KIM CỔ KỲ QUAN
Quyển I tập 4
Quyển I tập 4
Tài liệu tham khảo: ấn bản 1957 và ấn bản 1964
Ấn bản 1964 từ trang 19 đến 24, cột 37-48)
Ý CHÁNH:
TƯƠNG LAI RỰC RỠ
những đổi thay trên thế giới và Việt Nam.
Ấn bản 1964 từ trang 19 đến 24, cột 37-48)
Ý CHÁNH:
TƯƠNG LAI RỰC RỠ
những đổi thay trên thế giới và Việt Nam.
37
1585. Kiểng hoài kiểng lòng dạ mới an (BẢN 1957, tr.50)
Thương người xa xứ gian nan nhiều bề
Lòng muốn cho quốc trị gia tề
Liều mình như thể Lý-Hề (1) thuở xưa
Giốc làm thơ mà gởi cho mưa
1590.Mưa đưa cho gió đưa Phật Trời
Cõi dương gian trung nịnh mấy đời
Sớ tâu Hoàng-Thượng xử thời oán ân
Tức lòng nghĩa động thửa (1b) lòng nhân
Cầu Trời khẩn Phật xử phân dương trần
1595. Gia trí đoản quốc loạn trí bần (1c)
Hội ân Tiên Thánh âm thần chiếu tri
Cầu Tiền giảng trở lại một khi
Vọng cầu Hậu vãng chiếu tri chánh tà
Lòng vọng cầu Phật Tổ ông bà
1600. Như-Lai cứu thế chánh tà Hạ-ngươn
Cửa Ngã-Bác có nổi nhị sơn
Núi-Sam tiêu mất Thất-sơn điện đền
Chí anh hùng lập chí cho bền
Sông ngang ngay thẳng vô đền Bửu-sơn
1605. Oán đa oán, ơn kiến thiểu ơn (1d) (Bản 1957, tr,51)
Hội lành nỡ bỏ Thất-Sơn sao đành
Chim khôn thời lựa cội lựa nhành
Gái khôn kiếm chốn trai lành nương thân
Gái trâm dắt mới gọi gái ân
1610. Trai thời trí huệ gọi thân trai lành
Người niệm Phật lòng Phật để dành
Cải tà qui chánh dạ đành bao lâu
Con cá lớn nằm ẩn vực sâu
Khỉ thời ra khỉ tu lâu mới thiềng (thành).
1615. Dám khuyên lòng bá tánh chớ phiền
Lời ngu nói dại nhị tiền nhứt căn
Chim chìa vôi học nói líu lăng
Chánh thời thủ chánh phế căn quỉ tà
Mặc ý ai phụ bạc lòng già
1620. Cây đắng trái ngọt gói trà Bửu hương
Nghĩ đời nầy như ngựa buông cương
Thiết tình chí để Đường-vương tầm hiền
Thuở cựu trào (đô) tạc chữ vi tiền
Muôn dân xài xể chớ phiền nhục vinh
1625. Phải xét ra tỏ lẽ chánh minh
Việc nào tà vạy âm binh chứng rày
38
Trên Phật Trời cứu độ hội nầy
Dương gian nhẫn (2) nhục khổ Thầy gian nan
Người ta sao mình vậy khó an
1630. Đời nầy nhiều kẻ dọc ngang phân bì
Có sông dọc nhiều chỗ dị kỳ
Đường rầy xe lửa chạy thì Bạc-Liêu
Núi lao xao lập hậu Thời Nghiêu
Cao diền đất Thuấn tiêu diêu độc trùng
1635. Sau vật nào Trời Phật cho dùng
Phật đem trở lại dưỡng cùng vạn dân ( gia)
Tồn nhị thú phạm luật quốc gia
Con trâu con chó cõi ta không về.(2b)
Lòng trách ai ăn giấy bỏ bìa (bản 1957, tr.52)
1640. Khi thương thương vội khi lìa lìa xa
Ruột không ruột Phật xách bỏ ra
Ai mà chữ tín (3) ngoài da đem vào
Thiệt huyết khí cốt nhục đồng bào
Người dưng lạ mặt đem vào lòng thương
1645. Phật dụng lòng lòng Phật Phật thương
Dụng tâm dụng tánh oan ương bạc tiền
Khổ mấy năm khổ mấy không phiền
Khổ bao nhiêu khổ bạc khổ tiền nhọc lo
Chẳng thà đói nhịn đói nằm co
1650. Của người thọ thực ăn no tức lòng
Cái đồng bạc vẽ đủ giáp vòng
Vẽ phải vẽ quấy vẽ lòng vạy ngay
Vẽ Nam-Việt vẽ tới người (Đại) Tây
Bạc thời tiêu bạc bằng nay chẳng còn (3)
1655. Nhiều đồng bạc gửi ra (cải lại ) Sàigòn
Chừng nào hết bạc không còn một manh
Ngày sáu khắc đêm lại năm canh
Cải quê cải dại khôn lanh nỗi nầy
Cãi lời tớ cũng cãi lời Thầy
1660. Cãi bao nhiêu cãi quá ngày hết trơn
Trải biển khổ báo bổ người ơn
Chừng nào pháo nổ thoa sơn mặt điều
Ơn Tây trước trả bạc cũng nhiều
Tàu man kết oán mặt điều khó theo
1665. Mắt ngó ngơ xem thấy cheo leo
Đồng ngân lấp oán dụng heo lấp lòng
Dụng đồng bạc trải việc bao đồng
Ơn đều nghĩa trả tội (phỉ ) lòng bá gia
39
Phật hội đồng dạy bảo thuyết ( thốt ) ra
1670. Người đời hằng nói rằng ma nực cười
Buồn thời khóc vui vẻ thời cười
Tôi loà con mắt ngó người yêu ma.
Sau trở lại người Tây sợ ta (bản 1957, tr.53)
Chừng nào tới đó quỉ ma thác nhiều
1675. Lại chùa công che trại cất lều
Tam niên giáo đạo phá kiều huê rơi
Huê tàn rồi đây đó thảnh thơi
Ngủ mê thức dậy hai nơi biết gì
Tiếng cười nói là tiếng biên thùy
1680. Vô duyên cho đạo lấy gì có con
Chữ Bửu-Sơn sau thiệt chữ son
Chánh vì vương tướng tám con trị vi.
Có chữ rằng phu xướng phụ tùy
Chồng làm anh vợ trị vì mới hay
1685.Có ai mà nghịch mạng như Tây
Em mà dễ chị trái tai hai bề
Sao chẳng nhớ tiển thổ (tổ tiên ) hội thề
Lầu son sớm dựa tối kề xinh xang
Bởi dính mỡ mèo mới ăn tham
1690.Con sãi mà đặng làm quan mấy đời
Tu bên Phật sao bỏ bên Trời
Tu Trời bỏ Phật trái đời không (sao) nên
Non tuân lãnh (Ơn Cao-Lãnh) người chớ vội quên
Rừng nho phụ bạc không nên một người
1695. Biển Thánh minh như thể vàng mười
Ân ngôn giáo đạo mặc người khen chê.
Trước xem đèn gần hiệp kiểng huê
Đạo mầu chánh lý phu thê thuận hòa
Lỡ ruột non cũng lỡ ruột già
1700. Lỡ trung lỡ nịnh lỡ mà nghĩa nhân
Lỡ báo hiếu cũng lỡ lập thân
Lỡ buôn lỡ bán lỡ phận cấy cày
Lỡ phú quí cũng lỡ ăn mày
Lỡ quan lỡ tướng lỡ rày làm dân
1705.Lỡ ăn lỡ nói mà cũng lỡ phân
Lỡ bề ruộng rẫy lỡ ăn của người
Lỡ ngồi nói cũng lỡ đi cười (bản 1957, 54)
Lỡ ngủ lỡ thức lỡ người vào ra
Lỡ việc Phật cũng lỡ việc ma
1710.Lỡ bà con ruột cũng lỡ cha hai bề
40
Lỡ làm tướng cũng lỡ làm hề
Lỡ đi cho dứt lỡ về cho an
Lỡ đói khó cũng lỡ giàu sang
Lỡ qua Tây-Trúc (quốc)(3b) lỡ an Nam kỳ
1715. Lỡ bó vác cũng lỡ bó bì
Lỡ sanh lỡ tử lỡ thì người ta
Lỡ con Phật cũng lỡ con ma
Con Trời cháu Phật lỡ ra hội nầy
Lỡ làm tớ cũng lỡ làm thầy
1720. Lỡ về Cấm-Điện lỡ rày ở sông
Lỡ nói thiệt lỡ nói minh mông
Lỡ người ăn học lỡ công quê mùa
Lỡ tu gia cũng lỡ tu chùa
Lỡ người giữ đạo lỡ vùa hương Tiên
1725. Lỡ việc loạn cũng lỡ việc yên
Lỡ Trời lỡ Phật lỡ Tiên lỡ phàm
Lỡ ở không cũng lỡ đi làm
Lỡ sông lỡ rạch lỡ vàm Đồng-nai
Lỡ con gái cũng lỡ con trai
1730. Lỡ chiều của Phật lỡ mai của Trời
Lỡ nói dại cũng lỡ khôn lời
Lỡ nằm lỡ ngủ lỡ thời công danh
Lỡ quỉ quái cũng lỡ đua tranh
Lỡ người sạch sẽ hôi tanh là mình
1735. Nghĩ càng đau mấy đoạn tâm tình
Vô duyên chi bấy phận mình mình ôi
Tưởng son phấn ai dè bạc vôi
Hại chi đến đổi chúa (Trời ) tôi rã rời
Đường gian nan Trời xét hỡi Trời
1740. Phật ôi hỏi Phật thương người chúng sanh.
Xác phàm trần đày đọa hôi tanh (bản 1957,55)
Chí làm mài sắt giá canh chuyên nghề
Lòng dặn lòng thảo thuận một bề
Dựa nương đức Phật đặng về Tây phương
1745. Độ bá gia khỏi chốn tai ương
Miệng lằn lưỡi mối cám thương dân Trời
Đổ mồ hôi cho kẻ ở đời
Một năm chẳng niệm Phật Trời một câu
Miệng chưởi lộn muốn chưởi cho lâu
1750. Niệm Phật niệm có một câu không dùng
Tôi cuồng trí nói việc tầm khùng
Niệm Phật cũng phải không dùng cũng hay.
41
Kẻ tu mặn ghét người tu chay
Tu chay ghét mặn không ngay tu nào
1755.Tu uống nước niệm Phật uống vào
Ăn cơm niệm Phật chỗ nào cũng tu
Lòng niệm Phật hẵng dạ chí tu
Ngày sau tu tập lại xuân thu hai mùa.
Một nước thời tu có một chùa
1760. Nhà không phượng tự hai mùa xem minh
Có hai ngày lễ bái tưởng kinh
Ba mươi mùng một chánh minh nhứt trường
Ngày mười lăm mười sáu lập thường
Niệm Trời niệm Phật nhị trường an khương
1765. Lễ ngươn đán gia nhựt xuân vương
Chánh ngoạt tháng tý an khương nước nhà
Ngoài muôn dân niệm Phật Di-Đà
Thất ngoạt sơ nhứt lễ mà chánh chung
Nhơn bất ác tích thiện vi trung
1770. Lễ xuân ngươn dân chánh chung hai mùa
Lễ thượng ngươn gia kiết tại chùa
Trung ngươn thu nhựt thủ vùa hương rơi
Nơi nơi điều ngợi (nghị) tự (chữ ) thảnh thơi
Ca ngâm xứ xứ vui chơi thanh nhàn.
1775. Lập chí trai tới chốn Nhà-Bàn(3c) (bản 1957,56)
Võ văn luyện tập diễn tràng ứng khoa
Vậy mới rằng tưởng Phật bỏ ma
Mê chi theo chốn Diêm-la bỏ Trời
Chớ đem lòng than trách vận thời
1780.Bấy lâu chẳng tưởng Phật Trời trách ai
Nhơn hữu tài người mới hữu tai
Trào nào cũng vậy có ai sướng đời
Người hữu trí năng đổi năng dời
Nhiều tai nhiều họa nhiều thời hiển vang
1785.Kẻ gian nịnh một thuở dọc ngang
Hết thời ngang dọc tan hoang cửa nhà
Vinh một thuở nhục hạ tới già
Ngược xuôi thừa thiếu vinh mà bao lâu
Trâu mãn đời trâu cũng là trâu
1790.Chẳng bì theo sấu biển sâu hóa rồng
Khác với nhau có một cái ( tấm ) lòng
Lòng ma hườn thú lòng rồng hườn tăng
Phật thi đức trào quốc thi văn
Nhơn tùng thi chánh nhơn tăng thi lòng
42
1795. Kiểng nào vui bằng kiểng đất đồng
Ở đây đổi dạng đổi lòng thi ân
Đổi người nghĩa đổi sửa người nhân
Đổi qua đổi lại nhứt thân tu trì
Lỡ đức cậu cũng lỡ đức dì
1800. Lỡ bề đức cố lỡ thì đức cha
Lỡ bà phước cũng lỡ ma ha
Lỡ hết sức lỡ Phật ra mới bồi
Lỡ bề đứng cũng lỡ bề ngồi
Lỡ trao má phấn lỡ dồi mặt son
1805. Lỡ bề vợ cũng lỡ bề con
Lỡ hoài lỡ hủy thon von tấm lòng
Người quân sư bảo hộ bao đồng
Tam thập thê thiếp giữ lòng trường sanh.
Gái dồi lòng trinh tiết khôn lanh (bản 1957, tr.57)
1810. Gặp trai chí cả tương tranh tương phùng
Người khôn lanh lòng Phật bất tùng
Ngày sau như thể đứa khùng chăn trâu
Việc thấy đó người phải lo âu
Nước đà tới cổ ngập sâu hụt dò
1815. Chớ ham chi đồng bạc con cò
Vàng mười thấy có giả đò ngó ngơ
Xem cuộc đời bảng lảng bơ lơ
Người không tưởng Phật ngẩn ngơ nỗi sầu
Một cái sông biết bắc mấy cầu
1820. Kẻ qua Tây-tự người hầu Diêm-vương
Thấy việc đời ương hỡi (lụy) còn ương
Làm sao Phật độ Phật thương đặng người
Ái chúng sanh ái tử chí mười
Tử giai kỳ tử con người quỉ ma
1825. Con của Phật niệm Phật Thích-ca
Con ma chẳng tưởng mẹ cha lời nào
Tưởng khôn quỉ ăn nói hỗn hào
Chọc trai chọc gái chỗ nào chánh minh
Con của Phật sao chẳng niệm kinh
1830. Con Trời cháu Phật tinh minh tấm lòng
Điểm nhan sắc noi việc bao đồng
Việc mình trống lỏng không phòng một ngăn
Thấy con Rắn đều nói con Trăn
Gặp Mèo nói Chuột không ăn chỗ nào
1835. Liếc mắt xem nhiều kẻ hỗn hào
Từ bi tưởng Phật người nào vốn không
43
Đất còn đặc Phật biến nên sông
Làm người lo việc minh mông sợ kỳ
Sợ động Phật lòng Phật chẳng tùy
1840. Động Trời Trời chẳng thương vì thời hư
Lòng niệm Phật lòng phải ưu tư
Sợ Trời sợ Phật sợ dư mười phần
Có đâu kêu Trời Phật rần rần ( bản 1957, tr.58)
Khi Trời ngạo Phật âm thầm dậy răn
1845. Bịnh đa dược đa bệnh khó phân (4)
Từ nay sắp tới khổ thân hoài hoài
Có đời nào Trời Phật đem xài
Không mắc nợ thế réo hoài không ( chẳng ) căn
Đừng thấy dễ mà dễ lo ăn
1850.Tới chừng thấy việc lăng xăng không quần
Tôi nói láo dạy thế làm chừng
Chừng nào thấy việc tưng bừng ngẩn ngơ
Học mình thiện dĩ phục kỳ sơ
Đời nầy chỉ thị cổ nhơ khổ đời
1855. Lạy ông Phật tưởng lạy ông Trời
Làm sao đến đổi việc đời loạn ly
Nhơn dĩ khi Trời Phật dỉ tri
Dĩ khi Trời Phật dĩ ly cho mình
Phụ tử tử tắc ly tình
1860. Huynh đệ ly biệt phu hình ly thê
Ly bá quốc ly hiệp chỉn ghê
Mèo ngồi ngó chuột ngoài dê xổ chuồng
Trong mấy năm giặc đánh đầu tuồng
Lăng xăng chư quốc như guồng rối tơ
1865. Tới nỗi nhà phụ tử bơ vơ
Lao xao triều quốc ngẩn ngơ quân thần.
Lỡ ở xa cũng lỡ ở gần
Lỡ bề quân quốc lỡ phần quan dân
Lỡ phí nghĩa cũng lỡ báo ân
1870.Lỡ người ra mặt lỡ thân của mình
Lỡ ngủ quán cũng lỡ ngủ đình
Lỡ chùa lỡ miễu lỡ mình trơ trơ
Đứt mối chỉ tịnh thủy mối tơ
Theo gian đạo sĩ trơ trơ đứt đầu
1875. Cõi (Cảnh ) Tây Phương dạ dốc bắc cầu
Vì ai lấp ngỏ lắc đầu chê đây
Lòng tưởng Phật mới biết việc hay (bản 1957, 59)
Ngồi buồn nghĩ lại sợ Tây hồi nào
44
Nhớ cá lươn đất rạng tâm bào
1880. Ngùi ngùi kiểng cũ chỗ nào xót đau
Đất ruộng mẫu sau lập bờ dâu
Đàn bà tơ lụa cùng nhau một nghề
Sau nước Nam ít kẻ vụng về
Thông minh trí huệ nhiều người giỏi hay
1885. Không có cánh đi đặng trên mây
Phép tài văn võ hay hơn nước nào
Hữu quân sư thượng trí anh hào
Dạy mười tám nước chỗ nào văn thơ
Mười tám nước tài phép trơ trơ
1890. Phật thâu trả quả ngẩn ngơ chư hầu
Mười tám nước lai giáng hàng đầu
Thưởng năm cống lễ ứng hầu Hớn-bang
Phật thâu hết các chữ đa đoan
Chỉ tồn nhứt tự Nam-bang tiếng mình
1895. Người khác người ăn nói một tình
Binh thơ đổ trận nước mình tài năng
Quí nhứt thống hiệp lại nhứt căn
Thượng thiên giáng thế tài năng trung thần.
Đến ngày sau có Thánh có Thần
1900. Ai lòng tà vạy âm thầm xử thân
Chớ biết sao việc phải mà phân
Thân ai nấy độ cho thân vẹn toàn.
Đi khỏi rừng ra tới đầu đàng
Bảng văn chiếm đặng bảng vàng rạng danh
1905. Trống sang ba nhặt thúc trở canh
Hội lành may gặp yến anh sum vầy
Nhớ nỗi cha lại cám nỗi Thầy
Ứng khoa dầu trúng ơn nầy đền xong
Chí làm đền hai chữ hóa long
1910. Vong tiền vọng hậu gắng công xác phàm.
Gặp hội lành ít kẻ lo làm (Bản 1957, 60)
Khỏi vòng ngọn cỏ xác phàm bỏ rơi
Người lo hậu hậu đặng thảnh thơi
Lo tiền tiền mất sợ hơi bất bình
1915.Sợ cho kẻ sợ nỗi cho mình
Phật không dụng thịt dụng tình khó toan
Nay dụng bạc sợ bạc không an
Dụng tiền tiền hết tật mang cũng còn
Nổi thú cầm súc vật hao mòn
1920. Tẩy trần thảm (thậm) khổ chẳng còn vật chi
45
Loài cầm thú nhiều vật dễ khi
Lưới trời bủa khắp trốn ( kẽo) đi đường nào
Đứng trượng phu trí thức anh hào
Trung tâm xuất khẩu lời nào đâu xa
1925. Lời nói thời trong bụng đem ra
Oán thù ẩn chí (sĩ ) gần xa trí tài
Người khôn trong kẻ dại khôn ngoài
Giận người đừng biết trí tài đừng khi
Tới ngày sau Tý-ngọ bất di
1930. Thìn thời ông mọc bất tri giờ nào
Đêm giờ tý ngày ngọ hiệp vào
Tý ngọ đứng bóng giờ nào lại tranh
Ngày sáu giờ đếm sáu giờ canh
Nguyệt xuất giờ tuất không tranh giờ nào
1935. Thời bất minh phong võ ào ào
Gió vay khi gió mưa nào kể mưa
Phép Phật Trời như thể lưới thưa
Gặp cơn phú quí gió đưa ngọc thuần
Tới ngày sau phong võ có chừng
1940. Năm mười hai tháng không nhuần như nay
Đời bất thuận chịu khổ từ đây
Bởi đời cảãi Phật chê ngay qui tà
Trẻ khoe tài ngoan trí hơn già
Đời sau ngó trước chê mà việc sau.
1945. Chốn cõi trần không kẻ sớ tâu (bản 1957, tr.61)
Hàm oan sở lĩễu (ức ) việc đâu để rày
Tôi có chúa làm tớ có Thầy
Làm tôi không chúa ở rày với ai
Nhứt ngoạt tam thập nhựt chiều mai
1950. Không dư không thiếu khỏi tai khỏi nàn
Muốn xuống biển phải biết trên ngàn
Vui say Thánh đạo cho toàn chí trai
Có ai từng ăn ốc không gai
Ăn cơm không đũa đại lai nước Tần
1955. Mãn năm Sửu gần đến (mãn ) năm Dần
Đắng cay trong dạ bần thần đa đoan
Mắc mỏ thời mắc mỏ trong gan
Mắc chi ngoài miệng phá tan nước nhà
Oán làm chi má oán ông bà
1960. Ai sanh con cháu cơm nhà ai ăn
Trời sấm chớp thiết tỏa bủa giăng
Lo đường sanh tử khó ngăn gian tà
46
Khéo líu lo bối rối việc nhà
Tay mà bao nỡ cắt mà đứt tay
1965. Lỗi đạo nhà tại bởi dao phay
Ly miêu tráo chúa (6) lầm tay trái chùy
Làm việc dại hại kẻ biên thùy
Khổ si phóng hỏa dị kỳ cho ngươi
Thấy cày héo tưới nước cho tươi
1970. Nào đành cây héo tay bươi phân bồi
Nỡ nào đành đốn gốc mẻ chồi
Thân ai nấy nghĩ cho rồi cái thân
Thử tiếng chuông cho biết chuông ngân
Thử người cho biết rằng phân tiếng người
1975. Chẳng muốn nói cũng chẳng muốn cười
Náu nương theo thế dựa người giải khuây
Mười việc vạy có một chút ngay
Xem đời trần hạ khổ thay vô hồi.
Thấy việc khổ nói trước cho rồi (bản1957, 62)
1980. Chừng không có khổ lần hồi làm ăn
Chẳng phải lời nói láo không căn
Chừng nào trổ láo không ăn cơm Trời
Nói thời nói sợ tiếng cười đời
Nói thời phải nói nhớ Trời năm sau
1985. Bạc bảy nén gởi lại ruộng sâu
Vàng thoi vàng lượng mua trâu trước rồi
Chẳng chước chi hai chữ bại tồi
Thấy đời tồi bại luân hồi báo oan
Có sông dọc lên khỏi Nam Vang
1990. Lên đèo xuống dốc nhà sang giẫy đầy
Từ Lèo Hạ sấp xuống dưới nầy
Kiểng vui Nam-Quốc lời thầy di ngôn
Thân thuở nầy như chết chưa chôn
Sao không nhớ lại chúc ngôn tiếng Thầy
1995. Đường gian nan lời trước tỏ bày
Lèo hạ giáp cõi trần rày ải quan
Có một mình nhiều việc lo toan
Trông ơn Trời Phật sửa sang tôi nhờ
Biển thời rộng trông mau tới bờ
2000. Kẻo đoàn ghe khẩm dật dờ sóng xao
Đi lộn vòng mé biển cù lao
Lộn đi lội lại cũng tao với mầy
Mắc nợ đời phải nói cù nhầy
Đánh Dần đánh Mẹo nói rày nói mai
47
2005. Mặc ý ai mười hai người thế
Chí cả anh hùng lập kế làm sao
Chín phương Trời mấy bực thấp cao
Thập phương hội Phật soi sao cõi trần
Rắn lộn đầu chuyển động âm thầm
2010. Nhật nguyệt biến mất Phong Thần (7) khởi ra
Tội bao nhiêu quan cũng thứ tha
Ngặt tình ma bắt con ma chẳng còn
Lỡ nhà ngói lỡ quán Sàigòn
Lỡ chồng lỡ vợ con còn góa lâu
2015. Lỡ ông xã cũng lỡ ông câu
Lỡ trang trí huệ lỡ đâu lỡ hoài
Lỡ rạch hẹp cũng lỡ sông dài
Lỡ qua Tây – Điện lỡ tài trí mưu
Hại nhơn nhơn hại kỷ thời hưu (4b)
2020. Hai đường thiện ác oan ưu đáo đầu
Nhơn trí kỷ hà tất trí cầu (4c)
Cớ sao đem dạ lập lầu treo chuông
Nghĩ càng đau tụy úa uông uông
Thiết tha trong dạ lụy tuôn ra ngoài
2025.Bại bất bại tài bất hữu tài
Thắng như bất thắng cõi ngoài làm ăn
Tấn dã nan thối diệc dã làm nan (8)
Biết sao cãi loạn làm an ra bề
Lưỡng bàn minh hai họ hội thề
2030. Nhứt tâm vọng Phật hội tề cầu an
Vậy mới rằng tế hiểm phò an (9)
Nhà nhà thịnh trị hiển vang quí quyền
Chớ khen chi đồng bạc đồng tiền
Của Trời vô số Phật phiền chưa cho
2035. Người làm lành hết đói tới no
Người nào làm dữ tiêu tro thấy hồn
Sao chẳng lo lưu hậu tích tồn (10)
Thoát mê thoát khổ linh hồn chánh minh
Thượng sớ cầu Bắc quốc Nam-kinh
2040. Phật Trời soi xét tâm trinh vọng cầu
Tại vì ai sớm dứt Nam-lầu
Nhơn tình đại nghĩa vọng cầu Đế cung
Dạ nào hay phân rẻ cội thung
Chừng nào sum hiệp Tiên cung an hòa
2045. Vội vàng chí quyền tước án tòa
Sống trung để tiếng thác già để danh.
48
Chẳng phải lời chê dại nói lanh (bản 1957, 64)
Phật cho giác tắt giác quanh cuộc đời
Giác bề ở giác thửa bề lời
2050. Giác người ngang dọc giác đời dọc ngang
Giác bần tiện giác việc giàu sang
Hồng – Ngự sau có sông ngang Sơn – Chà
Giác lời ví việc chánh việc tà
Sông dọc Cầu – lố khỏi mà Mỹ - Tho
2055. Việc làm người người phải âu lo
Chẳng thà thác đói sống no khỏe lòng
Ngặt sống đói thây rã chập chồng
Ngồi buồn nói việc bao đồng nhiều khi
Hành tàng hư thiệt tự gia tri
2060. Nói thì nói vậy dễ khi mặc tình
Mình trách mình bạc phận nỗi mình
Vô duyên chi bấy tâm tình từ đây
Lòng tưởng Phật niệm Phật thiệt hay
Dầu sanh dầu tử không ngay bạc chì
2065. Chỉ tranh lai tảo dữ lai tri
Than ôi! cho kẻ phụ chì dụng ngân
Tham quyền quí mà phụ chữ dân
Ở đời biết phải cầm cân cải lòng
Cõi dương gian xích khóa xiềng còng
2070. Cũng là ngục rạc không lòng sợ lo
Chí độ đời kẻ đói người no
Kẻ hiền người dữ biết lo sao đều
Phải thả trôi theo nước như rều
Chờ khi gió độc độ đều chúng sanh
2075. Người chẳng học chẳng biết khôn lanh
Thương người văn học tương tranh việc gì
Học dã hảo bất học dã tùy
Ngày sau để tội biên thùy nho văn
Làm không làm ăn cũng không ăn
2080. Ý sao nho đạo Thánh căn chỗ nào
Nho thuyết đạo thiên địa tâm bào (11) (Bản 1957, 65)
Ý sao không biết Phật nào ở đâu
Biển lai láng chỗ cạn chỗ sâu
Đất bằng chỗ thấp biết đâu chỗ gò
2085. Sông không cầu tạm giả đưa đò
Độ phu rước khách giọng hò ngâm nga
Rước bộ hành lại chợ Ma-ha
2088. Chợ ma có Phật chợ ta không người
_____
CHÚ GIẢI
(Chữ trong ngoặc đơn là chữ bản 1964)
(1). Bách Lý Hề người nước Ngu . Nước Ngu bị Tần diệt . Bách Lý Hề bỏ trốn bị người nhà quê đất Kinh (đất Sở) bắt . Tần Mục Công nghe nói Bách Lý Hề là người hiền, nên lấy năm tấm da dê mà đổi , vì vậy Bách Lý Hề cũng gọi là “ông đại phu năm tấm da dê” (Ngũ Cổ đại phu).
(1b). Thửa: Tiếng đệm, do chữ Hán là sở nghĩa là ấy, thuở lòng nhân là động cái lòng nhân.
(1c). Câu trên rút ngắn từ hai câu: Gia bần trí đoản: nhà nghèo nên trí óc kém cỏi. Quốc loạn tri trung thần: lúc nước loạn mới biết ai trung thần.
(1d). Oán đa oán, ơn kiến thiểu ơn: Mình làm người ta giận thì người ta thù lắm, còn mình làm nơn cho ai thì it thấy người trả ơn.
(2). các bản ghi là nhãn.
(2b). Sau này không còn hai thú vật là trâu chó nữa.
(3). Bản 1964: Vẻ viên các món vẻ thây không còn.
(3b). Tây Trúc: tức Ấn Dộ
(3c).Nhà Bàn: thị trấn Nhà Ban, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. ...
(4). Các bản ghi là "Chỉ tín". Có lẽ là chữ tín.
(4b).Hại nhơn nhơn hại kỷ thời hưu : Mình hại người, người hại mình, cứ như thế mãi bao giờ dứt! Hai đường thiện ác oan ưu đáo đầu: thiện ác đều có quả báo.
(4c).Nhơn trí kỷ hà tất trí cầu : Mình có tài có đức thì thiên hạ sẽ biết, cần gì phải cầu cạnh,lo ngại!
5). Bản 1964: bịnh khắc dược đa bịnh khó phân.
(6). Ly miêu hoán chúa: Vào thời Bắc Tống, quân Liêu tấn công, Thiền Châu bị uy hiếp. Hoàng đế Chân Tông dẫn quân đến chi viện, đại quân đến bờ Hoàng Hà, Chân Tông lo sợ không dám vượt sông. Khấu Chuẩn, đại diện phái “Chủ chiến” và Đinh Vị, đại diện phái “Chủ hòa”, hai bên tranh cãi gay gắt, do nóng giận Khấu Chuẩn đã kéo tay áo hoàng đế, khiến tình hình vô cùng căng thẳng, hỗn loạn. Trong lúc nguy cấp ấy, Lý Ngọc can đảm bước ra, bằng trí tuệ của mình, nàng đã dẹp được căng thẳng, giúp Chân Tông can đảm vượt sông, giữ vững giang sơn Tống thất.
Nhan sắc và trí tuệ của Lý Ngọc đã làm hoàng đế Chân Tông yêu mến, cảm phục. Chân Tông quyết định nghênh đón nàng vào cung. Đức Phi Lưu Nga được Chân Tông sủng ái, là người lắm mưu nhiều kế, lòng dạ hẹp hòi. Từ khi Lý Ngọc nhập cung, Lưu Nga tìm đủ mọi cách đẩy Lý Ngọc vào chỗ chết. May nhờ có sự bảo vệ của Chân Tông, Khấu Chuẩn và Trần Lâm, Lý Ngọc thoát chết hết lần này đến lần khác. Tuy nhiên với bản tính bao dung, nàng luôn tha thứ cho Lưu Nga.
Lý Ngọc mang thai, Lưu Nga ngoài mặt luôn miệng chị chị em em với Lý Ngọc, bên trong lại âm thầm cấu kết với Đinh Vị, bày kế “ly miêu hoán chúa”. Ngọc Thần cung bốc cháy, Lý Ngọc lưu lạc dân gian.Mười mấy năm sau, tình hình đất nước vô cùng hỗn loạn, sức khỏe nhà vua ngày càng suy yếu, lúc này thế lực của Bao Chửng đã khá vững vàng, khi tìm được Lý Thần Phi trước kia, Bao Chửng quyết định phản công, đánh gục thế lực của Lưu Nga, đem lại những ngày tháng thanh bình cho thiên hạ.
(7). Phong Thần : truyện Phong Thần viết về các trận so tài giữa các thần tiên, đạo sĩ.
(8). Tấn dã nan thoái diệc dã nan : Tiến thoái đều khó.
(9).tế hiểm phò an: giúp qua nguy hiểm, phù trợ cho được bình an
(10). lưu hậu tích tồn : lo tương lai mai sau, tích trữ cho được tồn tại lâu dài
(11). Nho thuyết đạo thiên địa tâm bào:Nho giáo dạy rằng trời đất như là gan ruột liên lạc với nhau.
(9).tế hiểm phò an: giúp qua nguy hiểm, phù trợ cho được bình an
(10). lưu hậu tích tồn : lo tương lai mai sau, tích trữ cho được tồn tại lâu dài
(11). Nho thuyết đạo thiên địa tâm bào:Nho giáo dạy rằng trời đất như là gan ruột liên lạc với nhau.
No comments:
Post a Comment