KIM CỔ KỲ QUAN III * CÁO THỊ 2
tr.51- 60
21
Lo hỡi là lo một kho đất sét thấy tài hớn hài nhiều lắm
595. Sợ có xóm làng nhà hàng thiếu của giúp của khó trông
Ta mau chóng chóng nhà Tống hưng binh Để vậy làm thinh
600.Đêm nằm nghe dế Thảnh thót nam lầu ve sầu vắn vỏi
Nay ngó thấy cha hôm mang tật cầu Phật cứu kỳ
Việc lành không đậy việc vạy nghe chác the mắc ý
Nhiều gánh lao xao biết sao kể gay gắt khó đi
Gánh không mấy nặng ruột quặn đau lời chưa thấu
Một mình rơm Một tiếng nói thơm nhiều thơm gặp thúi
Khiến thừa dụ Nhơn tâm bất cụ chư dụ bất kham
Mười việc mười tham phải đam (đem ) vào sổ khó ôm nói om khó chịu
Trước dựng chậu kiệu tét bét khó lòng
620.Diêm chúa dự phòng để tiên Thánh
574. Dừng dạ thở than trung can sao phải
575.Muốn vi tứ hải người phải tri ân
Dạ muốn Quí chi lê lựu tri cựu mãng cầu
Dạ muốn Quí chi lê lựu tri cựu mãng cầu
Việc quấy nhức đầu thảm sầu đau bụng
Nói thời lụng dụng bất tụng bất thiệt khi không biết
Nói thời tha thiết chỗ biết chỗ không
580.Chẳng chổng chồng mông lạy ông mình lỗi
Chẳng ưa cây Phật đã dạy hoài ỷ tài chi vậy
Phật mà nói bậy người cậy thì rồi
Cũng chẳng nên ngồi thôi rối mắt thịt mặt ngồi trịch một bên
Hai tay chấp lên việc quên nhớ lại
585. Bấy lâu ngây dại nay lạy đức Thầy theo thầy giữ Đạo
Bỏ lòng hung bạo giữ đạo từ bi
Phật dạy việc chi tôi nan phân
Nước lớn thương dân khó phân nước nhỏ dạng
Xem đời thiệt loạn việc cạn khó phân
590.Nhiều việc sảy sàng xóm làng xính vính
Việc chủ ăn ngủ thời hư Sanh dạ cẩu trư thời hư chẳng đặng
Đứt lìa hai chặng việc nặng khổ go
Muốn ra ai cấm muốn tắm ai gan
22
Chó sủa lỗ không vội trông thấy bóng
Phải lo lập thất hộ quốc cầu linh
Vọng đắc vạn binh hội minh trợ thế
Cầu linh thượng cõi về hỏi quốc gia
Thương việc biên thùy không quì không lạy
605. Ở cho có trí chơn lý trèo cao
Muốn lại cụng ly ngặt đi không đặng
Sá chi châu chấu bây đấu chống xe
610.Tiếng nói chẳng nghe pháo tre nổ tốt
Nói nhiều mệt đuối búi băng xăng
Nói chuyện không căn khó ngăn
dám chưởi nào lưỡi làm hung
615.Tự ý nịnh trung nó xung khẩu thiệt
Xuất ngôn nhiều việc hoặc thị hoặc phi
Một trăm món bánh bá tánh đều ăn ma
23
Thấy việc người ta Phật tha không đặng
Thúi thây khảo lúa hoảng múa khảo tiền
Heo sống chồng tiền cảm phiền mấy lạy
Thiệt làm tầm bậy hiếu đậy trong lòng
Làm việc bất bình e tình mắc đọa
630. Phước thời hiền Thánh họa tránh đi xa
Sự tất thức trì sự phi sự phước
Cũng như hát bội đầu đội vai mang
Nam việt thả trôi thương ôi không chúa
Bắc kỳ tay múa là chúa bắc kỳ
Nam việt nhịn thua thiết chua xót dạ
Nước nào ăn hiếp người tiếp bợ bưng
Trời Phật thức tri đứng khi nước đọa
Phật Trời phép lạ gở họa nước Nam
Diệu thuật bất hoài nằm dài liệt địa
Miệng người niệm lịa thị thấy chuối tiêu hỏa thiêu ung mục
Chờ khi nước đục tẩy tục tu phần
Tay kể lần lần tẩy trần chưa tan
24
650. Việc nầy đào hang không toan xuống đất
ai mua quế bán ế ngồi nài
655. Chẳng dụng cuốc xuống uổng cái thây
Lòng tôi chẳng ngay thiêu thây cho mất
Sống cũng khó ngồi nguyện hồi Tiên động
Trời cao lồng lộng đất ruộng thinh thinh
Soi xét chứng minh trung tinh lời
660.hiện kiến diện minh tường
Dạ bao tâm cường sa đường âm phủ
Nguyện vong việc cũ âm phủ khán tường
665.Một dạ ưu tư phước dư vạn thọ
Trách thay trăm họ bắt thọ giáo truyền
Tình bậu muốn thôi việc tôi không ép
670.Chẳng ngon thuở sốt không tốt mới tinh
E nổi quỉ ma cang qua hổn chiến
25
Đi đâu đứng đó tôi ngó thiệt đà
675.Hay việc bất hòa tới mà giật gạo
Dạ lo tồi bại lao dại làm vầy
Chẳng dám ngủ ngày
Đừng ngồi tu rũ ăn ngủ mà hư
Trầm đốt trong lư bất tư tiêu hết
Đời nầy khó dễ đổ bể nhiều khi
Việc nào bất tri hỏi đi hỏi lại
Saigon có oai con ai dữ vậy
Tôi nay Ba Thới tùng Quới Mỹ-trà(1)
Tên Thạnh Phật bà chủ nhà Sadec
Nhiều người ghen ghét mở bét bạc bôi
690.Nhiều việc thương Vôi thương ôi ong Bướm
Việc đời lụy ướm như bướm gầy ong
Tên Thành là ông Quan-Công thuở trước
Phò vua giúp nước thuở trước rất miêng
Phật Thầy Trần Nguyên dạy yên lê thứ
695.Trần Nhu chiếm cứ nhị tứ Láng linh (2)
Hai Lãnh trung tinh độ tinh Gò sặt (3)
Hai Ngôn thậm ngặt oán giặc hỏa thiêu
Căm hờn quần yêu bao nhiêu chẳng cử
Chú tư biện xử tích cử tòa chương
700.Nhiều việc tử thương lưới vương Châu đốc
26
Hai Nhơn tử tốc vị bốc cáo trình
Nói chuyện phấn chì biên thùy chử dạ
Vợ tôi người đọa đồng tọa tên Thìn
Mẹ con một phe be be lòng giận
Trời định lý hiệp ý thời nhờ
Có thuở dại khờ có giờ minh lý
Nói ra ải ải như chệt hải hon
Sợ nỗi vợ con nước non thẹn lắm
Đừng lòng trung nịnh thậm bịnh đa mang
715. Giứt đạo tào khang hung
Gia lòng cách thậm trách bất văn
Lo việc ở ăn lăng xăng thời khổ
Biết thiềng ( thành) hay bại biết hại hay nên
Niệm chẳng xét suy lưu ly khó niệmVinh
Đất sanh vạn vật Trời Phật riêng
Chỗ điểm chỗ khuyên quấy riêng phải
725.Có ông Thiện đế có kế ác vương
Có lập nhà Thương có vương Hớn thất
27
Có cất chùa công Có bạc dằn kho có lo Thầy-kiện
Có kẻ không soi có người coi thấy khuấy cho hôi
735. Có lập Có đường hung kiết có Tiết Ứng Luông (7)
Có sông có suối người hay có Tây bên cẳng
Ý muốn xử tiêu làm yêu mưu kế phong thần
Dạ no nước yếu nhơn tiếu ưu đập đầu cầu Phật
Người chẳng xét ra việc ta khó xét ít thương
Ăn nói không chừng nhiều bí rợ không sợ bó đau
Biết thời ít kẻ nói lẽ nhiều đường xanh quanh biết họ
750.Tuy nói lăng xăng lo ăn cho chúng Người không bị đau
Kẻ đói bụi tre việc e phải trùng Việc nầy nói túng
755. Cao-lãnh (8) Phật phiền Bất dụng lương tiền dĩ hiền hồi nhâm tý
Để đây ăn lễ tết không chết không còn
Nói việc Tây-phiên ngửa nghiêng thân đổ bề từ manh
Chẳng thà cày cấy dơ dáy chẳng nài khổ hoài khổ hủy
Tu đạt thiên cơ tu ngơ ngẩn tội mình
770. Tu chi tầm bậy tu vậy uổng công Tu thương
Thấy việc ngao ngán ngó đông ngó không đặng tỏ
Giữ lòng cho chặt nước ngặt khó soi Kẻ thấy cọp
Có truyện Tây-Minh, có kinh giữ đạo
Có gạo hai lu có tu thiền
730.sanh có anh Tiên đức
Có tức nhà thờ có cờ Ông Thẻ (4)
Có chúa có tôi có ngôi Bồ-tát
Có con Ngã bác (5) có cát Vàm nao (6)
Có tròn có vuông có truông có núi
Tay nghe văng vẵng người chẳng cầu siêu
740. Người phải ân cần Thánh Thần chứng chiếu
Đời nầy thiểu Phật đa vật đa ma
Chẳng nói quốc vương ăn tương với ớt
745. Đầu quăn môi trớt chịu ớt chịu gừng
Việc phải có dao lao xao đủ lẽ
Cứ kỳ hai họ thượng thọ qui căn
Trời Phật giải lao biết sao cứu độ
Kẻ xưng Phật ngộ người độ Phật Thầy
Chim ăn mắc bẩy chim sẩy nhẹ lo
28
Cờ thời nước bí lượng ý thấp cao qua
Kêu bớ nhà chớ tu mà về bển
Con bò lển nghển về bển đem theo
760.Càng hao càng mòn không dòn một bữa
Nước nam dậy lửa khó chữa
xăm lăng mạt căn tận số
Tu xao xưng cố chức ố thượng thiên
765. Tu thời khôn lanh hôi tanh không thấy
Tu không biết nghĩ tu vĩ tu vơ
Sao chẳng tu tình tu hình chi vậy
Tu sao bất lượng bất trượng bân linh
Cửu huyền thất kinh Phật linh ngồi ván
Tây ngồi cho rõ để cỏ xỏ nhà
775.Trước lạy ông bà sau hòaPhật cho mau
Áo tẩy khăn lau rửa mau sạch mặt
Saigòn câu lọp (9) không cọp ở rừng
Nói việc lẩy lừng ngó chừng Tây-Điện
29
Tiền trình vị liễu thượng biểu tờ chương
Nhiều nỗi oan ương phụ vương khai khán
ngán năm tháng ngày giờ
Chí dốc phụng thờ huỳnh cờ an vị
Cầu cho hai họ tý ngọ bất vi
miễn si vi thức trí bương ấp
Đào sâu khó lấp Long ấp (10) hỡi bây
Trách Thạnh Mỹ-tây (11) không ngay một đứa
790.Trai thời lứa lứa nhiều đứa hỗn hào
Còn cửa lăng xăng tranh ăn thời khó
Việc ăn thời có việc ó thời không
Thấy kẻ tu tê chỉn (12) ghê chỉn sợ
Tuy là nói trước thấy nước mới hay
Thậm khổ việc nay thương thay Gia Nghị
Mỹ-tho Gia-định nhứt lịnh Định tường
Nhiều việc ngẩn ngơ su sơ Rạch-giá
805. Cà mâu dục tốc cấm cóc Chùa Voi
30
Cầu tàu qua đây búa tay dao Bảy
Banam chưng nhảy Phật tẩy Trà vinh
810. Bổn đạo phân chư lo tư lục tỉnh
Bến tre làm phải người cải Ba xuyên
Ông cấm (15) đá tiêu Thuấn nghiêu tỏ rõ
815. Phật Trùm (16) Tây bỏ nhiều ngỏ Takeo (17)
Nhiều kẻ cần cả cất nhà Xà tón (18)
Vận còn bất đạt xiêu lạc Vĩnh long
820. Sadéc vòng trong minh mông đồng
Gò công mang tai chịu hai trận bão
Tra án bất hòa tại tòa Chaudoc
trường Cải bé ( 20) Bến Nghé (21) trương giương
Ngả-bát (23) bắt cầu dạ sầu Sơn lãnh
Việc làm dụ dự bất tự Vàm Nao (25)
830.Nói thấp nói cao lao xao Cần lố(27)
31
Ăn no đánh phách thậm trách Mái-dầm (29)
Lòng chẳng âm thầm sợ lầm Vàm phấn (30)
dạ tấn Chắc đao (31) Nói việc làm sao Vàm Nao ở lại
Chưn hài chun hớn ( 33) Chợ lớn Trà Tân(34)
Rạch-Kiến (35) Kỳ son (36) núi non Thị Rịa (37)
840. mười lo đạo giả mạo chiếu chương
Hết kẻ vận lương oan ương Tứ-sở
Ăn no ó ré vạch xé Láng-hầm (41)
845. Cù là sợ Phiên cất riêng Rạch Sõi (43)
Việc làm bất cập phải lập Ba Thê (46)
Nhiều người đều chê lập quê Tấn Đức (47)
850. Bằng tăng là cội khó lội Bắc Giang
Vỉnh Tế núi son đề son Cầu Muống (49)
32
Vòng Cú (54) lỗi lầm hỏi thầm Cái lộc
Lửa để trong lư bất cư Thị-đại
860.Dạ lo ngao ngán chơ oán Dầy-tho
Kể hết cơ đồ một hồ Xóm Mới (59)
Tứ phương tùng phục nước lụt Láng Linh
865.Dạ dốc thỉnh nghinh quảng thinh Trà-kiết(62)
Nam di chí lão vỉ bảo Giang-Cơ
Hai cái phân chia nói lia Cái tắc (65)
Bến tranh (66) mặn lạt nước bạc Giồng Huê (67)
Nhiều việc khen chê người ê Tân Định (68)
Phèn-đen chê lạ chung chạ Lăng gù (70)
875. Cái Dầu Cái thế (71) thưa đấm ông Cấm (72) như son
Bà-đội ( 73) không con ở non thành đá
Hòn tre (75) mối kết sợ chết Hòn Dờ
880.Tuy việc hao mòn giai dòn chưa tỏ
Chữ nầy chê bỏ không ngỏ qua truông
uông lụy tuôn nước mắt
33
Việc đời gay gắt nam bắc một tôi
Mậu dần Kỷ Tỵ Gia-Nghị đồng đăng
cố hương lân làm thân sao đặng
890. Hóa-Cù (76) la ó người ngó Cái-tiêu
Nói việc thiệt nhà sợ mà không thiệt
Việc nào nói trước chưa bướt than
895. Đồng điền khô khan thở than sao thấu
Từ sanh số hệ nhứt nghệ nam mô
Hữu Phật hữu ma phân qua tà chánh (77)
900. Diêm đình lập tánh thượng thánh lập danh Tri bạo
Tri nhơn thức đạo tri bạo thức gian
lợi ở đâu chẳng thâu Rạch ruộng (80)
Cổ đau cuộn cuộn muốn guộng lên đàm
Bắc chiên (82) nhiều người quên cười biếng khóc
34
Đa binh nhứt ngộ nhập mộ đa điền
Làng bắt đi liền kinh tiền Vỉnh Tế (83) tận thế đa nhơn
910.Quan cựu vô phân hành đàn nhựt dạ
Bịnh con chẳng đứng nghi chứng sanh cờ
Nhiều việc phân lìa trở về Tây trước
915.Thập tự vô phước bắt bước ngang qua
920. Con mèo thiệt nạn ăn uổng
Có tình Ngã-bác có giác vạy ngay
Đi tới phương Tây mới hay công chuyện
925. Thiệt dạ Thuấn Nghiêu còn tiêu phần xác
Thấy thiệt kỳ đà la mà rắn mối
Sáng Trời như tối có mối như chưa
35
Kẻ thời tâm cường người thường dạ nhược Thương cường sao
hai bên muốn nên nhỉ thính
Thiện ngôn chỉ tính bất thính ác ngôn
935. Tri thiển tri thâm tri lâm tri thị
Mới biết việc trung mới tung tùng nịnh
Mới tỏ anh hùng mới tùng hào kiệt
940. Mới thiệt trung lương mới thương trong dạ
Mới tạ nhứt môn biết tôn lễ nghĩa
nhơn nghĩa tuyệt đoan
Dạ người tham gian làm quan sao phải
Tri hòa tắc cải quấy phải tắc phân
biết nói hoài nói hoài quên mất
Cầm thú suy lung vật hung vật kiết
Tàu tây phản hồi chưa rồi bể nữa
Chớ sơn theo bửa gập lửa phải tiêu
36
955. Thấy dấu mà than mà than cho dấu
Có ai muốn xấu vật báo
không ham lòng ham tiền bạc
Thẳng qua cực lạc cho đạt tánh linh
Chẳng trải sử kinh cho minh nhơn thế
960. Tóc trần chi Nghèo mới bán đi giàu khi nào bán
Thế chưn ít tháng chịu nán năm nay
Năm tới thấy Tây
Năm tới thấy Tây
nhắc dắc tới ma mới dắc đi
Giữ chắc lời ghi lời ghi cho chắc
965. Lòng nam dạ bắc nó
ngồi việc hồi năm mới
Con ai đẻ nới tuổi mới hăm lăm
Trời Phật tích tâm hỏi thăm thời hỏi việc chi
Quì trước cung ly tội chi xưng tội
970.Ơn người ơn đội việc tội phải cai ai mà ỷ
E như con đỉ hủ hỉ không con
Chẳng dạ sắt son nước non tiêu hết sân si
Phật ngồi cung ly nói chi thời nói
Trước nhiều cơn đói việc nói Cơ Gia Nhiều nổi hiếp
975. Đời nầy lộn kiếp ăn hiếp Cơ Gia
Thấy thời người ta quỉ ma tại đó
Kêu chồng bằng nó kêu Phật ma
người ta nghe rõ
Trâu bò ăn cỏ không ngỏ tội chi
980. Người ta sân si e khi tội dữ tội dữ chẳng hèn
Trời mới đỏ đèn gói phèn chưa dạ
Người chung của chạ người chạ của chung Sanh chớ hỏi
Làm hung thời giỏi tớ khỏi hỏi lòng
Căn nợ cái lòng vợ chồng hiếp ý
37
985.Tam nửa lời chửa muốn thôi
Dụng nước chế vôi châu ôi đó
Ăn thời muốn ngó việc khó muốn không
Phước tội quân ân lập thân Hưng Thới (84)
An-giang quyền quới thấu tới cửu trùng
990. Quản cơ anh hùng phục tùng quan quan lớn nào hay
Lòng chẳng đầu Tây giử ngay một dạ
Nay tôi làm lạ lưỡng dạ bá tâm
Chổ nào có chỗ Hổ thời miệng hổ giữ chỗ sơn lâm
Có miệng mà câm có thâm tại vỉ Dạ lo đấp lũy
995. Cho thấu lời nguyền tới miền Ngọc Đế
Hoàng ân thập tuế ngự chế mười hai Tích thiện huờn lai
Việc đời tứ thứ chiếm cứ ba ngôi
Tam thứ thương ôi khổ thôi là khổ
Một ngày một trổ đạo lưỡng bình sự ninh sự loạn
Một ngày một trổ đạo lưỡng bình sự ninh sự loạn
1000. Hoàng ân con trạng sự loạn khó phân
Mối nước chăn dân đời chưa hỏi tai giỏi thời nghe
Đốn một bụi tre sạch que váng nhện
Xanh quanh vằn vện phách vật vờ bàn cờ khó đứng
Tướng ngồi làm chứng sĩ đứng một bên
1005. Hai nước hư nên mê biển khổ mã khổ quá giang
Gặp thuở hiển vang trung cang nghĩa khí
Phật Trời lập ý tưởng ma mà nói mà giả ngộ
Nói vui cười rộ việc ngộ khó han
Nói móc trong gan soi cà nát bấy chưa thấy Tây vô sống xô phơi khô dân chúng
38
1010. Động đau lòng súng Thới
Ta chẳng thương ta thương ma mới khổ
Động đau lòng gỗ thời gỗ mới kêu
Lời nói trớ trêu miệng kêu châu ổi!
Thiên cơ sao chổi gió thổi tiêu ma
1015. Ta chẳng tưởng ta tưởng ma mới dắc
Tri dỉ tri ân tri thân nan dị
Thức kỳ Gia Nghị nam dị tiền căn
Giặc dậy lăng xăng lăng xăng giặc dậy
Đánh nhau tầm bậy tầm bậy đánh nhau
1020.Nước nào ở đâu ở đâu đánh đó
Vận nghèo thấy ngó thấy ngó vận nghèo
Người thác bá bèo bá bèo người thác
Đâu đâu tan nát tan nát đâu đâu
Đặng chỗ ruộng sâu ruộng sâu ở đặng
1025. Mặc tình lội lặn hết nặng tới nề
Chưa đặng chọn bề việc hề sung sướng
Hữu nhơn vi tướng đất mướn ruộng thuê
Nhiều việc thiệt quê con tê còn dại
Tạm an liều trại nhứt bại cửu thiền
1030.Dỉ biện qui tiên dỉ hiền qui chánh
Lập thân vi Thánh lập tánh vi hiền
Lòng phải chi tiền làm hiền mới nổi
Nói ra biết lổi khó nỗi ăn ngồi
Lòng phải trau dồi nương hồi ly loạn
1035.Ngộ nhơn ngộ loạn dỉ đoạn ngôn phàn
Đức thánh lương nhìn dĩ ân phế oán oán phế ân
Phàm ngộ ngôn nhân dĩ phân nhơn nghĩa
Ví như chén dĩa nhân nghĩa phi ân Hai thuở
Nói ra nói dở theo thuở loạn ly
1040. Chớ nói sân si dễ dì khó ở
Lo ăn Ngao ngán cho đời nhiều lời thậm khổ
Nói ra xấu hổ thậm khổ Cơ Gia Hữu Phật hữu ma
Du lâm đa vật hữu Phật hữu ma
Tiên trị kỳ gia hậu ta xử bỉ Tiên kỳ xử kỷ hậu phân quan dân bất luật
39
1045. Nhơn dân dụng thực trung thực dụng ân
Quân tắc dụng dân vỉ ân tứ hải phục tùng
Lập tri anh hùng tương phùng tứ hải
Biết thời chẳng phải dạ cải rằng ngu
Khó tỏ rừng nhu Thánh
1050. Bá nhơn bá tánh bá tánh bá tâm
Xuất khẩu như lâm xuất tâm như khẩu Cao phi viễn tẩu
Phật ngồi từ bi nhơn khi khó trốn
Đoài ly chấn tốn nan tốn càn khôn
Sự cựu Khá đãm hậu cảm sương phong
1055. Bất kiến phương ban nhơn an Tây điện
Xuất ngôn cựu truyện đông thọ ấn minh quân
Các sự đồng tuấn thiện quân đồng gia Tứ Thánh (85)
Tam tài nhứt tánh vi Thánh tam Trời
Dỉ hậu lập đời phân Trời phân Phật
1060. Nhị thiên túc vật ngoại Phật nội Trời
Tây đặt thuận thời lòng nội mẹ việc nhẹ ngoại cha
Tuyệt cõi diêm la tâu cha Thượng cõi
Ở đời dễ hỏi người giỏi thân nghĩa nhân phòng khẩu
Lập-Thần Thiên cẩu mang khẩu bất tề
1065.Bất oán thiên hề bất tề tiêu nhơn nhơn phải hỏi
Hai sao qua khỏi chẳng hỏi hai sao
Hai ngọn lại giao cái cao cái thấp nát hướng Tây
Canh Tuất đều hay góc tây sau hậu
Thiên cơ dỉ lậu cơ hậu nan tường
40
1070. Người sự thế Thiên cơ lập kế trần thế bất tri
Kẻ ở người đi kẻ ly người hiệp
Giao An-giang
Tây đắc thắng bang dạ mang thất ước
Thức tri việc nước việc nước lo sau quân tử
1075.Dự ngôn Hứa sử ngôn ngữ Mục Liên (86)
Tri sự Tây Phiên tri Tiên Nam-Việt Trị nghiêm
Tri cổ tri kim lập nghiêm mới nổi
Xuất điềm sao chổi khiến nỗi Tây qua
Chẳng xử trở lại Tiền vinh hậu bại tiền hại hậu vinh
1080.Nước nào đắc linh chư binh ủng hộ Phật
Cứu độ phò hộ chư gia
Tích ác phùng ma thiện gia phùng Phật
Nhơn thân tri vật vật bất
cựu dễ phân việc tân khó nói
1085.bất tri dạ chói lời nói như không
Nghe nói bên đông dạ trông bên bắc
gay gắt chưa chắc lo âu
Lúa cốc ở đâu
chê đây người nay nói quấy
1090.Tôi thời ngó thấy giấy ngó thấy chữ son
Bút mực nước non mai rau trai rau muống
Trước trong muốn uống nhà bạo hết cơm
Úp chạ hư nơm trái thơm nhiều mắt
Đông Tây Nam Bắc có mắt ngó ngó cùng bốn phía
1095. Ngó tiền ngày vía thấy phía đàng sau
Thấy việc mới lâu trước sau thấy hết
____
CHÚ THÍCH
Thiên này nói nhiều về các địa danh Nam Kỳ lục tỉnh như Cải ngang, Mỹ-Thiện, Cái lân, Cái Nổ, Tháp mười. Thỉnh thoảng cũng có địa danh ở biên giới Việt Miên như Cần-Vọt :Kampot, Takeo ở Miên gần Châu Đốc. Địa danh quá nhiều, chúng tôi chỉ chú thích một số mà thôi.
(1). ).Mỹ Trà: ở Sa đec, quê của ông Ba Thới.
(2). Láng Linh:Thời bấy giờ, Lánh Linh - Bảy Thưa là một cánh đồng trũng phèn rộng bao la, không có kênh, rạch lớn ra vào, suốt năm chỉ gieo gặt một mùa lúa sạ. Phía Bắc giáp vùng biên giới núi Sam, Tây dựa Thất Sơn, Đông cặp sông Hậu giang, Nam giáp núi Ba Thê và Long Xuyên. Quản Cơ Trần Văn Thành đã lập chiến khu tại đây. Con ông là Trần Văn Nhu hoạt động tại đây, xây chùa thở Quản Cơ. Đây cũng là nơi Nguyễn Văn Thới đến tu học.
(3), Đây là Gò Sặt ở đất Miên, gần Châu Đốc. Ông Hai Lãnh gốc người Việt-Nam, không rõ họ gì. Ông còn có một tên nữa là cậu hai Gò-Sặt. Hai Lãnh võ-nghệ rất cao, có thuật gồng, thông bùa thư và thông nho học. Khoảng năm Tân-Sửu (1841), Hai Lãnh gặp ông Quản-Thành tại An-Giang (Châu-Đốc) và xin tùng quân. Từ đó, ông và ông Quản-Thành là đôi bạn chí thân, thường gần-gũi bên nhau để đàm văn, luận võ.
(4).Ông Thẻ: Năm ông Thẻ tức là năm cái bùa làm bằng gỗ do Phật Thầy làm ra trấn yểm năm nơi ở miền Nam.Vào năm 1851, Phật Thầy Tây An chỉ giáo cho Trần Văn Thành (Đức Cố Quản) và số tùy tùng lên núi tìm gỗ “lào táo” là loại gỗ chắc để làm trụ cột, gọi là “cây thẻ”; khi tìm được
gỗ, cho vuốt búp sen và khắc bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”.
Khi khắc xong mang đi năm nơi mà khi đứng từ đỉnh núi Cấm nhìn xuống có thể thấy là thế “Ngũ Long Trấn Phục”. Tại núi Cấm, 1 cây trong hang gọi là hang Ông Thẻ và 4 cây dưới đồng bằng .
1) Cây thẻ số 1 : Đông phương Thanh Đế : cắm ở làng Vĩnh Hanh.
2) Cây thẻ số 2 : Bắc phương Hắc Đế : cắm ở làng Vĩnh Thạnh Trung.
3) Cây thẻ số 3 : Tây phương Bạch Đế :cắm ở Bài Bài làng Vĩnh Tế.
4) Cây thẻ số 4 : Nam phương Xích Đế : cắm ở Giồng Cát rừng tràm Vĩnh Điều.
5) Cây thẻ Trung ương Huỳnh Đế : Cắm ở Thiên Cẩm Sơn (núi Cấm) gần hang Bác Vật Lang.
(5). Ấp Ngã Bác ở Sóc Trăng.(6). Sông Vàm Nao, hay Vàm Lao, Vàm Giao, tên chữ là Hồi Oa, hay Vàm Giao Giang và tên Khmer là pãm pênk Nàv, là một dòng sông tại tỉnh An Giang, nối sông Tiền với sông Hậu. Vàm Nao có vai trò quan trọng đối với đồng bằng sông Cửu Long về thủy lợi và giao thông vận tải. Vàm Nao còn nổi tiếng vì là nơi xảy ra trận thủy chiến khốc liệt giữa quân Việt và quân Xiêm vào cuối năm 1833, và còn vì các đặc sản như cá hô, cá bông lau.
(7).Tiết Ứng Long là con của Phàn Lê Huê (Tiết Đinh San chinh Tây)
(8). Cao-lãnh: Thị xã Cao Lãnh từng là tỉnh lị tỉnh Kiến Phong dưới thời VNCH.
(9). Lọp: dụng cụ bắt cá giống cái lờ.
(10).Long Ấp: Nhiều nơi có tên Long Ấp hay Ấp Long, và đó là tên vắn tắt như ấp Long Mỹ, ấp Long Thành ở nhiều nơi. Ở An Giang có nhiều Long Ấp như ấp Long Điền A ở Chợ Mới, Long Xuyên, hay ấp Long Hòa 2, xã Long Hòa, huyện Phú Tân; hay ấp Long Bình, xã Long Điền, huyện Chợ Mới, An Giang.. Có lẽ ông Ba nói về Thạnh Mỹ Tây, Láng Linh, trong đó ấp Long Châu có đền thờ Quản Cơ Thành, và là nơi ông Ba Thới đến học đạo.
(11). Có nhiều địa danh Thạnh Mỹ. Thạnh Mỹ Tây là một xã ở quận Châu Phú, tỉnh An Giang, là Láng Linh, nơi có đền Bửu Hương tự thờ Quản Cơ Thành.(12).Chỉn: vốn, vẫn.
CHÚ THÍCH
Thiên này nói nhiều về các địa danh Nam Kỳ lục tỉnh như Cải ngang, Mỹ-Thiện, Cái lân, Cái Nổ, Tháp mười. Thỉnh thoảng cũng có địa danh ở biên giới Việt Miên như Cần-Vọt :Kampot, Takeo ở Miên gần Châu Đốc. Địa danh quá nhiều, chúng tôi chỉ chú thích một số mà thôi.
(1). ).Mỹ Trà: ở Sa đec, quê của ông Ba Thới.
(2). Láng Linh:Thời bấy giờ, Lánh Linh - Bảy Thưa là một cánh đồng trũng phèn rộng bao la, không có kênh, rạch lớn ra vào, suốt năm chỉ gieo gặt một mùa lúa sạ. Phía Bắc giáp vùng biên giới núi Sam, Tây dựa Thất Sơn, Đông cặp sông Hậu giang, Nam giáp núi Ba Thê và Long Xuyên. Quản Cơ Trần Văn Thành đã lập chiến khu tại đây. Con ông là Trần Văn Nhu hoạt động tại đây, xây chùa thở Quản Cơ. Đây cũng là nơi Nguyễn Văn Thới đến tu học.
(3), Đây là Gò Sặt ở đất Miên, gần Châu Đốc. Ông Hai Lãnh gốc người Việt-Nam, không rõ họ gì. Ông còn có một tên nữa là cậu hai Gò-Sặt. Hai Lãnh võ-nghệ rất cao, có thuật gồng, thông bùa thư và thông nho học. Khoảng năm Tân-Sửu (1841), Hai Lãnh gặp ông Quản-Thành tại An-Giang (Châu-Đốc) và xin tùng quân. Từ đó, ông và ông Quản-Thành là đôi bạn chí thân, thường gần-gũi bên nhau để đàm văn, luận võ.
(4).Ông Thẻ: Năm ông Thẻ tức là năm cái bùa làm bằng gỗ do Phật Thầy làm ra trấn yểm năm nơi ở miền Nam.Vào năm 1851, Phật Thầy Tây An chỉ giáo cho Trần Văn Thành (Đức Cố Quản) và số tùy tùng lên núi tìm gỗ “lào táo” là loại gỗ chắc để làm trụ cột, gọi là “cây thẻ”; khi tìm được
gỗ, cho vuốt búp sen và khắc bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”.
Khi khắc xong mang đi năm nơi mà khi đứng từ đỉnh núi Cấm nhìn xuống có thể thấy là thế “Ngũ Long Trấn Phục”. Tại núi Cấm, 1 cây trong hang gọi là hang Ông Thẻ và 4 cây dưới đồng bằng .
1) Cây thẻ số 1 : Đông phương Thanh Đế : cắm ở làng Vĩnh Hanh.
2) Cây thẻ số 2 : Bắc phương Hắc Đế : cắm ở làng Vĩnh Thạnh Trung.
3) Cây thẻ số 3 : Tây phương Bạch Đế :cắm ở Bài Bài làng Vĩnh Tế.
4) Cây thẻ số 4 : Nam phương Xích Đế : cắm ở Giồng Cát rừng tràm Vĩnh Điều.
5) Cây thẻ Trung ương Huỳnh Đế : Cắm ở Thiên Cẩm Sơn (núi Cấm) gần hang Bác Vật Lang.
(5). Ấp Ngã Bác ở Sóc Trăng.(6). Sông Vàm Nao, hay Vàm Lao, Vàm Giao, tên chữ là Hồi Oa, hay Vàm Giao Giang và tên Khmer là pãm pênk Nàv, là một dòng sông tại tỉnh An Giang, nối sông Tiền với sông Hậu. Vàm Nao có vai trò quan trọng đối với đồng bằng sông Cửu Long về thủy lợi và giao thông vận tải. Vàm Nao còn nổi tiếng vì là nơi xảy ra trận thủy chiến khốc liệt giữa quân Việt và quân Xiêm vào cuối năm 1833, và còn vì các đặc sản như cá hô, cá bông lau.
(7).Tiết Ứng Long là con của Phàn Lê Huê (Tiết Đinh San chinh Tây)
(8). Cao-lãnh: Thị xã Cao Lãnh từng là tỉnh lị tỉnh Kiến Phong dưới thời VNCH.
(9). Lọp: dụng cụ bắt cá giống cái lờ.
(10).Long Ấp: Nhiều nơi có tên Long Ấp hay Ấp Long, và đó là tên vắn tắt như ấp Long Mỹ, ấp Long Thành ở nhiều nơi. Ở An Giang có nhiều Long Ấp như ấp Long Điền A ở Chợ Mới, Long Xuyên, hay ấp Long Hòa 2, xã Long Hòa, huyện Phú Tân; hay ấp Long Bình, xã Long Điền, huyện Chợ Mới, An Giang.. Có lẽ ông Ba nói về Thạnh Mỹ Tây, Láng Linh, trong đó ấp Long Châu có đền thờ Quản Cơ Thành, và là nơi ông Ba Thới đến học đạo.
(11). Có nhiều địa danh Thạnh Mỹ. Thạnh Mỹ Tây là một xã ở quận Châu Phú, tỉnh An Giang, là Láng Linh, nơi có đền Bửu Hương tự thờ Quản Cơ Thành.(12).Chỉn: vốn, vẫn.
(13). Ba Vác: cũng ghi là Ba Vat, địa danh gốc Khmer (Pears Watt là chùa Phật), còn có tên gọi khác là Ba Việt. Vào thế kỷ XVIII, nơi đây là huyện lỵ của huyện Tân An - một trung tâm kinh tế khá phồn thịnh thời bấy giờ. Năm 1777, nơi đây diễn ra trận đánh ác liệt giữa quân Tây Sơn và quân chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Dương đã bị bắt tại đây.Năm Minh Mạng thứ 4, Ba Vát thuộc huyện Tân Minh. Thời Việt Nam Cộng Hoà, Ba Vát là quận lỵ của quận Đôn Nhơn (03-1963), tỉnh Kiến Hoà. Sau năm 1975, Ba Vát thuộc xã Phước Mỹ Trung, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre; nay là huyện lỵ của huyện Mỏ Cày Bắc. Ba Vát cách Vĩnh Long 37 km.Ca dao xưa có câu:Sông Bến Tre nhiều hang cá ngát,
(14). Cần Vọt: địa danh Cao Miên ( Kampot) gần Châu Đốc.(15). Núi Cấm còn được gọi là Núi Ông Cấm hay Thiên Cấm sơn, Thiên Cẩm Sơn ; tên Khmer: Pnom ta piel hay Pnom po piêl; là một ngọn núi tại địa phận xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, Việt Nam.
(16).Phật Trùm (? - 1875) tên thật: Tà – pênh, người Việt gốc Khmer, ở ấp Sàlon, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Ông được tín đồ các giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo gọi tôn là Phật Trùm.[1]
(17). Tỉnh Tà Keo, Campuchia, gần Châu Đốc. Ta Keo là một ngôi đền chưa hoàn thành theo phong cách Khleang được xây làm ngôi đền nhà nước của vua Jayavarman V. Nó được dự kiến xong năm 1000 nhưng công trình phải dang dở giữa chừng do cái chết của nhà vua. Những tảng đá của ngôi đền được sắp xếp xong nhưng những người thờ điêu khắc đã không quay trở lại. Cuối cùng ngôi đền có một hình dáng đặc biệt với vẻ đẹp vững chãi và đơn giản trên toàn bộ ngôi đền. Ngôi đền này được xây để thờ thần Shiva.
(18).Xà tón :Chùa Xà Tón (Xvayton) tọa lạc ở khóm 3, trung tâm huyện lỵ Tri Tôn, tỉnh An Giang, là ngôi chùa tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc chùa tháp của người Khmer .
(19). Sơn Chà (Sơn Trà): bán đảo ngoài Đà Nẳng. Sơn Chà cũng là địa danh ở Lăng Cô gần Hải Vân. Đây là Sơn Trà trong Nam Kỳ, chưa rõ là ở tỉnh nào.(17). Tỉnh Tà Keo, Campuchia, gần Châu Đốc. Ta Keo là một ngôi đền chưa hoàn thành theo phong cách Khleang được xây làm ngôi đền nhà nước của vua Jayavarman V. Nó được dự kiến xong năm 1000 nhưng công trình phải dang dở giữa chừng do cái chết của nhà vua. Những tảng đá của ngôi đền được sắp xếp xong nhưng những người thờ điêu khắc đã không quay trở lại. Cuối cùng ngôi đền có một hình dáng đặc biệt với vẻ đẹp vững chãi và đơn giản trên toàn bộ ngôi đền. Ngôi đền này được xây để thờ thần Shiva.
(18).Xà tón :Chùa Xà Tón (Xvayton) tọa lạc ở khóm 3, trung tâm huyện lỵ Tri Tôn, tỉnh An Giang, là ngôi chùa tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc chùa tháp của người Khmer .
(20). Cái Bé: sông ở Kiến Giang (Rạch Giá).
(21). Bến Nghé: địa danh ở Sài gòn.
(22). Cái Dầu:Thị trấn Cái Dầu, xã Vĩnh Thạnh Trung, tỉnh An Giang.
(23). Ngả bác ( cũng ghi là Ngả Bát): ở Tân Phú Đông, thị xã Sa Đéc; Ấp Ngã Bác ở Sóc Trăng.
(24). Thị xã Hồng Ngự thuộc tỉnh Đồng Tháp.
(25). Sông Vàm Nao, hay Vàm Lao, Vàm Giao, tên chữ là Hồi Oa, hay Vàm Giao Giang và tên Khmer là pãm pênk Nàv, là một dòng sông tại tỉnh An Giang, nối sông Tiền Giang.
(26). Rạch Ruộng: Cầu Rạch Ruộng ở Sa Đéc.
(27). Cần Lố: cầu Cần Lố ở Mỹ Thọ. Rạch Cần Lố: Rạch chảy trên địa bàn huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, đổ nước vào sông Tiền tại thị trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh.
(28).Cái-sách:Rạch Cái Sách ở Đồng Tháp.
(29). Thị trấn Mái Dầm ở xã Phú Hữu A huyện Châu Thành, Hậu Giang.
(30). Vàm Phấn hay Vàm Tấn? Vàm Tấn ở (xã Đại Ngãi - Long Phu - Sóc Trăng)
(31). Chắc Đao: Chắc Cà Đao: Chắc Cà Đao trước là Hoà Bình Thạnh huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Nay là thị trấn An Châu, Long Xuyên.
(32).Sông Cái Lớn là một con sông lớn tại tỉnh Kiên Giang.Sông được bắt nguồn từ rạch Cái Lớn, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang, dòng chảy rộng dần vào Kiên Giang tại địa phận xã Vĩnh Thắng, huyện Gò Quao.
(33). Hài hán: giày dép. Chân hài chân hán: chân đi giày, đi đép.
(34).Trà Tân: Nhiều địa danh trùng tên. Là một xã ở Phan Thiết; ở huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận; huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam; huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi.Trà Tân ở Biên Hòa. Rạch Trà Tân ở Tiền Giang.
(35). Rạch Kiến: ở Cần Đước, Long An.
(36).Kỳ son: Kỳ Son hay Kỳ Sơn.Kỳ Sơn ở Quảng Nam, Nghê An, Hòa Bình. Đây nói về trong Nam, chưa rõ là đâu
(37). Thị Rịa: Bà Rịa
(38). Mặc Dưng: Mặc Cần Dưng là xã Bình Hoà, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Sau này Bình Hoà chia thành 2 xã Bình Hoà và An Hoà. Kênh Mặc Cần Dưng từ Vĩnh Bình (Châu Thành) qua Tri Tôn.
(39). Mù u: cây mù u; xóm Giồng Mù U ở Bến Tre.
(40). Láng Thé: sông Láng Thé tỉnh Trà Vinh.
(41). Láng Hầm: Lúc bấy giờ, Ba Láng-Trà Niềng (địa danh này khi xưa gọi là Láng Hầm) còn là đất là vùng hoang vu, nhiều đầm lầy, thuộc huyện Phong Phú (nay là thành phố Cần Thơ).Ở đó, có viên Cai tổng Định Bảo tên là Nguyễn Văn Vĩnh, nổi tiếng là một cộng sự đắc lực của thực dân Pháp. Năm 1868, thấy nhân dân thường xuyên bị ông Vĩnh áp bức, Đinh Sâm (còn gọi là Võ Đình Sâm, vốn là người phủ Tân Thành [vùng Sa Đéc], nay thuộc tỉnh Đồng Tháp là một thanh niên đang cư ngụ trong vùng đã mạnh dạn đứng lên phất cờ khởi nghĩa, và đã được ủng hộ nhiệt liệt.
(42). Vàm Trà Niên - Vĩnh Châu - Sóc Trăng .
(43). Rạch Sỏi là một phường của thành phố Rạch Giá. Trước kia vốn là huyện lị của huyện Châu Thành.
(44). Sóc Suông : ở xã Phi Thông, thị xã Rạch Giá .(42). Vàm Trà Niên - Vĩnh Châu - Sóc Trăng .
(43). Rạch Sỏi là một phường của thành phố Rạch Giá. Trước kia vốn là huyện lị của huyện Châu Thành.
(45). Núi Lấp: chưa rõ. Phải chăng núi Sập là trái núi lớn nhất nằm trong cụm núi Sập bao gồm bốn núi: núi Sập, núi Nhỏ, núi Bà và núi Cậu. Tất cả đều nằm trên địa bàn huyện Thoại Sơn. Núi Sập có độ cao 85m với chu vi 3.800m,cách thành phố Long Xuyên 29 km theo đường tỉnh lộ 943. Hay núi Lấp Vò tức núi Cậu ở Dầu Tiếng (Bình Dương).
(46). Núi Ba Thê còn được gọi là núi Vọng Thê, tên gốc là Hoa Thê Sơn, thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, An Giang. đời vua Minh Mạng vì kỵ húy tên Hoàng hậu Hồ Thị Hoa, nên đổi tên là núi Ba Thê.
(47). Tân Đức là một làng ở huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mâu.(46). Núi Ba Thê còn được gọi là núi Vọng Thê, tên gốc là Hoa Thê Sơn, thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, An Giang. đời vua Minh Mạng vì kỵ húy tên Hoàng hậu Hồ Thị Hoa, nên đổi tên là núi Ba Thê.
(48). Quận Thốt Nốt là một đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Cần Thơ.
(49). Cầu Muống ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
(50). Thủ Một: Thủ Dầu Một.
(51).Bến Thế : Tân An Xã - Bình Dương.
(52).Phường Vĩnh Thông, thành phố Rạch Giá. Thôn Vĩnh Thông ở Kiến Giang
(53). Tịnh Biên: một huyện ở An Giang.
(54). Vòng Cú hay Vàm Cú? Vàm Cú : ở Trà Vinh thông với Láng Linh: Nước chảy Láng Linh, chảy ra Vàm Cú/Thấy dáng em chèo, cặp vú muốn hun .
(55). Thuộc nhiêu: Giồng Thuộc Nhiêu là một trong 3 giồng đất hình thành nên xứ Bà Giồng nổi ... Hiện nay, ở ấp Nam, xã Điềm Hy, huyện Châu Thành có chợ mang tên Thuộc Nhiêu. Giồng trải dài từ hai xã Dưỡng Điềm, Điềm Hy, huyện Châu Thành đến xã Nhị Quý, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, song song với quốc lộ 1A, cách thành phố Mỹ Tho khoảng 20 km. ..
(56). Trà-bư: rạch Trà-Bư (thuộc làng An-Thạnh Trung, gần ranh hạt Sađéc – Long –Xuyên , cách xa chợ Cái-Tàu-Thượng lối bảy ngàn thước)
(57).Tổng-cáng: địa danh ở tại Sóc Trăng
(58). Bảy xào: địa danh ở Trà Cú, Trà Vinh.
(59). Xóm mới: Nhiều nơi trùng tên, ở đây là ấp Giồng Chát, xã Liêu Tú, huyện Long Phú , tỉnh Sóc Trăng.
(60). Sông Bạch Ngưu: ở Cà Mâu, xuất phát từ rạch Cái Chanh chảy ra ngã ba Tắc Thủ. Sông dài 23km, trung bình sâu từ 2 - 3 mét .
(61).Trà lồng :Thị trấn Trà Lồng, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang
(62). Trà-kiết: Cần Thơ
(63).Bố thảo: rạch Bố Thảo ở Long An; cầu Mỹ Thanh, Kinh Tam Sốc đi Bố Thảo (Sóc Trăng).
Bố Thảo ở xã An Ninh huyện Mỹ Tú tỉnh Sóc Trăng.
(64). Rạch Cái Thia , ở huyện Châu Thành, Kiên Giang.
(65) Cái tắc:Thị trấn Cái Tắc, xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang)
(66). Bến tranh: ở gần Mỹ Tho.
(56). Trà-bư: rạch Trà-Bư (thuộc làng An-Thạnh Trung, gần ranh hạt Sađéc – Long –Xuyên
(57).Tổng-cáng: địa danh ở tại Sóc Trăng
(58). Bảy xào: địa danh ở Trà Cú, Trà Vinh.
(59). Xóm mới: Nhiều nơi trùng tên, ở đây là ấp Giồng Chát, xã Liêu Tú, huyện Long Phú , tỉnh Sóc Trăng.
(60). Sông Bạch Ngưu: ở Cà Mâu, xuất phát từ rạch Cái Chanh chảy ra ngã ba Tắc Thủ. Sông dài 23km, trung bình sâu từ 2 - 3 mét .
(61).Trà lồng :Thị trấn Trà Lồng, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang
(62). Trà-kiết: Cần Thơ
(63).Bố thảo: rạch Bố Thảo ở Long An; cầu Mỹ Thanh, Kinh Tam Sốc đi Bố Thảo (Sóc Trăng).
Bố Thảo ở xã An Ninh huyện Mỹ Tú tỉnh Sóc Trăng.
(64). Rạch Cái Thia , ở huyện Châu Thành, Kiên Giang.
(65) Cái tắc:Thị trấn Cái Tắc, xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang)
(66). Bến tranh: ở gần Mỹ Tho.
(67). giồng Huê: Địa danh ở Gò Công. Năm Mậu Thìn 1808 , ông Trần Văn Huê lập làng Vĩnh Lợi, lúc đó thuộc tổng Hòa Bình, huyện Kiến Hòa, trấn Ðịnh Tường Khi ông Huê qua đời (chưa rõ năm), giồng đất này được gọi là Giồng Ông Huê, và chợ Vĩnh Lợi cũng được gọi là Chợ Giồng Ông Huê.
(68). Tân Định: ở quận I Saigon.
(69).Bến-Bạ : đây là bến đò ngang tồn tại từ rất lâu rồi. ... Sông Tống Long, Trà Cú bến đò ngang Bến Bạ. Bến Bạ : Thị Trấn huyện Cù Lao Dung ( Sóc Trăng )
(70 ).Bến đò Lăng Gù thuộc làng Hòa Hảo. Có nơi nói là ở Cái Dầu.
(71).Cái thế hay Cái Khế? phường CÁi KHế, quận NInh KIều, CẦn THơ.
(72).ông Cấm: Núi Cấm ở Châu Đốc.(68). Tân Định: ở quận I Saigon.
(69).Bến-Bạ : đây là bến đò ngang tồn tại từ rất lâu rồi. ... Sông Tống Long, Trà Cú bến đò ngang Bến Bạ. Bến Bạ : Thị Trấn huyện Cù Lao Dung ( Sóc Trăng )
(70 ).Bến đò Lăng Gù thuộc làng Hòa Hảo. Có nơi nói là ở Cái Dầu.
(71).Cái thế hay Cái Khế? phường CÁi KHế, quận NInh KIều, CẦn THơ.
(74). Cái-sơn: Cầu Cái Sơn ở Vĩnh Long; Cái Sơn ở Cần Thơ.
(75). Hòn tre : đảo ở ngoài Nha Trang, ở ngoài Rạch Giá.
(76). Hóa Cù: Ở An Giang. Ấp này cách Cần thơ 74 km.
(77). Hữu Phật hữu ma phân qua tà chánh/Diêm đình lập tánh thượng thánh lập danh/Tri bạo Tri nhơn thức đạo tri bạo thức gian: Có Phật có ma, phải biết phân biệt tà với chánh. Diệm đình có sổ ghi tên người phạm tội, và trên thiên đình cũng ghi tên các bậc thánh. Biết ai là người nhân đức hiểu đạo, biết ai là kẻ gian ác làm điều bạo ngược.
(78). Cái Ngang: ở Vĩnh Long; bến đò Cái Ngang ở Cà Mâu.
(79).Mỹ Thiện: Có nhiều địa danh trùng tên; rạch Mỹ Thiện ở Tiền Giang.
(80). Rạch Ruộng: Bến phà ở Cà Mâu; Cầu Rạch Ruộng là dự án giao thông nối liền thị trấn Sông Đốc với huyện Trần Văn Thời.
(81).Cái Nổ: Địa danh ở đồng bằng sông Cửu Long.
(82). Bắc chiên :Địa danh ở đồng bằng sông Cửu Long, gần Cần Thơ.
(83). Kinh Vĩnh Tế là một con kênh đào nổi tiếng, nằm tại địa phận hai tỉnh An Giang và Kiên Giang, thuộc đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
(84) Hưng Thới: Nhiều địa danh cùng tên. Ấp này ở Cần Thơ. Làng Xuân Sơn và Hưng Thới, nay là ấp Sơn Tây, xã Thới Sơn, Tịnh Biên, An Giang. Vùng này do Phật Thầy giao cho Tăng chủ quản lý.
(85). Tứ thánh: Phải chăng là cậu bé 9 tuổi ở Châu Đốc được thánh nhập xác phàm làm thơ tiên được truyền tụng (có tác phẩm ở trong tập phụ lục)?
(86). Mục Liên: Mục Kiền Liên, đệ tử của đức Phật.
(84) Hưng Thới: Nhiều địa danh cùng tên. Ấp này ở Cần Thơ. Làng Xuân Sơn và Hưng Thới, nay là ấp Sơn Tây, xã Thới Sơn, Tịnh Biên, An Giang. Vùng này do Phật Thầy giao cho Tăng chủ quản lý.
(85). Tứ thánh: Phải chăng là cậu bé 9 tuổi ở Châu Đốc được thánh nhập xác phàm làm thơ tiên được truyền tụng (có tác phẩm ở trong tập phụ lục)?
(86). Mục Liên: Mục Kiền Liên, đệ tử của đức Phật.
No comments:
Post a Comment