NGỒI BUỒN TẬP 2
(tiếp theo)
(tiếp theo)
507. Niệm Phật có thánh có tiên
Có bình chư vị độ yên tâm bình
Niệm Phật cải dữ trong mình
510.Cải tà qui chánh nghiệm tình lượng phân
Niệm Phật tích thiện vi ân
Chữ tài vi oán lòng dân chẳng lành
Ai ai nhẫn chí để dành
Hạ nguơn tận thế tu hành cần năng
515. Chữ rằng lạc diệp qui căn (1)
Trào nào cũng dụng nho văn làm đầu
Hữu quân tất hữu công hầu
Vô quân thị tất nan cầu công khanh (2)
Ai mà chẳng dụng công danh
520. Làm người lánh đục tìm thanh mới mầu
Tây phương bất dục nhơn cầu
Lòng ai dĩ đạo kết sầu tây phương
Đa nhơn chí tại bất lương
Phật Trời nào chẳng lòng thương dân lành
525. Đời nầy nhiều kẻ tu hành
Tu là tu quỉ tu lành vốn không
Cửa trời mở rộng minh mông
Việc nào tà chánh xét trong lòng mình
Bất dụng tài sắc dạng hình
530. Dụng tâm dụng tánh dụng tình hiền lương (3)
Dụng người ưu đạo quốc vương
Dụng người hiếu nghĩa trung lương đá vàng
Non cao thú dữ muôn ngàn
Nghiêng vai gánh đạo tầm đàng tây phương
535. Sợ đàng lưới nhện vấn vương
Dốc lòng giữ đạo tầm phương non bồng
Sơn khê đá dựng chập chồng
Còn lo một nỗi khó lòng nẻo đi.
Chim kêu vượn hú tử quy (4)
540.Thác còn sống mất đường đi sõi sành
Vượn kia bao nỡ lìa nhành
Chim kia bao nỡ bỏ đành rừng non
Ai từng mẹ chẳng thương con
Lá lay vì bởi thẹn non khác lòng
545. Đeo cho cổ chuỗi tay vòng
Nam mô không biết trong lòng một câu.
Chẳng lo đào giếng cho sâu
Của mình nó lại lo âu hại mình
Hường nhan chi kẻ vô tình
550. Phật không dụng sự sắc hình dân ôi
Chợ lớn bao thuở hết vôi
Làm người không chúa làm tôi sao hằng
Chúa ôi sao chúa không rằng
Để cho các nước lăn quằn hại dân
555. Phật ôi sao Phật chưa phân
Trời ôi bao nỡ để dân điêu tàn
Dân ôi chẳng sợ cơ hàn
Hiển vinh chi đó chen đàng đua tranh
Lươn kia còn nhớt còn tanh
560. Tanh chi có mỡ cũng danh béo bùi
Nói ra trong dạ sụt sùi
Thân nầy chi khác trái muồi trên cây
May mà trôi nổi đến đây
Việc xưa chi khác việc nay chút nào
565. Quán trung ít kẻ ra vào
Tai nghe phường phố như Tào hưng binh
Ngồi buồn trách chúa Bắc kinh
Làm cho lỗi đạo bất minh hại đời
Đa đoan ngôn ngữ loạn lời
570. Ai ai đều cũng dân trời tôi vua
Một nước nghịch nhỉ tranh đua
Làm sao cho phải tôi vua dân trời
Con ai mà chẳng nghe lời
Mẹ cha dạy bảo cãi lời ngoan ngôn
575. E sau thây thác không chôn
Chớ đừng ỷ sức ngoan ngôn cãi trời
Cho vay một vốn mười lời
Tính hơn tính thiếu buông lời chưởi ngang
Một chưởi hai chưởi một nan
580. Ba chưởi bốn chưởi thời hoang cửa nhà
Phật dạy từ trẻ tới già
Tội chưởi thậm tội kết mà đầu dây.
Nói cùng huynh đệ người hay
Chưởi thời chưởi thú tội nay vô cùng
585. Phép Phật việc chưởi không dùng
Việc hung chẳng dụng thiệt dùng hiền lương
Nói ra nhiều kẻ chẳng thương
Việc nào thua việc vi lương để đời
Ai giỏi qua Phật qua Trời
590. Hoặc chơn hoặc giả đổi dời tại nhân
Phật trời nào chẳng lượng phân
Nhơn hữu thiện nguyện tùng dân thiện tình
Ác giả sanh sự bất bình
Phật trời ngài cũng cho mình cãi đâu.
595. Tự giả ý giả lo âu
Phật trời ngài chẳng cải đâu lòng người
Hoặc chơi hoặc khóc hoặc cười
Phật nào cản trở mà người oán thiên
Tự ý thiện ác điểm khuyên
600. Đừng lòng trách thánh phiền tiên lỗi lầm
Cá qua sông trước cá nằm
Sông sâu cá lội ai cầm cá đâu
Mặc tình lội cạn lội sâu
Lội lui lội tới chậm mau ai gàn
605. Chim bay biệt sở xa ngàn
Rừng không trở lại ai màng chim đâu
Giác đời mới biết cạn sâu
Bằng không có giác sừng âu mọc đầu
Lóng nghe Bắc-ngụy Nam-lầu
610. Cỡi con bạch mã qua cầu Tây-phương
Dại nào mà dại chẳng thương
Khôn nào khôn chẳng khai mương bắc cầu
Đất dơ nên đất mới sầu
Trời dơ trời chẳng thèm cầu chúng sanh
615. Phật trời mắc đọa hôi tanh
Người phàm như thể tượng tranh vẽ vời
Nói thiệt (thời) khổ với đời
Khổ thời chịu khổ lỗi lời phải cam.
Nôm na chữ nghĩa lam nham
620. Dầu người chê dại cũng cam thửa lòng
Nói ra lời phải dự phòng
Nói rằng cũng sợ mích lòng anh em
Vện vằn ai lại ngó xem
Thẹn thùa với chị với em xóm giềng.
625. Một quan thương kẻ năm tiền
Muốn cho lòng đó đừng phiền lòng đây
Người hiền ở thẳng nói ngay
Hiền không ngay thẳng sợ nay họa hồi
Chiếu bông gối dựa khó ngồi
630. Người tu phạm tội nhớ lời thầy ghi
Đại hùng đại lực đại bi
Làm người cho biết thủy nguy khuôn phò
Vô ơn mấy kẻ đưa đò
Cắc xu thu hoạch không dò nguy bang.
635. Vượng thông Hưng-thới An giang
Làm người biết đạo nguy bang ưu sầu
Lão suy hà lão bất cầu
Chỗ nào không Phật không sầu tây phương
Đạo hà hà đạo bất lương
640. Bất lương bất đạo bất dương bất tùng
Vỉ nhơn nhơn vỉ anh hùng
Bất tri thức lực chớ dùng làm chi
Đá hay sức đá một khi
Tuổi vàng vàng thức vàng tri tuổi vàng
645.Thương thân thì phải tùng làng
Sưu đinh thuế đóng vẹn toàn đừng sai
Mặc tình già trẻ gái trai
Lòng ta ta biết dạ ai ai tường
Mãng nghe sự thế phi thường
650.Ngó chừng trời tối dặm đường chẳng xa
Thầy ghi hữu Phật hữu ma
Hữu tà hữu chánh nghĩ ra ngán ngầm (5)
Nịnh trung hữu chí mưu thầm
Thiên cơ xử lý nan tầm phước thân
655. Có lòng cầu Phật hồi ân
Phật trời nhỏ phước độ thân trải dời
Khác nhau có một chữ thời
Dễ ai bẻ nạng chống trời đặng cho.
Giàu nghèo chưa chắc đừng lo
660.Nhất tâm niệm Phật Phật cho thịnh thời
Công danh rạng tiết chói ngời
Đừng lòng chê Phật khi Trời chẳng nên
Làm người cho biết dưới trên
Cây nào dưới đất mọc lên nên rừng
665. Giấc ngủ xảy thức ngó chừng
Ngủ mê đàng điếm cổi quần không hay.
Gẫm đường sanh tử xưa nay
Đờn cầm ai nỡ dứt dây nửa chừng
Chẳng ai đem dạ ớt gừng
670. Biết sao tội phước nói chừng mà nghe
Thân nầy như thể bè tre
Thả trôi theo nước lóng nghe cuộc đời
Cắn răng ép lưỡi ra lời
Hở môi chẳng dễ cuộc đời thịnh suy
675. Thiên cơ trần thế bất tri
Vận còn điên đảo thịnh suy đổi đời
Lòng nguyện cho thấu Phật Trời
Cho lòng tri thức diệt đời cổ kim
Án đời loạn chí bất nghiêm
680. Quân thần phi lý cổ kim bất tùng
Đời nầy lời nói không cùng
Thấy đâu nói đó khó dùng lời ta
Cải tà tà phải dang ra
Qui chánh chánh lại độ ta vẹn toàn.
685. Mấy năm luống chịu cơ hàn
Cam tâm khổ não điếm đàng chê quê
Thầy chê đổ bác đấu kê (6)
Ham vui chịu lận người quê điếm đàng
Giựt của không mõ không làn
690. Kết thù kết oán bất thuần đệ huynh
Thiệt đời ăn ở bất minh
Lời Thầy răn dạy khương minh bất tùng
Tiếng đồn lục tỉnh tôi khùng
Trượng phu chí cả thương cùng ngu si
695. Đường ngay ai chẳng cho đi
Mặc tình chúng bạn khứ qui tại lòng
Đường vạy khéo dắt đi vòng
Tây phương Phật dụng cái lòng tính minh.
Nam kỳ từ giã Bắc kinh
700. Trai ngay thờ chúa gái trinh thờ chồng.
Thế suy cầu Phật hội đồng
Trung cang nghĩa khí giữ lòng tự nhiên
Chữ rằng hiếu chí ưu thiên
Hiếu chung thân hiếu thị nhiên nên người
705. Thế suy dạ chẳng muốn cười
Bạc bảy sánh với vàng mười dễ chi
Người hiền chịu chữ ngu si
Vàng thau lộn lạo dễ chi ra bề
Chữ rằng nội ngoại tương tề
710. Hai vai gánh nặng nén bề gái trai
Nghĩ mình nào dám ép ai
Làm người chi khỏi ba tai mà phiền
Trăm năm khó giữ mộ tiền
Chẳng cầu hồn vía sa miền Diêm-vương.
715.Ngục hình lao khổ đau thương
Sa về địa ngục tử lương nguyện cầu
Vái van một bái khấu đầu
Nguyện thiên nguyện địa vọng cầu tây phương
Cầu Phật thấu đến Diêm-Vương
720. Chẳng cầu thủ mộ thịt xương điêu tàn
Vong linh sa chốn rạc ràng
Nhứt tâm khẩu nguyện ngoại càn khôn tri
Chí hiếu nguyện thấu cung ly
Phật trời ngài cũng động tri thức lòng
725. Lời giác Phật nói bao đồng
Anh em nghe chớ trách lòng lời ngay
Ăn trái nhớ kẻ trồng cây
Thương người người chớ thương đây chút nào
Nguyện cùng Bắc-đẩu Nam-tào
730. Xét soi số mạng lỗi nào đọa đây
Ngồi buồn thương gió nhớ mây
Nhớ đời Nghiêu Thuấn ra tay cày bừa.
Nói ra như nói thiếu thừa
Phật trời còn ở không vừa lòng dân
735. Dạy là dạy thế dạy phân
Thương là thương việc hương lân ngày rày
Sao sao chẳng kíp cũng chầy
Tớ sanh dạ dại cãi thầy sao nên
Lời nào chánh lý đừng quên
740. Lời nào tà nịnh chẳng nên đừng dùng
Xứ xứ tất hữu anh hùng
Cao nhơn cao trị điên khùng trị ai
Lời nói có mắt có gai
Có đắng có ngọt nào ai biết lòng
745. Việc chua việc chát bao đồng
Để tiêu để ớt trong lòng làm chi
Nam mô hai chữ từ bi
Phật còn thương chúng lời khi dễ gì
Xét xem các cõi biên thùy
750. Tài chi răn thế giỏi gì khinh khi.
Nhĩ văn khẩu tụng tâm tri (7)
Đừng đừng nghe tiếng thị phi mà lầm
Xa xuôi công nặng khó tầm
Tại gia vọng phật lỗi lầm tại tâm
755. Ở gần sớm viếng tối thăm
Ở xa ước mấy trăm năm cũng tìm
Ơn cao nghĩa rộng trọn niềm
Có lòng trời Phật lại tìm chúng sanh.
Bất tường ẩn tích mai danh
760. Dầu ai đặng chữ công danh thời nhờ
Nam mô thiểu trí dại khờ
Gió nam sóng bắc vật vờ hồn ma
Thương thầy nghĩ lại phận ta
Chừng nào Đại-Thánh ngài ra cõi trần
765. Vu oan vấy họa rần rần
Súng tây người bắn nhiều lần chỉn ghê
Chẳng tìm dấu thỏ đàng dê
Sách đèn thức tánh canh kê gáy đầu
Ngựa hoang chạy vỡ qua cầu
770. Khỉ ngồi-rừng vắng lắc đầu nhăn răng
Mỏng môi hả miệng nói xăng
Láo nầy có cội có căn láo dòng
Thương nhau lời nói để lòng
Dầu ai mua bưởi bán bòng (8) mặc ai
775. Như lời mời gọi làm trai
Kiến nguy chí mạng ít ai học đòi
Nước trong cá lội hẹp hòi
Nước đục ít kẻ học đòi bực sông
Cá đua đáy biển minh mông
780. Cầm câu ngồi ẩn bực sông trông thời
Thanh tân chi bấy bớ đời
Nam thanh nữ tú nhiều lời ngoan nan
Nực cười chước mọn châu lang ?
Sá chi bầy chấu cả gan đoạt quyền
785. Tranh ngôi hao tốn lương tiền
Làm cho bá tánh đảo huyền (9) chẳng an
Câm hờn quân tướng quới quan
Chẳng thương dân chúng gian nan thuở nầy
Dân ôi dân chẳng nghe thầy
790. Vua ôi vua chẳng nhớ ngày Tây phương.
Tranh tài đoạt quốc thâm cương
Gây thù kết oán bất lương hại đời
Chẳng ai tin tưởng Phật Trời
Dọc ngang ỷ thế ỷ thời bề trên
795. Lời nói tục tỉu chẳng nên
Nói thanh chứng có hai bên biên lời
Ăn theo thuở, ở theo thời
Loạn ngôn loạn ở loạn lời chẳng nên
Dặn lòng cho chắc đừng quên
800. Dầu mà sống thác hư nên tại trời.
Hở răng chắc lưỡi than đời
Làm sao đủ mặt coi đời thượng kim
Phật trời một kiểng thanh nghiêm
Đời này chẳng khỏi phi liêm (10) tan tành
805. Chim khôn thì kiếm cây lành
Người hiền tìm chốn tu hành nương thân
Trách ai bụng lượng vô phân
Để theo tranh tụng dành phần thịt kia
Vàng lá bia ốc bắn bia
810.Người khôn ai có nói lia nhiều lời
Non cao vòi vọi giữa trời
Làm sao trung hiếu hai lời hiệp thân
Nghề nào cũng phải lo phân
Không phân sao biết sự thân vẹn nghề
815. Gối rơm ai lại dựa kề
Quán trung vắng khách chuyên nghề sử kinh
Ghét là ghét kẻ bất minh
Thương là thương kẻ trung trinh vẹn toàn
Ghét là ghét kẻ điếm đàng
820. Thương là thương kẻ cơ hàn hiếu trung
Ghét là ghét kẻ ngang hung
Thương là thương kẻ trí trung ở đời
Ghét là ghét kẻ khi trời
Thương là thương kẻ nghe lời Phật răn
825. Ghét là ghét kẽ tham ăn
Thương là thương kẻ tưởng căn Phật trời
Ghét là ghét kẻ loạn lời
Thương là thương kẻ ở đời tu thân
Ghét là ghét kẻ phi ân
830. Thương là thương kẻ nghĩa nhân ân cần
Ghét là ghét kẻ nịnh thần
Thương là thương kẻ phú bần thảo ngay
Ghét là ghét kẻ xưng hay
Thương là thương kẻ không chay ngay rày
835. Ghét là ghét kẻ khi thầy
Thương là thương kẻ mưu bày trợ bang
Ghét là ghét kẻ tham gian
Thương là thương kẻ phò an Hớn trào
Ghét là ghét kẻ hổn hào
840. Thương là thương kẻ anh hào lập thân
Ghét là ghét kẻ vô ân
Thương là thương đức thánh nhân dạy đời
Ghét là ghét kẻ cải lời
Thương là thương kẻ thất thời lâm nguy
845.Xét đời thương ghét dễ chi
Trung thần chi khỏi thạnh suy đổi dời
Tề Thiên ỷ sức loạn trời
Giỏi chi qua Phật cãi lời không tu
Rèn lòng trí huệ công phu
850. Dò theo biển thánh rừng nhu học đòi.
Trời giông trời cũng làm mòi
Thình lình sấm dậy hẹp hòi khó thay
Ăn mặn dễ bữa hơn chay
Tu nào cũng chẳng bằng ngay trong lòng
855.Vui chi vợ vợ chồng chồng
Thê thê thiếp thiếp chuổi vòng sấm sanh
Sang giàu người phải thức canh
Gian nhơn thâm nhập đoạt tranh vật hoài
Nghĩa nhân gẫm thiệt lâu dài
860. Không lo đạo tặc ngủ hoài sáng đêm
Lẽ nào phải tính cho êm
Bằng tê mê dạy việc thêm ngầy ngà
Nói ra phải giác chánh tà
Giác nhi phản giác vất hòa tâm nhơn
865. Hữu thân chí tất độ thân
Dầu ai ăn ở phi nhân chớ phiền
Noi theo lời thánh giáo tiền
Dầu ai ghét ngõ (11) ganh hiền mặc ai
Bao giờ đại đạo quảng khai
870. Mặc tình già trẻ gái trai nghịch tùng
Chưng cơ mạc trí anh hùng
Lá lay thánh đạo bất tùng tâm vong
Thính kỳ đạo lý nan không
Dầu người lòng bắc dạ đông chớ phiền
875. Có công ăn học mới thiền
Chẳng cầu ai dễ đem quyền tới cho
Làm người sao việc chẵng lo
Ở đời ấm lạnh đói no phãi rằng
Ở cho thức lý đạo hằng
880. Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim
Một lo trả nợ thanh nghiêm
Hai lo việc cổ việc kim mình lầm
Ba lo lỗi việc ăn nằm
Bốn lo lỗi đạo ngày rằm ba mươi
885. Năm lo lỗi ý dễ ngươi
Sáu lo hoa cảnh tốt tươi không hằng
Bảy lo lỗi lý chữ rằng
Tám lo khuyến học cho bằng thế gian
Chín lo họa phước nguy bang
890. Mười lo trời phật không than việc mình
Mười một lo lỗi thiên đình
Mười hai lo lỗi sự tình Tây phương
Lo mình lỗi chi hiền lương
Khấu đầu vọng bái thập phương hoan tình
895. Phải lo lỗi đạo trong mình
Dễ chia ăn nói lộng tình ngoan ngôn
Thuở xưa Đường thất Thế Tôn
Qua cầu đông độ khai môn đạo mầu
Nay lo thất thể nam lầu
900. Nhứt tâm nguyện thán đập đầu cầu sư.
Ưu công chí bất ưu tư
Cầu trời cầu phật phước dư độ đời
Lòng nguyện xin thấu Phật Trời
Mười phương chứng chiếu độ đời nguy nan
905. Lời nguyền cho thấu tam quang
Độ đời hậu phát bình an thọ trường
Gắng công đạo lý nhứt trường
Đừng nghe sự thế phi thường lảng tâm
Ba mươi mùng một mười lăm
910. Cầu luôn mười sáu nhứt tâm tu trì
Dụng chi bạc lộn với chì
Vàng trau dạ ngọc tu trì mới nên
Cửa thiền khó mở hai bên
Việc nào cần mẩn chẳng nên cũng thuần
915. Việc nào chú ý mới nhuần
Lòng không cần mẫn chẳng thuần phải hư
Phật trời còn để phước dư
Cho người dương thế lòng tư thánh hiền
Thức tâm suy hậu nghiệm tiền
920. Ở sao đừng giận đừng phiền mới hay
Cầu dài ai nỡ lấp xây
Nghĩa nhân chẳng phải một ngày mà thôi
Đức thắng dĩ đức người ôi
Dĩ tài thọ hại chúa tôi chẳng lành
925.Hữu tâm kim chỉ để dành
Rách mà khéo vá hơn lành vụng may
Đất liền ai bắt cầu cây
Cách giang chẳng kẻ ra tay bắc cầu
Màu thoàn (thiền) đắc ý mới mầu
930. Còn hơn chen chúc công hầu vương khanh
Tiền ma gạo quỉ đua tranh
Lập thân hành đạo giương danh làm đầu
Trách ai lòng ở chẳng sầu
Cách giang đây quyết bắc cầu Tây phương
935. Nguyện cầu hữu chúa hữu vương
Phật trời xuất thế nhà Thương trị đời
Thầy xưa dạy đạo nhiều lời
Thương thay bổn đạo thịnh thời chẳng nghe
Cầm dao ruồng dáng nhện tre
940. Trống trơn gai góc người nghe đi vào
Nghe sao lăn líu tây tàu
Rừng nho biển thánh đường nào người chê
Thẹn thùa đạo lý nhà quê
Phi thiền phi tự người chê ăn mày
945. Ở đời như bát nước đầy
Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong
Sang giàu bọt nước mùa đông
Lao xao buổi chợ tang bồng công danh
Cuộc đời nhứt nghệ giá canh
950. Quới quyền hai chữ công danh rõ ràng.
Sóng xao mặc sóng với thoàn
Nghĩa nhân giữ đặng vẹn toàn mới hay
Gió nam sóng bắc khó thay
Gió bắc chưa thổi gió tây tới mùa
955. Hay chi những sải ở chùa
Tụng kinh quên phật quê mùa không xong
Bao giờ rắn nước hóa long
Gà bay bỏ ổ con trông mẹ vào
Chẳng ai thức lý minh trào
960. Mẹ đâu kiếm mẹ con nào con kêu
Đờn cầm tay khải ( gảy) trớ trêu
Năm dây ba bực kêu rêu đời đời
Đờn kêu sự thế cãi lời
Đờn kêu Phật nói loạn đời chẳng nghe
965. Đờn kêu sơn thủy so le
Đờn kêu sự thế không nghe lời lành
Đờn kêu Phật dạy tu hành
Đờn kêu người chẳng làm lành độ thân
Đờn kêu thiên phước vạn ân
970. Phật trời dành để cho dân hiền hòa
Đờn kêu tri lý chánh tà
Giáo truyền dân chúng thuận hòa nhứt tâm
Đờn kêu họa phước cơ thâm
Đờn kêu thức lý tri âm thời tường
975. Đờn kêu Triệu Cấu nan cường
Do lai ô thước dắt đường hồi bang
Đờn kêu quốc loạn nguy nan
Cỡi con mã thổ quá giang thịnh thời
Đờn kêu mạng lý tại trời
980. Thạnh suy có một chữ thời mà thôi
Đờn kêu chúa nịnh sát tôi
Tôi tà sát chúa người ôi nan thiền
Đờn kêu nghiệm hậu suy tiền
Kim lai cổ vảng tại miền thế gian
985.Đờn kêu bá quốc chư bang
Làm người hiếu nghĩa trung cang phế tà
Đất đâu mình đặng cất nhà
Vật đâu mình thực bất hòa quốc vương
(Mất đoạn chót)
Chép xong ngày 15 tháng 2 (nhuần)
năm Đinh Hợi
___
CHÚ THÍCH:
(1). lạc diệp qui căn : Lá rụng quy căn.
(2). Hữu quân tất hữu công hầu / Vô quân thị tất nan cầu công khanh : Có vua thì có công hầu. Không có vua thì không có công khanh. Câu này nói Pháp chiếm Nam Kỳ, Nam Kỳ không vua, mất hết tương lai.
(3). Bất dụng tài sắc dạng hình/Dụng tâm dụng tánh dụng tình hiền lương :Chủ trương Bửu Sơn Kỳ Hương là không dùng âm thanh sắc tướng. Chỉ tu tâm, chú trọng việc làm lành lánh dữ.
(4). Tử quy: Chim này có nhiều tên như Đỗ Quyên là Thần phong Quyên , là Đỗ Vũ , Tử Quy , Tu Hú ...Việt Nam còn gọi chim này là chim Cuốc ...(Ai xui con cuốc gọi vào hè... NHớ nước đau lòng con quốc quốc). Chim này có tích ở Đỗ Vũ nước Thục có hiệu là vọng đế , do sống truỵ lạc , ăn chơi xa đoạ , bị mất nước . Đỗ Vũ chết hoá thành chim Đỗ Quyên , cũng gọi là chim Tử Quy .
(5). Hữu Phật hữu ma/ Hữu tà hữu chánh : Có Phật thì có ma, có tà thời có chánh.
(3). Bất dụng tài sắc dạng hình/Dụng tâm dụng tánh dụng tình hiền lương :Chủ trương Bửu Sơn Kỳ Hương là không dùng âm thanh sắc tướng. Chỉ tu tâm, chú trọng việc làm lành lánh dữ.
(4). Tử quy: Chim này có nhiều tên như Đỗ Quyên là Thần phong Quyên , là Đỗ Vũ , Tử Quy , Tu Hú ...Việt Nam còn gọi chim này là chim Cuốc ...(Ai xui con cuốc gọi vào hè... NHớ nước đau lòng con quốc quốc). Chim này có tích ở Đỗ Vũ nước Thục có hiệu là vọng đế , do sống truỵ lạc , ăn chơi xa đoạ , bị mất nước . Đỗ Vũ chết hoá thành chim Đỗ Quyên , cũng gọi là chim Tử Quy .
(5). Hữu Phật hữu ma/ Hữu tà hữu chánh : Có Phật thì có ma, có tà thời có chánh.
(6). đổ bác đấu kê: đổ bác: cờ bạc; đấu kê: chọi gà.
(7). Nhĩ văn khẩu tụng tâm tri: Tai nghe, miệng đọc, lòng biết.
(8). bòng: trái bòng giống trái bưởi.
(9). bá tánh đảo huyền: đảo huyền là treo ngược. Bá tánh là trăm họ tức là dân chúng. Dân chúng khốn khổ.
(10). phi liêm: thần gió; cái liềm có thể ném xa giết người.
(11). ngõ hay ngọ là tài gỉỏi ( tiếng xưa: có tài, có ngọ)Tục ngữ: "Có cứng mới đứng đầu gió/ Có tài có ngọ mới ra xứ người". Cổ nhân cũng nói" Mang chuông đi đấm xứ người", nghĩa là người đi ra ngoài xứ phải có tài năng mới sống được.
(7). Nhĩ văn khẩu tụng tâm tri: Tai nghe, miệng đọc, lòng biết.
(8). bòng: trái bòng giống trái bưởi.
(9). bá tánh đảo huyền: đảo huyền là treo ngược. Bá tánh là trăm họ tức là dân chúng. Dân chúng khốn khổ.
(10). phi liêm: thần gió; cái liềm có thể ném xa giết người.
(11). ngõ hay ngọ là tài gỉỏi ( tiếng xưa: có tài, có ngọ)Tục ngữ: "Có cứng mới đứng đầu gió/ Có tài có ngọ mới ra xứ người". Cổ nhân cũng nói" Mang chuông đi đấm xứ người", nghĩa là người đi ra ngoài xứ phải có tài năng mới sống được.
KIM CỔ KỲ QUAN QUYỂN IV
NGỒI BUỒN TẬP 2
(tiếp theo)
507. Niệm Phật có thánh có tiên
Có bình chư vị độ yên tâm bình
Niệm Phật cải dữ trong mình
510.Cải tà qui chánh nghiệm tình lượng phân
Niệm Phật tích thiện vi ân
Chữ tài vi oán lòng dân chẳng lành
Ai ai nhẫn chí để dành
Hạ nguơn tận thế tu hành cần năng
515. Chữ rằng lạc diệp qui căn (1)
Trào nào cũng dụng nho văn làm đầu
Hữu quân tất hữu công hầu
Vô quân thị tất nan cầu công khanh (2)
Ai mà chẳng dụng công danh
520. Làm người lánh đục tìm thanh mới mầu
Tây phương bất dục nhơn cầu
Lòng ai dĩ đạo kết sầu tây phương
Đa nhơn chí tại bất lương
Phật Trời nào chẳng lòng thương dân lành
525. Đời nầy nhiều kẻ tu hành
Tu là tu quỉ tu lành vốn không
Cửa trời mở rộng minh mông
Việc nào tà chánh xét trong lòng mình
Bất dụng tài sắc dạng hình
530. Dụng tâm dụng tánh dụng tình hiền lương (3)
Dụng người ưu đạo quốc vương
Dụng người hiếu nghĩa trung lương đá vàng
Non cao thú dữ muôn ngàn
Nghiêng vai gánh đạo tầm đàng tây phương
535. Sợ đàng lưới nhện vấn vương
Dốc lòng giữ đạo tầm phương non bồng
Sơn khê đá dựng chập chồng
Còn lo một nỗi khó lòng nẻo đi.
Chim kêu vượn hú tử quy (4)
540.Thác còn sống mất đường đi sõi sành
Vượn kia bao nỡ lìa nhành
Chim kia bao nỡ bỏ đành rừng non
Ai từng mẹ chẳng thương con
Lá lay vì bởi thẹn non khác lòng
545. Đeo cho cổ chuỗi tay vòng
Nam mô không biết trong lòng một câu.
Chẳng lo đào giếng cho sâu
Của mình nó lại lo âu hại mình
Hường nhan chi kẻ vô tình
550. Phật không dụng sự sắc hình dân ôi
Chợ lớn bao thuở hết vôi
Làm người không chúa làm tôi sao hằng
Chúa ôi sao chúa không rằng
Để cho các nước lăn quằn hại dân
555. Phật ôi sao Phật chưa phân
Trời ôi bao nỡ để dân điêu tàn
Dân ôi chẳng sợ cơ hàn
Hiển vinh chi đó chen đàng đua tranh
Lươn kia còn nhớt còn tanh
560. Tanh chi có mỡ cũng danh béo bùi
Nói ra trong dạ sụt sùi
Thân nầy chi khác trái muồi trên cây
May mà trôi nổi đến đây
Việc xưa chi khác việc nay chút nào
565. Quán trung ít kẻ ra vào
Tai nghe phường phố như Tào hưng binh
Ngồi buồn trách chúa Bắc kinh
Làm cho lỗi đạo bất minh hại đời
Đa đoan ngôn ngữ loạn lời
570. Ai ai đều cũng dân trời tôi vua
Một nước nghịch nhỉ tranh đua
Làm sao cho phải tôi vua dân trời
Con ai mà chẳng nghe lời
Mẹ cha dạy bảo cãi lời ngoan ngôn
575. E sau thây thác không chôn
Chớ đừng ỷ sức ngoan ngôn cãi trời
Cho vay một vốn mười lời
Tính hơn tính thiếu buông lời chưởi ngang
Một chưởi hai chưởi một nan
580. Ba chưởi bốn chưởi thời hoang cửa nhà
Phật dạy từ trẻ tới già
Tội chưởi thậm tội kết mà đầu dây.
Nói cùng huynh đệ người hay
Chưởi thời chưởi thú tội nay vô cùng
585. Phép Phật việc chưởi không dùng
Việc hung chẳng dụng thiệt dùng hiền lương
Nói ra nhiều kẻ chẳng thương
Việc nào thua việc vi lương để đời
Ai giỏi qua Phật qua Trời
590. Hoặc chơn hoặc giả đổi dời tại nhân
Phật trời nào chẳng lượng phân
Nhơn hữu thiện nguyện tùng dân thiện tình
Ác giả sanh sự bất bình
Phật trời ngài cũng cho mình cãi đâu.
595. Tự giả ý giả lo âu
Phật trời ngài chẳng cải đâu lòng người
Hoặc chơi hoặc khóc hoặc cười
Phật nào cản trở mà người oán thiên
Tự ý thiện ác điểm khuyên
600. Đừng lòng trách thánh phiền tiên lỗi lầm
Cá qua sông trước cá nằm
Sông sâu cá lội ai cầm cá đâu
Mặc tình lội cạn lội sâu
Lội lui lội tới chậm mau ai gàn
605. Chim bay biệt sở xa ngàn
Rừng không trở lại ai màng chim đâu
Giác đời mới biết cạn sâu
Bằng không có giác sừng âu mọc đầu
Lóng nghe Bắc-ngụy Nam-lầu
610. Cỡi con bạch mã qua cầu Tây-phương
Dại nào mà dại chẳng thương
Khôn nào khôn chẳng khai mương bắc cầu
Đất dơ nên đất mới sầu
Trời dơ trời chẳng thèm cầu chúng sanh
615. Phật trời mắc đọa hôi tanh
Người phàm như thể tượng tranh vẽ vời
Nói thiệt (thời) khổ với đời
Khổ thời chịu khổ lỗi lời phải cam.
Nôm na chữ nghĩa lam nham
620. Dầu người chê dại cũng cam thửa lòng
Nói ra lời phải dự phòng
Nói rằng cũng sợ mích lòng anh em
Vện vằn ai lại ngó xem
Thẹn thùa với chị với em xóm giềng.
625. Một quan thương kẻ năm tiền
Muốn cho lòng đó đừng phiền lòng đây
Người hiền ở thẳng nói ngay
Hiền không ngay thẳng sợ nay họa hồi
Chiếu bông gối dựa khó ngồi
630. Người tu phạm tội nhớ lời thầy ghi
Đại hùng đại lực đại bi
Làm người cho biết thủy nguy khuôn phò
Vô ơn mấy kẻ đưa đò
Cắc xu thu hoạch không dò nguy bang.
635. Vượng thông Hưng-thới An giang
Làm người biết đạo nguy bang ưu sầu
Lão suy hà lão bất cầu
Chỗ nào không Phật không sầu tây phương
Đạo hà hà đạo bất lương
640. Bất lương bất đạo bất dương bất tùng
Vỉ nhơn nhơn vỉ anh hùng
Bất tri thức lực chớ dùng làm chi
Đá hay sức đá một khi
Tuổi vàng vàng thức vàng tri tuổi vàng
645.Thương thân thì phải tùng làng
Sưu đinh thuế đóng vẹn toàn đừng sai
Mặc tình già trẻ gái trai
Lòng ta ta biết dạ ai ai tường
Mãng nghe sự thế phi thường
650.Ngó chừng trời tối dặm đường chẳng xa
Thầy ghi hữu Phật hữu ma
Hữu tà hữu chánh nghĩ ra ngán ngầm (5)
Nịnh trung hữu chí mưu thầm
Thiên cơ xử lý nan tầm phước thân
655. Có lòng cầu Phật hồi ân
Phật trời nhỏ phước độ thân trải dời
Khác nhau có một chữ thời
Dễ ai bẻ nạng chống trời đặng cho.
Giàu nghèo chưa chắc đừng lo
660.Nhất tâm niệm Phật Phật cho thịnh thời
Công danh rạng tiết chói ngời
Đừng lòng chê Phật khi Trời chẳng nên
Làm người cho biết dưới trên
Cây nào dưới đất mọc lên nên rừng
665. Giấc ngủ xảy thức ngó chừng
Ngủ mê đàng điếm cổi quần không hay.
Gẫm đường sanh tử xưa nay
Đờn cầm ai nỡ dứt dây nửa chừng
Chẳng ai đem dạ ớt gừng
670. Biết sao tội phước nói chừng mà nghe
Thân nầy như thể bè tre
Thả trôi theo nước lóng nghe cuộc đời
Cắn răng ép lưỡi ra lời
Hở môi chẳng dễ cuộc đời thịnh suy
675. Thiên cơ trần thế bất tri
Vận còn điên đảo thịnh suy đổi đời
Lòng nguyện cho thấu Phật Trời
Cho lòng tri thức diệt đời cổ kim
Án đời loạn chí bất nghiêm
680. Quân thần phi lý cổ kim bất tùng
Đời nầy lời nói không cùng
Thấy đâu nói đó khó dùng lời ta
Cải tà tà phải dang ra
Qui chánh chánh lại độ ta vẹn toàn.
685. Mấy năm luống chịu cơ hàn
Cam tâm khổ não điếm đàng chê quê
Thầy chê đổ bác đấu kê (6)
Ham vui chịu lận người quê điếm đàng
Giựt của không mõ không làn
690. Kết thù kết oán bất thuần đệ huynh
Thiệt đời ăn ở bất minh
Lời Thầy răn dạy khương minh bất tùng
Tiếng đồn lục tỉnh tôi khùng
Trượng phu chí cả thương cùng ngu si
695. Đường ngay ai chẳng cho đi
Mặc tình chúng bạn khứ qui tại lòng
Đường vạy khéo dắt đi vòng
Tây phương Phật dụng cái lòng tính minh.
Nam kỳ từ giã Bắc kinh
700. Trai ngay thờ chúa gái trinh thờ chồng.
Thế suy cầu Phật hội đồng
Trung cang nghĩa khí giữ lòng tự nhiên
Chữ rằng hiếu chí ưu thiên
Hiếu chung thân hiếu thị nhiên nên người
705. Thế suy dạ chẳng muốn cười
Bạc bảy sánh với vàng mười dễ chi
Người hiền chịu chữ ngu si
Vàng thau lộn lạo dễ chi ra bề
Chữ rằng nội ngoại tương tề
710. Hai vai gánh nặng nén bề gái trai
Nghĩ mình nào dám ép ai
Làm người chi khỏi ba tai mà phiền
Trăm năm khó giữ mộ tiền
Chẳng cầu hồn vía sa miền Diêm-vương.
715.Ngục hình lao khổ đau thương
Sa về địa ngục tử lương nguyện cầu
Vái van một bái khấu đầu
Nguyện thiên nguyện địa vọng cầu tây phương
Cầu Phật thấu đến Diêm-Vương
720. Chẳng cầu thủ mộ thịt xương điêu tàn
Vong linh sa chốn rạc ràng
Nhứt tâm khẩu nguyện ngoại càn khôn tri
Chí hiếu nguyện thấu cung ly
Phật trời ngài cũng động tri thức lòng
725. Lời giác Phật nói bao đồng
Anh em nghe chớ trách lòng lời ngay
Ăn trái nhớ kẻ trồng cây
Thương người người chớ thương đây chút nào
Nguyện cùng Bắc-đẩu Nam-tào
730. Xét soi số mạng lỗi nào đọa đây
Ngồi buồn thương gió nhớ mây
Nhớ đời Nghiêu Thuấn ra tay cày bừa.
Nói ra như nói thiếu thừa
Phật trời còn ở không vừa lòng dân
735. Dạy là dạy thế dạy phân
Thương là thương việc hương lân ngày rày
Sao sao chẳng kíp cũng chầy
Tớ sanh dạ dại cãi thầy sao nên
Lời nào chánh lý đừng quên
740. Lời nào tà nịnh chẳng nên đừng dùng
Xứ xứ tất hữu anh hùng
Cao nhơn cao trị điên khùng trị ai
Lời nói có mắt có gai
Có đắng có ngọt nào ai biết lòng
745. Việc chua việc chát bao đồng
Để tiêu để ớt trong lòng làm chi
Nam mô hai chữ từ bi
Phật còn thương chúng lời khi dễ gì
Xét xem các cõi biên thùy
750. Tài chi răn thế giỏi gì khinh khi.
Nhĩ văn khẩu tụng tâm tri (7)
Đừng đừng nghe tiếng thị phi mà lầm
Xa xuôi công nặng khó tầm
Tại gia vọng phật lỗi lầm tại tâm
755. Ở gần sớm viếng tối thăm
Ở xa ước mấy trăm năm cũng tìm
Ơn cao nghỉa rộng trọn niềm
Có lòng trời Phật lại tìm chúng sanh.
Bất tường ẩn tích mai danh
760. Dầu ai đặng chữ công danh thời nhờ
Nam mô thiểu trí dại khờ
Gió nam sóng bắc vật vờ hồn ma
Thương thầy nghĩ lại phận ta
Chừng nào Đại-Thánh ngài ra cõi trần
765. Vu oan vấy họa rần rần
Súng tây người bắn nhiều lần chỉn ghê
Chẳng tìm dấu thỏ đàng dê
Sách đèn thức tánh canh kê gáy đầu
Ngựa hoang chạy vỡ qua cầu
770. Khỉ ngồi-rừng vắng lắc đầu nhăn răng
Mỏng môi hả miệng nói xăng
Láo nầy có cội có căn láo dòng
Thương nhau lời nói để lòng
Dầu ai mua bưởi bán bòng (8) mặc ai
775. Như lời mời gọi làm trai
Kiến nguy chí mạng ít ai học đòi
Nước trong cá lội hẹp hòi
Nước đục ít kẻ học đòi bực sông
Cá đua đáy biển minh mông
780. Cầm câu ngồi ẩn bực sông trông thời
Thanh tân chi bấy bớ đời
Nam thanh nữ tú nhiều lời ngoan nan
Nực cười chước mọn châu lang ?
Sá chi bầy chấu cả gan đoạt quyền
785. Tranh ngôi hao tốn lương tiền
Làm cho bá tánh đảo huyền (9) chẳng an
Câm hờn quân tướng quới quan
Chẳng thương dân chúng gian nan thuở nầy
Dân ôi dân chẳng nghe thầy
790. Vua ôi vua chẳng nhớ ngày Tây phương.
Tranh tài đoạt quốc thâm cương
Gây thù kết oán bất lương hại đời
Chẳng ai tin tưởng Phật Trời
Dọc ngang ỷ thế ỷ thời bề trên
795. Lời nói tục tỉu chẳng nên
Nói thanh chứng có hai bên biên lời
Ăn theo thuở, ở theo thời
Loạn ngôn loạn ở loạn lời chẳng nên
Dặn lòng cho chắc đừng quên
800. Dầu mà sống thác hư nên tại trời.
Hở răng chắc lưỡi than đời
Làm sao đủ mặt coi đời thượng kim
Phật trời một kiểng thanh nghiêm
Đời này chẳng khỏi phi liêm (10) tan tành
805. Chim khôn thì kiếm cây lành
Người hiền tìm chốn tu hành nương thân
Trách ai bụng lượng vô phân
Để theo tranh tụng dành phần thịt kia
Vàng lá bia ốc bắn bia
810.Người khôn ai có nói lia nhiều lời
Non cao vòi vọi giữa trời
Làm sao trung hiếu hai lời hiệp thân
Nghề nào cũng phải lo phân
Không phân sao biết sự thân vẹn nghề
815. Gối rơm ai lại dựa kề
Quán trung vắng khách chuyên nghề sử kinh
Ghét là ghét kẻ bất minh
Thương là thương kẻ trung trinh vẹn toàn
Ghét là ghét kẻ điếm đàng
820. Thương là thương kẻ cơ hàn hiếu trung
Ghét là ghét kẻ ngang hung
Thương là thương kẻ trí trung ở đời
Ghét là ghét kẻ khi trời
Thương là thương kẻ nghe lời phật răn
825. Ghét là ghét kẽ tham ăn
Thương là thương kẻ tưởng căn phật trời
Ghét là ghét kẻ loạn lời
Thương là thương kẻ ở đời tu thân
Ghét là ghét kẻ phi ân
830. Thương là thương kẻ nghĩa nhân ân cần
Ghét là ghét kẻ nịnh thần
Thương là thương kẻ phú bần thảo ngay
Ghét là ghét kẻ xưng hay
Thương là thương kẻ không chay ngay rày
835. Ghét là ghét kẻ khi thầy
Thương là thương kẻ mưu bày trợ bang
Ghét là ghét kẻ tham gian
Thương là thương kẻ phò an Hớn trào
Ghét là ghét kẻ hổn hào
840. Thương là thương kẻ anh hào lập thân
Ghét là ghét kẻ vô ân
Thương là thương đức thánh nhân dạy đời
Ghét là ghét kẻ cải lời
Thương là thương kẻ thất thời lâm nguy
845.Xét đời thương ghét dễ chi
Trung thần chi khỏi thạnh suy đổi dời
Tề Thiên ỷ sức loạn trời
Giỏi chi qua Phật cãi lời không tu
Rèn lòng trí huệ công phu
850. Dò theo biển thánh rừng nhu học đòi.
Trời giông trời cũng làm mòi
Thình lình sấm dậy hẹp hòi khó thay
Ăn mặn dễ bữa hơn chay
Tu nào cũng chẳng bằng ngay trong lòng
855.Vui chi vợ vợ chồng chồng
Thê thê thiếp thiếp chuổi vòng sấm sanh
Sang giàu người phải thức canh
Gian nhơn thâm nhập đoạt tranh vật hoài
Nghĩa nhân gẫm thiệt lâu dài
860. Không lo đạo tặc ngủ hoài sáng đêm
Lẽ nào phải tính cho êm
Bằng tê mê dạy việc thêm ngầy ngà
Nói ra phải giác chánh tà
Giác nhi phản giác vất hòa tâm nhơn
865. Hữu thân chí tất độ thân
Dầu ai ăn ở phi nhân chớ phiền
Noi theo lời thánh giáo tiền
Dầu ai ghét ngõ (11) ganh hiền mặc ai
Bao giờ đại đạo quảng khai
870. Mặc tình già trẻ gái trai nghịch tùng
Chưng cơ mạc trí anh hùng
Lá lai (lay) thánh đạo bất tùng tâm vong
Thính kỳ đạo lý nan không
Dầu người lòng bắc dạ đông chớ phiền
875. Có công ăn học mới thiền
Chẳng cầu ai dễ đem quyền tới cho
Làm người sao việc chẵng lo
Ở đời ấm lạnh đói no phãi rằng
Ở cho thức lý đạo hằng
880. Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim
Một lo trả nợ thanh nghiêm
Hai lo việc cổ việc kim mình lầm
Ba lo lỗi việc ăn nằm
Bốn lo lỗi đạo ngày rằm ba mươi
885. Năm lo lỗi ý dễ ngươi
Sáu lo hoa cảnh tốt tươi không hằng
Bảy lo lỗi lý chữ rằng
Tám lo khuyến học cho bằng thế gian
Chín lo họa phước nguy bang
890. Mười lo trời phật không than việc mình
Mười một lo lỗi thiên đình
Mười hai lo lỗi sự tình Tây phương
Lo mình lỗi chi hiền lương
Khấu đầu vọng bái thập phương hoan tình
895. Phải lo lỗi đạo trong mình
Dễ chia ăn nói lộng tình ngoan ngôn
Thuở xưa Đường thất Thế Tôn
Qua cầu đông độ khai môn đạo mầu
Nay lo thất thể nam lầu
900. Nhứt tâm nguyện thán đập đầu cầu sư.
Ưu công chí bất ưu tư
Cầu trời cầu phật phước dư độ đời
Lòng nguyện xin thấu Phật Trời
Mười phương chứng chiếu độ đời nguy nan
905. Lời nguyền cho thấu tam quang
Độ đời hậu phát bình an thọ trường
Gắng công đạo lý nhứt trường
Đừng nghe sự thế phi thường lảng tâm
Ba mươi mùng một mười lăm
910. Cầu luôn mười sáu nhứt tâm tu trì
Dụng chi bạc lộn với chì
Vàng trau dạ ngọc tu trì mới nên
Cửa thiền khó mở hai bên
Việc nào cần mẩn chẳng nên cũng thuần
915. Việc nào chú ý mới nhuần
Lòng không cần mẫn chẳng thuần phải hư
Phật trời còn để phước dư
Cho người dương thế lòng tư thánh hiền
Thức tâm suy hậu nghiệm tiền
920. Ở sao đừng giận đừng phiền mới hay
Cầu dài ai nỡ lấp xây
Nghĩa nhân chẳng phải một ngày mà thôi
Đức thắng dĩ đức người ôi
Dĩ tài thọ hại chúa tôi chẳng lành
925.Hữu tâm kim chỉ để dành
Rách mà khéo vá hơn lành vụng may
Đất liền ai bắt cầu cây
Cách giang chẳng kẻ ra tay bắc cầu
Màu thoàn (thiền) đắc ý mới mầu
930. Còn hơn chen chúc công hầu vương khanh
Tiền ma gạo quỉ đua tranh
Lập thân hành đạo giương danh làm đầu
Trách ai lòng ở chẳng sầu
Cách giang đây quyết bắc cầu Tây phương
935. Nguyện cầu hữu chúa hữu vương
Phật trời xuất thế nhà Thương trị đời
Thầy xưa dạy đạo nhiều lời
Thương thay bổn đạo thịnh thời chẳng nghe
Cầm dao ruồng dáng nhện tre
940. Trống trơn gai góc người nghe đi vào
Nghe sao lăn líu tây tàu
Rừng nho biển thánh đường nào người chê
Thẹn thùa đạo lý nhà quê
Phi thiền phi tự người chê ăn mày
945. Ở đời như bát nước đầy
Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong
Sang giàu bọt nước mùa đông
Lao xao buổi chợ tang bồng công danh
Cuộc đời nhứt nghệ giá canh
950. Quới quyền hai chữ công danh rõ ràng.
Sóng xao mặc sóng với thoàn
Nghĩa nhân giữ đặng vẹn toàn mới hay
Gió nam sóng bắc khó thay
Gió bắc chưa thổi gió tây tới mùa
955. Hay chi những sải ở chùa
Tụng kinh quên phật quê mùa không xong
Bao giờ rắn nước hóa long
Gà bay bỏ ổ con trông mẹ vào
Chẳng ai thức lý minh trào
960. Mẹ đâu kiếm mẹ con nào con kêu
Đờn cầm tay khải ( gảy) trớ trêu
Năm dây ba bực kêu rêu đời đời
Đờn kêu sự thế cãi lời
Đờn kêu Phật nói loạn đời chẳng nghe
965. Đờn kêu sơn thủy so le
Đờn kêu sự thế không nghe lời lành
Đờn kêu Phật dạy tu hành
Đờn kêu người chẳng làm lành độ thân
Đờn kêu thiên phước vạn ân
970. Phật trời dành để cho dân hiền hòa
Đờn kêu tri lý chánh tà
Giáo truyền dân chúng thuận hòa nhứt tâm
Đờn kêu họa phước cơ thâm
Đờn kêu thức lý tri âm thời tường
975. Đờn kêu Triệu Cấu nan cường
Do lai ô thước dắt đường hồi bang
Đờn kêu quốc loạn nguy nan
Cỡi con mã thổ quá giang thịnh thời
Đờn kêu mạng lý tại trời
980. Thạnh suy có một chữ thời mà thôi
Đờn kêu chúa nịnh sát tôi
Tôi tà sát chúa người ôi nan thiền
Đờn kêu nghiệm hậu suy tiền
Kim lai cổ vảng tại miền thế gian
985.Đờn kêu bá quốc chư bang
Làm người hiếu nghĩa trung cang phế tà
Đất đâu mình đặng cất nhà
Vật đâu mình thực bất hòa quốc vương
(Mất đoạn chót)
Chép xong ngày 15 tháng 2 (nhuần)
năm Đinh Hợi
___
CHÚ THÍCH:
(1). lạc diệp qui căn : Lá rụng quy căn.
(2). Hữu quân tất hữu công hầu / Vô quân thị tất nan cầu công khanh : Có vua thì có công hầu. Không có vua thì không có công khanh. Câu này nói Pháp chiếm Nam Kỳ, Nam Kỳ không vua, mất hết tương lai.
(3). Bất dụng tài sắc dạng hình/Dụng tâm dụng tánh dụng tình hiền lương :Chủ trương Bửu Sơn Kỳ Hương là không dùng âm thanh sắc tướng. Chỉ tu tâm, chú trọng việc làm lành lánh dữ.
(4). Tử quy: Chim này có nhiều tên như Đỗ Quyên là Thần phong Quyên , là Đỗ Vũ , Tử Quy , Tu Hú ...Việt Nam còn gọi chim này là chim Cuốc ...(Ai xui con cuốc gọi vào hè... NHớ nước đau lòng con quốc quốc). Chim này có tích ở Đỗ Vũ nước Thục có hiệu là vọng đế , do sống truỵ lạc , ăn chơi xa đoạ , bị mất nước . Đỗ Vũ chết hoá thành chim Đỗ Quyên , cũng gọi là chim Tử Quy .
(5). Hữu Phật hữu ma/ Hữu tà hữu chánh : Có Phật thì có ma, có tà thời có chánh.
(3). Bất dụng tài sắc dạng hình/Dụng tâm dụng tánh dụng tình hiền lương :Chủ trương Bửu Sơn Kỳ Hương là không dùng âm thanh sắc tướng. Chỉ tu tâm, chú trọng việc làm lành lánh dữ.
(4). Tử quy: Chim này có nhiều tên như Đỗ Quyên là Thần phong Quyên , là Đỗ Vũ , Tử Quy , Tu Hú ...Việt Nam còn gọi chim này là chim Cuốc ...(Ai xui con cuốc gọi vào hè... NHớ nước đau lòng con quốc quốc). Chim này có tích ở Đỗ Vũ nước Thục có hiệu là vọng đế , do sống truỵ lạc , ăn chơi xa đoạ , bị mất nước . Đỗ Vũ chết hoá thành chim Đỗ Quyên , cũng gọi là chim Tử Quy .
(5). Hữu Phật hữu ma/ Hữu tà hữu chánh : Có Phật thì có ma, có tà thời có chánh.
(6). đổ bác đấu kê: đổ bác: cờ bạc; đấu kê: chọi gà.
(7). Nhĩ văn khẩu tụng tâm tri: Tai nghe, miệng đọc, lòng biết.
(8). bòng: trái bòng giống trái bưởi.
(9). bá tánh đảo huyền: đảo huyền là treo ngược. Bá tánh là trăm họ tức là dân chúng. Dân chúng khốn khổ.
(10). phi liêm: thần gió; cái liềm có thể ném xa giết người.
(11). ngõ hay ngọ là tài gỉỏi ( tiếng xưa: có tài, có ngọ)Tục ngữ: "Có cứng mới đứng đầu gió/ Có tài có ngọ mới ra xứ người". Cổ nhân cũng nói" Mang chuông đi đấm xứ người", nghĩa là người đi ra ngoài xứ phải có tài năng mới sống được.
(7). Nhĩ văn khẩu tụng tâm tri: Tai nghe, miệng đọc, lòng biết.
(8). bòng: trái bòng giống trái bưởi.
(9). bá tánh đảo huyền: đảo huyền là treo ngược. Bá tánh là trăm họ tức là dân chúng. Dân chúng khốn khổ.
(10). phi liêm: thần gió; cái liềm có thể ném xa giết người.
(11). ngõ hay ngọ là tài gỉỏi ( tiếng xưa: có tài, có ngọ)Tục ngữ: "Có cứng mới đứng đầu gió/ Có tài có ngọ mới ra xứ người". Cổ nhân cũng nói" Mang chuông đi đấm xứ người", nghĩa là người đi ra ngoài xứ phải có tài năng mới sống được.
No comments:
Post a Comment