KIM CỔ KỲ QUAN quyển I tập 6
Tài liệu tham khảo : Ấn bản 1957 và ấn bản 1964
(Ấn bản 1964 từ tr. 31 đến 33; cột 61-66)
(1). Bản 1964 ghi "Cọp có đầu cọp mượn oai chồn.
(2). Thạch Hổ tức Triệu Thái Tổ - Vũ hoàng đế (295 - 349),tên là Thạch Hổ, trị vì từ năm 334 - 349. Ông còn được gọi là Hậu Triệu Vũ Đế. Ông là cháu của Thạch Lặc, cuộc đời trai trẻ đi theo Thạch Lặc chinh phục các nơi, lập ra nước Hậu Triệu này. Ông từng một lần tàn sát hơn 10 vạn dân trong thành bất luận già trẻ lớn nhỏ Ông giết huynh trưởng là Triệu Vương cướp ngôi vị,
(3).Nhằm: đúng; nói cho nhằm: nói cho đúng.
(4). Phụ mẫu chi niên bất khả tri dã 子曰、父母之年、不可不知也、一則以喜、一則以懼。Khổng Tử nói " làm con phải biết tuổi cha mẹ, một là để mừng hai là để lo".
(5).Kinh Thi có câu: Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao, dục báo chi đức, hạo Thiên võng cực. 父兮生我,母兮鞠我, 哀哀父母,生我劬劳, 欲报之德,昊天罔极。(Cha thì sanh ta, mẹ thì nuôi ta, thương thay cha mẹ sinh ta nuôi dưỡng khó nhọc, muốn báo ơn sâu, ơn đức của cha mẹ mênh mông như bầu Trời.)
(6). Cửu tự cù lao:九字劬勞 Chín chữ cù lao, tức là chín điều khó nhọc của cha mẹ sanh dưỡng con cái. Chín chữ cù lao gồm: 1.Sinh: Sanh đẻ. 2.Cúc: Nâng đỡ. 3.Dục: Dạy dỗ. 4.Phủ: Vuốt ve triều mến. 5.Xúc: Cho bú sữa. 6.Trưởng: Nuôi cho khôn lớn. 7.Cố: Trông nom. 8.Phục: Ôm ấp. 9.Phúc: Bảo vệ.
(7).Gia bần tri hiếu tử : Nhà nghèo mới biết con hiếu.
(8).Mây bạc: Do chữ bạch vân mà ra . Địch Nhân Kiệt đời Đường đi làm quan xa , thường chỉ đám mây trên núi Thái Hàng mà nói . "Nhà cha mẹ ta ở đây". Nghĩa bóng là nhớ cha mẹ, quê hương.
(9).Ngũ Thiệu tức Ngũ Vân Thiệu, một nhân vật trong truyện "Thuyết Đường",là ngườiđ ẹp trai, giỏi võ nghệ.(10). Ông Phò-nhị-Tẩu: tích Quan Công phò hai bà vợ của Lưu Bi khi cả ba bị Tào Tháo bắt.
Tài liệu tham khảo : Ấn bản 1957 và ấn bản 1964
(Ấn bản 1964 từ tr. 31 đến 33; cột 61-66)
61
2593. Để mà coi dạ khó không cầu (1957, 80)
Ngày sau ai thảm ai sầu cho ai
2595. Lời Phật Trời ghi để chiều mai
Làm người thời có hai tai nghe cùng
Chẳng phải ai chưng mặt anh hùng
Giác đời giác thể cho cùng mà nghe
Nghèo sắm xuồng, giàu có sắm ghe
2600. Để chờ có nước chèo te lên giồng
Sau không chuỗi mà cũng không vòng
Đàng điếm giựt lên giồng tay không
Tới đó thì hay việc gió giông
Nhà không người ở ruộng không ai làm
2605. Tiền xử tử rạng-chói mai hàm
Trung xử Đông lô hết làm hết ăn
Qua hầu xử Văn Giáo giáo văn
Thây phơi ngọn cỏ vô căn Phật Trời
Con trong nhà nói chẳng nghe lời
2610. Huống chi hàng xóm nói đời ai nghe
Xem thấy đời nhiều kẻ ( chỗ ) éo le
Tu sao như thể bụi tre mới mầu
Nhà có ngạch (vách ) rạch lại có cầu
Có thân sau chẳng lo sầu cho thân
2615. Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân
Có tang có tích có phân việc nầy
Sau có tớ trước tưởng ơn (việc )Thầy
Nằm buồn nghĩ lại việc rày minh linh
Bất tri chay , diệc bất tụng kinh
2620. Thường hành niệm Phật tâm linh nhờ Trời
Bất phân hương nay phải nghe lời
Tu tâm tu tánh hơn thời tu ngôn
Tu làm đại học lại làm khôn
Hết khôn tồn dại một môn hết hồn
2625. Có cọp đâu cọp mượn oai chồn (1)
Người tu còn xác còn hồn mới ngoan ( 1957; 81)
Con vua mà lấy thằng (kẻ) kẻ bán than
Duyên ai nấy gặp khôn ngoan nhờ Trời
Khó nỗi phân phận ( than Phật ) khó ở đời
2630.Trước thì thấy thiệt sau thì giả phi
Người khôn nghèo nhiều kẻ dễ khi
Dại (Vai) mang tuối bạc quấy chi phen (khen) đời
Nhơn tích ác nhơn hậu bại tồi
Bất như tích thiện thác hồi Tây-phương.
62
2635. Chốn giang hà đặt thủy Long-vương
Ngũ hành đặt để oan ương nhiều bề
Kim, Mộc, Thổ, Thủy, Hỏa hội tề
Dưỡng nhơn tích cốc ra bề vi ân
Lập thân phương tri nhơn khổ tân (tân khổ)
2640. Con mắt mịt mù hai lỗ tai đâu
Người đời nầy gẫm chẳng bao lâu
Lo bề giữ của lo sâu (sau) mùa (không ) màng
Có động động la xóm la làng
Kêu Trời kêu đất an nhàn tưởng ma
2645. Một người thác một đám làm ma
Nói Phật Phật giúp nói ma ma đời
Lời nói phải thời phải cho lời
Đem lời nói quấy quấy đời khổ lao
Người ở đời theo (nhiều ) bực thấp cao
2650. Quấy thời biết quấy làm sao có rầy
Việc làm quấy nói phải khổ rày
Khó suy khó xét nỗi nầy dại khôn
Sau lập lại một tổng bảy thôn
Thuận hòa không dại không khôn tranh hành
2655. Trời Phật thương vạn vật lập thành
Thú cầm đem lại vật lành người nuôi
Đường Tây-phương ít kẻ nói tới lui
Đường về địa ngục thả xuôi một bề
Cõi trung-ương sớm dựa tối kề
2660. Oan oan tương báo lập bề phi nhân.
Việc thuốc nam thuốc bắc vô ân ( 1957; 81)
Ngày sau thôi cũng vô phân thuốc rồi
Phật Trời về định chốn an ngôi
Ơn cao trả đặng định hồi sửa tâm
2665. Hoa tứ quí hưởng đắc cơ thâm
Vọng đông tưởng bắc minh tâm vững bền
Tưởng ơn sâu thập ngoạt lâm đền
Tam niên nhũ bộ cho bền chí trai
Đạo quân thần gánh nặng hai vai
2670.Trung hiếu phụ làm trai dặn lòng
Đời trở đời như thể bánh phồng
Mấy trăm mối việc giữ lòng cho siêu
Mặc ý ai lòng dạ tà yêu
Việc mình mình giữ cho siêu lòng mình
2675. Đổi tiếng nói chưa đổi tâm tình
Hội nầy khác thể như bình nước nghiêng
63
Tô nước đầy của Phật của Tiên
Đổ ngay xuống đất hốt riêng sau đầy
Trước hại Phật sau lại giết Thầy
2680.Tầm sư học đạo tội mầy bao nhiêu
Tớ phản sư tội xử tiêu
Học đòi Thạch-Hổ bao nhiêu chẳng còn (2)
Điểu thon von lòng điểu hao mòn
Cá nằm suối (giếng ) cạn dạ còn trong mưa
2685. Cửa Nam-thiên hang đá rào thưa
Tại vàm Ngả-Bát giây dưa lâu dài
Có lò gạch hai dãy mé ngoài
Xóm chài xóm lưới ở dài hai bên
Họa bản đồ ký tự sợ quên
2690.Ngã tư chợ quán cận bên chùa Thiền
Cầu bốn mặt chợ Phật lập tiền
Nam thanh nữ tú chuỗi kiềng nhỡm nha
Con mồ côi ít mẹ ít cha
Vợ chồng đều đủ xuôi gia vô tiền
2695.Không có con đeo mẹ mà phiền.
Tám mươi dỉ thượng lập tiền con đeo (1957; 82)
Đò tới bến người khá gieo neo
Chí tâm niệm Phật con đeo dắt dìu
Đánh nhiều sòng tiền bạc thua nhiều
2700. Me tới chén cụp đánh liều cầu âu
Bỏ liềm mển tới chén đánh cầu
Đi giáp bốn cửa cầu âu ba lời
Mình làm khổ đừng có than Trời
Gian nan không biết khoe thời rằng vinh
2705. Con mình đẻ rủa trẻ (lấy) yêu tinh
Tại lời bất chánh bất minh lộng tình
Chí mang cung cỡi ngựa một mình
Từ Nam chí Bắc mặc tình dạo chơi
Người còn mệt hơi mệt cho hơi
2710. Cỡi con ngựa đất thoát nơi Phiên trào
Bướm kề ong chen chúc chỗ nào
Qua Tây lấy dấu trở vào khai trương
Ngọn đèn hồng chói rạng nhà Thương
Mỏ mang đạo Phật Châu-vương ra đời
2715. Kế tương tự kế kế nguyền lời
Chừng nào sáng đất tối Trời Phật ra
Không phải Phật cũng chẳng phải ma
Khác người dương thế khác ta cõi nầy
64
Nhứt thân nhứt mã việc phải bày
2720. Để lời cho đủ hội nầy ưu tư
Khi bất túc khi lại hữu dư
Phòng cơ tích cốc lưu cư độ người
Bạc bảy hào ( nào) sánh với vàng mười
Mồ côi sao dám sánh người có cha
2725. Căm phận loài phản tặc lâu la
Giết cha chém chúa ( chú ) mới ra nỗi (đổi) nầy
Trâu của thế người lại bắt cày
Hai người Lục-tỉnh khổ rày trăm phen
Ăn của bạc trở lại ( bạc ) làm đen
2730.Thọ tài thọ tiển khá khen cho người
Trong bụng khóc ngoài miệng tức cười ( bản 1957; 84)
Vui chi ngọc lụy vàng mười kém phai
Trong hai năm còn lịch tống lai
Còn ba năm nữa kim giai của mình
2735. Chủ (Chúa ) trung tín mục khán tri bình
Câu nào thuyết nghĩa nhập tình nghiệm chơi
Đi vọng đầu có một con dơi
Ý sao để tích các nơi phượng thờ
Đường một ngày bay đến một giờ
2740. Linh chi bạch hạc phượng thờ án môn
Tôi nói dại người lại làm khôn
Linh thời tại ngã bất tôn thú cầm
Miệng niệm Phật ăn nói cho nhằm (3)
Cải tà qui chánh kẻo lầm quỉ ma
2745. Biết mở miệng niệm Phật ma ha
Phật mà không tưởng tưởng ma làm gì
Tôi thật khùng nói chuyện dị kỳ
Đặt làm một bổn biên thì ( thùy ) coi (cười ) chơi
Sợ con khóc thơ bé mệt hơi
2750. Cha mẹ già yếu một nơi không cần
Năm mười đứa cha mẹ nuôi gần
Đủ lông đủ cánh bay lần dễ khi
Phụ mẫu chi niên bất khả tri (4)
Ai ai phụ mẫu (5) sợ qui tuổi Trời
2755. Vậy mới rằng vọng tưởng lo đời
Tử sanh hữu mạng tuổi Trời biết sao
Có chữ rằng sanh ngã cù lao (6)
Âm thầm nghĩa trọng làm sao lo đền
Chữ dưỡng nhi đãi lão cho bền
2760. Nữ nam trung hiếu lo đền chỗ nao
65
Gia bần tri hiếu tử làm sao (7)
Mấy từng mấy bạc thấp cao làu làu (8)
Không cho ăn lòng ái đeo sầu
Chí tâm khẩn nguyện vọng cầu Phật Tiên
2765. Có chữ rằng hiếu chí ư thiên.
Dám khuyên nho sĩ hiếu riêng chỗ nào (1957; 85)
Chẳng lo sống ăn nói hỗn hào
Ôi lo thân thác chỗ nào chết ( ở ) êm
Ở dương gian nói láo nói thêm
2770. Thác về âm phủ sao êm thân ( phận ) mình
Chẳng xét ra hai cõi ẩn hình
Ai ai cũng ở lộng tình dễ khi
Người gian giảo sau thác ngu si
Đem về cõi Phật xử qui thú cầm
2775. Cõi dương gian nhiều kẻ mắc lầm
Coi rồi như thể trăng rằm tháng giêng
Bịnh đa (ngặt ) bịnh Phật chữa bịnh điên
Bịnh tôi chờ uống thuốc Tiên mới lành
Nói lộn ruột tức bụng no cành
2780. Ngồi buồn nhớ tới nỗi nhành quế hương
Chữ tiền tài phấn thổ ( ám nhãn ) bất lương
Nước Nam hai chữ Kỳ-Hương để đời
Lòng tham bạc chứng có ông Trời
Đời bạc dụng bạc trải đời chiều mai
2785. Có chi hơn một kiểng Thiên thai
Vui miền Thánh đạo gái trai ân cần
Gia chí khổ nhơn tắc chí bần
Đồ xa tích túc của trần phủi tay
Của người Tây trả lại người Tây
2790. Tân trào phế luật chẳng ngay tẩy tài
Kiểng Tiên nga sau đặng lâu dài
Vô cùng mưu trí phép tài mới nên
Ví cũng như Ngũ Thiệu (9) bị tên
Máy tay thãm giọng phò nên tử hoàng
2795. Nhớ tới đâu nước mắt hai hàng
Ông phò-nhị-tẩu ( 10 ) vẹn toàn đệ huynh
Chừng nào nghe một tiếng âm thinh
Lạ quê lạ kiểng bình minh lạ người
66
Lạ non núi lạ dạng nói cười
2800. Mặt mày lơ láo như người cuồng phu
Ráng chịu khó cho có công tu ( 1957; 86)
Dồi mài biển Thánh rừng Nhu mặc ( minh ) tình
Có chịu khó mới có nên mình
Khó khôn khôn khó lậu tình chánh minh
2805. Có ăn học mới biết sử kinh
Chữ đâu đem tới chánh minh cho mình
Có làm khó mới có của mình
Ở không chờ của đem tình cho ăn
Khá lo bề thượng thọ quí căng
2810. Của trần trả thế lo ăn cho trần
Quốc tri phú gia tắc tri bần
Du tri gia thảo hiếu cần mấy ai
Có chữ rằng thiên tứ hậu lai
Nương theo đức Phật chiều mai an mình
2815. Hạ bút Thần ký tự du tình
Vọng cầu đức Phật lọan bình quanh minh
Chói đền Nam tỏ rạng Đẩu-Tinh
Làu làu tuyết chói quảng thinh cửa chùa
Chí làm đền hương tích một vùa
2820. Nam mô hai chữ hội chùa Tây-An
(Đoạn dưới bản 1957 không có)
Vọng đền Nam hai chữ Trung Cang
Đặt làm một bổn tam ban để đời
Chúc đường trào thọ tuế Phật Trời
Kính dưng tuổi chúa hưởng đời trường sanh
2825. Đức Phật trời tha tội chúng tôi
Nam Mô A Di Đà Phật
Sanh tử tử sanh Trời Phật định
Vi ngôn đại đạo bịnh tồn lâm
Ất mão thiên cơ thâm nan biện
2830. Cải tử hoành sanh truyện Tây-Minh
Chúa Thánh Nam trào tinh chiếu diện Phật hiện hải đông
Nam mô quan thế âm bồ tát (tam biến)
2833. Đức Phật Trời tha tội chúng tôi.
Hết quyển thứ nhất Kim Cổ Kỳ Quan
_____
CHÚ GIẢI
(2). Thạch Hổ tức Triệu Thái Tổ - Vũ hoàng đế (295 - 349),tên là Thạch Hổ, trị vì từ năm 334 - 349. Ông còn được gọi là Hậu Triệu Vũ Đế. Ông là cháu của Thạch Lặc, cuộc đời trai trẻ đi theo Thạch Lặc chinh phục các nơi, lập ra nước Hậu Triệu này. Ông từng một lần tàn sát hơn 10 vạn dân trong thành bất luận già trẻ lớn nhỏ Ông giết huynh trưởng là Triệu Vương cướp ngôi vị,
(3).Nhằm: đúng; nói cho nhằm: nói cho đúng.
(4). Phụ mẫu chi niên bất khả tri dã 子曰、父母之年、不可不知也、一則以喜、一則以懼。Khổng Tử nói " làm con phải biết tuổi cha mẹ, một là để mừng hai là để lo".
(5).Kinh Thi có câu: Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao, dục báo chi đức, hạo Thiên võng cực. 父兮生我,母兮鞠我, 哀哀父母,生我劬劳, 欲报之德,昊天罔极。(Cha thì sanh ta, mẹ thì nuôi ta, thương thay cha mẹ sinh ta nuôi dưỡng khó nhọc, muốn báo ơn sâu, ơn đức của cha mẹ mênh mông như bầu Trời.)
(6). Cửu tự cù lao:九字劬勞 Chín chữ cù lao, tức là chín điều khó nhọc của cha mẹ sanh dưỡng con cái. Chín chữ cù lao gồm: 1.Sinh: Sanh đẻ. 2.Cúc: Nâng đỡ. 3.Dục: Dạy dỗ. 4.Phủ: Vuốt ve triều mến. 5.Xúc: Cho bú sữa. 6.Trưởng: Nuôi cho khôn lớn. 7.Cố: Trông nom. 8.Phục: Ôm ấp. 9.Phúc: Bảo vệ.
(7).Gia bần tri hiếu tử : Nhà nghèo mới biết con hiếu.
(9).Ngũ Thiệu tức Ngũ Vân Thiệu, một nhân vật trong truyện "Thuyết Đường",là ngườiđ ẹp trai, giỏi võ nghệ.(10). Ông Phò-nhị-Tẩu: tích Quan Công phò hai bà vợ của Lưu Bi khi cả ba bị Tào Tháo bắt.
No comments:
Post a Comment