Tuesday, July 5, 2011

I. KIM CỔ KỲ QUAN 5



KIM CỔ KỲ QUAN quyển I tập 5

Tài liệu tham khảo:
Ấn bản 1957 và ấn bản 1964

(Ấn bản 1964 từ tr. 25 đến tr.30; cột 49-60)



49
2089. Nói lắt lẻo nhiều việc tức cười (1957, 65)
Chợ ma có Phật chợ người không Tiên
Ngồi ngẫm nghỉ những việc ( chuyện ) Tây-Phiên
Rồi đây lạy Phật lạy Tiên sói đầu
Trước chê Phật thấy Phật không cầu
Phật ngài trả quả dập đầu cầu Tiên
2095. Đức Thánh chúa vi Phật vi Thiên
Ý sao chê Phật chê Tiên tu nào
Phật là Thánh, Thánh Phật tâm bào
Chúa Trời Trời chúa cõi nào đâu xa
Tới ngày sau có Phật hỏi cha
2100.Việc Thiên việc quốc việc ma tỏ tường
Phép Phật Trời chẳng phải phi thường
Phải tri cho đủ tỏ tường kiết hung
Tri cho rõ kẻ nịnh người trung
Tri trong Trời Đất kiết hung chỗ nào
2105. Tri cho đủ bá quốc kiệt hào
Hai đường tội phước chỗ nào xử tiêu
Tồn thập bát quốc chỉ noi theo (Nghiêu )
Ngoại thời ( trừ) các nước quần yêu xử tà
Phải dụng mưu đi kiện do hà
2110. Thượng tờ bẩm cáo tâu mà việc quan
Cõi trung trần tội xử chẳng an
Cho nên thiên hạ dọc ngang (thấy ) chết nhiều
Thượng bất chánh hạ tắc loạn (1 ) triều
Phật Trời xoi xét thác nhiều nhiều khi.

2115. Nhơn hữu thiện thiện tất tùng chi (1b) ( bản 1957, 66)
Người nào (mà ) theo ác ác qui cho người
Hưng – Thới thôn qui lạc số mười
Nhàn du kiểng nội thương người hiếu trung
Tới đó mới sum hiệp cội thung
2120. Anh hùng Lục-Tỉnh Tiên cung hiệp hòa
Qua hội đó ăn mặc đen dà
Trồng khoai tỉa bắp đặng mà nuôi nhau
Giữ lòng hằng niệm Phật một câu
Chờ mai hội thí ruộng dâu (2) minh tình
2125.Có ai tham quờn ( quyền) tước một mình
Thương cho vạn chúng lộng tình đọa thân
Lời (Cõi ) xác phàm nên mới tỏ phân
Ý ai tỏ đặng nghĩa nhân lâu dài
Lòng niệm Phật học đặng phép tài
2130. Bá-gia gắng chí nhiệm hoài giữ thân
50
Niệm Phật thì xét nghĩa xét nhân
Xét tà xét chánh giữ thân vẹn toàn
Đời nầy như chén bể khó hàn
Học đòi như Thạch-Đạo Toàn (3) mới nên
2135. Gái Vô Hà gái đặng bực trên
Gái trai suy nghĩ mới nên làm người
Có con ai mới đẻ mà cười
Đẻ ra thời khóc khóc người tu oa
Muốn làm người xét tới nghĩ ra
2140. Làm lành niệm Phật hương hoa Phật Trời
Tu lỗi đạo tu thắng tu thời
Tu mà mạo chiếu Phật trời ấn ban
Hưởng thập phương nói dọc nói ngang
Không chỉ mối đạo loạn an chánh tà
2145. Việc phù thủy không ai thưởng gà
Tượng ông lỗi đạo chúng mà dấy (nhát ) ma
Đời hạ trần Phật lộn với ma
Quan Hầu chánh thị đem ra dối đời.

Chớ che mắt Thánh lánh Phật Trời ( Bản 1957, 67)
2150. Tụng kinh quyến quỉ pháp thời quyến ma
Tu lỗi đạo chẳng khỏi Diêm la
Đường về Tây- Điện theo ta ít người
Nhiều nỗi khổ vui hết muốn cười
Khổ tăng gia khổ ít người phạm tăng
2155. Của Phật nhiều sao ít kẻ ăn
Của ma thời ít lăng xăng tranh hành
Tội Tàu man ước chất nên thành
Bán bình bán tượng tranh hành nước Nam
Phật xử tử giam hậu biệt giam
2160.Tây Phiên mắc án quan tham bạc tiền
Tôi nói ra anh em chớ phiền
Để coi sự thế tri tiền hậu phân
Tiền Vĩnh-Hạnh nhiều kẻ bạc ân
Hậu lai Thạnh-Mỹ bất phân chánh tà
2165. Đoạt du địa giao hệ nước nhà
Chê rằng Trời Phật vậy mà không linh
Ác phụ nữ ( gia ) tâm tánh bất minh
Ác kỳ tăng chúng tâm kinh bất cầu
Chẳng nhớ xưa trảm phụ Võ-Hầu?
2170. Âm dương tương hội long cầu phi thăng
Địa sanh thảo hà thảo vô căn (4)
Nhựt xa nguyệt cách bất thăng nhơn tài



51
Chí bất vi lâm nguy bày vẽ
Đứng anh hùng mắc cỡ lỡ danh
2175. Thuyết trí ngu Hàn-Tín (5) phế canh
Lòn trôn gữa chợ Hậu tranh Hớn-trào
Giòng Vị thủy (6) long xuất anh hào
Long du san lãnh Hớn-trào tay thâu
Lòng dặn lòng câu phải giữ câu
2180. Bực ngồi mòn bực dạ đâu mặc người
Cá vẫn vơ mặt biển đua (vui ) cười
Sấu nằm bực hẫm chờ người làm chung.

Hoạn bất tài hà loạn bất trung (bản 1957, tr.68)
Dạ nghiêng sưả dạ lâm chung có Trời
2185. Thấy nỗi thế lo hậu nỗi thời
Oán ân ân oán việc đời chưa yên
Người quân tử oán để bá niên
Tiểu nhơn hối ngộ oán riêng nhãn tiền
Thấy nỗi thế nhiều nỗi ưu phiền
2190. Oán thời báo oán nhãn tiền tới đây
Chớ chê rằng Trời Phật chẳng hay
Xác phàm như thể gốc cây biết gì
Noi Thánh nhân thoát đọa biên thùy
Chẳng nghe lời Phật họa thì thấy đâu
2195. Phải dò lòng Thánh đạo cạn sâu
Lý thâm thấm ý lo âu nghĩa đời
Xuất ngôn vô độ khó sửa lời
Biết sao Phật cứu khỏi đời nhơn khi
Có chữ rằng kiến nghĩa bất vi (7)
2200. Lâm nguy bất cứu thị phi anh hùng (8)
Kẻ chê dại người ghét tầm khùng
Cơm ai nấy độ nói cùng mà nghe
Kẻ đi tàu người lại đi ghe
Tiệc hai ba tiệc không nghe mất hồn
2205. Doi Lộ Lỡ sau có cất đồn
Làm quan mướn lính giữ hồn mướn thây
Người của mình đi lính cho Tây
Lính Tây đem lại đi nay cho mình
Chớ vui chi chưa thấy việc bình
2210. Làm xâu đóng thuế gẫm tình hai năm
Tam ngoạt kỳ giả điếc giả (làm ) câm
Ngồi buồn nhớ (thấy ) Phật minh tâm sợ thầm
Dụng củi đậu nấu đậu cúng rằm
Mượn đầu heo trắng mưu thầm cháo toan (9)

52
2215.Nhóm một hội cáo Phật bảo an
Bạc tiền vô số nhà ngang đầy đầy.

Của bá gia đem tới hội nầy (1957, 69)
Phật Trời cứu độ dạy rày bá gia
Của tiền nhiều của quỉ của ma
2220.Sớm vào thời tối nó ra chẳng còn
Càng thâm tổn càng hao càng mòn
Đời nầy ăn nói nghe dòn lỗ tai
Nói bắt quàng để tích chiều mai
Lập lời bất mãn đố ai làm vầy
2225.Bá-lý-vương (9b) qui nhứt đạo thầy
Lời nói không thầy đố mầy làm nên
Cảm phiền cho bổn đạo vội quên
Giác mê Thầy để dạy nên nhiều lời
Tu làm sao chẳng biết Phật Trời
2230.Tu ăn tu giả tu thời (đời ) Ngụy-Gia
Tu làm sao chưởi mẹ mắng cha
Ông bà chẳng tưởng mới ra đổi nầy
Lòng than ôi! một chiếc đò đầy
Sóng xao mặc sóng (10) ăn mày cũng ưng
2235.Vàm Hòn Đất thâu lại Mặc-Dưng
Sơn-Tô dựa mé chợ xuân năm làng
Sao chẳng lo ăn học ứng tràng
Nhứt tâm niệm Phật ngoại càn ứng tâm
Phật di sơn đảo hải cơ thâm
2240.Khai sông lấp rạch khiến âm di tà
Kiểng nào vui bằng kiểng Di-Đà
Thanh tâm nhựt nguyệt Trời mà ít mây
Không gầm chuyển sấm chớp như đây
Gió hiu mát dạ mát cây mát người
2245.Đời nực nội bực bội vui cười
Gió bấc thổi lại lạnh người chèo queo
Dạy làm lành ít kẻ làm ( nghe ) theo
Làm dữ khỏi dạy con heo cũng (khỏi) làm
Tôi lo ăn bá tánh lo làm
2250.Nước lã mà khuấy nên chàm nhờ vôi


Sau tam giái hội lại một ngôi (Bản 1957, 70)
Muôn dân lạc nghiệp chúa tôi thuận hòa
Người ăn nói bằng thẳng thiệt thà
Trình thưa dậm dạ giữ mà phép khuôn
2255. Lập Thượng ngươn tuổi cả một muôn
Trung ngươn giữ dạ phép khuôn trên ngàn



53
Còn sanh tử giữ chẳng đặng toàn
Sao còn sanh dạ xóm làng dọc ngang
Biến Trung-ngươn Trời Phật xử tan
2260.Lập đời thượng cổ nhứt ban Phật Trời
Mười tám nước qui lại một đời
Khá tu giữ đạo theo Trời một ngôi
Trong hai muôn biến đổi thế thôi
Đem về Thượng cảnh chúa tôi Phật Trời
2265. Ăn không no để dạ lo đời
Lo trước một sải (11) lo thời ba căn
Chí sức buồn ngó nước xem trăng
Bà già đi bán mụt (11b) măng trên đèo
Có một cột mà biết mấy kèo
2270.Không tàn không lọng nước nghèo làm nên
Sợ cho người sau lại quên tên
Dự phòng quên tuổi khó bên xác phàm
Trắng như giấy xanh bực như chàm
Mít thì hột mít phu phàm phàm phu
2275.Tu đừng rủ có rủ đừng tu
Xác phàm gắng chí công phu chớ phiền
Dạ nào hay vua cũng như thuyền
Dân thì như nước nước thuyền nương nhau
Lạ đời nầy mặc áo không bâu (12)
2280. Vận quần lưng rút khó âu khôn ngoài
Kẻ chơn hớn người lại chơn hài
Sửa sang cho lắm được ngoài mất trong
Tiếng đặt vè giỏi một sâu thông
Anh hùng tranh thực tranh công ít người.

2285. Phật Di-Lạc xuất thế hay cười ( bản 1957, 71)
Miệng ngài nói hẵng (mặn) thì người ngã lăn.
Đa tài phép khả dĩ thăng
Chơn đi khỏi đất lăng xăng cõi trần
Hội chư vị du Thánh du Thần
2290.Về mà cứu độ cõi trần bá gia
Tại lòng người thấy Phật nói ma
Thấy ma tưởng Phật mới ra hội nầy
Chốn am vân mỏi mệt lòng Thầy
Tây phương trở lại cõi nầy ngao du
2295. Nhiều kẻ dữ ít kẻ lòng tu
Núi non chẳng kể công phu chẳng dùng
Việc sống thác ( sinh tử) là việc vô cùng
Sống thơm sống thúi thác khùng thác ngu
54
Vậy cho nên Trời Phật dạy tu
2300. Không đường tội phước công phu làm gì
Tu nhiều kiểng tu lạ tu kỳ
Tu không biết Phật tu tùy kim ngân
Tu độ Phật tu chẳng độ dân
Hữu thân bất độ hà thân vẹn toàn
2305. Độ thi phải độ tận xóm làng
Xóm làng chẳng độ tâm tràng chẳng yên
Mưu sự tại nhơn thiềng sự tại thiên
Lời ai để đó Phật Tiên để ( phụ ) lòng
Tu làm sao phù chú vẽ vòng
2310. Lên non kiếm thuốc xuống đồng độ dân
Tu làm sao phí nghĩa bất nhân
Xưng Trời xưng Phật tội dân không tường
Tu làm sao rao bán ngoài đường
Bắt Phật mà dối bất tường kiết hung
2315. Tu làm sao chẳng biết nịnh trung
Có tiền thì dụng cùi phung chẳng màng
Của bá gia tội phước chỉ đàng
Không nghe việc phải bạc ngàn cũng tiêu.

Ăn không phải một cắc cũng (không ) siêu (bản 1957, 72)
2320. Tội người Phật xử cũng tiêu xác hồn
Người làm dữ cũng có tiềng đồn
Làm lành tiếng dậy như hòn ( cồn ) Thái-sơn
Bỏ nói dọc cũng (đừng ) bỏ (có) nói ngang
Đường dài thăm thẳm như hang Thương Tòng (13)
2325. Lo đạo đức niệm Phật dự phòng
Lo đường tiền bạc xa lòng Diêm-vương
Phản nghịch quốc dạ phản Châu-Thương (14)
Phản trung phản Phật tai ương sa đà
Nói không nghe như lũ lâu la!
2330. Dục tốc bắt đạt khổ mà dân ôi!
Chúa bất chánh giữ dạ làm tôi
Chúa trung thần nịnh bịch vôi để dành
Chớ a dua mong hại người lành
Thân như sống bổ đầu gành lao xao
2335. Nhìn mé biển phải ngó cù-lao
Rồi đây tới đó biết tao với mầy
Nghĩ thuở trước nghĩ lại thuở nầy
Lỡ bao nhiêu lỡ tớ Thầy như nhau
Lỡ mưu độc cũng lỡ mưu sâu
2340. Niệm binh chư vị một câu trợ thời


55
Ở trên đầu có Phật có Trời
Hai vai Thần Thánh chứng lời vạy ngay
Tôi cũng người làm việc cho Tây
Phật Trời soi xét lòng ngay lòng tà
2345. Khuyên bá gia niệm Phật Di-đà
Ngày sau văn mất võ mà võ không
Lời ghi để mù mịt minh mông
Thấy mà không biết cũng không biết gì
Trải mùi hương thấm ý biên thùy
2350. Trinh tường biến thoại lân kỳ phụng loan
Ngưỡng than rằng vạn lý thiên san
Ngôi Trời tỏ rạng chúa an tôi (dân) lành.

Có sông dọc Trà-Hộ lên gành (Bản 57, 73)
Đạo nào bằng đạo làm lành thảnh thơi
2355. Nói làm vậy như việc nói chơi
Chừng nào ngó thấy các nơi rã rời
Con mắt sao ngó thấy sáng ngời
Trong như mắt cọp miệng người ngọt thơm
Răng thì trắng thiệt người ăn cơm
2360. Lưỡi sao răng vậy gạo thơm ngọt ngào
Gạo khỏi giả thông thả anh hào
Các nước gạo trắng tâm bạo tội sau
Khỏi lo bề làm ruộng đất sâu
Đất có sình trấp mọc âu lúa Trời
2365. Thiên sanh ư Tý mới lập đời (15)
Năm Tý tháng Tý thuận thời lập xuân
Lễ ngươn đán gia kiết đông tuân
Thập bác chư quốc tế xuân một ngày
Việc trước sau cầu Phật tỏ bày
2370. Tam giáp hội tý một ngày thông thơ
Thương hội nầy tôi chúa bơ vơ
Nhìn xem bá tánh không ngơ mối sầu
Bước ra đi niệm Phật vọng cầu
Hộ tùng chư vị ứng hầu độ thân
2375. Người niệm Phật tưởng nghĩa tưởng nhân
Từ đường vọng cáo Phật thân thưa trình
Lòng minh chánh tà quỉ tránh mình
Lòng không minh chánh quỉ tình nhập vô
Phật dạy rằng niệm Phật nam mô
2380. Người không niệm Phật quỉ vô trách Trời
Phật dạy hoài tích thiện ở đời
Dầu mà đến thác hồn thời cũng siêu

56
Đất cổ thành (thiềng) nhiều kẻ quần yêu
Phật lại giáng thế xử tiêu chẳng còn
2385. Thấy nỗi thế dạ kém hao mòn
Xem người bắc địa chẳng còn sử kinh
Quân xử Thần tri thức trung tình (1957, 74)
Phụ tồn xử tử nhục vinh tri tình
Lễ tử thi ngũ ngoại vô hình
2390. Ngày sau bất kiên việc bình chánh chung
Lễ thất ngoạt vi chánh bực trung
Chánh ngoạt vi thủ thượng cung hai mùa
Chữ nôm na lại miệng phát bùa
Thượng tờ thơ trát các chùa chữ nôm
2395. Cho nam nữ biết chữ đều ( 16) khôn
Thường thường văn học nhứt môn giữ mình
Thiểu văn chương tài phép minh tình
Thông minh trí tuệ dạng hình phương phi
Hội anh hùng sau tại trường thi
2400. Ngôn từ đức hạnh dĩ tri Phật Trời
Mở miệng nói chữ để theo lời
Nói đâu làm đó hiệp lời chẳng sai
Nói làm vậy tự ý gái trai
Có không lời đó nào ai ép lòng
2405. Việc bây giờ thấy rắn vẽ rồng
Thấy rồng vẽ rắn khó lòng chánh minh
Đặt nôm na lộn lạo sử kinh
Dám khuyên thượng tri chớ khinh quê mùa
Mã-Đăng-Long ? thất quốc vào chùa
2410. Cơ mưu dĩ lậu quê mùa Quan-công
Dạ bao đành ngăn biển lấp sông
Kẻ thời giúp của người công chia phần
Sao chê đời không Thánh không Thần
Phật cho khổ hạ cõi trần có ma
2415. Lòng tưởng Phật có Phật độ ta
Lòng người tưởng quỉ tưởng ma độ người
Phật độ khóc Phật chớ (chưa) độ cười
Độ cay độ đắng độ người khổ go
Phật độ người chắt lưỡi nằm co
2420. Chịu đặng đói rách tới no nên người.

Phật độ lạy hết khóc tới cười (1957, 75)
Niệm Phật cho đặng nên người dễ chi
Miệng niệm Phật lòng lại dễ khi
Niệm bao nhiêu niệm mất đi không còn


57
2425.Thấy Nam Điện trở cửa Saigon
Chúa công phủ hậu cửa còn hướng Đông
Nói Phong Thần xuất khẩu thinh không
Phật Trời còn ở hướng Đông chưa về
Cổ cắt cổ đầu trước chưa lìa
2430. Long hoa thất thủ Phật về thưởng công
Ngó thấy sao biển trước minh mông
Nước mặn có chỗ rạch sông ngọt hoài
Ăn thời vắn nói việc lâu dài
Tài xưa có một nay tài mười phân
2435.Phật Trời cho tài phép nội thân
Cho sao nói vậy căn dươn (duyên) vi tiền
Ai mới sanh đặng lộc quí quyền
Tôi ngây nói dại cảm phiền chớ chê
Người ăn học dạ ngọc ủ ê
2440. Mặc tình thế sự khen chê nại hà
Lâm tử trận bất quí thân gia
Cầu cho vĩnh viễn nước nhà an khương
Từ Mạnh-Tử ra mắt nước Lương (17 )
Nhan-Hồi đoản mạng cảm thương Thần-Đồng (18)
2445. Tu quốc vương có vợ có chồng
Có con có cháu nối giòng an bang
Tu tuyệt hậu bất kế tu tang
Phật phụ Phật tử nhứt đoan minh tình
Có vui chi Thánh đạo một mình
2450. Muốn cho bốn biển nhứt tình vầy (sum ) vui
Cạn lòng vàng phiền não chưa nguôi
Tứ phương tùng phục mới vui tấm lòng
Phật Trời cho nói việc bao đồng
Nói ra quấy phải nặng lòng nặng lo.

2455. Cơm mình ăn mặc ý đói no (1957, 76)
Việc mình mình nói khỏi lo điều (việc ) nào
Người nịnh trung nghi dạ như Tào (19)
Tri nhơn tri diện chỗ nào tri tâm
Tri kỷ thực bất tri kỷ thâm
2460. Phật tri kỷ chí đoạn tâm kỳ hình
Vậy mới rằng ngâm sử trắc binh
Thả câu vị thủy trung tinh vén mày
Chốn rừng xanh ẩn sĩ ai hay
Cung lên dụng bắn nhạn bay mới tài
2465. Phá tu phần xác tiếc ai hoài
Phục đường Võ-Hậu trí tài bao lâu.

58
Cầu Đông-Phong tài trí ở đâu
Sao người chẳng xét mấy sâu Phật Trời
Trí cổ kim mới biết việc đời
2470.Sao người chẳng tưởng Phật Trời độ thân
Trào dỉ loạn dỉ trị dỉ phân
Trào nào kẻ oán người ân gập ghình
Người gái Nam Tây lấy lộng tình
Một vay mười trả nước mình biết sao
2475. Chà-và đen bạc trắng xứng tao
Gái Nam cũng lấy biết sao nổi người
Nước Chệt qua lấy hết tức cười
Căn dươn xa xứ hại người nước Nam
Trong nước nào lòng dạ buộc tham
2480. Trung trần bất chánh xử giam Phật đày
Đường tội phước có một bội nầy
Có lông có cánh giỏi rày thời bay
Dạ bao đành cây cả gió day
Đất nầy không phải đất Tây mà phiền
2485. Nay phá bạc trước tập phá tiền
Nói cho các nước chớ phiền lòng tâm
Ngày sau thời không đặng loạn dâm
Nước nào ở nấy loạn dâm đứt đầu

Phật lập chánh chư quốc chư hầu (1957,77)
2490.Bán buôn lui tới phải đầu nước Nam
Phật dạy đều lòng dạ đừng tham
Không sưu không thuế nước Nam thanh nhàn
Mười tám nước ăn ở một tràng
Chợ nào không góp xóm làng an ninh
2495. Trí sự tiền lập hậu chánh minh
Nhà không đóng cửa quản thêm đêm ngày
Mệt thì nằm nghỉ khỏe cuốc cày
Kẻ chài người lưới đêm ngày như nhau
Kẻ đi trước người thời đi sau
2500. Kẻ về người tới đâu đâu mịt đường
Chợ đêm ngày nhóm cũng thường thường
Chùa công lui tới chặt đường người ta
Có xe hơi xe kiếng vào ra
Đường rầy xe lửa chạy xa chạy gần
2505. Dưới sông thời tàu chạy rần rần
Trên bờ xe máy ngựa trần chạy đua
Mười bảy nước đâu đó cũng thua
2508.Lầu đài phố xá thành vua tốt kỳ



59
Nẻo làm lành nhiều kẻ bất tùy
2510. Noi đường làm dữ dị kỳ cho thân
Năm năm nhẫn chưa đặng chữ nhân
Phật Trời khó nổi vung phân đắp bồi
Ở chỗ đây tiêu xuất trước rồi
Âm thinh còn mất một hồi thời nay
2515. Phật xử tiêu mất xác mất thây
Khá tua bỏ dữ tùng ngay nên mình
Biết sợ Phật thì giữ đặng hình
Người không sợ Phật lộng tình ra ma
Có mấy khi lời Phật thốt ra
2520. Việc lành việc dữ dạy ta lắm lời
Dưới có đất trên có Phật Trời
Quốc vương thủy thổ vọng lời Phật Tiên
Mảng buồn thầm trách phận sầu riêng (1957; 78)
Chừng nào gặp hội Phật Tiên ra đời
2525. Ngọn Cái-Dầu trống lổng của Trời
Người hung khó tới đổi đời hiền lương
Nhớ trung thần cám cảnh lòng thương
Chừng nào Long-Ấp An-Lương thạnh thời
Bạc chi mà bạc lắm bớ Trời
2530. Khổ go thấy đó người đời không tu
Cây mù u trái cũng mù u
Ba đời đạo tặc giơ khu (20) chúng bằm
Ba lớp da trong ruột trắng ngầm
Có ai dụng cúng bữa rằm Hạ-ngươn
2535. Khó kể bạc cũng khó kể ơn
Kể lòng cho tốt cũng hơn bạc tiền
Phật dụng lòng anh chị chớ phiền
Dám khuyên có bác bạc tiền đãi lao
Chỉ một mối đậu lại hai tao
2540. Bạc tiền trả nợ cù lao cho rồi
Phật xét tâm xét tánh mấy bồi
Xét ngày xét dạy việc rồi sạch trơn
Chí anh hùng lấp biển thành sơn
Dụng là dụng nghĩa dụng nhơn trải đời
2545. Trên cha mẹ xử dạ sửa lời
Phật Bà chỉ sửa cứu thời (đời ) Hạ-ngươn
Qua ngày sau thiệt nợ thiệt dươn
Đàn bà trinh tiết vi ơn nuôi chồng
Năm bảy vợ hiệp ý một lòng
2550. Thượng hòa hạ lục nuôi chồng làm quan.

60

Có đâu đời ăn ở dọc ngang
Mong lòng làm dữ không toan việc lành
Cây một góc mọc biết mấy nhành
Nhành tươi nhành héo khó dành tốt y
2555. Mất hết tiền bỏ mất cái ghi
Mười tiền truất chuỗi mức ghi năm đồng (21)

Tại vì ai sửa dạ sửa lòng (1957, 79)
Cho nên Trời khiến tơ hồng lơi dây
Một trăm nhà không thuận lòng ngay
2560. Một thân trái mặt hai tai khổ mình
Một lỗ miệng quấy phải mấy tình
Ruột thì một ruột một hình hai thân
Người làm quan kẻ lại làm dân
Biết sao cho phải mà phân việc đời
2565. Chồng nói đất vợ lại nói Trời
Một nhà không thuận ở đời sao an
Kẻ nghèo khó người lại giàu sang
Lấn thời lấn thế dọc ngang oán thù
Đời nầy bỏ võng dụng đi dù
2570. Cựu trào lọng lạc cựu thù võng khiêng
Không tưởng Phật mà coi người Tiên
Phật đày mãn giả Tây-phiên trị vì
Khổ Hạ-ngươn bẩm lai cà-lỳ
Coi thân cực sướng nỗi gì nho thân
2575. Tây chưa mãn tới việc u phân
Ngồi buồn thấy khổ muôn dân não nề
Lương kế Thánh nhơn chí kế hề
Ngậm ngùi Nam-Việt não nề lao thân
Dĩ (Bỉ ) trào thần đắc chí kỳ ân
2580. Sóng xao thoàn vững muôn dân tan tành
Bồi mé biển (bãi )khổ trải đầu gành
Bồi trên lở dưới khó đành cù lao
Sau đất bằng không thấp không cao
Biển sông không nổi cù-lao nữa rồi
2585. Mé sông biển không lở không bồi
Sanh sao y vậy nói rồi sao coi
Có tòa án các tỉnh sâm soi
Không đường ngục thất sau coi dể lòi
Nước một bực thanh thủy biên Trời
2590.Không ròng không lớn thuận bề (lời )chảy xuôi.

Biết làm sao trong dạ cho nguôi (1957; 80)
Cầu Trời vái Phật gở xuôi mối sầu
(còn nữa)
______

CHÚ THÍCH
(1). Thượng bất chánh hạ tắc loạn: trên không ngay thẳng, dưới sẽ làm loạn.
(1b). Nhơn hữu thiện thiện tất tùng chi: người làm việc thiện thì sẽ gặp điều thiện.
(2). Ruộng dâu : thương hải , hoặc tang thương, do câu "thương hải biến vi tang điền" nghĩa là biển cả hóa thành ruộng dâu, nói về thay đổi trong vũ trụ.
(3). Thạch Đạo Ngọc là nhân vật trong Kim Thạch Kỳ Duyên. Kim Ngọc, con trai của Ngạn Yêm (người Hà Nam) đã đính hôn với Ái Châu, con gái Lâm Vượng, một nhà giàu ở gần Tô Châu (thuộc tỉnh Giang Tô). Lợi Đồ, tri huyện Tô Châu, có một người vợ cả và một người vợ lẽ vốn hiềm khích nhau. Một hôm vợ cả đau, mời thầy thuốc Thạch Đạo Toàn đến chữa. Vợ lẽ thừa dịp bỏ chất độc vào thuốc cho vợ cả uống. Vợ cả chết, thầy Đạo Toàn bị bắt, con gái ông là Vô Hà phải bán mình làm thị tỳ cho Ái Châu để lấy tiền chuộc cha.
(4). Địa sanh thảo hà thảo vô căn: Đất sinh ra cỏ, cỏ nào mà không có rễ.
(5). Hàn Tín: lúc hàn vi Hàn Tín bị cường đồ bắt nạt, phải cúi mình luốn qua háng nó mà đi. Sau làm tướng lập nhà Hán.
(6). Vị Thủy: nói về Khương Tử Nha, tức Lã Vọng, hàn vi đi câu cá ở sông Vị , tuổi già trên 60 ra giúp Võ Vương, Văn vương lập nhà Châu.
(7). Kiến nghĩa bất vi: Trong Luận Ngữ,Khổng Tử nói: Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã" (Thấy việc nghĩa mà không làm tức là kẻ hèn nhát.
(8). Lâm nguy bất cứu mạt ( phi) anh hùng : ý nghĩa cũng như trên. Hoặc chữ mặc, hoặc chữ phi một chữ mà thôi. Xin thêm chữ Thị (là ) cho đúng thể lục bát.
(9). Tục ngữ: " Mượn đầu heo nấu cháo".
(9b).Bá-lý-vương : Có lẽ là Bách Lý Hề nhưng Bách Lý Hề chỉ là chức quan lớn chứ không phải được tước vương. Bá Lý Hề: Người nước Ngu, tự là Tỉnh Bá, ba mươi ngoài tuổi mới lấy Đỗ thị làm vợ, sanh đặng một trai đặt tên Mạnh Minh. Bá Lý Hề có tài an bang tế thế nhưng chưa gặp thời, nhà lại nghèo, lại không người tiến cử, ý muốn đi châu lưu thiên hạ để lập công danh, ngặt nỗi vợ con không nơi nương tựa, nên còn dùng dằng. Sau giúp Tần Mục công, được phong thừa tướng.
(10). Bản 1964: Sóng xao mặc sóng
(11).Sải: đơn vị đo lường , chiều dài bằng hai cánh tay giang ra. (Bơi sải là bơi bằng cách dang hai cánh tay ra).
(11b). Mụt măng: Măng tre, khúc măng tre, cái măng tre còn nhỏ. Còn gọi là đọt măng, búp măng.
(12). Bâu: cổ áo (Khai Trí Tiến Đức, Quốc Âm Tự Vị), Tiếng Quảng Bình bâu là túi áo.
(13). Hang Thương Tòng: Lục Vân Tiên mù bị Võ Công bỏ vào hang Thương Tòng (Truyện Lục Vân Tiên).
(14). Chu Thương (Châu Thương, Câu Sương ) las2 bộ tướng của Quan Vũ, đã trở thành một trong bộ ba thần thánh, cùng với Quan Vũ và con nuôi là Quan Bình, hiển thánh giúp dân.
(15). Sách cổ Trung Quốc có câu「天開於子,地闢於丑,人生於寅。」。...Thiên sinh ư tí, địa tịch ư sửu, nhân sinh ư dần...Chú giải kinh Thi :Đời vua Huỳnh Đế, và đời nhà Hạ, gọi tháng Giêng là tháng Dần (Kiến Dần). Theo đó thì tháng 12 là tháng Sửu.
Nhà Thương gọi tháng Giêng là tháng Sửu (Kiến Sửu).
Nhà Châu, gọi tháng Giêng là tháng Tý (Kiến Tý).
Nhà Tần, gọi tháng Giêng là tháng Hợi (Kiến Hợi).
Đến đời nhà Hán thì gọi tháng Giêng là tháng Dần, tức là theo lịch nhà Hạ (Kiến Dần).
Từ đây trở về sau, không còn thay đổi nữa. Các vua đời sau đều áp dụng Kiến Dần theo lịch nhà Hạ

(16). Bản 1964 viết "điều". Ngày xưa, người Việt Nam dùng một số từ chung nghĩa như điều/đều; mùi / vị.
(17) .Từ Mạnh-Tử ra mắt nước Lương : Mạnh Tử vào yết kiến Lương Huệ Vương. Lương Huệ vương hỏi về điều lợi. Mạnh Tử khuyên vua nên theo nhân nghĩa (Sách Mạnh Tử, chương Lương Huệ vương))
(18).Nhan-Hồi đoản mạng cảm thương Thần-Đồng . Nhan Hồi là học trò giỏi của Khổng Tử rất hiếu thuận nhưng chết sớm.
(19). Người nịnh trung nghi dạ như Tào : Tục ngữ ta có câu" đa nghi như Tào Tháo" . (Xem Tam Quốc chí),
(29). Khu : cái mông, cái đít.
(21). Bản 1964 ghi: Mười tiền chậm chuỗi trức đi thăm đồng. Câu này ở bản nào cũng khó hiểu. Phải chăng: Mất hết tiền bỏ mất giá ghi
Mười tiền xâu chuỗi lại ghi năm đồng


No comments: