Sunday, March 29, 2009

HOÀNG CẦM *WIKIPEDIA

http://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng_C%E1%BA%A7m_(t%C6%B0%E1%BB%9Bng)
Hoàng Cầm (tướng)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Bài này viết về thượng tướng Hoàng Cầm, các nghĩa khác xem tại Hoàng Cầm (định hướng)

Thượng tướng Hoàng CầmHoàng Cầm (tên thật Đỗ Văn Cầm; sinh năm 1920) là một tướng lĩnh quân sự cao cấp của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tham gia các cuộc Chiến tranh chống thực dân Pháp (1945-1954), Chiến tranh chống Mỹ (1954-1975) và Chiến tranh biên giới Tây Nam. Ông được phong hàm thượng tướng năm 1987, được thưởng nhiều huân huy chương của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Mục lục [ẩn]
1 Thưở thiếu thời cho đến Cách mạng Tháng Tám
2 Chiến tranh chống thực dân Pháp (1945-1954)
3 Chiến tranh Việt Nam (1954-1975)
4 Chiến tranh biên giới Tây Nam
5 Những năm hòa bình
6 Chú thích



[sửa] Thưở thiếu thời cho đến Cách mạng Tháng Tám
Ông sinh ngày 30 tháng 4 năm 1920 trong một gia đình nông dân nghèo, quê Cao Sơn, Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm 12 tuổi, sau đó phải lưu lạc để kiếm sống từ quê nhà lên Hà Nội. Năm 21 tuổi, ông đi lính khố xanh cho chính quyền thuộc địa Pháp[1] để kiếm sống và tham gia quân đồn trú ở Lai Châu. Sau 2 năm thì được chuyển về Hà Nội và ông đào ngũ, nhờ đó thoát nạn trong vụ đảo chính của Nhật vào ngày 9 tháng 3 năm 1945.


[sửa] Chiến tranh chống thực dân Pháp (1945-1954)
Được sự vận động của cán bộ Việt Minh, tháng 7 năm 1945 ông tham gia Đoàn Thanh niên Cứu quốc Hà Nội. Khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia Cứu quốc quân Hà Nội và lấy tên mới là Hoàng Cầm theo phong trào đổi tên mới để bước vào cuộc đời mới bấy giờ. Theo bài trả lời phỏng vấn của nhà báo Phan Hoàng (tạp chí Kiến thức ngày nay) thì do không đi học và mù chữ, ông chỉ dự định "tham gia quân đội một thời gian rồi quay về quê kiếm vốn buôn bán làm ăn".

Từ năm 1946 đến năm 1949, ông làm cán bộ chỉ huy từ cấp tiểu đội đến đại đội ở Trung đoàn 148, tham gia mặt trận Sơn La. Theo phong trào xóa mù chữ và yêu cầu bắt buộc đối với cấp chỉ huy, ông bắt đầu tham gia lớp học bình dân học vụ. Năm 1947, ông bị thương trong một trận đánh ở Đà Bắc và kể từ đó ông viết bằng tay trái.

Năm 1949, ông được điều về Trung đoàn 209 (còn có tên Trung đoàn Sông Lô, một trong những trung đoàn Chủ lực đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam), làm tiểu đoàn phó, rồi tiểu đoàn trưởng, tham gia trận đánh Đông Khê trong Chiến dịch Biên giới 1950. Trong trận Điện Biên Phủ, ông là trung đoàn trưởng Trung đoàn, chỉ huy đánh chiếm sở chỉ huy cứ điểm Điện Biên Phủ.


[sửa] Chiến tranh Việt Nam (1954-1975)
Sau trận Điện Biên Phủ, ông được đề bạt giữ chức Đại đoàn phó kiêm tham mưu trưởng Đại đoàn 312. Cuối năm 1954, ông được cử giữ chức Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy thay cho ông Lê Trọng Tấn và Trần Độ. Sau 1954, Đại đoàn được cải tổ phiên chế thành Sư đoàn 312 và ông trở thành Sư đoàn trưởng. Năm 1960, ông được phong hàm Đại tá.

Năm 1964, ông được cử vào Nam, nhận chức vụ Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9, sư đoàn chủ lực của Quân Giải phóng. Sau đó, ông được cử giữ chức Phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng Quân Giải phóng, dưới quyền Trung tướng Tư lệnh Trần Văn Trà. Ngày 20 tháng 7 năm 1974, Quân đoàn 4 (còn gọi là Binh đoàn Cửu Long) được thành lập trên cơ sở của Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9, ông được cử kiêm chức Tư lệnh Quân đoàn mới thành lập.


[sửa] Chiến tranh biên giới Tây Nam
Sau khi Ủy ban quân quản Sài Gòn được thành lập, ông được cử làm Phó chủ tịch ủy ban quân quản. Năm 1978, xung đột biên giới Tây Nam nổ ra, ông được cử làm chỉ huy lực lượng quân đoàn 4 tấn công vào hoàng cung Campuchia.


[sửa] Những năm hòa bình
Ông là Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 4 (1982-1986), Tổng thanh tra quân đội (1987-1992), hàm Thượng tướng. Ông được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng nhiều huân chương cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, 4 Huân chương Quân công và nhiều huân, huy chương khác.

Ông đượng phong hàm Thiếu tướng năm 1974, Trung tướng năm 1982, Thượng tướng năm 1987.

Ông lập gia đình với bà Thành Kiều Vượng năm 1955 và có với nhau 5 người con.


[sửa] Chú thích
^ Đây không phải trường hợp cá biệt. Đại tướng Lê Trọng Tấn cũng từng đi lính khố đỏ và đến năm 1945 mới vào Đảng cộng sản, Trung tướng Nguyễn Bình vốn là người của Việt Nam Quốc dân Đảng, năm 1946 mới vào Đảng cộng sản.

No comments: