KIỂNG TIÊN
ĐOẠN IV
Ngoài đông tây nam bắc cũng yên
1115.Thậm trách thay trào quốc Kim phiên
Người cai trị chẳng yên lê thứ (1)
Ví chẳng khác Văn-giang chiếm cứ
Cám thương vì lê thứ đảo huyền
Chiếm xưng hùng dựt ( giật) bạc dựt tiền
1120.Nơi chiến địa xa miền âm phủ
Phải gắng lòng trồng thêm đu đủ
Để luông tuồng ăn ngủ thời hư
Người trung quân tưởng đạo ưu tư
Chí tâm niệm phước dư ơn mọn
1125.Giữ sao đặng vuông tròn gốc nhọn
Phật Trời cho phước mọn trái bông
Nực cười thay kẻ có người không
Không mà có có không ai biết
Biết mà không không mà lại biết
1130.Giữ đặng lòng trực tiết không hay
Biết làm sao buộc cổ giây gai
Gẫm sự thế chiều mai không đủ
Mạng lý hữu thời chung tu hú (2)
Biết làm sao cho đủ đuôi đầu
1135.Mạng lý vô thời mạc cưỡng cầu
Xét sự thế đa sầu thiểu lạc (3).
Thậm khổ bấy thương ôi hai hạt
Ghét việc lành bất đạt chí linh
Tôi tu thàng đa sử đa kinh
1140.Chức ông thầy bất minh khó độ
Tụng kinh chiều cũng như giả ngộ
Phật thinh không cứu độ cái tâm
Nói tỏ ra như thể nói xâm
Đãi hậu nhựt thiển thâm thời biết
1145.Phật cứu thế độ dân nào tiếc
Dân không độ Phật biết làm sao
Nói thấp rồi phải nói việc cao
Đời này thể chiêm bao còn ngủ
Có chữ rằng nhứt gia vi chủ
1150.Học đạo lành quên ngủ quên ăn.
Phải lo bề niệm Phật qui căn
Đừng quen thói nói tăng theo sãi
Việc tu hành nào ai dám cãi
Tu làm sao cho phải thời tu
1155.Thánh ngài để chữ trí chữ ngu
Cho nên có hạ ngu chí thánh
Vọng tiền hậu lập vi bá tánh
Tu rẻ rề ăn bánh khỏi nhai
Trước mắt người ai có dấu ai
1160.Tu nhẫn chí chông gai trí thiết
Tỵ hung bạo như uý xà yết (4).
Ái ố lòng vị thiết thương vui
Muốn lo bề chỉ rối gở xuôi
Người bao nỡ chỉ xuôi vò rối
1165.Đường hung dữ lo mưu thầm tối
Nẻo làm lành tâm thối bất mê
Hạ bạch thố thượng dỉ kim kê
Triệu bất tường sông mê toan lự
Vô biện chánh dỉ dị mưu sự
1170.Việc vị minh tâm lự dục mưu (5)
Nhứt gia hữu sự bá gia ưu (6)
Mới rằng thong thả trượng phu bá tòng
Một trăm người hiệp lại một lòng
Muối dưa hẩm hút dự phòng kiết hung
1175.Chưa thuận lòng thuận dạ bực trung
Điểm khuyên khuyên điểm kiết hung tại người
Giàu tiếc của Trời Phật tiếc người
Tiếc của của hết tiếc người người vong
Việc học hành thời phải thất công
1180.Chữ đây nghĩa đó lý không biết rày
Lòng thương ôi mắc chữ ông thầy
Thầy trăm thầy chục tôi thầy một ông
30
Ăn gạo chợ phải uống nước sông
Lái buôn nhiều bến nói mông nhiều lời
1185.Nay mé biển mai ở chân trời
Còn hàng thời đậu lỗ thời phải lui
Thay đề thơ giản tại cây cuôi
Chừng nào nước lớn gió xuôi tôi về
Cuộc Trời xui khiến lẻ phân lìa
1190.Ra đi thời để trở về chỉn khôn
Phá bát quái phá tận ngũ môn
Trận đồ lập lại mùi khôn cấn dần
Chớ tham phú đừng có phụ bần
Làm lành niệm Phật hữu phần tây-phương
1195.Thuở Đại-Miêng trường phát vô cương
Đại-Thanh vóc binh mạc Thương cạo đầu
Đa kinh sử lòng Phật bất cầu
Đem lòng cải chánh phản hầu loạn bang
Ít kẻ thuận nhiều kẻ dọc ngang
1200.Đồ xà hổ tích loạn bang cho đời.
Không ai thuận lòng Phật lòng trời
Thuận theo ma quỉ ở đời một phe
Nói quấy phải anh em lóng nghe
Cải tà qui chánh một phe an đời
1205.Mở miệng nói có Phật có Trời
Du thần du Thánh chứng lời dại ngay
Đừng có trách thời tại người Tây
Người Nam nhiều việc không ngay hại mình
Chẳng xem xét nhiều việc bất bình
1210.Tranh điển đoạt thổ gọi mình rằng ngoan
Tửu khí tài sắc sự bất an
Hậu hôn điền thổ tan hoan cửa nhà
Kẻ bắt vịt người lại bắt gà
Mê đường dâm dục trẻ già lộng tâm
1215.Mình hại mình kết oán mưu thâm
Cường dâm hung bạo minh tâm bất tùng
Tứ đổ tường tri hỉ anh hùng
Tôi nay như thể đứa khùng nói vơ
Chửi làm chi kể từ cố sơ
1220.Đặt lời chửi lộn ngẩn ngơ mệt lòng
Ông bà chung bá tánh hội đồng
Phật Trời dạy bảo giữ lòng trước sau
Đừng chửi rể cũng chớ chửi dâu
Chửi chồng chửi vợ con dâu ra rày
31
1225.Đừng chửi tớ cũng chớ chửi thầy
Chửi như nói láo tội rày ngày sau
Rủa mắc dịch có dịch chẳng lâu
Lời rủa mắc gió gió âu bịnh rày
Rủa mắc cúm cúm cũng nhiều ngày
1230.Mắc phong phong cũng theo rày không sai
Mắc cái miệng nó kiện hai tai
Nói đâu có đó hai tai nghe dùm
Chúc việc dữ dữ lại a tùng
Chẳng lo chúc thiện thiện phùng khá hơn
1235.Đồng niệm Phật Phật độ thái sơn
Bất tùng niệm Phật phi ơn cho đời
Ở làm sao mắng Phật chửi Trời
Phật từ Trời thiện khi Trời đời ôi
Mong phố xá tòa án thoa vôi
1240.Phật ngồi Tây điện thương ôi cho đời
Thiên đình soi khắp hết trong trời
Cải trăm việc cải cải lời bất minh
Đời cải thiện tùng quỉ tùng tinh
Tùng ma cải Phật cải minh qui tà
1245.Cám thương ôi cho kẻ Mỹ-trà
Tiên ô tự khẩu sau mà mới hay
Hàm quyết phúng nhơn Thạnh-Mỹ-Tây
Ghét người trung hiếu thương thay nỗi người
Cẩm tú hương như thể vàng mười
1250.Phật xa Tây-tự thương người vô y.
Phật khó thế điều những việc chi
Nhơn trần sa đọa việc suy chẳng lầm
Thương trung quân thương lén thương thầm
Vàng rơi khó kiếm ngọc trầm khó mua
1255.Khuyên bá gia bớt bớt tranh đua
Ngọc vàng dấu cất bán lâm mua thời
Trần tử minh đèn sách tiếng đời
Trá hôn ngọc thị đỡ thời quốc gia
Xưa người ta nay cũng người ta
1260.Có đâu họa thể dối ma khuấy đời
Tượng tranh Nga có Phật có Trời
Tượng tranh Trần thị thương đời thảo ngay
Chẳng suy xưa sao chẳng xét nay
Nhứt nhơn cư hiểm vạn Tây nan tiềm
32
1265.Có mấy khi hát bổn xa kìm
Đờn ca mấy bực yêm liềm mấy tâm
Đờn kêu tự lập đạo mười lăm
Đờn ca lời Thánh minh tâm dặn dò
Đờn kêu tự Đinh tưởng đưa đò
1270.Đờn qua Tây quốc giọng hò Nam-bang
Đờn kêu từ nghèo khổ giàu sang
Đờn ca nhiều nỗi đa đoan nhơn tình
Đờn kêu từ giữ cội một mình
Đờn ca trách bấy lộng tình cho ai
1275.Đời kêu thương lời dạy chiều mai
Đờn ca tích đức ai ai giữ lòng
Đờn kêu thương nhiều nỗi đất đồng
Đờn ca cay đắng trong lòng chát chua
Đờn kêu thương ách nước không vua
1280.Đờn ca cay đắng chát chua cho đời
Đờn kêu thương ăn nói nhiều lời
Đờn ca trách phận con trời lao đao
Đờn kêu sầu mấy cuộc cù lao
Đờn ca sự thế chiêm bao quới quyền
1285.Trách lòng ai phế hậu vong tiền
Cơm vua ăn mặc lương tiền vốn không
Lập hậu đoan vi trước mạnh tông
Vỉ ngô tá quốc vỉ công vi thần
Tiền Thủy-liểu cải hậu Cây-bần
1290.Ngày sau mé biển định phần mọc ra
Ngoài mé biển không nhà người ta
Hàng khơi chài lưới vào ra chen người
Làm ăn đặng thong thả vui cười
Ấm no phỉ dạ thương người thảo ngay
1295.Đi vấp gốc niệm Phật chắp tay
Mới rằng dạ thảo lòng ngay ở đời
Chưn đạp gai miệng chửi nhiều lời
Có ai cứu độ cho đời đời ôi
Nhiều kẻ dữ đem dạ bạc vôi
1300.Chửi thề chửi thốt chửi thôi tung bùng.
Nhiều người khôn tánh lại tầm khùng
Điếc tai tiếng nói xưng hùng chỉn ghê
Nói bằng thẳng lại nhiều người chê
Đụng đâu nói đó tôi quê đời nầy
1305.Chốn khuê môn chữ ( giữ) dạ lời Thầy
Lập vi ngôn giáo hội nầy coi chơi
33
Tức cái dạ cũng tức cái hơi
Nhiều người ăn nói khó chơi với người
Biết ăn nói cũng biết vui cười
1310.Nói ngang nói dọc khoe người rằng khôn
Biết chòm xóm cho biết hương thôn
Lễ nghi phép tắc mới khôn cho lời
Câu ngũ thường khuôn phép ở đời
Nhơn nghĩa lễ trí tín lời hiếu trung
1315.Có sách nào dạy việc làm hung
Khuyên người thượng ha tích hung sách nào
Nghĩ tới đau ruột thắt gan bào
Lời xưa ghi lại hỗn hào tránh đi
Ruột từ đoạn nhớ tưởng lời ghi
1320.Thuở xưa thầy cũng lỡ khi tu hành
Thấy chim quyên léo luống trên nhành
Trái bông bông trái nào đành bỏ rơi
Lấp cơn sầu giã dạ thảnh thơi
Mỏi lòng lòng mỏi mệt hơi hơi sầu
1325.Cái cục cứt còn có đuôi đầu
Làm người chẳng tưởng lòng sầu tổ tiên
Miệng đừng nói đánh máu chẳng khuyên
Nói việc sạch sẽ Phật Tiên chứng rày
Phật lầm ma lầm quỉ lầm Thầy
1330.Bữa cơm đói dạ cho rày cơm thiu
Đường kinh nguyệt sau Phật sử tiêu
Đời này ngang dọc phất diêu loã lồ
Phải dùng nước rửa sạch cơ đồ
Thượng thanh hạ trược biển hồ sạch nhơ
1335.Nghĩ tới đâu nhiều nỗi ngẩn ngơ
Đời nầy xét lại sạch dơ tại lòng
Ví cũng như lòng bưởi lòng bòng
Vỏ y như vỏ cái lòng khác hơi
Phải nương đời áo bả quần tơi
1340.Nghĩ nỗi phận châu rơi lả chả
Nhìn sông biển chưa chi thông thả
Chớ chê rằng quần bả áo tơi
Các nước thời nhiều việc chơi vơi
Việc lục tỉnh không hơi mà nói
1345.Cao-miên phải lo dùng cơm gói
Người khá lo đói trước bây giờ
34
Việc minh mông chưa tới bực bờ
Thương Tần quốc vật vờ hồn phách
Nhiều đói lạnh chớ than chớ trách
1350.Một con sâu làm đổ trách canh.
Phật chẳng chê phàm tục hôi tanh
Cũng nhiều kẻ khôn lanh quỉ quái
Người thiệt ít giả nhiều bất tái
Buổi chùa công làm trái cảnh tu
1355.Chẳng phải người quê dại thôn phu
Chẳng phải kẻ công tu chí thánh
Chịu ba bực tả tơi vi cánh
Tu làm sao bất Thánh vô tình
Đặng ngồi mà chịu lạy một mình
1360.Chẳng dạy đạo minh tình chịu lạy
Tu cho biết đường ngay nẻo vậy
Tu mà ngồi chịu lạy dễ chi
Tu kiểng nào phải xét phải suy
Tu không biết việc chi chịu lạy
1365,Tu biết ăn tu không biết dạy
Cúng tùm bậy xúm lạy với nhau
Chẳng chỉ đường tội phước ở đâu
Thấy nhiều của dạ âu rằng phải
Tu thời phải tu nhơn tu ngãi
1370.Người làm phải làm phải với người
Tu dụng bạc mà chẳng dụng người
Tu dụng nói cười không dụng khóc
Tu làm sao cạo đầu bỏ tóc
Người tu thời có khóc có cười
1375.Thập liên hườn kế tự số mười
Cho biết nẻo theo người cổ tích
Cười là cười ham ăn vô ích
Khóc là khóc cổ tích trung thần
Khóc là khóc Thánh Thần xa chi
1380.Lòng thương tưởng vọng cầu hiệp ý
Tu phải phân việc trí việc ngu
Mới gọi rằng hảng dạ chí tu
Dò biển Thánh rừng Nhu chẳng dễ
Dụng sách ngoài dĩ mưu vi lễ
1385,Vi nhơn nan chẳng dễ người ôi
Phải lo bề nỗi chúa nỗi tôi
Xưa Phật Trùm ghét thôi Tần-quốc
286-35
Coi lừng lựng nhiều người nói xấc
Da hầm đen lý quốc cu cò
1390.Cũng mê theo đồng bạc con cò
Vong cựu thổ theo phò Phiên-quốc
Kiến nhiều nỗi tiêu gia phế thất
Lòng sớm đầu tối đánh bất tri
Láng-cháy xưa hại kẻ phân ly
1395,Thác vô số bất tri thiên địa
Cũng nhiều kẻ nói lia nói lịa
Rượu sau sưa bất địa bất thiên
Bỏ ngải hại hại kẻ chẳng yên
Tùy nhơn vật tội riêng cho thổ
1400.Phật cho xét thấy nhiều việc khổ.
Không ai lo thủy thổ quốc-vương
Chúa Tần bang như chúa nhà Thương
Thảm thiết lụy sâm sương hai ngả
Án nầy gởi thiên đình trả quả
1405.Bắc địa Tần hai ngả mất ngôi
Chúa bạt Trời tôi cũng bạt tôi
Mê trần tục các ngôi đổ hết
Ai thời cũng khá tua giữ hết
Thấy việc đời khổ hết để đâu
1410.Khổ một trăm việc khổ chưa âu
Sầu mười sầu biết đâu sầu nữa
Nhớ khúc đầu lo sầu khúc giữa
Còn khúc đuôi lo nữa hay thôi
Lo làm sao chúa đặng an ngôi
1415.Lo làm sao cho tôi hiệp chúa
Trong ba lớp mạnh ai nấy múa
Người một căn cơm chúa lo ăn
Kẻ hưởng Trời người lại hưởng trăng
Ba giờ cúng tế tăng vạn thọ
1420.Âm dương hiệp chánh vi tý ngọ
Vọng Tiên-sanh chúc thọ bá gia
Còn hai giờ cúng rước vào ra
Đường nhựt nguyệt ông bà qua lại
Nay nghĩ lại nhiều khôn ít dại
1425.Sao xem tứơng không dại không khôn
Người vừa vừa ở lại một môn
Đời nghĩ lại nhiều khôn nhiều chết
Nay lại có tiếng thì ăn chết
Tôi không biết ăn chết làm sao
286-36
1430.Nghĩ đời nầy nhiều tiếng thấp cao
Tôi chẳng biết phải sao cho đủ
Chữ học sư bất như học hữu (7)
Chuyện mới nhiều chuyện cũ ít hơn
Muốn học thêm chuyện nghĩa chuyện nhơn
1435.Ai thông thuộc làm ơn dạy bảo
Trẻ tiểu nhi già thời trưởng lão (8)
Duy Cống-Quỳnh (?) dưỡng lão thất ngôn
Trước già thời bắt sống mà chôn
Nghĩ nhiều thuở hết khôn tồn dại
1440.Trệ án Phật nay dùng xét lại
Thế bất suy tồn bại nhiều đời
Xưa nhiều trào không tưởng Phật Trời
Đọa dỉ hạ nhiều đời thậm ngặt
Chữ lão bất tử lảo thành tặc (9)
1445.Việc nhiều lời thậm ngặt bất minh
Chẳng phải lời chê sách chê kinh
Đa kinh sử nhiều rinh không nổi
Chẳng phải chê rằng kinh sách lỗi
Mình nghĩ mình châu ổi cho mình
1450.Phật dụng tâm dụng tánh dụng tình.
Phật chẳng dụng phân hình phân dạng
Phật dụng tri Phật không dụng loạn
Phật dụng hiền làm bạn cố tri
Xem cuộc đời nhiều nỗi loạn ly
1455.Phật cõi thọ sầu bi nhiều lắm
Một ngày lành hội đồng Phật tấm
Thương muôn dân khó lắm trăm phen
Việc làm lành như lửa mới nhen
Đường hung dữ trăm phen mắc đọa
1460.Người làm lành nhiều phen mắc đọa
Kẻ làm dữ tai họa biết đâu
Lạch thông thơ để trước con trâu
Thần Thiên cẩu nên sau tội trọng
Đừng ngó thấy Trời còn cao rộng
1465.Mà vong sư phản chúa lộng ngôn
Sao chẳng lo trả nợ càn khôn
Đừng bắt chước một môn lộng ngữ
Khuyên anh chị thiện nam tín nữ
Chung tâm tích đạo chữ ngôn truyền
1470.Khuyên chúng dân lòng chớ ưu phiền
Dụng nhơn đạo bất dùng tiền bạc
37
Xóm Châu-giang chà và lưu lạc
Lạy rước đưa bất đạt tâm tình
Bỏ ngải mê giết gái vong hình
1475.Hại lê thứ nước mình nhiều nỗi
Tùy nhơn vật giết người thậm lỗi
Ỷ sức khôn nhiều nỗi chông gai
Nhơn lộng tình mang hại mang tai
Người xét tôi chiều mai khỏi hại
1480.Chữ nhứt niệm "tâm vô quái ngại" (10)
Tận hạ-ngươn lập lại trung bình
Chốn du long thế yếu một mình
Nơi rừng vắng tâm tình chí lực
Có chữ bất tình trực trung trực
1485.Phải lo đời ba bực ba ngôi
Cho trọn niềm thiện đạo chúa tôi
Thiết tam giáo nhứt ngôi bình trị
Khốc an nước kế kỳ Lưu-Bị
Phải dự phòng nhơn thị phi nhơn
1490.Thị phi nhơn chỉ thị phi ơn
Đố ai sửa dạ keo sơn cho người
Sách nào hằng ghét sách tức cười
Phật nào lầm Phật thương người lầm ma
Tôi biết tội việc phước tỏ ra
1495.Xét soi chi để Diêm-la dăm lần
Dạ u minh bất biện tâm thần
Nói xa không biết nói gần cũng xa
Vậy kêu rằng Phật lộn với ma
Nói Phật không biết nói ma không tường
1500.Người lơ láo như kẻ đứng đường.
Làm sao độ đặng cho tường vạy ngay
Nói thời dữ múa mặt huynh tay
Trong bụng không biết vạy ngay chút nào
Gặp người lành lòng muôn mời vào
1505.Việc lành chưa đủ chỗ nào hỏi thêm
Lo việc ngày lo lại việc đêm
Khôn thời thiếu ít dại thêm thiếu nhiều
Ở thuận mai quấy mai chiều cho cân
Làm sao phải hếtmai chiều cho cân
1510.Có sắc Phật mới dễ lời phân
Thường thường theo thế chữ( giữ) dân an (11) hòa
38
Thiên địa hòa bất như nhơn hòa
Thiên địa dỉ thuận dân mà chẳng an
Dân chẳng an nay thiệt nhà oan
1515. Anh em nghĩ lại tôi ngang như hề
Chạy lộn ra rồi chạy lộn về
Chạy hai lần chạy gặp bề muôn tâu
Đồng Cần lố sau hết đất sâu
Nổi giòng đất cát đâu đâu hết rừng
1520.Giặc bốn phía giặc ớt giặc rừng
Bị vây như thế tiếng rừng hơi sông
Lâm tử trận chẳng tiếc chút công
E loài phản bối đầu không dính mình
Chẳng tiếc chi thân thể bất bình
1525.Thương cho anh chị bất bình trung can
Dặn quân tử thác đặng hồn an
Tiểu nhơn bất luận thác mang gông cùm
Thương hiền lương dân dã lo dùm
Chẳng thương bươi móc té khùng thấy khôn
1530.Mắc cái miệng nó kiện thân khôn
Chừng nào thấy chết biết khôn thời rồi
Ngồi khoanh tay mở mắt thồi lồi
Xét đi xét lại sợ ngồi không an
Rừng không đường đi dọc đi ngang
1535.Đường mòn mỏi cẳng dạ mang bạt đời
Thương giúp đũa dấu của giúp lời
Chẳng thương cũng giúp trao lời độc hung
Xét việc nịnh xét tới bực trung
Làm lành dầu gặp việc hung chẳng phiền
1540.Kẻ tiểu nhơn mong oán nhãn tiền
Nên hư Phật định chẳng phiền người ôi
Sau Nam Tần không có trầu vôi
Không ăn thuốc điếu tanh hôi miệng người
Oán thù đâu thấy nổi tức cười
1545. Cơm ai nấy độ thương người dư công
Oán có chỗ kết oán minh mông
Hoàng thiên hữu nhãn tôi không lo rày
Lo là lo niệm Phật cầu Thầy
Lo đường tội phước biết rày làm sau
1550. Tri lòng ông cho biết thấp cao.
Đi thời đại lộ xem sau lời Thầy
Về tiểu lộ trí nhược mưu bày
Chơn thơ ký trước lời Thầy dặn sau
288- 39
Việc hát bội nhiều tội khó âu
1555.Xưng vua xưng tướng tội sau khổ đời
Kẻ xưng Phật người lại xưng Trời
Xưng Tiên xưng Thánh sau thời đoạ thân
Việc lộn kiếp Trời Phật khó phân
Tự ý nghịch ý khổ dân thương đời
1560.Thương là thương tự ý vong Trời
Thương người ăn nói nhiều lời bất phân
Người thương người khác thể thương thân
Ghét thương khác thể dung phân cho người
Tội một phân trả quả dư mười
1565. Thiện xem ít thiện ác người thấy dư
Nhơn bất chánh hà sự bất tư
Cuồng ngôn loạn ngữ thấy dư mười phần
Như kiến bò miệng chậu xây vần
Lộn đi lộn lại cỏi trần oán ân
1570.Chữ oán thù Thánh để nan phân
Thánh xưa tri hậu muôn dân bất hoà
Thánh ngài tri hết trẻ đến già
Ngài tri lộn kiếp hậu mà bất quân
Thánh tri hậu hậu bất đều xưng
1575.So le bá tánh bất quân bất hoà
Có thương ai thương cả về nhà
Ghét ai ghét cả về bà về con
Có hai chữ thương ghét thon von
Thẹn Trời thẹn đất thẹn non tiêu điều
1580.Chữ thương ít chữ ghét thời nhiều
Chữ thương nghĩa hại dại chiều mới thương
Thánh ngài để hai chữ oan ương
Lở thù lỡ oán lỡ thương lỡ phiền
Sau có bạc cũng có đồng tiền
1585.Tiền không lỗ xỏ chữ phiền tiền trơn
Một trăm việc không khắc chữ ơn
Bán mua xài xí tội hơn bây giờ
Lòng tưởng trước lập tự phụng thờ
Chữ mà không chữ bây giờ phải tiêu
1590.Sách nào hằng ghét sách quần yêu
Thánh nhu nhu thánh thương tiêu người lầm
Vỉ kỳ mưu vỉ lễ vỉ tầm
Mười ba nhóm họ bữa rầm giao dươn (duyên)
Ngày rửa tội mùng một xưng ơn
1595.Ngươn đáng lễ bái giao dươn Phật Trời
288- 40
Gay gắt chi trong cuộc ở đời
Người chung lòng dạ đổi dời chẳng an
Thị tri nhơn tri diện tâm nang
Tri tâm đắt trí tri ban đắc thần
1600.Bất tri tâm quốc loạn gia bần.
Bất tri Thiên địa bất Thần bất quân
Nhơn bất luật hoạch tội thầm ưng
Bất tri Tiên-Tổ bất xưng bất thần
Tri sự phước phước mới lại gần
1605.Bất tri sự tội phước lần xa đi
Sa địa ngục kẻ khóc người la
Minh minh phước tội việc xa việc gần
Thánh ngài để chữ phú chữ bần
Chữ vinh chữ nhục chữ Thần chữ Tiên
1610.Chữ quỉ ma tri thế bất yên
Chữ tà chữ chánh xem riêng hai lòng
Chữ nhan sắc bạc mạng bao đồng
Chữ phước chữ tội xét lòng mới ra
Chớ học đòi Đỗ-Dự lu la
1615. Đừng noi Mua-Ất oán tha Tế-trào
Chớ bắt chước bợm bãi hùng hào
Vui đâu chúc đó chỗ nào bất tri
Nhơn tránh phần đa sự bất ly
Tri ngôn tri diện bất tri nhơn tình
1620.Chớ ỷ thế ăn nói một mình
Bất tri nhơn sự bất tình nhơn phân
Đổ bác môn trung mạt khứ thân
Bạc tiền huyết mạch phi ân anh hùng
Ăn cướp cạn việc Phật chẳng dùng
1625.Cựu thù tích oán anh hùng bất minh
Dụng sự tửu như dụng sự binh (12)
Trào đình hương đảng bất minh tửu tình
Vô tửu bất thành lễ (13) nghi trình
Tửu nhập ngôn xuất bất bình tâm cang
1630.Việc đấu kê đổ bác vi nan
Thượng hạ tắc loạn dọc ngang ngôn từ
Ít thưa dạ ăn nói nhiều ừ
Loạn ly tâm tánh ngôn từ nan phân
Tọa nhứt tịch đồng bàn quan dân
1635,Xuất ngôn vô độ nan phân chánh tà
Không phân trả cũng chẳng nhựong già
Bạc tiền qua lại ông bà khó phân
Điền địa tiêu ma cốt nhục sân
Ngày sau đổ bác vô phân thanh nhàn
1640.Việc đấu kê tội trước giữa đàng
Qua việc đổ bác tội tràng muôn dân
Thậm trách thay Hàn-Tín vô phân
Khiến đường cờ bạc nhơn dân noi đời
Qua Đại-Thanh chế biến nhiều lời
1645.Ấy là thậm tội hạ đời tham du
Vong kiểng Phật lại phế kiểu tu
Đói ăn ma phạm công phu sách đèn
Có tỏ thời cũng …. là đèn
Dầu có hèn hèn cũng tiếng là trăng
1650.Sớm canh tân một cõi dạy răn.
Tiền ma gạo quỉ khó khăn cho người
Lưỡi không xương dễ nói dễ cười
Dễ ăn dễ mặc thương ngươi giọng không
Kẻ thất của người thời thất công
1655.Thọ oan những việc minh mông biên thùy
Xem thấy trong sự thế nan kỳ
Đường vi thiện không vi một mảnh
Nẻo tai họa nương theo một dãy
Sa âm cung bay nhảy sao rồi
1660. Việc biển sông khúc lở khúc bồi
Việc non núi cây chồi tươi héo
Việc nhơn dạ ở sao cho khéo
Chớ lở bồi khi héo khi tươi
Chẳng việc chi kẻ vạch người bươi
1665.Nghỉ nhiều nỗi hổ ngươi việc thế
Mãn nhứt niên thọ xuân nhứt tuế
Hưởng tuổi đâu vong phế Phật Trời
Bởi hạ ngươn biến cải nhiều lời
Ngày hung kiết đổi dời chẳng thuận
1670.Để tháng thiếu năm nhuần bất luận.
Năm Phật Trời bất nhuận khác nhau
Nghịch việc trước đem thuận việc sau
Sự tri quá gầm âu tắc cải
Lần chuổi hột bồ đề chẳng phải
1675.Tu làm sao vạn tải thiên kim
Tu niệm Phật tích Phật tâm nghiêm
Vậy mới gọi tu kim tri cổ
289- 42
Tu vọng cầu quốc vương thủy thổ
Chẳng tụng kinh cứu khổ làm chi
1680.Phật tích tâm niệm Phật từ bi
Tay chuông mõ làm chi không Phật
Phật dụng lòng lòng đâu hỏi Phật
Hỏi thăm Trời nhơn vật ai sanh
Sao chê rằng Trời Phật hôi tanh
1685.Nên chẳng tưởng cha sanh mẹ dưỡng
Sao chẳng nghỉ Phật Trời thương tưởng
Tạo địa thiên dỉ dưỡng lại đây
Chim có cánh chim mới đặng bay
Người cũng dụng chơn tay lội lặn
1690.Xác phàm tục u mê hồn nặng
Lòng thanh minh thác đặng thăng thiên
Xác phàm phu lòng thú lòng Tiên
Loài cầm thú thăng thiên có kẻ
Bởi tại lòng phân làm hai lẽ
1695. Chẳng xét lòng nhiều kẻ u mê
Xét đặng lòng uống nước Tào khê (14)
Dung lính đơn sông mê rửa sạch
Phế cựu hương giã từ gia trạch
Ghe xuồng đi chật rạch chật sông
1700. Kẻ thiếu việc người lại dư công.
Chừng nào thấy chật sông thời biết
Chớ ham đường ngầy ngà mắng nhiếc
Người ở đời kẻ biết người không
Vận bất tề xiêu lạc người tông
1705.Dấu khí huyết chẳng lông thời cánh
Phật chẳng dụng đồng tông đồng tánh
Đồng nhứt tâm vi cánh bà con
Tứ hải qui kế hậu nước non
Sau sum hiệp bà con một dạ
1710.Người coi lạ tấm lòng không lạ
Mặt bà con mà dạ ngươi dưng
Nói trước mặt phải sợ sau lưng
Sau kết nghĩa người dưng ruột thịt
Sầu nhiều nỗi bà con dạ nghịch
1715. Biết làm sao thiệt tịch đồng bàn
Việc đấu kê ai dạy xóm làng
Việc đổ bác họ hàng nan biện
Năng sử anh hùng vi hạ tiện
Người ta phân mình kiện làm chi
43
1720. Mình xét mình phiền chữ ngu si
Chẳng thưa kiện làm chi hổ mặt
Nghĩ nỗi vậy nhiều đường thậm ngặt
Mình thẹn mình hổ mặt mới nên
Đã biết đời ba bực dưới trên
1725. Xét ra lẽ người nên mình đọa
Tưởng bực thượng lo bề bực hạ
Người ta phân mình dạ hoài hoài
Phải nằm đêm nghĩ việc lâu dài
Học chí lý chức ngai rạng tiếc
1730.Anh em khá tư tư thiết thiết
Có học hành mới biết dại khôn
Tâm ngụ binh xuất thế nhứt khôn
Trước rẻ mấy cười ngươi Tôn-Tẩn
Đường nên hư Phật Trời bảo dẫn
1735.Tiền xa kỳ phúc (15) ẩn tâm nan
Vai Phật Trời phò hộ nguy bang
Hậu xa kế cầu an cơ nghiệp
Trái việc trái trở tay cho kịp
Lo là lo cơ nghiệp đổi dời
1740.Mở miệng than Trời hỡi là Trời
Nguyện cùng Phật đổi lời nong nả
Hoạch tội ư thiện vô sở đảo dã (16)
Trách ai làm bất khả nguy bang
Phước nghĩa nhân tam thế hiển vang
1745. Hưởng thành thọ gia quan lấn tước
Tấn tước là công hầu vi phước
Trách ai làm việc trước vô phân
Chữ mình tích đức vi ân
Trời cao đất rộng tỏ phân chẳng lầm
1750. Quan dĩ oai phế đức mưu thầm.
Ít ai dĩ đức sợ lầm phế oai
Dọn lòng son lên chốn Thiên-thai
Bớt lời hung dữ chiều mai coi đời
Sợ lầm Phật phải sợ lầm Trời
1755. Người không biết sợ ở đời bất ưu
Hại nhơn nhơn hại kỷ thời hưu (17)
Hại nhơn ích kỷ oán vu kết thù (18)
Sấu ăn tạp tu đất thành cù (19)
Người tu đừng oán đừng thù sát nhơn
290- 44
1760. Người kết oán mình phải làm ơn
Chớ đừng hại vật sát nhơn tội dài
Người thiều sức ghét kẻ có tài
Dầu ai hủy hoại ta hoài thiện tâm
Đừng nói nhẽ đừng dạ nói bâm
1765. Nói bài nói biếm nói xâm loạn hoài
Đừng lấn thế cũng chớ lấn tài
Một lòng một dạ lâu dài an khương
Đời làm sao kẻ ghét người thương
Ăn no mổ mắt bất lương như cò
1770. Hoạn nạn cứu tật bịnh tương phò
Đời nay xét trước lần dò đời sau
Con thời kêu cha mẹ một câu
Không kêu tầm bậy như đâu bây giờ
Nói trước đây nói dại nói khờ
1775.Sợ e hậu nhựt vật vờ hồn ma
Để chờ cho có Phật ngài ra
Có người cắt nghĩa lý tha minh tình
Xem thấy cha xe pháo một mình
Muốn vô chiếu tướng sợ tình sĩ ngăn
1780. Mắt đoái nhìn năm chốt đứng giăng
Ngựa qua lấn nước không ngăn chỗ nào
Sông giang hà pháo vọt anh hào
Phá thời năm chốt chỗ nào trở ngăn
Liên sĩ mình nhập bổn quí căn
1785.Khép xe nước tượng đẩy săn chốt mình
Có pháo đầu xuất tướng ý tình
Đem xe đỡ mặt để rình làm thua
Thấy bàn cờ nước bí tranh đua
Dầu cho khéo lượng phải thua bàn nầy
1790.Nỗi gian nan sau tớ trước Thầy
Lên xe chích bánh xuống rày chưng không
Lên xe kiến mắt ngó minh mông
Ngày sau các nước chơn không chẳng giày
Nước bảo hộ giày vớ mắc đày
1795. Xét cho đến lẻ ăn mày sướng hơn
Nghịch kỳ đạo mà lỗi kỳ dươn
Nhọc lo nhọc sợ nhọc hơn các đời
Ăn cơm dưới đất nói việc trên Trời
Tỷ ngang ví giọc cho đời cười chơi
1800. Sợ hậu nhựt khó nỗi thảnh thơi.
Sợ hoài sợ quỉ sợ nơi bất bình
45
Sợ thầm tối sợ dại một mình
Sợ Trời gieo hoạ thình lình không hay
Sợ Nam-Việt sợ nỗi người Tây
1805.Sợ thôi hết sức sợ ngay Phật Trời
Sợ người dại hay bậy giữa vời
Sợ phòng khó dễ sợ Trời hay hơn
Ơn trời Phật như núi Thái-sơn
Biết sao đền đủ nghĩa nhơn vuông tròn
1810.Lời thề sơn biển cạn non mòn
Lo thắng lo thốt dạ còn ba lo
Lo khi đói lo lại khi no
Lo vinh lo nhục phải lo cho cần
Lo khi phú lại lo hậu khi bần
1815.Không khi già yếu Thánh Thần độ không
Lo người của lo hậu người công
Biết lo biết sợ tay không dễ rồi
Lo khi lở lo hậu khi bồi
Lo khi giỏi mạnh lo hồi ốm đau
1820.Lo việc trước lo lại việc sau
Lo bề giỏi mạnh ốm đau mấy hồi
Việc xem xa Phật đã định rồi
Việc gần Phật chửa định hồi cái tâm
Lỗi lễ bái sợ lỗi mười lăm
1825. Sợ lỗi phận sách minh tâm lỗi lầm
Lỗi ngoài biển sợ lỗi đất đồng
Giữ sao cho khỏi lỗi lòng Phật Tiên
Sợ lỗi đạo lập đạo chẳng yên
Lỗi lòng Trời Phật Thánh Tiên dễ gì
1830.Lỗi thuỷ thổ lỗi dạ biên thùy
Sợ phần lỗi trước dỉ tuỳ nương tâm
Hậu chỉ tồn lục giáp lục nhâm
Bất cung bất mạng việc âm nan bình
Bất sao hạn chế độ nan tình
1835. Hữu sao ký mạng nhơn tình hoàng thiên
Kiến sự thế đa sự bất yên
Chế trăm việc chế Phật Tiên chẳng dùng
Sợ lỗi tiếng thượng trí anh hùng
Lỗi cam thọ lỗi tôi khùng nói vơ
1840. Lỗi việc sạch sợ lỗi việc nhơ
Lổi bề tam giáo ngẩn ngơ mối sầu
Sợ lỗi bề Tây tự Nam lầu
Lỗi ra sông rạch lỗi đầu Tây phiên
46
Mười hai lạy thọ tội Phật Tiên
1845.Vọng cầu thuỷ thổ sầu riêng một mình
Nhơ dùng nước rửa sạch tâm hình
Biết sao nhơ sạch tại tình lượng phân
Trải trần thế sợ lỗi quan dân
Thường hành chí nguyện Phật thân Di-đà
1850. Sợ lỗi bề Tiên Tổ ông bà.
Cửu huyền bá tánh vọng mà niệm chung
Sợ lỗi nịnh phải giữ việc trung
Lỗi trung thậm khổ việc hung tới mình
Lỗi việc nào đại sợ lỗi tình
1855. Lỗi tình bất chánh nước mình bất minh
Lo sợ lỗi việc sách việc kinh
Sách ngoài tra khảo bất minh tội nhiều
Thả nghêu ngao như thuở ngư tiều
Lổi đường quốc sự mai chiều vô vương
1860.Trước đải thờ hữu sự quốc vương
Nay đà tận thế nhà Thương thảm sầu
Nhứt nhứt vô vương chí đáo cầu
Đảo huyền bá tánh thảm sầu mấy năm
Sự thiên cơ hoặc thiển hoặc thâm
1865.Dụng nhơn mỹ thuỷ nhứt tâm tu trì
Việc tu sao ít kẻ phân bì
Phân bì chi việc thiết chì bạc vôi
Đức chúa Trời tha tội chúng tôi
A men giữ đạo thuận ngôi Phật Trời
1870.Nguyện nam mô đức chúa trọn đời
Thương đồng Trời Phật Phật Trời một ngôi
Tưởng Thánh chúa liệu điệu nổi tôi
Mồ hôi nát áo than ôi Phật Trời
Thiểu sức mọn nhỏ nhẻ cái lời
1875.Mắt nhìn tứ hướng cái đời khổ lao
Xem thấy đời nhiều bực nói cao
Tôi lo nói thấp xem sao tạ thiền
Xem ba bực lo sợ ba miền
Quí thiên quí đại quí tiền Thánh nhân
1880.Quí tiền giảng ái quốctrung ân
Quí người hậu giảng tỏ phân chánh tà
Quí họ dỉ như quí ông bà
Lo Trần lo Nguyễn lo đà quá lo
Lo quên đói lo dại quên no
1885. Lộn hồn lộn vía nằm co thở dài
47
Khuyên anh em niệm Phật học tài
Hưởng huê phước thọ lâu dài thung dung
Tuy bây giờ phân rẽ cội thung
Mai chiều cũng đặng tiên cung hiệp hào
1890. Mắt đoái xem Bắc địa thương dà
Văn chương chữ nghĩa sao mà không căn
Xuất tam thinh mạt sức lăng xăng
Nam-kỳ niệm Phật có căn giữ hình
Người thuở xưa ăn nói thiệt tình
1895.Cổ nhơn tự thú sắc hình chiều mai
Sự túc mễ cổ vảng kim lai
Thuở xưa nhứt túc đại giai trái dừa
Sau sanh ra nói thiếu nói thừa
Biến tiêu ma mể giày bừa thân yêu
1900. Đáo Hạ-ngươn trời Phật xử tiêu.
Nhiều lời giáo dụ chẳng siêu việc lành
Trào Minh-Hoàng còn vỏ để dành
Từ vua Thiệu-Trị gãy nhành đến nay
Qua Tự-Đức trào quốc qui Tây
1905.Thay đời đổi chúa việc nay bất bình
Sau hột lúa vỏ trắng thiệt tình
Trong ruột thời đỏ thế bình bất vi
Trước vỏ vàng ruột trắng phân ly
Trung ngươn khiến biến người khi tiêu điều
1910.Hết nói ít chẳng kẻ nói nhiều
Cày sâu cuốc cạn việc nhiều cho dân
Việc sung sướng chẳng muốn sướng thân
Thần khẩu xui khiến muôn dân cực dày
Khó việc tớ khó tới việc Thầy
1915.Thương trong chư quốc khó rày không lo
Chín người đói có một người no
Gặp cơn bát loạn của kho chẳng còn
Thương đông đảo là xứ Sàigòn
Bể om việc trước hao mòn các nơi
1920.Cũng như buồm ra biển chạy khơi
Cám thương các nước không nơi cậy nhờ
Nước Nam-Việt đình trú phủ thờ
Các nơi bác loạn nhà thờ chiêu an
Hết việc hiệp mới thấy việc tan
1925.Hết tan tới hiệp mới an nước nhà
Cám thương nổi súc vật vịt gà
Trâu bò dê ngựa thác mà vô căn
292- 48
Thương thượng cầm nhiều nỗi lăng xăng
Thương phần hạ thú không căn bịnh rày
1930.Nuôi người nội giữ đạo theo Thầy
Cám thương người ngoại thác rày vô căn
Mộc hữu bổn Phật độ qui căn
Thuỷ nguyên trời độ thuận ăn thuận làm
Các rạch lớn sao chẳng kêu vàm
1935.Đều thời kêu cửa nguời làm cá tôm
Mặt trăng mọc thời có sao hôm
Các ra một thước qui khôn theo hoài
Trời mọc khôn qui tấn mới tài
Sao mai mọc dựa theo hoài chẳng ly
1940.Sự dị đoan trần thế bất tri
Dương gian mắt bịt nhiều khi thời lầm
Sau không kêu trung ngoạt bữa rầm
Mười lăm vi chánh nói nhằm không sai
Thủ ngôn chánh sự chánh qui lai
1945.Bất thủ sự chánh chiều mai tiêu điều
Một trăm việc qui chánh cải chiều
Xuất ngôn vi chánh thập điều châu phê
Nói con ngổng người nói con nghê
Trâu đen trâu trắng khác quê tâm hình
1950.Nói hung dữ hung dữ hiệp tình
Nói hiền hiền thuận khác hình nhứt tâm
Lập đời sau không đặng lọan dâm
Không chọc không ghẹo nhứt tâm chánh bình
Không hát xướng không đặt huê tình
1955. Thủ nghi phép tắc chánh bình ngôn trung
Không nói dữ chẳng có người hung
Thường làm ngôn trực chủ chung tính tình
Kiến sự loạn hữu kiến sự bình
Thiện nam tín nữ thủ tình lương thinh
1960.Xuất ngôn vô độ hữu âm binh
Xử nhơn bất chánh bất minh khổ đời
Tâm trung xuất khẩu độ nan thời
Bất tri bất biện lời thảo ngay
Trước một tội chưởi lộn khó thay
1965.Một tội gian giảo sợ thây chẳng toàn
Trước một tội mị mộng qua đàng
Một tội tà nhịn chẳng toàn thân thi
Biết làm người phải xét phải suy
Ở chi cải quá cung ly phật phiền
1970.Ham làm chi đồng bạc đồng tiền
Bỏ trung bỏ hiếu bỏ miền Phật Tiên
Bỏ tiền nguyện căn nợ nhơn duyên
Bỏ đường phước đức cải riêng tâm hình
Theo hàng tôm hàng cá bất bình
1975.Cải tâm cải chánh cải tình bất lương
Cải phế quốc bất vọng Phật-vương
Cải lời Phật dạy hiền lương chẳng dùng
Cải việc chánh chê Phật nói khùng
Phật thời tích Phật phải dùng ma ha
1980.Người chê Phật nói chó sủa ma
Chừng nào ngó thấy người ta không dè
Mười mối việc trổ mối thè lè
Không suy không xét không dè thời hư
Khi bất túc khi lại hữu dư
1985.Lường tranh (thưng?) tráo đấu tội tư cho người
Nói cà vay nhiều chuyện tức cười
Dần đi dần lại dần người dần ta
Trâu hai trâu trâu người trâu ma
.Chuột thời hai chuột chuột ta chuột rừng
1990.Mèo hai thứ mèo nhà mèo rừng
Rắn hai thứ không chừng hổ long
Ong thiếu mật chờ thuở nếm bông
Trâu cày đáy biển cọp xông mé rừng
Tôi sợ tôi ăn nói không chừng
1995.Đắng cay ngọt lạt ớt gừng chát chua
Tiếng niệm Phật vàng mười khó mua
Đời này tranh đấu hơn thua làm gì
Kẻ nói lạ nhiều dạ nói kỳ
Nói nhơn nói đạo thấy thì không ngơ
2000. Coi lừng lựng lòng rối như tơ
Thấy sao những việc ngẩn ngơ không lòng
Biết phải không nói việc bao đồng
Ngặt tình Phật khiến xuất lòng nhơn nan
Từ Kiệt Trụ phế dỉ Châu-Thang
2005.Tam hoàng dỉ hạ chẳng an trào nào
Hữu nịnh trung xuất dỉ anh hào
Thời suy quân nhược Thần Tàu loạn bang
Chữ nhứt quốc vi vương mới an
Loạn dâm nhơn thiếp dọc ngang trẻ già
2010. Phạm điều luật dưỡng tội nước nhà
Nam dâm nhơn thiếp nữ hoà nhơn phu
283-50
Lâm tội đó người cũng khó tu
Biết tội biết phước công phu bớt lần
Không biết tội khó định tâm thần
2015. Tu dầu mấy kiếp dạ bần chí ngu
Triều dỉ quan đặt thửa thôn phu
Khuông phò trung trí hạ ngu mới tài
Sự quan thần phụ tử lâu dài
Nội gia nô tỹ xuất ngoài công khanh
2020.Kẻ chê dại người lại khen lanh
Đời nầy khác thể Địch-Thanh năm cầu
Địch-thiên-Kim nhiều kẻ chư hầu
Cô mà lạc cháu dạ sầu dấu xưa
Nước cơ hàn như thể lưới thưa
2025. Chừng nào Phật định dấu xưa hiệp hoà
Phật xét dấu mới biết thiệt thà
Phiêu lưu mấy lớp ông bà dấu y
Sau trở lại xét dấu tiền suy
Bấy lâu dấu mất nay tri dấu tình
2030.Dấu y dấu mới rõ tâm hình
Dầu ai xưng ở Thiên-đình mặc ai
Xét dấu chiều nhìn lại dấu mai
Người nào không dấu mặc ai xưng hùng
Dấu Phật Trời thấy sợ không cùng
2035. Sái mà một chút chẳng dùng người đâu
Dấu Trời Phật biết để bao lâu
Chừng nào tri lại dấu đâu chẳng lầm
Mới than rằng vàng kím ngọc trầm
Ma ma thời sợ Phật mà lầm ai
2040.Dỉ tạm đăng nhứt lễ tế mai
Cầu sanh hai họ kim giai khương hoà
Việc cúng kỉnh vọng tưởng ông bà
Như không cúng kỉnh con nhà sanh oan
Ít người nào lòng tưởng Tây-phang
2045. Thương thương ghét ghét chưa an nỗi ngày
Chưa thấy khóc còn thấy vui cười
Bạc muôn thấy đó thương người đói đây
Có một chỗ nói việc đông tây
Động lây thiệt động phương Tây bất bình
2050.Đông-thắng thần xuất tướng ý tình
Bắc Nam lưỡng cá động tình phi nhân
Dễ ăn nói nghĩ việc khó phân
Chừng nào Phật định thời dân thời Trời
294- 51
Cõi trung giái là trả quả đời
2055. Báo ân báo oán trọn lời cạn phân
Cạn sự quốc nay cạn sự dân
Cạn đời cạn lẽ cạn phân bổn nầy
Cạn việc tớ tỏ cạn việc Thầy
Cạn trung cạn nịnh cạn rày Phật ma
2060.Cạn tội phước lời để chỉ ra
Cũng chưa biết tội kể ra say nầy
Còn nhiều tội sau trước tỏ bày
Việc người có Phật tội này xử tra
Sau không có đem lời nói ma
2065. Phật dạy phải xét phải tra công bình
Sự bất tường hà sự bất tình
Bất minh bất đạt hữu hình bất tâm
Dụng bình cầm hoà vận ca ngâm
Xem đời tận thế tu tâm bất hoà
2070.Kể điều tội ăn ở trẻ già
Văn chương dốt nát sau mà lòng nghe
Kể tội là buôn bán Tàu ghe
Thiếu thừa tranh đấu tai nghe vào tình
Tội bất hiếu thuộc tội ngũ hình
2075. Vong sư phản chúa tội tình nan phân
Huệ bất mê nhơn nhơn tự mê
Hiệp duyên kế hậu phu thê tử tình
Tội chưởi lộn bá tánh bất bình
Tham gian đạo tặc tội tình thị phi
2080.Tội mắng gió chưởi mua đều khi
Tội đường dâm dục loạn ly bất bình
Tội kinh nguyệt chẳng giữ ý tình
Đi ngang đi giọc đoạ hình trần mê
Nội ngoại tương tề hữu phu thê
2085. Vợ chồng chưởi lộn sông mê tội trần
Ở trần thế khi thửa Thánh Thần
Kêu Trời kêu Phật nhơn trần tội thâm
Tội chưởi cha mắng mẹ tội lâm
Phật thương bịnh điếc bịnh câm giả đò
2090. Tội đấu kê đổ bác nan phò
Tội người hát bội giả đò tội đa
Tội Thầy pháp treo tượng dối ma
Hà nhơn sanh Phật Diêm la xử người
Dẫn nhập tội về cửa thứ mười
2095. Tu ma dối thế thương người dối ma
52
Tội đàng điếm đỉ thả tiêm la
Nặng tội theo thú tội sa âm trì
Các tội chưởi tội nặng li bì
Cũng như nói láo tội thì không hay
2100.Tội tu mặn nặng tội tu chay
Tu nhiều nặng tội không ngay tu tà
Tu phạm Phật tu không thiệt thà
Tu xuống Diêm chúa tội mà phân thây
Tội phạm tăng Phật cứu là may
2105. Phạm Phật khó cứu tội nay phận người
Tội chọc gái giỡn hớt vui cười
Lộng ngôn phạm luật khổ người nữ nam
Nặng tội người mười việc lòng tham
Lường công cướp việc nữ nam phi tình
2110. Tôi sự thế đa sự bất bình
Tu non tu núi lộng tình tội đa
Lên Cấm-điện đại tiểu xuất ra
Coi thời lừng lựng Diêm-la khó rày
Thiệt nặng tội cho đức ông Thầy
2115.Mười người khó cứu tội rày hai mươi
Tội bóng dại nhiều việc dễ ngươi
Ông nầy bà nọ mấy mươi tội người
Tội nói bậy cho anh em cười
Tội đà vô số thương người biết bao
2120.Lấy vợ người tội nặng khổ lao
Lấy trai phá thất xiết bao tội người
Xưa thập điều nặng tội thứ mười
Nay đà loạn tội tội người kể trăm
Trai vong chúa phản đạo mười lăm
2125.Bội phu nữ tặc biết trăm tội nào
Tội trị quốc bất chánh loạn trào
Tội người phế chữ Thánh nào bán hương
Tội bán Phật bán chữ tội ương
Phật Trời xem xét nhà Thương tâm bào
2130.Đều lớn nhỏ ăn nói hỗn hào
Chưởi thề đéo mẹ chỗ nào không kiên
Tội trần thế đa tội vạn thiên
Chưởi Trời mắng Phật khi Tiên tội nhiều
Kể các tội xử hậu tiêu chiều
2135. Việc sau việc trước tội nhiều bỏ thây
Xét tới tội chưởi vật chưởi cây
Làm hung làm dữ bỏ thây khổ hồn
295- 53
Tội xử tử dâm hậu tích tồn
Dắt qua dắt lại thương hồn cho dân
2140.Tội dặn dò bẻ trái cầm cân
Thác xuống âm phủ cái thân chẳng nằm
Tội dâm dục thầm tối đêm rằm
Ba mươi mản nguyệt tội lầm phạm dâm
Khuyên chúng dân trị tội kẻo lâm
2145.Cải tà qui chánh tội thâm tới mình
Tội sát nhơn hại vật oan tình
Oan hồn yểu tử oan tình khó âu
Ông trở về dạy việc trước sau
Làm đủ chín bổn tóm thâu mối đời
2150.Tôi nặng tội cải Phật cải Trời
Nam nồm bất chứng cãi lời gió mưa
Đời nhiều người nói vọng đẩy đưa
Gió va tám hướng nắng mưa không chừng
Trọng nhơn thân bá bịnh bá thuần
2155.Tử nhi vô hối chuông mừng không thôi
Không thẳng mà độ dân ôi
Đời nầy tích của nghĩ thôi chẳng còn
Năm bảy năm thiên hạ hao mòn
Tuy nay nói láo chữ còn dấu đây
2160.Sao cho bằng giữ đạo làm ngay
Dầu lâm hoạn nạn phương Tây độ mình
295-54
Tội miệng nói dơ dáy đọa hình
Nói lời thanh cảnh giữ mình nam mô
Mảng nhứt thính các nước đều vô
2165.Đầu sơn giao chiến nam mô tranh tài
Thập bát quốc vây phủ ở ngoài
Thiền trung xuất trận phép tài quan Thiên
Đoái Ngủ long tiền trận nữ phiên
Giao chính tam trận chư Tiên lại từ đầu
2170. Phật thâu phép chư quốc chư hầu
Qui lai thiên nội ứng hầu Phật vương
Đồng chúc thánh vạn thọ an khương
Thế tăng vạn tuế Phật vương thọ trường
Phán chư quốc công lể minh tường
2175.Tiểu ban lãnh sách thường thường thọ ân
Đãi yến viên chư quốc quan dân
Chính tề trở lại hương lân an phần
Phân thương hạ quan chức quân thần
Phân ngôi phân thứ định phần quan dân
2180.Chúc Hơn trào miên viễn hoàng ân
Trường sanh thọ tuế muôn dân thanh nhàn
Lập thượng ngươn hưởng thọ khôn càn
2184.Đặt chung tử bổn vẹn toàn hiếu trung
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
____
(2).Mạng lý hữu thời chung tu hú 够 /Mạng lý vô thời mạc cưỡng cầu: gặp thờ vận thì việc tu hành viên mãn, không gặp thời thì khó thành công, đừng cưỡng cầu.
(3). đa sầu thiểu lạc: nhiều buồn, it vui.
(4).Tỵ hung bạo như uý xà yết: tránh hung bạo như tránh rắn rết.
(5).Việc vị minh tâm lự dục mưu : Việc chưa sáng tỏ mà lòng lo lắng mưu toan.
(6). Nhứt gia hữu sự bá gia ưu : Một nhà có việc ( buồn, lo) , trăm nhà lo buồn (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ)
(7).học sư bất như học hữu: học thầy không tầy học bạn.
(8).Trẻ tiểu nhi già thời trưởng lão: Trẻ nhỏ già thành ra ông lão.
(9).lão bất tử lảo thành tặc: già mà không chết hóa thành giặc.
(10). "tâm vô quái ngại: Câu trong Tâm kinh, nghĩa là lòng không trở ngại.
(11).Bản quốc ngữ ghi u hòa, có lẽ là an hòa.
(12).Dụng sự tửu như dụng sự binh
(13). Vô tửu bất thành lễ : không có rượu không thành lễ.
(14).Tào Khê: Địa danh ở Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông Trung Quốc, nơ Lục tổ tu hành.
(15).Tiền xa kỳ phúc: xe trước đã đổ ( xe sau phải tránh.)
(16).Hoạch tội ư thiện vô sở đảo dã: Khổng tử nói: có tội với trời thì còn biết cầu cứu vào đâu!
(17).Hại nhơn nhơn hại kỷ thời hưu : mình hại ngu7ời sẽ hại lại mình như vậy bao giờ mới dứt?
(18).Hại nhơn ích kỷ oán vu kết thù : Ích jkỷ hại người sinh ra oán thù.
(19). Sấu ăn tạp tu đất thành cù : Dân chúng cho rằng sấu thành cù, cũng có thuyết cù là rồng đất,
MỤC LỤC
THIÊN | LỜI TỰA | TRANG | ||
THIÊN I THIÊN II THIÊN III THIÊN IV THIÊN V THIÊN VI THIÊN VII THIÊN VIII THIÊN IX
| Kim Cổ Kỳ Quan Giác Mê Cáo Thị Vân Tiên I II III Ngồi Buồn Bổn Tuồng Thừa Nhàn Tiềng Giang Kiển Tiên
| 1 35 41 90 107 119 141 195 269 | đến đến đến đến đến đến đến đến đến | 33 40 88 104 117 139 193 268 295 |
BẢNG ĐÍNH CHÁNH
TRANG | DÒNG | ĐÃ IN | XIN ĐỌC LẠI |
Tựa đầu trang 3 4 2 7 8 9 13 14 15 16 26
31 40 68 69 70 97 100 107 111 113 117 137 142 143 147 162 168 188 190 195 203 221
227 245 246 247 248 249 259 Thậm trách thi 276 279 280 281 | 18 2 3 9 35 23 21 9 14 36 12 38 15 2 34 32 12 24 1 2 42 13 18 2 6 17 40 26 7 27 3 12 28 11 13 7 6 6 19 2 1 7 32 26 11 35 | tráhh tài cần cơ Voi hỗ Thiêm hánh chứa kể niên giai hâu tnế doa kheo tẩm là tàm cồn ba ha nùng thuận nhứt hòa tâm cấu chưa lòng phiền cửu sn chỗ khác hội dạ dạ hiệp ngôn ít ít dầu có hèn Viấc chănng tnể Ngội phâ hiên Trôi tiền bạc cho hà hà hất Thành cảng hay | Tránh tai cầu cơn Vôi hồ Thiên ganh chúa kể kể nên giác hậu thế dọa khoe tâm tà tám cầu ba hung thuận hòa nhứt tâm cầu chua an lòng phiền cứu suy chỗ hội dạ hiếp ỷ ngôn ít dầu mà có hèn Việc chẳng thể Ngồi phân trên Trời bạc tiền cho rồi hà bất Thánh tàng hai |
No comments:
Post a Comment