Monday, March 30, 2009

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đảng Cộng sản Việt Nam

http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng_C%E1%BB%99ng_s%E1%BA%A3n_Vi%E1%BB%87t_Nam


Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh
Thành lập
3 tháng 2, 1930
Trụ sở
quận Ba Đình, Hà Nội
Báo chính thức
Báo Nhân dân
Tổ chức thanh niên
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí MinhĐội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
Hệ tư tưởng/vị thế chính trị
Chủ nghĩa Marx-LeninTư tưởng Hồ Chí Minh
Trang web
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
Loạt bàiChính trị nước CHXHCN Việt Nam
Hiến pháp
Chủ tịch nước
Quốc hội
Chính phủ
Thủ tướng
Tòa án Nhân dân Tối cao
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao
Đảng Cộng sản
Tổng Bí thư
Bộ Chính trị
Ban Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương
sửa
Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) là đảng cầm quyền tại Việt Nam theo Hiến pháp, đồng thời cũng là đảng duy nhất được phép hoạt động. Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Marx-Lenin (Marxism-Leninism) và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Tại Việt Nam, trong các ngữ cảnh không chính thức, các phương tiện truyền thông, các nhà lãnh đạo, và đại bộ phận người dân [cần dẫn nguồn] thường dùng một từ "Đảng" (hoặc "Đảng ta") để nói về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mục lục[ẩn]
1 Vai trò
2 Cương lĩnh chính trị
3 Lịch sử
3.1 Hình thành và các hoạt động đầu tiên
3.2 Cầm quyền tại miền Bắc
3.3 Sau thống nhất
4 Tổ chức
5 Cơ cấu của Đảng hiện nay (Sơ đồ)
6 Các ban của Đảng
7 Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ở các cấp
8 Đơn vị sự nghiệp của Ban Chấp hành Trung ương
9 Tư tưởng
10 Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương
11 Các Tổng Bí thư (tương đương với Bí thư Thứ nhất trong giai đoạn 1960 - 1976)
12 Các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc
13 Xem thêm
14 Chú thích
15 Liên kết ngoài
//

[sửa] Vai trò
Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam (1992, sửa đổi) viết:
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

[sửa] Cương lĩnh chính trị
Bài chi tiết: Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam đã ba lần công bố cương lĩnh chính trị của mình. Lần thứ nhất tại Hội nghị lần thứ nhất của TW Đảng năm 1930. Bản Cương lĩnh năm 1930 tuyên bố Đảng sẽ tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân chủ tư sản, cách mạng ruộng đất. Lần thứ hai công bố cương lĩnh chính trị là tại Đại hội toàn quốc lần thứ II năm 1951 và lần thứ ba tại Đại hội VII của Đảng năm 1991. Bản Cương lĩnh 1991 tuyên bố Đảng sẽ lãnh đạo Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội và khẳng định các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng muốn xây dựng ở Việt Nam.

[sửa] Lịch sử

[sửa] Hình thành và các hoạt động đầu tiên
Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930[cần dẫn nguồn] đến ngày 7 tháng 2 năm 1930 tại Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông Dương Cộng sản ĐảngAn Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ một nhóm thứ ba tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại căn nhà của một công nhân ở bán đảo Cửu Long (Kowloon) từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình CửuNguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng (Nguyễn ThiệuChâu Văn Liêm) và 3 đại biểu ở nước ngoài (có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, đại biểu của Quốc tế Cộng sản). Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện quan trọng như: Chính cương vắn tắt, Sách lược, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi. Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp tại Hồng Kông tháng 10 năm đó, tên của đảng được đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) và Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên.
Vừa ra đời, Đảng đã lãnh đạo phong trào nổi dậy 1930-1931, nổi bật là Xô-viết Nghệ Tĩnh. Phong trào này bị thất bại và Đảng Cộng sản Đông Dương bị tổn thất nặng nề vì khủng bố trắng của Pháp.
Năm 1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I được bí mật tổ chức tại Ma Cao do Hà Huy Tập chủ trì nhằm củng cố lại tổ chức đảng, thông qua các điều lệ, bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá I gồm 13 ủy viên.
Đồng thời, một đại hội của Cộng sản Quốc tế thứ ba tại Moskva đã thông qua chính sách dùng mặt trận dân tộc chống phát xít và chỉ đạo những phong trào cộng sản trên thế giới hợp tác với những lực lượng chống phát xít bất kể đường lối của những lực lượng này có theo chủ nghĩa xã hội hay không để bảo vệ hòa bình chứ chưa đặt nhiệm vụ trước mắt là lật đổ chủ nghĩa tư bản. Việc này đòi hỏi Đảng Cộng sản Đông Dương phải xem các chính đảng dân tộc tại Đông Dương là đồng minh. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7-1936 do Lê Hồng Phong chủ trì tổ chức tại Hóc Môn, Sài Gòn, Đảng đã tạm bỏ khẩu hiệu "đánh đổ đế quốc Pháp" và "tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày" mà lập Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương.
Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương lại đàn áp mạnh tay, Đảng đã chuyển hướng, coi giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Tháng 11-1939 Hội nghị Trung ương đảng họp tại Hóc Môn, Sài Gòn do Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương và Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì họp tại Cao Bằng lập ra Mặt trận Việt Minh. Thông qua mặt trận này, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền tại Việt Nam, được biết đến với tên gọi Cách mạng tháng Tám.
Ngày 11 tháng 11 năm 1945 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán để giấu sự liên hệ cộng sản với nhà nước mới thành lập, lấy tên gọi mới là Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, mọi hoạt động công khai của đảng từ đây đều thông qua Mặt trận Việt Minh. Song trên thực tế, đảng vẫn hoạt động và chỉ đạo công cuộc kháng chiến.

[sửa] Cầm quyền tại miền Bắc
Đảng này được "lập lại", công khai (tại Việt Nam) với tên gọi Đảng Lao Động Việt Nam vào năm 1951, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II ở Tuyên Quang. Đại hội này được diễn ra trong lúc diễn ra Chiến tranh Đông Dương lần thứ I. Đại hội này cũng tách bộ phận của Lào và Campuchia (vốn cùng thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương) thành các bộ phận riêng.
Sau đại hội II, Đảng Cộng sản thực thi chiến dịch cải cách ruộng đất. Trong cuộc cải cách, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Tuy nhiên, cuộc cải cách đã đấu tố oan nhiều người, dẫn đến nhiều cái chết oan (số liệu cụ thể chưa được xác định). Đến tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (họp từ 25/8 đến 24/9/1956) nhận định các nguyên nhân đưa đến sai lầm, và thi hành biện pháp kỷ luật đối với Ban lãnh đạo chương trình Cải cách Ruộng đất như sau: ông Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư Đảng, hai ông Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị, và ông Hồ Viết Thắng bị loại ra khỏi Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III được tổ chức tại Hà Nội vào năm 1960 chính thức hóa công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó và đồng thời tiến hành cách mạng tại miền Nam.

[sửa] Sau thống nhất
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, được tổ chức vào năm 1976 sau khi chấm dứt Chiến tranh Việt Nam, tên đảng được đổi lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế Việt Nam càng trở nên khó khăn. Đại hội khởi xướng chính sách đổi mới, cải tổ bộ máy nhà nước, và chuyển đổi nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường, trong lúc vẫn giữ vị trí độc quyền.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X năm 2006 tiếp tục chính sách đổi mới, đồng thời cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân. Sau đại hội, một số báo chí nước ngoài đã đăng tin Đảng đang cân nhắc việc đổi tên, thành Đảng Nhân dân hay đổi lại thành Đảng Lao động.[1][2]

[sửa] Tổ chức
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng theo chủ nghĩa Marx-Lenin với nguyên tắc tập trung dân chủ. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc là cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng, là cơ quan duy nhất có quyền ban hành hoặc sửa đổi Điều lệ Đảng và cương lĩnh chính trị, thông qua báo cáo tổng kết nhiệm kỳ đã qua và thông qua nghị quyết về phương hướng hành động nhiệm kỳ tới, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất việc chấp hành nghị quyết của đại hội. [3]
Giữa 2 kỳ đại hội, Ban chấp hành trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất. Ban chấp hành trung ương do đại hội bầu ra tại đại hội Đảng toàn quốc và ban này họp 6 tháng 1 lần, họp bất thường khi cần. Ban chấp hành Trung ương bầu ra Bộ chính trị, bầu Tổng bí thư trong số ủy viên Bộ Chính trị và thành lập Ban Bí thư để xử lý công việc theo nhiệm vụ đã được quy định tại Điều lệ Đảng. Bộ chính trị họp 1 tháng 1 lần, họp bất thường khi cần, Ban bí thư làm việc hàng ngày, Tổng bí thư chủ trì cả Bộ chính trị và Ban bí thư. [3]
Đại hội Đảng được tổ chức thường kỳ 5 năm một lần để xác định đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đại hội bất thường khi cần. Đồng thời Đại hội Đảng bộ Quân đội cũng tổ chức 5 năm 1 lần bầu ra Đảng ủy Quân sự Trung ương, gồm có một số ủy viên do Bộ Chính trị phân công và các ủy viên trong quân đội để lãnh đạo đường lối quân sự của Đảng đề ra. [3]
Vào năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tăng từ 77 đến 133 ủy viên và Bộ Chính trị tăng từ 11 đến 17 ủy viên trong khi Ban Bí thư tăng từ 7 đến 9 ủy viên.
Đảng Cộng sản Việt Nam còn có hệ thống các ban, mỗi ban do một trưởng ban (ít nhất là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương) đứng đầu.
Số đảng viên tăng gấp hai từ 760.000 vào năm 1966 đến 1.553.500 vào năm 1976, đại diện 3,1% tổng dân số toàn quốc, và lên đến gần 2 triệu vào năm 1986.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tổ chức vào tháng 12 năm 1986, ông Nguyễn Văn Linh trở thành Tổng Bí thư cùng 14 thành viên được bầu vào Bộ Chính trị và Ủy ban Trung ương được mở rộng đến 173 thành viên.
Đại hội lần thứ IX diễn ra vào tháng 4 năm 2001 với 1168 đại biểu tham dự. Ban Chấp hành Trung ương Đảng với 150 thành viên do Đại hội Đảng bầu ra, họp ít nhất mỗi năm hai lần, với Bộ Chính trị họp nhiều lần hơn và Ban Bí thư có trách nhiệm giám sát hoạt động hằng ngày dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, ông Nông Đức Mạnh trở thành Tổng Bí thư mới.
Kết thúc nhiệm kỳ này, toàn Đảng có gần 3,1 triệu đảng viên, chiếm 3,73% dân số cả nước.
Đại hội lần thứ X diễn ra từ 18 đến 25 tháng 4 năm 2006 với 1.176 đại biểu tham dự, sau khi bốn đại biểu (trong đó có một bộ trưởng đã từ chức, một thứ trưởng bị bắt tạm giam) đã được rút từ danh sách ban đầu. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương với 160 thành viên, với Bộ Chính trị gồm 14 thành viên. Ông Nông Đức Mạnh được bầu lại chức Tổng Bí thư.

[sửa] Cơ cấu của Đảng hiện nay (Sơ đồ)
Sơ đồ : [1]

[sửa] Các ban của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay có các ban sau đây mà chức năng chủ yếu là tham mưu về chủ trương, chính sách lớn thuộc lĩnh vực được giao cho Ban Chấp hành Trung ương:
Ban Tổ chức Trung ương là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực tổ chức cán bộ của hệ thống chính trị; đồng thời là cơ quan chuyên môn nghiệp vụ về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên của Trung ương. Ban này quan trọng nhất nên đứng đầu là một ủy viên Bộ Chính trị.
Ban Đối ngoại Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương, chính sách lớn thuộc lĩnh vực đối ngoại, đồng thời là cơ quan tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của Đảng.
Ban Bảo vệ Chính trị nội bộ là cơ quan tham mưu về lĩnh vực bảo vệ chính trị nội bộ, đồng thời là cơ quan nghiệp vụ về bảo vệ chính trị nội bộ.
Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Ban này hình thành trên cơ sở hợp nhất Ban Tuyên huấn Trung ương và Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương tồn tại trước đó. Tuy nhiên hiện nay ở cấp thấp hơn (cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) thì lại có tên là Ban Tuyên giáo.
Ban Nội chính Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực nội chính.
Ban Kinh tế Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực kinh tế-xã hội.
Ban Khoa giáo Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực khoa giáo (bao gồm khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, sức khỏe, giới trí thức).
Ban Dân vận Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương, chính sách và giải pháp lớn về công tác dân vận.
Ban Tài chính Quản trị Trung ương là cơ quan quản lý tài chính của Đảng cũng các đơn vị kinh tế trực thuộc.
Ban Cán sự Đảng ngoài nước phụ trách công tác Đảng đối với các tổ chức Đảng và đảng viên ở ngoài nước.
Theo QĐ45-QĐ/TW của Bộ Chính trị, hợp nhất các ban của đảng như sau (từ tháng 4/2007):
Ban Kinh tế Trung ương + Ban Nội chính Trung ương + Ban Tài chính Quản trị Trung ương + Văn phòng Trung ương Đảng = Văn phòng Trung ương Đảng
Ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ Trung ương + Ban Tổ chức Trung ương Đảng = Ban Tổ chức Trung ương
Ban Khoa giáo Trung ương + Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương = Ban Tuyên giáo Trung ương.

[sửa] Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ở các cấp
Ngoài các ban còn có Ủy ban Kiểm tra Trung ương chuyên xem xét tư cách đạo đức các đảng viên là cán bộ cao cấp, các vụ việc tiêu cực liên quan đến các đảng viên cao cấp.
Điều 32 Điều lệ Đảng quy định nhiệm vụ của Uỷ ban kiểm tra các cấp như sau:
Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng.
Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật.
Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về kỷ luật Đảng.
Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp.
Uỷ ban kiểm tra có quyền yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên báo cáo, cung cấp tài liệu về những vấn đề liên quan đến nội dung kiểm tra.

[sửa] Đơn vị sự nghiệp của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện có ba cơ quan báo chí, xuất bản, về mặt tổ chức, các cơ quan này tương đương với ban:
Báo Nhân dân là cơ quan ngôn luận trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức phát hành các loại ấn phẩm sau: Nhân dân hàng ngày, Nhân dân cuối tuần, Nhân dân hàng tháng, Nhân dân điện tử tiếng Việt và tiếng Anh.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật là cơ quan xuất bản chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài nhiệm vụ xuất bản các ấn phẩm chính trị, cơ quan này còn tham gia nghiên cứu các vấn đề lý luận chính trị, khoa học xã hội.
Tạp chí Cộng sản là cơ quan lý luận và chính trị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam, ấn phẩm là Tạp chí Cộng sản và Tạp chí Cộng sản điện tử.

[sửa] Tư tưởng
Tuy chính thức là một đảng Marx-Lenin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cải tổ đường lối theo kinh tế thị trường và tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh. Hiện nay, đảng vẫn là đảng cầm quyền duy nhất tại Việt Nam.

[sửa] Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương
Chức Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng, tồn tại từ năm 1951 đến 1969, chỉ duy nhất do Hồ Chí Minh nắm giữ, được coi là cao hơn Tổng Bí thư.

[sửa] Các Tổng Bí thư (tương đương với Bí thư Thứ nhất trong giai đoạn 1960 - 1976)
Họ tên
Thời gian giữ chức
Ghi chú
Trần Phú
10/1930-4/1931
Lê Hồng Phong
3/1935đến 6/1936
Chỉ được công nhận gần đây, quãng từ năm 2000 trở đi
Hà Huy Tập
7/1936 đến 3/1938
Chỉ được công nhận gần đây, quãng từ năm 2000 trở đi
Nguyễn Văn Cừ
3/1938 đến 1/1940
Trường Chinh
5/1941 đến 9/1956
Quyền Tổng Bí thư từ tháng 11/1940
Thôi giữ chức sau Hội nghị Trung ương về vấn đề sửa sai cải cách ruộng đất
Lê Duẩn
9/1960 đến 7/1986
9/1960-12/1976: Bí thư Thứ nhất12/1976-7/1986: Tổng Bí thư (đến lúc mất)
Trường Chinh
7/1986 đến 12/1986
Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh
12/1986 đến 6/1991
Tổng Bí thư
Đỗ Mười
6/1991 đến 12/1997
Tổng Bí thư
Lê Khả Phiêu
12/1997 đến 4/2001
Tổng Bí thư
Nông Đức Mạnh
4/2001 đến nay (29/03/2009)
Tổng Bí thư

[sửa] Các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc
Đại hội Đại biểu toàn quốc
Thời gian
Địa điểm
Số đại biểu
Số đảng viên
Sự kiện
Lần thứ nhất
27 - 31/ 3/1935
Ma Cao (Trung Quốc)
13
600
Lần thứ hai
11 - 19/02/1951
Tuyên Quang
158 (53 dự khuyết)
766.349
Khởi xướng Cải cách ruộng đất
Lần thứ ba
05 - 12/ 9/1960
Hà Nội
525 (51 dự khuyết)
500.000
Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành cách mạng miền Nam
Lần thứ tư
14 - 20/12/1976
Hà Nội
1008
1.550.000
Đại hội đầu tiên sau thống nhất
Lần thứ năm
27 - 31/ 3/1982
Hà Nội
1033
1.727.000
Lần thứ sáu
15 - 18/12/1986
Hà Nội
1129
~1.900.000
Khởi xướng chính sách đổi mới
Lần thứ bảy
24 - 27/ 6/1991
Hà Nội
1176
2.155.022
Lần thứ tám
28 - 01/ 7/1996
Hà Nội
1198
2.130.000
Lần thứ chín
19 - 22/ 4/2001
Hà Nội
1168
2.479.719
Lần thứ mười
18 - 25/ 4/2006
Hà Nội
1176
~3.100.000

[sửa] Xem thêm
Danh sách các đảng phái chính trị của Việt Nam

[sửa] Chú thích
^ Roger Mitton, “Name change as Viet party rebrands itself?”, The Straits Times, 19 tháng 10 năm 2007. Truy cập 6 tháng 12 năm 2007.
^Đảng 'nghĩ việc đổi tên'?”, BBC Tiếng Việt, 21 tháng 10 năm 2007. Truy cập 6 tháng 12 năm 2007.
^ a b c Điều lệ Đảng Cộng Sản Việt Nam

[sửa] Liên kết ngoài
Website chính thức của ĐCSVN
Báo Nhân Dân: cơ quan trung ương của ĐCSVN
Chuyên trang lịch sử ĐCSVN trên VOV
Lịch sử Đảng-Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và cương lĩnh đầu tiên của Đảng
Tạp chí Cộng sản
Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng_C%E1%BB%99ng_s%E1%BA%A3n_Vi%E1%BB%87t_Nam
Thể loại: Đảng Cộng sản Việt Nam Tổ chức chính trị Việt Nam Đảng cầm quyền Đảng cộng sản Đảng độc quyền Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Chính trị Việt Nam
Xem
Bài viết
Thảo luận
Sửa đổi
Lịch sử
Công cụ cá nhân
Đăng nhập / Mở tài khoản

if (window.isMSIE55) fixalpha();
Xem nhanh
Trang Chính
Cộng đồng
Thời sự
Thay đổi gần đây
Bài viết ngẫu nhiên
Trợ giúp
Quyên góp
Tìm kiếm

Gõ tiếng Việt
Tự động [F9] Telex (?) VNI (?) VIQR (?) VIQR* Tắt [F12]
Bỏ dấu kiểu cũ [F7] Đúng chính tả [F8]
Công cụ
Các liên kết đến đây
Thay đổi liên quan
Các trang đặc biệt
Bản để in ra
Liên kết thường trực
Chú thích trang này
Ngôn ngữ khác
Deutsch
English
Español
فارسی
Français
Galego
Italiano
日本語
Polski
Svenska
ไทย
Türkçe
中文


Sửa đổi lần cuối lúc 12:10, ngày 20 tháng 3 năm 2009.
Tất cả nội dung được phép sử dụng theo Giấy phép Tài liệu Tự do GNU (xem Quyền tác giả để biết thêm chi tiết).Wikipedia® là nhãn hiệu đăng ký bởi Tổ chức Quỹ Hỗ trợ Wikimedia.
Chính sách về sự

No comments: