Friday, March 27, 2009

TRẦN VĂN THƯỞNG

http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=25825

Sự Thật Của Lịch Sử Chiến Tranh Việt Nam

» Tác giả: Trần Văn Thưởng
» Dịch giả:
» Thể lọai: Biên khảo
» Số lần xem: 6813

1. Sự Thật Của Lịch Sử Chiến Tranh Việt Nam

Một độc giả người Mỹ phê bình “You Vietnamese should have stood up against the fascists so the Americans wouldn’t have come in and ravaged your country under two Democrat Presidents, Kennedy who started the combat and Johnson who expanded it to 550,000 soldiers.” trong một bài bình luận của tôi trên một tờ báo Mỹ. Ý kiến nầy là động lực tôi viết bài trả lời với độc giả người Mỹ đó. Sau đây là nội dung của bài trả lời.

Chiến tranh VN bắt nguồn từ cuối thế kỷ 18, từ khi Nguyễn Ánh cầu xin quân đội ngoại bang để lật đổ vị anh hùng dân tộc, Vua Quang Trung. Tiếp theo là làng sóng của chủ nghĩa thực dân, sự bành trướng kinh tế, và văn hóa Châu Âu áp đảo lên các nhựơc tiểu ở Á Châu, rồi đến chủ nghĩa “ Ngăn Chặng” và “ Lý Thuyết Domino ” của Hoa Kỳ ở Ðông Nam Á. Trước sức mạnh kinh khủng của những áp lực nầy, có nước đứng vững để đựơc độc lập và bảo tồn được nền văn hóa cổ truyền như nước Thái Lan, trong khi VN đã bị tàn phá, bị đô hộ và bị tàn phá. Lịch sử đã cho thấy chính sách ngoại giao và bản tính của dân tộc Thái Lan đã giúp họ thóat khỏi bàn cờ sách lược của ngoại bang, trong khi chính sách sai lầm của các Vua nhà Nguyễn, bản chất khác biệt của người VN đối với người Thái Lan, và bản chất của Hiệp định Geneve [1]đã đóng góp VN vào vòng quỉ đạo của các tay cờ ngoại bang.

Hiện tượng sụp đổ của chính thể VNCH vào ngày 30/4/75 là hậu quả của những biến cố liên hệ dây chuyền của Quân sự, Chính trị và Ngoại giao của các lực lượng tham chiến tại Việt Nam, kể từ tháng 8/69.

Chiến dịch bí mật đàm thoại hòa bình của chiến tranh Việt Nam đã đi vào một khúc quanh quan trọng của lịch sử, khi Kissinger[2] đã bí mật họp mật mười hai lần tại Ba Lê với phái đoàn Bắc Việt từ tháng 8/69, như Nixon đã tiết lộ[3]. CSVN không chịu nhượng bộ trên bàn hội nghị, đến nổi Nixon phải dùng chiến thuật hù doạ Nga Sô bằng cách cho chở bom nguyên tử bằng B-52 qua Nga Sô vào ngày 10/27/1999[4] theo các tài lịêu vừa mới giải mật. Tuy nhiên Nga Sô vẫn tiếp tiếp tục viện trợ cho CSVN. Hai cuộc hành quân vượt biên cấp quân đoàn của QLVNCH đồng loạt kể từ ngày 8/2/71, là hậu quả của chiến dịch hòa đàm nầy để mặc cả trên bàn hội nghị, Hành quân Lam Sơn 719 và Hành quân Toàn Thắng 1. Hành quân Lam Sơn 719, theo Nguyễn Tiến Hưng kể lại, được soạn thảo bởi Hoa Kỳ và đưa cho Ðại tướng Cao Văn Viên ký[5]. Ðây là một cuộc đem con bỏ chợ tại Hạ Lào, bởi vì bên ta chỉ có 25,000 quân để đương đầu với 36,000 địch quân, tăng cường thêm hai Sư đoàn thiết giáp tối tân của Nga Sô cùng với nhiều trung đoàn pháo binh và phòng không. Kết quả là quân ta bị thua to và mất đi rất nhiều chiến sĩ ưu tú, trong khi tướng Wesmoreland án binh bất động vì không dám đem bốn sư đoàn của Mỹ vượt biên để cùng tham chiến với QLVNCH[5,6]]. Như vậy tướng Wesmoreland hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc Hành quân Lam Sơn 719 nầy. Tuy nhiên trong thực tế, QLVNCH đã chịu những búa rìu của báo chí cũng như phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ, để dẫn đến một sự chiến bại chiến lược trên phương diện quốc gia sau nầy. Ngoài ra đây là một cơ hội cho địch lượng giá khả năng chỉ huy điều binh trận địa chiến cấp quân đoàn của tướng lãnh ta và Hoa Kỳ, để chúng có yếu tố soạn thảo một chiến lược đấu tranh bằng trận địa chiến toàn diện về sau. May mắn thay, Ðại tướng Ðỗ Cao Trí, Tư lệnh Quân đoàn 3, đã đích thân soạn thảo kế hoạch và chỉ huy trực tiếp Hành quân Toàn Thắng 1, để đem lại chiến thắng vẻ vang cho QLVNCH trong một cuộc hành quân cấp quân đoàn tại Cam Bốt. Do đó địch phải hoang mang trong việc lượng giá khả năng chỉ huy và điều binh trận địa chiến của tướng lãnh ta trên cương vị cấp quân đoàn sau hai cuộc hành quân viễn chinh của QLVNCH.

Nghị quyết tháng 5/71 do Bộ Chính Trị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng CSVN là bước đầu để thăm dò lại khả năng chỉ huy và điều binh trận địa chiến của tướng lãnh ta trên cương vị cấp quân đoàn. Trận Snoul là khởi đầu cho Nghị quyết nầy. Ðịch đã xử dụng toàn bộ ba Sư đoàn 5, 7 và 9 để tấn công và bao vây Chiến đoàn 8 tại Snoul, đồng thời cầm chân nỗ lực chính của Quân đoàn 3 tại Tây-Nam Snoul, lực lượng tăng viện của LLXKQÐ3 tại Ðông-Nam Snoul. Chính những sự sai lầm của Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 trong lãnh vực chỉ huy cũng như lượng giá chiến trường trong trận đánh Snoul, đã thúc đẩy địch quyết định mở rộng thêm chiến lược trận địa chiến trên toàn lãnh thổ miền Nam trong năm 1972 về sau.

Vào ngày 30/3/72, địch đồng loạt mở rộng chiến trường bằng ba chiến dịch, chiến dịch Nguyễn Huệ phía Ðông Nam Bộ là nỗ lực chính, chiến dịch Trị-Thiên[7] cũng là nỗ lực chính, và chiến dịch Tây-Nguyên là nỗ lực phụ. Trong Chiến dịch Nguyễn Huệ, địch đã xử dụng toàn bộ ba Sư đoàn 5,7 và 9 để chiếm lãnh Lộc Ninh và các vùng lân cận, trước khi bao vây và tấn công An Lộc trong khoảng hai tháng. QLVNCH đã phải xử dụng Sư đoàn 5, hai Lữ đoàn Dù, một Liên đoàn 81 BCD, hai trung đoàn của Sư đoàn 21, cùng nhiều Liên đoàn Biệt động quân để giữ An Lộc, dưới sự yểm trợ hùng hậu của Không quân Hoa Kỳ, gồm cả các pháo đài bay B52. An Lộc đã được quân ta anh dũng giữ vững, tuy nhiên Quảng Trị đã bị mất trong tay địch, bởi vì các lực lượng trừ bị thiện chiến của ta đã bị cầm chân ở hai chiến trường Tây-Nguyên và An Lộc. Ðặc biệt trong Chiến dịch Nguyễn Huệ, địch đã học lóm mưu lược xử dụng truyền tin của quân ta trong trận Snoul, nên chúng đã xử dụng im lặng vô tuyến trước khi tấn công để đạt được yếu tố bất ngờ trong ngày đầu tiên của chiến dịch[8].

Chiến dịch Trị-Thiên và Nguyễn Huệ là hậu quả của sự ép buộc chính thể VNCH phải ký Hiệp định Ba Lê ngày 27/1/1973, sau khi Nixon đã gởi bức thư dọa dẫm Tổng thống Thiệu[5]. Tiếp theo là việc rút quân cấp bách của Mỹ và Ðồng Minh trong vòng 60 ngày, căn cứ vào điều khoản 5 và 6 của hiệp định. Hơn nữa, căn cứ vào điều khoản 12(a), địch lại ở thế ngang hàng với chính thể VNCH, cũng như không phải rút quân khỏi miền Nam. Như vậy, chúng ta hầu như đã mất nước sau ngày ký Hiệp định Ba Lê gần như đầu hàng nầy[9,10,11].

Tiếp theo Hiệp định Ba Lê là việc Quốc Hội Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH, trong khi Nga Sô lại thừa thắng xông lên, tăng cường thêm viện trợ các vũ khí tối tân hơn cho Bắc Việt. Lại còn Ðạo luật Quyền Hạn Chiến Tranh cho Tổng thống Hoa kỳ cũng được QHHK phê chuẩn vào hồi tháng 6/73[5] tăng cường thêm cho sự sụp đổ của miền Nam năm 75[12].

Tôi lớn lên rồi trở thành người lính của QLVNCH, nên chỉ viết theo quan điểm của một con cờ bé nhỏ trên bàn cờ quốc tế mà các tay chơi cờ là các ngoại bang. QLVNCH đã thất bại bảo vệ dân chúng miền Nam yêu chuộng một chủ nghĩa dân chủ tự do, là do hậu qủa của kẻ chơi cờ bỏ cuộc— Hoa Kỳ. Tuy nhiên QLVNCH là một quân đội có chính nghĩa và có niềm hảnh diện riêng. Người lính QLVNCH biết rõ chủ đích chiến đấu chống Cộng để bảo vệ miền Nam tự do trong khi người lính miền Bắc bị cưỡng bách và đầu độc sai lầm về lý do họ phải chiến đấu ở miền Nam là chống Mỹ cứu nước, tuy nhiên trong thực tế họ là những công cụ cho sự bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản ở Việt Nam, mà họ không hề hay biết cũng như không muốn có chủ nghĩa CS vô thần, trái với phong tục tập quán cổ truyền của người VN. Người lính QLVNCH cũng như chính phủ VNCH phải chấp nhận quân viện từ người bạn đồng minh, chứ không bao giờ chiụ làm nô lệ cho bất cứ một nước ngoại bang nào, trong khi CSVN cũng phải chấp nhận quân viện từ khối CS quốc tế, tuy nhiên CSVN lại làm nô lệ cho CS quốc tế, như việc cải cách ruộng đất ở miền Bắc, áp lực của Nga Sô trong việc cưỡng chiếm miền Nam năm 1975,…QLVNCH cũng không may mắn cho sự khủng hoảng cấp lãnh đạo quốc gia trong khi CSVN có được một tay lãnh đạo xảo quyệt và gian ác, Hồ Chí Minh, trong việc đánh lừa chiêu bài chống Pháp rồi chống Mỹ để giữ nước. QLVNCH và chính phủ VNCH rất nhân đạo trong việc cải cách ruộng đất không hề đỗ máu như chính sách rộng lượng và quân tử đối với CS─ chính sách chiêu hồi và tù binh─trong khi CSVN đối xử tàn bạo và vô nhân đạo với những người quân cán miền Nam khi họ đã đồng ý bỏ súng để tránh đỗ máu không cần thiết cho một cuộc chiến đã đến hồi canh tàn. Theo thời gian của lịch sử, các thỏa hiệp bí mật với Trung Cộng để nhượng đất và hải phận cho ngoại bang, những hành động tham nhũng và sự chống đối lẫn nhau trong hàng ngũ CS, cũng như một xã hội VN nghèo nàn và hổn độn đã chứng minh những lỗi lầm trầm trọng của đảng CSVN, cũng như cái vô chính nghĩa của của CSVN trứơc công luận thế giới và lịch sử chiến tranh VN. Ngày nay những hành động nham nhở của một số ít người Việt ở hải ngoại khi họ về nước, những hiện tượng chống Cộng quá khích của một số người Việt ở hải ngoại, những hiện tượng hám danh đầu cơ chính trị, hay van xin làm nô lệ cho ngoại bang, là do chính sách sai lầm, lừa gạt và tiểu xảo của CSVN.

Thiếu khách quan và thiếu phưong pháp phân tích rồi tổng hợp một cách khoa học, đa số giới truyền thông và sử gia ngọai quốc đã lượng giá sai lầm về QLVNCH, chỉ là một quân đội phục vụ cho chính sách của thực dân Pháp rồi phục vụ cho chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam — trên phượng diện nguyên tắc của quan đìểm chiến lược quốc tế— mà quên đi phần thực tế về sự biến thể bên trong của QLVNCH, và các sự kiện lịch sử theo thời gian. Bằng cấp khoa bảng và hệ thống truyền thông tuyệt hảo của thế giới tự do đã lầm lạc bộ óc trung bình của công luận, ngay cả những người khoa bảng tầm thường. Riêng CSVN đã dùng việc lượng giá sai lầm nầy như là lý do hợp pháp để bỏ tù và hành hạ hàng trăm ngàn quân chính của VNCH sau khi họ cưỡng chiếm miền Nam VN, cũng như hàng trăm ngàn người VN vô tội bỏ mình trên biển cả trong khi họ vượt biển cả đi tìm tự do. Ít nhất thế giới tự do, gồm Hoa Kỳ, cũng còn có trách nhiệm lương tâm để đón tiếp những nạn nhân của chế độ CSVN.

Gần đây các hiện tượng cờ vàng VNCH bay lượng khắp thế giới tự do, nghi lễ cử hành bởi quân lực Hoa Kỳ để mai táng một số quân nhân VNCH tại nghĩa trang Arlington, các tượng đài xây dựng để tưởng nhớ các chiến sĩ Mỹ- Việt cũng như các cuộc hội thảo vai trò và chính nghĩa của QLVNCH là khởi điểm cho một cuộc vinh danh chính thức và đủ pháp lý cho QLVNCH trong một ngày rất gần đây. Hậu quả của việc vinh danh nầy là QLVNCH còn lại sẽ có đủ pháp lý và chính nghĩa để giải phóng toàn thể VN hay yểm trợ các cuộc cách mạng của người dân quốc nội khỏi chế độ độc tài đảng trị của CS trong tương lai. Ngoài ra vì trách nhiệm lương tâm, khối tự do sẽ hậu thuẩn QLVNCH còn lại trong công cuộc phục hưng nền tự do cho VN bởi vì họ đã bỏ rơi ngưòi bạn đồng minh trong năm 1975. Hơn nữa trứơc công luận thế giới, CSVN trở thành một tội phạm chiến tranh trong việc bỏ tù và hành hạ hay tàn sát các tù nhân.

Sự vinh danh QLVNCH trong tương lai có thể bị ngộ nhận hay bị chỉ trích bởi khối CS, bởi vì họ có thể ngụy biện rằng đây chỉ là một chính sách giai đoạn của khối tự do.Vì thế sự vinh danh chính nghĩa QLVNCH phải được chứng minh và lượng giá khách quan bởi các sử gia thế giới. Họ sẻ tìm thấy hàng ngàn bài kể chuyện trong ba thập niên nay của các nhân chứng của lịch sử Chiến Tranh Việt nam. Máu và nước mắt của họ là những bằng chứng chính xác và hùng hồn cho các sử gia sau nầy, để phân tích và tổng hợp một cách khách quan và khoa học cho một định đề chính nghĩa của QLVNCH. Có như vậy thì sự vinh danh chính nghĩa mới được quang minh chính đại trong tương lai. Ngoài ra, những hồi ký của các cán bộ CSVN, các tài liệu mới giải mật từ Hoa kỳ, Trung cộng và Nga sô, cũng như phong trào đòi tự do dân chủ của người Việt trong nước hiện nay là những kho tàng giá trị cho các sử gia để đối chiếu, so sánh và lượng giá chính nghĩa của QLVNCH.

Tóm lại chiến tranh Việt Nam là một cuộc xung đột giữa ba cường quốc, Hoa Kỳ, Nga Sô và Trung cộng duới nhãn quang của người Hoa Kỳ, và Việt Nam là chiến trường của cuộc xung đột đẩm máu đó.Bằng chứng cụ thể mới nhất là nhân loại có thể đã có đại chiến thứ ba căn cứ vào một bài viết của một giáo sư sử học, J. Suri[4]. Dưới nhãng quan của người Việt chiến tranh Việt Nam là một cuộc xung đột ý thức hệ, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tự do.

Sự thật của lịch sử thức tỉnh lương tâm của con người. Hành động là yếu tố chủ yếu cho một sự thỏa mãn lương tâm. Đó là chủ đích của cái blog http://vietnamsolutions.blogspot.com/

Tham Khảo

[1] Lý Thái Hùng, 50 Năm Của Thảm Kịch Chia Đôi - Hiep Đinh Geneve,

http://www.greenspun.com/bboard/q-and-a-fetch-msg.tcl?msg_id=00CF4z

[2] Kissinger, Henry A, The White House Years, Boston: Little Brown, 1979

[3] Nixon, Richard, The Memoirs of Richard Nixon, New Yorks: Grosset and Dunlap, 1978

[4] J. Suri & Trần Văn Thưởng, Bài Học Giây Phút Kinh Hoàng Của Lịch Sử Chiến tranh Việt Nam Cho Vai Trò Chống Trả NQ36CSVN
http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=25198

[5] Nguyễn Tiến Hưng & Jerold L. Schecter, Hồ Sơ Mật Dinh Ðộc Lập, C&K Promotion, Inc., Los Angeles, tr. 75, 78, 267,417.

[6] Nguyen Duy Hinh, Operation Lam Sơn 719, Indochina Monographs, US. Army Center of Military History, 1979

[7] Ngô Quang Trưởng, The Easter Offensive of 1972, Indochina Monographs, U.S Army Center of Military History, 1980

[8] Trần văn Thưởng, Trận Đánh Snoul và Những Hậu Quả, http://www.generalhieu.com/snoulthuong-u.htm

[9] Goodman, Allen E, The Lost Peace: America’s Search for a Negotiated Settlement of the Vietnam War, Stanford, CA : Hoover Institution, 1978

[10] Isaacs, Arnolds, Without Honor: Defeat in Vietnam and Cambodia, New York: Vintage Books, 1983

[11] Isaacs, Arnolds, Without Honor: Defeat in Vietnam and Cambodia, New York: Vintage Books, 1983

[12] Cao Văn Viên, The Final Collapse, Indochina Monographs. Washington D.C.: U.S Army Center of Military History, 1983

Trần Văn Thưởng (11/20/08)

2008-11-20 15:55:07



* Currently 3.00/5
* 1
* 2
* 3
* 4
* 5

Rating: 3.0/5 (4 votes cast)

[1]

*

Xin lưu ý: Là một diễn đàn tự do, vantuyen.net không chịu trách nhiệm về nội dung của những ý kiến đóng góp từ độc giả. Những ý kiến đóng góp có những lời lẽ không hay sẽ bị BBT xoá và khoá IP vĩnh viễn. (khi bị khoá IP bạn sẽ không thể vô được vantuyen.net nữa.)

Những mục có dấu * là bắt buộc.
Tên: *
Email:

Viết bình luận: *




 Có 0 bình luận. Bình luận Bình luận



No comments: