lấp đường

Cửa mộc bài ngăn kẻ viễn phương

Thâu đường nước trợ đương thậm khổ

Người vi thiện lo đền thuỷ thổ

Phải đi buôn lo việc lỗ lời

Nhẫn nhẫn tâm niệm Phật vái Trời

Đống ít cắt mua lời nặng nhẹ

oOo

Bài 5

Đất khẩn-Bạc đạp thi

Đất Láng-linh thấy kẻ vô tình

Rừng bốn phía rộng thìn nào thiếu

Khẩn mười mẫu lập chùa thủ hiếu

Lúc Trần-trào đàm tiếu khó lòng

Dối nông phu câu lọp ở đồng

Phát linh Bửu độ lòng bá tánh

Bổn đạo cựu như hùm thêm cánh

Xưng chủ điền bánh tánh đều hay

Đất giữa đồng Phật chửa phân giây

Đòi bạc lớn hai cây bán đứt

tr.260- 131

oOo

Bài 6

Hương-chức Nhản-nhục thi

Thạnh-mỹ tây hương nhơn khác lạ

Cựu trào quan vỉ tọa vi hương

Như chức nầy cám tổng An-lương

Bưồm gặp gió phải nương theo buổi

Lòng niệm Phật đêm nằm nghĩ tủi

Bắc-kinh dương lụy thảm chuỗi sầu

Tại vì ai sớm dứt Nam-lầu

Tình cựu nghĩa vọng cầu Đại-Đế

oOo

Bài 7

Long châu ấp Ngỗ nghịch thi

Long-châu-ấp phản ngôn nghịch nhĩ

Miểu bà xưa lập Kỷ-trần-cang

Phế cựu hương đi học làm làng

Chùa ẩn tích lập trường công sỡ

oOo

Bài 8

Vô nghì thi

Tai nghe lóng đào hồ lấy cá

Khen cho người vác đá lấp hang

Đồn Bảy Thưa tiền định hậu an

Đất Tây thục hiển vạng bá tánh

oOo

Bài 9

Bát cú thi

Phật Tây-phương viễn trường đông chấn

Thiên nan ly bắc khảm cấn dần

Cựu trào đô tiền phế quân thần

Tần-Hớn bảo hậu Trần – gia – Nghị

Án tòa trung châu đương Bửu vị

Kế thiên đường Sơn – trị bình an

Phước nghĩa nhân tam thế hiển vang

Hưởng thánh thọ gia quan tấn tước


132

Bài 10

Bát cú thi

Đất tịnh - độ Cô - thiềng vạn vọng

Đải chiếu truyền qua giáp động binh

Quân xử thần tri thức trung tinh

Phụ xử tử nhục vinh phải chịu

Ngô chánh thị đầu tàu đề hiệu

Tàu phản ngô tội mấy triệu rày

Có lời ghi Nam-Việt mắc đày

Tội phản chúa tội nầy phải xử

oOo

Bài 11

Phân biệt Thạnh-mỷ-tây thi

Tiền Mỹ-tây sình trấp thảm sầu

Hậu Hưng - Thới qua cầu đông độ

Long – châu ấp nhiều người theo mộ

Lục tỉnh hiền Phật độ qui lai

Đất Thuấn xuân hưởng đặng lâu dài

Trời Nghiêu lập trong ngoài tam tế

oOo

Bài 12

Bát cú thi

Bà con mặt tấm lòng sau lạ

Mặt người dưng sau dạ bà con

Hay là thề biển cạn non mòn

Cho nên mới mỏi lòng son sắt

Thời bất đạt tôi Nam chúa Bắc

Nghĩa cựu ơn đi tắc vìa quanh

Tôi trung thần bền chí rạng danh

Thời mới thấy đông tranh tây tịnh

oOo

Bài 13

Thập cú thi

Ổi non chát chín thơm sao dại

Thơm non chưa chín lại không thơm

Đất trong doi ít kẻ quảy đơm

Ngoài sông rạch nhiều người đơm cúng

Mùa năm tới đâu đâu cũng trúng

tr.261- 133

Người người đều ai cũng túng xây

Trâu không chuồng thả lội một giây

Nhà thời có không ngay người ở

Chó nhịn đói nằm co quên thở

Heo ngoài chuồng bao nở ăn no

Mặt thế tình sợ đói đi lo

Lắm thế sự hết no rồi đói

oOo

Bài 14

Lục cú thi

Trâu ruộng mãn đời người trâu ruộng

Gian tham hết kiếp kẻ gian tham

Kinh sử đỏ lời không đem dạ

Của tiền khó giữ người lạ ăn

Bất như tích đức qui căn bổn

Trí huệ thông minh bổn độn sơ

oOo

Bài 15

Bát cú thi

Phật ở bên Tàu Trời ở bên Tây

Để cho tôi nằm ở đây mà chịu

Phật ở xa ma quỉ ở gần

Trời đâu có cõi trần mà thấy

Tàu sao biết tới ngày gởi giấy

Tân Hớn – Trào chầy bấy ra oai

Tích thiện tâm thiện tứ hậu lai

Nương đức Phật kim giai trường thọ

oOo

Bài 16

Nhứt sỉ anh hùng tận

Song thiên nhựt nguyệt khai

Phá điền thiên tử xuất

Trên cha giốc tóm thâu nam bắc

Dưới con nguyền xã tác bảo yên

Trời hỡi còn gởi họa cho Phiên

Phật lại độ phải yên mới đặng

oOo

261- 134

Bài 17

Bác cú thi

Án châu-đốc tiền thù gởi đó

Đồn Hưng-trung công khó chẳng lâu

Cuộc Trời xui cha bắc mẹ sầu

Đất khiến nổi Nam lầu Tây tự

Trước mắt ngọc mặt tình thế sự

Tại ý người tư tự mặc ai

Lời Phật Trời để lại chiều mai

Mà không biết hay mai hay mốt

oOo


Bài 18

Bát cú thi

Chí tâm mài sắt đắc thành kim

Cám kiểng phàn thiền trận phi liệm

Nam quốc cựu thù kim vi cổ

Tây-phiên khởi loạn cổ vi kim

Thiên-địa tuần hườn Nghiêm Khương tử

Châu nhi phục thủy Hứa-sử nhơn

Phật ở Nam-bang tiền nhơn nghĩa

oOo

Bài 19

Bất tùng sư giáo thi

Bá đạo bất tùng sư cổ giáo

Thế kim xưng phép cáo hoàng thiên

Huỳnh chỉ bút châu phù Tiên tự

Qui y thế độ ấn sự phi

Tạm sắc Ngọc-hoàng tiền khi hậu

Thiên cơ trần thế bất lậu tinh

Nhựt vỉ trầm tây hình địa ngục

Minh lai sơn thượng tuỵ tục trần

Đất tịnh độ sống nguyền gởi nạc

Cảnh Láng-linh thác cũng gởi xương

Nghĩa cao dày cám kiểng lòng thương

Miền sơn lãnh tầm phương ẩn tích

Nốt gia đạo ăn nằm vô ích

Nghĩ phận tôi thích thẹn non

Nhà cơ hàng mới biết thảo con

262- 135

Nước an trị ai còn như nấy

Tàu sao biết dụng rơm làm giấy

Đất Nam-kỳ cày cấy chai lưng

Đoạ mấy đời mấy kiếp cũng ưng

Khi phép giáo tấn hưng hương Bửu

Tích thiện gia bảo an linh cửu

Vi nhơn nan tri sửu hưởng vinh

Vọng Đường trào hai chữ khương ninh

oOo

Chúa bắc sầu nam mới giỏi

Tôi đông tưởng Phật cõi tây hay

Than thở nỗi đời lời ngay ít

Buồn cho sự thế tích gian nhiều

Trung nịnh chánh tà Trời chiều biết

Ngay gian trực tiếc Phật mới hay

Khôn quỉ vui cười thay ngơ ngẩn

Điên khùng ta phải cẩn thận san

oOo

Bài 20

Bát cú thi

Trào Tây tặc xe hơi xa kiếng

Cũng nhiều người quyền biến trí mưu

Nghĩa quân thần hà hữu vô ưu

An-giang tỉnh thiên vu táng ngã

Án Sa-đéc Phật còn hành quả

Trách Hồ nhung mấy gả khi ta

Thương cho đời thiểu Phật đa ma

Điên tà quỉ cơm ta ta độ

oOo


Bài 21

Bát cú thi

Ở bên đường kẻ qua người lại

Xem ý người nhiều dại ít khôn

Noi Tân trào cà khất một môn

Niềm cựu nghĩa ít người ôn cố

Xe bò trâu như hơi túng vố

Nói om đường thách đố la vang

262- 136

Dân không làng lời nói dân oan

Làng không dân dọc ngang ai trị

oOo

Bài 22

LƯỠNG – BÀN – MINH

Đầu quăng môi trớt người cười dại

Răng ke miệng thúi gẫm lại khôn

Chết để ba năm không chôn cất

Chờ ngày ngũ ngoạt tế thất chung

Hội đủ anh hùng trong cung các

Rao ngoài bá tánh bát ngoạt rồi

( Tần Hớn nhứt hổ)

Ai mà chê đất thời cất phần ăn

Nước Tần lăng xăng là căn của Phật

Chuột lội một bầy hang nước ngập

Gió tây thổi mạnh sống dập thoàn

Điềm ứng trung thiên tiền hữu tự

Thế gian bất thức hậu sự phi

Nhà thờ đức chúa Trời cha mẹ

Linh tự đức Thầy Phật mẹ cha

Nhị quốc giao hòa nhơn dân thuận

Châu phi phục thuỷ tuần hườn hương

Đệ tử tầm sư vị

Sư tấm đệ tử nan

Quân vỉ thần trung cang

Thần vỉ quan nghĩa khí

Minh vương đường mưu trí

Tam tinh bảo ký vi

Cha mẹ lòng chẳng nghĩ

Cô bác lòng chẳng thương

Anh em lòng chẳng tưởng

Vợ con lòng vỉ dưỡng

Đêm nằm tưởng Phật Trời

Chẳng than Trời trách Phật

oOo

Bài 23

Bát cú thi

Trời còn ở không vừa lòng thiên hạ

263- 137

Thế phi quân vỉ đọa thiếu thừa

Nắng biểu mưa nắng cũng không vừa

Mưa biểu nắng mưa thừa chẳng phải

Đi lộn xuống gió lên sao cải

Đi lộn lên gió xuống sao vừa

Lời thị phi ngang dọc chẳng chừa

Phật còn ở không vừa thiên hạ

Đuốc soi hang tối người mới giỏi

Đường bịt đi nhằm kẻ khỏi lo

Biển rộng mặc tài ăn no lội

oOo


Bài 24

Tứ cú

Đất Nam-Việt tiền Tần hậu Hớn

Cuộc trời xuôi hậu Hớn tiền Tần

Tâm bất trung Phật chẳng định phần

oOo

Bài 25

Bát cú thi

Chổi tiên linh quét sạch nhà thờ

Hương đăng tam một giờ tão mộ

Cám nguyên thất tiền ly hậu ngộ

Tưởng thiên đường viễn bộ tầm lai

Tre lỡ mùa măng mọc có ai

Tiền căn quả chông gai phải chịu

Thầy tớ biết tớ thầy lo liệu

Cha con vầy chọn điệu cha con

oOo

Bài 26

Lục cú

Phỏng phảnh cuộc đời Trời xế xệ

Ở chi nhiều nỗi quá tệ vầy

Con có cha tội tớ có Thầy

Làm sao nổi đời nầy làm vậy

Cha nói bậy dạy con nói bậy

Thầy dạy vầy tớ vậy chớ sao

263- 138

oOo

Bài 27

Bát cú thi

Trải lót gạch tàu giàu mới đặng

Đá xây mấy chặng nặng tiền vôi

Gạch thức nặng nề bề tôi tớ

Câm xe nhồi thớ chớ bằng tre

Quân tử trước nghe che lều mọn

Ba căn sửa dọn gọn bề đi

Nói vậy hồ nghi khi vị phú

Đời nầy vị phú tú bất vinh

Đáo xứ tùy dươn nhập gia tùy phúc

Lâm cơ nguy biến hạ bút đề thơ

Đến nỗi sầu nầy trong dạ ngẩn ngơ

Sĩ là nan sĩ cù bơ cù bất

Thảm là chí thảm sầu trong gia thất

Sầu là chi sầu ngoại bất tùng ngôn

Trời Phật nỡ nào phụ chí càng khôn

Địa là địa mẫu nở chôn hào kiệt

Tây buồn cởi ngựa chạy về Tây

Tòa án mất rồi chẳng ai hay

Nam-Việt đổi dời nay chí thế

Khổng-Minh lập trân phế giả thiền

Cơm chúa ai ăn tiền bỏ mất

Bạc tân trắng nỏn cất để dành

Chốn cũ lòng lo lành trở lại

Cơn nghèo làm dại phải lạy Tây

Buồn bực thay Lữ-vọng Thái-công

Láo thiệt láo Bao-Công chiếm mộng

Tra khảo sách ngoài lòng phối động

Sầu riêng kinh nội lộng ngôn từ

Một giòng nói láo trừ hung bạo

Thiệt mà không thiệt gạo không còn

Đinh sắt sắt đinh e mòn mỏi

Lòng vàng dạ ngọc khó hỏi han

Ngọc ẩn đá nhiều phen không sợ

Vàng dấu non để trợ người hiền

264- 139

Đạo nam mô nhiều bạc ít tiền

Bửu hương tự gởi phiền trở lại

Dao mất cán mười phần chịu dại

Rắng không đầu khó chạy lại cây

Kế Khổng-Minh xưa gọi không hay

Mưu Đỗng-Trác thiệt nay rằng giỏi

Gánh thơm bán rẻ người không dụng

Việc mắc âu lo tụng kinh tâm

Đắng cay nỗi dạ thâm chí thiển

Cá cạn ao hồ biển rộng thinh

Trung tâm tích đạo tinh minh chí

Hạ bút đề thơ tận ý Nam

Đuốc soi hang tối người mới giỏi

Đường tróng để đi khó khỏi chông

Quê cũ mắt nhìn Long-châu-tự

Tây sơn bắc ngụy sự đa đoan

Đại hải tế tân trang hào kiệt

Thánh nhơn xuất thế thiệt tùng lâm

oOo

Bài 28

Thập nhị cú thi

Tam thinh thay đổi người vô số

Tận thế đại điềm đức cổ lai

Bắt tính ngôn phân chiều mai biết

Công minh chánh lý Phật thiết lai

Con sao chẳng biết lòng cha mẹ

Tranh đấu làm chi nặng nhẹ lời

Hai hồn nhập lại Trời xét dạ

Thiện ác bất suy họa hậu lai

Mặc kẻ lòng nghi phùng tai biết

Trí huệ thông minh kiết dị đoan

Mèo ngồi sợ rắng toa làm dữ

Nhựt nguyệt ly căn ngữ bất đa

Con dữ sao tường Diêm-la tấn

Con lành đẹp mắt phần dồi da

Than phận mình nói chẳng ai nghe

Người mắt bịt như ghe chở khẳm

264- 140

Bịnh người lớn khó bồng khó ẳm

Nói lao xao ẩm nhẩm khó lòng

Liếc mắt ngó Vàm-Nao Lộ-lở

Sầu lê mê trong dạ thở than

Xưa Láng-linh dạ bất tùng quan

Nay người ở dọc ngang bất phục

Chê thây thúi xác phàm trần tục

Vậy mới rằng biết đục biết trong

Cãi Phật Trời cãi vỏ cãi phong

Tôi dầu đục người trong đặng phước

Dạ tôi giốc cầu quân tử trước

Cầu trở về giúp nước bình an

Không cầu người ở dọc nói ngang

Cơn nguy biến lầm gian phải chịu

Việc đời nầy mặc ai toan liệu

Của phàm trần mấy chịu không mang

Tưởng quốc vương giữ dạ vẹn toàn

Dầu sanh tử lòng vàng khẳng khắng

Một năm chẳng thấy lời nói đạo

Hỏi thăm trong bếp gạo hết còn

Tôi ví như Hàn – Tín chiều lòn

Vừa bụng hết người còn ghen ghét

Ngheo nói đạo lòng người mở bét

Phật Trời còn kẻ ghét người thương

Người lỡ bề mười chuyện phải nương

Dân là dân nhà thương ở vậy

Ăn no bụng kiếm lời nói bậy

Ta sao mình vậy vậy làm sao?

Đất lở thấy bồi ngồi mừng rỡ

Nào hay đất lở lại lở luôn

Đường đấp cao nước lớn phải tuôn

Biển lấp cạn tròn vuông mới phải

Lời nói chánh khôn hơn thời cải

Tôi lầm nay người phải thời nhờ

Khó mấy năm lời nói dại khờ

Anh em phải sau nhờ phước hậu

Nghe ngoài miệng dữ lòng sợ lậu

Hề ở sao bụng cậu cũng vầy

Tớ chữ tâm tớ đặng theo Thầy

Người nghịch dạ có ngày lâm hại


265- 141


Thầy xử tớ tớ thời phải dại

Tớ xử Thầy tồi bại có khi

Ba mươi lời cãi phải khó lòng

Đường sanh tử chập chồng trước mắt

Tôi nói nam người thời nói bắc

Lắm ở đời gay gắt nhiều phen

Trải non sông quen mặt mặt quen

Lòng dạ lạ kẻ đen người trắng

Sao chẳng sợ lúc cơn mưa nắng

Mà đem lòng nhiếc mắng chẳng ưa

Lòng không cần ai dạ ai thưa

Tôi nói bậy không ưa không ép

Lòng muốn chết chết thời chưa đặng

Sống làm chi mang tiếng nặng nề

Ngó thấy đâu nhiều việc bất tề

Tiêu tỏi ớt dưa kề con mắt

Chịu tiếng nói nhiều lời gay gắt

Thà chết đi khuất mắt cho rồi

Cõi dương gian vinh hiển thời ngồi

Sống nhơ nhuốc thác rồi khoẻ dạ

Thấy con vợ ở lòng khác lạ

Nỗi sầu bi trong dạ bồi hồi

Lòng muốn đi dạ chẳng phản hồi

Thương thằng nhỏ chưa rồi dứt dạ

Trời Phật khiến còn mang quả đọa

Chưa cho tôi dức dạ ra đi

Cám Tiên hoàng nhiều nỗi sầu bi

Vọng linh cửu lâm ly luỵ ngọc

Tôi chí dốc tầm sư học đạo

Quyết lập thân trả nợ gạo cơm

Công vợ chồng sớm quảy tối đơm

Trả đặng nợ áo cơm thong thả

Nào hay nổi Phật còn hành quả

Nghĩa Cao-minh ơn trả chưa rồi

Lỡ bề đi lỡ đứng lỡ ngồi

Nghĩ mười việc chưa rồi một việc

Tôi cũng biết ăn cơm nói thiệt

Chẳng phải người yêu nhiệc ngu si

Lâm buổi nghèo nhiều kẻ dễ khi

Đọa chịu đọa từ bi tưởng Phật

265- 142

Mười việc nay lòng tôi vong phế

Lo là lo kế thế hậu lai

Việc chánh minh nào có ép ai

Khổ là khổ chịu hai lòng dạ

Chê việc quen e quen mắc đọa

Dụng việc lạ e lạ thảnh thơi

Chẳng ép người việc vậy nói chơi

Nói tận ý mệt hơi phải nghỉ

Sự bất tùng lòng nào năn nỉ

Phật dạy mình mình ỷ dạy ma

Đời Hạ-ngươn ngày lụng tháng qua

Nực cười lén con ma dạy Phật

Tôi lo bề thẳng thối phận tôi

Đường thiềng bại than ôi ai biết

Người khác lòng lo âu muốn giết

Lời vẻ viên tôi điếc lỗ tai

Tại trong nhà sanh dạ chông gai

Ngoài thiên hạ mặc ai biến cải

Người khác lòng nhiều đường đi lải

Tôi biết sao cho phải phận tôi

Người một lòng ôi cũng thương ôi!

Kẻ khác dạ thế thôi thôi thế

Đặt củi mục người coi như quế

Dầu tóc trầm bán ế không xem

Cảm phiền cùng anh chị chị em

Khoe tốt lắm không xem mắc cỡ

Tức tối việc đời người không nghe rõ

Đừng trách xuồng cũng chớ trách ghe

Răng xỉa thuốc sạch ke nói bậy

Có một câu ta sao mình vậy

Ba đời nói bậy nói bậy hoài

Chẳng ghét trong cũng chẳng ghét ngoài

Sự tự ý trí tài hậu nghệ

Làm người biết nói đói không la

Phật thiệt nói ma ta dám sợ

Thương tình con vợ sợ người ta

Nhớ thuở Diêm-la cha hành tội

Mấy người vong bội hội Diêm-vương

Chỉnh sợ nhà Thương vươn lưới bèn

143

Việc nầy nói lén kén sanh sâu

Ai biết chỗ đâu câu có cá

Ngồi trên bàn đá quá ông tiên

Nực cười đến Bắc gắt không vua

Nam-Việt hơn thua mua bán dạ

Con chung rừng chạ lạ không quen

Người ở bạc đen không khen phải

Bạc tình tứ hải ải quan nào

Mấy thuở hỗn hào vào lạy Phật

Bay hơi ngầy ngật vật nào tanh

Chen chúc đua tranh anh hay chị

Huế hương trầm thị vị nào ngon

Chữ mực chữ son con hay vợ

Tôi nay ở đợ trợ lòng ai

Lắt lẻo đẽo mòn cây chuối thúi

Thương người tu núi túi rễ cây

Vạn phép tài hay Tây để đó

Ngồi buồn mắt ngó có rễ cây

Mình ở vạy ngay Tây không xui

Đẽo mòn chuối thúi đuối còn Tây

Người có con trai hay việc khổ

Thẹn cùng tiên tổ hổ mẹ cha

Vật thực đem ra ta cùng kiếng

Vận mình nguy biến khiến không xuôi

Giấy vẽ thẳng đui sui ăn đỡ

Ngồi đây mắc cỡ thở ngang hông

Phần rể cố công không đặng đó

Thấy nhiều việc khó ngó đứt đuôi

Nghĩ phận không xuôi luôi xuôi bạn

Ăn nhiều uống cạn loạn nghĩa nhân

Một gốc chẻ hai tay phải chịu

Dạ còn bận bịu liệu làm sao

Hiệp lại một cây cao lao khổ

Nhờ ơn Tiên-Tổ đỗ trạng ngươn

Cám tưởng nghỉa nhơn ơn cao rộng

Người không nói lộng động lòng Tiên

Chớ trách Tây-Phiên niên vị cập

Dầu bài nhứt thập lập thượng kim

144

Người ở trào Tây ngay hay vạy

Việc làm tầm bậy đậy hay bày

Lo quốc-vương nầy Thầy hay tớ

Lời ghi thớ nhớ hay quên

Lấm việc làm nên tên mấy tuổi

Nhiều người đeo đuổi rủi rủi hay may

Cám tưởng thương thay mây vừng bạc

Vận nghèo xiêu lạc đạt hay không

Việc hãy minh mông ông hay cháu

Mấy người lý láu báo vật chi

Chẵng phải ngu si khi nói bậy

Đời nầy nhiều vạy đậy chớ bày

Chú chệt bên Tàu giàu không ở

Qua Nam gặp thuở ở lầu cao

Buôn bán lao xao sao chẳng nghĩ

Chưng giày thế ỷ dỉ tận thân

Nhiều việc phi ân phân kèo huổi

Dại ra tu chuổi buổi Minh-sư

Bán Phật tiền tư dư mấy chục

Hại người phàm tục dục tà ma

Nước ngược được lòng đồng tưởng Phật

Nước xuôi ngầy ngật vật phá cơm

Chẳng kẻ quảy đơm thơm lòng Thánh

Ít người vi cánh tánh lung lăng

Tới bữa lăng xăng ăn đầy bụng

Ít người lòng dụng tụng kinh tâm

Chẳng kẻ hỏi thăm mười lăm tới

Nhiều người ố Thới mới rã thây

Mười sáu tới đây hay việc mới

Ba mươi chẳng tới mới hay lâu

Mùng một biết đâu âu cúng kiếng

Việc nầy quyền biến tiếng để sau

Thính nhỉ tùng ngôn khôn hay dại

Nghe đi nghe lại dại hay khôn

Tà chánh xuất ngôn tôn hay tỷ

Năng suy năng nghỉ bỉ hay vinh

Xét sách xét kinh minh hay ám

Tri tà tri chánh cám hay phiền

Tri hậu tri tiền hiền hay dữ

Tri ngôn tri ngữ thử tri tâm

145

Tri thiển tri thâm âm hay trí

Tri tình tri lý ý hay ngu

Tri sự phàm phu tu hay mạo

Tri tình bá đạo bạo hay hiền

Cho biết việc thiền phiền việc đọa

Cho hay việc lạ dạ phân minh

Con có cha nhà ta có chủ

Lo bề ăn ngủ rủ không xong

Đeo đuổi ma giông ông không độ

Cầu Trời viễn bộ hộ tri tân

Tôi chúa vi ân phân việc phải

Nhơn cư tứ hải cải mặc ai

Chẳng biết việc may tai không lổ

Người do thủy thổ khổ nhiều phen

Đạo nầy nhiều mối tối không trăng

Tu việc không căn lăng xăng đạo

Thiệt người lo gạo tạo mối nào

Cắc cớ xưng hào bào ruột thúi

Khéo làm túi búi núi hết cây

Chẳng biết việc nay hay chi đó

Thấy đời mắt ngó có biết đâu

Đánh lộn chưởi nhau âu thời giỏi

Tri người thượng cõi hỏi không ai

Người ta Phật tôi giậc ra ma

Người ta ma tôi ta rằng Phật

Hai hơi ngầy ngật Phật khắc ma

Hưng thời người dạy ta a buồi

Thân tôi còn rủi xỏ mũi rồi

Dắt tới bồi hồi ngồi không vững

Dắt lui lửng đửng chửng nửa thôi

Nghĩ phận thân tôi hôi ôi vậy

Nói thời nói bậy vậy thời thôi

Không phải trâu lôi ôi dắt mũi

Đêm nằm nghĩ tủi rủi phận tôi

Chẳng phải thiên lôi đôi búa sắt

Thương người dắt mũi tủi thân tôi

Bổn đạo muốn thôi bôi chữ mực

Nhiều bề có cực dực (giật) mũi ta

Trời Phật không la ma nói hiếp

Nhiều người húng hiếp kiếp con ma

146

Bỏ Phật Thích – Ca ra ngoài bụi

Thương người lặn lội tội không quần

Chê ké lừng xừng chừng nên thuở

Lo người hớn hở mắc cỡ lâu

Bá tánh lập tiền phiền tiếng nói

Ngồi trần không đói ói ra cơm

Chí giốc gánh thơm đơm cúng Phật

Nào hay lột trật vật mù u

Khó cúng trung thu tu không mắt

Bánh mì Tây bắt cắt làm hai

Khó nổi hai tay chay lấp lỗ

Đông – Nam thậm khổ hổ ngài ra

Con Phật lòng ma ta không dắt

Con ma lòng Phật dắt về ta

Nói Phật la ma ta đẳng thổ

Biết sao xấu hổ cổ còn dơ

Chí giốc rối tơ thơ gở rối

Nhiều người dạ tối thối thân nan

Phật dụng giàu sang mang tiếng Phật

Thương người tàn tật Phật mới ngoan

Ghét kẻ giọc ngan toan không dụng

Thương người miệng tụng bụng tưởng xa

Bốn chữ tưởng ma ta tưởng Phật

Lòng không tưởng Phật Phật cũng ma

Lòng kẻ tưởng ma a ma ý

Lòng người mưu trí lý nào hư

E dạ cẩu trư dư việc đọa

Người quen lòng chạ lạ lòng quen

Mười việc bạc đen khen sao đặng

Thế nầy coi nặng dặn không nghe

Đánh trống chẻ tre e không có

Tưng bừng quỉ ó ngó không ta

Chê chó sủa ma la không Phật

Xem rồi đa vật mật vu thơ

Phật nói không nghe e khó dạy

Phật mà nói bậy dạy ai nghe

Miệng sạch không ke e miệng thúi

Đời nầy bể núi túi còn mang

Thiệt kẻ giàu sang ngang quá hạng

147

Sâu thời làm bạn cạn phải xa

Phật tới cung nga ma ra cỏ

Lời ghi quên bỏ tỏ mắt yêu

Tôi nói bao nhiêu tiêu không nhớ

Muốn tôi làm tớ nhớ dạy tôi

Mối đạo thảm phiền tiền vắng mặt

Nhiều người sanh giặc ngặt lòng tôi

Nhiều kẻ quyền ngôi ôi nước tiếm

Không lo việc trước muốn bước cao

Mười chuyện lao xao sao không biết

Việc sao hung kiết chẳng biết đâu

Đáng lẽ chăn trâu âu mới phải

Chưng chi độ vãi cãi Phật Trời

Độ chẳng biết đời lời quấy phải

Tu chi cải phải nảy hà tu

Chẳng phải tu ngu tu cuồng chí

Làm người vô trí ý vô minh

Nói ít biết nhiều tiều gánh củi

Sang giàu chờ buổi đuổi vu lâm

Dầu chí niệm tâm âm kẻ khó

Lũ bây lũ chó ó om nhà

148

Không chỗ thiệt thà mà hòa dạ

Dám đâu hỉ hạ họa bên chung

Biết việc si lung trung tránh nịnh

Thương bề Gia-định tịnh bất an

Tôi nói thời ngang khoan lòng giận

Để coi bạc phận vận về ai

Họa phước đáo lai mười hai tuổi

Một may một rủi một buổi nầy

Chư sự tổng lời Trời Phật định

Tùng ngôn nhứt lịnh bịnh tôi mang

Người ở dọc ngang tan thời chịu

Quả không để chịu liệu ma phân

Biết sợ cho thân cân tội phước

Biết lo việc trước phước một bên

Nước hẹp hòi thấy quấy người hay

Bỏ vạy tùng ngay Tây vìa hết

Người lành không chết hết người hung

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT


148
12 CÂU NGUYỆN

Quan âm kinh tán
Phổ môn thị hiện
Cứu khổ tầm thinh
Tư bi thuyết pháp độ mê tân,
Phú cảm ứng tùy hình tứ hải...


HẾT quyển 8


No comments: