Saturday, July 16, 2011

VII. THỪA NHÀN 3




KIM CỔ KỲ QUAN
quyển VIII
THỪA NHÀN
tập
3
tr.163-174; cột 45-68
Tài liệu: Audio 8A Texas và Ấn bản quốc ngữ 1964




45
1839. Đời nay phải nói việc nay
Tới đâu hay đó thương thay đời nầy
Ai ai cũng muốn làm Thầy
Ngặt tôi làm tớ ăn mày không cơm
Phải dùng gánh nước gánh thơm
Không ai hỏi tới để đơm cúng Trời
1845.Của nhà chẳng sợ lỗ lời
Để đem cúng Phật cúng Trời độ thân
Ra lời phân trước làm ân
Sợ e mắc oán khổ thân ai màng
Độ trước khắp hết xóm làng
1850. Còn mang tiếng oán hại tàn giang san.
Mười người dữ chín người ngang
Nghĩ mình mình nghĩ lo toan phận mình
Khẩn nguyền phép Phật Thiên đình
Chừng nào sắc lịnh cho mình sẽ hay
1855. Bây giờ như thể gốc cây
Làm thơ để đó sau hay việc đời
Dạ đà khó biết Phật Trời
Dạ suy trong ruột biết đời thạnh suy
Làm người nào có dễ chi
1860. Biết ăn biết uống biết đi nên người
Biết ăn biết nói biết cười
Biết nhơn biết đạo biết người Phật ma
Biết đường tà chánh nghiêm ra
Biết đường tử khứ Diêm-la Thiên-đình
1865.Biết phước biết tội trong mình
Biết phân quấy phải biết tình người ta
Biết đường gian giảo rằng ma
Biết đường ngay thẳng Diêm-la nhẹ hành
Người biết các việc đành rành
1870.Thời người tích đặng việc lành an thân
Người nào lòng chẳng biết phân
Thời mấy người ấy khổ thân âm tình
Muốn lành thời xét phận mình
Muốn dữ lộng ngữ lộng tình tranh đua
1875. Bất tùng ngôn thiện hơn thua
Thân tôi như thể con cua gãy càng
Người trung tôi tưởng như vàng
Dọc ngang thấy đó trăm ngàn không ưa
Xét nay chẳng khác hồi xưa
1880.Mới thời cung kỉnh cũ đưa xuống sàng
46
Vô duyên sĩ khó lỡ đàng
Hiển vang là kẻ giàu ngàn giàu muôn
Đêm nằm nước mắt chảy tuôn
Trăng sầu ngàn thảm tròn vuông lỡ bề
1885.Cho nên nước mắt dầm dề
Bây giờ lỡ cậu lỡ hề cô thân
Cây héo dạ giốc vô phân
Nào hay đứt nghĩa đoạn nhân giữa đàng
Chỉ tơ rối rấm xóm làng
1890.Cho nên ra dấu giỏi bàn mới khi
Thiệt là nhiều kẻ bất tri
Thấy bề đạo Phật vận suy hại rày
Chòm ong lũ kiến nhiều bầy
Khổ trầm sự thảm dài ngày nhơn dân
1895. Phật đọa Phật biết nghĩa nhân
Dân đọa dân chẳng tỏ phân chánh tà
Dân đọa sỉ mạ nước nhà
Phật đọa Phật xét thương mà nhơn dân
Niên ngoạt nhự thời khó phân
1900. Thời thìn dị đáo nhơn dân khi Trời.
Chẳng qua vận khiến rã rời
Đố ai bẻ nạng chống Trời cho lâu
Mất trước sợ mất lòng sau (1)
Mất mèo mất chuột mất trâu tỏ tường
1905.Đại điềm xuất hiện cang cường
Chăn dân một cõi phi thường bất lai
Bây giờ lố mí chông gai
Mà người chẳng biết dễ ai biết dùm
Biết thời vạch bụi vạch lùm (2)
1910.Không biết làm phước chỉ dùm lại chê
Tới đời mới biết vinh huê
Bây giờ còn việc khen chê li bì
Sút vung mắc góc mất chì
Ra công lội lặn gở thì phải xuôi
1915. Nhiều người dạ dốc làm suôi
Chài còn mắc góc chưa xuôi ra bề
Dạ noi canh mục một nghề
Nghêu ngao mé biển dựa kề non sông
Chài nầy dầu gỡ đặng xong
1920.Phơi giăng trên ngáng nước rong ngâm dần
Bình thi đậu phú lần lần
Ngâm nga sông vịnh Mẹo Dần về non
47
Mẹ sao mẹ chẳng thương con
Con sao con chẳng héo hon mẹ già
1925.Đời nầy con vịt mẹ gà
Gặp nước con lội mẹ mà bơ vơ
Ngó đâu bảng lảng bơ lơ
Không thương không mến ngẩn ngơ trăm bề
Chẳng lo bên Sở bên Tề
1930. Chẳng lo chúa Bắc đem về chúa Nam
Lo lòng xấc xược gian tham
Việc nào có lợi dạ cam cho nhiều
Chẳng lo nặng tội buổi chiều
Chẳng lo đặng phước mai nhiều hơn nay
1935.Nợ đời mai trả mốt vay
Trả đi vay lại cái thây rã rời
Chẳng lo nay đổi mai dời
Người lo việc chắc ở đời khổ thân
Chuối mít xốc ních ( 3) không phân
1940. Kiến bò bốn phía khổ thân hoài hoài
Biết độ biết lượng vắn dài
Hao tài tốn của chẳng nài bao nhiêu
Chẳng phải tiền bạc để thiêu
Việc nào làm phải bao nhiêu chẳng nài
1945. Làm ra có của hành hài
Việc nào chẳng phải lâu dài chẳng cho
Có của mà giữ bo bo
Tới cơn bát loạn nằm co kêu Trời
Phải dụng tiện tặng trọn đời
1950. Ăn chơi ở lỡ hết thời không no.
Cơm cá coi như bụi tro
Lúa gạo hủy hoại không lo hậu bần
Nói xa rồi phải nói gần
Nói cho bá tánh cõi trần nghiệm suy
1955.Đừng chê Trời Phật bất tri
Oán thì báo oán bất suy nhãn tiền
Anh em nghĩ lại đừng phiền
Việc dữ cũng thấy việc hiền cũng hay
Ngồi buồn luận việc khó thay
1960.Tôi dơ tôi biết người hay sạch người
Nên tôi chẳng dám chê cười
Ai dơ ai sạch mặc người với ( ai )
Chữ rằng tử khứ sanh lai
Tử lai sanh khứ đố ai tu bằng
48
1965.Lều tranh kinh sử đã rằng
Nhà rách có Phật đạo hằng trồng tre
Chữ đâu nghĩa đó dễ nghe
Mỏng tai lẹ miệng trồng tre chậu sành
Bưng lên để xuống sao đành
1970. Chưng lên bàn án người lành biết phân
Bỏ lòng yểm cựu nghinh tân
E là dạ tớ khó phân lòng Thầy
Hỉ nộ ai lạc dạ nầy
Ái ố lòng tớ với Thầy cao thâm
1975. Tớ Thầy thời dụng chữ tâm
Quân Thần phụ tử cao thâm chữ tình
Khổ chi thân thể dạng hình
Một trăm việc khổ chữ tình mà thôi
Việc trước lấp rồi lòng tôi
1980. Việc sau cải quá thương ôi cho người
Thấy vui bụng chẳng muốn cười
Xem sau xét trước thương người không cha
Đặng lòng Phật mích (4) lòng ma
Ruột mà chẳng phải ngoài da đem vào
1985. Chớ ham ăn nói ồn ào
Người mà chẳng phải Phật nào độ cho
Độ người Tây-điện âu lo
Phật nào lại độ ăn no làm giàu
Khiến nên ủ mặt dàu dàu
1990.Thương người trung hiếu dạ sầu như đây
Lòng người khiến việc chẳng ngay
Sợ e khó nỗi theo dây cái lòng
Xuất tình giác dắt bao đồng
Nào ai ép đặng cái lòng người ôi
1995. Thấy đời mệt đổ mồ hôi
Sợ e sau kẻ không thôi gian tà
Lá lay con quỉ hại nhà
Rơi thơ mạo tấu án toà sát Ngô
Đem lòng sát tuyệt nam mô
2000.Cám thương cho kẻ Gia tô khuấy đời.

Muốn cho cơ nghiệp rã rời
Con ai mà vậy Phật Trời chứng tri
Phật ngồi dương thế từ bi
Thấy đời yêu quỉ muốn đi về trời
2005. Ở đời mang tiếng nặng lời
Cõi ma Phật ở con Trời đắng cay
49
Nhiều lời nói vạy bỏ ngay
Người ngay phải đắng phải cay trong lòng
Lại đây bánh tráng, bánh phòng
2010. Lửa than sáng rực đỡ lòng trà phe (5)
Nhai dòn cái miệng tai nghe
Ngọt cho biết ngọt lạt the thì đừng
Nước trong đóng váng ớt gừng
Thương Ngô chí quyết nói chừng hại Ngô
2015. Thương Ngô hai chữ nam mô
Niệm thêm Đức-chúa Gia-tô mặc người
Mấy khi mà đặng vàng mười
Kiếm quanh kiếm quất ngọc ngưòi dấu đây
Đột phàm khó nói việc ngay
2020. Nương đời tùng vạy tiếng bay hai mình
Vạy ngay chứng có Thiên-đình
Chừng nào Phật khiến thình lình bể om
Ghe xuồng có nước thì hom (6)
Dầu chai không có bể om ( 7) loạn rừng
2025. Tam thinh xuất trước lẫy lừng
Rưng rưng lụy thảm ớt gừng nhơn dân
Để cho Trời Phật định phân
Làm tôi phải trả nghĩa nhân vẹn toàn
Đi đâu lơ láo chàng ràng
2030. Đường cũ không lấp thiếp chàng chẳng đi
Phật gần nhịn đói sầu bi
Ma xa gánh của tìm đi mỏi đò
Lả lê tiếng nói đưa đò
Có bạc ngồi chiếu chẳng dò tay không
2035.Bến đò rước khách vội trông
Luận chi kẻ của người công làm bề
Muốn cho quốc trị gia tề
Tìm người trung chánh lập bề quốc gia
Khôn thời trong bụng khôn ra
2040. Khó khiến một nỗi ngoài da khôn vào
Lưỡi không xương nói lẽ nào
Hoặc khôn hoặc dại hổn hào ngọt ngon
Hai bề chữ mực chữ son
Chữ mực làm tớ chữ son làm Thầy
2045.Trước tới sau mới làm Thầy
Gian nan chữ mực dấu Thầy chữ son
Làm sao thấy đặng mặt con
Còn trong bụng mẹ trắng son mặt nào
50
Tôi nghi thế sự như Tào
2050. Chừng nào Phật đẻ mặt nào cũng nên.

Biết là còn nhớ hay quên
Đẻ rồi Phật đặt mấy tên không tường
Có đi cũng có biết đường
Tây-Phương Phật lập viễn trường cũng lâu
2055. Từ năm Kỷ Dậu mất trâu
Tới nay nhìn đặng gẫm lâu con bò
Lưng trâu còn đậu con cò
Con cọp léo luống lần dò kiếm ăn
Việc nào một việc siêng năng
2060. Như cây có gốc thiệt căn lâu dài
Than ôi một tấm tình hoài
Trời cao vọi vọi dậm dài vơi vơi
Đất dày ở chẳng an nơi
Rừng già trối kẻ thảnh thơi reo cười
2065. Non xanh vắng vẻ tiếng người
Vẳng nghe bạch-vượn reo cười chỉn ghê
Trải xem dấu thỏ đường dê
Tàu bè chi lụy mê mê bộ hành
Còn đâu mà dạ không đành
2070. Nào ai có ép việc lành hằng chê
Đời nầy không bạc rằng quê
Phật trời xét thế khen chê cái lòng
Huynh đệ thủ túc đạo đồng
Phu thê y phục hai lòng bất minh
2075. Phu xướng phụ tùy chữ trinh
Phu thê thủ túc chánh minh chữ tình
Phu thê huynh đệ lưởng hình
Ngày sau đem lại nhứt tình kết tâm
Ngày sau nhơn bất loạn dâm
2080. Người nào nghịch tánh binh âm vật rồi
Phật cho tâm tánh định hồi
Man ri mọi rơ tiêu rồi sạch trơn
Thiên sanh tiền hải hậu sơn
Tiền Tần hậu Hờn mang ơn cũng nhiều
2085.Tần xưa dạ thể Ngư Tiều
Hạ-nguơn sanh thế gian nhiều tùng Nam
Bây giờ nhiều kẻ tánh tham
Nước nào hiệp với nước Nam tham kỳ
Sanh tâm khôn quỉ ai bì
2090. Ngược xuôi thừa thiếu nương tùy một khuôn
51
Nói câu khoe giỏi luôn luôn
Tụi mình rằng giỏi lụy tuôn tụi mình
Nghĩ thôi thậm ức tâm tình
Nước nào ở đậu hiếp mình gọi ngoạn
2095.Thỉ chung có việc chẳng an
Làm người sao chẳng lo toan việc nào
Toan mưu tứ-sắc , bài cào
Làm cho tận mạng sạch bào thì thôi
Biết gì việc chúa việc tôi
2100. Vui say một thuở rồi thôi cũng đành.
Biết đâu việc dữ việc lành
Không khó chờ của để dành mà ăn
Chẳng phiền thẹn nước thẹn trăng
Thẹn người dương thế thẹn ăn cơm trời
2105. Cho biết hổ thẹn ở đời
Thẹn mình rách rưới thẹn lời chẳng ngay
Ở phải ít kẻ khen hay
Ở quấy chúng mắng khoanh tay mà dòm
Quấy phải lộn xộn giặc chòm
2110. Bất như học hữu phải dòm phải coi
Khó dễ tự ý xét soi
Hung chi chúng đánh chúng thoi bầm mình
Tức ôi là tức cho tình
Ngọt ngon tiếng nói thác hình không hay
2115.Sổ lồng biết sức chim bay
Chừng nào té nặng mới hay đau mình
Bấy lâu lộng ngữ nan tình
Đua tranh việc quấy gọi mình rằng ngoan
Ỷ mình ăn nói dọc ngang
2120.Người nghèo giữ đạo thở than không dò
Mấy khi Tiên Trưởng tầm trò
Hòa thi đối phú giả đò ngó ngơ
Của tiền bối rối như tơ
Tiền tài ám nhãn ngẩn ngơ mối sầu
2125.Mau mau trống dục Nam-lầu
Của ai trả nấy hết sầu hết lo
Lơ thơ mặc kẻ đói no
Đó đăng rách hết mặc lo làm giàu
Qua cầu than thở cùng cầu
2130. Cầu cao mấy nhịp dạ cầu mấy nơi
Cầu đây đây lại mệt hơi
Không cầu đây đặng thảnh thơi nhẹ nhàng
52
Lửa muôn nước cũng cả ngàn
Ai mà chửa đặng lập tràng mang ơn
2135.Bề nào hội thí Thất sơn
Biết rằng quân tử tiểu nhơn vuông tròn
Hội nầy đàng điếm chìều lòn
Còn mong dựt của hao mòn con ngươi
Hoa tàn bao nở tốt tươi
2140. Hay phải ủ dột sao ngươi chẳng ngờ
Nhện giăng trước mặt sờ sờ
E khi vướng mắt mật mờ khó xem
Thấy người gánh nước ướt mem
Dầu mà nói phải anh em chẳng dùng
2145. Bây giờ chê kẻ tầm khùng
Chánh tâm bỉnh chánh anh hùng có khi
Tre tàn măng mọc đường đi
Ngồi muồn nghĩ việc bất tri tức cười
Ví dầu vàng chín vàng mười
2150.Vàng tới đất người vàng cũng như xu.

Biết thời biết sức quế vu
Không thời vàng cũng như xu ten đồng
Khác nhau có một cái lòng
Vàng xu sắt thiếc bạc đồng riêng căn
2155. Tuy là ăn nói lăng xăng
Giúp lời giúp đũa khó ăn cơm người
Bạc bảy dám sánh vàng mười
Bần nhơn dám sánh con người phú gia
Lời nói gạo quỉ tiền ma
2160. E khi bần tiện phú gia lỡ làng
Phù dung sớm nở tối tàn
Khác nào bông bí lấp đàng củ co
Khen người khi dễ chẳng lo
Của cho giúp hội chẳng no đỡ lòng
2165. Của nay lai láng tràn đồng
E khi đói lạnh sốt lòng không căn
Bây giờ ỷ kẻ có ăn
Gặp cơn đói rách lăng xăng không quần
Nói đi nói lại cầm chừng
2170. Nhắc lui nhắc tới cho nhuần lời rao
Gặp cơn lao khổ khổ lao
Hay vầy niệm Phật ước ao việc lành
Lên non hái trái lựa nhành
E khi rụng cội lìa nhành mạng vong
53
2175. Làm người có Tổ có Tông
Có thân có thích cho đông cậy nhờ
Đỡ cơn giữa biển xa bờ
Trơ trơ một kẻ dại khờ không ai
Kiếm người đỡ thuở chiều mai
2180. Cớ sao biết họa lánh tai xa mình
Sanh tử bất ly là tình
Hoạn nạn tương cứu biết mình là trung
Gió day cây cả nhánh rung
Cậy người đắp đất cội thung lên chồi
2185. Dương hương cứu phụ một hồi
Nhan Hồi (8) đoản mạng hết rồi công danh
Nhà Tùy Nguơn Bá (9) khôn lanh
Khi Trời Trời giết bia danh lại rày
Vô địch tài giỏi ai tày
2190. Tử nhi vô hối thác rày không căn
Thẹn người hổ nước hổ trăng
Trào nào đa nịnh lăng xăng đão quyền
Cú kêu miệng cú miễn tiền
Thịt xôi bất thực dạ phiền bất trung
2195. Nước nghèo dân loạn dạ hung
Nhà nghèo con vợ tứ tung ngũ hoành
Ít ai giữ dạ lời lành
Khua môi múa mỏ tranh giành khôn ngoan
Thánh tri để việc tam cang
2200. Trong Trời ba mối dị đoan quỉ tà.

Ngày sau dốt nát thiệt thà
Hay hơn văn võ quỉ tà đời nay
Đời an biết vạy biết ngay
Biết thưa biết dạ phép hay kỉnh nhường
2205. Đời nay dạ bạo tâm cường
Nơi thưa lỗ miệng đưa đường chê sau
Lão lai tài tận khó âu
Trẻ khôn già dại biết đâu đời nầy
Toan mưu giết thác có ngày
2210.Bảy mươi chớ gọi việc rày lành thân
Tiếng nào để tiếng các lân
Phần nào mà để tỏ phân việc đời
Tu thời tu Phật tu Trời
Đường tu ma quỉ rã rời người tu
2215. Thiên đình cho ấn mấy thu
Qui y thế độ công phu giáo truyền
54
Đừng khi Trời Phật lòng hiền
Mạo tờ ấn sắc phản tiền vong ngôn
Chẳng kiêng đại đức càn khôn
2220. Thàn trần như thác chưa chôn để gì
Da phấn chẳng dụng mới kỳ
Dụng chi da hổ môi chì gọi sang
Ví rồi mặc kẻ lo toan
Giác cho thế thế cư an ưu bần
2225. Gia ác gia phú gia bần
Tam gia đồng đẳng Phật cần gia lương
Nát gan nát ruột như tương
Thấy đời mặn lạt ghét thương không chừng
Khi ghét tiêu tỏi ớt gừng
2230. Khi thương chuối bánh nữa chừng chanh me
Giúp thêm tu hú gai tre
Trao lời hàng xóm đừng nghe lời khùng
Biết đâu khôn quỉ thời dùng
Nào ai có ép tầm khùng nói vơ
2235. Ngơi dâu nào kén ra tơ
Lộn đi lộn lại ngẫn ngơ ông tằm
Biết sao đối dấu cho nhằm
Nhọc mà dấu mất khó cầm nước Nam
Trước đèn trổ mối từ tâm
2240. Còn lo kế hậu nước Nam mối nào
Phật đà về trước bên Tàu
Làm thơ gởi lại tâm bào nước Nam
Bụng nào vong tứ phản tam
Trừng hai mất đổng xác Nam tiêu điều
2245. Dễ hay thương ít ghé nhiều
Thương nhiều ghét ít để nhiều lời thương
Đa hờn nói việc vong cương
Mặc tình thương ghét ghét thương không cần
Hai vai có Thánh có Thần
2250. Người ngay mắc cạn cõi trần quản bao
Mãn đời chưa biết làm sao
Huống chi thơ ấu xưng tao kêu mầy
Tuổi trăm chưa trọn làm Thầy
Đầu hai loại tóc ăn mày làm tôi
2255. Xét đời nhiều việc châu ôi!
Làm dữ thác nắm tay vôi mà về
Cho nên ba cõi phân lìa
Ngôi ai nấy xử giỏi về thượng thiên

55
E người kinh sử truân chuyên
2260. Mà ngưòi chẳng biết Thánh Tiên chỗ nào
Như tằm vô kén nằm vào
Bướm sanh sâu nhỏ chỗ nào phi ân
Chớ đừng yểm cựu nghinh tân
Yểm tân nghinh cựu e thân bất thuần
2265.Xét sao ăn ở có chừng
Xuất ngôn vô độ lẫy lừng tâm can.
Mắt nhìn nhiều nỗi tham gian
Phừng phừng như thể lửa than đốt lòng
Mặc ai tưởng đạo bao đồng
2270. Lòng tôi thủ chánh một lòng mà thôi
Nào hay nước chảy huê trôi
Nào hay thân bạc như vôi làm vầy
Chí tâm đèn sách bấy chầy
Nào hay lỡ hội thân nầy trơ trơ
2275. Bây giờ nhớ lại guồng tơ
Lấy ra mà gỡ mối ngơ rút nuồi
Ai dơ thì nấy lau chùi
Tôi dơ tơ tóc rút nùi mặc tôi
Tôi nói chẳng nghe thì thôi
2280. Thân ai nấy độ nào tôi nói gì
Mình tôi điên lạ điên kỳ
Nhà Thương để dấu biên thùy biết đâu
Bà phước ra dấu cao sâu
Hai bên đối đáp để sau coi đời
2285. Ai giỏi cầu Phật cầu Trời
Cầu cho đặng thánh ra đời hiển linh
Một hai trăm dấu quản thinh
Trong chùa nhiều dấu tinh minh quản đường
Bá gia kiến diện bất tường
2290.Phật Trời dụng phép dị thường thâm mưu
Phật trời diệu phép năng ưu
Ngồi buồn lưu lụy lụy lưu tràn trề
Thuở xưa trào cũng bất tề
Phật Trời cho tướng ra bề phò bang
2295. Trào nay thậm ngặt gian nan
Phật Trời chưa giúp phò an Hớn trào
Ruột gan biết để chỗ nào
Phật Trời giúp sức anh hào rạng danh
Để vầy người gọi hôi tanh
2300. Làm sao rạng tiếng thơm danh Phật Trời.

56
Phật cho nói việc cạn lời
Tôi nào có biết việc đời làm sao
Phật Trời cha mẹ ngôi cao
Trung thần mắc đoạ biết sao than phiền
2305. Đâu đâu chẳng thấy người hiền
Đẩy đưa lỗ miệng Phật phiền thế gian
Khát nuớc lòng cũng chẳng an
Đói cơm chẳng dễ khóc than dầm dề
Lộng tâm tham của nhiều bề
2310. Đường tên mũi đạn thác về tay không
Tội hành địa ngục thời đông
Đường Tây-phương Phật sao không ân cần
Sanh vi tướng tử vi thần
Quả lai báo quả cõi trần tồn vong
2315. Dạ cầu nguyện vái Thần-Nông (10)
Thay đời ngài độ đạo long đời đời
An vui hớn hở thịnh thời
Nơi nơi thong thả đời đời ấm no
Khẩn nguyền Trời Phật thương cho
2320. Làm người sao chẳng toan lo lâu dài
Cơn loạn thân khổ hành hài
Tưởng cho chúa rạng chi này thân tôi
Thấy đời đen bạc than ôi!
Mặc ai thương vạy ghét tôi không màng
2325.Sợ Trời Phật chẳng ngó ngàng
Sợ quanh sợ quất sợ đàng lụy tuôn
Biết sợ mới đặng tròn vuông
Bằng không biết sợ như truông tối trời
Sợ lỗi là sợi ở đời
2330. Việc phải là việc trải đời thế nan
Ai hay Phật đoạ chùa gian
Phật trời ở cõi Tây Phang không ngờ
Phật không ép kẻ phụng thờ
Mà đày đọa Phật dại khờ dương gian
2335. Tu nhiều tu phải lo toan
Phật ngồi dãy dọc dãy ngang hỡi còn
Phước sâu như biển nổi cồn
Đời nầy hao hớt ai còn thung dung
Quả nầy nghĩ lại quả chung
2340. Có phần phước hậu thung dung người hiền
Phước riêng tôi rẻ chớ phiền
Quả đời chung quả dữ hiền hai căn

57
Từ từ lỗ miệng có ngăn
Ai mà không nói không ăn dễ gì
2345.Mình tôi ăn ở dị kỳ
Ai ghét không ghét chê thì không chê
Xem đời nhiều việc chỉn ghê
Người khôn mắt thấy mắt quê như mờ
Tai nghe lời nói phỉnh phờ
2350. Thò tay vô lờ mắc kẹt cái hom (11)
Lủng chài mất cá làm om
Lòng tong lọt lưới khó . . . khó mờ
Vô duyên con ở bến đò
Bộ hiền lui tới ngắt ngò ngó ngơ
2355. Ai dè Đông-lộ đường dơ
Hại người trung liệt bơ vơ giữa vời
Nên hư người hỏi Phật Trời
Phần ai tội phước đừng lời hỏi tôi
Kẻ phải người quấy thương ôi
2360. Hai đường lành dữ nghĩ thôi tại mình
Nói cùng việc thế bất bình
Cớ sao người lại nghi tình chẳng lo
Ất-Mẹo sắp tới chẳng no
Canh Thân thị chánh nhơn do vấn thùy
2365. Nói trước người lại bất tùy
Nhơn tranh ngôn ngữ vấn thùy nhi ngôn
Nực cười tôi dại người khôn
Biết chi mà nói một môn tầm khùng
Việc không nói có chẳng dùng
2370. Tới đâu hay đó tầm khùng làm thinh
Có rồi người cũng chưa tin
Chừng nào thấy việc đao binh mới tường
Nói ngọt khác thể như đường
Người liều của thí cúng dường ác tăng
2375. Như tôi lòng có tham ăn
Kim trời diệt thứ búa trăng một từng
Ngó đâu thấy những ớt gừng
Trước đèn xem truyện nửa mừng nửa lo
Khói tàn phất gió bay tro
2380. Làm người trí dõng phải lo hội nầy
Mất bảy còn sáu để bày
Nói theo đường cũ dấu Thầy di ngôn
Mất sáu còn bảy thế khôn
Mất bảy còn sáu một môn phá rừng
58
2385.Hoán tẩy bàn hậu để gừng
Dẫu y như ý tu rừng tranh đua
Đem lời cay đắng chát chua
Nam mô thì bán hơn thua mua vào
Ngược xuôi khôn quỉ hỗn hào
2390. Từ bi tưởng Phật người nào cũng không
Thoàn câu dời bến đợi trông
Ngư, Tiều, Canh ,Mục hóa long có ngày
Con vua mà lấy ăn mày
Căn duyên trời định hội này phải cam
2395. Tu nhân tu nghĩa đừng tham
Tu trung tu hiếu phải đam vào lòng
Để coi cọp nọ hóa rồng
Sấu nằm đáy biển ngựa hồng lên mây
Mục Liên đây lại một cây
2400. Nhan Hồi bất hạnh xuất nay Thần đồng
Nào hay rắn nọ lộn rồng
Rồng thời lộn rắn có chồng hay không
Cha già luống những đợi trông
Chừng nào gặp hội không trông năm nầy
2405. Thuấn xuân trâu chẳng đi cày
Trời Nghiêu (12) lập lại ăn mày thành Tiên
Mãn đày căn bịnh mới yên
Chăn dân một cõi thời khuyên nước nhà
Khuyên trong bá tánh trẻ già
2410. Phật xa tây-tự ma mà gần đây
Chớ lo đốn gốc bứng cây
Giây nầy khác thể như giây chuổi rày
Trước mưu đạo nghĩa của Thầy
Để cho Phật định hồi nầy phải lo
2415. Bần tăng sãi khó ăn no
Học đòi Lang thị hết lo hội nầy
Cám thương bá tánh khó rày
Tràng an diễn thí ăn mày nhà thương
Ải quan giả dại biên cương
2420. Giấu thời để dấu oan ương vái Trời.
Thương cho bá tánh nhiều lời
Hội nầy tân cựu rã rời hiệp tan
Thiên cơ lộ máy dị đoan
Họa Trời gởi lại Phiên bang ngày rày
2425. Khác như nhạn nọ lạc bầy
Mai chiều cũng đặng một ngày thọ an

59
Cực lòng chớ thở đừng than
Nên hư có lúc hiển vang có thời
Huỳnh hôn tốt đất sáng trời
2430. Xác phàm cũng đặng đổi vời thượng thiên
Ép gan xử dạ đừng nghiên
Vạt xiêu sửa vạt chưa yên nỗi phiền
Hai mai hợp lại một tiền
Người trong Trung quốc hay miền càn khôn
2435. Chơn kinh bạch chỉ thế tôn
Chí tâm mài sắt nhứt ngôn tu trì
Kỳ Hương tiếng để biên thuỳ
Càng nhơn hai tỉnh dị kỳ cười chê
Võ Hoàng ( 13) đày kể chăn dê
2440. Triệu Vương mắc đọa khuyển kê tại trời
Giang san nay đổi mai dời
Sóng cao vì gió sáng Trời nhờ trăng
Ngàn trùng nước yếu lăng xăng
Màng màng đóng váng không ăn cơm Trời
2445. Đền Nam sơn thủy sáng ngời
Nam thanh nữ tú một lời tu thân
Tỏ đèn Nghỉa dạy nhân phân
Gào thưa lưới bũa phi ân bất tùng
Tích cốc mới rõ anh hùng
2450. Phòng cơ cho kẻ phục tùng trí tri.
Đời nào có thạnh có suy
Phàm trần nhiều kẻ khinh khi Phật Trời
Tam quan mở cửa sáng ngời
Giấu non để đó nhờ Trời năm sau
2455. Chừng nào hết thấy con trâu
Môi son má phấn đâu đâu xem tường
Tới đây mới gặp mối tường
Sang ba dục bảy mới tường ấu nhi
Sông ngang sông dọc một khi
2460. Ngã tư Chợ quán bất tri minh tình
Khôn thời chơi quán ngủ đình
Dại thời vào chốn minh tình nghe kinh
Họa lai phước chí tâm linh
Mặc hồng đổi lại đao binh dấy loàn
2465. Tới đây thôi mới nửa dàng
Tráng An diễn thí nhứt tràng an ninh
Khó thời niệm Phật trừ kinh
Dễ thời chấp ấn đao binh hàng đầu
60
Một sông biết bắc mấy cầu
2470.Kẻ qua Đông lộ người hầu tây phương
Giữa vòng có núi trung ương
Nam thiên mở cửa khó thương bạo tàn
Mương khai có núi ngăn đường
Sông sau lộ cái hai làng hiệp chung
2475. Nỗi nầy phân rẽ cội thung
Vận nghèo phải chịu Tiên cung hiệp hòa
Nam mô hai chữ Di-Đà
Bồ đề chuỗi hột Phật mà la ma
Thuở xưa Đại-thánh ngài ra
2480. Tam thiên đồ đệ xét ra không trò
Mưu sâu kế hiểm chẳng dò
Lọng khơi trong dạ tam dò đưa sông
Hạ-nguơn nay đã hết trông
Tại nơi Thất-thập Văn-công chê đời
2485. Đa ngôn đa ngữ loạn lời
Đa kinh đa sử ở đời loạn tâm
Phật vương tưởng đạo mười lăm
Tam Nguơn tứ quí minh tâm dặn dò
Tích chi đồng bạc con cò
2490. Vàng mười thấy đó giả vờ ngó ngơ
Hội nầy tôi chúa bơ vơ
Chim không cây đậu ngẩn ngơ mối sầu
Vì ai dạ đứt Nam-lầu (14)
Lòng đây chỉ giốc bắc cầu qua Tây
2495. Chợ voi thưa thớt ngày nay
Chiều mai cũng đặng một giây phố lầu
Để coi dạ đó không cầu
Sông không nước uống lòng sầu khát khô
Hay chi hai chữ Nam-mô
2500. Nhà giàu nhiều của ta vô mới tày.

Ý tình để tiếng lâu dài
Gẫm trong tiền của có tài phép chi
Làm người lấy đó mà suy
Nhiều tiền nhiều bạc ngu si thêm nhiều
2505. Chẳng biết việc cực sáng chiều
Chẳng lo thân khổ lo nhiều lời hơn
Lo việc bạc nghĩa phi ơn
Thâu đa xuất thiểu tình hơn một mình
Ít ai xét lẽ ân tình
2510. Thương người đói khó nghĩ mình no đây

61
Ít ai xét việc vạy ngay
Thương người cực khổ mình đây sướng rồi
Ít ai sợ thác luân hồi
Sống trên dương thế ỹ ngồi trên cao
2515. Người nói thác mất hay sao
Tôi e Diêm-chúa đề lao chen người
Nặng tội sa cửa thứ mười
Nói ra đủ lẽ cho người đặng hay
Tới cửa mười hai phân thây
2520. Nhồi da xáo thịt huờn nay thú cầm
E cho mắt bịt người lầm
Đừng e việc tội thú cầm nhẹ vo
Mèo nọ no lại nằm co
Mèo nằm rình chuột còn lo đói lòng
2525. Chuột lan nó chạy ra đồng
Trâu ai thả đó mích lòng không lo
Phải đem tiền bạc dằn kho
Rước quan Thầy-kiện lại lo chuyện nầy
Trước tang tớ để cho Thầy
2530. Thầy đưa cho tớ việc nầy phải phân
Việc Phật chẳng phải việc dân
Dân là dân Phật phải cân cho đồng
Việc phân Phật chẳng vị lòng
Tội ai nấy chịu dự phòng tội thân
2535.Phật Trời thì phải cầm cân
Không lui không giác mà dân trách phiền
Tiền hậu hữu Chánh giáo truyền
Một nhà con dữ con hiền giết nhau
Phật Trời người chẳng thấy đâu
2540. Hai Mèo hai Cọp hai Trâu ngầy ngà
Cai rằng chia ở hai nhà
Hai rồng tranh đấu giỡn mà trái châu
Việc đâu phải nói việc đâu
Mới là mới nói cũng lâu bầy chấy
2545. Bấy lâu nhiều tớ một Thầy
Bây giờ một tớ nhiều Thầy quá kinh
Trước linh sau cũng có linh
Lẽ nào Phật để u minh vậy hoài
Trước tài sau cũng có tài
2550. Lẽ nào Phật để dại hoài không khôn.

Cố thiệt năng xử đa ngôn
Xử tà xử chánh xử ngôn xử cuồng
62
Tâm dục hỉ nộ sầu buồn
Ai lạc ái ố dục cuồng than gian
2555.Dục ma dục quỉ đa nan
Dụa đắt minh thiện bình an trẻ già
Dục đắt tâm Phật thiệt thà
Dục lòng hung dữ thiệt thà lòng ma
Nhựt trình khán quá gần xa
2560.Xem trong Nam Việt nước ta thạnh thời
Đêm nằm niệm Phật vái trời
Cầu cho trăm họ tùng đời Thánh Tiên
Bây giờ tới vận hòa Phiên
Hiệp tinh nhị quốc mới yên nước nhà
2565. Mãng lo hiếu đạo cần cà
Phúc đâu vận chí tấn hòa Thới-Hưng
Nhìn xem phàm cảnh rưng rưng
Thấy tà ma quỉ đều xưng anh hùng
Một mình luống những nằm mùng
2570. Phúc đâu trận gió đùng đùng ra oai
Làm người sao khỏi ba tai
Hết cơn bỉ cực thới lai mới tường
Tuy không chinh chiến cang cường
Vọng cầu quốc thái minh đường khương ninh
2575. Bất đụng xuất động giao chinh
Cầu hòa Phật giúp khẩu binh trợ tài
Cầu cho bá tánh lâu dài
Xuất chinh vô pháp vô tài hao binh
Thác nhứt nhơn sự bất minh
2580. Tội đa thậm tội chiến chinh hại người
Phép mầu đánh giặc vui cười
Đánh giặc mà khóc hại người tội đa
Cầu Trời khẩn Phật độ ta
Giặc ta quỷ giặc ma thời đừng
2585. Đời nầy nhiều việc ớt gừng
Sát nhơn hại vật thì đừng mới nên
Đừng lòng sanh sự phao tên
Phao tên sát hại nghĩ nên việc gì
Tích thiện hưởng đất hương-kỳ
2590. Tích tên tích pháo sự thì tích hùng
Thiện tâm tích đức tích trung
Ác tâm tích bạo tích hung lo hoài
Nhẫn nhẫn mới dặng lâu dài
Hung hăng tà nịnh phước tài có đâu

63
2595.Phật cho kim bút đề câu
Giáo người thiện nghiệp đâu đâu hãn tường
Mặc ai rước khách đưa đường
Phật Trời dạ thẳng thường thường không sai
Ai ở quấy phải mặc ai
2600. Gắng lòng tới lúc chiều mai coi đời.

Giáp Tý hội Phật hội Trời
Qua năm Kỷ-Tỵ lập đời thanh nghiêm
Mãn cổ lập lại đời kim
Mãn kim lập cổ thanh nghiêm đời đời
2605. Thập bát quốc hội Phật Trời
Bất dạ bất nhựt một đời minh linh
Xuất binh ở ngoại quản thinh
Đằng vân giá vỏ tinh minh quản đường
Giáp Tý hiệu một thái bường
2610. Ký hiệu lập hậu thượng đường mấy năm
Thứ nhứt tồn dĩ cơ thâm
Thứ ba giáo thế thứ năm ra đời
Thứ sáu hòa hiệp nước trời
Khuyên người chữ dạ nghe lời thảo ngay
2615. Ngày sau không có ăn chay
Giữ lòng cho chặt thảo ngay thọ trường
Ai còn dạ bạo tâm cường
Lập đời thanh tịnh bất tường xử tiêu
Độc trùng ác thú phi diêu
2620. Nhơn trần thậm tội xử tiêu quỉ tà
Uống phù như con một nhà
Tiền khi thánh đạo bất hòa bá gia
Hậu lai đất Thánh ngài ra
Độ phù giáo đạo tiêu ma tiêu tà
2625. Nghêu ngao sơn thủy rừng già
Lòng ngay làm Thánh lòng tà xử tiêu
Trước noi đất Thuấn Trời Nghiêu
Hậu huờn cõi thọ tiêu diêu trung thần
Qui lai Trời Phật Thánh Thần
2630. Lọc lừa chí để phế trần thánh tâm
Tiền đường lập đế phế âm
Hậu lai phế thế phế thâm trung trần
Tây phương cõi thọ hưởng phần
Ai ai gắng chí cõi trần khá tu
2635. Phải cần biển Thánh rừng Nhu
Đặng mà chiếm bảng trung thu danh đề
64
Trào xưa có Cậu có hề (15)
Trào nay có Cậu không hề tớ tôi
Xem đời chắc lưỡi than ôi!
2640. Hữu sư vô đệ thương thôi hậu đời
Đờn bà Phật dạy nghe lời
Đờn ông nhiều kẻ cãi trời loạn tâm
Trở dương vận khí vi âm
Trở Âm vận khí minh tâm dối lòng
2645. Âm dương vận khí hiệp đồng
Quang minh tương hội một lòng an khương
Vận khí qui Trụ phế Thương
Chừng nào mạc Trụ an khương nước nhà
Vận khí từ trẻ tới già
2650. Quang minh chánh lý nước nhà loạn dâm.
Vô cùng kế hiểm mưu thâm
Dụng đường vận khí loan dâm minh tình
Ngọc hoàng chiếu số trào đình
Phật Trời khiến loạn minh tình khó phân
2655.Vận khí kẻ nghĩa người nhân
Những đường vô loại khổ thân lại gần
Việc Phật tiêu xuất ba lần
Khuyên người Nam Nữ tưởng thần nhập tâm
Đời nầy như đất tồn lâm
2660. Đuốc soi hang tối cơ thâm ít người
Ngưỡng than Trời Phật ít người
Một mai tôi thác thương người mồ côi
Bao giờ cho hiệp chúa ôi
Cho tôi thấy Chúa Trời ôi là Trời
2665. Phụng loan sánh phận theo thời
Hoa tàng tiếc ngọt nương đời từ bi
Vận khí thiên địa tu tri
Quang minh linh tánh tham chi tục đời
Trái lý khó biết Phật Trời
2670. Phép nhiều việc lạ trái đời nan tri
Việc trước Phật hành ngu si
Tai nghe mắt thấy cung ly thảm sầu
Một Thầy chỉ bảo đạo mầu
Lòng nghe vắng vẽ từ đầu chí đuôi
2675. Bao giờ cho gặp nước xuôi
Thấy đường nước ngược không nguôi trong lòng

65
Sóng xao đất lỡ chập chồng
Tai nghe thuở trước động lòng thở sau
Bây giờ căn bịnh còn đau
2680. Nghĩ hồi thuở trước lo sau thảm phiền
Loạn dâm huờn thú như tiền
Dâm khuyên bá tánh lòng hiền phân căn
Ngồi buồn vọc nước giỡn trăng
Nhứt thinh rửa sạch phân cân riêng mùng
2685. Phân cho dân chúng tương phùng
Kết duyên nam nữ phục tùng phu thê
Phân căn cho kẻ kiểng huê
Bạc tiền của Phật phu thê hưởng phần
Lương duyên rồng phụng châu trần
2690. Nữ nhân hữu phước dựa phần quân sư
Dạy đều các quốc phân chư
Chia vườn chia đất an cư tịnh bình
Hai sáu là tuổi vua mình
Thập tứ hưởng thọ trào đình gia tăng
2695. Một nàng Hoàng hậu hiệp căn
Tuổi vừa hai tám Trời trăng hiệp hòa
Phụ mẫu trường thọ nước nhà
Nhứt phu nhứt phụ thiệt thà qui căn
Thiên địa nhựt nguyệt Trời trăng
2700. Quốc vương chánh thất ngoại căn vợ chồng
Trời chiều tri thức tấm lòng
Tới mai coi đủ vợ chồng hay không
Biết mà không nói như không
Nói ra biết chuyện mênh mông khó bàn
2705. Trước biết xem ý xóm làng
Sau dầu tỏ rạng chỉ đàng người đi
Bất kỳ nhơn thính nhơn khi
Khai đường mở ngõ không đi không cầu
Trào nào quan tướng không hầu
2710. Trào nay thất mẫu bất cầu như không
Chưa thấy nói chuyện minh mông
Việc rồi nhắc lại cũng không hay cùng
Xứ xứ diệt hữu anh hùng
Sợ người nói bậy vô cùng đắng cay
2715. Thoạt ăn thoạt nói khó thay
Nói bậy nói bạ đắng cay bực mình
Trách thay Bắc địa (16) lộng tình
Tác thơ kinh sử bất bình trung cang
66
Đêm nằm nát một lá gan
2720. Oán thù nịnh tặc chẳng an trong lòng
Ngày sau thiệt vợ thiệt chồng
Căn duyên Phật định tơ hồng xe săn
Bấy lâu trời lại cách trăng
Hội nầy nhựt nguyệt hiệp căn vững bền
2725. Thiên cơ dựng nghiệp một nền
Nhứt thinh ngó thấy điện đền vui thay
Xuất tình mật trí người hay
Chim đậu không bắt chim bay theo rình
Khoe khoang chi bấy cái hình
2730. Bao nhiêu tâm sự xuất tình còn ghi
Như vầy Phật cũng từ bi
Ngọc-hoàng chiếu số dung chi cho đời
Sông mê phủi sạch trong Trời
Kiển tiên đem lại người đời vui thay
2735.Đừng chê Trời Phật chẳng hay
Ngày sau thân thể như cây không trồng
Khát nước thì chạy vô đồng
Giếng Tiên hai cái rửa lòng nhơn dân
Bạc vàng lộn lạo không phân
2740. Trông Trời nhứt sĩ dạy dân rõ ràng
Thấp cao vàng biết tuổi vàng
Gặp cơn lửa đỏ màu càng thêm xuê
Anh em đừng cười tôi quê
Khỉ mà cỡi Rắn con Dê cỡi Rồng
2745.Một khi lộn lạo vợ chồng
Thiên đường hiệp nhãn phụng rồng sánh đôi
Cảnh phật có chúa có tôi
Không sanh không đẻ kết đôi sum vầy
Chơi Tiên tỏ rạng như ngày
2750. Không chơi thầm tối hội nầy u mê.
Hội nầy lập Trụ thả dê
Trái phần nhơn bất mê huê xử đời
Hiệp nhãn mới thuận lòng Trời
Trái tâm lỗi dạ phế thời cho huê
2755. Mặc tình thế sự khen chê
Tu mà không vợ tu quê tuyệt đời
Phật sanh thiên hạ trong Trời
Có nam có nữ nối đời quốc vương
Ỷ giàu như ngựa buông cương
2760. Như trâu rút mũi khó nương ỡ chuồng

67
Dạ sao mà dạ không buồn
Thiên cơ thất quốc luôn tuồng bất lương
Ăn ngay ở thẳng Phật thương
Người nào bất chánh bất lương tội nhiều
2765. Hạ-nguơn Phật đã bỏ liều
Phật cho sĩ xuống dạy chiều huờn mai
Dạy lành kẻ gái người trai
Mặc tình giá trẻ nào ai ép lòng
Nghĩ đời càng não càng nồng
2770. Càng xao gia đạo càng lòng đắng cay
Nguyện Trời không cánh mà bay
Chưn không đạp đất thoại thay con Trời
Hạ-Nguơn nay đổi mai dời
Phật cho trẻ ra đời nối sau
2775. Bấy lâu cá ẩn trong ao
Hội lành bao nở trên cao phụ lòng
Hiếu trung khá giữ rặt giòng
Vẹn toàn mới đặng đạo đồng Bửu-Vương
Sách đèn công khó vi luơng
2780.Chí tâm đặng quả Phật-Vương địch phần
Chẳng lo hiển Thánh hiển Thần
Dạ lo phú quới cõi trần đọa thân
Phật dụng tích đức tâm ân
Phật Trời bất dụng phi ân quới quyền
2785. Lục thất trí độ như tiền
Bơ vơ người thế như thuyền lọng khơi
Nay nói như thể nói chơi
Khổ thâm khổ hạ mệt hơi chớ phiền
Ở sao cha mẹ đừng phiền
2790. Tử giai kỳ tử con hiền nỡ vong
Ngồi buồn trách phận long đong
Tưởng hồi tự ái hóa long đã rồi
Nào hay dương thế còn ngồi
Linh đinh sống-dập gió dồi từ đây
2795. Phụng hoàng đủ cánh rồi bay
Chim sâu chưa đủ nằm đây thảm sầu
Quản bao thân trẻ giải dầu
Đội ơn tứ đại lập dầu xót xa
Bao giờ thấy Phật Thích-Ca
2800. Thấy chùa Công-phủ gần xa dục tùng.
Bấy lâu tưởng thiệt thằng khùng
Bây giờ mới biết anh hùng trí tri
68
Đại hùng đại lực đại bi
Thương thân vận bĩ thế suy thảm sầu
2805. Bắt con Ô thước đội cầu
Qua Tây vấn đạo dạ sầu Nam-bang
Ông phò nhị-tẩu cư an
Đầu Tàu vấn đạo Nam bang sụt sùi
Thiếc ten sắt sét khó chùi
2810. Vàng mười cũ vỏ ngậm ngùi lòng son
Điểu nằm chót núi thon von
Ngư trầm thủy để núi non hao mòn
Thú ngơ bề thú sao còn
Người ngơ dạ ngọc hao mòn con ngươi
2815. Cảnh mầu một cụm tốt tươi
Phiền người niệm Phật xúm bươi đạo Thầy
Thuở xưa Phật có tỏ bày
Ngày sau bổn đạo chê thầy không linh
Ngồi buồn dở sách xem kinh
2820.Tu tâm phước chí tâm linh Phật mình
Cơ gia phản trí lộng tình
Giết nhau như thể trâu sình cá ương
Rồi đây thấy thảm thấy thương
Thấy đường sanh tử oan ương giữa vời
2825. Ai ai tâm chánh giữ lời
Việc tà đừng nhớ chánh thời đừng quên
Ông mà kêu ổng sao nên
Bà mà kêu bả không quên lời tà
Mợ mà kêu mở chẳng hòa
2830. Cậu mà kêu cẩu thiệt là tội đa
Cô mà kêu cổ thiết tha
Dì mà kêu dỉ xét ra dối lời
Dượng mà kêu dưởng khác thời
Anh mà kêu ảnh trái lời bất minh
2835.Chị mà kêu chỉ lưỡng thinh
Vợ chồng thứ tự bất minh nghịch thời
Trường xuân minh chánh lập đời
Chồng anh vi chánh vợ thời làm em
Tây-dương vợ chị chồng em
2840. Nghịch phần nhơn vật khó xem minh đời
Ai ai chớ trách Phật trời
Minh tâm thuyết lý nhiều lời cao sâu
Trớ trêu đờn khảy tai trâu
2844. Nước xao đầu vịt gẫm lâu nực cười.
___

(1). Mất trước sợ mất lòng sau: Tục ngữ: Mất lòng trước, được lòng sau.
(2). Bụi, lùm : bụi cây, lùm cây. Nơi nhiều cây cối rậm rạp.
(3). Xốc, ních: ăn nhiều, ăn hết.
(4).mích lòng: mất lòng
(5).trà phe: cà phê.
(6). Hom: trét dầu chai vào cho nước khỏi vào.
(7).Om: bể ra, làm ầm lên như gắt om, la om sòm.
(8) Nhan Hồi: học trò của Khổmng tử, chết yểu.
(9). Lý Nguyên Bá: Lý Nguyên Bá, là con thứ 4 của Lý Uyên, tức là em trai của Lý Kiến Thành, Lý Thế Dân, Lý Nguyên Các....Lúc 12 tuổi, Lý Nguyên Bá tay cầm song chùy nặng nghàn cân, đã xông trận mạc và nổi danh là có sức mạnh vô song.
Trong cuốn "Thuyết Đường" của Mộng Bình Sơn đặc tả nhân vật này là dũng tướng số 1 của Trung Nguyên thời đó. Thậm chí các hổ tướng dũng mãnh như Tần Thúc Bảo, Uất Trì Cung, Trình Giảo Kim, La Thành, Ngữ Vân Thiệu... đều không chịu nổi một chùy của Lý Nguyên Bá.
Sau này khi dẹp loạn 18 chư vương, trên đường chiến thắng trở về Thái Nguyên, giữa đường gặp cơn giông tố, mây đen đầy trời, sấm sét dữ dội. Lý Nguyên Bá phi ngựa ra, giơ cao đôi chùy hét lớn " Ngay cả ông trời cũng muốn đánh nhau với ta sao? Được lắm, lại đây."
Hậu quả Lý Nguyên Bá bị sét đánh theo đôi chùy dẫn điện, cả xác cũng cháy thành than. Có thuyết nói rằng Lý Nguyên Bá chửi trời, ném song chùy lên đánh trời, trời tối, chùy rớt xuống trúng đầu mà chết.
(10).Thần Nông:Thần Nông, còn được gọi là Viêm Đế (炎帝) hay Ngũ Cốc Tiên Đế , là một vị vua của nền văn hóa Trung Hoa, một trong Tam Hoàng .Theo truyền thuyết, Thần Nông sống cách đây khoảng 5.000 năm và là người đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên đã làm lễ Tịch Điền (còn gọi là lễ Thượng Điền, tổ chức sau khi gặt hái, thu hoạch mùa màng) hoặc Hạ Điền (lễ tổ chức trước khi gieo trồng), cũng như nghề làm thuốc trị bệnh, cho nên trong dân gian có câu Thần Nông giáo dân nghệ ngũ cốc (tức Thần Nông dạy dân trồng ngũ cốc)
(11).Hom: Bộ phận trong dụng cụ bắt cá ( cái lờ, cái lọp) . Trong cái lờ, cái lọp cũng như một số dụng cụ bắt cá, thường có cửa cho cá vào nhưng cũng là nơi chặn cá lại, không cho cá ra. Đó lkà cái hom.
(12). Thuấn: Đế Thuấn (舜) là một vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại, nằm trong Ngũ Đế. Tên khi sinh của ông Diêu Trọng Hoá (姚重華). Ông cũng được gọi là Hữu Ngu Thị (有虞氏). Vua Thuấn, cùng với các vua Nghiêu và Vũ, được Khổng giáo coi là những vị vua kiểu mẫu, và là những tấm gương đạo đức.Vua Thuấn lúc trẻ cày ruộng sau ra làm vua. cha lấy vợ kế độc ác, em khác mẹ là Tượng bất nhân nhưng ông vẫn hiếu để. Sau được vua Nghiêu truyền ngôi.
(13). Vũ hoàng: Tô Vũ tên thật Tô Tử Khanh, người đất Đỗ Lăng là một bầy tôi trung của vua Hán Vũ Đế. Thời đó, nhà Hán thường bị giặc Hung Nô ở phương Bắc hay quấy nhiễu, dòm ngó. Tuy là nước lớn nhưng muốn cầu hòa, nên Hán Vũ Đế sai Tô Vũ đi sứ sang Hung Nô. Sang bên Hung Nô, vì làm phật ý vua Hung Nô (thiền vu), Tô Vũ bị bỏ vào hang, ba ngày không cho ăn để cho chết. Tô Vũ nhờ hớp những giọt sương đêm trên ngù cờ mà sống sót. Thấy lạ, chúa Hung Nô kinh sợ, cho Tô Vũ là thần, không dám hại nữa mà đày đến đất Bắc chăn dê, giao hạn cho tới khi nào dê đực đẻ ra dê con mới được trở về Hán.
(14). Nam lâu: Lầu Nam: chỉ nước Nam.
(15). Hề: hề đồng, đứa trẻ theo hầu cậu chủ.
(16). Bắc địa : đất Bắc: Trung Quốc hoặc Bắc Việt.



No comments: