Thiên thứ tư
VÂN TIÊN
Tác giả chia Vân Tiên thành ba phần.
Phần ba quá dài, người chú giải xin chia thiên ba thành hai đoạn cho vừa trang web.
PHẦN THỨ NHỨT
1. Trước đèn xem truyện Tây Minh (1)Tác giả chia Vân Tiên thành ba phần.
Phần ba quá dài, người chú giải xin chia thiên ba thành hai đoạn cho vừa trang web.
PHẦN THỨ NHỨT
Gẫm trong thiên hạ vô tình nào hay
Minh tâm thánh trước đặt bày
Làm người suy cổ nghiệm kim thì tường
5. Tử sanh thiên số vô thường
Dữ lành hai lẽ không tường thời thôi
Làm người sao bạc như vôi
Làm sao cho đặng đứng ngồi hiển vang
Sống ngồi dương thế đạt an
10. Thác về Tiên cảnh giàu sang làm gì
Nam mô hai chữ từ bi
Để cho thiên hạ khinh khi mặc lòng
Bây giờ thôi đã hết trông
Làm lành bỏ dữ mà không có đành
15. Ở đời nhiều kẻ khôn lanh
Sống khôn thác dại tương tranh làm gì
Khôn thời niệm Phật từ bi
Làm lành bỏ dữ chớ khi Phật trời
Hạ nguơn ăn nói nhiều lời
20.Ngược xuôi thừa thiếu hết đời đừng than
Bây giờ tới lúc gian nan
Con thời hại mẹ vợ toan hai chồng
Bấy lâu sang trọng còn trông
Bây giờ giàu có cũng không có mừng
25. Khát nước cầm gáo (2) ngó chừng
Bao giờ gặp lúc tưng bừng sẽ hay
Làm ( người) giữ vẹn thảo ngay
Cũng như cây cỏ gió day chẳng sờn
Vì ai đặng cá quên nơm (3)
30. Đặng chim bẻ ná (4) mà quên ơn Thầy
Người ngay dạ luống châu mày
Cũng như gió tạt chòm mây che trời
Phật- đà (5) dạy bảo hết lời
Để cho thiên hạ đổi dời tà tây
35. Rồi đây biết lẽ gian ngay
Rủ nhau mà thác bỏ thây lấp đàng
Trách ai đem dạ lăng loàn
Mỗi nơi mỗi muốn mỗi đàng mỗi ưa
Hết nắng rồi lại tới mưa
40. Phật trời thôi đã lưới thưa bủa vòng
Bây giờ còn hỡi (hãy) bịt bòng
Chừng nào gặp hội mây rồng sẽ hay
Niệm Phật phật độ thiệt may
Phật không có độ bỏ thây đã rồi
45. Nghĩ ra phận bạc là tôi
Chùa chiền không tưởng nằm thôi một mình
Bây giờ năn nỉ làm thinh
Chừng nào gặp chốn đao binh hết sầu
Ví như Địch Thanh (6) nằm cầu
50. Cảm thương các chú bên tàu qua đây.
Cũng như Nhạc Phi (7) bị vây
Ngưu sơn thất tuế ai hay cơ tình
Phật Trời lòng ở cao minh
Xét xem trần thế trung trinh ít người
55.Vui chi mà lại tức cười
Bạc bảy đem đổi vàng mười chỉnh ghê
Em tôi giấc ngủ chưa mê
Trong nhà tầm chín ngoài dê xổ chuồng
Chí tâm cất quán đúc chuông
60. Tầm chùa niệm Phật giải buồn hết hung
Phật lập Hưng Thới thôn trung
Từ năm kỷ dậu lập chung với làng
Thầy xưa dạy bảo tỏ tàng
Tây an viễn đại gần đàng đế cung
65. Bây giờ phân rẽ cội thung
Chừng nào gặp hội cội thung mọc chồi
Ngai vàng vững đặt báu ngôi
Trên vua khai rạng dưới tôi trung thần
Để cho trời Phật định phân
70. Làm tôi phải trả nghĩa nhân vẹn đền
Cơm trời đất Phật làm nên
Làm người sao chẳng lo đền lại vong
Cá thu còn ở biển đông
Rau vừng hết lộc còn trông nỗi gì
75. Vô chùa niệm Phật qui y
Dám khuyên thượng trí đừng khi quê mùa
Hay chi những sãi ở chùa
Hèn chi thiên hạ bốn mùa lạnh hương
Nước chảy vì có đường mương
80. Đuốc soi hang tối mới tường nẻo xa
Niệm Phật thời tưởng Thích Ca
Niệm Phật thời tưởng Tiên gia của mình
Niệm Phật nên rất hữu tình
Thua mà chẳng lọt thinh thinh lưới trời
85. Để cho thiên hạ đôi lời
Tàu tây nó chạy xa vời hết trông
Gắng lòng niệm Phật chí công
Dầu mà có thác cũng không mất phần
Làm người giữ vẹn nghĩa nhân
90. Chung thân hành thiện thiện tồn vô dư
Kìa ai than khóc ưu tư
Phật Trời dạy bảo tâm tư tại mình
Nhớ xưa hồi thuở trào minh
Phật ra giáo thế gẫm tình ai hay
95. Sao bằng ăn ở thẳng ngay
Dương cang chánh đạo bỏ thây cũng đành
Chim khôn lựa nhánh cây lành
Người hiền tầm chúa ai dành ngày sau
Đói lòng ăn mắm với rau
100. Làm lành niệm Phật ngày sau mà nhờ.
Mất vãi thời sãi nói vơ
Đố ai gỡ đặng mối tơ mới mầu
Việc đời thôi hỡi còn lâu
Chừng nào có nước con trâu hết cày
105. Thương người công khó rất dày
Phật trời cứ thẳng như dây mực tàu
Bấy lâu dạ dốc làm giàu
Bây giờ lòng muốn qua cầu Tây phang
Công lao tiêu tứ chẳng màng
110. Tầm miền cực lạc coi đàng bao xa
Nam mô Bồ tát Ma ha
Niệm Phật ngó thấy Phật sa giữa trời
Hạ nguơn nay đã biến đời
Chừng nào giấy bắc lại dời về nam
115. Hạ sanh dân chúng lòng tham
Quốc gia điều luật xử tam ngũ hình
Khiến nên thiên hạ động tình
Trời xui ách khổ đọa hình ngục trung
Xét trong thiên hạ không cùng
120. Làm lành thời ít làm hung thời nhiều
Sơn Tô báu vật mỹ miều
Gạo châu củi quế hết chiều thời no
Làm người quân tử phải lo
Lo bề đạo đức đói no chẳng màng
225. Có buồn thời uống giấy vàng
Gặp cơn bác loạn (8) biết đàng mà đi
Lòng đầy cũng chẳng ép chi
Mặc tình bá tánh xét suy mà nhờ
Đời nầy còn hỏi bơ vơ
230. Chúa tôi hai ngả vật vờ bắc nam
Thiện từ lòng dạ đừng tham
Dĩ ân báo oán thời mang khổ nghèo
Xét xem trần thế cheo leo
Thấy trông thiên hạ hiểm nghèo mà thương
235. Phật cho nên mới nghiệm tường
Phật bảo thì phải chỉ đường cho dân
Nam trào quân chánh nhơn ân
Bảo an thiên hạ trung phân tỏ tàng
Bửu linh bốn chữ rõ ràng
240. Tầm chùa niệm Phật nhứt tràng thọ an
Bây giờ hết lúc gian nan
Đam ( đem) nhau ta sẽ lập đàng công danh
Cam la sớm gặp cũng xinh
Muộn thời Khương tử cũng vinh một đời
245. Giấy trắng mực viết vẽ vời
Khuyên trong bá tánh nghiệm lời xét suy
Có cha có mẹ bù chì (9)
Không cha không mẹ lấy gì con ăn
Gió đưa mây tạt thấy trăng
250. Ở đời nhiều kẻ lăng xăng mà buồn.
Làm người giữ đặng tròn vuông
Xuân qua hè lại lụy tuôn không chừng
Ngó lên bảy núi thấy rừng
Thương người trung nghĩa biết chừng nào phai
255. Niệm Phật có Phật Như Lai
Việc đời ngó thấy chiều mai thời rồi
Ví dầu tình bậu muốn thôi
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra
Làm lành thấy Phật Thích Ca
260. Làm dữ thác xuống Diêm la hành hình
Trách ai đem dạ bạc tình
Ân thâm nghĩa trọng lánh mình lại chê
Niệm Phật thiệt nhiều người quê
Miệng thời niệm Phật lòng chê mới kỳ
265. Xưa nay những kẻ vô nghì
Dầu cho có sống làm gì nên thân
Phật- đà bố đức thi ân
Muốn cho thiên hạ đặng gần vùa hương (10)
Ở xa chẳng biết mà tường
270. Ở gần sao lại lánh giường Phật tiên
Chừng nào căn bịnh đặng yên
Thời tôi mới nói chuyện riêng ở đời
Vắn cổ kêu chẳng thấu trời
Phật còn tám nạn huống người ba tai
275. Niệm Phật có Phật Như Lai
Có quan bồ tát chiều mai độ mình
Tuy là trời đất rộng thinh
Thiên cơ một phút đao binh dấy loàn
Để cho thiên hạ dọc ngang
280. Xui mưu làm loạn thì hoang cửa nhà
Khuyên trong bá tánh trẻ già
Làm lành bỏ dữ kẻo mà đọa thân
Phật dạy đại nghĩa đại nhân
Phật không có dạy cầm cân vặn đòn
285. Thấy đời trần hạ thon don
Làm lành thì thấy chữ son hiệu đề
Muốn cho thảo thuận một bề
Làm lành niệm Phật đặng về tây phang
Làm người sao khỏi gian nan
290. Hết cơn bỉ cực tới đàng thới lai
Giấy vắn lời hỏi còn dài
Mặc tình bá tánh nào ai ép lòng
Gạn đục thì phải lóng trong
Xét xem chưa biết kẻo không bịt lòng
295. Thương trong bá tánh hết lòng
Thầy xưa dạy bảo cũng không nghe lời
Kỷ dậu Thầy ra độ đời
Xét xem cho biết những lời gian ngay
Niệm Phật không cần ăn chay
300. Niệm Phật thì giữ lòng ngay phận mình.
Bây giờ năn nỉ ai binh
Lá lay cũng bởi tại mình thuở xưa
Mấy đều hung dữ khá chừa
Ở đời nhiều kẻ không ưa Phật trời
305.Ví như Hạng Võ (11) khi lời
Thất cơ Hàn Tín (12) dời về Ô giang
Xưa còn thương kẻ gian nan
Huống nay bao nỡ lấp đàng bỏ chuông
Bây giờ thôi đã hết trông
310. Công danh hết tưởng vợ chồng hết duyên
Đời này quả báo nhãn tiền
Giữ sao cho đặng khó miền trầm luân
Phật- đà xét lẽ oan ưng
Thấy đời trần thế Phật thương không cùng
315. Tôi muốn nói chuyện tầm khùng
Mặc tình bá tánh có dùng thời coi
Phật bảo thời phải xét soi
Xét trong bá tánh thử coi dữ lành
Làm người bất úy (13) tử sanh
320. Sống nay làm tướng thác thời rạng danh
Chùa linh chẵng kỳ tượng tranh
Có lòng Phật hiện rồng đoanh không chừng
Đoái nhìn bốn phía những rừng
Trời đà tối mịt biết chừng nào trông
325. Làm tôi bền chí dày công
Phật không sở dục tại lòng thế gian
Niệm Phật thì phải gian nan
Niệm Phật thì phải lánh đàng thị phi
Công danh phú quí làm chi
330. Nam mô hai chữ từ bi rèn lòng
Hết Nam rồi Bắc lại Đông
Tiểu nhơn quân tử ai không tranh hùng
Bấy lâu Phật dạy không dùng
Làm lành bỏ dữ bỏ hung đặng nhờ
335. Nhớ xưa hồi thuở sơ khai
Thần nông chưởng thực lâu dài nhờ ai
Bây giờ gánh nặng hai vai
Ơn cha nghĩa chúa sao ai không đền
Niệm Phật sao đặng làm nên
340. Cửa nhà giàu có dưới trên thuận hòa
Khuyên trong bá tánh chư gia
Phật đà chỉ sử cho ta một lời
Thứ năm đến thứ ra đời
Phật Bà dạy bảo như lời ngày xưa
345. Làm thơ mà gởi cho mưa
Mưa đưa cho gió gió đưa lại chùa
Bây giờ xin chớ hơn thua
Tầm chùa niệm Phật bốn mùa công phu
Nhứt tâm biển Thánh rừng Nhu
350. Chừng nào gặp hội trung thu danh đề
Muốn cho sông cận non kề
Trở về chốn cũ lập bề thất gia
Làm con chẳng dám cãi cha
Chừng nào an trị quốc gia cũng đành
355. Ngó lên mây bạc mây xanh
Làm trai trung hiếu dạ đành ba sanh
Giữ cho đừng rách thời lành
Con nhà niệm Phật như nhành quế hương
Chẳng thà ghét trước sau thương
360. Ghét thương hai lẽ oan ương chốn nào
Quán xưa ghét kẻ tầm phào
Ghét cay ghét đắng ghét vào trong tâm
Ghét đời Thương Trụ đa dâm
Cầu thê sát tướng đã lâm ngục hình
365. Tướng trào nhiều người trung tinh
Đều thời phàn Trụ lánh mình đầu Châu
Hớn xưa trung nghĩa Công Hầu
Nịnh thời Đồng Trác (14) Hớn trào ở đâu
Chư châu chư quốc qui châu
370.Khiến nên thiên hạ đâu đâu thuận lòng
Văn ban võ bá hội đồng
Đề cho bốn chữ Tăng long thọ trường
Châu vương đại đức ân lương
Khiến nên thiên hạ bốn phương phục tùng
375. Bây giờ tôi hỡi còn khùng
Chừng nào Phật khiến hết khùng tới điên
Khuyên trong bá tánh chư viên
Hết tiền mua giấy thời yên nước nhà
Nam trào nối trị quốc gia
380. Muôn dân lạc nghiệp gần xa thái bình
Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát Ma ha tát
____
(1). Truyện Tây Minh: Câu đầu của Lục Vân Tiên có nói đến truyện Tây Minh:
Trước đèn xem truyện Tây Minh.
(2). Ngày xưa (trước 1945) dân ta uống nước lã trong chum, vại, ang bằng gáo dừa
(3).Nơm: dụng cụ bắt cá, làm bằng tre.
(4). Ná: dụng cụ săn bắn, giống cái cung.
(5). KHông có chữ nôm cho nên không rõ. Ta phỏng đoán tác giả viết hai chữ nôm khác nhau. Phât đà: đà trong nghĩa là đã. Và đà (Phật Đà) trong danh hiệu Đức Phật, do chữ Phạn là Buddha. Vì vậy, tiếng Việt cũng gọi Phật là Bụt.
(6). Địch Thanh: Địch Thanh 狄青 (1008 - 1057), tự Hán Thần, là tướng nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc. Địch Thanh người Tây Hà, Phần Châu thời Bắc Tống (nay thuộc huyện cấp thị Phần Dương, tỉnh Sơn Tây). Ông là người xuất thân bần hàn nhưng giỏi việc cưỡi ngựa bắn cung.
(7).Nhạc Phi 岳飛), tên chữ là Bằng Cử 鵬舉; (1103 – 1142) là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng quân của ông đã đánh nhau với quân Kim 126 trận và toàn thắng. Người sau coi ông là trung thần, nhưng theo thiển kiến ông là kẻ ngu trung vì vua Cao Tông không muốn đánh Kim mà ông bất tuân cứ đánh lên phía Bắc. Trong khi vua Cao Tông và Tần CỐi muốn hòa, bởi vì thâm tâm Cao Tông muốn làm vua mãi, không muốn cứu 2 vua Huy Tông và Khâm Tông khỏi tay giặc Kim rồi trở về thâu quyền bính, và ngai vàng mà Cao Tông đang hưởng.
(8). Bát loạn: Tự vị Huinh tịnh Của và Tự Điển KTTD dịnh nghĩa bát là dẹp loạn. Theo nghĩa trong tác phẩm này bát lọan, cơn bát loạn nghĩa là cơn lọan lạc. Nếu theo nghĩa này thì bác loạn chứ không phải bát loạn ( bác là hỗn độn, xáo trộn như bác tạp 駁雜 ).
(9). Bù chì: do chữ phù trì là giúp đỡ, ban ơn, cho.(7).Nhạc Phi 岳飛), tên chữ là Bằng Cử 鵬舉; (1103 – 1142) là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng quân của ông đã đánh nhau với quân Kim 126 trận và toàn thắng. Người sau coi ông là trung thần, nhưng theo thiển kiến ông là kẻ ngu trung vì vua Cao Tông không muốn đánh Kim mà ông bất tuân cứ đánh lên phía Bắc. Trong khi vua Cao Tông và Tần CỐi muốn hòa, bởi vì thâm tâm Cao Tông muốn làm vua mãi, không muốn cứu 2 vua Huy Tông và Khâm Tông khỏi tay giặc Kim rồi trở về thâu quyền bính, và ngai vàng mà Cao Tông đang hưởng.
(8). Bát loạn: Tự vị Huinh tịnh Của và Tự Điển KTTD dịnh nghĩa bát là dẹp loạn. Theo nghĩa trong tác phẩm này bát lọan, cơn bát loạn nghĩa là cơn lọan lạc. Nếu theo nghĩa này thì bác loạn chứ không phải bát loạn ( bác là hỗn độn, xáo trộn như bác tạp 駁雜 ).
(10). Vùa hương: còn gọi là vò hương, lư hương. Dụng cụ để cắm nhang( hương) đặt nơi bàn thờ hay giường thờ
(11). Hạng Võ: ông còn có tên là Hạng Tịch (項籍) (232 TCN-202 TCN), tên tự là Vũ/Võ (羽), còn gọi là Tây Sở Bá Vương (西楚霸王). Ông là một nhà chính trị, một tướng quân nổi tiếng, người có công trong việc lật đổ nhà Tần và tranh chấp thiên hạ với Hán Cao Tổ (Lưu Bang) đầu thời nhà Hán. Sau bao trận, ông thật trận tại Ô giang, tư tử mà chết.
(12). Hàn TÍn: 韓信 (? – 196 TCN), còn gọi là Hoài Âm hầu (淮陰候), là một danh tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang thời Hán Sở tranh hùng, có công rất lớn giúp Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm.
(13). bất úy: không sợ.(12). Hàn TÍn: 韓信 (? – 196 TCN), còn gọi là Hoài Âm hầu (淮陰候), là một danh tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang thời Hán Sở tranh hùng, có công rất lớn giúp Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm.
(14).Đổng Trác 董卓 ( 132-192) là tướng nhà Đông Hán, đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Từ nhỏ, Đổng Trác đã có sức khỏe, thích đánh nhau, học cưỡi ngựa, biết bắn cung cả 2 tay, thích đeo 2 bộ cung trên lưng . Đổng Trác tòng quân vào khoảng 25 tuổi, được Thứ sử Lương châu cho làm chức Lương châu Binh mã duyện (Chức phó coi việc quân), trông giữ binh khí và ngựa chiến. Năm 162, Đổng Trác 30 tuổi, được Thứ sử Tinh châu là Đoàn Quýnh đề cử, vào Cấm vệ quân ở Kinh thành làm chức Vũ Lâm lang. Sau ông ép Hán Hiến Đế phong mình làm tướng quốc, ngôi vị trên cả Tam công, ngang với Tiêu Hà, công thần khai quốc nhà Hán trước đây. Sau bị mưu tư đồ Vương Doãn, ông cùng con nuôi là Lữ Bố đấu tranh, bi Lữ Bố giết.
No comments:
Post a Comment