Tuesday, July 5, 2011

I. KIM CỔ KỲ QUAN 3



KIM CỔ KỲ QUAN
quyển I, tập 3

Tài liệu tham khảo : ấn bản 1957 và ấn bản 1964

(Ân bản 1964 từ tr. 13 đến 18; cột 25-36 )

CHÚ Ý: Đoạn này ông Nguyễn Văn Thới nói về tương lai Việt Nam rực rỡ



25

1082. Chà-và hai nước mất thây chẳng còn
Xử việc trong Lục tỉnh hao mòn
Nam-bang khổ dạ chiều lòn hết hơi
1085. Chẳng hồi nào Nam-Việt thảnh thơi
Chỗ nào vinh hiển các nơi vui cười
Việc sưu đính thuế đóng từ người
Cày sâu cuốc cạn vui cười nỗi chi
Đời Hạ-ngươn mắc một chữ khi (1)
1090. Không dè sa thấy việc chi cho người
Chen chúc khổ cực sắc vui cười
Khác chi đầy tớ gọi người hiển vang
Kẻ nói dọc người lại nói ngang
Tâm làu quán khách, giàu sang xưng hùng (2)

1095.Lấy đồng bạc ỷ thế vô cùng (1957, 36)
Lâm nguy thất thế không mùng ngủ đâu
Chẳng dò cạn sao chẳng dò sâu
Buồm trương giữa biển lo âu dựa bờ
Khá lo sao gặp tiết kip giờ
1100. Chiều mai có dựng Huỳnh cờ thanh long (3)
Trải xem đời biển bạc non sông
Qua đà thấy bẫy sao không tránh vòng (4)
Trai phản chúa, gái lại lộn chồng
Đời nào đời vậy đem lòng vui đâu
1105. Trào dưỡng hổ di họa (4b) ngày sau
Tâm linh phước chí biết đâu vận thời
Bạc sao là đầu bạc hỡi Trời
Xét soi sự thế hỡi đời bạc đen
Đồng bạc trắng trắng bạc nhiều khen
1110.Ở đời dụng bạc làm quen cái lòng
Khéo vô duyên tình nghĩa vợ chồng
Giàu sang trân trọng nghèo lòng dễ khi
Người sớm đầu tối đánh phải chi
Nhứt tâm nhứt tánh e khi lỗi lầm
1115.Nhớ tới đâu ruột thắt gan bầm
Vui đâu chuốc đó không nhầm việc chi
Thế hết thịnh thời mới tới suy
Hết suy tới thịnh dĩ quị thượng đường
Người dạ bạo chủ sự tâm cường (5)
1120.Chung thân hành thiện bất tường thiện du (6)
Nhứt nhựt hành ác tự hữu dư
Minh tâm chí luật nhơn cư bất điều
Chốn biển khổ lâm khổ thì nhiều

26

Săn hươu bắn nhạn Ngự-Tiều thiểu nhân
1125.Bạc với vàng sao xứng đống cân
Thương ngài cũng chức vì dân làm đầu
Quân phế quốc hầu tắc phế hầu (7)
Công danh sớm đục tối đầu quản bao.

Nhớ nước bồn (8) trông đợi nước ao (1957, 37)
1130.Giàu sang kim quốc chiêm bao công hầu
Khuấy bánh đúc son phấn chế màu
Chế thêm lan huệ chế bầu trúc mai
Vận bất tề (8b) ai cũng như ai
Bó tay buộc cổ giây gai buộc chùm
1135. Ngái trái đùm sung cũng trái đùm (9).
Đi buôn thiếu vốn ai dùm cho tôi
May có lời rủi lỗ thời thôi
Vốn thời thôi vốn phận tôi lái lèo
Có người giàu cũng có người nghèo
1140. Trả vay vay trả lái lèo kéo (10) neo
Thế thi lận dận thế cheo leo
Giữ lòng cho chặt nọc neo cho bền
Đất năng lở sợ đất không nền
Thiện nam tín nữ cho bền nam mô
1145. Miệng niệm Phật thì khá nuốt vô
Niệm Phật mà nhổ khô khan trong lòng
Thời bất đạt hành khất bao đồng
Giáo khuyên trả nợ thỏa lòng thế gian
Đất Saigon phố ngói dọc ngang
1150.Một người năm cắc cũng an phận mình
Gắng niệm Phật chí ý tận tình
Ưu quân ái quốc việc mình phải lo
E hậu nhựt nhà nước mất kho
Của trần vô số tiêu tro làm gì
1155.Tiếng Kỳ-Hương thơm nức biên thùy
Bửu-sơn mai quế qui kỳ thất niên
Long-hoa hội tới đó mới yên
Đẩu-Sơn nhứt sĩ trừ Phiên anh hùng
Hữu Ngũ-Long Công Chúa tương phùng
1160.Bay cao luyện thấp vô (không ) cùng tài năng
Hậu Đào-Lư nhứt sĩ hiệp căn
Phân vi nhựt nguyệt phi thăng phép tài.

Giác cho người lo việc lâu dài (1957; 38)
Ngũ-Long Công Chúa ra ngoài một thân (11)
1165.Phải lo đền trả nợ quân thân

27

Người nào phi nghĩa phi ân chẳng còn
Biển mênh mông Phật nổi nên hòn
Đất bình sanh núi Trời còn không hay
Chim đậu không bắt bắt chim bay
1170. Nửa nạc nửa mỡ thịt phay ít lờn
Đồng nội ngoại thương hết không hờn
Thân lo báo bổ như đờn Bá-Nha (12)
Lo hai bên cha cũng đồng cha
Hai vai gánh nặng xét ra làm người
1175. Ruột xót đau việc lạ tức cười
Lòng ta ta biết việc người người hay
E nợ đời có trả có vay
Hết vinh tới nhục không hay quả đời
Người đổi người đời lại đổi đời
1180. Phong-Thần trả quả thấy thời điếc tai
Nay đem lại vốn thiệt người lai
Rặt mà không rặt chiều mai không còn
Gia-định còn sau mất Sàigòn
Châu-đốc mất trước tiếng còn An giang
1185. Tiền Lý quốc lập hậu dương cang
Nam-kỳ Lục Tỉnh an bang phục tùng
Lương Mỹ nhơn tạm sử anh hùng
Nhơn trung chánh thị anh hùng chánh tâm
Xét cơ hậu tồn xét cơ thâm
1190.Tri tiền nghiệm hậu Minh tâm sách ngoài (13)
Chớ chê đây nói việc dông dài
Người trong trung quốc hay ngoài càn khôn
Tiền Thánh giá tận thế qui khôn
Nam Kỳ cận địa phá môn chùa chiền
1195. Truyền giữ truyền tử bất truyền hiền (14)
Truyền mưu truyền trí truyền hiền kế ngôi.

Có xét thời đặng phước dân ôi (tr.1957, 39)
Không thời vận đọa tới thôi khổ rày
Mất một mối kiếm tối một ngày
1200.Trong hai năm chẳng kiếm ràykhông ( chưa ) ra
Mất bề mẹ, khó kiếm nổi cha
Thấy còn mà mất nghĩ ra thảm phiền
Mất mà còn trở lại y tiền
Lăng xăng (Rừng xuân) bá tánh chớ phiền nam mô
1205.Ở trong trời khổ quốc Hung nô
Đạo nào hiểu (giữ) đạo Gia-tô mặc người
Chớ ép ai giọng nhỏ tiếng cười

28
Xem đời trần hạ việc người khó phân
Sự bất thành Phật giả khi thân
1210.Chê đời bất chánh vô phân minh tình
Nói cạn lẽ nhiều việc bất bình
Dốt mà nói chữ nghĩ mình nhiều chê
Nghĩ nỗi mình mỗi việc mỗi quê
Mười chuyện quấy chín khen chê mặc tình
1215. Éo le thân không thỏa (đáng) cái hình
Vô duyên chi bấy việc mình mình ôi!
Cám ông Bướm tưởng nghĩa ông Vôi (15)
Người Tầu mắc đọa tanh hôi xác phàm
Chốn núi non chí sĩ lo làm
1220. Kìa non Bửu ngạn tiếng đàm ma ha (16)
Hội nhà thờ đức cố đức cha
Các am các tự đều ra tranh tài
Việc văn hay chẳng luận đọc dài
Ngặt tình chưa đủ sách ngoài nói dai
1225. Mười tám nước việc nói chiều mai
Ích chi một chỗ nói dai mà phiền
Có công đâu làm việc không tiền
Cho vay lỗ miệng chớ phiền bạc trăm
Việc nói láo cầu hội mười lăm
1230. Ba mươi lễ bái nhứt tâm hội đồng.

Vọng thập bát quốc hiệp một lòng (1957, 40)
Chúc Nam Phật độ hội đồng quang minh
Rán dồi lòng hai chữ sắt đinh
Muôn dân xao xác quảng ( rộng ) thinh cửa Trời
1235. Ăn theo thuở ở phải theo thời
Một trăm việc thế khác lời một trăm
Chém trong sống còn dộng trên mâm (17)
Ở đời khôn dại tại tâm dễ gì
Đời làm phải Trời phải nương tùy
1240. Đời nào làm quấy quấy thì tùng chi
Có chữ rằng chi tử vu qui (18)
Làm thân con gái phải đi theo chồng
Trai năm thê bảy thiếp đèo bòng
Nữ trinh thờ chúa giữ lòng thờ phu
1245.Nam nữ đồng biển Thánh rừng Nhu
Ngày sau tỏ rạng trăng thu đạo đồng
Sau không nếp mà quết bánh phồng
Còn hai gông gạo giữ lòng làm ăn
Đến chừng nào nhựt nguyệt hiệp căn


29

1250. Ngày thời ông mọc đêm trăng sáng hoài
Học thuộc lòng nói việc dông dài
Trường an ứng thí bẩm ngài vi tiên
Hột lúa Trời đỏ ruột điểm khuyên
Trái dừa nhắm sức của tiên cho mình
1255. Có Quan Hưng hiệp với Quan Bình (18b)
Quan-Công xuất thế gẫm tình ai hay
Đường sanh tử khác thể tên bay
Lo hồn vi chánh lo thây làm gì
Thác mà biết việc thế mới kỳ
1260. Sống mà không biết việc gì làm chi
Có lòng cúng quỉ Phật chứng tri
Không lòng cúng Phật Phật đi ma về
Người thảo ngay sớm cách tối lìa
No nao sum hiệp đem về nhứt môn.

1265. Dại lỡ dại khôn cũng lỡ khôn (1957, 41)
Tòa sen rước khách non côn ngọc lành
Thuở xuân xanh kết nghĩa không đành
Trái dươn ( duyên) lỗi đạo ngọc lành hóa long
Thoàn (Thuyền) độ phu (19) đưa kẻ qua sông
1270. Ngư phùng độc thủy hóa long không ngờ
Võ miễu tiêu hồn phách vật vờ
Cầu may điểm nguyệt phượng thờ tổ tiên
Trách ai làm bá tánh đảo điên
Thương người trung hiếu sầu riêng trong lòng
1275. Đất kinh đô dư vợ thiếu chồng
Nam thanh gắng chí rèn lòng công phu
Bề nữ tú mài sắt chí tu
Họa may gặp thuở ngao du non thần
Vui làm chi một cõi dương trần
1280.Công lao tiêu tứ hưởng phần vạn niên
Cám Ngọc-Hoàng ngồi ngự chẳng yên
Cõi trần xử thế thiểu niên xác phàm
Phải gắng công niệm chí lo làm
Phật cho Trời định xác phàm vi ngôn
1285. Có xuất tình mới biết rằng khôn
Chừng nào không có một môn nói cuồng
Nhớ Bắc địa ( 20) chí thiết lòng buồn
Dế ngâm vắn vỏi chỉ cuồng lòng đơn
Mắt đoái nhìn Tiên cảnh Thất sơn
1290. Ngùi ngùi nhớ chúa đội ơn lộc thầy

30

Cha Nam con Bắc tới (nhớ ) nỗi nầy
Trời cao đất rộng chứng rày cô thân
Chúa trung tín dỉ lễ đại ân
Ve ngâm thảnh thót ruột phân gan bào
1295. Đi tới chùa niệm Phật ào ào
Về nhà khác thể như Tào hưng binh
Ngó thấy Phật sợ Phật tâm kinh
Về nhà tưởng lại như tinh với tà

Dọn kiểng tu sắc phục áo dà (1957, 42)
1300. Màu thoàn ( thiền ) bất chánh ông bà bất tri
Người ở đời phải xét phải suy
Phải lo phải sợ phải tri rách lành
Người có tổ , chim đổ có nhành
Người hiền chúa rạng dạ dành tùng qui
1305. Đôi con nái đụng thảy con ty (21)
Con dòng nước đục con (bất ) tri nẻo đường
Con người cỡi chịu cực thường thường
Cực thời chịu cực dắt đường nẽo đi
Nhơn đắc thế nhơn bất khả khi
1310.Con dòng (22) con cỡi cũng đi một đường
Đứt dây mũi mới lủi vô vườn
Đụng cây đụng cối không đường mà đi
Của không làm ăn hủy một khi
Ai đem tới nữa mà đi ăn bòn
1315.Ăn quẹt mỏ láo láo tiếng dòn
Ba đời ăn chực những còn nói dai
Ăn của người đem dạ hại ai
Rồi đây tới đó điếc tai nhức đầu
Đạo trí huệ lòng dốc vọng cầu
1320. Miễn cho chúa rạng công hầu tạc bia
Của bá gia mặc ý phân chia
Rồi đây có sức nói lia miệng người
Buồn thời buồn nhiều việc tức cười
Của thiên trả địa e người tiêu tro
1325. Thấy đói trước người khá âu lo
Hoạnh tài bất phú mà no sao đời
Việc khác nhau có một chữ thời
Đó tu cho khỏi ở đời trường xuân
Xem cho biết lẽ oan chỗ ưng
1330. Hại người Lục-tỉnh lại xưng anh hùng
Tội của người nghĩ tội vô cùng
Tội nhơn phạm Phật chẳng dùng một ai


31

Lòng vọng cầu thấy Phật Như-lai (1957, 43)
Thời người mới biết tội ai ít nhiều
1335. Kẻ vong sư phản đạo phế triều
Học đòi Lữ-Bố ngọa (23) triều trêu ngươi
Hoa tứ quí ăn trái gốc bươi
Nực cười Đổng-Trác mắc ngươi Tư-Đồ
Cửa hoạnh tài tích dễ để mấy bồ
1340. Cám thương kẻ Hớn người Hồ thiết tha
Chốn ngai vàng vững đặt âu ca
Nam thanh nữ tú vào ra nhộn nhàng
Khéo rủ nhau mà đi hốt vàng
Gặp vàng không hốt ra đàng hốt tro
1345. Mặc thế tình sợ đói đi lo
Nghỉ đi nghỉ lại không no đói hoài
Đờn độc huyền chiếc thể chẳng dài
Chiếc thân chiếc bạn chiếc hoài lẻ đôi
Đời nghĩ đời ba bực khó thôi
1350. Một dây ba bực làm tôi cực hoài
Người cầm kỳ thi họa hớn hài
Độc quyền hại kẻ bất tài cô thân
Khó nỗi đời thấy khó khó phân
Dầu khôn thứ mấy chữ dân thiểu lời
1355. Người trên nói xuống (dưới) dễ ra lời
Việc quấy nói phải ở đời phải lo
Thấy việc đời lòng đói phải no
Cô ma dựa mé khỏi lo lạnh lùng
Tôi làm biếng nói việc tầm khùng
1360. Điên điên đỏ mắt xưng hùng với ai
Đói ăn bắp đói nữa ăn khoai
Hết khoai hết bắp chiều mai ăn đá
Mấy ai từng đặng chim bẻ ná
Có người nào đặng cá bỏ nơm
1365. Người ở đời ai chẳng ăn cơm
Cơm ai mà độ không thơm tiếng mời.

Ai cũng muốn làm Phật làm Trời (1957, 44)
Lời Phật chẳng kể, kể lời ma không
Việc tu hành đừng nại thất công
1370. Dồi mài tâm tánh sợ không ôn nhuần
Phát cụm cỏ cho ngỏ thấy rừng
Hỉ nộ ái ố để đừng nhập tâm
Vậy mới rằng kế hiểm mưu thâm
Mắt ngơ tai điếc Minh tâm kế kỳ
32
1375. Hổ phụ lưu danh hổ tử bì
Làm sao để tiếng biên thùy ngợi danh
Hạ vương xuân chánh ngoạt tương tranh (24)
Mới rằng quân tử khôn lanh trên đời
Thương nhớ thay lời Phật dạy lời
1380. Vu tồn cốt cách Phật Trời ái ân
Lập kỳ đạo ái đạo kỳ thân
Phế điền đạt hải báo ân khó bì
Họa phước nhơn do cánh vấn thì
Thiện duyên tác phước bất tùy tâm vong
1385. Sanh giả không kề tử giả không
Ngồi buồn nói chuyện minh mong giải buồn
Hậu Gia-Định Tây trước đi xuồng
Giăng câu đặt lọp luông tuồng chơn không
Nói láo ròng nói việc minh mông
1390. Đặng mà giựt của đạt công phàm trần
Việc bất minh chứng có Thánh Thần
Lòng tà dạ quỉ chẳng gần Phật Tiên
Đêm năm canh thổn thức chẳng yên
Mảng lo trung hiếu sầu riêng một mình
1395. Lo công tư thắc thẻo tâm tình
Lẽ Trời chưa vậy ( dậy?) biết mình làm sao
Ví cũng như cá cạn ở ao
Hội nầy khác thể chiêm bao công hầu
May một chút rủi chịu ngàn sầu
1400. Ai ai cũng vậy cạo đầu theo Tây

Một chút rủi một chút thì may (1957, 45)
Tiêu đầu loạn ngạnh (25) mới hay việc đời
Khó nỗi than việc khó hỡi Trời
Hai đường họa phước đổi dời về ai
1405.Niệm nam mô Bồ-Tát Như-Lai
Di-Đà thọ ký cho ai thi nhờ
Độ bá tánh tới bực tới bờ
Làm lành niệm Phật mà chờ hội sau
Còn núi điện sau lại ruộng sâu
1410. Tàu man ở đó giăng câu đặt lờ
Chốn hạ trần con dại con khờ
Trông ơn đức mọn phượng thờ chúa công
Kẻo bá gia tích thiện đợi trông
Hư nên sống thác Đức Ông ra đời
1415. Có hào quang chói rạng sáng ngời
Muôn dân khủng cụ (26) lập đời mới an



33
Có sông dọc sau có sông ngang
Xe hơi xe lửa ( kiếng ) chạy sang giáp vòng
Có tàu cây tàu sắt tàu đồng
1420. Trân châu bửu vật thỏa lòng yến anh
Nước Nam-Kỳ như bức tượng tranh
Ăn nói dịu ngọt khôn lanh tánh tình
Máy thiên cơ việc khéo nước mình
Nam thanh nữ tú nhứt tình chia công
1425. Chẳng sanh lòng dạ bướm kề ong
Ăn ngồi thứ tự chí long nữ tình
Qua ngày sau không miễu không đình
Hội-tề công sở nhứt tình Quốc-gia
Nước Tây-Phiên nhà thờ không Cha
1430. Niệm Trời niệm Phật Quốc-gia an hòa
Mười tám nước như con một nhà
Đều thời niệm Phật Di-Đà công phu
Gió hai ngọn xuân nhựt nguyệt thu
Không lạnh không nực chí tu để lời

1435. Kỷ-Dậu trước Thầy ra độ đời (1957, 46)
Giáo răn bá tánh không lời nào nghe
Tới hội nầy thấy việc bể nghe
Khuyên lòng bá tánh trồng tre đương bồ (27)
Kiển Long Châu (27b) sau có hai hồ
1440. Trời sanh giúp vững cơ đồ Hớn-bang
Chốn màu loan giấc điệp chẳng an
Tưởng thôi áo não trung can tâm tình
Việc trước lo lo trước một mình
Nhìn sau ít kẻ nhứt tình lo âu
1445. Giếng bồi cạn chí dốc đào sâu
Thả chà nhử cá để lâu độ ngày
Trâu của chệt An-Nam bắt cày
Khỏi sưu khỏi thuế khỏi rày lao đao
Khỏi biển khổ ở chốn non cao
1450. Ý sao bá tánh lao xao nại lòng
Chớ đem lòng phụ bạc đất đồng
Gạo trần tiêu hết bạc đồng no không
Chê nước giếng muốn uống nước sông
Nước nào cũng nước đây không ép lòng
1455. Còn ba mối hai mối lòng dòng
Khá tu giữ dạ giữ lòng giữ thân
Người giữ đạo giữ Nghĩa giữ Nhân
Ăn trái thì phải vun phân cây mè
34

Khá đốn tre cốn lại một bè
1460. Thả trôi theo nước rui mè ở chung
Chí quân-tử phải giữ hiếu trung
Chẳng kỳ đôi rách cùi phung tại lòng
Đồng Cần-Lố núi nổi giáp vòng
Sông ngang sông dọc tại lòng Phật Tiên
1465. Phật chẳng ghét kẻ dại người điên
Thủ thân vi chánh Phật Tiên độ đời
Phật chẳng ghét kẻ khóc người cười
Ghét tâm ghét tánh ghét người bất minh.

Phật không ghét niệm Phật tụng kinh (1957, 47)
1470. Tụng kinh lỗi đạo bất minh chẳng dùng
Mặc thế tình tranh quốc xưng hùng
Hoàng-thiên sở định lộc phùng chư châu
Kẻ tu núi người ở ruộng sâu
Hội nầy chư quốc chư châu tranh tài
1475. Mặc thế tình thi vận thơ bài
Tri kim tri cổ tranh tài tranh công
Đạo trung dung xà đắc hóa long
Người thời không cánh không lông bay rày
Tưởng ơn Phật phải (tưởng) nhớ ơn Thầy
1480. Soi gương mới thấy đêm ngày kiết hung
Soi ngó thấy kẻ nịnh người trung
Soi lòng cho biết kẻ hung người hiền
Khuyên bá gia niệm Phật chớ phiền
Tại ai làm dữ Phật hiền thinh không
1485. Kẻ tốn bạc người lại tốn công
Chừng nào cọp đặng hóa long đền bồi
Việc không thấy nói trước cho rồi
Từ nay sắp tới lần hồi coi chơi
Kẻ một chỗ người ở một nơi
1490. Lần hồi đem lại thăm hơi bạn lành
Kẻ mé biển người ở đầu gành
Phật đem hiệp lại người lành qui Tây
Đồ cũ đồ hơi ấm thì hay
Chữ nghĩa thì ít lý nay cao kỳ
1495. Nắn Phật địa bụng lớn chi bì
Tay cầm điếu thuốc tiền thì một quan
Đất Cần-Lố nhà dọc dãy ngang
Phố lầu chợ quán giàu sang muôn nhà
Đâu đâu không trẻ cũng không già
1500. Tám mươi mới có vậy mà con so

35
Ngoài muôn dân lạc nghiệp đủ no
Mười người sanh đặng con so một người.

Người tốt tươi ăn nói vui cười. (1957, 48)
Một muôn tri hậu tuổi người so le
1505. Trong hai muôn biến đổ ( dời?) khá nghe
Còn sanh còn tử so le lập đời
Lập trường sanh một Phật kiểng Trời
Thinh không biến hóa theo đời Phật Tiên
Lo hội nầy thế sự chẳng yên
1510.Mười người thì cũng lòng riêng về mười
Lòng Phật Trời sầu thảm biếng cười
Tang điền thương hải khổ người dân ôi
Thân nhồi nhã rời rã chưa thôi
Mười sầu mười thảm thương ôi thân người
1515.Nhịn trầu thuốc biếng nói biếng cười
Ngày sau răng trắng như người Quảng-đông
Nội cháu thân không có mọc lông
Tóc dài da trắng phụng long dạng hình
Noi việc loạn phải noi việc bình
1520. Sợ người thân thể trâu sình cá ươn
Xét trong Trời nhiều nỗi thảm thương
Đa ngôn đa ngữ đa ương dân Trời
Ở đa tâm dạ dạ khó đời
Ngày sau còn mất con Trời trong vo
1525. Chớ đem lòng lo đói lo no
Làm lành niệm Phật Phật lo cho mình
Chớ lo việc nổi sấm thình lình
Bây giờ lo việc tâm tình tu thân
Đến ngày sau mua bán có cân
1530. Cá tôm một giá không phân ít nhiều
Nước phản nam nước lộn hai chiều
Lúa gạo một giá mỹ miều hai may
Việc Phong-Thần như thể ra thai
Âm thinh thức dậy thấy tai ó rằn
1535. Hớn-Chung-Ly (28) rượu thưởng đích bãng
Sợ sau Trần thị (?) say hoài lâm chung.

Thủ bực chánh bỏ dạ ngang hung (1957, 49)
Đem về lòng chánh ( giữ) thủ trung tẩy tà
Chờ tin ngay mắc kẻ thiệt thà
1540. Thiệt mà không thiệt phá nhà phá quân
Đời lộn kiếp ăn nói bất tuân
Châu nhi phục thủy thị quân thị Thần
36
Quân tử ưu đạo bất ưu bần
Việc xa chưa thấy việc gần chưa hay
1545. Kể từ năm Mậu-ngũ thấy Tây
Bước qua Mậu-ngũ không Tây ai cầm
Muốn niệm Phật thì niệm âm thầm
Niệm lớn nhiều kẻ giận bầm lá gan
Thấy cuộc đời khó nỗi thở than
1550. Mười sầu phố ngói tiêu tan có ngày
Sao chẳng xét nước khổ mắc đày
Hết vinh tới nhục ăn mày sướng thân ( hơn)
Thế cây mục ai từng thoa sơn
Dắt dìu lên núi Thái-Sơn tầm thầy
1555. Trước ai tỏ sau lại ai bày
Thôi thôi đừng nhắc việc (chuyện ) thầy làm chi
Đội giạ bạc sắp sửa (lấp thửa) lời ghi
Bạc thời thay bạc bỏ đi cho rồi
Qua Gia-định mua mắm mấy hồi
1560.Đem về Long-Ấp người ngồi bán cân
Nghĩ có thân khi khổ với thân
Đời nầy buôn bán cầm cân tội nhiều
Qua mặt thế không sợ tội triều
Ăn chung tiền của tội nhiều minh mang
1565. Ngỗ nghịch hườn sanh ngỗ nghịch đang (đoan)
Bạo tàn tàn bạo dọc ngang nối dài
Thảo thuận hườn sanh thảo thuận hoài
Phụ từ tử hiếu lâu dài quốc gia
Phật sanh Phật ma lại sanh ma
1570. Hạ-ngươn tận thế Phật ma lộn cuồng.

Đa đồng bạc theo (Vui đồng bạc đi ) lạc lòng buồn (1957, 50)
Đá ngân phá luật thơ tuồng sạch trơn
Hữu cổ tích kim đắc tri ơn
Suy kim nghiệm cổ Thất-Sơn minh tình
1575. Muốn vui chi thong thả một mình
Muốn cho có đó hiệp tình có đây
Bỏ hung bạo giữ việc thảo ngay
Gian tham bớt bớt tà tây thời chừa
Nịnh với trung hiệp lại sao vừa
1580. Nông phu ẩn sĩ cày bừa náo nương
Đừng đem lòng thương hại hại thương
Đời nầy thương ghét oan ương hai lòng
Bồi mé biển lở kiểng đất đồng
1584. Lao xao buổi chợ chập chồng gian nan

____

CHÚ: chữ trong ngoặc đơn ghi ở trên là chữ trong bản 1964.


(1). Khi: khinh khi, tự cao, kiêu căng, khinh người.
(2).Tâm làu quán khách, giàu sang xưng hùng: giàu sang thì lui tới quán xá ăn uống chơi bời, và coi mình là bậc anh hùng.
(3). Huỳnh cờ thanh long: Truyện Phong thần, Thuyết Đường thường nói việc bày binh bố trận treo cờ vàng, cờ đỏ, cờ thanh long bạch hổ ý nói chiến tranh xảy ra.
(4).Bẫy vòng: cái bẫy và cái vòng dùng bắt loài vật. Cơ mưu lừa người, hại người.
(4b).dưỡng hổ di họa: nuôi hổ thì để tai họa cho ngày sau.
(5). Dạ bạo , tâm cường: dạ độc ác, lòng hung hãn.
(6). Chung thân hành thiện, thiện du bất túc, Nhứt nhựt hành ác, ác tự hữu dư. Nghĩa là: Trọn đời làm việc thiện, thiện vẫn không thấy đủ; trong khi đó một ngày làm ác, ác đã có dư.
(7).Quân phế quốc hầu tắc phế hầu: Vua bỏ nước thì các chư hầu, các công hâu cũng bỏ đất nước, bỏ địa vi.
(8).Bản 1964: nước giếng
(8b). Vận bất tề : bất tề là không bằng nhau. Vận bất tề là vận số không giống nhau.
(9). Ngái trái đùm sung cũng trái đùm: quả sung và ngái giống nhau. Trái vả cũng vậy. Ba loại này đều mọc thành chùm ( đùm) sum suê.
(10). Bản 1964 :nọc: nọc neo, thả neo xuống sông, xuống biển để giữ thuyền lại.
(11).Ngũ Long công chúa, Đào Lư: Tác giả mượn truyện Phong Thần các tiên ông, Tiên cô và đạo sĩ đấu tài để nói về chiến tranh thế giới.
(12). Bá Nha và Tử Kỳ là đôi bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc. Bá Nha làm quan, Tử Kỳ là tiều phu..
(13). Minh Tâm: sách Minh Tâm Bửu giám của Nho giáo. Nói rộng ra là sách dạy luân lý, đạo đức làm cho lòng người bỏ tối tìm sáng.
(14). Truyền tử bất truyền hiền: vua Nghiêu Thuấn truyền ngôi cho người hiền, không truyền cho con. Đời sau thì truyền cho con.
(15). Tác giả nhiều lần nhắc đến ông Bướm và ông Vôi. Tại núi Cấm (Châu Đốc ) có vồ ông Bướm và Vồ ông Vôi. Nguyên xưa hai ông Bướm và ông Vôi người Khmer đến ở nơi này. Cũng có tài liệu nói Vồ Ông Bướm tức là Vồ Ông Vôi, cũng có tài liệu ghi là Voi, có lẽ sai chính rtả hoặc nghe không rõ.
(16). Chém trong sống : không chém bằng lưỡi dao mà chém bằng sống dao. Chỉ đe dọa chứ không muốn giết. Dộng : đánh xuống, đánh vào
(17). Ma ha:tiếng Phạn nghĩa là to như Maha Ca chiên Diên, Maha Ca Diếp: Đại Ca Chiên Diên, Đại Ca DIẾp.Ma ha Bồ tát.
(18). Chi tử vu qui: Kinh Thi“thơ Đào yêu":đào chi yêu yêu chước chước kỳ hoa chi tử vu qui nghi kỳ thất gia ” 桃之夭夭 灼灼其花 之子于归 冝其室家 (Mơn mởn đào non/Rực rỡ nở hoa/Cô ấy lấy chồng/Êm ấm cửa nhà.)
(18b). Quan Vũ tức Quan công, anh em kết nghĩa với Lưu Bị, Trương Phi. Quan Bình là con trưởng Quan Hưng là con thứ hai của Quan Vũ.
(19).Thoàn (Thuyền) độ phu : người chèo đò
(20). Bản 1964: Nhớ Nam Bắc
(21). con ty: phải chăng là tơ, tơ là trẻ (bò tơ, gà mái tơ, trai tơ, gái tơ?)
(22). Con dòng: con thì dòng dây mà dắt đi; con cỡi: con thì chủ leo lên lưng mà cỡi.
(23) Bản 1964: trá tiều. Chữ ngọa triều của bản 1959 cũng không đúng vì chỉ có vua bệnh phải nằm thượng triều như Lê Long Đỉnh mới gọi là ngọa triều. .Phải chăng là " trá trêu" hay "trớ trêu"?
(24) . Bản 1964: Gia xuân Hạ chánh ngoạt tượng tranh
(25). Khủng cụ: sợ hãi. Tiếng sấm sét nổ to báo hiệu Phật Thầy tái sinh. Tác giả gọi Trần Văn Nhu là đức cậu, Nguyễn Văn Thành là đức Thầy, và Thầy Tây An là đức Ông.
(26).Tiêu đầu loạn ngạnh : u đầu bể trán
(27). Đương bồ: đan bồ. Bồ là dụng cụ đan bằng tre để đựng lúa gạo, sách v. v...
(27b). Long Châu : Long châu ở Châu Đốc, sau này là một địa danh quan trong quốc tế.
(28). Hán Chung Li (tiếng Trung: 漢鐘離 hay 汉钟离) họ Chung Li, tên Quyền (權/权), tự Tịch Đạo (寂道), hiệu Vân Phòng tử (云房子), tự xưng "Thiên hạ đô tản Hán Chung Li Quyền", là một trong số Bát Tiên của Đạo giáo. Nguyên mẫu là một vị đại tướng thời Đông Hán nên gọi là Hán Chung Li. Vị tiên này thường được coi là người đứng dầu bát tiên (một số người cho rằng Lã Động Tân là người đứng đầu không chính thức). Ông sử dụng một chiếc quạt có khả năng cải tử hoàn sinh.



No comments: