Nguyễn Vỹ
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%E1%BB%B9
Sinh
1912Đức Phổ, Quảng Ngãi, Việt Nam
Mất
4 tháng 2 năm 1971Tân Hương, Long An, Việt Nam
Nghề nghiệp
Nhà thơ, Nhà báo
Tác phẩm chính
Tập thơ đầuHoang vuTuấn, chàng trai nước ViệtVăn thi sĩ tiền chiến (xem thêm)
Nguyễn Vỹ (1912 - 1971) là một trong những nhà thơ mới đầu tiên của Việt Nam. Các bút hiệu khác của ông: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền.
Ông nổi tiếng là một thơ yêu chuộng cái mới và là một nhà báo nói thật.[1]
Mục lục[ẩn]
1 Tiểu sử
2 Tác phẩm
3 Đánh giá
4 Hai bài thơ lưu truyền
5 Chú thích
6 Liên kết
//
[sửa] Tiểu sử
Nguyễn Vỹ sinh năm 1912[2] tại làng Tân Hội (sau đổi là Tân Phong, năm 1945 lại đổi là Phổ Phong), huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Cha ông tên Nguyễn Tuyên từng làm quan ở huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định, nhưng vì chống Pháp nên từ chức, mẹ là bà Trần Thị Luyến. Ngoài ra ông có người bác là Nguyễn Thuyên từng bị quân Pháp đày Côn Đảo, anh họ là Nguyễn Nghiêm, thủ lĩnh phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh ở Quảng Ngãi năm 1930 sau bị giết hại tại tỉnh nhà.
Ông từng theo học tại trường Trung học Pháp-Việt ở Qui Nhơn 1924-1927, rồi gián đoạn vì tham gia các cuộc vận động chống thực dân, sau đó ông ra miền Bắc theo học ban tú tài tại Hà Nội.
Năm 1934, ông xuất bản tập thơ đầu tiên, tên là Tập thơ đầu. Tập thơ này gồm hơn 30 bài thơ Việt và thơ Pháp. Tập thơ đầu in ra không được nhiều thiện cảm, bị cho là rườm rà, "nhiều chân" và là đối tượng chê bai chính của Lê Ta trên các báo.
Năm 1937, Nguyễn Vỹ sáng lập tờ Việt Pháp lấy tên là Le Cygne, tức Bạch Nga. Báo này ngoài Nguyễn Vỹ còn có nhà văn nổi tiếng bấy giờ là Trương Tửu cộng tác. Sau do Nguyễn Vỹ có viết nhiều bài viết chỉ trích đường lối cai trị của người Pháp nên tờ báo bị đóng cửa, bị rút giấy phép vĩnh viễn. Còn bản thân ông bị qui kết tội “phá rối trị an và phá hoại nền an ninh quốc gia”. Kết quả: ông bị tòa án thực dân tuyên phạt 6 tháng tù và 3000 quan tiền phạt.
Ông mãn tù năm 1939, lúc Pháp thất trận, quân Nhật vào chiếm đóng. Nguyễn Vỹ lại tranh đấu chống Nhật, ông dùng ngòi bút cho xuất bản hai quyển sách chống chế độ quân phiệt Nhật là: “Kẻ thù là Nhật bản”; “Cái họa Nhật-bản”.
Lần này, Nguyễn Vỹ lại bị quân Nhật bắt giam tại ngục Trà Khê (sau này trong tạp chí Phổ thông bộ mới, Nguyễn Vỹ có kể lại những ngày sống trong tù ngục với tựa bài “ Người tù 69”).
Năm 1945, thế chiến thứ hai chấm dứt, Nguyễn Vỹ ra tù, sáng lập tờ báo Tổ quốc tại Sài Gòn, trong ấy có những bài công kích chính quyền đương thời nên chỉ ít lâu sau, báo Tổ quốc bị đóng cửa.
Sau đấy, Nguyễn Vỹ lại cho ra tờ Dân chủ xuất bản ở Ðà Lạt, chống chính sách quân chủ lập hiến của Bảo Ðại. Tồn tại chẳng bao lâu, đến lượt báo Dân chủ bị đình bản.
Năm 1952, một nhật báo khác cũng do Nguyễn Vỹ chủ trương là tờ Dân ta, sống được một thời gian, cuối cùng cũng bị đóng cửa như các tờ báo trước của ông.
Mãi đến năm 1958, ông đứng ra chủ trương bán nguyệt san Phổ Thông, chú trọng về nghệ thuật và văn học, tạp chí này được kể là có nhiều uy tín đối với làng báo miền Nam.Ngoài ra, ông còn cho ra tuần báo Bông Lúa, Tuần báo thiếu nhi Thằng Bờm…
Năm 1956, Nguyễn Vỹ được mời làm cố vấn cho chính quyền thời bấy giờ, nhưng chỉ ít lâu sau ông rút lui. Trong khoảng thời gian này ông được phép tái bản nhật báo Dân ta (bộ mới) nhưng đến năm 1965 cũng lại bị đóng cửa và từ 1967 Nguyễn Vỹ chỉ còn chủ trương tạp chí Phổ-thông mà thôi.
Vào ngày 4 tháng 2 năm 1971, ông qua đời do tại nạn xe hơi trên đoạn đường Tân An ( thuộc tỉnh Long An) - Sài Gòn, hưởng dương 59 tuổi.
[sửa] Tác phẩm
Tập thơ đầu - Premières poésies (Thơ Việt và Pháp), tác giả xuất bản, Hà Nội, 1934
Đứa con hoang (tiểu thuyết) Nxb Minh Phương, Hà Nội, 1936
Grandeurs et Servitudes de Nguyễn Văn Nguyên (tập truyện ngắn Việt Nam bằng Pháp văn) Nxb Đông Tây, Hà Nội, 1937
Kẻ thù là Nhật Bản (luận đề chính trị), Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1938
Cái họa Nhật Bản (luận đề chính trị), Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1938
Đứng trước thảm kịch Việt Pháp - Devant le drame Franco Vietnamien, (luận đề chính trị bằng Việt và Pháp văn) tác giả xuất bản, Đà Lạt 1947
Hào quang Đức Phật (luận đề tôn giáo) tác giả xuất bản, Đà Lạt 1948
Thi sĩ Kì Phong (tiểu thuyết, 1938)
Chiếc Bóng (tiểu thuyết, Nxb Cộng Lực, Hà Nội 1941)
Chiếc áo cưới mầu hồng (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957
Người yêu của hoàng thượng (tiểu thuyết, Nxb Minh Phương, Hà Nội 1958)
Giây bí rợ (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957
Hai thiêng liêng I
Hai thiêng liêng II (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957
Hoang vu (thơ) Nxb Phổ Thông, Sàigòn 1962
Mồ hôi nước mắt (tiểu thuyết), Nxb Sống Mới, Sàigòn 1965
Những đàn bà lừng danh trong lịch sử (biên khảo), Nxb Sống Mới, Sàigòn 1970
Tuấn, chàng trai nước Việt I
Tuấn, chàng trai nước Việt II, (chứng tích thời đại), Nxb Triêu Dương, Sàigòn, 1970
Văn thi sĩ tiền chiến (ký ức văn học), Nxb Khai Trí, sàigòn, 1970
Buồn muốn khóc lên (thơ) 1970
Mình ơi (văn hóa tổng quát) 1970
Thơ lên ruột (thơ trào phúng) 1971
[sửa] Đánh giá
Bên cạnh những tập sách biên khảo có giá trị như Văn thi sĩ tiền chiến, Tuấn - chàng trai nước Việt… Nguyễn Vỹ còn viết nhiều bộ tiểu thuyết, nhưng được đánh giá là không thành công ( theo Vũ Ngọc Phan, Nhà Văn hiện đại, tập hai, NXB KHXH, 1989).
Riêng về thơ, ông nhận được nhiều chê bai mà ngợi khen cũng lắm:
Trong Tập thơ đầu (1934) , Nguyễn Vỹ có đăng vài bài theo lối 12 chân (alexandrins) , một lối thơ mới trên thi đàn Việt Nam, nhưng không lạ gì đối với thi đàn Phương Tây.
“Đến ngày nay cảnh non sông đã phủ mấy lớp sương mù
Mà còn rên dưới rễ cỏ những vết hận lòng lai láng…”
( Gửi một thi sĩ của nước tôi, Hà Nội báo, số 23, 1936)
Chính vì lẽ đó, ông bị Thế Lữ cho rằng ông “có ý định toan lòe và bịp mọi người”[3], Vũ Ngọc Phan (trong sách đã dẫn) viết: "Với thời gian, không một ai có thể bị cám dỗ mãi về những cái tầm thường, chỉ cầu kỳ có bề mặt” ( tr.1146) Và Hoài Thanh và Hoài Chân đã dành những lời lẽ này để viết về Nguyễn Vỹ như sau:
“Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ nhau xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc đầu ta thấy con người ấy không có gì…”
Chê bai Nguyễn Vỹ, nhưng ngay sau đó ông Thanh và ông Chân cũng phải nhìn nhận:
" Một bài như bài “sương rơi” được rất nhiều người thích. Người ta thấy Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để diễn tả một cái gì đương rơi.Cái gì đó có thể là những giọt lệ …Nhưng “sương rỏi” còn có vẻ một bài văn.”Gửi Trương Tửu” mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ. Lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi bi phẫn cho cả một hạng người." ( Thi nhân tiền chiến, NXB Văn Học, 1988, tr.107-108).
Khác với những ý trên, Lan Khai trong báo Đông Phương, Phạm Huy Thông trong báo L’Annam nouveau ( báo của Nguyễn Văn Vĩnh), Lê Tràng Kiều trong Hà Nội báo ( số 23, ngày 10 tháng 6 năm 1936) lại hết sức khen ngợi thơ Nguyễn Vỹ. Và trong quyển Hồn Thơ nước Việt thế kỷ xx ( NXB Sơn Quang, Sài Gòn, 1967) có ghi lời của Lam Giang (tác giả Khảo luận thơ mới, NXB Hà nội, 1940) như sau:
“Phê bình Nguyễn vỹ, Hoài Thanh phát biểu một ý kiến võ đoán: “ Nguyễn Vỹ chí lớn mà tài nhỏ nên hay lập dị, chứ thật sự ít có thành tích văn chương”
Tôi thiết tưởng cái công du nhập đầu tiên lối thơ nhạc vào thi đàn Việt Nam, giữa lúc rất nhiều người chỉ chăm lo đả kích Luật Đường, chứ chưa sáng tạo được một thể điệu gì mới, cũng đáng cho chúng ta nhìn tác giả với một nhãn quang nhiều thiện cảm hơn”.
Năm 1962, tập thơ thứ nhì mang tên “Hoang vu” ra đời. Bình luận về tập thơ này, nhà văn Thiết Mai trong Sáng dội miền Nam viết:
“Nguyễn Vỹ đã nếm mùi tân khổ, gian lao…lại ở vào cảnh giao thời của hai thế hệ, trong tình trạng bi đát nhất của lịch sử nước nhà, nên Nguyễn Vỹ đã trở thành con người rắn rỏi, yếm thế…rồi đi đến tâm trạng căm hờn, biếm nhạo, khắc khe, chua chát…Nhưng lúc trở lại với bẩm tính vốn có, chúng ta thấy ông hiền dịu, đa tình, đa cảm, thiết tha với một đời sống êm đềm…
Về tài thơ, ta thấy thơ của ông được cấu tạo đễ dàng, không gò ép…Điều đáng chú ý là ông như muốn đưa những thể mới, có tác dụng gây xúc cảm, có âm điệu du dương, hợp tình để gợi tình và tả chân mạnh hơn. Thể mới ấy được thấy trong các bài thơ: Sương rơi, Mưa rào, Tiếng chuông chùa…
Về ý thơ, Nguyễn Vỹ đã có nhiều ý tưởng, nhiều câu văn táo bạo ( Hai người điên, Hai con chó, Trăng, Chó, Tù, Đêm trinh…). Điều này khiến thơ của ông thoát ra khỏi lối thường tình, cổ điển và cũng chứng tỏ ông là con người có nội tâm cứng rắn, thành thật, dám biểu lộ tâm tư mình bằng những hình ảnh thiết thực do lòng mình suy tưởng…”
Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng viết trong Việt Nam thi nhân tiền chiến:
“Nguyễn Vỹ góp mặt vào làng thơ tiền chiến từ năm 1934, thời kỳ thơ mới đang hồi phát triển mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, phần đông thi sĩ thường đem khung cảnh lãng mạn, chuyện tình ái vào thi ca…Nhưng với Nguyễn Vỹ, có thể nói nhà thơ không lấy tình yêu làm đối tượng, vì thế thơ ông có một đường nét độc đáo riêng biệt..
Đọc Nguyễn Vỹ, người ta cảm nhận những điều mỉa mai, chua chát…là sự tức tối như muốn phá vỡ cái gì trong hiện tại đang bị dồn ép, uất ức để nói lên nỗi thống khổ của kiếp người…(tr.438)
Tôi không muốn gánh kho vàng thơ mộng
Đem chợ đời đổi lấy món cân đai
Đừng nhử tôi ngựa, xe, tàn , võng, lọng
Ai công hầu khanh tướng, mặc ai ai
Đừng bắt tôi mang hia, choàng áo rộng,
Và khom lưng lạy các chúa trên ngai!
(trích trong "Hoang Vu")
Ở trang 448, hai ông còn viết:
"Thời tiền chiến, thân phận Nguyễn Vỹ đã thế, nhưng với ý chí phục vụ văn nghệ, trung thành đường hướng vạch sẵn, ông, một nhà thơ từng chịu nhiều cam go trên đường tạo lập văn nghiệp, đã kiên trì xây dựng lại Trường thơ Bạch Nga trong bán nguyệt san Phổ Thông từ Trung thu năm 1962 và được nhiều bạn đọc hưởng ứng, chứng tỏ lời nói trước kia của Lê tràng Kiều là đúng: “ Người ta công kích ta, chỉ chứng tỏ là ta sống…”. Vậy , Nguyễn Vỹ ngày nay hãy yên ổn với trường phái của mình.”
Và ở trang 460:
"Nguyễn Vỹ là một nhà thơ có thực tài.Ông có cái nhìn thường xuyên vào thực trạng xã hội, theo dõi những màu sắc biến đổi của nhịp sống dân tộc đã chịu nhiều thảm họa; hòa lẫn vào đấy là tình thương yêu đồng loại. Tiếng thơ của Nguyễn Vỹ là tiếng nói chân thành phát xuất tự con người còn nghĩ đến quê hương."
[sửa] Hai bài thơ lưu truyền
Sương rơi
(trích)
Sương rơi
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu …
Nhưng hơi
Gió bấc
Lạnh lùng
Hiu hắt
Thấm vào
Em ơi
Trong lòng
Hạt sương
Thành một
Vết thương
Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng
Tả tơi
Em ơi !
Gửi Trương Tửu
(trích)
Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác,
Mà vẫn coi tiền như cỏ rác.
Kiếm được đồng nào đem tiêu hoang,
Rủ nhau chè chén nói huênh hoang.
Xáo lộn văn chương với chả cá,
Chửi Ðông, chửi Tây, chửi tất cả,
Rồi ngủ một đêm mộng với mê .
Sáng dậy nhìn nhau cười hê hê!
Bây giờ thời thế vẫn thấy khó,
Nhà văn An-nam khổ như chó![4]
Mỗi lần cầm bút viết văn chương,
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Rồi nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết,
Mà thương cho tôi, thương cho anh
Ðã rụng bao nhiêu mái tóc xanh.
Bao giờ chúng mình thật ngất ngưởng?
Tôi làm Trạng-Nguyên anh Tể-Tướng,
Rồi anh bên Võ tôi bên Văn,
Múa bút tung gươm hả một phen?
Cho bõ căm hờn cái xã hội
Mà anh thường kêu mục, nát, thối?
Cho người làm ruộng, kẻ làm công.
Ðều được an vui hớn hở lòng?
Bây giờ chúng mình gạch một chữ
Làm cho đảo điên pho Lịch-sử!
Làm cho bốn mươi thế kỷ xưa
Hất mồ nhổm dậy cười say xưa
Ðể xem hai chàng trai quắc thước
Quét sạch quân thù trên Ðất Nước ?
Ðể cho toàn thể dân Việt Nam
Ðều được Tự-do muôn muôn năm?
Ðể cho muôn muôn đời dân tộc
Hết đói rét, lầm than tang tóc?
Chứ như bây giờ là trò chơi!
Làm báo làm bung chán mớ đời!
Anh đi che tàn một lũ ngốc
Triết lý con cừu, văn chương cóc!
Còn tôi bưng thúng theo đàn bà,
Ra chợ bán văn ngày tháng qua!...
(Viết rồi hãy còn say)
[sửa] Chú thích
^ Tiểu sử Nguyễn Vỹ, căn cứ theo Văn Thi sĩ tiền chiến của Nguyễn Vỹ (NXB Văn Học, 2007) và Việt Nam thi nhân tiền chiếncủa Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng (NXB Sống Mới, Sài Gòn, 1968)
^ Năm sinh ghi theo Từ điển Tác gia Văn hóa Việt Nam (Nxb VH-TT, 1998) và Việt Nam thi nhân tiền chiến (sách đã dẫn). Từ điển Văn học (bộ mới, Nxb Thế giới, 2004) ghi ông sinh năm 1912.
^ Theo Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, sách đã dẫn tr.442
^ Câu thơ nổi tiếng của ông nằm trong bài Gửi Trương Tửu, thường được nhắc lại như một cách hình dung ra diện mạo văn chương nước Việt Nam thời Pháp thuộc
[sửa] Liên kết
[1] - Nguyễn Vỹ trên trang Văn nghệ.
Nguyễn Vỹ trên trang thi nhân Quảng Ngãi.
Thơ Nguyễn Vỹ trên Thi viện
Nguyễn Vỹ - Nhân chứng của một thời
Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%E1%BB%B9”
Thể loại: Sinh 1912 Mất 1971 Nhà văn Việt Nam Nhà thơ tiền chiến Nhà báo Việt Nam Người chủ báo
Xem
Bài viết
Thảo luận
Sửa đổi
Lịch sử
Công cụ cá nhân
Đăng nhập / Mở tài khoản
if (window.isMSIE55) fixalpha();
Xem nhanh
Trang Chính
Cộng đồng
Thời sự
Thay đổi gần đây
Bài viết ngẫu nhiên
Trợ giúp
Quyên góp
Tìm kiếm
Gõ tiếng Việt
Tự động [F9] Telex (?) VNI (?) VIQR (?) VIQR* Tắt [F12]
Bỏ dấu kiểu cũ [F7] Đúng chính tả [F8]
Công cụ
Các liên kết đến đây
Thay đổi liên quan
Các trang đặc biệt
Bản để in ra
Liên kết thường trực
Chú thích trang này
Sửa đổi lần cuối lúc 21:36, ngày 17 tháng 3 năm 2009.
Tất cả nội dung được phép sử dụng theo Giấy phép Tài liệu Tự do GNU (xem Quyền tác giả để biết thêm chi tiết).Wikipedia® là nhãn hiệu đăng ký bởi Tổ chức Quỹ Hỗ trợ Wikimedia.
Chính sách về sự riêng tư
G
No comments:
Post a Comment