Đồng Sĩ Nguyên
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Đồng Sĩ Nguyên (tên thật: Nguyễn Sĩ Đồng; còn được gọi Nguyễn Hữu Vũ; sinh năm 1923) là một Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, phó Thủ tướng chính phủ, trung tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Quốc phòng, nguyên Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam, bộ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam. Ông được Hồ Chí Minh đặt lại tên là Đồng Sĩ Nguyên. Ông là vị tư lệnh của Binh đoàn Trường Sơn trong thời gian lâu nhất (1967–1975) và là một trong hai vị tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam được phong quân hàm vượt cấp từ đại tá lên trung tướng.
Mục lục [ẩn]
1 Xuất thân và bước đầu tham gia cách mạng
2 Tham gia quân đội
3 Chuyển sang ngạch dân sự
4 Gắn bó với đường Trường Sơn
5 Liên kết ngoài
[sửa] Xuất thân và bước đầu tham gia cách mạng
Ông sinh ngày 1 tháng 3 năm 1923, tại xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình, xuất thân trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ, ông được học cả Quốc ngữ lẫn chữ Hán. Lên đến bậc trung học, ông học tại trường Saint Marie ở thị xã Đồng Hới, và bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Vì vậy, khi đang học năm thứ 3 bậc Thành chung, ông bị thực dân Pháp truy nã và phải đào thoát sang Thái Lan, hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước. Gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1939.
Năm 1944, ông bí mật trở về Việt Nam hoạt động, phụ trách phủ ủy Quảng Trạch, làm chủ nhiệm báo Hồng Lạc và xây dựng chiến khu Trung Thuần, huấn luyện quân sự, tham gia Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng tháng 8, ông được bầu làm Chủ nhiệm Việt Minh, kiêm chỉ huy trưởng bộ đội Quảng Bình, và là đại biểu Quốc hội khóa 1.
[sửa] Tham gia quân đội
Chiến tranh Đông Dương nổ ra, ông được phân công làm Chính trị viên kiêm tỉnh đội trưởng Quảng Bình. Năm 1950, ông được điều về Việt Bắc học lớp trung cao quân sự, sau đó được điều về Tổng Cục Chính trị làm phái viên, biệt phái tham gia Bộ tư lệnh cánh phối hợp Trung Hạ Lào trong chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954.
Sau năm 1954, ông được điều về Bộ Tổng tham mưu, phụ trách Cục Động viên dân quân. Năm 1959, ông được phong quân hàm đại tá. Năm 1961, ông được cử sang Trung Quốc học trường Cao cấp Quân sự Bắc Kinh. Năm 1964, ông về nước và được đề bạt giữ chức vụ Tổng tham mưu phó một thời gian ngắn, sau đó được điều về làm Chính ủy Quân khu 4 năm 1965, sau đó là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình quyện Việt Nam tại Trung - Hạ Lào.
Cuối năm 1965, ông bị thương, phải về Hà Nội điều trị. Đầu năm 1966, ông được cử giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, kiêm Chủ nhiệm Hậu cần tiền phương, dưới quyền ông Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục. Đầu năm 1967, ông được điều làm Tư lệnh Đoàn 559, thay Đại tá Hoàng Văn Thái. Ông giữ chức vụ này đến năm 1976. Năm 1974, ông được phong vượt cấp từ đại tá lên trung tướng.
Năm 1976, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Quốc phòng, phụ trách Tổng cục Xây dựng kinh tế, rồi Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải. Năm 1979, ông được điều trở lại quân đội, giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Thủ đô. Ông là Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV.
[sửa] Chuyển sang ngạch dân sự
Từ năm 1982, ông là Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị khóa V, Ủy viên chính thức Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI (1986-1991), Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó thủ tướng chính phủ), kiêm Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
Sau khi thôi chức Bộ trưởng, ông được giao nhiệm vụ Đặc phái viên Chính phủ, đặc trách Chương trình 327 về bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, rồi là Cố vấn đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ, tham gia Ban Chỉ đạo Nhà nước về Quốc lộ Hồ Chí Minh (Quốc lộ Trường Sơn).
Ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, và có với nhau 4 con trai và 2 con gái.
[sửa] Gắn bó với đường Trường Sơn
Cùng với các tướng Đinh Đức Thiện, Phan Trọng Tuệ, Đồng Sĩ Nguyên là một trong những người có vai trò quan trọng trong việc xây dựng Đường mòn Hồ Chí Minh trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, đưa con đường vận tải chiến lược này thành một trong những mấu chốt thành bại trong chiến tranh.
Trong thời gian ông làm Tư lệnh Đoàn 559, tuyến giao thông chiến lược Trường Sơn từ một con đường mòn nhỏ, trở thành một tuyến giao thông vận tải lớn với cả hệ thống đường được giới truyền thông mệnh danh là "trận đồ bát quái xuyên rừng rậm". Tầm quan trọng của con đường chiến này thể hiện rõ nhất với quân số lúc cao điểm hơn 12 vạn binh sĩ, trong đó có hơn 1 vạn là lực lượng Thanh niên xung phong, phiên chế thành 8 sư đoàn và một sư đoàn cao xạ tên lửa phối thuộc. Hệ thống đường chiến lược này khi ông vào tiếp nhận đã có 5 tiểu đoàn xe với 750 xe, chia thành 4 binh trạm; đến năm 1975 đã phát triển thành 2 sư đoàn vận tải với 10.000 xe. Đường Trường Sơn không còn những con đường đơn lẻ, mà phát triển thành một hệ thống đường vận tải phức tạp với hơn 16.700 km đường bộ, trong đó có hơn 800 km đường kín, 1.500 km đường rải đá, 200 km đường nhựa. Bên cạnh đó còn có 1.500 km đường ống dẫn xăng dầu, 1.350 km đường dây cáp thông tin, 3.800 km đường giao liên, 500 km đường sông.
Hệ thống đường Trường Sơn không đơn thuần là tuyến đường giao thông, mà thực sự là chiến trường khốc liệt giữa nỗ lực của chính phủ miền Bắc chi viện cho những người cộng sản miền Nam và lực lượng quân Mỹ và đồng minh. Quân đội Mỹ và đồng minh đã tìm mọi cách từ thô sơ đến hiện đại nhất để nhằm mục đích cắt đứt con đường vận tải chiến lược này. Các khí tài từ những khí tài điện tử lập thành "Hàng rào điện tử MacNamara", cây nhiệt đới, pháo đài bay B-52, vũ khí thời tiết, hóa học... đến các cuộc hành quân càn quét lớn đến biệt kích phá hoại đều được quân đội Mỹ sử dụng. Kết quả là phía Việt Nam có gần 2 vạn người chết ngay trên tuyến đường và 3 vạn người thương tật vĩnh viễn. Nhưng tuyến đường vẫn hoạt động.
Vào thời bình, nhu cầu của một con đường Trường Sơn mới, trục xương sống của Việt Nam được đặt ra. Và trong quá trình xây dựng Đường Hồ Chí Minh hay Đường Trường Sơn, Đồng Sĩ Nguyên được Thủ tướng Võ Văn Kiệt xem là người thích hợp nhất để giao nhiệm vụ đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xây dựng tuyến đường này.
[sửa] Liên kết ngoài
Tiểu sử trên BKTT VN
[hiện]x • t • sỦy viên Bộ Chính trị khóa V
Lê Duẩn • Trường Chinh • Phạm Văn Đồng • Phạm Hùng • Lê Đức Thọ • Văn Tiến Dũng • Võ Chí Công • Chu Huy Mân • Tố Hữu • Võ Văn Kiệt • Đỗ Mười • Lê Đức Anh • Nguyễn Đức Tâm • Nguyễn Văn Linh
Ủy viên dự khuyết: Nguyễn Cơ Thạch • Đồng Sĩ Nguyên
--------------------------------------------------------------------------------
Bộ Chính trị: Danh sách đầy đủ | Khóa I | Khóa II | Khóa III | Khóa IV | Khóa V | Khóa VI | Khóa VII | Khóa VIII | Khóa IX | Khóa X | Tổng bí thư
[hiện]x • t • sỦy viên Bộ Chính trị khóa VI
Nguyễn Văn Linh • Võ Chí Công • Phạm Hùng • Đỗ Mười • Võ Văn Kiệt • Nguyễn Đức Tâm • Nguyễn Cơ Thạch • Lê Đức Anh • Đồng Sĩ Nguyên • Trần Xuân Bách • Nguyễn Thanh Bình • Mai Chí Thọ • Đào Duy Tùng
--------------------------------------------------------------------------------
Bộ Chính trị: Danh sách đầy đủ | Khóa I | Khóa II | Khóa III | Khóa IV | Khóa V | Khóa VI | Khóa VII | Khóa VIII | Khóa IX | Khóa X | Tổng bí thư
Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng_S%C4%A9_Nguy%C3%AAn”
Thể loại: Người Quảng Bình | Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam | Phó Thủ tướng Việt Nam | Trung tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam | Đại biểu Quốc hội Việt Nam | Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam | Tổng cục Hậu cần, Bộ Quốc phòng Việt Nam | Huân chương Sao Vàng | Bộ trưởng Bộ Xây dựng Việt Nam | Sinh 1923XemBài viết Thảo luận Sửa đổi Lịch sử Công cụ cá nhânĐăng nhập / Mở tài khoản Xem nhanh
Trang Chính
Cộng đồng
Thời sự
Thay đổi gần đây
Bài viết ngẫu nhiên
Trợ giúp
Quyên góp
Tìm kiếm
Gõ tiếng Việt
Tự động [F9]
Telex (?)
VNI (?)
VIQR (?)
VIQR*
Tắt [F12]
--------------------------------------------------------------------------------
Bỏ dấu kiểu cũ [F7]
Đúng chính tả [F8]Công cụ
Sửa đổi lần cuối lúc 10:30, ngày 11 tháng 2 năm 2009. Tất cả nội dung được phép sử dụng theo Giấy phép Tài liệu Tự do GNU (xem Quyền tác giả để biết thêm chi tiết).
Wikipedia® là nhãn hiệu đăng ký bởi Tổ chức Quỹ Hỗ trợ Wikimedia.
Chính sách về sự riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận
=
Đồng Sĩ Nguyên
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Đồng Sĩ Nguyên (tên thật: Nguyễn Sĩ Đồng; còn được gọi Nguyễn Hữu Vũ; sinh năm 1923) là một Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, phó Thủ tướng chính phủ, trung tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Quốc phòng, nguyên Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam, bộ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam. Ông được Hồ Chí Minh đặt lại tên là Đồng Sĩ Nguyên. Ông là vị tư lệnh của Binh đoàn Trường Sơn trong thời gian lâu nhất (1967–1975) và là một trong hai vị tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam được phong quân hàm vượt cấp từ đại tá lên trung tướng.
Mục lục [ẩn]
1 Xuất thân và bước đầu tham gia cách mạng
2 Tham gia quân đội
3 Chuyển sang ngạch dân sự
4 Gắn bó với đường Trường Sơn
5 Liên kết ngoài
[sửa] Xuất thân và bước đầu tham gia cách mạng
Ông sinh ngày 1 tháng 3 năm 1923, tại xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình, xuất thân trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ, ông được học cả Quốc ngữ lẫn chữ Hán. Lên đến bậc trung học, ông học tại trường Saint Marie ở thị xã Đồng Hới, và bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Vì vậy, khi đang học năm thứ 3 bậc Thành chung, ông bị thực dân Pháp truy nã và phải đào thoát sang Thái Lan, hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước. Gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1939.
Năm 1944, ông bí mật trở về Việt Nam hoạt động, phụ trách phủ ủy Quảng Trạch, làm chủ nhiệm báo Hồng Lạc và xây dựng chiến khu Trung Thuần, huấn luyện quân sự, tham gia Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng tháng 8, ông được bầu làm Chủ nhiệm Việt Minh, kiêm chỉ huy trưởng bộ đội Quảng Bình, và là đại biểu Quốc hội khóa 1.
[sửa] Tham gia quân đội
Chiến tranh Đông Dương nổ ra, ông được phân công làm Chính trị viên kiêm tỉnh đội trưởng Quảng Bình. Năm 1950, ông được điều về Việt Bắc học lớp trung cao quân sự, sau đó được điều về Tổng Cục Chính trị làm phái viên, biệt phái tham gia Bộ tư lệnh cánh phối hợp Trung Hạ Lào trong chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954.
Sau năm 1954, ông được điều về Bộ Tổng tham mưu, phụ trách Cục Động viên dân quân. Năm 1959, ông được phong quân hàm đại tá. Năm 1961, ông được cử sang Trung Quốc học trường Cao cấp Quân sự Bắc Kinh. Năm 1964, ông về nước và được đề bạt giữ chức vụ Tổng tham mưu phó một thời gian ngắn, sau đó được điều về làm Chính ủy Quân khu 4 năm 1965, sau đó là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình quyện Việt Nam tại Trung - Hạ Lào.
Cuối năm 1965, ông bị thương, phải về Hà Nội điều trị. Đầu năm 1966, ông được cử giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, kiêm Chủ nhiệm Hậu cần tiền phương, dưới quyền ông Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục. Đầu năm 1967, ông được điều làm Tư lệnh Đoàn 559, thay Đại tá Hoàng Văn Thái. Ông giữ chức vụ này đến năm 1976. Năm 1974, ông được phong vượt cấp từ đại tá lên trung tướng.
Năm 1976, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Quốc phòng, phụ trách Tổng cục Xây dựng kinh tế, rồi Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải. Năm 1979, ông được điều trở lại quân đội, giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Thủ đô. Ông là Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV.
[sửa] Chuyển sang ngạch dân sự
Từ năm 1982, ông là Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị khóa V, Ủy viên chính thức Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI (1986-1991), Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó thủ tướng chính phủ), kiêm Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
Sau khi thôi chức Bộ trưởng, ông được giao nhiệm vụ Đặc phái viên Chính phủ, đặc trách Chương trình 327 về bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, rồi là Cố vấn đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ, tham gia Ban Chỉ đạo Nhà nước về Quốc lộ Hồ Chí Minh (Quốc lộ Trường Sơn).
Ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, và có với nhau 4 con trai và 2 con gái.
[sửa] Gắn bó với đường Trường Sơn
Cùng với các tướng Đinh Đức Thiện, Phan Trọng Tuệ, Đồng Sĩ Nguyên là một trong những người có vai trò quan trọng trong việc xây dựng Đường mòn Hồ Chí Minh trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, đưa con đường vận tải chiến lược này thành một trong những mấu chốt thành bại trong chiến tranh.
Trong thời gian ông làm Tư lệnh Đoàn 559, tuyến giao thông chiến lược Trường Sơn từ một con đường mòn nhỏ, trở thành một tuyến giao thông vận tải lớn với cả hệ thống đường được giới truyền thông mệnh danh là "trận đồ bát quái xuyên rừng rậm". Tầm quan trọng của con đường chiến này thể hiện rõ nhất với quân số lúc cao điểm hơn 12 vạn binh sĩ, trong đó có hơn 1 vạn là lực lượng Thanh niên xung phong, phiên chế thành 8 sư đoàn và một sư đoàn cao xạ tên lửa phối thuộc. Hệ thống đường chiến lược này khi ông vào tiếp nhận đã có 5 tiểu đoàn xe với 750 xe, chia thành 4 binh trạm; đến năm 1975 đã phát triển thành 2 sư đoàn vận tải với 10.000 xe. Đường Trường Sơn không còn những con đường đơn lẻ, mà phát triển thành một hệ thống đường vận tải phức tạp với hơn 16.700 km đường bộ, trong đó có hơn 800 km đường kín, 1.500 km đường rải đá, 200 km đường nhựa. Bên cạnh đó còn có 1.500 km đường ống dẫn xăng dầu, 1.350 km đường dây cáp thông tin, 3.800 km đường giao liên, 500 km đường sông.
Hệ thống đường Trường Sơn không đơn thuần là tuyến đường giao thông, mà thực sự là chiến trường khốc liệt giữa nỗ lực của chính phủ miền Bắc chi viện cho những người cộng sản miền Nam và lực lượng quân Mỹ và đồng minh. Quân đội Mỹ và đồng minh đã tìm mọi cách từ thô sơ đến hiện đại nhất để nhằm mục đích cắt đứt con đường vận tải chiến lược này. Các khí tài từ những khí tài điện tử lập thành "Hàng rào điện tử MacNamara", cây nhiệt đới, pháo đài bay B-52, vũ khí thời tiết, hóa học... đến các cuộc hành quân càn quét lớn đến biệt kích phá hoại đều được quân đội Mỹ sử dụng. Kết quả là phía Việt Nam có gần 2 vạn người chết ngay trên tuyến đường và 3 vạn người thương tật vĩnh viễn. Nhưng tuyến đường vẫn hoạt động.
Vào thời bình, nhu cầu của một con đường Trường Sơn mới, trục xương sống của Việt Nam được đặt ra. Và trong quá trình xây dựng Đường Hồ Chí Minh hay Đường Trường Sơn, Đồng Sĩ Nguyên được Thủ tướng Võ Văn Kiệt xem là người thích hợp nhất để giao nhiệm vụ đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xây dựng tuyến đường này.
[sửa] Liên kết ngoài
Tiểu sử trên BKTT VN
[hiện]x • t • sỦy viên Bộ Chính trị khóa V
Lê Duẩn • Trường Chinh • Phạm Văn Đồng • Phạm Hùng • Lê Đức Thọ • Văn Tiến Dũng • Võ Chí Công • Chu Huy Mân • Tố Hữu • Võ Văn Kiệt • Đỗ Mười • Lê Đức Anh • Nguyễn Đức Tâm • Nguyễn Văn Linh
Ủy viên dự khuyết: Nguyễn Cơ Thạch • Đồng Sĩ Nguyên
--------------------------------------------------------------------------------
Bộ Chính trị: Danh sách đầy đủ | Khóa I | Khóa II | Khóa III | Khóa IV | Khóa V | Khóa VI | Khóa VII | Khóa VIII | Khóa IX | Khóa X | Tổng bí thư
[hiện]x • t • sỦy viên Bộ Chính trị khóa VI
Nguyễn Văn Linh • Võ Chí Công • Phạm Hùng • Đỗ Mười • Võ Văn Kiệt • Nguyễn Đức Tâm • Nguyễn Cơ Thạch • Lê Đức Anh • Đồng Sĩ Nguyên • Trần Xuân Bách • Nguyễn Thanh Bình • Mai Chí Thọ • Đào Duy Tùng
--------------------------------------------------------------------------------
Bộ Chính trị: Danh sách đầy đủ | Khóa I | Khóa II | Khóa III | Khóa IV | Khóa V | Khóa VI | Khóa VII | Khóa VIII | Khóa IX | Khóa X | Tổng bí thư
Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng_S%C4%A9_Nguy%C3%AAn”
Thể loại: Người Quảng Bình | Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam | Phó Thủ tướng Việt Nam | Trung tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam | Đại biểu Quốc hội Việt Nam | Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam | Tổng cục Hậu cần, Bộ Quốc phòng Việt Nam | Huân chương Sao Vàng | Bộ trưởng Bộ Xây dựng Việt Nam | Sinh 1923XemBài viết Thảo luận Sửa đổi Lịch sử Công cụ cá nhânĐăng nhập / Mở tài khoản Xem nhanh
cụ
Sửa đổi lần cuối lúc 10:30, ngày 11 tháng 2 năm 2009. Tất cả nội dung được phép sử dụng theo Giấy phép Tài liệu Tự do GNU (xem Quyền tác giả để biết thêm chi tiết).
Wikipedia® là nhãn hiệu đăng ký bởi Tổ chức Quỹ Hỗ trợ Wikimedia.
Chính sách về sự riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận
No comments:
Post a Comment